Important Announcement
PubHTML5 Scheduled Server Maintenance on (GMT) Sunday, June 26th, 2:00 am - 8:00 am.
PubHTML5 site will be inoperative during the times indicated!

Home Explore Chuyện Cười Cổ Nhân

Chuyện Cười Cổ Nhân

Published by Thư viện Trường Tiểu học Tân Bình TPHD, 2023-01-03 02:21:55

Description: Chuyện Cười Cổ Nhân

Search

Read the Text Version

[←36] Mầng : mừng (B.T.)

[←37] Gạy : gợi (B.T.)

[←38] Pha lửng : pha trò (B.T.)

[←39] Phủ ủy : vỗ về, an ủi (B.T.)

[←40] Cái vi tiền : Ngày xưa ông bà ta còn xài tiền điếu, rất bề bộn. 600 trăm đồng mới vô một quan. Muốn tiện khỏi đếm nên chế ra cái vi, tức lấy một miếng ván dày, móc mương để lọt đồng tiền dựng bề dày, cứ đầy một hàng là kể một quan, muốn mấy quan thì móc mấy hàng mương v.v… Tôi từng thấy cái vi tiền, nhớ hình nó dài và dẹp như cái bàn toán Tàu. Trong ĐNQATV Huình tịnh Của cắt nghĩa : « Cái vi : cái vỉa tiền, đồ để mà lấy mức tiền quan. Vi tiền là để tiền vào vi mà lấy mức ».

[←41] Nầm : đồ làm bằng sắt, hoặc bằng cây giống chiếc đũa mà dẹp một đầu, có thể mà cạy mà xoi (như nầm cạy vú cau). Vót nầm, rèn nầm. ĐNQATV Hùinh tịnh Của.

[←42] Người chệc : tiếng gọi người Trung Hoa ngày xưa (B.T.)

[←43] Nhà Rồng là hãng tàu đi biển, Messageries Maritimes, nay còn, ở Khánh Hội.

[←44] Sở cọp, tức trường Sư Phạm, Ecole Normale, xưa ở ngang Sở Thú.

[←45] Phú-de là sở bắt chó điên và giữ đồ phạm pháp, xe cộ đời trước Fourrière.

[←46] Toà bố, nay gọi là toà hành-chánh. Làm bộ trâu, tức giữ bộ sổ về trâu. Cứ mỗi con vô bộ, ăn của đút một đồng bạc là đủ làm giàu, có vợ bé và cho con đi Tây.

[←47] Chú : Chantabuom ở bên Xiêm-la quốc, trước chánh-phủ Pháp có trấn một mớ linh ma-tà bên ấy.

[←48] Tú Suất là con ông đốc học (Vĩnh long), nguyên là người huyện Chương đức, tỉnh Hà nội. Người ấy là một người trong tứ hung đất Bắc.

[←49] Cọ : cái cọ : đồ đương bằng tre mây để đựng đồ đi đàng (H.T.Của), đồ đương bằng nang giống như cái xiểng (H.T.Của). Xiểng : không có trong H.T.Của. Xiểng : Siểng, panier de voyage pour provisions de bouche (Génibrel). Siểng : thùng có nhiều ngăn và có nắp đậy để đựng đồ, hòm siểng. (Việt ngữ chánh tả tự vị của ông Lê ngọc Trụ). (Trên đây là lời chú thêm vào, không có trong bản Trương Vĩnh Ký).

[←50] Chữ 天 trồi đầu là chữ phu (chồng) 夫 (B.T).

[←51] Có phết vai là chữ thất (mất) 失 (B.T).

[←52] Hầu bao, Hà bao, Hồ bao : cái đay đeo vào dây lưng, lủng lẳng tòn ten trước bụng, ngày xưa các quan và nhà giàu đều có, để chứa trầu thuốc, giấy má v.v…

[←53] Báng : húc bằng sừng (B.T.)

[←54] Chị ba, nó làm cái gì vậy ?

[←55] Chị hai đã dặn đừng nói mà họ biết mình nói ngọng, sao mầy nói ?

[←56] Nó nói gì mặc nó, ai biểu mầy nói.

[←57] Ai nói mặc ai, làm gì cười.

[←58] Sách xuất bản năm 1910 là năm Canh tuất, ất tị là 1905, Bính ngọ là 1906.

[←59] Ỷ : tiếng Triều châu, Phước kiến xưng hô các dì. Ỷ Hai ta gọi Dì Hai.

[←60] Làng Nhơn-gian trước ở vùng Chợ Quán. Ngày trước, cái nhà lớn ở đường Hưng- đạo-vương, đề trên bảng : « villa Nhơn-gian », sau bán và đổi làm trụ-sở hội « Đức-Trí-Thể-Dục » (SAMIPIC)

[←61] ở lo ti là ở gi ? Còn dỏ làng là điếm canh trong làng. (Theo tôi hiểu, lo ti đây là lò ti, lò nấu rượu của công-ti, độc quyền rượu và bán rượu đời Pháp-thuộc, nhưng không biết phải vậy hay không). Lời phụ chú của người chép truyện. – Thuở đàng cựu, xài tiền điếu và tiền kẽm (zinc). Theo phép xưa, cứ sáu mươi (60) đồng kẽm là một tiền rồi mười tiền (10) là một quan ; và mười quan tiền thì gọi là một chục. Sức nặng của bốn chục là kể một tạ. Và cứ lấy hai mươi hai đồng tiền kẽm để một hàng dài là kể một thước ta. Về thước lại chia ra có : thước mộc (dài bằng 22 đồng kẽm) hay là « hắt thước\" và thước vải hoặc thước may thì đo đặng 27 đồng kẽm để khít nhau lại. Để đỡ khỏi mất công đếm lâu lắc, lại có chế ra cái ví tiền để sắp tiền vào đó khỏi đếm (đã cắt nghĩa rồi nơi bài số 87 chuyện ông Ó). Cái khó ngày xưa là tiền không đúng cân lượng y nhau và không có tiền mẫu, mỗi lần đúc tiền là có khác chút ít, lại nữa hắt thước dài, vắn tùy mỗi người cao hay lùn, nên cân lượng và thước ta rất phiền phức. Sách Taberd nói một thước ta là 0m48726. Philastre nói 0m526 ; Launay nói 0m636. Revue Indochinoise nói thước vải đo 0m644 ; Gia-định thông-chí nói một thước là 0m44, sách nữa nói 0m424, sách khác nữa lại nói 0m434, tôi kể bao nhiêu quí vị đủ điên đầu. (Theo Les Institutions annamites en Basse Cochinchine, q.2, tr.241). Hỏi : « Truyện Kiều anh kể cũng lâu. Đố anh kể đặng bốn câu một tiền (60 đồng) ». Trả lời : « Từ con lưu lạc quê người. Bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm (15). Mười lăm năm bấy nhiêu lần. Làm gương cho khách hồng quần thử soi (15). Những là rày ước mai ao. Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình ? (15) Kể từ sen ngó đào tơ, Mười lăm năm mới bây giờ là đây… (15) » Và một sinh-viên Y-Khoa đã nói với tôi, câu 3 trên đây nên đổi là : « …mười lăm năm ấy biết bao… vi trùng !!! »

[←62] Vát tiền : Tra Việt-ngữ chánh-tả tự-vị của ông Lê-Ngọc-Trụ thấy ghi vát tiền, y như trên, trong tập Đặng-Lễ-Nghi. Nhưng tra thêm tự-vị Génibrel thấy ghi « Vác tiền » là năm quan (cinq ligatures), tức tiền nặng và nhiều đến phải vác trên vai chớ không mang trong lưng hay xách được.

[←63] Ngoài lời giải thích trên, tra tự-vị Huình-tịnh-Của, thấy ghi chảng là mở trét ra. Trâu chảng là trâu sừng mở trét ra, tức lớn con lắm ; cũng nói : nhánh chảng là nhánh mở trét ra. Bộ Khai-trí tiến-đức ghi : Chảng là mở rộng ra, soạc ra (tiếng Nam-kỳ). Nay, căn cứ theo bài trên, ông chảng là heo rừng thật lớn, gần bằng con trâu con mà móng nó bét ra, nhìn theo dấu móng thì biết đó là của ông chảng.

[←64] Vạn săn : một nhóm người cùng chung một nghề là vạn : vạn săn, vạn chài.

[←65] Tên Vàng thì cầm cây thủ : cầm cây thủ thế để đánh với ông chảng.

[←66] Năm bính thìn, trước năm 1910 (canh tuất) là năm 1856 Tây lịch, tức năm thứ 9 đời vua Tự Đức.

[←67] Ông thầy đây là cọp : vì dân chúng sợ quá nên kiêng, không dám gọi đến tên.

[←68] Ngày nay dùng hòm đóng theo kiểu Tây phương, một ngày kia con cháu ta quên hết các danh từ cũ, nên tôi xin ghi lại đây để nhớ, các loại hòm xưa có : - Hòm đất : Hòm để mà liệm kẻ chết, cũng kêu là hàng đất (vì tránh tiếng hòm). - Hòm vỏ măng : Hòm nắp đậy khum khum giống cái vỏ măng (có người gọi hòm lá sen). - Hòm nắp trắp : Hòm đậy nắp bằng mà có chấn bốn gốc cùng chạy chỉ. - Hòm mái : Hòm trệt, bằng nắp mà mỏng, làm đơn sơ. - Hòm chưn ngang (nói hòm chưn nhang là trật) : Hòm không trạm trỗ, của người nghèo thường dùng. - Hòm lèo : Hòm có chạm trỗ bốn phía mặt. - Hòm sức : Hòm lớn mà nặng, thường đóng bằng cây quí và gọi là hàng sức. - Hòm Tàu : Hòm đóng theo kiểu người Trung-hoa, và thường sơn mài và mạ vàng. Trại đóng hòm thì thường gọi trại hàng. Đi mua hòm thì gọi « đi nhắc hàng » - Hòm rương là hòm đựng tiền bạc của cải. - Hòm xe (trong Nam gọi rương xe) : rương có tra bánh, đẩy được ; rương xe giường hòm. - Hòm gương : hộp đựng gương soi mặt cùng các món đồ trang sức. - Hòm ấn : hộp để ấn son. (theo HÙINH TỊNH CỦA)

[←69] Năm tân mão nầy tính ra nhằm 1891 thứ ba đời vua Thành Thái.

[←70] Năm 1910, xuất bản cuốn sách là năm canh-tuất, năm Ất-tị trước đó là năm 1905.

[←71] Bính ngọ : năm 1906 dl.

[←72] Năm Tân-tị : năm 1821 dương-lịch.

[←73] Tân dậu : 1861, năm thứ 14 đời vua Tự đức, năm Hàm Phong 11 bên Tàu.

[←74] Tân dậu : 1861.

[←75] Năm Canh-tí : năm 1900, năm thứ 12 đời Thành-thái.

[←76] Năm Ất-vị là năm 1895 ; năm Bính-ngọ là năm 1906.

[←77] Năm Quí-dậu là năm 1837 Tây-lịch. Đời Tự-Đức năm thứ 26.

[←78] Năm Quí-mão nầy là năm 1903, tức năm thứ 15 đời vua Thành-Thái.

[←79] Nếu thật Mã-Viện thì là một viên đại tướng đời Đông Hán.

[←80] Huồn : đây là tôi chép nguyên văn trong sách ra. Theo Việt-ngữ chánh-tả tự-vị của ông bạn Lê-Ngọc-Trụ, chữ Huồng (viết có g), căn cứ theo tài-liệu nhà học- giả tiền bối Trương-Vĩnh-Ký để lại, là do đọc trại tên ông nầy, viết Võ-Thủ- Hoằng.


Like this book? You can publish your book online for free in a few minutes!
Create your own flipbook