DI TÍCH LỊCH SỬ 1 và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
“Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội. Bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu, phục vụ giáo dục truyền thống và phát triển kinh tế; gắn kết bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển du lịch. Phục hồi và bảo tồn một số loại hình nghệ thuật truyền thống có nguy cơ mai một. Phát huy các di sản được UNESCO công nhận, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam. Phát triển đi đôi với giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt; khắc phục tình trạng lạm dụng tiếng nước ngoài. Giữ gìn và phát huy di sản văn hóa các dân tộc thiểu số, nhất là tiếng nói, chữ viết, trang phục, lễ hội truyền thống; các giá trị văn hóa tích cực trong tôn giáo, tín ngưỡng... TRÍCH NGHỊ QUYẾT SỐ 33-NQ/TW NGÀY 09/6/2014 HỘI NGHỊ LẦN THỨ 9 BCH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG (KHÓA XI) VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI VIỆT NAM ”ĐÁP ỨNG YÊU CẦU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG ĐẤT NƯỚC. 2 DI TÍCH LỊCH SỬ và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
LỜI NÓI ĐẦU Để góp phần bảo tồn, phát huy giá trị các di dích, di sản văn hóa; giáo dục truyền thống cách mạng, yêu nước của nhân dân ta và quảng bá các điểm đến du lịch về lịch sử, văn hóa trên địa bbàànn,, ỦỦyybbaannnnhhâânnddâânnQQuuậậnn1100pphhátáht àhnàhnhTàSiálciệhu““DDiistíảcnh vlịăchn hsửóavàQunậhnữn1g0”đgiểồmmđ…ếntrtaạni gQvuàận…1.0b”àgi.ồm 20 bài, 68 trang. TSáàci hliệ“uDigsiớảinthviăệnu htổónagQquuậann1v0ề” cgáiớci dthiitệícuht,ổdnigsqảunavnăvnềhcóáactrdêintícđhịa, dbài snảvnớvi ănnộihdóuantrgênđưđợịac bcàhnắcvớlọi cn,ộci ôduđnộgngđ,ượdcễ chhiểắuc, llọàcn, cgôuồđnộntưg,lidệuễ hqiuểýu,đlểàtnrugyuềồnntảtưi rlộiệnugqrãuiýnđhểằmtrugyóềpnptảhiầrnộnggiúrpãni nhhữằnmg nggóưpờipyhêầuntghiíúcph mngọhiiênngưcờứiu, ,nhtìmữnghiểnugưlờịcihyêsửu t-hvícăhn nhgóhai,ênhcấứtulà, tìlmựchlưiểợunglịcđhosàửn-vviêăn hthóaan,hnnhiấêtnlàvàlựhcọlưcợsninghđcoóànđivềiuênkiệthnatnhhuậnniêlnợivđàểhtọìmc shiniểhu,cnógđhiiềêunkciứệun tvhềulậịcnhlợsiửk-hvi ătìnmhhóiaểuQ, unậgnhi1ê0n. cứu về lịch sử - văn hóa Quận 10. Ủy bbaann nnhhâânnddâânnQQuuậnận1010mmonogngmumốunốTnàSi láiệcuh ““DDiitíscảhnlịcvhănsửhóvàa nQhuữậnng1đ0i”ểmsẽđđếưnợtcạigQiớuiậtnhi1ệu0”rsộẽnđgưrợãci đgếiớni tcháicệutầrnộgnglớrpãi Nđhếânncádcântầđnểg lmớpỗinnhgâưnờdi dâânnđQểumậỗni1n0g,ưnờhiấdtâlàn tQhuếậhnệ1tr0ẻ, đnưhợấtclàtìmthếhihểuệ vtràẻ qcuóýctơrọhnộgi nđhưữợncgtìmgiáhtirểịulịcvhà sqửu,ýcthríọnnhgtrnị,hxữãnghộgii,ábtảrịnlịscắhcsvửă, nchhíónah,tnrịh, ữxnãghộdiấ,ubảấn csắủca vthăờnihgóiaan, ,nthàữi nsgảndấvuô ấgniáccủủaathNờhiâgniadnâ, ntàiQsuảậnnv1ô0gtiárocnủgatNừnhgântrdanâng Qsáucậhn. 10 trong từng trang tài liệu. ỦY BAN NHÂN DÂN QUẬN 10 DI TÍCH LỊCH SỬ 3 và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
DDII SSẢẢNN VVĂĂNN HHÓÓAA QQUUẬẬNN 1100 Vùng đất Quận 10 ngày xưa 4 ngày nay. Sinh hoạt dân cư qua súng xâm lược nước ta, đại đồn dân cư còn thưa thớt, sống thời gian đã hình thành nên nét Chí Hòa đã kiên cường đương đầu tập trung và lập nên các xóm đặc trưng riêng biệt, thể hiện qua với giặc. Trang sử bi hùng, đau làng - vốn dĩ là nét truyền thống những di tích sống động và hùng thương gắn với tên tuổi người anh trong sinh hoạt văn hóa làng xã hồn gắn với phong trào đấu tranh hùng Nguyễn Tri Phương và vùng của người Việt Nam. chống ngoại xâm được các thế đất Chí Hòa đã trở thành địa danh hệ gầy dựng, hun đúc, gìn giữ và đầu tiên kháng Pháp ở Nam Kỳ lục Đầu thế kỷ XX, vùng đất Quận phát huy. Nổi bật nhất là đình tỉnh. Khi triều Nguyễn đầu hàng, 10 bây giờ là nơi giáp ranh của 3 làng nơi đây với tên gọi Đình Hòa từng bước bán nước ta cho thực tỉnh Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định Hưng (hay còn gọi là Đình Chí Hòa) dân Pháp, vùng đất Quận 10 xưa gộp lại. Đất đai thì rộng, nhưng là một trong những ngôi đình cổ cũng như nhiều địa phương khác dân cư còn thưa thớt, sống tập nhất tại Thành phố Hồ Chí Minh. vẫn nhen nhóm một lòng yêu quê trung thành các xóm làng như: hương đất nước, không hoàn toàn Làng Chí Hòa (Hòa Hưng), thuộc Ngoài những giá trị di sản gắn chịu khuất phục trước kẻ thù. Song các Phường 12, 13, 15 và một phần với sinh hoạt của cộng đồng dân tất cả đều là tự phát, không có Phường 14 ngày nay; Xóm Cầu, cư, vùng đất Quận 10 còn gắn với đường lối rõ ràng. thuộc Phường 11 bây giờ; Xóm những sự kiện lịch sử của vùng đất Lò Bún, phần lớn thuộc Phường 7 Sài Gòn - Gia Định. Điển hình nhất Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt ngày nay; Xóm Chuồng Bò, thuộc trong thời kỳ kháng chiến chống Nam ra đời, với đường lối đúng Phường 10 ngày nay. Ngoài các Pháp, Đình Chí Hòa trở thành nơi đắn, đưa dân tộc ta bước sang xóm làng trên, nhân dân còn sống hội tụ của các thanh niên hăng hái một trang sử mới. Từ đây, giai cấp ven các đường Bà Hạt, Ngô Gia tham gia chống Pháp, như: Phong công nhân Việt Nam - giai cấp tiên Tự. Một số tập trung trong các nhị trào Phan Xích Long, rồi thanh phong đã lãnh đạo nhân dân ta tỳ, nghĩa địa Quảng Đông, thuộc niên tiền phong… làm cách mạng. Phường 6, 7 và một phần Phường Năm 1858, thực dân Pháp nổ Ngay từ những năm 20, 30 của 4 DI TÍCH LỊCH SỬ và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
Nguyên Chủ tịch Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam Nguyễn Minh Triết thăm Nhà Truyền thống Quận 10. Đồng chí Phan Trọng Nhơn - Nguyên Bí thư Quận ủy Quận 10 (Giai đoạn 1988 - 1990) tiên phong của cách mạng. Vì thế, và đồng chí Nguyễn Thanh Sơn - Nguyên Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ cắt băng khánh thành thực dân Pháp còn cho dựng lên Nhà Truyền thống Quận 10 tại đây cả một “Địa ngục trần gian” để giam giữ, đọa đày các chiến thế kỷ XX, thực dân Pháp đã sớm nay), nhà máy rượu bia (một phần sỹ cách mạng. Trước những cảnh xây dựng tại đây một số nhà máy, Phường 6 ngày nay), đồn điền cao tượng đó, nhân dân địa phương đồn điền như: Nhà máy đá (gần su (một phần Phường 15 ngày chẳng những không nao núng, mà sân vận động Thống Nhất bây nay),… Sự ra đời của các nhà máy, ngược lại, họ đã sớm nhận rõ bộ giờ), nhà máy thuốc lá Cô - fát (góc đồn điền ấy đã dẫn tới một kết mặt tàn ác, dã man của quân bán đường Nguyễn Tri Phương - Ngô quả tất yếu khách quan, là tạo nên nước và kẻ cướp nước. Ngẫu nhiên, Gia Tự ngày nay), hãng làm đinh trên vùng đất này một đội ngũ giai vùng đất này như một mảnh đất (đường Nguyễn Tri Phương ngày cấp công nhân đông đảo - giai cấp tốt tươi, chỉ chờ có hạt mầm gieo xuống là bừng lên sức sống. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là các cơ sở cách mạng địa phương, kết hợp ngoài công tác vận động, tuyên truyền giác ngộ cách mạng cho quần chúng công nông, còn tổ chức in ấn tài liệu để tuyên truyền. Năm 1952, từ sự chỉ đạo của cấp trên, một căn hầm bí mật đã ra đời tại nhà số nhà 122/351 Minh Mạng (nay là 122/8 - 10 Ngô Gia Tự, Phường 9) do Hội ủng hộ Vệ Quốc Đoàn, Chi Đội 6, Trung Đoàn 306 Phạm Hồng Thái xây dựng để tổ chức in ấn tài liệu và hoạt động bí mật. DI TÍCH LỊCH SỬ 5 và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
Các đồng chí lãnh đạo quận, phường và ban ngành đoàn thể dâng hương tưởng niệm cố Tổng Bí thư Trần Phú. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ Ba Vườn Lài, Ngã Bảy Chuồng Bò, thức tỉnh - Xin Việt Nam hòa bình! năm 1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ trở thành nơi diễn ra các cuộc đấu Tháng 10/1967, Khu ủy đã có được ký kết về việc chấm dứt tranh chống Mỹ - Diệm hết sức sôi chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt nổi. Liên đoàn Học sinh - sinh viên, quyết định chia Sài Gòn - Gia Định Nam - Đông Dương. Nhưng do Phật giáo đặt tại chùa Ấn Quang - ra làm 6 phân khu. Về mặt tổ chức âm mưu chia cắt lâu dài đất nước trở thành điểm nóng của các cuộc Đảng, Quận 10 đặt dưới sự chỉ đạo ta, chính phủ Mỹ và chính quyền mít tinh, biểu tình,… thu hút được trực tiếp của Phân khu 2 và Quận Ngô Đình Diệm đã tìm mọi cách tất cả các giới, các ngành, không ủy Quận 5. Đồng chí Phan Văn chống phá cách mạng. Chúng đã phân biệt đảng phái tôn giáo. Hưng (Hai Sang) làm Bí thư. Đồng thi hành chính sách “tố cộng”, “diệt chí Phạm Thị Sứ (Năm Bắc) là Ủy cộng”, luật 10/59, lê máy chém Từ tháng 3/1965, Biệt động viên Phân khu 2 và Bí thư Quận ủy đi khắp miền Nam, sẵn sàng đàn thành đã giao cho đồng chí Đỗ Văn Quận 5. Được phân công chỉ đạo áp, bắt bớ, chém giết gây bao Căn (còn gọi là Ba Mũ) xây dựng trong đợt tổng công kích này có đau thương cho nhân dân và các hầm chứa vũ khí tại số nhà 183/4 đồng chí Năm Bắc, Bảy Lợi, Mười chiến sĩ cách mạng. Điển hình là Trần Quốc Toản (nay là đường Hưng, Bảy Hổ. ngày 25/8/1963, chúng bắn chết Ba Tháng Hai, Phường 11). Trước nữ sinh Quách Thị Trang - người ngày tổng tiến công Mậu Thân 12 giờ 00 đêm ngày 31/1/1968, con thân yêu của làng Chí Hòa. 1968, hầm này cũng chuẩn bị gần từ khu vực Chợ Lớn, đồng chí Năm Ngày 15/10/1964, chúng xử bắn 1 tấn vũ khí các loại sẵn sàng phục Bắc mang lệnh tổng tấn công và anh Nguyễn Văn Trỗi tại Khám Chí vụ chiến đấu. nổi dậy của Phân khu 2 về căn nhà Hòa. Về phía lực lượng cách mạng, số 253 Nguyễn Tiểu La (Phường 8, giai đoạn này, các cơ sở Đảng đã Nhân kỷ niệm ngày Quốc tế Quận 10 ngày nay). Lệnh tấn công được xây dựng và củng cố khắp Lao động 1/5/1966, tại nhà số 197 và nổi dậy cho vùng Vườn Lài - Ngã nơi trên địa bàn. Quần chúng ngày đường Lý Thái Tổ đã diễn ra một Bảy phát ra từ đây lúc 3 giờ 00 càng tin tưởng vào sự tất thắng cuộc biểu tình lớn, tập trung các sáng ngày 1/2/1968. của cách mạng và sự lãnh đạo của nghiệp đoàn, các xí nghiệp, giáo Đảng, do đó phong trào đấu tranh chức, thợ mộc, thợ may. Trong suốt một tuần bám trụ chống Mỹ ngày một dâng cao, thu được tăng cường thêm vũ khí như: hút đông đảo các tầng lớp nhân Ngày 8/4/1967, Phật tử Nhất Chi Trung liên, súng chống tăng,… các dân tham gia. Đặc biệt là vùng Ngã Mai đã châm lửa tự thiêu tại chùa chiến sĩ Bộ tư lệnh tiền phương đã Từ Nghiêm và để lại cho đời sau 4 chiến đấu dũng cảm tại khu vực 6 DI TÍCH LỊCH SỬ câu thơ: Xin đem thân làm đuốc - Ngã Bảy Vườn Lài. Tại đây nhiều và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN Xin soi sáng U Minh - Xin lòng người người dân địa phương tuy không tại QUẬN 10
trực tiếp cầm súng chiến đấu Mẹ Việt Nam anh hùng và đại biểu khách mời tham quan triển lãm nhưng đã hết lòng tiếp tế lương tại Nhà Truyền thống Quận 10. thực, thực phẩm cho bộ đội, cứu chữa và nuôi dưỡng thương binh, khu vực trung tâm Công viên Văn Trần Văn Ơn trong khuôn viên Ký là căn cứ an toàn bí mật cho các cơ hóa Lê Thị Riêng, số 875 Cách Mạnh túc xá Đại học Bách Khoa, Phường sở cách mạng. Tháng Tám, Phường 15, Quận 10. 7, Quận 10 được chăm sóc chu Đây cũng là công trình chào mừng đáo, thường xuyên đón tiếp các Sau thất bại nặng nề trong cuộc “Sài Gòn - Thành Phố Hồ Chí Minh đoàn sinh viên, học sinh đến dâng tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 300 năm” của quận. hương tưởng niệm. 1968, chính quyền Sài Gòn thấy địa bàn một số quận quá rộng, khó Nơi đây hiện trưng bày những Đặc biệt, Quận 10 có 3 công kiểm soát, nên tách một phần của tư liệu, hiện vật, hình ảnh của một trình, địa điểm được Bộ Văn hóa Quận 3 và một phần của Quận 5 quá khứ hào hùng về truyền thống (nay là Bộ Văn hóa, Thế thao và để lập thành một quận mới. Quận đấu tranh cách mạng của các thế Du lịch) công nhận là di tích lịch sử 10 chính thức được thành lập vào hệ cha ông. Phục dựng lại những văn hóa cấp quốc gia, gồm: Đình năm 1969. mô hình chiến đấu, diễn tả theo Chí Hòa; cơ sở in ấn Hội ủng hộ Vệ từng giai đoạn, từng thời kỳ hoạt quốc đoàn (còn gọi là Hầm B); Hầm Chuẩn bị cho cuộc tổng tiến động của quân và dân Quận 10. bí mật chứa vũ khí. Hai công trình, công và nổi dậy trong chiến dịch Hồ Nơi đây còn cung cấp danh sách địa điểm khác được Ủy ban nhân Chí Minh, tại địa bàn Quận 10 lúc 119 địa chỉ đỏ là cơ sở hoạt động dân Thành phố công nhận là di bấy giờ Thành ủy Sài Gòn - Gia Định cách mạng qua các thời kỳ; hình tích lịch sử văn hóa cấp Thành phố, đã điều động một đoàn cán bộ do ảnh 98 Bà Mẹ Việt Nam anh hùng gồm: Chùa Ấn Quang và chùa Từ đồng chí Năm Bắc làm trưởng đoàn của Quận 10 được Đảng và Nhà Nghiêm. Riêng Trại giam Chí Hòa cùng các đồng chí Đoàn Lê Hương, nước vinh danh, phong tặng danh (còn gọi là Khám Chí Hòa), tại số Nguyễn Thị Châu, Nguyễn Minh hiệu… phục vụ khách đến tham 324 Hòa Hưng, Phường 13, Quận Phương, Năm Hà về cùng các đồng quan, thu thập tư liệu, tổ chức sinh 10 được Thành phố tập hợp hồ sơ chí ở cơ sở giành chính quyền. Do hoạt truyền thống, phục vụ công đề nghị đưa vào danh mục kiểm kê được sự chỉ đạo trực tiếp của cấp tác giáo dục truyền thống cho đoàn di tích lịch sử văn hóa, danh lam trên, cùng các chi bộ đảng tại địa viên, thanh thiếu niên địa phương. thắng cảnh trên địa bàn Thành phương nên công tác chuẩn bị phố, giai đoạn 2021 - 2025. Đây là ngày càng gấp rút, khẩn trương Cùng với bia truyền thống Vườn những di sản văn hóa, niềm tự hào hơn. Tranh thủ từng giờ, ban ngày Lài tại góc đường Ngô Gia Tự - Vĩnh của nhân dân Quận 10, được thế không đủ thì chuẩn bị ban đêm, Viễn; trong khuôn viên Công viên hệ hôm nay trân quý và tiếp tục ra tinh thần phấn chấn và đầy tin Văn hóa Lê Thị Riêng hiện có các sức gìn giữ, để luôn phát huy giá trị tưởng vào thắng lợi. Giờ quyết định công trình bia tưởng niệm Cố Tổng giáo dục truyền thống, xứng đáng đã đến, sáng ngày 30/4/1975 một Bí thư Trần Phú; Liệt sĩ - Anh hùng với những hy sinh xương máu của cảnh hỗn độn đã xảy tại Quận 10, Lực lượng vũ trang nhân dân Lê các bậc tiền nhân đã có công gầy quần áo giày dép, kể cả xe, súng Thị Riêng và liệt sĩ - Anh hùng Lực dựng và hun đúc. của lính Mỹ bỏ ngổn ngang dọc lượng vũ trang nhân dân Trần Văn các tuyến đường Trần Quốc Toản, Kiểu; Nhà bia ghi danh liệt sĩ Quận BAN BIÊN TẬP Ngã Bảy, Chợ Cá, Lê Hồng Phong,… 10. Ngoài ra, Bia tưởng niệm liệt sĩ thời cơ đã đến, một ngày hoạt động cách mạng sục sôi mà từ lâu nay mong đợi. Trưa 30/4/1975, các đường phố trong quận đỏ rực băng cờ, khẩu hiệu, người người đổ ra đường với niềm vui chiến thắng, khi lần đầu tiên chứng kiến trên quê hương, đất nước sạch bóng quân thù. Ngày 7/5/1975, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời Quận 10 được thành lập và ra mắt đồng bào tại Học viện Quốc gia Hành chánh, số 12 Trần Quốc Toản (nay là đường Ba Tháng Hai, Phường 12, Quận 10). Thông tin về những sự kiện lịch sử gắn liền với địa phương đang được lưu giữ tại Nhà Truyền thống Quận 10 - công trình được khánh thành vào ngày 2/9/1998, trong DI TÍCH LỊCH SỬ 7 và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA Đồng chí Nguyễn Minh Triết - Bí thư Thành ủy TP.HCM (2000 Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm và ghi sổ lưu niệm - 2006), Chủ tịch Nước CHXHCN Việt Nam (2006 - 2011) tại Di tích lịch sử văn hóa quốc gia Hầm Bí mật chứa vũ khí đến thăm Nhà Truyền thống Quận 10 năm 2005 thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, vào ngày 4/3/1994 Đồng chí Nguyễn Minh Triết - Bí thư Thành ủy TP.HCM (2000 Lễ tiếp nhận Di tích lịch sử văn hóa quốc gia Hầm Bí mật - 2006), Chủ tịch Nước CHXHCN Việt Nam (2006 - 2011) chứa vũ khí thời kỳ kháng chiến chống Mỹ do gia đình ghi sổ lưu niệm của Nhà Truyền thống Quận 10 đồng chí Ba Mủ bàn giao hoán đổi vào tháng 10/2014 Giáo viên hướng dẫn học sinh tiểu học Quận 10 tham quan Hầm bí mật chứa vũ khí thời kỳ kháng chiến chống Mỹ - Nhà Truyền thống Quận 10 Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia 8 DI TÍCH LỊCH SỬ và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
PHỤC VỤ GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG Các đồng chí lãnh đạo quận dâng hương tưởng niệm anh hùng Các đồng chí cựu chiến binh Tiểu đoàn 6 Bình Tân liệt sĩ tại bia truyền thống Vườn Lài gặp gỡ lãnh đạo Quận 10 nhân dịp kỷ niệm 50 năm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân (1968 - 2018) Các đồng chí lãnh đạo Trung tâm Văn hóa Hòa Bình, Các đồng chí lãnh đạo quận và đại biểu dâng hương Phòng Giáo dục Đào tạo và Quận đoàn 10 trao giấy khen tưởng niệm tại Tượng đài Hoàng đế Quang Trung cho các tập thể thực hiện tốt công tác giáo dục truyền thống cho học sinh, giai đoạn 2016 - 2018 Bà Đặng Thị Lâm Thiệt Lệ Phương - Phó Phòng Văn hóa Đoàn viên, thanh thiếu nhi Quận 10 tham quan Di tích lịch sử Thông tin Quận 10 trao giải thưởng và giấy khen tập thể văn hóa cấp Thành phố - Chùa Ấn Quang. cho Phường 2 và Phường 12 đạt giải tại Cuộc thi tìm hiểu lịch sử Đảng bộ Quận 10 qua ảnh - năm 2022 DI TÍCH LỊCH SỬ 9 và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA CẤP QUỐC GIA ĐÌNH CHÍ HÒA Đình Chí Hòa (hay còn gọi may mắn đạt được trong năm. là đình Hòa Hưng), tọa lạc Nơi đây vốn là nơi dạy học của trong con hẻm 475 Cách Mạng Tháng Tám, Phường 13, cụ Võ Trường Toản – một bậc nghĩa Quận 10. Đây là một trong những khí, sống ẩn dật, tìm niềm vui trong ngôi đình cổ nhất tại Thành phố Hồ việc đào tạo hiền tài cho nước nhà. Chí Minh với hơn 300 năm tuổi, là Vào khoảng năm 1785 – 1792, có minh chứng hùng hồn cho bề dày một lớp học của cụ Võ Trường lịch sử của Quận 10. Toản được mở tại đây. Cụ đã dày công đức dạy học nhiều thế hệ trẻ Thời Gia Long, Thống soái ở Hòa Hưng, trong đó những nhân Nguyễn Hữu Cảnh (1698) được cử vật nổi tiếng sau này như: Trịnh vào Nam kinh lược đã thiết lập: xã, Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô thôn, làng. Ông quy định khai khẩn Nhân Tịnh,… đều là học trò của cụ. ruộng đất, định thuế đinh, cứ một ấp gồm 15 nhà đóng thuế đầy đủ Ngày 16/2 năm Nhâm Tý 1852, thì lập sổ bộ đinh điền. Trong sinh Đình được Vua Tự Đức ban sắc hoạt lâu đời của đồng bào miền phong Thần và ngày này cũng được Nam, hễ có làng, thôn dứt khoát lấy làm ngày Lễ Kỳ Yên của Đình phải có đình. Từ “đình làng” đi đôi hàng năm. với nhau là vậy. Năm 1915 – 1917, phong trào Khi đình được hình thành, khắp Phan Xích Long (Phan Phát Sanh) - cả làng Hòa Hưng đều đến chiêm bái. một phong trào yêu nước tự phát Tập quán cúng tế hàng năm cứ như được thanh niên khu Hòa Hưng thế được lưu truyền từ đời của Ban tham gia đông đảo. Sự việc kể trên quí tế đầu tiên và kế thừa đến nay. xảy ra thời gian ngắn, nhanh chóng Người ta đến đình trong các ngày bị dập tắt bởi bọn tề làng và thực hội, lễ để trả ơn hay nhớ ơn, hoặc dân Pháp. cầu xin những gì tốt lành, những gì Mãi đến năm 1945, thanh niên xung phong đình Hòa Hưng lại sôi 10 DI TÍCH LỊCH SỬ và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
động với phong trào thanh niên sứ lâu năm nằm kẹp hai bên. Bốn tế và Bồi tế đến bái lạy xin lệnh Tiền phong, dùng võ ca làm nơi tập đầu đao của mái là bốn đầu rồng. Thần. Sau đó học trò lễ giàn chầu luyện thường xuyên vào ban đêm. Về phần kiến trúc này cho thấy vì khiên long xa. Ngày 25/8/1945 cùng với không đình thần Chí Hòa có sắc phong khí đấu tranh rực lửa khắp thành nên đầu đao là đầu rồng với chân Khi xưa phải đi bộ thỉnh sắc. phố, tại đình Hòa Hưng, một đội xòe 3 móng, thể hiện thứ bậc của Ngày nay do trở ngại lưu thông ngũ giáo mác mà chủ yếu là bà ngôi đình thờ Thành hoàng. Căn nên dùng ô tô thỉnh sắc. Học trò lễ con xóm nghèo ở cách đình một cứ theo sắc phong, tước vị và cung đưa long xa lên xe, đến Từ đường con hẻm, kéo đến tụ tập và xuống cách bày trí thờ cúng có thể xác nơi giữ sắc thần. Tại Từ đường, có đường, dùng rào chắn ngang đánh định đây là vị Trung đẳng thần. lễ bái phục thỉnh sắc, sau đó sắc Pháp. được trịnh trọng đặt trong long Lễ Kỳ Yên hay còn gọi là Cầu an, đình trở về đình. Sau khi làm lễ Về mặt kiến trúc, đình Chí Hòa tức cầu nguyện quốc thái dân an, cúng tế, đình còn tổ chức lễ xây còn mang đầy đủ bản sắc riêng của mưa thuận gió hòa. Vào ngày lễ chầu hát bội tuồng cổ… để người một ngôi đình Nam bộ với cấu trúc chính, nhằm ngày 16 tháng 2 âm dân có thể xem hát. Đây là một giá độc đáo, tất cả tạo nên một tài sản lịch, chọn giờ tốt, lựa lúc con nước trị văn hóa hết sức độc đáo. vô giá về lối kiến trúc, giá trị thẩm đang lên biểu hiện sự hưng thịnh mỹ cho ngôi đình. thì xuất hành lễ. Đầu tiên, lễ thỉnh Trước khi Lễ Kỳ Yên kết thúc, sắc được tổ chức khoảng 8 – 9 giờ Ban thỉnh sắc tổ chức lễ đưa sắc Về hình dáng võ ca, nhìn bên sáng. Có Ban thỉnh sắc gồm Chánh phong hoàn lại nơi thờ phụng Từ ngoài ta thấy có “Lưỡng long chầu đường. nguyệt”. Mặt ngoài cũng có bàn thờ và tượng đắp nối Thần Hổ. Hai bên có tượng Kỳ lân phủ phục. Bên trong võ ca nổi bật là sân khấu bằng gạch, xi măng, mặt sân khấu quay vào chánh điện, cao 1,2 mét. Hai bên sân khấu có hai bức tranh tô nhiều màu, trang trí như để làm đẹp thêm sân khấu. Khu chánh điện liền với võ ca, được phân ranh bằng cửa sắt. Hàng cửa này cũng như hai cửa sắt bên hông võ ca chỉ mở ra khi tổ chức lễ. Toàn bộ chánh điện là nơi thờ “Thành hoàng bổn cảnh” rất nghiêm túc. Nhìn bên ngoài, nóc chánh điện có bộ “Lưỡng long chầu nguyệt” với hai phụng bằng sành Đình Chí Hòa được Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia theo Quyết định số 1.460/QĐ-VH ngày 28/6/1996. DI TÍCH LỊCH SỬ 11 và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA CẤP QUỐC GIA CơthsởờiinkỳấcnhHốnộgi ủthnựgchdộâVn Pệ quhốácpđoàn (Gọi tắt là HẦM B) * Cơ sở in ấn Hội ủng Cơ sở in ấn Hội ủng hộ Vệ quốc Trong căn nhà này, căn hầm hộ Vệ quốc đoàn thời đoàn thời kỳ kháng chiến được bắt đầu đào vào ngày 3/2 và kỳ kháng chiến chống chống Thực dân Pháp là địa hoàn thành vào ngày 19/5/1952. Thực dân Pháp được điểm chứng tích của một căn hầm Có diện tích 3,5m x 3,2m, sâu Bộ Văn hóa (nay là bí mật mang mật danh “Hầm B”, 1,7m, nóc dày 1,7m. Có đà chịu lực, Bộ Văn hóa, Thể thao tọa lạc tại 122/351 Minh Mạng tường và nền trát xi măng chống và Du lịch) công nhận (hiện nay là 122/8 – 10 Ngô Gia Tự, thấm. Cách hầm 2m là giếng nước, là di tích lịch sử văn Phường 9, Quận 10). Nơi đây từng dưới miệng giếng 0,5m có lỗ thông hóa cấp Quốc gia là nơi tổ chức in ấn, phát hành và hơi, đường kính 10cm để lấy không theo Quyết định số cất giữ tài liệu của Hội ủng hộ Vệ khí vào hầm, được đào hết sức bí 1.288/QĐ-VH ngày quốc đoàn thời kỳ kháng chiến mật. Lối xuống hầm qua một ngăn 16/11/1988. chống Thực dân Pháp. tủ gỗ, được nghi trang bằng các quần áo treo trong tủ. Nguyên thủy đây là một căn nhà gỗ, vách ván, diện tích 62m2. Nhà Từ tháng 2/1952 đến tháng được ngăn đôi, một bên dùng để 7/1954, hầm này dùng làm văn ở và phía dưới là nơi để Hội ủng phòng B của Hội ủng hộ Vệ quốc hộ Vệ quốc đoàn in tài liệu bí mật; đoàn và Trung đoàn Đồng Nai, một bên là cơ sở làm đàn để ngụy dưới sự chỉ đạo của đồng chí Trần trang. Toàn bộ khuôn viên được Đình Xu và Lê Xuân Lựu trong Ban rào bởi hàng rào tre bao quanh. Chỉ huy Trung đoàn. 12 DI TÍCH LỊCH SỬ và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
Các đồng chí lãnh đạo quận, phường, ban ngành đoàn thể và cán bộ có công xây dựng di tích tham dự họp mặt kỷ niệm 60 năm xây dựng Hầm B (3/2/1952 - 3/2/2012) Mục đích của Hội là phát triển nay không biết địa điểm các hiện Từ ngày cơ sở bị phát hiện cho hội viên, qua đó vận động quần vật trên. đến cuối năm 1957, các đồng chí ở chúng giác ngộ cách mạng, đóng văn phòng A và B lần lượt sa vào góp của cải, vật chất nhằm động Ngày 30/11/1957, đồng chí Hà tay địch. Số còn lại tập kết ra Bắc viên tinh thần các chiến sĩ thuộc Minh Lân – cán bộ tổ chức cơ sở cho đến ngày miền Nam được Trung đoàn Đồng Nai. thiếu cảnh giác nên bị bọn Cảnh giải phóng. Sau đó, căn hầm được sát đặc biệt miền Đông (PSE) theo trùng tu sửa chữa nhằm bảo tồn Tháng 8/1954, Hội ủng Hộ vệ dõi, bao vây căn nhà và bắt đồng một di tích cách mạng có ý nghĩa quốc đoàn chuyển qua sinh hoạt chí Lân cùng đồng chí Phạm Văn giáo dục truyền thống cho thế hệ trong Thành ủy Sài Gòn – Chợ Tám (tức Tám Quốc) đang có mặt hôm nay và mai sau. Lớn và sau đó trở thành Ban ấn tại địa điểm 122/351 Minh Mạng. loát của Thành ủy do đồng chí Lê Phiếm (tức Hòa) lúc đó là Ủy viên Ban Tuyên huấn phụ trách. Đồng chí Trần Văn Lợi là Trưởng ban ấn loát kiêm Bí thư chi bộ. Cơ sở 122/351 Minh Mạng được trang bị máy quay Ronéo để in ấn tài liệu, truyền đơn đưa từ chiến khu An Phú Đông về, phát hành đến hàng trăm cơ sở trong thành phố. Đặc biệt là những Nghị quyết của Đặc khu Sài Gòn – Gia Định và của Tỉnh ủy Gia Định để chỉ đạo phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân đòi thi hành hiệp định Giơ-ne- vơ năm 1954. Tháng 10/1957, một số đồng chí trong Thành ủy bị địch bắt. Thành ủy chỉ thị cơ sở phân tán mỏng. Máy quay Ronéo và vật dụng in ấn được di chuyển đến nơi khác, hiện DI TÍCH LỊCH SỬ 13 và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
* Hầm bí mật chứa vũ khí thời kỳ kháng chiến chống Mỹ được Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia theo Quyết định số 1.288/QĐ-VH ngày 16/11/1988. DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA CẤP QUỐC GIA HẦM BÍ MẬT CHỨA VŨ KHÍ THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ Hầm bí mật chứa vũ khí thời 800 đến 1.000 mét đường chim bay thành có diện tích ngang 1,8m, dài kỳ kháng chiến chống Mỹ và gần Quốc gia Hành chánh ngụy. 2,2m, sâu 1,7m; xung quanh xây tọa lạc tại địa chỉ 183/4 Trần Vợ đồng chí Đỗ Văn Căn (còn gọi là gạch, tô xi măng. Nắp hầm có kích Quốc Toản, nay là Ba Tháng Hai, Ba Mủ) là đồng chí Nguyễn Thị Cúc thước 0,4m x 0,6m, gồm 2 miếng Phường 11, Quận 10. đứng tên mua căn nhà nói trên. gạch trùng khớp nhau đậy khít Tiền mua nhà một phần là tài sản miệng hầm... Bên trên có một tấm Nhằm góp phần đánh bại chiến của gia đình, một phần vay thêm ván gỗ dùng để ngăn đôi căn nhà. tranh xâm lược của Mỹ và tay sai, của bà con. Đồng chí Cúc lúc này là Phía trước phòng khách được đặt Bộ Chỉ huy Quân khu Sài Gòn – cán bộ giao liên và Trinh sát của J9/ một bộ salon nghi trang ngay trên Gia Định đã chỉ đạo xây dựng các T700. Mua xong nhà, theo chỉ đạo nắp hầm; phía sau dùng làm nơi ép căn hầm bí mật chứa vũ khí tại nội của cấp trên, đồng chí Căn đưa gia đế giày cao su. thành, chuẩn bị cho kế hoạch lâu đình về đây sinh sống, hoạt động dài đánh địch trong thành phố. cách mạng dưới vỏ bọc cơ sở ép đế Từ tháng 7/1965, ba chuyến Giữa năm 1964, đơn vị “Bảo đảm” giày bằng mủ cao su và bí mật đào hàng đã được chuyển về đây cất mang bí danh J9/T700 thuộc Biệt hầm dưới nền nhà. giấu gồm: 50 kg thuốc nổ và kíp nổ, động thành đã tìm kiếm và quyết 7 khẩu súng AK cùng 21.000 viên định mua căn nhà trên, vì có vị trí Sau 25 đêm miệt mài thực hiện đạn, 50 quả lựu đạn, 1 súng ngắn phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ. nhiệm vụ với tinh thần trách nhiệm cùng 50 viên đạn và một số quân cao, chấp nhận hy sinh, khắc phục trang, quân phục khác. Căn nhà đối diện với cơ quan mọi khó khăn gian khổ; tháng Viện trợ Quân sự Mỹ và chư hầu, 5/1965, căn hầm bí mật được hoàn Giữa năm 1967, đồng chí Căn lại cách Biệt khu Thủ đô ngụy khoảng chuẩn bị thuốc và bông băng cứu 14 DI TÍCH LỊCH SỬ và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
thương với số lượng lớn đem cất Thượng Tướng Lê Quang Hòa (bên trái) đến thăm di tích giấu sẵn dưới hầm phục vụ chiến dịch Mậu Thân năm 1968. chứa vũ khí chính là sự tin tưởng Có thể nói, đây còn là một trong tuyệt đối vào thắng lợi cách mạng nhiều địa điểm của Thành phố Năm 1974, đồng chí Dương của cán bộ đảng viên. mang tính cách mạng độc đáo về Long Sang - Bí thư đoàn 195 đến sự lãnh đạo của Đảng, về nghệ kiểm tra hầm, nhận thấy kho vũ Người chịu trách nhiệm thi thuật chiến tranh nhân dân Việt khí vẫn còn tốt, nên tháng 4/1975 hành cơ sở nói trên là đồng chí Đỗ Nam. Chứa đựng một tinh thần tin đồng chí chỉ đạo Đội biệt động J9/ Văn Căn - cán bộ biệt động của đơn tưởng cách mạng triệt để của cán T700 khui hầm và sử dụng vũ khí vị “Bảo đảm”, là chủ hộ và là người bộ đối với sự lãnh đạo của Đảng nhằm chuẩn bị tấn công Biệt khu chứng minh cho công tác vận động Cộng sản Việt Nam. Tin vào sự Thủ đô (địa điểm ngày nay là Bộ cách mạng của đồng chí với tập thể thắng lợi cuối cùng. Là điểm cao Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh). gia đình mình, dám chấp nhận mọi của sức mạnh chiến tranh nhân Nhưng kế hoạch chưa thực hiện thì hy sinh cần thiết cho cách mạng. dân trong cuộc chiến tranh chống trưa ngày 30/4/1975 ngụy quyền Đó là biểu hiện khí phách anh hùng Mỹ cứu nước. Sài Gòn đã tuyên bố đầu hàng. cách mạng của nhân dân thành phố. Ngày nay, hầm bí mật chứa vũ khí là điểm đón tiếp các đoàn tham quan, nơi giáo dục truyền thống yêu nước cho các tầng lớp nhân dân trong và ngoài quận. Đây là cơ sở cách mạng chịu đựng rất nhiều gay go, đầy thử thách, vì điểm chứa vũ khí này nằm sát với nhiều cơ quan quân sự của Mỹ ngụy. Hầm chứa vũ khí là một quá trình tích lũy kinh nghiệm thực tiễn của cán bộ chiến đấu trong nội thành. Biểu hiện từ khâu đào hầm, vận chuyển vũ khí không bị lộ, không bị tổn thất trong suốt 10 năm liền (tháng 7/1965 đến 30/4/1975). Sự tồn tại của hầm DI TÍCH LỊCH SỬ 15 và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA CẤP THÀNH PHỐ Chùa Ấn Quang Chùa Ấn Quang (hay Tổ đình Pháp hiệu là Thiện Hòa, là Pháp tử tích cực trong các phong trào cách Ấn Quang), tọa lạc tại số của Như Lai. mạng của nhân dân miền Nam. 243 Sư Vạn Hạnh, Phường 9, Quận 10, là một ngôi chùa khá nổi Ngày 6/5/1950, Hòa thượng giữ Hòa thượng viên tịch tại chùa tiếng của Việt Nam. chức Giám đốc Phật học Đường Ấn Quang vào ngày 7/2/1978. Tiếp Nam Việt tại Ấn Quang. Hòa bước các vị cao tăng tiền nhiệm, Năm 1949, Hòa thượng Thích thượng đã đem tất cả tâm hồn, trí các quý Hòa thượng trụ trì chùa Ấn Trí Hữu từ chùa Linh Ứng ở ngũ tuệ có được qua học tập, quan sát Quang hiện nay tiếp tục thực hiện Hành Sơn - Đà Nẵng vào Sài Gòn từ khắp mọi miền đất nước vào xây hoằng dương Chánh Pháp, gắn dựng tích trượng tại khoảng đất dựng chùa Ấn Quang và Phật học đạo pháp với dân tộc, thực hiện tốt trống vùng Vườn Lài, cạnh đường Đường Nam Việt. các công tác xã hội. Lorgeril (đường Sư Vạn Hạnh ngày nay) và lập một am tranh lấy tên Năm 1951, với uy tín của Hòa Là nơi từng chứng kiến nhiều Trí Tuệ An. Sau khi cất chính điện thượng Thích Thiện Hòa, các Phật sự kiện quan trọng trong những là ngôi nhà bằng tranh, tre, ông học đường như: Mai Sơn, Liên bước thăng trầm và phát triển của đổi tên Trí Tuệ An thành chùa Ứng Hải, Sùng Đức được các quý Hòa đạo Phật ở miền Nam. Chùa Ấn Quang và mở tại đây một lớp giảng thượng Trí Tịnh, Quảng Minh, Quang là địa điểm tập trung xuất kinh Phật cho các Tăng sinh trẻ Huyền Dung thống nhất dời địa phát nhiều cuộc xuống đường tuần tuổi. điểm về Ấn Quang. Từ lúc này, Phật hành, đấu tranh chống Mỹ và bè lũ học Đường Nam Việt tại chùa Ấn tay sai. Các cuộc đấu tranh của giới Năm 1950, Hòa thượng Thích Quang là một trong những trung Phật giáo tại Ấn Quang năm 1963 Thiện Hòa tiếp quản chùa, tiến tâm đào tạo tăng tài của Phật giáo – 1964 chống chính sách phát xít hành xây dựng lại chính điện, đổi tại Nam bộ. Từ nơi đây, các tăng của gia đình trị Ngô Đình Diệm đòi tên Ứng Quang thành tên chùa Ấn trẻ ra trường đã tỏa đi nhiều tỉnh ở bình đẳng tôn giáo. Các phong trào Quang. miền Nam để truyền bá, góp phần xuống đường đấu tranh chống Mỹ chấn hưng đạo Phật. - ngụy của sinh viên, học sinh các Hòa thượng Thích Thiện Hòa tổ chức quần chúng các năm 1963, tên đời thường là Hứa Khắc Lợi, Từ khi xuống tóc đi tu đến khi 1964, 1969, 1972 tại thành phố, sinh năm 1907, con một gia đình lễ về với cõi Phật, Hòa thượng Thích có rất nhiều cuộc được tổ chức và giáo tại làng Tân Nhựt, huyện Bình Thiện Hòa đã giành cả cuộc đời cho xuất phát từ chùa Ấn Quang. Các Chánh, tỉnh Chợ Lớn. Hòa thượng sự nghiệp chấn hưng, phát triển cuộc đấu tranh chính trị sôi nổi, xuất gia tu hành vào năm 28 tuổi, đạo Phật. Sinh ra, lớn lên và trưởng rầm rộ, góp phần làm lung lay các học tại trường Phật học Lưỡng thành qua các thời kỳ chống Pháp, chế độ tay sai của Mỹ. Xuyên do Đốc học Lê Khánh Hòa chống Mỹ, Hòa thượng còn là người phụ trách. Tại đây, Hòa thượng có yêu nước, có quan hệ và đóng góp Chùa Ấn Quang còn là nơi nuôi 16 DI TÍCH LỊCH SỬ và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
* Chùa Ấn Quang được Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Thành phố theo Quyết định số 120/2005/QĐ-UB- ND ngày 12/7/2005. dưỡng, che giấu, nơi gặp gỡ các Phật học đường Nam Việt phòng Thành hội Phật giáo Thành cán bộ hoạt động cách mạng. Chùa phố Hồ Chí Minh, trụ sở Ban đại là bức bình phong thuận lợi để các lên một tầm cao mới. Đây cũng diện Phật giáo Quận 10; là nơi điển cán bộ hoạt động công khai của là nơi gặp gỡ, tranh thủ sự đồng hình thực hiện công tác từ thiện xã phong trào sinh viên như: Lê Văn tình ủng hộ của nhân dân thế hội của Phật giáo cả nước, cơ sở Nuôi, Nguyễn Xuân Lập, Nguyễn giới đối với cuộc đấu tranh chống Tự viện tốt trong khối đại đoàn kết Thị Yến đến nhận chủ trương, trao Mỹ - ngụy của nhân dân Sài Gòn toàn dân. đổi công tác, tập hợp phát động - Chợ Lớn, gây được tiếng vang, quần chúng... Là nơi che giấu cho góp phần thức tỉnh nhân dân yêu Hiện nay, chùa là nơi tổ chức nhiều đồng chí hoạt động bí mật chuộng hòa bình trên thế giới. sinh hoạt của đồng bào Phật giáo như: đồng chí Lê Công Trung – cán và tuyên truyền giá trị di tích đến bộ Binh vận; Nguyễn Thị Lan Chi Từ năm 1981, Phật giáo Việt toàn thể các tầng lớp nhân dân (Ba Lan) – cán bộ liên Quận 1, 3, Nam từ Bắc tới Nam thống nhất về trên địa bàn thành phố. 10… tổ chức và có tên gọi chung là Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Từ đó đến Chùa Ấn Quang còn là nơi đánh nay, chùa Ấn Quang là trụ sở văn dấu sự ra đời của Ủy ban Phụ nữ đòi quyền sống tổ chức nhiều cuộc hội thảo, mít tinh, biểu tình… góp phần đưa phong trào đấu tranh chống Mỹ của nhân dân Nam bộ DI TÍCH LỊCH SỬ 17 và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA CẤP THÀNH PHỐ CHÙA TỪ NGHIÊM Chùa Từ Nghiêm (Tổ đình Từ Việt tại chùa. Từ đây ni giới các tỉnh Phật tử Nhất Chi Mai Nghiêm), tọa lạc tại số 415 - phía Nam đều tập trung về chùa Từ 417 Bà Hạt, Phường 4, Quận Nghiêm để tu học. 10. Là ngôi chùa do ni giới quản lý; nơi đặt văn phòng Ni bộ; nơi đã Năm 1959, chùa được xây dựng đào tạo nhiều ni tài để đảm nhận lại với quy mô lớn bằng vật liệu nhiều chức vụ khác nhau ở Ni bộ, bê tông cốt sắt. Đến năm 1962, ở các chùa ni tại thành phố và các công trình được hoàn thành với tỉnh, góp phần chấn hưng Phật các hạng mục kiến trúc gồm: Cổng giáo và xây dựng đất nước. Là điểm chùa; đài Quan Âm; khu nhà bên sáng tu học và tuyên truyền truyền trái (nay là giảng đường tầng trệt) thống yêu nước cho quần chúng và chính điện ở tầng 1; khu nhà nhân dân nói chung và cho Phật tử bên phải làm văn phòng, nhà may nói riêng, góp phần vào công cuộc quần áo, phòng phát hành bán giải phóng miền Nam, thống nhất sách kinh, đồ lưu niệm và nơi nghỉ đất nước. ngơi của ni giới. Năm 1963, để mở rộng phạm vi hoạt động Ni bộ Nam Từ năm 1950 – 1954, ngôi chùa Việt đổi tên thành Ni bộ Bắc Tông còn là am nhỏ dạng nhà gỗ, tre mái vụ. Trong những năm 1972, cùng lợp lá cạnh vùng Vườn Lài, do Đại với các chùa Dược sư, chùa Từ đức Thích Đạt Từ (nguyên Trị sự Nghiêm là địa điểm đào tạo tăng trưởng Giáo hội Tăng già Nam Việt) tài nổi tiếng ở phía Nam của Giáo quản lý. Đến năm 1955, ngôi chùa hội Tăng già Nam Việt. được giao lại cho Ni trưởng Thích Nữ Như Thanh quản lý. Chùa được Quá trình phát triển ngôi chùa chọn là địa điểm đặt văn phòng cũng là quá trình đóng góp công của Ni bộ Bắc Tông. Năm 1956, sức và nhiệt huyết của Hội đồng Giáo hội Tăng già Nam Việt đã tổ quản trị, của các ni cùng Phật tử và chức Đại hội thành lập Ni bộ Nam đặc biệt là các vị Ni trưởng. Bên cạnh đó, Chùa Từ Nghiêm 18 DI TÍCH LỊCH SỬ và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
còn là địa điểm tập trung xuất phát Chi Mai tự thiêu trước Chánh điện * Chùa Từ Nghiêm của ni giới xuống đường đấu tranh chùa Từ Nghiêm để nguyện cầu được Ủy ban Nhân cùng phong trào Phật giáo và quần cho hòa bình và để lại những câu dân Thành phố Hồ Chí chúng yêu nước chống Mỹ - ngụy. thơ vẫn còn lưu danh cho đến tận Minh công nhận là di ngày nay: “Xin đem thân làm đuốc, tích lịch sử văn hóa cấp Ngôi chùa gắn với nhiều kỳ xin soi sáng u minh, xin tình người Thành phố theo Quyết tích hào hùng. Năm 1963, ngoài thức tỉnh, xin Việt Nam hòa bình”. định số 3.128/QĐ-UB- việc cấm treo cờ Phật giáo, bọn Ngọn lửa Nhất Chi Mai là sự kế tiếp ND ngày 25/6/2009. tay chân của Ngô Đình Diệm còn của phong trào đấu tranh cách lệnh cho cảnh sát bắn vào tín đồ mạng của tăng, ni, Phật tử, học Chùa Từ Nghiêm còn có cơ Phật tử tại Đài phát thanh Huế làm sinh, sinh viên Sài Gòn; là nguồn sở kinh tế để sản xuất, ủng hộ chết 8 người, bị thương 14 người động viên, cổ vũ phong trào cách vật chất cho cách mạng. Theo Sư khác. Hành động tàn ác của bè lũ mạng của quần chúng đô thị tiếp bà Cao Thị Thẩm, từng tu học tại tay sai chế độ Ngô Đình Diệm đã tục đấu tranh chống Đế quốc Mỹ chùa Từ Nghiêm từ năm 1959 đến làm dấy lên làn sóng đấu tranh của xâm lược và bè lũ tay sai. 1967, cho biết: Chùa Từ Nghiêm giới Phật giáo chống lại gia đình có mở một xưởng dệt tại Phú Lâm trị họ Ngô. Phong trào từ Huế lan Tưởng nhớ Nhất Chi Mai tự chuyên dệt băng comprết. Xưởng khắp miền Nam, đặc biệt sôi động thiêu vì đạo pháp và dân tộc, hàng có một số công nhân bên ngoài và ở Sài Gòn với sự ủng hộ tham gia năm sinh viên, học sinh Sài Gòn các Ni cô Phước Hoa, Thiền, Hưng, đông đảo của quần chúng nhân trong đó có sinh viên Phật tử đã Nhơn,… tham gia sản xuất. Xưởng dân. Cùng với các sư, các ni tại các phát động “Chiến dịch Nhất Chi do Sư bà Như Huệ quản lý, hoạt chùa ở Sài Gòn; các sư, ni và Phật Mai” với nhiều hình thức hoạt động động đến năm 1969. Hàng sản tử chùa Từ Nghiêm đã sôi nổi tham phong phú, sôi động như: Biểu xuất ra giao cho cách mạng, không gia phong trào chống Mỹ - ngụy. tình, hội thảo vạch trần tội ác của lưu số xuất – nhận. Mỹ - ngụy với những đêm đốt lửa Tháng 6/1963, đỉnh cao phong căm thù, đêm không ngủ, đêm thơ. trào đấu tranh của Phật giáo được Sôi nổi nhất là phong trào “Mỗi đánh dấu bằng việc Hòa thượng phụ nữ là một chiến sĩ hòa bình” Thích Quảng Đức tự thiêu và đám được tổ chức rầm rộ không chỉ ở tang của Hòa thượng biến thành các trường, mà còn lan rộng sang cuộc biểu tình khổng lồ tại thành các nhà máy, bến tàu, khu lao phố. Trong sự kiện này, 50% ni của động, các chợ… nhằm tố cáo các chùa Từ Nghiêm tham gia bảo vệ hành động đàn áp dã man của Mỹ - cho Hòa thượng Thích Quảng Đức ngụy, đòi Mỹ cút về nước, đòi Thiệu tự thiêu và tham gia đưa đám tang. – Kỳ từ chức. Đặc biệt, sự kiện Phật tử Nhất DI TÍCH LỊCH SỬ 19 và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
TRẠI TẠM GIAM CHÍ HÒA Địa chỉ: Số 324 đường Hòa Hưng, Phường 13, Quận 10 Trại tạm giam Chí Hòa còn có tên gọi khác là: Khám Chí Hòa, Nhà lao Chí Hòa, nhà tù “Bát Quái”. Nơi đây đã từng giam giữ các chiến sĩ cộng sản, sinh viên, trí thức,... đấu tranh cho công cuộc giải phóng dân tộc qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Theo Địa chí Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Tỉnh (bí danh Năm Tỉnh) - bị kết án tử hình năm 1964; tập III – Nghệ thuật: “Khám Chí Hòa, Ngày ông Trình Văn Thành (Ba Trường - Thành Trình), bị kết trước Khám Chí Hòa do Nhật giúp Pháp xây án tử hình năm 1960; ông Trịnh Văn Trình (bí danh dựng năm 1943. Tòa nhà cao như một building nhiều Ngô Văn Năm, tên trong tù Năm Tình), bị kết án tử tầng, mặt ngoài tường bê tông vây kín, trên một mặt hình năm 1954; ông Trương Minh Y (bí danh Lê Trung bằng hình bát giác, mở ra sân trong chia ô theo từng Kiên, Năm Hội, Trương Thanh Danh), bị kết án tử hình khu vực phòng giam, với hành lang chạy quanh, song năm 1967; ông Trương Văn Cược, bị kết án tử hình sắt chắc chắn. Nhà tù có thể chứa từ 2.000 đến 7.000 năm 1950; ông Võ Giới bị kết án năm 1968; ông Võ tù nhân, sinh hoạt như một tòa chung cư vĩ đại. Tòa Văn Khoa bị kết án năm 1959; ông Võ Văn Siêng bị kết nhà không có giá trị về mặt thẩm mỹ nhưng cũng xin án năm 1963; ông Võ Văn Xưa (bí danh Ba Lứa – tức ghi lại đây để biết một loại hình kiến trúc hành chính Võ Thành Xưa) bị kết án năm 1961; ông Vũ Đình Triệu khác.” (Lượng) bị kết án năm 1950; ông Vũ Hương Long; ông Theo quyển “Khắc họa chân dung tử tù” – Giai đoạn Vũ Khắc Tâm (bí danh Hồng Vân) bị kết án năm 1962. năm 1858 đến năm 1975, Tập I: Một số chiến sĩ cộng Đa số các ông bị lưu đày đi Côn Đảo sau đó. Quyển sản bị kết án tử hình, bị giam giữ qua nhiều nhà tù,… “Đây các nhà tù Mỹ - Ngụy” – Trần Thanh Phương sưu trong đó có Khám Chí Hòa, như: Ông Trần Văn Đó (bí tầm, biên soạn, NXB Tổng hợp TPHCM, 1995 và quyển danh Ba Đó) - hoạt động thuộc vùng Bưng Sáu (Thủ “Những ngày tù ngục” – Hàn Song Thanh và Tổ Sử Đức); ông Trần Văn Ngữ (bí danh Hồng Vân) - tham gia Phụ nữ Nam bộ chủ biên, mô tả khám Chí Hòa và các cách mạng năm 1945 tại Vĩnh Long; ông Trần Văn Tiếu sự kiện tại đây: “… Mãi đến năm 1950, khám Chí Hòa (Bảy Tiếu) bị bắt và kết án tử hình năm 1951; Trần Văn xây hoàn tất. Bắt đầu từ đó, thực dân Pháp bỏ khám 20 DI TÍCH LỊCH SỬ và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
* Trại tạm giam Chí Hòa được Sở Văn hóa và Thể thao Thành phố tập hợp hồ sơ đưa vào danh mục kiểm kê di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh trên địa bàn Thành phố, giai đoạn 2021 – 2025. Liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi trước khi bị xử bắn Catina. Tất cả tù nhân ở Catina được chuyển sang Chí điện nối vào quả mìn đặt ở cầu Công Lý. Anh bị giam Hòa. … Lầu 1 có bốn phòng để giam chị em chính trị ở Nha Cảnh sát đô thành rồi chuyển ở phòng 12 lầu 3 phạm… Từ năm 1954 đến ngày Giải phóng Sài Gòn, khu B Khám Chí Hòa. Khám Chí Hòa đã chứng kiến nhiều cuộc đấu tranh của anh chị em tù nhân. Hầu hết những cuộc đấu Hiện nay, Trại tạm giam Chí Hòa do Công an Thành tranh đó do người tù chính trị làm nòng cốt…”. phố Hồ Chí Minh quản lý. Khám Chí Hòa là nơi đã từng giam cầm và xử tử anh (Nguồn: Sở VH và TT TP.HCM) Nguyễn Văn Trỗi năm 1964. Anh Trỗi rơi vào tay giặc đêm 9/5/1964, khi anh đang cùng đồng đội kéo dây DI TÍCH LỊCH SỬ 21 và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
Các đồng chí lãnh đạo thành phố, quận thực hiện nghi thức khánh thành Bia tưởng niệm cố Tổng Bí thư Trần Phú BIA TƯỞNG NIỆM CỐ TỔNG BÍ THƯ TRẦN PHÚ Bia tưởng niệm cố Tổng Bí thư dân mà không có cách nào cứu tham gia sáng lập Hội Phục Việt Trần Phú – Tổng bí thư đầu dân, ông chọn con đường tuẫn tiết (sau đổi là Hội Hưng Nam), lãnh tiên của Đảng Cộng sản Việt để chống lại lệnh đàn áp của bọn đạo phong trào làm đơn lấy chữ ký Nam được xây dựng trong khuôn Thực dân. đòi Thực dân Pháp trả tự do cho cụ viên Công viên Văn hóa Lê Thị Phan Bội Châu, tổ chức lễ truy điệu Riêng. Đây cũng chính là nơi Đảng, Truyền thống quê hương qua cụ Phan Chu Trinh, mở lớp dạy chữ Nhà nước và gia đình đã tìm được những câu chuyện kể của người quốc ngữ cho người lao động. hài cốt của đồng chí bị Thực dân cha về các anh hùng, nghĩa sĩ đã Pháp chôn vùi suốt gần 68 năm. làm rạng danh đất nước như: Mai Bước ngoặt trong cuộc đời làm Thúc Loan, Phan Đình Phùng, Cao cách mạng là việc đồng chí được Cố Tổng Bí thư Trần Phú, sinh Thắng… đặc biệt hình ảnh người cử sang Quảng Châu – Trung Quốc ngày 1/5/1904 tại thành An Thổ, cha tuẫn tiết ở nơi công đường đã liên lạc với Hội Việt Nam Cách mạng phủ Tuy An, tỉnh Phú Yên (nay làm sôi sục ý chí chiến đấu, lòng Thanh niên. Tháng 4/1930, Quốc thuộc xã An Dân, huyện Tuy An, căm thù giặc ở người thanh niên tế Cộng sản và lãnh tụ Nguyễn Ái tỉnh Phú Yên). Nguyên quán đồng Trần Phú. Quốc đã cử đồng chí về nước hoạt chí ở làng Tùng Sinh, nay thuộc xã động với cương vị là cán bộ chủ Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Năm 1922, đồng chí Trần Phú chốt của Đảng. Tĩnh. Xuất thân từ một gia đình nhà đỗ đầu kỳ thi Thành Chung. Tuy Nho yêu nước, hơn 4 tuổi đồng chí nhiên, đồng chí không ra làm quan “Luận cương chính trị” do đồng Trần Phú đã mồ côi cha, 6 tuổi mồ mà theo dạy học ở Trường tiểu chí Trần Phú dự thảo và được Hội côi mẹ. Tuổi thơ của đồng chí trải học Cao Xuân Dục tại Vinh và bắt nghị Ban Chấp hành Trung ương qua những năm tháng đau buồn đầu bước vào con đường làm cách tháng l0/1930 thông qua, là văn và cơ cực. mạng. kiện quan trọng của Đảng, đã vận dụng những nguyên lý của Chủ Thân sinh đồng chí Trần Phú - Trong những năm làm giáo viên nghĩa Mác - Lê nin về vấn đề dân tộc ông Trần Văn Phổ là một nhà Nho ở Vinh, đồng chí Trần Phú nổi tiếng và thuộc địa. Với công lao và đóng khí tiết. Làm quan vào thời buổi là một giáo viên dạy giỏi, yêu trò, góp to lớn đó đồng chí Trần Phú mất nước, ông cảm nhận sâu sắc đoàn kết các đồng nghiệp, khơi đã được Hội nghị Ban Chấp hành nỗi tủi nhục của thân phận nô lệ dậy trong thế hệ trẻ tinh thần yêu Trung ương tháng 10/1930 bầu làm trong chốn quan trường. Thương nước, yêu quê hương và lòng căm Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng. thù giặc sâu sắc. Tại Vinh, đồng chí 22 DI TÍCH LỊCH SỬ và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
Lễ khánh thành Bia tưởng niệm cố Tổng Bí thư Trần Phú Sau khi bị địch bắt vào ngày nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh “Hãy 18/4/1931, Thực dân Pháp đã dùng của đồng chí tại Công viên Văn hóa giữ vững mọi thủ đoạn từ mua chuộc đến tra Lê Thị Riêng. chí khí tấn dã man với hy vọng làm khuất chiến đấu phục ý chí chiến đấu của đồng chí. Năm 2005, công trình được Tuy sống trong nhà tù đế quốc với khánh thành với quy mô đầu tư ”CỐ TỔNG BÍ THƯ điều kiện hết sức nghiệt ngã, nhưng hơn 2 tỷ đồng, gồm bốn hạng mục TRẦN PHÚ đồng chí luôn luôn bình tĩnh, sáng chính: Đường dẫn, sân làm lễ, suốt truyền niềm tin thắng lợi của đường công viên và đài bia tưởng cách mạng đến các đồng chí cùng niệm. Trên đài bia, bằng chất liệu bị giam. Trước lúc hy sinh, đồng chí đá hoa cương nguyên khối, chân còn nhắc với các đồng chí của mình dung đồng chí Trần Phú được tạc “Hãy giữ vững chí khí chiến đấu” nổi trên khối phù điêu mang hình và đó đã trở thành vũ khí cho mỗi cờ Đảng, cùng câu nói nổi tiếng: người cách mạng Việt Nam. “Hãy giữ vững chí khí chiến đấu”. Ngày 4/1/1999, Đảng, Nhà nước Đồng chí Tổng Bí thư Trần Phú và gia đình đã tìm thấy phần mộ là biểu tượng sáng ngời về đạo của đồng chí Trần Phú tại Công đức cách mạng, tình đồng chí thủy viên Văn hóa Lê Thị Riêng và đã tổ chung. Công trình Bia tưởng niệm chức di dời hài cốt về an nghỉ tại là nơi để giáo dục truyền thống cho quê hương Đức Thọ, Hà Tĩnh. thế hệ trẻ, đón tiếp nhân dân khắp nơi đến thăm viếng, dâng hương Để tưởng nhớ công lao của vào các ngày lễ lớn, tưởng nhớ đồng chí, năm 2004, Đảng bộ - công ơn của đồng chí và các anh Chính quyền và nhân dân Quận 10 hùng liệt sĩ hy sinh cho sự nghiệp đã khởi công xây dựng bia tưởng giải phóng dân tộc, thống nhất đất niệm cố Tổng Bí thư Trần Phú nước. DI TÍCH LỊCH SỬ 23 và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
BIA TƯỞNG NIỆM LIỆT SĨ TRẦN VĂN ƠN Bia tưởng niệm liệt sĩ, Anh hùng lính bất ngờ tấn công vào đoàn cuộc biểu tình khổng lồ lên án chế Lực lượng vũ trang nhân dân biểu tình. Anh Trần Văn Ơn – một độ độc tài phát xít. Biển người đã Trần Văn Ơn, đặt trong khuôn trong những người lãnh đạo của đưa thi hài anh về nơi an nghỉ tại viên Ký túc xá Trường Đại học Bách học sinh, sinh viên đã động viên nghĩa trang Thánh Tây, nay là Ký Khoa – Đại học Quốc gia Thành mọi người giữ vững hàng ngũ, rồi túc xá Trường Đại học Bách Khoa phố Hồ Chí Minh (số 497 Hòa Hảo, xông xáo chống trả quyết liệt, cứu – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Phường 7, Quận 10). đồng đội bị đánh, bị bắt. Khi một Chí Minh. Để tưởng nhớ đến anh, nữ sinh bị cảnh sát bắt, anh lăn khi xây dựng Ký túc xá, nhà trường Liệt sĩ, Anh hùng Lực lượng vũ xả vào cứu, bị một tên lính Pháp đã cho dựng một bia tưởng niệm trang nhân dân Trần Văn Ơn sinh chĩa súng bắn vào mặt anh. Anh bị Trần Văn Ơn trong khuôn viên. Nội năm 1931 trong một gia đình nông thương nặng rồi ngã xuống. Hơn dung văn bia có dòng chữ: “Được dân nghèo ở Bến Tre. Năm 1940, 30 học sinh khác bị thương và 150 an táng lần đầu tiên ở đây”. sau khi học xong tiểu học ở thị xã em bị bắt. Do vết thương quá nặng, Mỹ Tho, Trần Văn Ơn được lên Sài anh đã trút hơi thở cuối cùng vào Hiện nay bia liệt sĩ Trần Văn Ơn Gòn theo học năm thứ nhất bậc lúc 3 giờ 25 phút tại nhà thương được Trường Đại học Bách Khoa cao đẳng tiểu học tại trường Pétrus Chợ Rẫy. chăm sóc chu đáo. Hàng năm trong Trương Vĩnh Ký. Năm học 1947 – các dịp lễ, Tết, nơi đây thường 1948, Trần Văn Ơn tham gia phong Ngày 12/1/1950, toàn Thành xuyên tiếp đón các đoàn đến thăm trào học sinh yêu nước tại trường phố bãi công, bãi thị. Hơn nửa triệu viếng, dâng hương. Đặc biệt nhân và gia nhập Hội học sinh, sinh viên người bao gồm nhiều tầng lớp ngày truyền thống học sinh, sinh Việt Nam – Nam bộ. Và cũng từ nhân dân đã tập trung về trường viên 9/1 hàng năm, tập thể cán bộ, đây, Trần Văn Ơn đã tích cực tham Pétrus Ký để tổ chức mặc niệm. Rồi giáo viên, sinh viên Trường Đại học gia phong trào đấu tranh chống sự kéo về Bệnh viện Chợ Rẫy với các Bách Khoa duy trì tổ chức lễ viếng cai trị của chính quyền bù nhìn Bảo bandrol, khẩu hiệu viết bằng máu bia, đốt đuốc truyền thống. Nơi Đại dưới sự bảo hộ của bọn Thực trên nền vải trắng: đây trở thành nơi nuôi dưỡng tình dân Pháp. cảm cách mạng, thắp sáng ngọn “Chết vì Tổ quốc, chết vẫn sống lửa nhiệt huyết của các thế hệ sinh Ngày 9/1/1950, hơn 2.000 học Sống kiếp Việt gian, ô nhục viên, học sinh Thành phố mang tên sinh Sài Gòn kéo đến “Nha học muôn đời”. Bác Hồ kính yêu. chính” và sau đó là Dinh Thủ hiến Đám tang anh đã trở thành một Nam phần của Trần Văn Hữu đưa yêu sách đòi thả các học sinh đang bị bắt giam giữ, đòi mở cửa các trường học… Trước khí thế đấu tranh mạnh mẽ của học sinh và được sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân, vào lúc 3 giờ chiều, Pháp đã huy động 500 cảnh sát và binh 24 DI TÍCH LỊCH SỬ và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
* LIỆT SĨ LÊ THỊ RIÊNG Gia đình nữ anh hùng Lê Thị Riêng Đồng chí Lê Thị Riêng, sinh năm 1925, tại làng Vĩnh Mỹ, huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. Chứng kiến cảnh áp bức bóc lột của bọn địa chủ cường hào, ngay từ khi còn nhỏ đồng chí đã sớm giác ngộ cách mạng. Năm 1945, khi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, đồng chí tham gia kháng chiến chống Thực dân Pháp thực hiện nguyện vọng giải phóng dân tộc. Năm 1946, đồng chí chuyển sang công tác tại tỉnh Phước Long. Tại đây, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1947, đồng chí được cử làm Đoàn trưởng Hội Phụ nữ cứu quốc tỉnh Rạch Giá và sau đó là Phó Hội trưởng Phụ nữ cứu quốc miền Đông Nam bộ. Năm 1948, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. BIA TƯỞNG NIỆM LIỆT SĨ, ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN LÊ THỊ RIÊNG & TRẦN VĂN KIỂU DI TÍCH LỊCH SỬ 25 và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
Lễ truy điệu liệt sĩ Lê Thị Riêng và liệt sĩ Trần Văn Kiểu Năm 1953, đồng chí kết hôn với cứu nước, đồng chí đã hoạt động chói về chủ nghĩa anh hùng cách Lê Trọng Tam – một cán bộ cách liên tục không biết mệt mỏi. Trong mạng. Đồng chí đã hiến dâng mạng cùng hoạt động với đồng những năm khó khăn, đồng chí trọn đời mình cho sự nghiệp giải chí. Sau năm 1954, đồng chí được luôn chứng tỏ là một cán bộ rất phóng dân tộc và giải phóng phụ phân công công tác tại Tổ Phụ vận mực trung kiên, xuất sắc của nữ. Những đức tính cần cù, giản dị, của Xứ ủy Nam bộ. Năm 1954, sau phong trào. Đồng chí đã đóng góp khiêm tốn và phẩm chất cao quý khi hiệp định Giơ-ne-vơ được ký nhiều công sức xây dựng cơ sở của đồng chí được mọi người kính kết, đồng chí tiếp tục tham gia các cách mạng, gầy dựng phong trào phục và học tập. Đồng chí được phong trào cách mạng chống chế phụ nữ ở miền Nam, được toàn Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân độ độc tài phát xít Mỹ - Diệm. Năm thể phụ nữ và nhân dân miền Nam tộc giải phóng Miền Nam truy tặng 1960, Mặt trận dân tộc giải phóng cảm mến tin yêu. Huy chương Thành Đồng hạng Miền Nam Việt Nam ra đời, Hội Nhì và Huân chương Quyết Thắng Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Trong một chuyến đi công tác hạng Nhất. Chủ tịch Nước Cộng Nam được thành lập, đồng chí hồi tháng 5/1967, đồng chí sa vào hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã được bầu làm Phó hội trưởng Hội tay bọn mật thám và bè lũ Mỹ - truy tặng Huân chương Độc lập Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Thiệu - Kỳ. Bọn mật vụ Mỹ, CIA và hạng Nhất và danh hiệu Anh hùng Nam và Ủy viên Trung ương Mặt công an ngụy đã dùng cực hình tra Lực lượng vũ trang nhân dân cho trận dân tộc giải phóng Miền Nam tấn đồng chí rất dã man. Chúng đồng chí vào ngày 10/4/2001. Việt Nam. Đồng chí còn là một cây đốt cháy tay đồng chí đến trơ viết xã luận sắc xảo của báo Phụ xương, đồng chí vẫn giữ vững khí Sau ngày giải phóng miền Nam, nữ Giải phóng. Năm 1965, đồng tiết của người chiến sĩ cách mạng, thống nhất đất nước năm 1975, chí được phân công phụ trách đã biểu hiện khí phách hiên ngang Hội Liên hiêp Phụ nữ Việt Nam đã Trưởng ban Phụ vận Khu ủy Sài bất khuất. Tinh thần dũng cảm đổi tên Trường Phụ nữ ở Cát Lái, Gòn - Gia Định. ngoan cường ấy đã làm cho bè lũ Thành phố Thủ Đức, Thành phố Mỹ và tay sai vô cùng khiếp đảm. Hồ Chí Minh thành Trường Lê Thị Đồng chí Lê Thị Riêng là một Riêng. Ngoài Quận 10 Thành phố người phụ nữ giàu lòng yêu nước, Đêm mùng 2 Tết Mậu Thân Hồ Chí Minh; tại Phường 8, thị xã liên tục đấu tranh cho sự nghiệp 1968, bọn địch đã hèn hạ ám hại Bạc Liêu còn có một công viên văn giải phóng dân tộc, giải phóng phụ đồng chí cùng một số người yêu hóa mang tên liệt sĩ, Anh hùng Lực nữ, là một cán bộ cách mạng tài nước khác trên đường Hồng Bàng lượng vũ trang nhân dân Lê Thị năng và đức độ. (nay là đường Hùng Vương, Quận 5). Riêng. Trong suốt 2 cuộc kháng chiến Sự hy sinh anh hùng của đồng chí đã nêu một tấm gương sáng 26 DI TÍCH LỊCH SỬ và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
* LIỆT SĨ TRẦN VĂN KIỂU Đầu năm 1949, đồng chí được thành lập Nghiệp đoàn và nghỉ bầu vào Ban Thường vụ Liên đoàn ngày Chủ nhật. Đồng chí Trần Văn Kiểu, sinh Cao su Nam bộ. Đến cuối năm năm 1918, quê ở xã Sơn theo chủ trương của Xứ ủy Nam Năm 1964 để tăng cường lãnh Tĩnh, huyện Hương Sơn, kỳ, đồng chí được cử sang nước đạo các phong trào quần chúng ở tỉnh Hà Tĩnh. Năm 20 tuổi, đồng chí bạn, đảm nhận chức vụ Bí thư đô thị, Trung ương Cục miền Nam vào Nam lập nghiệp. Đồng chí xin Đảng đoàn Cao su Cao Miên; nơi điều động đồng chí về làm Ủy viên vào làm việc tại công ty SIPH (An hầu hết công nhân là người Việt. Ban chấp hành Khu ủy Sài Gòn – Lộc) ở Suối Tre. Sau đó, chuyển về Gia Định kiêm Phó ban Công vận Sở cao su BLANC ở Biên Hòa và lập Cuối năm 1950, đồng chí được khu ủy. Đồng chí thường xuyên gia đình với Hà Thị Châu – người lệnh trở về nước và được Liên hiệp có mặt ở nội thành, gầy dựng, tổ cùng làng do gia đình mai mối. Công đoàn Nam bộ giao nhiệm chức phong trào. Từ đây, nhiều xí vụ làm Trưởng ban Cán sự II (Cao nghiệp trong nội thành lần lượt có Năm 1944, phong trào cách su miền Đông Nam bộ). Sau Hiệp tổ chức đảng mạng ở Nam bộ có những bước định Giơ-ne-vơ, cấp trên quyết chuyển biến lớn, đồng chí trở định đồng chí Chín K (bí danh mới Tháng 12/1966, đồng chí bị thành Đảng viên Đảng Cộng sản và của Trần Văn Kiểu) ở lại miền Nam. địch bắt. Chúng đưa đồng chí bị cuốn hút vào hoạt động nửa bí Gia đình ly tán, chồng hoạt động qua nhiều nơi giam cầm và dùng mật, nửa công khai ngày càng sôi bí mật, vợ đồng chí ở lại Sài Gòn mọi cực hình để tra tấn đồng chí, nổi. Cách mạng tháng 8 bùng nổ, làm liên lạc cho Khu ủy, con trai nhưng vẫn không khai thác được đồng chí là thành viên Ủy ban khởi đầu tám tuổi Trần Quốc Anh được gì ở đồng chí. nghĩa huyện Xuân Lộc. gởi ra Bắc. Đêm mùng 2 Tết Mậu Thân địch Tháng 10/1946, đồng chí là Năm 1954, Chín K được cử làm đã thủ tiêu đồng chí tại bùng binh Phó Ban quản trị kiêm Bí thư chi Phó ban Công vận Xứ ủy, đặt trách Tổng Đốc Phương. bộ Nghiệp đoàn Cao su tỉnh Biên ngành Cao su. Cuối năm này, đồng Hòa. Năm 1947, Nghiệp đoàn đổi chí tổ chức cuộc đình công tại sở Liệt sĩ Trần Văn Kiểu được truy tên thành Liên đoàn Cao su tỉnh An Lộc thắng lợi. Chủ đồng ý tăng tặng danh hiệu Anh hùng Lực Biên Hòa, đồng chí làm Phó Thư ký lương cho công nhân từ 16 đến lượng vũ trang nhân dân vào ngày Ban Chấp hành. 24 đồng/ngày, giảm việc làm, cho 20/7/2001. DI TÍCH LỊCH SỬ 27 và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
Đồng chí Phạm Thị Sứ - Bí thư Quận ủy (Giai đoạn 1975 - 1986) và thiếu nhi Quận 10 tại Bia truyền thống Vườn Lài BIA TRUYỀN THỐNG VƯỜN LÀI Bia tưởng niệm Vườn Lài nằm ở chuẩn bị cho bộ đội chủ lực vào góc đường Ngô Gia Tự – Vĩnh đánh Mỹ. Viễn. Trong chiến dịch Mậu Thân Ngã Bảy – Vườn Lài là nơi diễn 1968, để chuẩn bị cho cuộc tổng ra hàng loạt cuộc đấu tranh chính tiến công và nổi dậy rất quyết liệt trị suốt hai thời kỳ kháng chiến của quân dân Quận 10, thông qua chống Pháp, chống Mỹ. Một trong công tác binh vận trong lòng địch, những nơi đối đầu vũ trang quyết lực lượng tại chỗ đã chuẩn bị hậu liệt bậc nhất trên đường phố Sài cần, vũ khí, đạn dược tại hàng chục Gòn trong trận Mậu Thân. Một cơ sở cách mạng, cất giấu dưới các trong những địa danh tiêu biểu của căn hầm bí mật trong khu dân cư nhân dân Thành phố chống ngoại lao động suốt từ tháng Chạp để xâm, chống độc tài, chống áp bức bất công. 28 DI TÍCH LỊCH SỬ và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
Các đồng chí cựu chiến binh Tiểu đoàn 6 Bình Tân gặp gỡ lãnh đạo quận, Tại đây, lúc 2 giờ 4 phút sáng ban ngành đoàn thể và đoàn viên thanh niên Quận 10 nhân dịp kỷ niệm Mùng 2 Tết Mậu Thân (nhằm ngày 55 năm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân (1968 - 2023) 31/1/1968), trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân toàn miền Nam, nhân dân khu Vườn Lài – Ngã Bảy cùng với lực lượng vũ trang Tiểu đoàn 6 – Phân khu 2 Khu Sài Gòn – Gia Định đã anh dũng đẩy lùi nhiều đợt tấn công của giặc Mỹ và tay sai. Diệt 2 chiến xa, hơn một trăm quân Mỹ và tay sai. Sau cuộc tiến công Mậu Thân, Mỹ buộc phải ngồi vào bàn đàm phán. Cuộc đấu tranh tiếp tục diễn ra quyết liệt trên cả 3 mặt trận: Chính trị, quân sự, ngoại giao. Ngày 27/1/1973, Hiệp định Paris được ký kết, Mỹ phải rút hoàn toàn quân viễn chinh về nước, mở đầu thời kỳ sụp đổ của chế độ Sài Gòn. Ngày 30/4/1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ toàn thắng. Quân dân Quận 10 đã góp phần xứng đáng tô thắm thêm truyền thống đấu tranh cách mạng của thành phố ta và của cả dân tộc. Nhân kỷ niệm 33 năm Ngày Nam bộ kháng chiến (23/9/1945 – 23/9/1978), Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Quận 10 đã tiến hành xây dựng bia truyền thống Vườn Lài để kỷ niệm cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân dân ta. Qua đó, tưởng nhớ những chiến công và công lao của các anh hùng liệt sĩ, đồng bào ta đã anh dũng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Bia tưởng niệm được xây dựng trong khuôn viên hơn 100m2, do điêu khắc gia Nguyễn Xuân Tiên và họa sĩ Huỳnh Phương Đông phụ trách thực hiện. Năm 1998, Quận 10 tiến hành sửa chữa lại Bia Vườn Lài nhân dịp kỷ niệm 40 năm Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân với bức phù điêu tái hiện khí thế Mậu Thân tại quận. Nhân kỷ niệm 30 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2005), Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Quận 10 đã tổ chức tôn tạo, nâng cấp lại toàn bộ bức phù điêu và cải tạo toàn cảnh khuôn viên bia tưởng niệm Vườn Lài. Ngày nay, vào những ngày lễ, Tết, nơi đây thường diễn ra các hoạt động dâng hương, tưởng niệm tưởng nhớ công ơn những anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. DI TÍCH LỊCH SỬ 29 và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
NHÀ BIA GHI DANH LIỆT SĨ QUẬN 10 Nhà bia ghi danh liệt sĩ Quận trong thời kỳ kháng chiến chống Nhà bia ghi danh Liệt sĩ quận nhằm 10 tọa lạc trong khuôn viên thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, cũng thể hiện lòng tri ân đến các anh Công viên Văn hóa Lê Thị như trong sự nghiệp xây dựng và hùng liệt sĩ, đã hy sinh xương máu Riêng (Số 875 Cách mạng Tháng bảo vệ Tổ quốc. vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng Tám, Phường 15, Quận 10). dân tộc – thống nhất đất nước. Đây Nhân kỷ niệm 65 năm Ngày cũng là công trình chào mừng chào Nhà bia ghi danh Liệt sĩ Quận 10 Cách mạng Tháng Tám thành mừng Đại hội toàn quốc lần thứ XI có diện tích 450m2, được xây dựng công (19/8/1945 – 19/8/2010) và của Đảng và Đại hội Đảng các cấp với kiến trúc dân tộc, có kết cấu bê Quốc khánh Nước Cộng hòa Xã hội (nhiệm kỳ 2010 – 2015) của Đảng tông cốt thép, mái ngói, với nguồn Chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 – bộ Quận 10. kinh phí đầu tư trên 4 tỷ đồng. Nơi 2/9/2010), Đảng bộ - Chính quyền đây ghi danh 1.590 liệt sĩ là công và nhân dân Quận 10 long trọng dân Quận 10 đã hy sinh anh dũng tổ chức lễ khánh thành công trình 30 DI TÍCH LỊCH SỬ và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
Tượng đài HOÀNG ĐẾ QUANG TRUNG Tượng đài Hoàng đế Quang Trung, tọa lạc trước Vương và là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Tây Sơn, tại vị khu chợ Nguyễn Tri Phương, khu vực gần trục từ năm 1788 đến năm 1792. Ông là một trong những tiếp nối giữa đường Bà Hạt – Nguyễn Lâm, nhà lãnh đạo chính trị tài giỏi, quân sự xuất sắc trong Phường 6. Tượng đài Hoàng đế Quang Trung hay còn lịch sử chống giặc ngoại xâm, chưa lần nào thất bại. gọi là Kỳ đài Quang Trung được chính quyền chế độ cũ dựng lên từ năm 1966. Năm 1995, tượng đài Hoàng đế Quang Trung được nhân dân Phường 6 đóng góp kinh phí trùng tu làm Hoàng đế Quang Trung – Nguyễn Huệ, được mệnh tăng thêm vẻ uy nghi cho tượng. Tượng đài hiện diện danh là anh hùng áo vải, người có nhiều công lao đối như một lời nhắc nhở về công ơn những bậc tiền nhân với dân tộc Việt Nam. Ông sinh năm 1753, mất vào trong công cuộc đấu tranh chống quân xâm lược, bảo năm 1792. Ông còn có danh xưng khác là Bắc Bình vệ toàn vẹn lãnh thổ. DI TÍCH LỊCH SỬ 31 và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
TƯỢNG ĐÀI TRUYỀN THỐNG CÔNG NHÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Tượng đài truyền thống công Cuộc biểu tình 1968. Là nơi tập kết của đoàn cán nhân Thành phố nằm tại ngày 1/5/1966 bộ Công vận từ chiến khu trở về trung tâm vòng xoay Ngã Bảy, của công nhân để chỉ đạo phong trào và phối hợp Quận 10. Tổng thể công trình là nhóm họp trước với cán bộ trong vùng thực hiện kế khối tượng đài cách điệu bằng đá Việt Nam Quốc Tự hoạch khởi nghĩa 30/4/1975. ghép được đặt trên bệ hình vuông. trên đường Trần Quốc Toản, Công trình do nhà điêu khắc Nhân kỷ niệm 60 năm Ngày nay là đường Nguyễn Hải và Kiến trúc sư Vũ Đại thành lập Công đoàn Việt Nam Ba Tháng Hai. Hải thiết kế, được khánh thành (28/7/1929 – 28/7/1989), được sự nhân kỷ niệm 100 năm Ngày nhất trí và hỗ trợ của Thành ủy – nhân lao động tuần hành ra tới sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại Ủy ban nhân dân Thành phố, Liên Sứ quán Mỹ đường Hàm Nghi, với (19/5/1890 – 19/5/1990). đoàn Lao động Thành phố Hồ Chí khẩu hiệu: Chấm dứt chiến tranh, Minh quyết định xây dựng tượng người Mỹ về đi (Stop war – US go đài truyền thống đấu tranh của home). Là một đòn chính trị nặng công nhân lao động thành phố, nề giáng vào Mỹ ngụy ngay lúc Mỹ với sự đóng góp công sức của công mới đưa quân vào mở rộng chiến nhân toàn thành phố. tranh xâm lược Việt Nam. Đây cũng là nơi che dấu lực lượng, vũ khí, đạn Gắn liền với tượng đài là căn nhà dược để đánh địch trong cuộc tổng trụ sở Tổng Liên đoàn Lao động tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân thời kháng chiến chống Mỹ trên đường Lý Thái Tổ. Khu vực trên là nơi tập hợp và xuất phát nhiều cuộc đấu tranh chống Mỹ ngụy của quân dân ta. Xuất phát tại đây, ngày 1/5/1966 cuộc biểu tình của bốn vạn công 32 DI TÍCH LỊCH SỬ và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
GIỚI THIỆU 3 SỰ KIỆN LỊCH SỬ ĐƯỢC SỬ DỤNG ĐẶT TÊN ĐƯỜNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 10 (Nguồn: Sở Văn hóa và Thể thao Thành phố Hồ Chí Minh) DI TÍCH LỊCH SỬ 33 và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
1. BA THÁNG HAI Đường này vào thời Pháp chỉ Đường Ba Tháng Hai Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng có đoạn từ Lê Hồng Phong sản Liên đoàn thành Đảng Cộng đến Lê Đại Hành và mang đã phân liệt, lần lượt tự tách lập sản Việt Nam. Ngày 3 Tháng 2 trở tên Route de Ceinture. Ngày ra 3 tổ chức cộng sản riêng. Dù có thành ngày ra đời của Đảng Cộng 23/1/1943, đường được đổi tên cùng mục tiêu, nhưng các tổ chức sản Việt Nam. là Pavie. Sau năm 1954 các đoạn hoạt động riêng và có ý tranh giành còn lại được làm thêm và ngày ảnh hưởng của nhau. Trước tình 19/10/1955 đường được đặt tên là hình đó, ngày 3/2/1930, Nguyễn Ái Trần Quốc Toản. Ngày 14/8/1975 Quốc đứng ra triệu tập cuộc họp được đổi là đường Ba Tháng Hai. tại Quảng Châu, thống nhất Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Ngày 3/2/1930 là một sự kiện lịch sử. Trước sự thất bại liên tiếp của các phong trào chống Pháp theo đường lối dân chủ tư sản, Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước. Cách mạng Tháng 10 Nga thành công, Nguyễn Ái Quốc và một số chiến sĩ yêu nước hướng đến nước Nga, quyết định lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin làm kim chỉ nam cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc chọn một số thành viên ưu tú lập ra Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, đưa người về nước hoạt động, tuyên truyền và xây dựng hội. Năm 1929, do nhìn nhận về thời cơ thành lập Đảng Cộng sản khác nhau, nên các thành viên trong hội 2. CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 31/10/1951, đoạn từ Điện Biên Phủ Đường Cách Mạng Tháng Tám đến ngang Hòa Hưng lại được đổi Đường này thuộc loại đường là đường Chanson. Đoạn còn lại xưa nhất ở Sài Gòn, có từ vẫn mang tên đường Verdun. Ngày thời chúa Nguyễn mới mở 22/3/1955, Chính quyền Ngô Đình mang vùng này, gọi là đường Sứ, Diệm nhập cả bốn đường trên đây tức là đường của các sứ thần Chân lại làm một và đặt tên đường Lê Lạp đi qua để sang giao hảo với Việt Văn Duyệt. Còn đường Thuộc Địa Nam. Năm 1865, người Pháp thành số 1 thì đổi là Quốc lộ số 1, nhưng lập Thành phố Sài Gòn, chỉnh trang đoạn từ ranh giới tỉnh Gia Định lại đường này, đặt tên là đường đến Ngã tư Bảy Hiền, được đặt tên Thuận Kiều đoạn từ Ngã sáu đến đường Phạm Hồng Thái. ranh giới tỉnh Gia Định. Đoạn còn lại gọi là đường Thuộc Địa số 1. Từ Ngày 14/8/1975, chính phủ cách năm 1916, để kỷ niệm trận Verdun, mạng lâm thời nhập đường Lê Văn quân Pháp thắng quân Đức, Tòa Duyệt, đường Phạm Hồng Thái và đốc lý Sài Gòn đổi tên đường Quốc lộ số 1 đến Bà Quẹo làm một Thuận Kiều thành đường Verdun. đường và đặt tên là đường Cách Ngày 25/4/1947, Chính quyền Mạng Tháng Tám. Tuy nhiên, chiều Nam Kỳ đặt tên đường Nguyễn dài của đường Cách Mạng Tháng Văn Thinh cho đoạn từ Ngã sáu Tám đã được dân chúng cũng như đến đường Nguyễn Thị Minh Khai, chính quyền các phường tự ý kéo và đường Thái Lập Thành cho dài ra tận cầu Tham Lương, giáp đoạn từ Nguyễn Thị Minh Khai ranh huyện Hóc Môn. Nay đường đến đường Điện Biên Phủ. Ngày cũ này chia thành hai đường, đoạn từ Ngã sáu đến Ngã tư Bảy Hiền là Cách Mạng Tháng Tám, từ Ngã tư 34 DI TÍCH LỊCH SỬ và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
3. ĐIỆN BIÊN PHỦ Điện Biên Phủ, địa danh, nơi Đường Điện Biên Phủ xảy ra chiến thắng quân sự quan trọng trong cuộc chiến điểm vào ngày 7/5/1954, đánh bại tranh chống Pháp 1945 – 1954. 16.000 quân Pháp và tay sai, bắt Trận đánh diễn ra tại lòng chảo sống tướng chỉ huy De Castries. Mường Thanh, châu Điện Biên, Chiến thắng Điện Biên Phủ làm tỉnh Lai Châu (nay thuộc Thành chấn động dư luận thế giới, đập phố Điện Biên, tỉnh Điện Biên) tan tham vọng của Thực dân Pháp giữa Quân đội nhân dân Việt Nam muốn kéo dài ách thống trị lên đất và Quân đội Liên hiệp Pháp. Lòng nước Việt Nam. chảo Mường Thanh cách biên giới Lào chừng 20 km, có sông Nậm Rốn chảy qua, nằm ở ngã tư đường đi lên tỉnh lỵ Lai Châu, qua Lào, đi xuống sông Mã, đi sang Sơn La, về Hà Nội. Mùa đông năm 1953, trước sự lớn mạnh của lực lượng kháng chiến Việt Nam và trước nguy cơ bại trận, Thực dân Pháp đã cho quân nhảy dù xuống đây, lập cứ điểm để làm bàn đạp đánh tỏa ra vùng Tây Bắc, khống chế lực lượng kháng chiến Lào. Quân Pháp đã tự chui vào các rọ khổng lồ. Quân đội nhân dân Việt Nam đã mở cuộc bao vây từ ngày 13/3/1954, lần lần siết chặt vòng vây và mở cuộc tổng công kích chiếm lĩnh toàn cứ Bảy Hiền đến Ngã tư An Sương là đường Trường Chinh. Cách mạng tháng Tám - phong trào nổi dậy của nhân dân cả nước. Mùa thu 1945, chiến tranh thế giới sắp kết thúc, quân đội Nhật đại bại trên các mặt trận và nước Nhật sắp phải đầu hàng. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng Cộng sản triệu tập Đại hội Tân Trào, quyết định phát động nhân dân nổi dậy tổng khởi nghĩa khi thời cơ đến. Ngày 15/8/1945, nước Nhật đầu hàng Đồng Minh. Lệnh tổng khởi nghĩa được Trung ương ban ra. Dân chúng Hà Nội nổi dậy giành chính quyền thành công ngày 19/8/1945. Đồng thời những ngày tiếp theo, dân chúng các tỉnh lần lượt giành chính quyền. Tại Sài Gòn, ngày 25/8/1945 chính quyền về tay nhân dân. Cuộc Cách mạng tháng Tám thành công trên cả nước, chính quyền cách mạng được thành lập và giữ vững cho đến ngày nay. DI TÍCH LỊCH SỬ 35 và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
GIỚI THIỆU 28 DANH NHÂN, NHÂN VẬT LỊCH SỬ ĐƯỢC SỬ DỤNG ĐẶT TÊN ĐƯỜNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 10 (Nguồn: Sở Văn hóa và Thể thao Thành phố Hồ Chí Minh) 36 DI TÍCH LỊCH SỬ và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
1. CAO THẮNG Kiểu đem 60 người đến tham gia ngàn người. Năm 1892, ông dùng cuộc khởi nghĩa Hương Khê do mưu bắt sống được Tuần phủ tay Đường Cao Thắng ở Quận Phan Đình Phùng (người được vua sai Pháp là Đinh Nho Quang làm 3, Quận 10 dưới thời Pháp Hàm Nghi giao trọng trách tổ chức chấn động dư luận Hà Tĩnh. Cuối mang số 20. Từ ngày phong trào kháng Pháp ở Hà Tĩnh), năm 1893, ông chỉ huy một cánh 18/4/1939, đường được đặt tên là làm thủ lĩnh. Ban đầu, Cao Thắng quân cảm tử tiến về đánh thành Audouilt, ngày 22/3/1955 được đổi được phong làm Quản cơ. Đến đầu Vinh. Trong trận đánh vào đồn Nu thành tên Cao Thắng cho đến nay. năm 1887, khi Phan Đình Phùng (Thanh Xuân, Thanh Chương, Nghệ ra Bắc để liên lạc với các lực lượng An), Cao Thắng bị trúng đạn và tử Cao Thắng (1864 – 1893) là kháng Pháp ở đấy, Cao Thắng được thương, lúc đó ông mới 29 tuổi. chiến sĩ phong trào Cần Vương, giao quyền chỉ huy nghĩa quân. Thi hài ông được đưa về chôn cất đóng góp rất nhiều công lao cho Ông đã cùng với Cao Nữu, Cao tại Ngàn Trươi (núi Vụ Quang). Tại cuộc kháng chiến chống Pháp. Ông Đạt,… tổ chức lại lực lượng, luyện làng Khê Thượng, huyện Hương quê làng Yên Đức, huyện Hương quân, xây dựng hệ thống đồn lũy, Khê, có đền thờ ông. Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Ông được Phan rèn đúc vũ khí và tấn công địch Đình Thuật, anh ruột Phan Đình rất dũng cảm. Tại căn cứ Thượng Phùng nuôi từ nhỏ. Ông có tướng Bồng – Hạ Bồng (xã Đức Hồng, Đức ngũ đoản, dáng thấp bé, thông Lĩnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh) minh, nhanh nhẹn và có sở trường ông đã mở xưởng đúc vũ khí theo về võ nghệ. Năm 1885, vua Hàm kiểu Tây Âu. Nhờ có vũ khí mới chế Nghi truyền chiếu Cần Vương, ông tạo, nghĩa quân thu được nhiều chiêu mộ lực lượng, cùng với em thắng lợi, quân số tăng lên tới hàng ruột là Cao Nữu, bạn là Nguyễn 2. ĐÀO DUY TỪ dự thi. Năm 1625, ông quyết định thành công với chúa Trịnh ở Đàng vào Đàng Trong lập nghiệp. Khi Ngoài. Năm 1630, ông chủ xướng Đường Đào Duy Từ ở Quận 10 mới vào Nam, do gặp nhiều khó việc thiết kế và chỉ đạo xây dựng vào thời Pháp mang tên là khăn trong cuộc sống, ông phải hai công trình phòng thủ quan Filaos, nhưng chỉ có đoạn từ ẩn thân đi ở chăn trâu cho nhà trọng là Lũy Trường Dục ở huyện Ngô Quyền đến Lê Đại Hành. Năm phú hộ Chúc Trịnh Long ở xã Bồ Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình và Lũy 1955, đoạn từ Ngô Quyền đến Đề (nay thuộc thị trấn Bồng Sơn, Thầy từ Nhật Lệ đến núi Đầu Mâu Nguyễn Tri Phương được làm tiếp huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định). (Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình). Đây và đổi tên là đường Đào Duy Từ. Vị phú hộ này là người đam mê là chiến lũy quan trọng giúp chúa Cũng trong thời gian này đoạn từ văn học, đã phát hiện ra tài học Nguyễn có thể phòng thủ hiệu quả Lê Đại Hành đến Lý Thường Kiệt bị của Đào Duy Từ. Chính ông này trước nguy cơ bị chúa Trịnh tiến dân chiếm làm nhà, trở thành con đã tiến cử Đào Duy Từ cho quan công. Đào Duy Từ còn là người hẻm. Đường Đào Duy Từ chỉ còn Khám Lý Trần Đức Hòa (còn gọi là Việt đầu tiên làm thơ lục bát và là chiều dài như trên. Cống Quận Công) người cùng xã ông tổ của nghệ thuật hát tuồng, và cũng là anh em kết nghĩa với nổi tiếng với hai ngâm khúc Ngọa Đào Duy Từ (1572 - 1634) hiệu Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. Vì Long cương vãn và Tư Dung vãn. Lộc Khê, quê làng Hoa Trai, huyện mến tài của Đào Duy Từ, Trần Đức Ông đồng thời là tác giả bộ sách Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hòa đã gả con gái cho ông, đồng quân sự đặc biệt Hổ trướng khu cơ, Hóa. Ông là nhà quân sự, nhà văn thời tiến cử Đào Duy Từ với chúa được xem là một trong hai bộ sách hóa, danh thần thời chúa Nguyễn Nguyễn. Sau cuộc gặp gỡ với Đào về nghệ thuật quân sự của người Phúc Nguyên, người có công giúp Duy Từ, chúa Nguyễn đã phong Việt Nam. Ông mất năm 1634, thọ chúa Nguyễn giữ vững cơ nghiệp ở cho ông làm Nội tán, xem như 62 tuổi. Sau khi ông mất, chúa Đàng Trong. người tâm phúc. Do được trọng Nguyễn phong tặng ông hàm Tán dụng, ông đã hết lòng tận tụy giúp trị Dực vận công thần, Kim tử Vinh Vốn là người tinh thông sử sách, chúa Nguyễn về tổ chức quân sự lộc đại phu, Đại lý tự khanh, tước lý số và binh pháp, nhưng vì xuất chính trị, văn hóa và đã đương đầu Lộc Khê hầu. Đến triều Minh Mạng, thân từ gia đình kép hát (xướng Đào Duy Từ được truy phong tước ca vô loài), nên ông không được Hoằng Quốc Công. Năm 1932, vua Bảo Đại đã ban sắc tứ phong cho Đào Duy Từ là Thành Hoàng đình Lạc Giao tại Buôn Ma Thuột. Đây là đình làng đầu tiên của người Kinh xây dựng khi lên cao nguyên lập nghiệp. Đình được xây dựng lần đầu vào năm 1923. DI TÍCH LỊCH SỬ 37 và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
3. DƯƠNG QUANG TRUNG Dương Quang Trung (1928 – Minh (nay là Đại học Y khoa Phạm chương Kháng chiến chống Pháp 2013) là Anh hùng Lao động, Ngọc Thạch). Năm 2004, ông được hạng Nhì, Huân chương Kháng Thầy thuốc Nhân dân, Viện bầu làm Chủ tịch Hội Y học Thành chiến chống Mỹ hạng Nhất, Huân sĩ Viện Hàn lâm phẫu thuật Pháp, phố Hồ Chí Minh; sau đó, được bổ chương Lao động hạng Nhất, Huy Tiến sĩ Y khoa. Sinh ngày 3/9/1928, nhiệm làm Phó Chủ tịch Tổng Hội chương Vì sức khỏe nhân dân, Huy quê quán An Xuyên – Cà Mau. Y Dược học Việt Nam – Đại diện hiệu 60 năm tuổi Đảng, danh hiệu lãnh đạo Tổng Hội tại khu vực phía Anh hùng lao động (2003), Thầy Thuở nhỏ, ông học trung học Nam. Năm 2007, ông là Chủ tịch thuốc Nhân dân (1995) và nhiều tại Sài Gòn. Năm 1948, ông sang danh dự Hội Bảo vệ trẻ em. phần thưởng cao quý khác. Pháp du học và tốt nghiệp Tiến sĩ y khoa tại Đại học Y khoa Bordeaux Với những công lao to lớn Ông mất năm 2013 tại Thành vào năm 1958. Năm 1960, ông về của ông cho sự nghiệp y tế nước phố Hồ Chí Minh. nước làm Phó Chủ nhiệm khoa nhà, ông đã được trao tặng Huân Phẫu thuật phổi Viện chống lao Trung ương – Hà Nội. Năm 1964, ông tình nguyện đi vào chiến trường B2 Nam bộ. Từ năm 1965 đến năm 1975, ông là Ủy viên Ban Bảo vệ sức khỏe của Thành ủy Sài Gòn – Gia Định, Ủy viên Ban Trí vận Mặt trận Khu Sài Gòn – Gia Định. Từ tháng 3/1976 đến tháng 3/1981, ông là Phó Giám đốc Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh. Từ năm 1981 đến năm 1987, ông là Giám đốc Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh. Từ năm 1989 đến năm 2002, ông là Giám đốc Trung tâm Đào tạo Bồi dưỡng Cán bộ y tế Thành phố Hồ Chí 4. HỒ BÁ KIỆN Trong tù, ông lãnh đạo tù nhân và cùng đồng đội bị quân Pháp đuổi vận động binh lính phá khám vượt theo bao vây, ông cùng các đồng Đường này mới mở từ năm ngục, chạy vào rừng để sang Thái đội chiến đấu, nhưng thế yếu, ông 1995. Ngày 13/7/1999, Ủy Lan (17/7/1915). Giữa đường, ông hy sinh, hưởng dương 43 tuổi. ban nhân dân Thành phố đặt tên đường Hồ Bá Kiện. Ngã ba Hồ Bá Kiện - Tô Hiến Thành Hồ Bá Kiện (1862 – 1905) xuất thân trong một gia đình có truyền thống yêu nước, là con trưởng của Hồ Bá Ôn và là thân phụ của nhà cách mạng Hồ Tùng Mậu, quê làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Hồ Bá Kiện đỗ Cử nhân. Thân phụ ông là Hồ Bá Ôn, làm Án sát tỉnh Nam Định và đã hy sinh trong trận chiến giữ thành Nam Định khi quân Pháp tấn công vào năm 1883, được truy tặng hàm Quang Lộc Tư Khanh, thờ ở đền Trung Nghĩa. Sau khi cha hy sinh, ông tham gia vào các phong trào chống Thực dân Pháp. Ông đi nhiều nơi, vận động cho phong trào thanh niên xuất dương của Phan Bội Châu. Năm 1907, ông bị bắt trong khi đang hoạt động ở Sơn Tây, rồi bị đày đi Lao Bảo. 38 DI TÍCH LỊCH SỬ và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
5. HỒ THỊ KỶ Đường này trước là đường hẻm nhỏ, năm 1975 được mở rộng và mang tên Hồ Thị Kỷ. Hồ Thị Kỷ (1949 – 1970) là liệt sĩ, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, quê ấp Cây Khô, xã Tân Lợi (nay là xã Hồ Thị Kỷ, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau). Hồ Thị Kỷ sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, sớm tham gia cách mạng từ nhỏ, làm giao liên ngay từ năm 10 tuổi. Năm 1961, chị được kết nạp vào Đội Thiếu niên Tiền Phong, sau đó vào Đoàn Thanh niên (1968), rồi vào Đảng Cộng sản Việt Nam (1969). Chị thường xuyên tổ chức các trận đánh biệt động ở nội thị Cà Mau nhằm phá hủy kho tàng vũ khí, xe của địch. Ngày 3/4/1970, chị hy sinh trong một trận đánh vào Ty Cảnh sát. Chị trở thành biểu tượng của tuổi trẻ anh hùng trên quê hương cách mạng Cà Mau. Với chiến công anh dũng đó, chị được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân vào năm 1972. 6. HOÀNG DƯ KHƯƠNG Sài Gòn - Gia Định và Chính ủy Bộ bạo trong nhà tù, sức khỏe bị suy Tư lệnh Khu 9. Năm 1954, ông là kiệt, ông mất năm 1983. Bộ Chính Đường này mới mở từ năm Phó Bí thư Phân Liên khu ủy miền trị, Trung ương Đảng đã quyết định 1995. Ngày 13/7/1999, Ủy Đông Nam bộ. Năm 1957, do cơ tặng thưởng Huân chương Độc lập ban nhân dân Thành phố sở nội thành bị lộ, ông bị địch bắt hạng Nhất, Huân chương Hồ Chí đặt tên đường Hoàng Dư Khương. và đày đi Côn Đảo. Sau Hiệp định Minh để ghi nhận quá trình cống Paris (1973), ông được trao trả tự hiến và công lao đóng góp cho sự Hoàng Dư Khương (1911 – do. Do hậu quả của sự tra tấn tàn nghiệp cách mạng của ông. 1983) tên thật là Hoàng Xang, quê tại làng Bình Thái, xã Hòa Thọ, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam (nay thuộc quận Cẩm Lệ, Thành phố Đà Nẵng). Vốn xuất thân trong gia đình công nhân lao động, sinh ra và lớn lên trong chế độ đàn áp, bóc lột của Thực dân Pháp và quan lại phong kiến nên ông sớm ý thức được quyền lợi của dân tộc và giai cấp, ông tham gia cách mạng từ trước Cách mạng Tháng Tám, năm 1945. Năm 1936 – 1937, ông tham gia phong trào Đông Dương Đại hội. Năm 1943, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Từ năm 1945 – 1947, ông được Đảng phân công phụ trách các nhiệm vụ quan trọng trong Kỳ bộ Việt Minh Nam bộ và Xứ ủy lâm thời Nam bộ. Năm 1948 – 1949, ông được cử làm Bí thư Khu ủy DI TÍCH LỊCH SỬ 39 và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
7. HÙNG VƯƠNG Hùng Vương, tên gọi chung 18 thụy hiệu Hùng Hiền Vương; Hùng đóng đô ở Phong Châu (thuộc đời vua Hùng trong họ Hồng Lân Vương; Hùng Việp Vương; huyện Bạch Hạc, tỉnh Phú Thọ ngày Bàng. Theo truyền thuyết, Hùng Hi Vương; Hùng Huy Vương; nay). Toàn lãnh thổ chia làm 15 bộ các vua này là hậu duệ của Lạc Hùng Chiêu Vương; Hùng Vĩ là Văn Lang, Châu Diên, Phúc Lộc, Long Quân và Âu Cơ. Lĩnh Nam Vương; Hùng Định Vương; Hùng Hi Tân Hưng, Võ Định, Võ Ninh, Lục chích quái thời Trần viết rằng: “Âu Vương; Hùng Trinh Vương; Hùng Khải, Ninh Hải, Dương Tuyền, Giao Cơ kết hôn với Lạc Long Quân, sinh Võ Vương; Hùng Việt Vương; Hùng Chỉ, Cửu Chân, Hoài Nam, Cửu ra một bọc trăm trứng, nở ra một Anh Vương; Hùng Triều Vương; Đức, Việt Thường và Bình Văn. Đến trăm người con. Sau đó, Lạc Long Hùng Tạo Vương; Hùng Nghị nay toàn dân Việt Nam đã lấy ngày Quân chia tay với Âu Cơ; 50 người Vương; Hùng Duệ Vương. 10 tháng 3 âm lịch là ngày giỗ Quốc con theo cha xuống biển, 50 người Tổ Hùng Vương. con theo mẹ lên núi. Người con Tên nước khi ấy là Văn Lang, cả được tôn làm vua, gọi là Hùng Vương”. Hùng Vương đồng thời là người chỉ huy quân sự, chủ trì các nghi lễ tôn giáo. Dưới Hùng Vương có các lạc hầu, lạc tướng giúp việc. Lạc tướng còn trực tiếp cai quản công việc của các bộ (bộ lạc cũ). Dưới nữa là các bố chính, đứng đầu các làng bản. Dân gọi là lạc dân. Con trai Hùng Vương lấy tên là Quan Lang, con gái tên là Mỵ Nương. Hùng Vương truyền ngôi được 18 đời là Kinh Dương Vương Lộc Tục, tôn dâng miếu hiệu là Hùng Vương; Lạc Long Quân Sùng Lãm 8. LÊ HỒNG PHONG 22 tuổi, được giác ngộ cách mạng, nơi chưa có, tiến tới thống nhất lực Lê Hồng Phong cùng Phạm Hồng lượng cách mạng trong cả nước. Đường này hình thành từ Thái sang Xiêm (Thái Lan), rồi sang Đầu năm 1935, Lê Hồng Phong dẫn thập niên 1940 gồm hai Quảng Châu (Trung Quốc). Tháng đầu đoàn đại biểu của đảng gồm đoạn: Từ đường Trần Hưng 4/1924, ông cùng Phạm Hồng Thái Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Đạo đến đường Trần Phú mang gia nhập Tâm Tâm Xã, một tổ chức Khai, Hoàng Văn Nọn đi Mátcơva tên đường Pétrus Ký, đoạn từ Trần cách mạng do Hồ Tùng Mậu và Lê dự Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng Phú đến đường 3 Tháng 2 gọi là Hồng Sơn thành lập. Năm 1925, sản (họp từ 25/7 đến 21/8/1935). Boulevard de Ceinture (đại lộ Vành Lê Hồng Phong được dự lớp huấn Tại Đại hội, Lê Hồng Phong đã Đai). Từ năm 1955, đoạn sau được luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc đọc bản tham luận quan trọng nhập vào đường Pétrus Ký. Ngày phụ trách. Sau đó, theo sự giới về phong trào cách mạng Đông 14/8/1975, đường được đổi tên thiệu của Nguyễn Ái Quốc, Lê Hồng Dương dưới sự lãnh đạo của Đảng là Lê Hồng Phong. Từ năm 1985, Phong được vào học trường võ bị do Nguyễn Ái Quốc sáng lập. Cũng đoạn từ đường 3 Tháng 2 đến Hoàng Phố, rồi sang Liên Xô học ở tại Đại hội này, Đảng Cộng sản đường Cao Thắng được nối thêm trường Đại học Phương Đông. Đầu Việt Nam được công nhận là một vào. năm 1934, Ban lãnh đạo của Đảng bộ phận chính thức của Quốc tế ở nước ngoài (lúc đó gọi là Ban lãnh Cộng sản, và Lê Hồng Phong, với bí Lê Hồng Phong (1902 – 1942), đạo hải ngoại của Đảng), do Lê danh Hải An, được bầu làm Ủy viên Tổng Bí thư thứ 2 của Đảng Cộng Hồng Phong đứng đầu được chính Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản. sản Đông Dương từ năm 1935 thức thành lập tại Ma cao (Trung Tháng 1/1936, ông về Trung Quốc, đến năm 1936. Tên thật của ông Quốc). Dưới sự lãnh đạo của Lê triệu tập Hội nghị Trung ương ở là Lê Huy Doãn, quê ở thôn Đông Hồng Phong, Ban lãnh đạo đã Thượng Hải vào tháng 7/1936. Thông, làng Thông Lạng, huyện liên hệ với các tổ chức đảng trong Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An (nay nước, lập lại những cơ sở ở những Trước sự lớn mạnh của phong thuộc xã Hưng Thông, tỉnh Nghệ nơi bị vỡ, xây dựng cơ sở ở những trào cách mạng trong nước, cuối An). Tháng 1/1924, lúc chưa đầy năm 1937, Lê Hồng Phong về nước 40 DI TÍCH LỊCH SỬ và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
9. LÝ THÁI TỔ Đường Lý Thái Tổ vào thời Công Uẩn được thăng đến chức Tả phẳng, chỗ cao mà sáng sủa, dân Pháp mang tên là Hui thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ, thống cư không khổ về ngập lụt, muôn vật Bon Hoa (Chú Hỏa), ngày lĩnh toàn thể quân túc vệ. Lê Long rất thịnh mà phồn vinh, xem khắp 22/3/1955 được đổi là đường Lý Đĩnh là ông vua khát máu, đàn áp nước Việt, chỗ ấy là hơn cả, thật là Thái Tổ cho đến nay. nhân dân rất dã man, ngược đãi chỗ hội họp của bốn phương, là các nhà sư và sống hoang dâm nơi thượng đô của kinh sư muôn Lý Thái Tổ (947 – 1028), người trụy lạc nên lòng người oán giận, đời” (Chiếu dời đô). Tương truyền sáng lập triều Lý, tên thật là Lý không ủng hộ nhà Lê nữa. Năm khi thuyền vua đến đỗ dưới thành Công Uẩn, quê ở châu Cổ Pháp, lộ 1009, Lê Long Đĩnh chết, Lý Công thì có rồng vàng hiện lên, do đó Bắc Giang (nay ở xã Đình Bảng, thị Uẩn là người có thế lực trong triều Lý Công Uẩn đổi tên Đại La thành xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Không rõ và là người thân cận của giới Phật Thăng Long (Thành phố Hà Nội cha ông là ai, mẹ họ Phạm, là con giáo, vì thế các quan trong triều, ngày nay). Lý Thái Tổ lo xây dựng nuôi của nhà sư Lý Khánh Văn từ đứng đầu là Đào Cam Mộc cùng kinh đô mới và củng cố nền thống năm lên ba nên mang họ Lý. Lúc một số nhà sư như Vạn Hạnh suy nhất đất nước, đặt quan hệ ngoại nhỏ, Lý Công Uẩn học với Sư Vạn tôn ông lên làm vua. Vua Lý Thái Tổ giao tốt đẹp với các lân bang, chăm Hạnh ở chùa Lục Tổ. Ông là người thấy đất Hoa Lư chật hẹp, nên năm lo việc nội trị. Nhà vua rất sùng khẳng khái và có chí lớn. Dưới triều 1010 cho dời đô về thành Đại La vì đạo Phật, trọng đãi những người đi vua Lê Đại Hành, ông giữ một chức nơi đây “Ở giữa khu vực trời đất, có tu. Năm 1018 vua cho người sang quan nhỏ trong cấm quân của nhà thế rồng cuốn hổ ngồi, ở giữa Nam Trung Hoa lấy kinh Tam Tạng đem vua. Năm 1005, Lê Đại Hành mất, Bắc Đông Tây, tiện hình thế sông về. Ông mất năm 1028, ở ngôi vua hoàng tử Long Việt lên nối ngôi chỉ núi sau trước. Đất rộng mà bằng 19 năm, thọ 55 tuổi. được ba ngày thì bị Long Đĩnh giết để cướp ngôi. Mọi người đều sợ hãi bỏ trốn. Chỉ có Lý Công Uẩn ở lại ôm xác vua mà khóc. Lê Long Đĩnh khen ông là người trung nghĩa nên cất nhắc ông làm phó chỉ huy đội quân có nhiệm vụ bảo vệ các cổng thành. Sau nhờ có công lao, Lý hoạt động bí mật tại Sài Gòn để Đảng quyết định chuyển Mặt trận họ đấu tranh giành nhiều thắng trực tiếp cùng Trung ương Đảng Nhân dân Phản đế thành Mặt trận lợi mới, thì Lê Hồng Phong bị Thực chỉ đạo phong trào. Trong thời Dân chủ nhằm tập hợp rộng rãi dân Pháp bắt ngày 22/6/1938. Mật gian này, người bạn đời của ông hơn nữa đông đảo quần chúng, thám Pháp dùng mọi thủ đoạn tra là Nguyễn Thị Minh Khai cũng về tranh thủ hơn nữa mọi lực lượng tấn, dụ dỗ nhưng ông nhất quyết nước tham gia Xứ ủy Nam Kỳ kiêm có thể tranh thủ. không khai. Không đủ chứng cớ để Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn. buộc tội, tòa án của Đế quốc Pháp Nắm sát tình hình thực tế, Lê Hồng Giữa lúc chủ trương đúng đắn đành kết án ông 6 tháng tù giam Phong đã cùng với Trung ương đó đang được sự hưởng ứng của và 3 năm quản thúc. Thế nhưng, các tầng lớp nhân dân, thúc đẩy khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, dù thời gian quản thúc chưa hết, Lê Hồng Phong lại bị bắt vào giam ở Sài Gòn rồi kết án 5 năm tù và đày ra Côn Đảo. Biết Lê Hồng Phong là cán bộ lãnh đạo của Đảng và là chồng của Nguyễn Thị Minh Khai, Chính quyền Thực dân Pháp ở Nam Kỳ đã ra lệnh cho bộ cai ngục Côn đảo phải tìm mọi cách hãm hại. Những đòn thù tàn ác, dã man đã làm Lê Hồng Phong kiệt sức dần và mất vào ngày 5/9/1942. DI TÍCH LỊCH SỬ 41 và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
10. LÝ THƯỜNG KIỆT Lý Thường Kiệt (1019 – 1105), Đại Việt, Lý Thường Kiệt cùng các Nhữ đẳng hành khan thủ bại danh tướng đời nhà Lý, có tướng kéo quân sang đất Tống, hư. công đánh bại quân Tống, là đánh hạ thành Khâm Châu và Liên một trong 14 vị anh hùng dân tộc Châu, sau đó tiêu diệt thành Ung Dịch: tiêu biểu nhất trong lịch sử Việt Châu, rồi rút quân về nước. Tháng Sông núi nước Nam vua Nam ở, Nam. Ông tên thật là Ngô Tuấn, 3/1076, quân Tống kéo 10 vạn Rành rành định phận ở sách tự Thường Kiệt, quê phường Thái quân, chủ yếu là kỵ binh sang xâm trời, Hòa, thành Thăng Long (Hà Nội). lược Đại Việt. Lý Thường Kiệt cho Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm, Năm 1041, ông được sung làm lập phòng tuyến sông Như Nguyệt, Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời. Hoàng môn chi hậu theo hầu Lý địch bị vây đánh, tiến thoái lưỡng Quân Tống mất tinh thần, hao Thái Tông. Có tài làm tướng, nhiều nan. Sử dụng tâm lý chiến, ông cho mòn lực lượng bèn đồng ý nghị mưu lược, ông được các vua nhà Lý truyền tụng bốn câu thơ: hòa, rồi rút quân về nước. Vì lập trọng dụng. Năm 1053, ông được nhiều công lớn, ông được vua gọi thăng chức Nội thị sảnh đô. Năm Nam quốc sơn hà Nam đế cư, là Thiên tử nghĩa đệ, tước vị Khai 1054, Lý Thái Tông phong ông Tiệt nhiên định phận tại thiên quốc công, phong Thái úy. Tháng chức Bổng hành quân Hiệu úy rồi thư, 6/1105, ông mất, thọ 87 tuổi. lên làm Kiểm hiệu Thái bảo. Năm Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, 1061, người Mường ở biên giới quấy rối, ông được sai vào thanh tra vùng Thanh Hóa, Nghệ An đã phủ dụ được dân chúng ở đây. Năm 1069, cùng với vua Thánh Tông tiến đánh Chiêm Thành, ông dẫn quân tiên phong truy bắt được Chế Củ, thu về 3 châu. Năm 1075, quân Tống mưu đồ xâm chiếm 11. NGÔ GIA TỰ Phan Châu Trinh (1926). Năm 1926, Phú An, cạnh sông Thị Nghè, trong ông cùng một số bạn học được đưa lúc ông đang viết truyền đơn. Ông Vào thời Pháp, lúc đầu đường sang Quảng Châu (Trung Quốc) dự bị kết án chung thân và bị đày đi mang tên Le Myre de Villers. lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Côn Đảo. Tại đây, ông bị đưa qua Ngày 23/1/1943, đường được Ái Quốc tổ chức. Ông tham gia Việt những nơi giam giữ khủng khiếp đổi tên thành Pierre Pasquier. Nam Cách mạng Thanh niên, làm nhất dành riêng cho những chính Ngày 22/3/1955, Chính quyền Sài Bí thư tỉnh Bắc Ninh. Ngô Gia Tự là trị phạm nguy hiểm như: “banh Gòn đổi là đường Minh Mạng. Ngày một trong những người đề xướng một”, “chuồn bò”. Tại nhà tù, Ngô 14/8/1975, đường được đặt tên là chủ trương “vô sản hóa”. Từ cuối Gia Tự cùng đồng đội dịch một số Ngô Gia Tự cho đến nay. tháng 7/1929, Ngô Gia Tự vào Nam sách về chủ nghĩa Mác – Lênin để kỳ gầy dựng chi bộ Đảng Cộng sản tổ chức học tập, nghiên cứu. Cuối Ngô Gia Tự (1908 – 1934) là nhà ở đây. Sau khi Đảng Cộng sản Việt năm 1934, Ngô Gia Tự cùng bảy hoạt động chính trị, một trong Nam ra đời (3/2/1930), Ngô Gia Tự đồng chí khác vượt ngục trên một những người sáng lập Đảng Cộng làm Bí thư cấp ủy lâm thời Đảng bộ chiếc thuyền nhỏ, nhưng bị mất sản Việt Nam. Ông còn có các bí Nam kỳ. Đêm 31/5/1930, Ngô Gia tích trên biển vì gió to sóng lớn. Lúc danh Tú Hảy, Chín Tự, Sĩ Quyết, Tự bị mật thám Pháp bắt tại xóm ấy ông mới 26 tuổi. Bách. Ông sinh tại làng Tam Sơn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Thân sinh là một nhà nho nghèo, từng tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục. Từ nhỏ, ông có tiếng là người thông minh. Lúc đầu, Ngô Gia Tự học ở trường huyện Từ Sơn, sau theo anh là Ngô Gia Lễ làm Tham biện, ra học ở trường Bưởi (Chu Văn An), Hà Nội. Tại đây, ông cùng với các bạn tham gia đội ngũ học sinh bãi khóa đòi thả Phan Bội Châu (1925) và tổ chức đám tang 42 DI TÍCH LỊCH SỬ và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
12. NGÔ QUYỀN Đường Ngô Quyền ở Quận 5, Quận 10 vào thời gián đã trừ xong, Ngô Quyền chuẩn bị đối phó với Pháp là hai đường khác nhau. Từ đường đại lộ nạn ngoại xâm. Ông nói với tướng tá: “Hoằng Tháo là Võ Văn Kiệt đến đường Hồng Bàng là đường một đứa trẻ dại, đem quân từ xa đến, quân lính mỏi Général Beylié. Đoạn còn lại là đường Ducos. Ngày mệt, lại nghe được tin Kiều Công Tiễn đã chết, không 22/3/1955, đổi tên đường thứ nhất thành Ngô Quyền, có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta đường thứ hai thành Triệu Đà. Ngày 14/8/1975, nhập sức mạnh, đối địch với quân mỏi mệt, tất phá được. đường Triệu Đà vào đường Ngô Quyền. Song họ có lợi ở thuyền, nếu ta không phòng bị trước thì chuyện được thua chưa thể biết trước. Nếu ta sai Ngô Quyền (897 – 944), người anh hùng dân tộc người đem cọc lớn cắm ngầm ở cửa biển trước, vạt đã chiến thắng quân Nam Hán ở sông Bạch Đằng, mở nhọn đầu mà bịt sắt, thuyền của họ nhân khi nước đầu thời kỳ độc lập lâu dài của dân tộc. Ông sinh ngày triều lên tiến vào bên trong hàng cọc, bấy giờ ta sẽ 12/3 năm Đinh Tỵ 897 tại Đường Lâm, Ba Vì (nay thuộc dễ bề chế ngự. Không kế gì hơn kế ấy cả”. Nắm vững Thành phố Hà Nội), là con của Thứ sử Ngô Mân, châu đường tiến quân của thủy binh địch, Ngô Quyền cho Mục thời họ Khúc. Ngô Quyền lớn lên “Mặt mũi khôi cắm cọc trên sông Bạch Đằng và cho quân mai phục ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi khoan thai như hổ, chờ giặc. Tháng 12/938, Hoằng Tháo đem thủy binh ồ có trí dũng, sức mạnh có thể nhấc bổng vạc đồng”. ạt tiến vào sông Bạch Đằng. Đương lúc triều lên Ngô Ông theo cha giúp họ Khúc xây dựng nền tự chủ của Quyền khéo léo cho thuyền nhẹ đánh nhử. Hoằng dân Việt. Năm 920, Ngô Quyền theo giúp Dương Đình Tháo hăm hở thúc quân chèo đuổi theo vượt qua trận Nghệ, một tướng của họ Khúc ở châu Ái (Thanh Hóa). địa cọc ngầm dưới nước. Khi thủy triều xuống mạnh, Năm 930, Nam Hán sai quân sang đánh, bắt Khúc Ngô Quyền thúc đại quân đánh mạnh. Thuyền chiến Thừa Mỹ. Dương Đình Nghệ đem quân đánh đuổi quân Nam Hán bị sa vào cọc sắt vỡ đắm rất nhiều. được quân Nam Hán, xưng là Tiết độ sứ và giao cho Hoằng Tháo bị giết tại trận. Hầu hết chiến thuyền của Ngô Quyền cai quản châu Ái. Yêu mến tài năng, sự quân Nam Hán bị đắm. Đội thủy quân bị giết, chết dũng cảm, quý trọng lòng yêu nước nhiệt thành của đuối quá nửa. Vua Nam Hán nghe tin bại trận đành Ngô Quyền, Dương Đình Nghệ đã gả con gái cho ông. thương khóc, thu nhặt tàn quân rút chạy, phải từ bỏ Năm 937, Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn giết mộng xâm lăng. Sau chiến thắng Bạch Đằng, Ngô để đoạt chức Tiết độ sứ. Được tin, Ngô Quyền chuẩn Quyền bắt tay xây dựng một vương quốc độc lập. Ông bị lực lượng kéo quân đi trị tội. Công Tiễn hoảng sợ không xưng là Tiết độ sứ như họ Khúc và Dương Đình cho người sang cầu cứu nhà Nam Hán. Vua Nam Hán Nghệ mà xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa, kinh đô cũ vẫn còn nuôi mộng xâm lăng đất Việt, nhân cơ hội đó của nước Âu Lạc. Ngô Quyền đặt ra các chức quan văn phong con là Hoằng Tháo làm Tĩnh hải quan Tiết độ võ, quy định triều nghi, lập bộ máy chính quyền mang sứ (ý muốn chiếm xong đất Giao Châu thì lấy đất này tính chất tập quyền. Ngô Quyền chỉ ở ngôi được 6 năm phong cho y), sai đem thủy quân đi trước còn mình (939 – 944). Ông mất ngày 18 tháng Giêng năm Giáp đem hậu quân theo đường bộ tiếp ứng. Đầu mùa Thìn (944), thọ 47 tuổi. Đông năm 938, Ngô Quyền đem quân từ châu Ái ra đến thành Đại La, bêu đầu Kiều Công Tiễn. Họa nội DI TÍCH LỊCH SỬ 43 và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
13. NGUYỄN CHÍ THANH Nguyễn Chí Thanh (1914 – bầu vào Ban chấp hành Trung tịch nước Hồ Chí Minh về tình hình 1967), tướng lĩnh Quân đội ương và được cử vào Bộ chính trị. miền Nam, ông đột ngột qua đời. nhân dân Việt Nam, còn Năm 1959, ông được phong quân được gọi là Vị tướng phong trào vì hàm Đại tướng. Từ năm 1965 đến Với nhiều công lao vì sự nghiệp có khả năng phát triển ở nhiều lĩnh 1967, ông được phân vào Nam giải phóng dân tộc, ông được nhà vực. Ông tên thật là Nguyễn Vịnh, lãnh đạo cách mạng miền Nam, giữ nước truy tặng Huân chương Sao biệt danh Sáu Vi, Trường Sơn, quê chức Bí thư Trung ương Cục miền vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, làng Niệm Phò, huyện Quảng Điền, Nam, kiêm Chính ủy Quân giải Huân chương Quân công hạng tỉnh Thừa Thiên (Thừa Thiên Huế). phóng miền Nam. Ngày 6/7/1967, Nhất, Huân chương Chiến thắng khi ra Hà Nội để báo cáo với Chủ hạng Nhất. Năm 1937, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương, từng giữ chức Bí thư Tỉnh Thừa Thiên. Ông bị thực dân Pháp bắt giam ở các nhà lao Huế, Lao Bảo, Buôn Ma Thuột… Tháng 8/1945, ông được cử đi dự Quốc dân Đại hội ở Tân Trào với vai trò Bí thư Khu ủy Khu IV, được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng và được chỉ định làm Bí thư Xứ ủy Trung kỳ, sau đó làm Bí thư Liên Khu ủy Khu IV. Cuối năm 1950, ông là Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam. Năm 1951, ông lại được 14. NGUYỄN DUY DƯƠNG dài từ biển Đông lên biên giới với quân đàn áp ác liệt, nghĩa quân Campuchia. Sau khi Trương Định tan rã dần. Ông theo đường biển Vào thời Pháp, đường này hy sinh, ông hoạt động chủ yếu ở định ra miền Trung chiêu tập dân mang tên Des Vignes (Cây vùng Đồng Tháp Mười. Nghĩa quân quân để tiếp tục chiến đấu nhưng Nho), nhưng chỉ có đoạn từ của ông thắng quân xâm lược chẳng may giữa đường gặp bão và Hùng Vương đến Bà Hạt, còn đoạn nhiều trận vang dội ở Mỹ Trà, Cao mất tích. từ An Dương Vương đến Trần Phú Lãnh, Cai Lậy. Về sau, Pháp đưa lại mang số 11. Vào khoảng đầu năm 1955, đoạn từ An Dương Đường Nguyễn Duy Dương, đoạn Phường 2, Quận 10. Vương đến Hùng Vương được làm thêm và ngày 4/5/1955 toàn tuyến được đặt tên là đường Nguyễn Công Trứ. Ngày 6/10/1955, đường được đổi tên là Nguyễn Duy Dương cho đến nay. Nguyễn Duy Dương, tên đúng là Võ Duy Dương (? – 1866), được triều đình phong chức Thiên hộ nên thường được gọi là Thiên Hộ Dương. Ông sinh ra tại thôn Cù Lâm Nam, huyện Tuy Viễn, trấn Bình Định (nay thuộc xã Nhơn Tân, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định), sau dời vào ở Gia Định. Khi thực dân Pháp xâm lược Nam kỳ, ông khởi binh kháng chiến, phối hợp cùng nghĩa quân của Trương Định hoạt động trên một vùng rộng lớn giữa sông Tiền và sông Vàm Cỏ kéo 44 DI TÍCH LỊCH SỬ và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
15. NGUYỄN GIẢN THANH tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc huyện Từ Viện Hàn lâm, tước Trung Phụ bá, Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Ông đỗ Trạng rồi thăng lên tước Hầu. Nhiều lần Đường này mới mở từ năm nguyên khoa thi Đoan Khánh năm ông được cử đi sứ Trung Quốc để 1995. Ngày 13/7/1999, Ủy thứ tư (1508) lúc 27 tuổi. Người đỗ cầu phong cho Mạc Đăng Dung. ban nhân dân Thành phố kế (Bảng nhãn) là Hứa Tam Tĩnh, Các tác phẩm của ông có Thương đặt tên đường Nguyễn Giản Thanh. người làng Như Nguyệt (tục gọi côn châu ngọc tập, tập hợp thơ làng Ngọt), nên có ca dao “Trạng vịnh sử của nhiều nhà thơ trong Nguyễn Giản Thanh (1482 – ?), Me đè Trạng Ngọt”. Dưới thời nhà nước và Trung Quốc. Ông cũng là danh sĩ đời Lê Uy Mục, con tiến sĩ Lê, ông làm quan đến chức Thị thư tác giả của bài phú Phụng Thành Nguyễn Giản Liêm, tự Cự Nguyên Viện Hàn lâm kiêm Đông các Đại xuân sắc (Cảnh sắc mùa xuân ở hiệu Phác Hiên; quê ở làng Ông học sĩ. Sang thời nhà Mạc, ông làm Thành Phụng) tức thành Thăng Mặc, sau đổi là Hương Mặc (tục Thượng thư Bộ Lễ kiêm Thị độc Long ngày nay. gọi làng Me), huyện Đông Ngàn, Ngã tư Nguyễn Giản Thanh - Trường Sơn 16. NGUYỄN KIM tướng quân, tước An Thành Hầu. tức Lê Trang Tông (1533 – 1548). Năm 1527, Mạc Đăng Dung soán Ông giúp vua Lê tiến binh về nước, Vào thời Pháp, đường này ngôi vua Lê, lập nên nhà Mạc. Lúc từng bước đánh chiếm các huyện mang tên Emile Béliard. Ngày bấy giờ, hầu hết các cựu thần nhà ở Thanh Hóa và sau đó xây dựng 22/3/1955, đường được đổi Lê hoặc ngả về họ Mạc hoặc bỏ đi, hành điện ở xã Vạn Lại, huyện Thọ tên là Nguyễn Kim cho đến nay. chỉ có Nguyễn Kim là lánh lên vùng Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Nguyễn Kim đất Thanh Hóa giáp Lào, được vua được vua Lê phong làm Thái sư, Nguyễn Kim (1468 – 1545), khai Lào là Sạ Đẩu thỏa thuận cho mượn Hưng Quốc công, nắm giữ tất cả quốc công thần đời Hậu Lê, còn gọi đất Sầm Châu. Ông lập bản doanh, binh quyền. Bấy giờ có Trịnh Kiểm là Nguyễn Hoằng Kim. Thân phụ lo chiêu tập hào kiệt bốn phương người làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh ông là An Hòa hầu Nguyễn Hoằng để phò Lê diệt Mạc. Năm 1533, ông Phước (sau đổi là Vĩnh Lộc), tỉnh Dụ, quê làng Gia Miêu, phủ Hà tìm được con vua Lê Chiêu Tông là Thanh Hóa theo giúp trong quân. Trung, trấn Thanh Hóa (nay là tỉnh Lê Duy Ninh ở Thanh Hóa và đưa Thấy Kiểm có tài, ông gả con gái Thanh Hóa). Nguyễn Kim làm quan sang Sầm Châu tôn lên ngôi vua là Nguyễn Thị Ngọc Bảo cho Kiểm. nhà Lê đến chức Hữu vệ Điện tiền Năm Nguyên Hòa thứ 10, 1542, ông tiến quân ra Tây Đô, rồi thẳng ra Bắc tiêu diệt họ Mạc. Năm 1545, Nguyễn Kim bị một hàng tướng họ Mạc là Dương Chấp Nhất đầu độc chết. Khi đó ông 77 tuổi. Vua Lê Trang Tông truy tặng cho ông tước Chiêu Huân Tĩnh Vương. Nguyễn Kim được các vua nhà Nguyễn sau này truy tôn miếu hiệu là Triệu Tổ, thụy hiệu là Di Mưu Thùy Dụ Khâm Cung Huệ Triết Hiển Hựu Hoành Hưu Tế Thế Khải Vận Nhân Thánh Tĩnh hoàng đế. DI TÍCH LỊCH SỬ 45 và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
17. NGUYỄN LÂM Đường Nguyễn Lâm được xây tấn công thành Hà Nội. Nguyễn “Làm tôi chết trung, làm con chết dựng từ năm 1950 và đặt Lâm chỉ huy chống giữ cửa Đông hiếu như Phò mã đô úy Nguyễn tên là đường Nguyễn Tri Nam, đúng hướng quân Pháp tấn Văn Lâm thật đáng khen... Thật Phương. Từ năm 1955 đổi tên là công vào thành. Khi quân Pháp đáng tiếc thay!”. Nguyễn Lâm được đường Nguyễn Lâm cho đến nay. bắn vào dữ dội, Nguyễn Lâm vẫn triều đình truy tặng chức Tả thị Bộ nhảy lên mặt thành để đốc thúc Binh. Năm Tự Đức thứ 28 (1875) Nguyễn Lâm (1844 – 1873), quân lính. Ông bị trúng đạn vào ông được đưa vào đền Trung Hiếu chiến sĩ kháng Pháp, còn gọi là đầu và hy sinh tại mặt thành. Khi tại quê để thờ chung với thân phụ Nguyễn Văn Lâm, tức Phò mã Lâm, được tin Nguyễn Lâm tử trận, vua và chú là Nguyễn Duy. con thứ hai của đại thần Nguyễn Tự Đức ban dụ tỏ lòng thương tiếc: Tri Phương, chồng Công chúa Đồng Xuân (em gái vua Tự Đức), tự Mặc Hiên. Ông là người làng Chí Long, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Lúc trẻ ông ham học, siêng năng, tính tình khiêm nhường nên được nhiều người yêu mến. Năm 1864, ông được vua Tự Đức gả em gái, rồi phong làm Phò mã đô úy. Năm 1872, nhân lúc Nguyễn Tri Phương đang làm Tổng thống quân vụ đại thần, ông tự nguyện ra giúp cha chống quân Pháp. Cuối năm 1873, Nguyễn Tri Phương được lệnh giữ thành Hà Nội khi Jean Dupuis, một tên lái súng đang quấy nhiễu ở đất Bắc. Ngày 20/11/1873, quân Pháp 19. NGUYỄN THƯỢNG HIỀN phải về ở ẩn tại núi Nưa, Thanh trào Việt Nam Quang Phục Hội. Hóa. Đến năm 1892, ông mới đi Ông sang Thái Lan liên lạc với công Nguyễn Thượng Hiền (1868 – thi Đình và đỗ Hoàng giáp nhưng sứ Đức và Áo bàn kế hoạch hợp 1925), chí sĩ yêu nước, danh ông không ra làm quan mà về ở ẩn. tác đánh Pháp nhưng việc không sĩ, tự Đỉnh Thần, hiệu Mai Không được bao lâu, triều đình nhà thành. Sau khi các hoạt động của Sơn, quê ở làng Liên Bạt, huyện Nguyễn gọi ra làm quan, trao cho Việt Nam Quang Phục Hội thất bại, Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây (nay thuộc chức Toản tu ở Quốc Sử quán, sau Nguyễn Thượng Hiền xuống tóc Thành phố Hà Nội). thăng làm Đốc học ở Ninh Bình, vào tu ở chùa Thường Tích Quang Nam Định. Năm 1907, hưởng ứng ở Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang, Từ nhỏ, Nguyễn Thượng Hiền phong trào Đông Du của Phan Bội Trung Quốc. Ngày 28/12/1925, ông đã nổi tiếng rất thông minh. Năm Châu, ông bỏ quan xuất dương bệnh và mất ở chùa. Theo di chúc, 1884, khi mới 17 tuổi, ông đỗ cử sang Nhật. Năm 1914, khi Phan Bội thi hài ông được hỏa táng và tro rải nhân ở khoa thi Hương ở Thanh Châu bị chính quyền ở Quảng Đông xuống sông Tiền Đường. Hóa. Năm 1885, ông đỗ đầu kỳ thi bắt giam, Nguyễn Thượng Hiền vẫn Hội nhưng chưa kịp xướng danh tiếp tục hoạt động trong phong Nguyễn Thượng Hiền không thì Kinh thành Huế thất thủ, ông những là một nhà cách mạng chân chính mà còn là một nhà văn yêu nước, một thi sĩ tài hoa nổi tiếng trong giới sĩ phu đương thời. Ông đã để lại một sự nghiệp văn học đáng kể với hơn 600 bài thơ văn bằng chữ Việt và chữ Hán. Các tác phẩm như: Nam chi tập, Phú cải lương, Hợp quần doanh sinh thuyết… cùng nhiều bài bạt, bài tự là nơi ông ký thác những tâm sự của mình và lên án chính sách của người Pháp, khơi dậy lòng yêu nước, kêu gọi nhân dân đứng lên chống Pháp. 46 DI TÍCH LỊCH SỬ và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
18. NGUYỄN NGỌC LỘC Đường Nguyễn Ngọc Lộc, nhìn từ đường Ba Tháng Hai. Đường này mới mở từ năm 1955. Ngày 7/4/2000, Ủy ban nhân dân Thành phố đặt tên đường Nguyễn Ngọc Lộc. Nguyễn Ngọc Lộc (1923 – 1968), liệt sĩ, quê ở làng Phùng Chí Kiên, huyện Mỹ Văn, tỉnh Hưng Yên. Ông tham gia kháng chiến tại chiến trường miền Đông Nam bộ. Từng là Khu ủy viên miền Đông Nam bộ, Phó Chính ủy Quân khu Sài Gòn - Gia Định suốt trong thời gian chống Mỹ. Trong chiến dịch Mậu Thân 1968, khi tham gia đợt tấn công vào Sài Gòn, ông hy sinh tại Bưng 6, huyện Thủ Đức, tỉnh Gia Định (nay là TP. Thủ Đức, thuộc TP. Hồ Chí Minh) vào ngày 5/3/1968. 20. NGUYỄN TIỂU LA cất tại quê nhà, thể hiện đức tính thất bại, Nguyễn Thành vẫn tiếp tự chủ và tháo vát… Năm 1885, tục tổ chức chiến đấu. Viên quan Vào thời Pháp, đường này ông ra Huế thi Hương, nhưng do nhà Nguyễn thân Pháp là Nguyễn mang số 21. Ngày 6/7/1959, vụ binh biến kinh thành Huế nên Thân bắt và sau đó tìm mọi cách đường được đặt tên Nguyễn kỳ thi không tổ chức được. Ông trở mua chuộc nhưng không thành, Tiểu La cho đến nay. lại quê nhà, từ bỏ đèn sách, hưởng bèn kết án quản thúc ông tại quê ứng phong trào Nghĩa Hội. Với tư nhà. Tuy nhiên, ông vẫn tìm cách Nguyễn Tiểu La (1863 – 1911), cách là ấm sinh, ông chiêu mộ một bí mật hoạt động. Tại sơn trang chí sĩ yêu nước thời cận đại. Tên cánh quân, hiệp cùng Nghĩa Hội Nam Thạnh, ông liên lạc với các thật của ông là Nguyễn Thành, đánh thành tỉnh Quảng Nam, lúc văn nhân, sĩ phu yêu nước trong còn có tên là Nguyễn Hàm, tự này ông mới 22 tuổi. Sau khi Pháp tỉnh và cả nước, chờ thời cơ giúp Triết Phu, hiệu Nam Thạnh, sau chiếm lại thành tỉnh Quảng Nam, dân, cứu nước. Năm 1903, Phan đổi thành Tiểu La, nên thường họ đưa quân đi càn quét vào các Bội Châu đã đến sơn trang để tìm được người đời quen gọi là Tiểu huyện, xã; Nguyễn Thành đã cho gặp Nguyễn Thành. Năm 1904, Hội La Nguyễn Thành, hay Tiểu La quân mai phục, đánh thắng nhiều nghị thành lập Duy Tân hội đã diễn Thành. Ông người làng Thạnh Mỹ, trận, uy tín được nâng cao. Phó ra tại đây, ông là một trong những phủ Thăng Bình (nay là thôn Quý bảng Nguyễn Duy Hiệu giao cho người có công lớn trong việc sáng Thạnh, xã Bình Quý, huyện Thăng ông chức Tán Tương quân vụ kiêm lập và tổ chức Duy Tân hội. Sau khi Bình, tỉnh Quảng Nam). Thân Thượng Biện tỉnh vụ. Nghĩa binh Phan Bội Châu sang Nhật, Nguyễn sinh ông là Nguyễn Trường, làm dưới quyền chỉ huy của ông đã mở Thành bí mật hoạt động ở trong Bố chánh sứ tỉnh Bình Định, hàm nhiều trận đột kích vào Đà Nẵng, nước. Ông vận động kinh phí, đưa Tham Tri dưới thời Tự Đức, sau đó lập được nhiều chiến công khiến thanh niên ra nước ngoài du học mất tại Bình Định. Nguyễn Thành, thực dân Pháp phải kiêng nể. Năm để chuẩn bị lực lượng cứu nước. khi đó hãy còn là thiếu niên, đã 1887, khi phong trào Nghĩa Hội bị Năm 1908, cùng lúc phong trào đứng ra chủ trì việc đưa thi hài Duy Tân hội đang phát triển mạnh, thân sinh từ Bình Định về chôn cuộc kháng thuế ở Trung Kỳ đã nổ ra. Chính quyền Pháp thẳng tay đàn áp và truy bắt các sĩ phu yêu nước. Nguyễn Thành cũng bị bắt giữ và bị kết án 9 năm biệt xứ, đày đi Côn Đảo. Khi bệnh hành hạ, ông có câu văn và bài thơ vĩnh quyết đồng bạn: “Thời cuộc xoay vần, cơ hội tốt sẽ đến, guồng máy Đông Á sau này còn nhiều cuộc biến đổi, anh em hãy gắng lên”. Ông qua đời tại đây vào ngày 11/11/1911. Năm 1957, thi thể của ông mới được đưa về cải táng tại quê nhà. DI TÍCH LỊCH SỬ 47 và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
21. NGUYỄN TRI PHƯƠNG Đường Nguyễn Tri Phương ở đã chiếm được từ năm 1859. được thăng chức hàm Võ hiển điện Quận 5, Quận 10 vào thời Ngay khi đó, Nguyễn Tri Phương Đại học sĩ, tước Tráng Liệt bá, về Pháp mang tên Lacaze. được phong Quan thứ Thống đốc kinh lo việc triều chính. Năm 1868, Ngày 4/5/1954, đoạn từ đường quân vị Gia Định, cùng Tham tán Nguyễn Tri Phương được 70 tuổi, Nguyễn Chí Thanh đến đường đại thần Phạm Thế Hiển vào Gia trong dịp mừng thọ, vua Tự Đức 3 Tháng 2 được cắt ra, mang Định. Lúc sắp đi Gia Định, Nguyễn đề thơ tặng ông, có câu: “Thọ kinh tên đường Nguyễn Du. Ngày Tri Phương tâu rằng việc đánh với bách chiến hậu, vọng trọng lục 22/3/1955, hai đường được nhập Pháp bấy giờ khó gấp năm bảy lần khanh trung” (Thọ hưởng sau trăm làm một và được đổi tên là đường so với trước, dù vậy, ông cũng xin trận, quyền cầm trước sáu ngôi). Nguyễn Tri Phương cho đến nay. cố hết sức để đền ơn nước. Vào tới Gia Định, Nguyễn Tri Phương cho Năm 1872, tại miền Bắc loạn lạc Nguyễn Tri Phương (1800 – đắp đại đồn Chí Hòa để đương cự. nổi lên khắp nơi, quan quân dẹp 1873), danh tướng, đại thần nhà Năm 1861, tướng Pháp Charner mãi không yên. Nguyễn Tri Phương Nguyễn, còn có tên là Nguyễn Văn tấn công đồn Chí Hòa. Sau hai được cử giữ chức Tuyên sát Đổng Chương, tự Hàm Trinh, hiệu Đường ngày chống cự quyết liệt, đồn thất sức Đại thần, thay mặt vua xem xét Xuyên, người làng Chí Long, huyện thủ, Nguyễn Tri Phương bị thương. việc dẹp loạn. Trong lúc tình hình Phong Điền, Thừa Thiên, là người Em trai ông là Nguyễn Duy, đang đất nước như thế thì quân Pháp đứng đầu quân đội triều đình làm Tán lí quân vụ đạo Định Biên, tấn công Hà Nội. Rằm tháng 10 Nguyễn chống lại quân Pháp xâm phối hợp chiến đấu cùng ông tại năm Quý Dậu (1873), quân Pháp lược lần lượt ở các mặt trận Đà đại đồn, bị trúng đạn đại bác của bắn vào thành. Nguyễn Tri Phương Nẵng (1858), Gia Định (1861) và Hà Pháp và hy sinh ngay ở cửa chính và con trai là Phò mã Nguyễn Lâm Nội (1873). Nguyễn Tri Phương làm đại đồn. Phạm Thế Hiển bị thương lên thành giữ cửa Đông và Nam, quan dưới 3 đời vua Minh Mạng, nặng, qua đời sau đó vài hôm. chiến đấu hơn 1 giờ thì thất thủ. Thiệu Trị, Tự Đức, được phong đến Quân triều đình phải rút về Biên Nguyễn Lâm trúng đạn tử thương. chức Phụ chính đại thần. Dù giữ Hòa. Gia Định bị chiếm. Do thất Nguyễn Tri Phương bị thương nặng chức lớn, nhưng vốn thanh liêm trận, Nguyễn Tri Phương bị giáng và bị quân Pháp bắt đem xuống nên cảnh nhà của ông vẫn thanh chức xuống hàm Tham tri. Sau khi tàu. Ông không cho quân địch bạch. Trong giai đoạn lịch sử đất triều đình Huế ký hòa ước Nhâm băng bó vết thương và nhịn ăn một nước đầy biến động, phức tạp, Tuất (1862) với Pháp, Nguyễn Tri tháng thì chết, thọ 74 tuổi. Thi hài Thực dân Pháp tìm đủ mọi cớ để Phương được triệu về kinh, rồi ông và Nguyễn Lâm được đưa về xâm lăng, nhiệm vụ của Nguyễn Tri nhậm chức Tổng thống quân vụ an táng tại quê nhà. Đích thân vua Phương được giao vô cùng nặng đại thần Tây Bắc để chống lại cuộc Tự Đức tự soạn bài văn tế cho ba nề, vừa là một nhà chính trị vừa là nổi dậy của Nguyễn Văn Thịnh (Cai vị công thần (Nguyễn Duy, Nguyễn vị tướng quân dãi dầu trên khắp tổng Vàng) ở Bắc Ninh. Trong một Lâm, Nguyễn Tri Phương) và cho các chiến trường Bắc, Trung, Nam. năm, ông dẹp được cuộc nổi dậy, lập đền Trung Hiếu để thờ Nguyễn Năm 1858, tướng Pháp Rigault de chiếm lại được thành Thái Nguyên, Tri Phương tại quê nhà, thôn Trung Genouilly tấn công Đà Nẵng nhằm phá được đầu não của đối phương Thạnh, xã Phong Chương, huyện uy hiếp kinh đô Huế, hải quân tại núi Ma Hiên, châu Bạch Thông. Phong Điền. Hiện nay, mộ và đền Pháp và Tây Ban Nha đánh hai Sau đó, Nguyễn Tri Phương làm thờ Nguyễn Tri Phương, Nguyễn thành An Hải và Tôn Hải. Để đối Tổng thống quân vụ Hải An để dẹp Duy, Nguyễn Lâm đã được Bộ Văn phó với tình thế nguy cấp, triều cuộc nổi dậy của Tạ Văn Phụng, tới hóa - Thể thao và Du lịch công đình Huế bổ nhiệm Nguyễn Tri năm 1865 mới xong. Nhờ những nhận là Di tích Lịch sử - Văn hóa Phương làm Tổng thống quân vụ chiến công này, Nguyễn Tri Phương cấp Quốc gia vào năm 1990. Đại thần, ở Quảng Nam để chống cự. Tại đây, Nguyễn Tri Phương thiết lập hệ thống phòng thủ, xây đồn Liên Trì, đắp lũy dài từ Hải Châu đến Phúc Ninh, Thạch Giản, chia quân ra phòng giữ. Trước sự phòng vệ kiên cố, quyết liệt này, quân Pháp và Tây Ban Nha đánh mãi không thắng, hơn nữa Pháp còn phải tiếp viện cho quân Anh đánh Trung Quốc nên qua năm 1860, Thiếu tướng Pháp Page thay Tướng R. de Genouilly đốt hết đồn trại của họ ở Trà Sơn rồi rút quân về Gia Định, nơi mà R. de Genouilly 48 DI TÍCH LỊCH SỬ và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
22. SƯ VẠN HẠNH Vào thời Pháp, đường này ông vào hỏi nếu đánh thì thắng chúng lại dặn dò, đọc bài kệ rồi thị mang tên Lorgerie, ngày hay bại. Ông đáp trong vòng từ ba tịch. Vua Lý Thái Tổ và tất cả triều 19/5/1955 được đổi tên là đến bảy ngày quân địch sẽ rút lui. thần nhà Lý đến làm lễ Trà tỳ, thỉnh đường Sư Vạn Hạnh cho đến nay. Biết trước nhà Tiền Lê suy vong vì Xá lợi của thiền sư về thờ tại chùa Lê Ngọa Triều thi hành chính sách Tiêu Sơn (Bắc Ninh). Ngoài mấy Sư Vạn Hạnh (? – 1018), thiền bạo ngược, bị thiên hạ ghét bỏ, bài sấm truyền, ông có bài kệ còn sư đời Tiền Lê, Quốc sư nhà Lý, họ ông cũng đóng góp vào việc giúp Lý được truyền tụng: Nguyễn, không rõ tên, pháp danh Công Uẩn chấm dứt nhà Lê, dựng Vạn Hạnh thường được gọi là Sư nên nhà Lý. Do đấy, khi Lý Công Thân như bóng chớp có rồi Vạn Hạnh. Thiền sư quê ở châu Cổ Uẩn lên ngôi, tức là Lý Thái Tổ, ông không Pháp, lộ Bắc Giang (nay thuộc thị càng được trọng đãi, được phong xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), từ thuở làm Quốc sư. Ngày 15/5 năm Mậu Cây cối xanh tươi thu não nùng nhỏ đã thông minh, học thông Nho, Ngọ (tức ngày 30/6/1018), khi công Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi Lão, Phật và nghiên cứu hàng trăm hạnh đã viên mãn, Thiền sư gọi đồ Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông. bộ luận Phật giáo. Năm 21 tuổi, ông xuất gia, tu học với bạn là thiền sư Ðịnh Huệ dưới sự chỉ dẫn của thiền sư Thiền Ông tại chùa Lục Tổ thuộc làng Đình Bảng (vùng Đình Bảng, Bắc Ninh). Sau khi Thiền Ông mất, ông bắt đầu chuyên thực tập Tổng Trì Tam Ma Ðịa, nên sau này hễ ông nói lời gì đều được thiên hạ cho là phù sấm. Vua Lê Hoàn rất tôn kính ông, xem ông như cố vấn. Năm 980, Hầu Nhân Bảo của nhà Tống mang quân sang đóng ở núi Cương Giáp Lãng định xâm chiếm nước Đại Cồ Việt. Vua triệu 23. THÀNH THÁI Đình Bình. Năm 1889, vua Đồng máy. Để che mắt người Pháp, ông Khánh mất, khâm sứ Pháp ở Huế giả làm người bị bệnh tâm thần. Đường Thành Thái ở Quận 10 truyền lập Bửu Lân lên làm vua, lấy Đồng thời, ông khuyến khích việc mới hoàn thành toàn tuyến hiệu là Thành Thái. Ông giỏi về Nho xuất dương du học của thanh niên, cho người dân đi lại thuận học, chịu ảnh hưởng tư tưởng cách hướng đến công việc đại sự sau tiện, trước đây được quen gọi là tân của các nhà cách mạng Trung này. Năm 1903, chính ông định xuất đường Nguyễn Tri Phương nối dài. Hoa và Nhật Bản. Là người thông ngoại nhưng không thành. Năm Ngày 13/7/1999, Ủy ban nhân dân minh, có tinh thần dân tộc, Thành 1907, người Pháp biết được việc Thành phố đặt tên là đường Thành Thái sớm nhận rõ rằng mọi quyền ông bí mật liên lạc với phong trào Thái. hành của mình cũng như chủ quyền Đông Du để cầu viện nước Nhật, ép của đất nước đều bị người Pháp chi ông phải thoái vị nhường ngôi cho Thành Thái (1879 – 1954), vua phối. Vì thế ông có ý định áp dụng Vĩnh San (tức vua Duy Tân). Thực thứ 10 triều Nguyễn, tên thật là công cuộc cải cách đất nước. Bản dân Pháp đưa ông đi quản thúc ở Nguyễn Phúc Bửu Lân, con vua Dục thân ông cắt tóc ngắn, nghiên cứu Vũng Tàu. Đức và hoàng hậu Từ Minh Huệ, sách Âu Tây, học lái xe hơi, xuồng cháu ngoại Phụ chính đại thần Phan Đến năm 1916, Thực dân Pháp bí mật đưa ông đi cùng một con tàu với vua Duy Tân đày đi đảo Resunion. Dù đi chung trên một con tàu nhưng hai cha con – hai vị vua bị phế không được tiếp xúc với nhau. Tháng 5/1947, vua Thành Thái mới được trở về quê hương sau hơn 30 năm bị lưu đày. Năm 1951, ông được phép về Huế thăm quê hương. Ông sống tại Sài Gòn đến ngày 24/3/1954 thì qua đời. Thi hài được an táng tại Huế. DI TÍCH LỊCH SỬ 49 và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
24. TÔ HIẾN THÀNH Xưởng hư hỏng, vua có di chiếu vua mới 6 tuổi, thì ông ốm nặng và lập hoàng tử Lý Long Cán, mới có 1 mất. Khi ông bệnh nặng, có Tham Đường này được mở vào tuổi lên ngôi (tức vua Lý Cao Tông), tri chính sự là Võ Tán Đường ngày khoảng 1937 – 1938. Mãi tới đã giao cho ông phụ chính. Hoàng đêm săn sóc ông. Đỗ Thái hậu cùng ngày 23/1/1943 mới được hậu (mẹ Long Xưởng) đem mâm vua đến thăm, hỏi ông về người có đặt tên đường là De La Milice, vàng đến hối lộ ông, mong ông đổi thể thay ông được. Ông tiến cử nhưng chỉ có đoạn từ Cách mạng di chiếu đưa Long Xưởng lên ngôi, Gián nghị đại phu Trần Trung Tá, Tháng Tám đến đồn lính cuối nhưng ông kiên quyết từ chối và khiến Đỗ Thái Hậu ngạc nhiên: đường Lê Hồng Phong. Từ năm làm theo sự ủy thác của Tiên đế. “Sao ông không đề nghị Võ Tán 1955, đoạn cuối cùng được làm Ông lập Long Cán lên nối ngôi, tức Đường?”. Ông đáp: “Nếu hỏi người tiếp và được gọi là Tô Hiến Thành là vua Cao Tông, ông tận tình phò hầu hạ, thì dùng Võ Tán Đường. Trị cho đến nay. tá tân quân. Từ đó tình hình trong nước an dân thì phải dùng Trần nước càng yên ổn. Năm 1179 khi Trung Tá”. Tô Hiến Thành (? – 1179), danh thần nổi tiếng đời Lý Anh Tông, quê ở Xóm Lẻ thuộc làng Hạ Mỗ, xã Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Thành phố Hà Nội). Ông tài cả văn lẫn võ, có công phá tan quân Ngưu Hống, đánh đuổi quân ngoại xâm (Ai Lao gây hấn). Ông được phong làm Thái úy. Ông tận tâm sửa sang việc nước, mở mang văn hóa. Ông là người có sáng kiến lập đền thờ Khổng Tử ở cửa Nam Thành Thăng Long. Cuối đời ông làm đến chức Nhập nội kiểm, hiệu Thái phó bình chương quân quốc trọng sự (Tể tướng). Khi vua Lý Anh Tông băng hà năm 1175, hoàng tử trưởng là Lý Long 25. TRẦN BÌNH TRỌNG 26. TRẦN MINH QUYỀN Đường Trần Bình Trọng ở Quận 5, Quận 10 có khoảng năm 1910 và Vào thời Pháp, đây là con hẻm. mang tên Eglise, từ ngày 4/5/1954 đổi là đường Paulus Của. Ngày Năm 1966, đường được đặt 22/3/1955 đổi là đường Trần Bình Trọng cho đến nay. tên là Kiều Công Hai. Ngày Trần Bình Trọng (1259 – 1285), danh tướng thời Trần Nhân Tông, tổ 10/1/1972, tên đường được đổi là tiên vốn họ Lê, dòng dõi Lê Đại Hành, đến đời ông nội làm quan đời Trần Trần Văn Văn. Ngày 4/4/1985, tên Thái Tông được cho theo họ vua, nên đổi ra họ Trần. Quê làng Bảo Thái, đường lại được đổi là Trần Minh huyện Thanh Liêm (nay thuộc tỉnh Hà Nam). Khi quân Nguyên sang xâm Quyền. lược, trước thế quân địch mạnh, quân Đại Việt tạm thời rút lui khỏi kinh đô Thăng Long. Ông nhận nhiệm vụ ở lại giữ Thiên Trường (Nam Định) để Trần Minh Quyền (? – 1967), liệt ngăn chặn quân địch, trong khi Hưng Đạo Vương rước vua Trần và Thái sĩ, bí danh là Bảy Quyền, người quê Thượng hoàng ra Hải Dương chuẩn bị lực lượng chống ngoại xâm. Một Quảng Nam, nhưng sinh sống ở trận đánh lớn xảy ra ngày 26/2/1285 ở bãi Đà Mạc (Thiên Mạc, nay thuộc Sài Gòn và tham gia hoạt động nội Duy Tiên, Hà Nam), ông bị quân Nguyên bắt. Quân Nguyên khuyên ông thành tại đây. Ông trở thành đảng đầu hàng sẽ được phong tước vương, ông khẳng khái đáp: “Ta thà làm ma viên Đảng Cộng sản Việt Nam và nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc”. Ông bị giết lúc mới 26 được bầu làm Thành ủy viên Thành tuổi, nhưng câu nói bất hủ của người anh hùng vẫn còn vang vọng mãi. ủy Sài Gòn - Chợ Lớn. Ông hy sinh năm 1967. 50 DI TÍCH LỊCH SỬ và NHỮNG ĐIỂM ĐẾN tại QUẬN 10
Search