☆☆ÂM PHÙ KINH - BẢN GỐC CỦA NĂNG LƯỢNG - SÁCH TU TIÊN ☆ “CON ĐƯỜNG VẬN HÀNH THẦM LẶNG CỦA THẦN MINH” --- --- --- Sách giành cho người có duyên, còn nặng lòng tham không nên luyện sách này --- --- --- 《Đây là quyển sách (bản gốc) hiếm có trên đời, người có duyên nên lưu giữ lại. Bất kỳ ai muốn đi đến tận cùng chân lý, muốn đạt được thần tâm bất tử thì đây là cơ hội Trời cho bạn. Thần cơ diệu toán, thông thiên đại trí nằm hết ở đây đang chờ người có đủ năng lực lĩnh hội, giúp đời》 ☆Kính đề: Lê Đại Dương tôi trên đường đời sớm có duyên biết được một quyển sách thần kỳ, có thể khai sáng cho con người, tu luyện năng lượng, đến được tận cùng của tự nhiên, dạy cho con người đạt đến trường sinh bất tử, đắc đạo thành tiên. Tuy nhiên sách cũng chọn người học, nếu có duyên bạn sẽ có cơ hội trở thành thiên tài. Tôi có nhiệm vụ gìn giữ bản gốc – năng lượng của quyển sách này. Tránh mất đi tài sản quý báu vô giá của nhân gian. Người đời sau đọc được sẽ tự biết đâu là ngàn năm hiếm thấy! ● Lời bạt Âm phù kinh là sách giảng về đạo của Hoàng Đế. Những nhà binh gia cho rằng, cái lẽ suy yếu, hưng thịnh của thiên thời và nguyên nhân tiến thoái, tồn vong của nhân sự chính là do trời đất chuyển biến ra. Họ chỉ liếc sơ vào kinh thánh mà tiến hành giảng giải sai lầm, điều này cũng không phải là ít, đã có bao kẻ ngộ nhận ngọc trong đá là chuột bọ, xanh gọi ra vàng? Thầy tôi đắc đạo, tạo được tinh của tính mệnh, chứng tới sự huyền bí của người, trời, thể hội được lòng từ bi giác ngộ về thế gian của thánh nhân xưa, muốn khơi dậy những điều bị che lấp, thương người học đời sau vất vả mà không có nơi để theo, nên đã giảng giải kinh này tường tận, quét bỏ những lời lẽ sai lầm, khôi phục, sự chân chính của âm phù. Trong đó, cái học về tận tính chí mệnh (nắm lấy mọi tri thức sâu xa về tính và mệnh), lý lẽ về vô vi, hữu vi, không có chỗ nào không giảng rõ, khiến cho âm phù bị mai một mấy nghìn năm đến nay lộ ra hòan tòan ý chỉ ban đầu, mà không có chút dư thừa nào. Kinh viết: \"Quán thiên chi đạo, chấp thiên chi hành, tận hĩ (xem xét đạo trời, nắm lấy sự vận hành của trời, chỉ thế thôi)\".
* Âm là mờ tối, thầm lặng, người không thể thấy, không thể biết, mà riêng ta thấy, riêng ta biết; phù là hợp lại, hai mà hợp với nhau, đây và đó như một; kinh là con đường, là đường lối, là thường xuyên, con đường thường đi, lâu mà không đổi. Âm phù kinh tức là con đường vận hành thầm lặng của thần minh, lặng lẽ hợp cùng tạo hóa. Lặng lẽ hợp cùng tạo hóa thì người hợp cùng trời, nhất động nhất tĩnh đều là thiên cơ, người cũng chính là nhất thiên (trời). Ba thiên thượng, trung, hạ không chương nào không làm rõ ba chữ Âm phù kinh, hiểu được ba chữ này có thể suy ra đại ý của ba thiên. 1- Thiên thượng: Quán thiên chi đạo, chấp thiên chi hành, tận hĩ: Tìm hiểu đạo trời, tu luyện theo sự vận hành của trời, chỉ thế thôi. Đạo về tính mệnh tức đạo của trời. Đạo của trời là đạo của âm dương. Người tu luyện hiểu được sự huyền diệu sâu kín của đạo trời thì thần minh lặng lẽ vận hành, chiếm lấy khí âm dương, đoạt quyền tạo hóa, có thể trường sinh bất tử, có thể không sinh ra không chết đi. Nhưng chỗ tối quan trọng của nó là có thể quán và có thể chấp. Thế nào là quán? Cách vật trí tri (nghiên cứu đến nơi đến chốn nguyên lý của sự vật để có sự hiểu biết) đó gọi là quán. Thế nào là chấp? Chuyên tâm dốc chí gọi là chấp, dốc tòan bộ sức lực thực hiện gọi là chấp, càng lâu càng mạnh mẽ gọi là chấp. Quán thiên đạo là công phu vô vi, là sự đốn ngộ nhằm triệt để nắm được tính; chấp thiên hành là sự học hỏi hữu vi, dần tu thành, nhằm thấu triệt mệnh. Quán được, chấp được, dùng đạo âm dương thóat khỏi âm dương, dựa vào thế gian pháp mà thóat khỏi thế gian, tính mệnh đều nắm cả, tâm và pháp đều quên đi, vượt khỏi trời đất, muôn kiếp trường tồn. Chỉ hai câu này mà làm thành thang trời giúp thành tiên thành Phật, đó là đạo để trở thành thánh nhân, hiền nhân. Ngòai nó ra tất cả đều là tà thuyết, nên nói là \"tận (hết)\". Thiên hữu ngũ tặc, kiến chi giả xương: Trời có năm mối giặc, nhận ra nó thì tốt đẹp. Ngũ tặc là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Trời dùng âm dương ngũ hành biến hóa sinh ra vạn vật, lấy khí làm thành hình, nên con người nhờ thọ nhận khí này mà sinh ra và lớn lên. Nhưng dương cực thì sinh âm, tiên thiên nhập vào hậu thiên, ngũ hành không thể hòa hợp, tự tương hại lẫn nhau, mỗi thứ
một tính. Mộc xem kim là giặc, kim xem hỏa là giặc, hỏa xem thủy là giặc, thủy xem thổ là giặc, đây gọi là năm mối giặc (ngũ tặc) của trời. Năm mối giặc này thường ngay trăm họ đều dùng đến mà không biết, cứ thuận theo khí của nó nên sinh rồi tử, tử rồi sinh, sinh tử không ngừng. Nếu có người nhận ra nó, chuyển nghịch tạo hóa, điên đảo ngũ hành thì: kim vốn khắc mộc, mộc ngược lại nhờ nó mà lớn mạnh; mộc vốn khắc thổ, thổ ngược lại nhờ nó mà màu mỡ; thổ vốn khắc thủy, thủy ngược lại nhờ nó mà không lan tràn; thủy vốn khắc hỏa, hỏa ngược lại nhờ nó mà không khô nóng; hỏa vốn khắc kim, kim ngược lại nhờ nó mà phát sáng. Trong khắc có sinh, ngũ tặc chuyển thành ngũ báu (năm thứ quý báu), nhất khí hỗn độn, hòan nguyên phản bản, đó không phải là điều tốt đẹp ư! Ngũ tặc tại tâm, thi hành vu thiên: Vũ trụ tại hồ thủ, vạn hóa sinh hồ thân Năm mối giặc nằm ở tâm, thi hành nơi trời. vũ trụ trong bàn tay, vạn sự biết hóa sinh nơi thân. Con người nhận lấy khí của ngũ hành mà sinh ra thân, trong thân đã sẵn có khí ngũ hành. Nhưng tâm là chủ của thân, thân là nhà của tâm, ngũ tặc ở nơi thân mà thật ra là ở nơi tâm. Nhưng tâm có phân biệt nhân tâm và đạo tâm. Nhân tâm toan tính sự việc thì ngũ tặc sinh ra thành ngũ vật: vui, buồn, mừng, giận và thích muốn; đạo tâm họat động thì ngũ tặc biến thành ngũ đức: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Nếu có thể \"quán thiên\" mà rõ được chân tướng của ngũ hành, vận dụng đạo tâm từng bước tiến tới, cuối cùng ra khỏi trời mà không cầu nhờ người nào khác, vũ trụ tuy lớn mà như nằm trong lòng bàn tay; muôn sự chuyển hóa tuy là nhiều nhưng không ở ngòai thân. hội tụ ngũ hành, hòa hợp tứ tượng, thì việc nắm tòan bộ tính mệnh cũng không khó gì. Thiên tính nhân dã, nhân tâm cơ dã, lập thiên chi đạo, dĩ định nhân dã: Thiên tính là người, nhân tâm là cơ tâm, thiết lập đạo trời để định nhân tâm. Thiên tính là tính mà trời phú cho, tức tính chân như, là cái được gọi là chân tâm, nó không có sự nhận biết mà chỉ thuận theo nguyên tắc của trời, nhưng con người có được nó nên gọi nó là người. Nhân tâm là tính của khí chất, tức tính của tri thức, là cái được gọi là cơ tâm, thấy cảnh sinh ra tình, tùy lúc mà thây đổi, và con người vì có nó mà có sinh có tử. Thiên tính là thiên cơ, tức thiên đạo (đạo trời); nhân tâm là nhân cơ, tức nhân đạo (đường lối của con
người). Giữ lấy thiên cơ thì còn, thuận theo nhân cơ là mất. Duy có đại thánh nhân biết \"quán thiên đạo, chấp thiên hành\", đứng ở giữa không thiên lệch, tịch nhiên bất động, cảm đến thì thông, tu chân tính để chuyển hóa khí tính, giữ đạo trời mà định nhân tâm, không để chút khí nào bên ngòai tạp nhiễm vào trong tâm. Thiên phát sát cơ, di tinh dịch tú; địa phát sát cơ, long xà khởi lục; nhân phát sát cơ, thiên địa phản phúc; thiên nhân hợp phát, vạn hóa định cơ: Trời nổi sát cơ di chuyển tinh tú; đất nổi sát cơ rồng rắn chồm lên; người khởi sát cơ đất trời đảo lộn; trời người cùng hợp khởi định vạn biến hóa. Sát cơ là khí âm tiêu điều lạnh lẽo có thể tổn thương vật, nhưng không có âm không thể sinh dương, không có sát không thể có sinh, nên sát cơ của trời phát lên thì lan khắp một vòng rồi trở lại ban đầu, khiến tinh tú dời chuyển, đuôi sao đẩu quay về phương dần; sát cơ của đất phát lên thì xấu cực đến lúc hồi sinh, rồng rắn chồm dậy, tĩnh cực thì sinh động. con người cũng có một trời đất, cũng có âm dương này nên có thể bắt chước cách của trời, dấy lên sát cơ thì ngũ hành điên đảo và trời đất giao hòa tốt đẹp. Vì sao vậy? Nếu nhân tâm hợp cùng thiên tâm, điên đảo âm dương chỉ phút chốc thiên thời nhấn sự hợp nhất, gốc biến hóa của vạn vật nằm ở đây và định được . Đây chính là điều Trung dung nói: Gắng đạt đến Trung hòa, trời đất ở vào vị trí thỏa đáng, muôn vật được sinh sôi phát triển. Tính hữu xảo chuyết, khả dĩ phục tàng: Tính có khéo vụng, có thể thu phục mà giấu kín đi. Con người bẩm thụ khí âm dương để thành hình, lấy lương tri lương năng làm tính. Tính không có tính nào xấu, nhưng khí có trong đục. Bẩm thụ khí trong là xảo (khéo tốt), bẩm thụ khí đục là chuyết (xấu vụng). Tính khéo tốt thì lắm cơ mưu, tính chuyết vụng thì nhiều thâm sân. Tính khéo tốt và tính xấu vụng đều là tính của khí chất, là chủ của nhân tâm, không phải thiên tính vốn có. Đạo tu chân là hái tiên thiên, chuyển hóa hậu thiên, và tất cả những tính khéo vụng này đều bị hàng phục mà giấu kín đi, không cần dùng đến. Cửu khiếu chi tà, tại hồ tam yêu, khả dĩ động tĩnh: Tà khí ở chín lỗ chủ yếu có ở ba cửa quan trọng, có thể động tĩnh tùy lúc. Chín lỗ này là bảy lỗ ở thân
trên và hai lỗ ở thân dưới trên cơ thể con người. Ba cửa quan trọng là mắt, tai, miệng. Chín lỗ ở thân người đều là nơi nhận tà khí, mà trong đó mắt, tai, miệng là những nơi chủ yếu triệu tà khí tới. tai nghe âm thanh thì tinh dao động, mắt nhìn sắc thì thần chạy đi, miệng nói nhiều thì khí thất tán. Tinh, khí, thần một khi bị tổn thương thì tòan thân suy yếu, tính mệnh không tránh được chết chóc. Con người có thể thu tầm mắt lại, lắng nghe bên trong mình, ít nói, đóng những cánh cửa trọng yếu, gửi chí vào hư vô, ý niệm bên trong không đi ra ngòai, niệm tưởng bên ngòai không lấn vào trong. Tinh, khí, thần, ba lọai đại dược được ngưng kết không tan mất. chín lỗ có thể động có thể tĩnh, lúc động lúc tĩnh đều theo thiên cơ, không phải nhân cơ, vậy còn có tà khí nào không bị tiêu diệt? Hỏa sinh vu mộc, họa phát tất khắc; gian sinh vu quốc, thời động tất hội. tri chi tu luyện, vị chi thánh nhân: Hỏa sinh từ mộc, hỏa phát lên thì khắc mộc (hại mộc); kẻ gian tà xuất hiện trong đất nước, khi nó lộng hành thì đất nước tan nát. biết đó mà tu luyện, gọi là thánh nhân. Hỏa ví với tà tâm, mộc ví với tính, gian chỉ sự âm độc, quốc chỉ thân. Mọc vốn sinh hỏa, hỏa cháy lên thì hai họa cho mộc, nên là thứ khắc mộc; tà sinh ở tâm, tà phát sinh thì họa đến tâm, tính rối lọan; trong nước có kẻ gian trá, sự gian trá của nó nổi lên làm tan vỡ quốc gia và mất nước; âm tàng ẩn ở thân, âm thịnh thì hủy họai thân, làm suy sụp mệnh. Thân tâm đều bị lụy, tính mệnh cũng suy theo đó. Lúc này âm thầm tu luyện, \"quán thiên đạo, hành thiên chấp\", hàng phục thân tâm, bảo tòan tính mệnh, không bị ngũ hành hậu thiên ràng buộc, nếu không là thánh nhân thì ai có thể đạt tới điều này? 2- Thiên trung: Thiên sinh thiên sát, đạo chi lý dã: Trời sinh trời sát, đó là lý của đạo. Đạo trời chỉ là âm dương mà thôi, dương chủ về sinh, âm chủ về sát, chưa từng có dương mà không có âm, có sinh mà không có sát. Nên xuân sinh hạ trưởng thu liễm đông tàng (mùa xuân sinh sôi, mùa hạ trưởng thành, mùa thu thu họach, mùa đông cất giữ), bốn mùa theo thứ tự, hết vòng thì lại bắt đầu, tuần hòan không ngừng, mãi mãi như vậy.
Thiên địa, vạn vật chi đạo; vạn vật, nhân chi đạo; nhân, vạn vật chi đạo. tam đạo kỳ nghi, tam tài kỳ an: cố viết: thực kỳ thời, bách hài lý; động kỳ cơ, vạn hóa an. Trời đất là kẻ cướp đối với vạn vật, vạn vật là kẻ cướp đối với con người, con người là kẻ cướp đối với vạn vật. ba sự cướp đọat này đạt được chỗ thích hợp thì tam tài (trời, người, đất) an ổn. Nên nói: ăn đúng thời, xương cốt ngay ngắn, động đúng lúc thì vạn biến hóa đều an. Trời làm ra vạn vật, đất sinh ra vạn vật. nhưng sinh ra rồi lại giết đi, nên trời đất là kẻ cướp đối với vạn vật; thế gian có vạn vật, con người nhìn chúng mà sinh ra tình, tình phóng túng, dục vọng buông tuồng nên tiên tan thần khí, nhỏ thì lớn lên, lớn rồi già đi, già rồi chết, nên vạn vật là kẻ cướp đối với con người. Con người là anh linh của vạn vật, vạn vật tuy có thẻ cướp lấy khí của con người nhưng con người lại ăn tinh hoa của vạn vật, mượn lấy khí của vạn vật mà sinh sôi phát triển, nên con người là kẻ cướp đối với vạn vật. Bậc đại tu hành có thể đọat lấy khí của vạn vật mà dùng cho bản thân, lại có thẻ thừa lúc vạn vật đọat khí của mình mà cướp lấy nó, và thừa lúc trời đất đọat lấy khí của vạn vật mà chiếm nốt, lấy ba sự chiếm đọat này quy về một. Trong sát có sinh, ba sự chiếm đọat đều có chỗ hợp lẽ của chúng. Ba sự chiếm đọat đã có chỗ hợp lẽ thì người hợp đức cùng trời đất, cùng song hành mà không đối chọi lẫn nhau, tam tài đều an ổn. Tam tài đã an thì đạo khí trường tồn, vạn vật không thể bẻ cong, tạo hóa không thể níu lấy. Nhưng bí mật của sự cướp lấy nằm ở công phu nhất thời, phải không trước không sau, không đón không đưa, không được thái quá, không được bất cập, khảm đến thì ly nhận lấy, đó đến thì đây đãi đằng, dương trở lại thì âm tiếp đón, cơ bản không để mất thời, không để lỡ cơ hội. Nên nói, ăn đúng thời, xương cốt ngay ngắn, động đúng lúc vạn biến hóa đều an. Ăn đúng thời là thừa thời mà nuốt lấy khí tiên thiên; động đúng lúc là thừa theo cơ hội mà xoay chuyển cán sinh sát. Ăn đúng thời thì khí hậu thiên biến hóa, xương cốt ngay ngắn có thể bảo toàn được hình; động đúng lúc thì khí tiên thiên trở lại, vạn sự biến hóa đền an ổn, kéo dài tuổi đời. Thời chính là cơ (tạm dịch là lúc) thật khó nói rõ. Phải biết thời này chính là thiên thời, cơ này chính là thiên cơ, nếu không nhìn thấu tạo hóa, thông tỏ âm dương, sao có thể hiểu. Ôi! Ngày 15 tháng 8 trăng sáng rạng rỡ, đúng là lúc kim tinh lớn mạnh, nếu có nhất dương vừa trỗi dậy nên tiến hỏa chớ chậm trễ.
Nhân tri kỳ thần nhi thần, bất tri bất thần chi thần nhi sở dĩ thần: Người biết thần là thần, mà không biết thần không thần mới chính là thần. Người học xưa nay đều cho rằng thức thần sáng tỏ, nhanh nhạy là nguyên thần vốn có, nên chấp vào tướng vào không, đến già vẫn không tu thành, đến chết thì thôi. Họ không biết thần này là thần hậu thiên, không phải là thần tiên thiên, là thần mà thực ra không phải là thần. Thần tiên thiên, không sắc cũng không không, rất hư vô mà hàm chứa mọi hữu, rất trống trãi mà hàm chứa sự dồi dao, là thần không thần mà kỳ thực rất thần thông. Người đời chỉ biết thần hậu thiên là thần, cam chịu đi vào vòng luân hồi, mà không hiểu chính cái thần tiên thiên không thần, có thể bảo hộ tính mệnh. Chẳng trách vạn vật cướp khí của ta mà ta vẫn không biết. Nhật nguyệt hữu số, đại tiểu hữu định, thánh công sinh yên, thần minh xuất yên. Kỳ đạo cơ dã, thiên hạ mạc năng kiến, mạc năng tri. Quân tử đắc chi cố cùng, tiểu nhân đắc chi khinh mệnh: Mặt trời mặt trăng có số, lớn nhỏ được định rõ, công phu bậc thánh sinh ở đây, thần minh đi ra từ đây. Cơ chế của sự cướp lấy, thiên hạ không ai thấy, không ai biết. Quân tử có được thì theo đuổi đến cùng, tiểu nhân được nó lại khinh suất. Con người sở dĩ cướp được khí của trời đất và vạn vật là do trời đất, vạn vật có định số; trời đất, vạn vật không thể cướp được khí của con người do thánh đạo không hình không ảnh. Như mặt trời mặt trăng tuy cao nhưng có thể quy tính ra số đo, mặt trời một năm một chu kỳ, trời có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông có thể theo đó mà biết. Mặt trăng ba mươi ngày là một chu kỳ, trăng có lúc tròn lúc khuyết, lúc sáng lúc tối có thể thấy được. Lớn là dương, nhỏ là âm, dương cực sinh ra âm, âm cực sinh ra dương, lớn đi nhỏ đến, nhỏ đi lớn đến, âm dương tuần hoàn, là đạo lý cố định không thay đổi. Và con người nhờ đó mà suy ra đặc điểm của âm dương tạo hóa, dụng công chỉ trong buổi sáng mà hái lấy khí hỗn độn chưa phân chia làm đan mẫu, đoạt số đầy khuyết của trời đất làm gốc tính mệnh. Tiên thiên mà trời không ràng buộc, hậu thiên mà đón được thiên thời, công phu hàng thánh sinh ở đây, thần minh sinh ở đây. Công phu này, thần minh này chính là cơ chế của sự cướp lấy. Dù là trời hay quỷ thần đều không lường được, huống chi con người! Thiên hạ sao có thể thấy, sao có thê biết? Nếu có thể thấy có thể biết thì sao trộm được? Nên
đây mới chính là thánh chính là thần. Đạo này, nếu không phải hàng tôi trung, con hiếu, đại hiền đại đức thì không biết được, không phải anh hùng trượng phu ngước thấy vạn hữu đều là không thì không thể thi hành. Nếu là bậc quân tử tu đạo chân chính, được ý quên lời, đại trí mà như ngu ngơ, vô cùng khéo léo mà như vụng về, không hiểu hết tính mệnh thì không thôi, cố gắng hiểu đến cùng mà như vô tri. Còn như hàng tiểu nhân bạc phước, tình cờ nếm được mùi vị đã tự mãn, lại không xem trọng tính mệnh của mình, không mà làm ra có, trống rỗng mà làm như dồi dào, hạn hẹp mà làm như to lớn, đến nỗi tự tạo ra tội lỗi, không những vô ích mà còn hại thân. 3- Thiên hạ: Cổ giả thiện thính, lung giả thiện thị. Tuyệt lợi nhất nguyên, dụng sư thập bội. Tam phản trú dạ, dụng sư vạn bộ: Người mù thính tai, người điếc mắt tỏ. Dứt tuyệt nguồn gốc của lợi, công phu gấp mười lần việc nhờ thầy. Ngày đêm phản bản hoàn nguyên, công phu gấp vạn lần thầy truyền. Người mù nghe rất thính mà không nhìn thấy. Mắt không nhìn thấy nên thần tàng ở tai giúp nghe rõ. người điếc nhìn rất tỏ mà không nghe thấy. Do tai không nghe thấy nên khí vận tập trung ở mắt, giúp nhìn rõ. Nghiên cứu hai dạng người này thì thấy nhắm mắt tai sẽ thính, nghẽn tai mắt sẽ sáng, huống chi phục lấy khí tiên thiên, rũ bỏ giả tạo tu lấy chân, giữ sự chân thực mà bỏ điều vọng tưởng, sao lại sợ không thể trường sinh? Thanh tĩnh kinh viết: \"Chúng sinh sở dĩ không có chân đạo là vì có vọng tâm (tâm sai lầm); đã có vọng tâm thì kinh động thần; đã kinh động thần tức bám vào vạn vật đã bám vào vạn vật thì sinh ra tham muốn, tức rướt lấy phiền não. Phiền não, vọng tưởng làm khổ sở thân tâm, nên rơi vào ô trọc, lưu lạc trong sự sống chết, luôn chìm vào biển khổ, vĩnh viễn mất đi đạo Chân. Vọng tưởng tham muốn là nguồn gốc của lợi lộc. Con người có thể dứt bỏ nguồn gốc này thì vạn hữu giai không, mọi ưu lo tắt ngấm, còn hơn gấp mười lần công phu do thầy truyền cho, lại có thể liên tục tự phản hoàn, giữ sự chân thực, bỏ vọng tưởng. Sớm tối chuyên cần, ngày đêm dụng công, trong mười hai canh giờ, không lúc nào gián đọan, dần quay về nơi chí thiện không còn chút xấu xa nào, có công phu gấp vạn lần công phu thầy dạy cho. Bởi công phu của thầy có thể thay đổi bề ngoài mà không thay đổi được tâm; có thể uốn nắn người mà không làm cho
người trở nên hay tốt. Dứt bỏ lợi, tự quay về nguồn gốc, chính tâm tu luyện, lo sợ thận trọng ở chỗ người không nhìn thấy không nghe thấy. Đó là những việc mà sức thầy sao làm nổi cho ta? Bậc chí thánh Khổng tử nói: \"Một ngày tu dưỡng bản thân quay về với lễ thì thiên hạ trở lại đức nhân.\" Để có đức nhân cho mình, lẽ nào do nơi người? Chính đây là lời dạy kỳ diệu. Tâm sinh vu vật, tử vu vật, cơ tại mục: Tâm sinh ở vật, chết ở vật, cơ chế này nằm ở mắt. Tâm như chủ nhân, khách như cánh cửa. Chân tâm vốn có trống không và hun hút, không ta không người không vật, cùng một thể với thái hư, thế nên sao có sinh tử. Có sinh tử là tâm (tức trái tim) hậu thiên. Tâm không thể thấy được, nó nhờ vào vật mà biểu hiện ra, thấy vật là thấy tâm, không có vật tâm không hiện. Người chủ này lúc sống lúc chết, vật sinh ra nó, vật làm chết nó. Và điều khiến vật có thể sinh hoặc giết tâm là do sự mở cửa của đôi mắt. Những điều mắt thấy tâm cảm lấy nó, do đó nguyên nhân khiến tâm sinh ra, chết đi thực sự nằm ở mắt. Người có thể quay nhìn lại, soi chiếu vào bên trong tâm mình thì ngoại vật không còn tác động được, nên sinh tử từ đâu mà đến? Người xưa nói: Không đưa mắt nhìn chi nữa thì có thể xua đi sự già lão, chính là nói ý này. Thiên chi vô ân, nhi đại ân sinh. Huân lôi liệt phong, mạc bất xuẩn nhiên. Chí lạc tính dư, chí tĩnh tính khiêm: Trời không thi ân mà tạo được ân huệ lớn. Sấm mạnh, gió to, không vật gì không cho là tự nhiên. Thật vui thích thì tính được thể hiện thoải mái, vô cùng tĩnh thì tính thanh liêm. Trời vô cùng cao mà vạn vật vô cùng thấp, trời và vật cách xa nhau, tựa hồ trời không gia ân chi cho vật. Nhưng chính trong sự không thi ân đó thực ra có ân rất lớn mà không ai hiểu. Khí của trời động lên thành sấm, thổi lên thành gió; sấm chấn động làm vạn vật sinh ra, gió mạnh thổi làm vạn vật phồn vinh. Sinh ra và phồn vinh, vạn vật đều ngu ngơ cho rằng tự nhiên mình được thế. Không thi ân mà tạo được ân huệ lớn như vậy, trời có cái tâm thế nào? Cho nên, thật vui thích thì vạn vật khó cong khuất, không câu thúc thì tính luôn được thể hiện đầy đủ. Vô cùng tĩnh thì vạn vật khó dời đổi, không tham không ái, tính luôn liêm khiết. Vui thích thì không cố thâm tâm thoải mái mà vẫn thoải mái, tĩnh là không cố tâm thanh liêm mà tự thanh liêm. Cũng như trời không gia ân mà có ân huệ lớn với vạn vật. Chỗ dụng của vô tâm thật thần diệu!
Thiên chi chí tư, dụng chi chí công, cầm chi chế tại khí: Trời vô cùng riêng tư, cái dụng của nó lại chung cho tất cả, sự chế phục nằm ở khí. Đạo trời thi hành ở chỗ không hình, vận động ở nơi không ảnh, là thứ duy nhất không có hai, nên nó vô cùng riêng tư. Nhưng bốn mùa vận hành thì vạn vật sinh nên chỗ dụng của nó lại chung cho tất cả. Suy theo sự huyền diệu sâu thẳm của nó thì nhất khí lưu hành sẽ chế ước vạn vật chăng? \"Cầm\" tức nắm lấy, thống suất; chế là tạo tác. \"Cầm chế\" là thống suất vạn vật, chế tạo vạn vật nằm ở nhất khí. Nhất khí bay lên thì vạn vật theo nó mà sinh trưởng, nhất khi hạ xuống vạn vật theo nó mà thu lại ẩn đi. Sinh trưởng rồi thu tàng đều do nhất khí điều khiển, từ một gốc phát tán ra vạn cái khác nhau, vạn cái khác nhau lại quay về một gốc. Tư mà công, công mà tư, không tư không công, là tư là công, nhất khí lưu hành, tuần hoàn không có điểm bắt đầu cũng như kết thúc, hết sức sống động. Sinh giả tử chi căn, tử giả sinh chi căn. Ân sinh vu hại, hại sinh vu ân: Sinh là gốc của tử, tử là gốc của sinh. Ân huệ sinh nơi tàn hại, tàn hại sinh trong ân huệ. Đạo trời sinh ra vật chính là nhất khí. Trên dưới đều dùng đến nhất khí, trên là dương, dưới là âm. Dương là sinh, la ân huệ; âm là chết chóc là tàn hại. Nhưng có sinh tất có tử, có tử tất có sinh, nên sinh lấy tử làm gốc của nó, tử lấy sinh làm gốc của nó. Có ân huệ tất có tàn hại, có tàn hại tất có ân huệ, nên ân sinh ra ở hại, hại sinh ra ở ân. Nếu con người trong cái chết biết tìm ra sự sống ắt được trường sinh bất tử, con người có thể tìm ra ân huệ trong sự tàn hại thì có ân mà không có hại, ra khỏi cái này đi vào cái kia, có thể không thận trọng được sao. Ngu nhân dĩ thiên địa văn lý thánh, ngã dĩ thời vật văn lý triết: Người ngu xem những đường nét hữu hình trong trời đất (thiên văn địa lý) là thánh, ta dựa vào sự lý vô hình của thời và vật mà sáng tỏ. Người ngu không hiểu sinh, tử, ân huệ, tàn hại là bí mật trong vòng tuần hoàn của tạo hóa trong trời đất, nên luôn xem đường nét, hình tượng của trời đất là thánh thần. Ta cho rằng thiên căn có tượng, địa lý có hình, lộ ra bên ngoài có thể thấy mà biết được, nên chúng không đáng xem là thánh thần trong trời đất. Còn như sự lý của thời của vật mà vô hình vô ảnh, là đường lối vận hành của thần, tàng ẩn bên
trong, không thấy hay biết được, đó chính là chỗ sáng suốt của trời đất. Bởi vật có lúc sống, có lúc chết đi. Đang lúc sống thì sống không thể chết; đến lúc chết thì chết không thể không chết. Để cho sống là ân huệ, làm cho chết là tàn hại. Sống rồi chết, chết rồi sống, ân huệ mà có sự tàn hại trong đó, tàn hại mà có ẩn ân huệ. Sinh tử, ân hại đều theo thời mà vận hành đến đi, cũng không phải là không do thần đạo trong trời đất vận hành nó. Thần đạo trong trời đất không thể nhìn thấy, theo vật mà nhìn thấy nó, xem ở sự sinh tử có thời của vật mà biết chỗ sáng suốt của thần đạo trong trời đất. Nhân dĩ ngu ngu thánh, ngã dĩ bất ngu ngu thánh; nhân dĩ kỳ kỳ thánh, ngã dĩ bất kỳ kỳ thánh: Người cho rằng thánh nhân là ngu dốt, ta không cho như vậy; người cho rằng thánh nhân là kỳ quái, ta không cho như vậy. Đạo về tính mệnh, bắt đầu ở hữu vi mọi người khó nhìn ra, đến khi vô vi mọi người mới biết. Những chân nhân, thánh nhân xưa nay, khi hữu vi thì che lấp thông minh hủy bỏ trí tuệ, tránh cái sáng dưỡng cái tối, xoay thiên quan, kéo lại đuôi sao Đẩu, hái thuốc nơi thấp thoáng mập mời sâu thẳm tối tăm, tiến hành hỏa hậu chỗ vô tri vô thức, gửi chí vào hư vô, thần minh lặng lẽ vận hành, dù trời đất dù quỷ thần cũng không lường được, huống chi con người! Là do con người không biết sự kỳ diệu sâu xa trong đó, có kẻ cho thánh nhân là ngu dốt, họ sao biết đồ qúy cất nơi kín đáo, như không có mà thực là có, không thể ngu ngốc mang ra dùng? Đến lúc vô vi, cùng hòa đồng với thế gian, tích lũy công đức, biết rõ thời thế, hô một câu mà trăm tiếng hưởng ứng, thần thông quảng đại, trí tuệ vô biên. Mà người ta có kẻ coi thánh nhân là người kỳ dị. Họ nào biết chân luôn thích ứng với vật và âm thầm vận hành không có gì kỳ dị cả. Thánh nhân không ngu, họ có sự sáng suốt trong sự lý của thời vật, thánh nhân không kỳ quái, họ bình thường như hình tượng đường nét lộ rõ của trời đất. Thánh nhân là người có thể tham gia vào sự hóa dục của trời đất và hợp đức cùng trời đầt. Trầm thủy nhập hỏa, tự thủ diệt vong Chìm vào nước, rơi vào lửa, tự nhận lấy sự diệt vong. Sự tham lam ân ái của con người như vực nước sâu; tửu sắc của cải như hố lửa. Tất cả những người bình thường, không hiểu hết lý lẽ của tạo hóa trong trời đất, không nghiên
cứu cái học về tính mệnh, công phu của bậc thánh, tự ngông cuồng lấy giả làm thật, lấy khổ làm vui, chìm đắm trong vực nước sâu mà không biết, rơi vào trong hố lửa mà chẳng hay, tự diệt bản thân thì còn trách ai được. Tự nhiên chi đạo tĩnh, cố thiên địa vạn vật sinh. Thiên địa chi đạo tẩm, cố âm dương thắng. Âm dương tương thôi, nhi biến hóa thuận. Đạo của tự nhiên tĩnh nên trời đất, vạn vật được sinh ra. Đạo của trời đất thấm nhuần nên âm dương hài hòa. Âm dương đưa đẩy nhau mà mọi biến hóa thuận theo đó. Đạo lớn không hình sinh ra đất trời; đạo lớn không danh, nuôi lớn vạn vật. Không hình không danh là đạo tự nhiên và cực tĩnh. Nhưng tĩnh là gốc của động, tĩnh cực sinh động, trời đất vạn vật nhờ vậy mà sinh sôi. Một khi sinh ra trời đất thì trời đất liền lấy đạo tự nhiên làm đạo, nên trời đất thấm đạo. Thấm là thấm nhuần, là dần ngấm vào, có nghĩa là tự nhiên. Duy chỉ có thấm nhuần tự nhiên, động mà không rời bỏ tĩnh, tĩnh mà không rời bỏ động, một động một tĩnh làm gốc cho nhau, nên âm dương hài hòa. Động là dương, tĩnh là âm, động cực thì sinh tĩnh, tĩnh cực thì sinh động, âm cực sinh dương, dương cực sinh âm, âm dương đưa đẩy lẫn nhau, bốn mùa đến đi tuần tự, vạn vật sinh thành, biến biến hóa hóa, không gì không thuận theo đó, tạo vật nào có toan tính gì trong đó. Bởi đạo tự nhiên không hình, không hình mà có thể biến hóa, nên sự biến hóa đó là vô cùng. • Thị cố thánh nhân tri tự nhiên chi đạo bất khả vi, nhân nhi chế chi. Chí tĩnh chi đạo, luật lịch sở bất năng khế. Viên hữu kỳ khí, thị sinh vạn tượng, bát quái giáp tý, thần cơ quỷ tàng. Âm dương tương thắng chi thuật, chiêu chiêu hồ tiến vu tượng hĩ. Do thánh nhân biết đạo tự nhiên không thể làm trái, theo đó mà chế phục tạo hóa. Đạo cực tĩnh, lịch thời gian không thể khớp được. Vì có kỳ khí nên sinh ra vạn tượng, bát quái, tý ngọ (thời gian), thần cơ quỷ tàng. Thuật âm dương tương hòa soi rõ vào hình tượng. Thánh nhân là người hợp đức cùng đất trời. vì hợp đức cùng đất trời nên không trái với đạo tự nhiên của trời đất, thế nên có quyền định đoạt biến thông, có cùng tác dụng như trời đất. Vì sao vậy? Đạo của tự nhiên, không sắc cũng không không, chí vô (vô cùng trống trãi) mà lại hàm chứa tất cả cái hữu, chí hư (vô cùng rỗng không) mà
lại hàm chứa sự dồi dào (chí thực). Hữu và vô đều có, hư và thực ứng với nhau. Cho nên nói nó vô là nhất khí hư vô không âm thanh không mùi vị, nó là đạo chí tĩnh, tĩnh đến cùng cực. Dù là quy định theo lịch thời gian cũng có chỗ không khớp đến. Lịch thời gian có thể hợp với cái hữu hình, không thể hợp với cái vô hình, cực tĩnh tức là vô hình, lịch thời gian sao có thể khớp với nó được? [Tín/Tí] Lăng Sư cho rằng có vật có trước trời đất, không tên và vốn tĩnh lặng. Nói nó là hữu thì tạo hóa không lường được, nó bao trùm tất cả, nói nó là khí thì khí này vô cùng kỳ lạ nên gọi là thần khí. Thần là bởi nó kỳ diệu hơn vạn vật. Cho nên muôn hình vạn trạng, bát quát tác động lẫn nhau, thời gian tuần hòan, thần duỗi ra, quỷ cong khuất, không gì không nắm cả trong sự bao chứa của nó. [Tín/Tí] Lăng Sư cho rằng nó có thể làm chủ vạn tượng, không bị chi phối bởi bốn mùa. Đạo tĩnh lặng là cái bản thủy của trời đất được gọi là vô, thần khí là bà mẹ của vạn vật được gọi là hữu. Lão tử bảo: Vô là để xét cái thể vi diệu của nó (đạo), tức xét cái bản thủy; hữu là xét cái (dụng) vô biên của nó, tức xem xét bà mẹ của vạn vật. Không có hữu thì không thể thành vô, không xem chỗ dụng khó xét đến chỗ vi diệu (đạo). Cách để xem xét chỗ vi diệu là xem vạn hữu giai không, vô vi không làm gì cả. Cách xem chỗ dụng là nhìn âm dương biến hóa, có tu có chứng đắc. Thánh nhân không trái với đạo của tự nhiên, do đó mà chế phục nó, \"quán thiên đạo, chấp thiên hành\", từ hậu thiên trở về tiên thiên, trong sát cơ trộm lấy sinh cơ, điên đảo ngũ hành, chuyển ngược tạo hóa, dùng âm dưỡng dương, dùng dương chuyển hóa âm. Dương mạnh thì âm thuận theo, âm dương hòa lẫn. Từ xem cái dụng mà xét được cái đạo, từ thần khí nhập vào chỗ cực tĩnh, từ miễn cưỡng đến tự nhiên, hữu và vô nhất trí với nhau, công lực thuần thục, âm dương hài hòa, chiếu rõ ra ngoài thế giới sắc và hình tượng. Phải biết thuật này không phải là thuật tầm thường mà là thuật trộm âm dương, đoạt tạo hóa, là thuật xoay chuyển tuyền cơ, thoát vòng sinh tử. Xưa Hoàng Đế luyện nó mà cưỡi rồng lên tới trời; Trường Cát Hứa tu nó mà vượt phàm nhập thánh. Để \"đội nhà tám trăm bay lên ba nghìn\", không ai không từ đạo này mà tu thành. Ôi! Âm phù kinh hơn ba trăm chữ, từng câu đều mang vị cam lộ, từng chữ đều là châu ngọc, chỉ ra bài thuốc bất tử cho tính mệnh, mở ra con đường tu Chân cho vạn đời. Thiên cơ đã lộ rõ, các sách đan đời sau tuy vi von nhiều cách, không đâu không nói ra thuật âm dương tương hòa, người
có chí nếu xem kinh này, thành tâm kính cẩn mà đọc, cầu thầy cho một khẩu quyết để có thể luyện ngay, đại ngộ triệt để, cẩn thận tu luyện có thể ứng với lời sấm về \"bát bách\", có gì không thể. HUỆ NHÃN CẢI VẬN Đường vận mệnh hân hoan cải biến Nếu lòng người hữu chuyết tinh anh Phát thần tâm giúp đỡ Thiên Đình Luyện trí tuệ chân minh đạo đức Huệ phát quang lung linh thường trực Giúp loài người nhận thức xa sâu Cảm nhận đời bao nổi thương đau Ta xứng đáng vinh cầu trường thọ! THUẬN THIÊN
Search
Read the Text Version
- 1 - 14
Pages: