Important Announcement
PubHTML5 Scheduled Server Maintenance on (GMT) Sunday, June 26th, 2:00 am - 8:00 am.
PubHTML5 site will be inoperative during the times indicated!

Home Explore Giáo trình - Lưu hành nội bộ

Giáo trình - Lưu hành nội bộ

Published by Guset User, 2023-07-03 16:53:35

Description: Giáo trình - Lưu hành nội bộ

Search

Read the Text Version

ThS. Nguyễn Đình Cơ LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Lưu hành nội bộ, 2020

LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Mục lục 3 UEF MỤC LỤC MỤC LỤC .......................................................................................................... 3 HƢỚNG DẪN .................................................................................................... 7 BÀI 1: ĐỐI TƢỢNG, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƢƠNG PHÁP... VIỆT NAM .................................................................................................................. 9 1.1 ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU ........................................................................ 9 1.1.1 Khái niệm................................................................................................................9 1.1.2 Đối tượng nghiên cứu.............................................................................................9 1.2 NHIỆM VỤ CỦA MÔN HỌC LỊCH SỬ ĐẢNG ........................................... 10 1.3 PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................................. 10 1.3.1 Phương pháp chung..............................................................................................10 1.3.2 Các phương pháp cụ thể.......................................................................................11 TÓM TẮT ........................................................................................................ 12 CÂU HỎI ÔN TẬP ........................................................................................... 12 BÀI 2: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI VÀ LÃNH ĐẠO… (1930 - 1945)13 2.1 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐƠI ..................................................... 13 2.1.1 Bối cảnh lịch sử ....................................................................................................13 2.1.2 Nguyễn Ái Quốc tìm thấy con đường cứu nước ...................................................17 2.1.3 Phong trào công nhân Việt Nam 1919-1929........................................................17 2.1.4 Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị điều kiện cho sự ra đời của Đảng ..............................17 2.1.5 Sự hình thành các tổ chức cộng sản và Hội nghị thành lập Đảng .......................18 2.2 ĐẢNG LANH ĐAO QUÁ TRINH ĐÂU TRANH … (1930 - 1945) ................. 22 2.2.1 Phong trào cách mạng 1930-1935 .......................................................................22 2.2.2 Phong trào dân chủ (1936-1939) .........................................................................24 2.2.3 Phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945...........................................................25 TÓM TẮT ........................................................................................................ 32 CÂU HỎI ÔN TẬP ........................................................................................... 32 BÀI 3: ĐẢNG LÃNH ĐẠO CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC…(1945 - 1975) ................................................................................................................ 33 3.1 ĐẢNG LANH ĐAO CUỘC KHÁNG CHIÊN CHỐNG …(9-1945 - 7-1954)... 33

UEF 4 Mục lục 3.1.1 Hoàn cảnh lịch sử sau thắng lợi của Cách mạng tháng 8 năm 1945 .................. 33 3.1.2 Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh chống giặc ngoài, thù trong và… đến 12-1946.. 35 3.1.3 Đảng lãnh đạo và tổ chức cuộc kháng chiến chống thực dân…12-1950 ............ 38 3.1.4 Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến thắng lợi từ 1-1951 đến 7-1954...................... 40 3.1.5 Ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm của Đảng về lãnh đạo kháng chiến ................... 44 3.2 ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở MIỀN BẮC... (1954-1975)....................................................................................................... 45 3.2.1 Trong giai đoạn 1954-1965.................................................................................. 45 3.2.2 Trong giai đoạn 1965-1975.................................................................................. 49 3.2.3 Thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng thời kỳ 1954-1975 ....... 58 TÓM TẮT ........................................................................................................ 61 CÂU HỎI ÔN TẬP ........................................................................................... 61 BÀI 4: ĐẢNG LÃNH ĐẠO CẢ NƢỚC QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA… (1975 - 2018) ................................................................................................................ 62 4.1 LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC (1975-1986)....................................................................................................... 62 4.1.1 Bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc (1975-1981) ............... 62 4.1.2 Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc (1976-1981) ............................... 64 4.1.3 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng và các bước… kinh tế .............. 67 4.2 LÃNH ĐẠO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI, ĐẨY MẠNH CÔNG… (1986-2018) .. 69 4.2.1 Đổi mới toàn diện, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng… (1986-1996) .............. 69 4.2.2 Tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa,… (1996-2018) ........... 73 4.3 THÀNH TỰU, KINH NGHIỆM CỦA CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI................... 86 4.3.1 Thành tựu của sự nghiệp đổi mới......................................................................... 87 4.3.2 Những hạn chế, khuyết điểm trên đây có cả nguyên nhân… chủ yếu.................. 88 4.3.3 Một số kinh nghiệm của công cuộc đổi mới......................................................... 89 TÓM TẮT ........................................................................................................ 91 CÂU HỎI ÔN TẬP ........................................................................................... 91 BÀI 5: TỔNG LUẬN ........................................................................................ 92 5.1 NHỮNG THẮNG LỢI VĨ ĐẠI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM ................. 92

Mục lục 5 UEF 5.2 NHỮNG BÀI HỌC LỚN VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG .......................... 94 5.2.1 Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội .....................................94 5.2.2 Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ..................95 5.2.3 Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết, đoàn kết toàn Đảng, …quốc tế.....95 5.2.4 Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạng thời đại,… quốc tế...............................96 5.2.5 Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu… Việt Nam .....................97 TÓM TẮT ........................................................................................................ 98 CÂU HỎI ÔN TẬP ........................................................................................... 98 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 99



Hướng dẫn 7 UEF MÔ TẢ MÔN HỌC HƢỚNG DẪN Môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam cung cấp cho sinh viên những hiểu biết cơ bản, có hệ thống về các sự kiện lịch sử Đảng, hiểu rõ nội dung, tính chất, bản chất của các sự kiện đó gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng. Các sự kiện thể hiện quá trình Đảng ra đời, phát triển và lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc, kháng chiến cứu quốc và xây dựng, phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại… NỘI DUNG MÔN HỌC  Bài 1: Đối tượng, chức năng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu, học tập môn học Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam  Bài 2: Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc (1930-1945)  Bài 3: Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945-1975)  Bài 4: Đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc và cả nước từ năm 1954 đến năm 1986  Bài 5: Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới (1986-2016)  Bài 6: Một số bài học chủ yếu về sự lãnh đạo của Đảng KIẾN THỨC TIỀN ĐỀ Môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, nếu sinh viên đã học môn Triết học Mác-Lênin và môn Tư tưởng Hồ Chí Minh thì thuận lợi hơn. YÊU CẦU MÔN HỌC Người học phải tự học đầy đủ các buổi lên lớp và đọc tài liệu, chuẩn bị câu hỏi ở nhà. Nếu điều kiện cho phép nên tổ chức cho sinh viên đi tham quan một buổi tại Bảo tàng Chứng tích chiến tranh để sinh viên có kiến thức thực tế về môn học

UEF 8 Hướng dẫn CÁCH TIẾP NHẬN NỘI DUNG MÔN HỌC Để học tốt môn này, người học cần ôn tập các bài đã học, trả lời các câu hỏi và làm đầy đủ yêu cầu mà giảng viên đề ra, đọc trước bài mới và tìm thêm các thông tin liên quan đến bài học. Đối với mỗi bài học, người học đọc trước bài học và tóm tắt nội dung bài học. Kết thúc mỗi bài học, người đọc trả lời câu hỏi ôn tập.

Bài 1: Đối tượng, chức năng, nhiệm vụ và PPNC, … LSĐCSVN 9 UEF BÀI 1: ĐỐI TƢỢNG, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU, HỌC TẬP MÔN HỌC LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 1.1 ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU. 1.1.1 Khái niệm. Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập (năm 1930). Từ thời điểm lịch sử đó, lịch sử của Đảng hòa quyện và song hành cùng lịch sử của dân tộc Việt Nam. Đảng đã lãnh đạo và đưa sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, “có được cơ đồ là vị thế như ngày nay”. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam là một chuyên ngành, một bộ phận của khoa học lịch sử. Chuyên ngành lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam đã được nghiên cứu từ rất sớm. Năm 1933, tác giả Hồng Thế Công (tức Hà Huy Tập) đã công bố tác phẩm Sơ thảo lịch sử phong trào cộng sản Đông Dương. Ở các thời kỳ lịch sử của Đảng, Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo đã trình bày lịch sử và có những tổng kết quan trọng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960) đã nêu rõ nhiệm vụ nghiên cứu, tổng kết lịch sử Đảng, nhất là tổng kết kinh nghiệm, bài học lãnh đạo của Đảng, con đường và quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam. Năm 1962, cơ quan chuyên trách nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng là Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương được thành lập (nay là Viện Lịch sử Đảng). Từ những năm 60 của thế kỷ XX, bộ môn lịch sử Đảng đã được giảng dạy, học tập chính thức trong các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp. Theo sự chỉ đạo của Bộ Chính trị khóa VII, ngày 13-7-1992, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) đã ban hành Quyết định số 255 CP thành lập Hội đồng chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có bộ môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 1.1.2 Đối tƣợng nghiên cứu. Môn học lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam nghiên cứu có hệ thống các sự kiện lịch sử Đảng, hiểu rõ nội dung, tính chất, bản chất của các sự kiện đó gắn liền với sự

UEF 10 Bài 1: Đối tượng, chức năng, nhiệm vụ và PPNC, … LSĐCSVN lãnh đạo của Đảng. Các sự kiện thể hiện quá trình Đảng ra đời, phát triển và lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc, kháng chiến cứu quốc và xây dựng, phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại… 1.2 NHIỆM VỤ CỦA MÔN HỌC LỊCH SỬ ĐẢNG. Trước hết đó là chức năng nhận thức. Nghiên cứu và học tập lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam để nhận thức đầy đủ, có hệ thống những tri thức lịch sử lãnh đạo, đấu tranh và cầm quyền của Đảng, nhận thức rõ về Đảng với tư cách một Đảng chính trị-tổ chức lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam. Nghiên cứu, học tập lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam còn nhằm nâng cao nhận thức về thời đại mới của dân tộc-thời đại Hồ Chí Minh, góp phần bồi đắp nhận thức lý luận từ thực tiễn Việt Nam. Nghiên cứu, biên soạn, giảng dạy, học tập lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam cần quán triệt chức năng giáo dục của khoa học lịch sử. Giáo dục sâu sắc tinh thần yêu nước, ý thức, niềm tự hào, tự tôn, ý chí tự lực, tự cường dân tộc. Cùng với hai chức năng cơ bản của sử học là nhận thức và giáo dục, khoa học lịch sử Đảng còn có chức năng dự báo và phê phán. Từ nhận thức những gì đã diễn ra trong quá khứ để hiểu rõ hiện tại và dự báo tương lai của sự phát triển. 1.3 PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 1.3.1 Phƣơng pháp chung. Phương pháp nghiên cứu, học tập Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam cần dựa trên phương pháp luận khoa học mác xít, đặc biệt là nắm vững chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để xem xét và nhận thức lịch sử một cách khách quan, trung thực và đúng quy luật. Chú trọng nhận thức lịch sử theo quan điểm khách quan, toàn diện, phát triển và lịch sử cụ thể. Tư duy từ thực tiễn, từ hiện thực lịch sử, coi thực tiễn và kết quả của hoạt động thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng.

Bài 1: Đối tượng, chức năng, nhiệm vụ và PPNC, … LSĐCSVN 11 UEF 1.3.2 Các phƣơng pháp cụ thể. Khoa học lịch sử và chuyên ngành khoa học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam đều sử dụng hai phương pháp cơ bản: phương pháp lịch sử và phương pháp logic, đồng thời chú trọng vận dụng các phương pháp khác trong nghiên cứu, học tập các môn khoa học xã hội. 1.3.2.1 Phương pháp lịch sử. Phương pháp lịch sử là các con đường, cách thức tìm hiểu và trình bày quá trình phát triển của các sự vật và hiện tượng nói chung, của lịch sử loài người nói riêng với đầy đủ tính cụ thể, sống động, quanh co của chúng. 1.3.2.2 Phương pháp logic. Phương pháp logic là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng lịch sử trong hình thức tổng quát, nhằm mục đích vạch ra bản chất, quy luật, khuynh hướng chung trong sự vận động của chúng. Cần thiết phải nắm vững logic học và rèn luyện tư duy logic, phương pháp logic có ý nghĩa quyết định đến sự nhận thức đúng đắn thế giới khách quan, hiện thực lịch sử, thấy rõ được hướng phát triển của lịch sử.

UEF 12 Bài 1: Đối tượng, chức năng, nhiệm vụ và PPNC, … LSĐCSVN TÓM TẮT Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam là một chuyên ngành, một bộ phận của khoa học lịch sử. Chuyên ngành lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam đã được nghiên cứu từ rất sớm. Năm 1933, tác giả Hồng Thế Công (tức Hà Huy Tập) đã công bố tác phẩm Sơ thảo lịch sử phong trào cộng sản Đông Dương. Ở các thời kỳ lịch sử của Đảng, Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo đã trình bày lịch sử và có những tổng kết quan trọng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960) đã nêu rõ nhiệm vụ nghiên cứu, tổng kết lịch sử Đảng, nhất là tổng kết kinh nghiệm, bài học lãnh đạo của Đảng, con đường và quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam. Môn học lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam nghiên cứu có hệ thống các sự kiện lịch sử Đảng, hiểu rõ nội dung, tính chất, bản chất của các sự kiện đó gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng. Các sự kiện thể hiện quá trình Đảng ra đời, phát triển và lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc, kháng chiến cứu quốc và xây dựng, phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. CÂU HỎI ÔN TẬP Câu 1: Trình bày khái niệm, đối tượng môn lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam. Đối tượng môn lịch sử Đảng giống và khác đối tượng của Lịch sử Việt Nam chỗ nào? Câu 2: Trình bày Phương pháp nghiên cứu, nhiệm vụ môn học lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam. Trong những phương pháp trên theo anh (chị) phương pháp nào quan trọng nhất. Vì sao?

Bài 2: ĐCSVN ra đời và lãnh đạo CM giải phóng dân tộc (1930-1945) 13 UEF BÀI 2: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI VÀ LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC (1930 - 1945) MỤC TIÊU  Về kiến thức: Cung cấp cho sinh viên những tri thức có tính hệ thống quá trình ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (1920-1930), nội dung cơ bản, giá trị lịch sử của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và quá trình Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền (1930-1945).  Về tư tưởng: Cung cấp cơ sở lịch sử, góp phần củng cố niềm tin của thế hệ trẻ vào con đường cách mạng giải phóng dân tộc và phát triển đất nước-sự lựa chọn đúng đắn, tất yếu, khách quan của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ đầu dựng Đảng.  Về kỹ năng: Từ việc nhận thức lịch sử thời kỳ đầu dựng Đảng, góp phần trang bị cho sinh viên phương pháp nhận thức biện chứng, khách quan về quá trình Đảng ra đời và vai trò lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xác lập chính quyền cách mạng. 2.1 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI. 2.1.1 Bối cảnh lịch sử. 2.1.1.1 Tình hình thế giới. Trong khoảng 30 năm cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các nước đế quốc phương Tây đẩy mạnh quá trình xâm chiếm và nô dịch thuộc địa nhằm giải quyết vấn đề thị trường. Điều đó không chỉ dẫn tới sự phát triển gay gắt mâu thuẫn giữa các nước đế quốc trong việc tranh giành thuộc địa, mà còn làm cho mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng

UEF 14 Bài 2: ĐCSVN ra đời và lãnh đạo CM giải phóng dân tộc (1930-1945) sâu sắc. Phong trào giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX phát triển rộng khắp, tác động mạnh mẽ đến Việt Nam. CNĐQ ra Việt CNM-L đời Nam CTTG I bùng CMT10, nổ QTCS (1914- 1918) Cách mạng Tháng Mười Nga 1917 thành công cùng sự ra đời và hoạt động của Quốc tế Cộng sản (3/1919) tác động mạnh mẽ đối với phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc ở Việt Nam. 2.1.1.2 Tình hình trong nước.  Chính sách thống trị của thực dân Pháp. Trong bối cảnh các nước đế quốc đẩy mạnh tìm kiếm thuộc địa, Việt Nam trở thành đối tượng chinh phục của thực dân Pháp. Sau một quá trình điều tra thám sát, ngày 1-9-1858, thực dân Pháp nổ súng tiến công tại Đà Nẵng, mở đầu quá trình xâm lược Việt Nam. Do sự sai lầm trong đường lối, do chênh lệch về lực lượng, triều đình nhà Nguyễn từng bước đầu hàng Pháp ký liên tiếp các bản hiệp ước Nhâm Tuất (1862), Giáp Tuất (1874), Hác măng (H’Armand) năm 1883 và Patơnốt (Patenôtre) năm 1884. Việt Nam chính thức trở thành thuộc địa của Pháp. Về chính trị, thực dân Pháp chia Việt Nam thành ba kỳ với ba chế độ cai trị khác nhau Bắc Kỳ (xứ bán bảo hộ), Trung Kỳ (xứ bảo hộ), Nam Kỳ (xứ thuộc địa), cùng hai xứ Ai Lao và Cao Miên nằm trong Liên bang Đông Dương thuộc Pháp. Từ một quốc

Bài 2: ĐCSVN ra đời và lãnh đạo CM giải phóng dân tộc (1930-1945) 15 UEF gia phong kiến độc lập, Việt Nam trở thành một nước thuộc địa với những tàn tích phong kiến nặng nề. Về kinh tế, từ năm 1897, sau khi đàn áp phong trào vũ trang chống Pháp của nhân dân Việt Nam, thực dân Pháp thiết lập bộ máy cai trị và tiến hành khai thác thuộc địa, làm cho cơ cấu và tính chất nền kinh tế Việt Nam có sự biến đổi, dẫn đến sự ra đời những đô thị mới, những trung tâm kinh tế và tụ điểm cư dân mới. Tuy nhiên, Pháp không du nhập hoàn chỉnh phương thức tư bản chủ nghĩa vào Việt Nam, mà vẫn duy trì quan hệ kinh tế phong kiến, kết hợp hai phương thức bóc lột tư bản và phong kiến để thu nhiều lợi nhuận. Nền kinh tế Việt Nam chủ yếu vẫn là một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, què quặt và phụ thuộc nặng nề vào nền kinh tế Pháp. Về văn hoá - xã hội, thực dân Pháp thực hiện chính sách “ngu dân” để dễ cai trị, duy trì tệ nạn xã hội vốn có của chế độ phong kiến và tạo nên nhiều tệ nạn xã hội mới, dùng rượu cồn và thuốc phiện để đầu độc các thế hệ người Việt Nam, ra sức tuyên truyền tư tưởng “khai hoá văn minh” của nước “Đại Pháp”… Xã hội Việt Nam có sự biến chuyển về cơ cấu và tính chất. Các giai cấp cũ ít nhiều có thay đổi, các giai cấp, tầng lớp mới lần lượt ra đời. Mỗi giai cấp có địa vị kinh tế, thái độ chính trị và khả năng cách mạng khác nhau.

UEF 16 Bài 2: ĐCSVN ra đời và lãnh đạo CM giải phóng dân tộc (1930-1945) Trong lòng xã hội Việt Nam hình thành nên những mâu thuẫn đan xen nhau, song mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với với thực dân Pháp và tay sai phản động.  Phong trào yêu nƣớc cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Thất bại của phong trào Cần Vương, Yên Thế chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trong việc giải quyết nhiệm vụ giành độc lập dân tộc. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất hệ tư tưởng tư sản tiếp tục ảnh hưởng vào Việt Nam. Mặc dù còn nhiều hạn chế về số lượng, thế lực kinh tế và chính trị, nhưng với tinh thần dân tộc, dân chủ, giai cấp tư sản Việt Nam đã hăng hái bước lên vũ đài chính trị với một phong trào yêu nước sôi nổi, rộng lớn, thu hút đông đảo quần chúng tham gia với những hình thức đấu tranh phong phú. Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam cuối cùng đều thất bại. Nhiệm vụ lịch sử cấp thiết đặt ra cho thế hệ yêu nước đương thời là cần phải có một tổ chức cách mạng tiên phong, có đường lối cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc.

Bài 2: ĐCSVN ra đời và lãnh đạo CM giải phóng dân tộc (1930-1945) 17 UEF 2.1.2 Nguyễn Ái Quốc tìm thấy con đƣờng cứu nƣớc. 5- 6- đi tìm 6- gửi tới Hội 7-1920 tìm thấy con 12- bỏ phiếu tán đường cứu 1919 nghị bản Yêu đường cứu thành Quốc 1911 nước nước đúng 1920 tế III sách của nhân dân An đắn Nam 2.1.3 Phong trào công nhân Việt Nam 1919-1929. 2.1.4 Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị điều kiện cho sự ra đời của Đảng. Sau khi xác định được con đường cách mạng đúng đắn, trở thành người cộng sản, Nguyễn Ái Quốc ra sức hoạt động, chuẩn bị những điều kiện cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Về tư tưởng chính trị, trong những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện lịch sử cụ thể ở thuộc địa, xây dựng nên lý luận giải phóng dân tộc theo khuynh hướng vô sản và truyền bá vào Việt Nam. Về tổ chức, ngày 11-11-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc). Sau khi tiếp xúc với Tâm tâm xã – một tổ chức yêu nước của thanh niên Việt Nam (thành lập năm 1923) và nhận thấy họ không hiểu gì về lý luận, lại càng không biết việc tổ chức, Nguyễn Ái Quốc lựa chọn một số người tích cực và giác ngộ họ, lập ra

UEF 18 Bài 2: ĐCSVN ra đời và lãnh đạo CM giải phóng dân tộc (1930-1945) Cộng sản đoàn (tháng 2-1925) gồm Lê Hồng Phong, Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Lưu Quốc Long, Trương Văn Lĩnh, Lê Quảng Đạt và Lâm Đức Thụ. Trên cơ sở hạt nhân đó, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (6-1925) với cơ quan tuyên truyền là tuần báo Thanh niên. Để đào tạo một đội ngũ cán bộ cách mạng, sau khi đến Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc mở nhiều lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu. Phần lớn học viên là thanh niên, học sinh, trí thức Việt Nam yêu nước. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên là một tổ chức yêu nước có khuynh hướng cộng sản, một tổ chức quá độ để tiến lên thành lập Đảng, một bước chuẩn bị có ý nghĩa quyết định về mặt tổ chức cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam. 2.1.5 Sự hình thành các tổ chức cộng sản và Hội nghị thành lập Đảng. Sự ra đời các tổ chức cộng sản Cuối tháng 3-1929, một số thành viên tiên tiến họp ở nhà số 5D phố Hàm Long (Hà Nội) để thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên, gồm 7 Đảng viên1, do Trần Văn Cung làm bí thư. Tháng 5-1929, tại Đại hội đại biểu của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên họp tại Hương Cảng, Đoàn đại biểu Bắc kỳ do Ngô Gia Tự dẫn đầu kiên quyết đấu tranh đòi thành lập ngay một đảng cộng sản. Yêu cầu đó không được chấp nhận, đoàn đại biểu Bắc kỳ rút khỏi Đại hội về nước, bắt tay vào việc tổ chức đảng cộng sản. Ngày 17-6-1929, tại nhà số 312 Khâm Thiên, Hà Nội, đại biểu các tổ chức cơ sở cộng sản ở Bắc Kỳ họp đại hội, quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng. Trước yêu cầu của phong trào cách mạng và sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng, một số hội viên tiên tiến trong bộ phận của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Trung Quốc và Nam kỳ thành lập An Nam Cộng sản Đảng vào tháng 8 năm 1929. 1 Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Đỗ Ngọc Du, Trịnh Đình Cửu, Trần Văn Cung, Dương Hạc Đính, Kim Tôn.

Bài 2: ĐCSVN ra đời và lãnh đạo CM giải phóng dân tộc (1930-1945) 19 UEF Tháng 9-1929 Những đảng viên tiên tiến của Tân Việt lập ra Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Chỉ trong 4 tháng ở Việt Nam có ba tổ chức cộng sản ra đời, điều đó chứng tỏ xu thế thành lập đảng cộng sản đã trở thành tất yếu trong phong trào dân tộc ở Việt Nam. Các tổ chức cộng sản nhanh chóng xây dựng cơ sở ở các địa phương trong cả nước và trực tiếp tổ chức, lãnh đạo cuộc đấu tranh của quần chúng, làm cho phong trào cách mạng phát triển mạnh hơn. Hội nghị thành lập Đảng Ngày 27-10-1929 Quốc tế Cộng sản gửi những người cộng sản ở Đông Dương tài liệu Về việc thành lập một đảng cộng sản ở Đông Dương. Cùng thời điểm đó, Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm về Hương Cảng (Trung Quốc), chủ trì Hội nghị hợp nhất đảng tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc). Hội nghị bắt đầu họp ngày 6-1-19302. Tham dự Hội nghị có hai đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng (Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh) và hai đại biểu của An Nam cộng sản Đảng (Nguyễn Thiệu và Châu Văn Liêm). Tổng số đảng viên của Đông Dương cộng sản Đảng và An Nam cộng sản Đảng cho tới thời điểm diễn ra Hội nghị hợp nhất là 310 người. 2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 19.

UEF 20 Bài 2: ĐCSVN ra đời và lãnh đạo CM giải phóng dân tộc (1930-1945) Hội nghị hoàn toàn nhất trí, tán thành việc hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam; thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng. Hội nghị cũng vạch kế hoạch hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước và thành lập ban chấp hành trung ương lâm thời. Ngày 24-2-1930, theo yêu cầu của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, Ban Chấp hành Trung ương Lâm thời họp và ra Quyết nghị chấp nhận Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Xác định những nhiệm vụ cụ thể của cách mạng: bao gồm cả hai nội dung dân tộc và dân chủ, chống đế quốc chống phong kiến, song nổi lên hàng đầu là nhiệm vụ chống đế quốc giành độc lập dân tộc. Về lực lượng cách mạng, Đảng chủ trương tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông… đi vào phe vô sản giai cấp; đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít hơn mới làm cho họ đứng trung lập. Lãnh đạo cách mạng là Đảng Cộng sản. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, “liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới nhất là với quần chúng vô sản Pháp”.

Bài 2: ĐCSVN ra đời và lãnh đạo CM giải phóng dân tộc (1930-1945) 21 UEF Quan hệ Tín Nhiệ quốc tế h m chất vụ Lãn h Cƣơng Lực lĩnh lƣợn đạo tháng 2 g Ý nghĩa sự ra đời của Đảng  Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đầu năm 1930 là kết quả tất yếu của phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam trong thời đại mới, là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam sục sôi trong những năm 20 của thế kỷ XX.  Sự ra đời của Đảng với hệ thống tổ chức chặt chẽ và cương lĩnh chính trị đúng đắn đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng về lãnh đạo cách mạng kéo dài mấy chục năm đầu thế kỷ XX. Đó là bước ngoặt vĩ đại trong tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản Việt Nam đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng.  Đảng ra đời làm cho cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới. Từ đây dân tộc Việt Nam tham gia vào sự nghiệp cách mạng thế giới một cách có tổ chức.  Đảng ra đời là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt của cách mạng Việt Nam.

UEF 22 Bài 2: ĐCSVN ra đời và lãnh đạo CM giải phóng dân tộc (1930-1945)  Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là người có công lao lớn trong việc tìm ra con đường cứu nước, chuẩn bị những điều kiện và chủ trì hội nghị hợp nhất, thành lập Đảng. 2.2 ĐẢNG LÃNH ĐẠO QUÁ TR NH ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP DÂN TỘC (1930 - 1945). 2.2.1 Phong trào cách mạng 1930-1935. 2.2.1.1 Cao trào cách mạng 1930-1931. Những năm 1929-1933, cuộc khủng hoảng trầm trọng của chủ nghĩa tư bản, sau đó lan nhanh đến các nước thuộc địa và phụ thuộc, trong đó có Việt Nam, làm cho mọi hoạt động sản xuất đình đốn. Giữa lúc ấy, thực dân Pháp lại tăng cường vơ vét, bóc lột để bù đắp những hậu quả của cuộc khủng hoảng ở chính quốc, làm cho nền kinh tế Việt Nam sa sút nghiêm trọng. Mặt khác, thực dân Pháp tiến hành một chiến dịch khủng bố khốc liệt nhằm đàn áp cuộc khởi nghĩa Yên Bái (2-1930), gây nên bầu không khí chính trị căng thẳng. Từ tháng 5-1930, phong trào phát triển thành cao trào. Ngày 1-5-1930, lần đầu tiên nhân dân Việt Nam kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động. Từ thành phố đến nông thôn ở cả ba miền đất nước xuất hiện nhiều truyền đơn, cờ đỏ búa liềm và những cuộc mít tinh, bãi công, biểu tình, tuần hành v.v… Tháng 9-1930 phong trào cách mạng phát triển đến đỉnh cao với những hình thức đấu tranh quyết liệt, quần chúng vũ trang tự vệ, biểu tình thị uy vũ trang, tiến công vào cơ quan chính quyền thuộc địa ở nhiều địa phương. Trước sức mạnh của quần chúng, bộ máy chính quyền của đế quốc và tay sai ở nhiều huyện bị tê liệt, ở nhiều xã bị tan rã. Các tổ chức đảng ở địa phương chủ động lãnh đạo ban chấp hành nông hội ở thôn, xã đứng ra quản lý mọi mặt đời sống xã hội, thực hiện chuyên chính với kẻ thù, dân chủ với quần chúng lao động, làm chức năng, nhiệm vụ của một chính quyền nhà nước dưới hình thức các ủy ban tự quản theo kiểu Xô viết. Từ ngày 14 đến 31-10-1930 Ban chấp hành Trung ương họp hội nghị lần thứ nhất tại Hương Cảng (Trung Quốc) do Trần Phú chủ trì. Ban chấp hành Trung ương quyết định “bỏ tên Việt Nam cộng sản Đảng mà lấy tên Đông Dương cộng sản Đảng”. Ban chấp hành Trung ương quyết định thông qua Luận cương chánh trị của Đảng

Bài 2: ĐCSVN ra đời và lãnh đạo CM giải phóng dân tộc (1930-1945) 23 UEF Cộng sản Đông Dương. Ban chấp hành Trung ương mới của Đảng được thành lập gồm 6 uỷ viên, do Trần Phú làm Tổng Bí thư. 2.2.1.2 Cuộc đấu tranh khôi phục tổ chức đảng và phong trào quần chúng 1931- 1935. Từ cuối năm 1930, do bị thực dân Pháp khủng bố dữ dội, hàng nghìn chiến sĩ cộng sản, hàng vạn người yêu nước bị bắt, bị giết hoặc bị tù đày. Cách mạng Việt Nam bước vào một giai đoạn đấu tranh cực kỳ gian khổ. Đảng kiên trì giữ vững đường lối chiến lược cách mạng. Trong nhà tù đế quốc, cuộc chiến đấu vẫn còn tiếp diễn. Đầu năm 1932, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Lê Hồng Phong cùng một số đảng viên tổ chức ra Ban lãnh đạo Trung ương, công bố Chương trình hành động của Đảng cộng sản Đông Dương… Nhờ sự những nỗ lực của cán bộ, đảng viên, đến cuối năm 1934 đầu năm 1935 hệ thống tổ chức của Đảng trong nước được khôi phục. Đó là cơ sở để tiến tới Đại hội lần thứ nhất của Đảng. Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng (3-1935) Theo quyết định của Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng, tháng 3-1935 Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng họp ở Ma Cao (Trung Quốc), về dự Đại hội có 13 đại biểu cho các tổ chức Đảng trong nước và ngoài nước. Đại hội thông qua Nghị quyết chính

UEF 24 Bài 2: ĐCSVN ra đời và lãnh đạo CM giải phóng dân tộc (1930-1945) trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết về vận động quần chúng. Đại hội bầu Ban chấp hành Trung ương mới của Đảng gồm 9 uỷ viên chính thức và 4 uỷ viên dự khuyết, trong đó có Lê Hồng Phong, Đình Thanh, Võ Nguyên Hiến, Nguyễn Ái Quốc, Ngô Tuân, Hoàng Đình Giong…, do Lê Hồng Phong làm Tổng Bí thư. 2.2.2 Phong trào dân chủ (1936-1939). 2.2.2.1 Chủ trương mới của Đảng. Chủ nghĩa phát xít xuất hiện và thắng thế ở một số nơi. Nguy cơ chủ nghĩa phát xít và chiến tranh thế giới đe doạ nghiêm trọng nền hoà bình và an ninh quốc tế. Trước tình hình đó, Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản xác định kẻ thù nguy hiểm trước mắt của nhân dân thế giới chưa phải là chủ nghĩa đế quốc nói chung mà là chủ nghĩa phát xít. Nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chưa phải là đấu tranh lật đổ chủ nghĩa tư bản, mà là chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh bảo vệ dân chủ và hòa bình. Để thực hiện nhiệm vụ cấp bách đó, giai cấp công nhân các nước trên thế giới phải thống nhất hàng ngũ, lập mặt trận nhân dân rộng rãi chống phát xít và ngăn chặn chiến tranh thế giới. Trong thời gian này, Mặt trận nhân dân Pháp chống phát xít thành lập từ tháng 5- 1935 do Đảng Cộng sản Pháp làm nòng cốt, đã giành được thắng lợi vang dội trong cuộc tổng tuyển cử năm 1936, dẫn đến sự ra đời của Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp, tạo ra không khí chính trị thuận lợi cho cuộc đấu tranh đòi các quyền tự do, dân chủ, cải thiện đời sống của nhân dân các nước trong hệ thống thuộc địa Pháp. Ở Việt Nam, hậu quả kéo dài của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã tác động sâu sắc đến đời sống của mọi tầng lớp xã hội. Trong khi đó, những người cầm quyền phản động Pháp ở Đông Dương ra sức khủng bố quần chúng, làm cho bầu không khí chính trị và kinh tế hết sức ngột ngạt. Mọi tầng lớp xã hội đều mong muốn có những cải cách dân chủ. Đảng Cộng sản Đông Dương đã phục hồi sau một thời gian đấu tranh cực kỳ gian khổ, kịp thời lãnh đạo nhân dân bước vào một phong trào mới. Tháng 7-1936 Ban chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ hai tại Thượng Hải (Trung Quốc). Hội nghị xác định nhiệm vụ trước mắt của cách mạng

Bài 2: ĐCSVN ra đời và lãnh đạo CM giải phóng dân tộc (1930-1945) 25 UEF Đông Dương là chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình; chuyển hình thức tổ chức bí mật, không hợp pháp sang các hình thức tổ chức và đấu tranh công khai, nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp. 2.2.2.2 Lãnh đạo cuộc vận động dân chủ Cao trào dân chủ 1936-1939 là một bước chuẩn bị lực lượng cho Cách mạng tháng Tám năm 1945. Qua cao trào đó, Đảng đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ đông đảo, dày dạn trong đấu tranh, trưởng thành về mọi mặt và tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm mới. 2.2.3 Phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945 2.2.3.1 Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng Tháng 9-1939 Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Ngày 1-9-1939 phát xít Đức tiến công Ba Lan, hai ngày sau Anh, Pháp tuyên chiến với Đức. Phát xít Đức lần lượt chiếm các nước châu Âu. Đế quốc Pháp vào vòng chiến. Lợi dụng tình hình chiến tranh, chính phủ Đalađiê (Daladier) thi hành một loạt biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong trào cách mạng ở thuộc địa. Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ. Đảng Cộng sản Pháp bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Ở Đông Dương, ngày 28-9-1939 Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định cấm tuyên truyền cộng sản, cấm lưu hành, tàng trữ tài liệu cộng sản, đặt Đảng Cộng sản Đông Dương ra ngoài vòng pháp luật.

UEF 26 Bài 2: ĐCSVN ra đời và lãnh đạo CM giải phóng dân tộc (1930-1945) Tháng 6-1940 Đức tiến công Pháp. Chính phủ phản động Pêtanh (Pétain) lên cầm quyền. Tháng 6-1941 Đức tiến công Liên Xô. Ở Đông Dương, thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến, phát xít hóa bộ máy thống trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng, tập trung lực lượng đánh vào Đảng Cộng sản Đông Dương; thực hiện chính sách “kinh tế chỉ huy” nhằm tăng cường vơ vét sức người, sức của để phục vụ cuộc chiến tranh đế quốc. Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp và tay sai phát triển gay gắt. Tháng 9-1940, phát xít Nhật vào Đông Dương, thực dân Pháp đầu hàng và câu kết với Nhật để thống trị và bóc lột nhân dân Đông Dương. Tháng 11-1939, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp hội nghị tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định). Tham dự hội nghị có Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần… Hội nghị nhận định: trong điều kiện lịch sử mới, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu. Để thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc, Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương, thu hút tất cả các dân tộc, các giai cấp, đảng phái và cá nhân yêu nước ở Đông Dương nhằm chống chiến tranh đế quốc, chống phát xít, đánh đổ đế quốc Pháp và tay sai, giành lại độc lập hoàn toàn cho các dân tộc Đông Dương. Hội nghị đánh dấu sự thay đổi cơ bản về chiến lược cách mạng so với Luận cương chính trị tháng 10-1930 và mở ra một thời kỳ đấu tranh mới, thời kỳ trực tiếp chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Ngày 27-9-1940, nhân khi quân Pháp ở Lạng Sơn bị Nhật tiến đánh phải rút chạy qua đường Bắc Sơn -Thái Nguyên, nhân dân Bắc Sơn dưới sự lãnh đạo của đảng bộ địa phương nổi dậy khởi nghĩa, chiếm đồn Mỏ Nhài, làm chủ châu lỵ Bắc Sơn. Đội du kích Bắc Sơn được thành lập. Ở Nam kỳ, phong trào cách mạng của quần chúng lan rộng ở nhiều nơi. Theo chủ trương của xứ ủy Nam kỳ, một kế hoạch khởi nghĩa vũ trang được gấp rút chuẩn bị. Tháng 11 năm 1940, Hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành Trung ương Đảng họp ở làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh). Tham dự Hội nghị có Trường Chinh, Phan Đăng Lưu, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Trần Đăng Ninh… Hội nghị khẳng định nhiệm vụ trước mắt của Đảng là chuẩn bị lãnh đạo cuộc “võ trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập”.

Bài 2: ĐCSVN ra đời và lãnh đạo CM giải phóng dân tộc (1930-1945) 27 UEF Trước tình hình quốc tế và trong nước diễn ra ngày càng khẩn trương. Tháng 1- 1941, Nguyễn Ái Quốc bí mật trở về Tổ quốc và ở lại Pắc Bó (huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng); bắt tay thực hiện thí điểm chính sách đoàn kết dân tộc để cứu nước, mở lớp huấn luyện để đào tạo cán bộ. Tháng 5-1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương Đảng. Dự hội nghị có Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Phùng Chí Kiên, Hoàng Quốc Việt, cùng một số đại biểu của xứ ủy Bắc Kỳ, Trung kỳ và tổ chức Đảng hoạt động ở ngoài nước. Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc được vạch ra từ Hội nghị tháng 11-1939. 2.2.3.2 Lãnh đạo phong trào chống Pháp - Nhật, chuẩn bị lực lượng cho cuộc khởi nghĩa vũ trang (1940-1945) Từ giữa năm 1941 trở đi, tình hình trong nước và thế giới có nhiều biến chuyển. Tháng 6-1941, phát xít Đức tiến công Liên Xô. Tháng 12-1941, chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ. Ở Đông Dương, đế quốc phát xít Pháp-Nhật tiếp tục đẩy mạnh khủng bố phong trào quần chúng và đàn áp Đảng cộng sản Đông Dương. Ngày 25-10-1941 Việt Minh công bố Tuyên ngôn với đồng bào cả nước: “Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) ra đời”. Cuối năm 1941, Nguyễn Ái Quốc quyết định thành lập đội vũ trang ở Cao Bằng để thúc đẩy phát triển cơ sở chính trị và chuẩn bị xây dựng lực lượng vũ trang. Năm 1943, Đảng công bố bản Đề cương văn hóa Việt Nam, khẳng định văn hóa là một trong ba mặt trận cách mạng do Đảng lãnh đạo. Từ giữa năm 1944 tình hình trong nước và trên thế giới phát triển mau lẹ. Cuộc chiến tranh chống phát xít sắp bước vào giai đoạn kết thúc, quân đội Xô Viết đang phản công quân Đức trên nhiều mặt trận. Căn cứ vào chủ trương của Đảng, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị Sửa soạn khởi nghĩa và ra lời kêu gọi nhân dân “sắm vũ khí! đuổi kẻ thù chung!”. Không khí chuẩn bị cho khởi nghĩa sôi nổi trong khu căn cứ. Ở Cao - Bắc - Lạng, trong không khí cách mạng sục sôi, cấp ủy địa phương gấp rút chuẩn bị phát động chiến tranh du kích trong phạm vi ba tỉnh. Lúc đó, Hồ Chí

UEF 28 Bài 2: ĐCSVN ra đời và lãnh đạo CM giải phóng dân tộc (1930-1945) Minh từ Trung Quốc trở lại Cao Bằng, kịp thời quyết định đình chỉ việc phát động chiến tranh du kích trên quy mô rộng lớn vì chưa đủ điều kiện. 2.2.3.3 Cao trào kháng Nhật cứu nước và tổng khởi nghĩa giành chính quyền (3/1945 - 8/1945) Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Hồng quân Liên Xô truy kích phát xít Đức trên chiến trường châu Âu, giải phóng nhiều nước ở Đông Âu và tiến như vũ bão về phía Béclin. Ở Tây Âu, Anh - Mỹ mở mặt trận thứ hai, đổ quân lên đất Pháp và tiến về phía Tây nước Đức. Công nhân Paris nổi dậy, nước Pháp được giải phóng, chính phủ Đờ Gôn về Paris. Ngày 9-3-1945, Nhật nổ súng đảo chính lật đổ Pháp, độc chiếm Đông Dương. Quân Pháp chống cự rất yếu ớt và nhanh chóng đầu hàng. Sau khi đảo chính thành công, Nhật thi hành một loạt chính sách nhằm củng cố quyền thống trị ở Đông Dương. Dự đoán đúng tình hình Nhật sắp lật Pháp ở Đông Dương, Tổng Bí thư Trường Chinh triệu tập Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng tại làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), ngay trước lúc Nhật nổ súng. Ngày 12-3-1945, Ban thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Kẻ thù chính: phát xít Nhật Phương châm ND Khẩu hiệu: đánh đấu tranh: phát CHỈ THỊ phát xít động chiến tranh Nhật giành du kích chính quyền Chỉ thị chủ trương: phát động một cao trào kháng Nhật Giữa lúc cao trào kháng Nhật cứu nước đang cuồn cuộn dâng lên, ngày 15-5- 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ chủ trương thống nhất các lực lượng vũ trang sẵn có thành Việt Nam giải phóng quân.

Bài 2: ĐCSVN ra đời và lãnh đạo CM giải phóng dân tộc (1930-1945) 29 UEF Ngày 4-6-1945, khu giải phóng Việt Bắc chính thức được thành lập, ủy ban lâm thời khu giải phóng được thành lập. Khu giải phóng trở thành căn cứ địa chính của cách mạng cả nước và là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới. Giữa lúc phong trào đang phát triển mạnh ở cả nông thôn và thành thị, nạn đói diễn ra nghiêm trọng ở các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Xuất phát từ lợi ích sống còn trước mắt của quần chúng, Đảng kịp thời đề ra khẩu hiệu “phá kho thóc, giải quyết nạn đói”. Các tổ chức cứu quốc, các đội tự vệ cứu quốc được thành lập ở nhiều thôn xóm, phố phường. Quần chúng nô nức tự vũ trang. Không khí sửa soạn khởi nghĩa sục sôi trong cả nước. Ngày 14 và 15-8-1945 Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào, quyết định phát động tổng khởi nghĩa, giành lấy chính quyền từ tay phát xít Nhật trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương. Ngày 16-8-1945 Đại hội quốc dân họp tại Tân Trào. Về dự đại hội có khoảng 60 đại biểu của các giới, các đảng phái chính trị, các đoàn thể quần chúng cứu quốc, các dân tộc, tôn giáo trong nước và đại biểu kiều bào ở nước ngoài. Đại hội tán thành quyết định tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, lập Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngay sau Đại hội quốc dân, Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta… Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!”3. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước nhất tề vùng dậy, với ý chí dù có hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng kiên quyết giành cho được độc lập. Từ ngày 14-8-1945 trở đi, các đơn vị Giải phóng quân lần lượt tiến công các đồn Nhật trong các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái v.v…. Ngày 16- 8-1945, một đơn vị Giải phóng quân do Võ Nguyên Giáp chỉ huy tiến về giải phóng thị xã Thái Nguyên. Từ ngày 14 đến ngày 18-8 ở hầu hết các tỉnh miền Bắc, 3 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 596.

UEF 30 Bài 2: ĐCSVN ra đời và lãnh đạo CM giải phóng dân tộc (1930-1945) một số tỉnh miền Trung và miền Nam, quần chúng cách mạng đã nổi dậy giành chính quyền ở cấp xã và huyện. Sáng ngày 19-8, Thủ đô Hà Nội tràn ngập cờ đỏ sao vàng. Cuộc mít tinh chuyển thành biểu tình vũ trang. Quần chúng cách mạng chia thành nhiều đoàn đi chiếm phủ khâm sai, tòa thị chính, trại bảo an binh, sở cảnh sát và các công sở của chính quyền thân Nhật. Binh lính đứng về phía cách mạng. Trước khí thế áp đảo của quần chúng, hơn một vạn quân Nhật ở Hà Nội tê liệt, không dám chống cự. Chính quyền về tay nhân dân. 23/8, giành chính quyền ở Huế. Ở Nam kỳ, 25/8 quần chúng tuần hành chiếm chính quyền ở Sài Gòn. Thắng lợi của khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn và các đô thị khác đập tan các cơ quan đầu não của kẻ thù có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cách mạng trong phạm vi cả nước. Ngày 30-8-1945, một cuộc mít tinh gồm hàng vạn người tham gia ở Ngọ Môn, thành phố Huế, chứng kiến vua Bảo Đại đọc lời thoái vị và giao nộp ấn, kiếm cho đại diện Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 2-9-1945, Lễ độc lập được tổ chức trọng thể tại quảng trường Ba Đình. Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân. Thay mặt Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. 2.2.3.4 Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và bài học của Cách mạng tháng Tám năm 1945 Cách mạng tháng Tám nổ ra trong hoàn cảnh khách quan rất thuận lợi: kẻ thù trực tiếp của nhân dân Việt Nam là phát xít Nhật đã đầu hàng Đồng minh, quân đội Nhật ở Đông Dương mất hết tinh thần chiến đấu, chính quyền thân Nhật rệu rã, tạo ra thời cơ thuận lợi để nhân dân Việt Nam tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Cách mạng tháng Tám là kết quả và đỉnh cao của 15 năm đấu tranh của toàn dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, mà trực tiếp là cao trào vận động giải phóng dân tộc 1939-1945.

Bài 2: ĐCSVN ra đời và lãnh đạo CM giải phóng dân tộc (1930-1945) 31 UEF Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình do Đảng Cộng sản lãnh đạo, lần đầu tiên giành thắng lợi ở một nước thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đánh dấu bước phát triển nhảy vọt trong lịch sử tiến hóa của dân tộc Việt Nam, mở ra kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập tự do. Về mặt quốc tế, Cách mạng tháng Tám thắng lợi đã chọc thủng một khâu quan trọng trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu thời kỳ suy sụp và tan rã không gì cứu vãn nổi của chủ nghĩa thực dân cũ, góp phần lớn lao vào sự nghiệp giải trừ chủ nghĩa thực dân và giải phóng dân tộc trên thế giới. Cách mạng tháng Tám thành công để lại cho Đảng và nhân dân Việt Nam nhiều bài học quý báu, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và khởi nghĩa dân tộc.

UEF 32 Bài 2: ĐCSVN ra đời và lãnh đạo CM giải phóng dân tộc (1930-1945) TÓM TẮT Bối cảnh quốc tế và trong nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đẫn đến yêu cầu phải có một tổ chức Đảng với đường lối đúng đắn để lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc là người đã có công lao lớn trong việc tìm thấy con đường cứu nước, chuẩn bị những điều kiện về chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam (1930). Từ khi ra đời Đảng đã vận động, lãnh đạo quần chúng đấu tranh trải qua 3 phong trào lớn: 1930-1935, 1936-1939 và 1919-1945, kết thúc với thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Tám lật đổ ách thống trị của thực dân, phát xít, giành độc lập cho dân tộc. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành những người làm chủ đất nước. CÂU HỎI ÔN TẬP Câu 1: Tại sao nói sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam là tất yếu lịch sử? Câu 2: Phân tích những công lao của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Câu 3: Phân tích bối cảnh, nội dung và ý nghĩa đường lối chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng trong giai đoạn 1939-1945. Câu 4: Tại sao nói thời cơ trong cách mạng Tháng Tám là “thời cơ ngàn năm có một”? Câu 5: Có nhà sử học Phương Tây gọi cách mạng Tháng Tám là cuộc khởi nghĩa ăn may, khi chính quyền đã có “khoảng trống quyền lực”. Ý kiến anh (chị) như thế nào?

Bài 3: Đảng lãnh đạo kháng chiến chống Pháp, Mỹ (1945-1975) 33 UEF BÀI 3: ĐẢNG LÃNH ĐẠO CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƢỢC (1945 - 1975) MỤC TIÊU  Về kiến thức: Cung cấp cho sinh viên những nội dung lịch sử cơ bản, hệ thống, khách quan về sự lãnh đạo của Đảng đối với hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thời kỳ 1945-1975.  Về tư tưởng: Giúp sinh viên có nhận thức đúng đắn thực tiễn lịch sử và những kinh nghiệm rút ra từ quá trình Đảng lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thời kỳ 1945-1975, nâng cao niềm tin và sự lãnh đạo của Đảng và sức mạnh đoàn kết của toàn dân trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc.  Về kỹ năng: Trang bị kỹ năng tìm chọn tài liệu nghiên cứu, năng lực phân tích sự kiện, phương pháp đúc rút kinh nghiệm lịch sử về sự lãnh đạo kháng chiến của Đảng và ý thức phê phán những nhận thức sai trái về lịch sử của Đảng. 3.1 ĐẢNG LÃNH ĐẠO CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƢỢC LẦN THỨ II (9-1945 - 7-1954) 3.1.1 Hoàn cảnh lịch sử sau thắng lợi của Cách mạng tháng 8 năm 1945 Sau thắng lợi của Cách mạng tháng 8-1945, Đảng ta, cách mạng nước ta đứng trước nhiều thuận lợi, nhưng cũng phải đối mặt với những khó khăn thách thức mới rất to lớn và quyết liệt.  Về thuận lợi: Về quốc tế là sau cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ II, cục diện khu vực và thế giới có những sự thay đổi lớn có lợi cho cách mạng Việt Nam. Liên Xô trở thành thành trì của chủ nghĩa xã hội. Nhiều nước ở Đông Trung Âu, được sự ủng hộ và giúp đỡ của

UEF 34 Bài 3: Đảng lãnh đạo kháng chiến chống Pháp, Mỹ (1945-1975) Liên Xô đã lựa chọn con đường phát triển theo chủ nghĩa xã hội. Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh dâng cao. Việt Nam trở thành quốc gia độc lập, tự do; nhân dân ta trở thành chủ nhân của chế độ xã hội mới: Việt Nam dân chủ cộng hòa. Sự lãnh đạo quyết đoán, sáng tạo với đường lối đúng đắn của Đảng Cộng sản Đông Dương đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh trở thành linh hồn của Đảng, là trung tâm đoàn kết toàn dân tộc, là niềm tin của nhân dân. Các công cụ chuyên chính có nhiệm vụ bảo vệ thành quả Cách mạng Tháng tám được xây dựng và phát triển với những phẩm chất chính trị mới, sức mạnh mới làm chỗ dựa cho cuộc đấu tranh chống thù trong giặc ngoài bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng.  Về khó khăn, thách thức mới: Do lợi ích cục bộ của mình, các nước lớn, không có nước nào ủng hộ lập trường độc lập và công nhận địa vị pháp lý của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Việt Nam nằm trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, bị bao vây cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Hệ thống chính quyền cách mạng mới được thiết lập còn rất non trẻ, thiếu thốn về nhiều mặt và phải chịu tác động tiêu cực từ nhiều thói hư tật xấu của chế độ cũ, đứng trước các thử thách mới hết sức nghiêm trọng. Sau khi giành được chính quyền, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản một nền kinh tế tiêu điều, xơ xác sau chiến tranh tàn khốc; nền tài chính kiệt quệ, tệ nạn xã hội tràn ngập, nhất là nạn mù chữ, thất học, nạn đói. Sự quay trở lại xâm lược Việt Nam lần thứ 2 của thực dân Pháp dưới sự thỏa thuận của phe đế quốc và sự bảo trợ trực tiếp của 2 vạn quân Anh-Ấn; sự có mặt của hơn 20 vạn quân đội Trung Hoa Dân quốc chiếm đóng miền Bắc từ vĩ tuyến 16 trở ra dưới danh nghĩa quân đội Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật theo thỏa thuận Hiệp ước Pôtxdam (7-1945). Ăn theo các đội quân xâm lược là các thế lực đảng phái chính trị phản động; làm tay sai cho ngoại bang kéo vào, các thế lực chống đối trong giai cấp bóc lột cũ, các thế lực phản cách mạng tay sai đế quốc thực dân cũng ngóc đầu dậy chống phá cách mạng rất quyết liệt. Trên đất nước ta lúc này còn khoảng 6

Bài 3: Đảng lãnh đạo kháng chiến chống Pháp, Mỹ (1945-1975) 35 UEF vạn quân đội Nhật hoàng bại trận đang chờ giải giáp. Chưa bao giờ trên đất nước ta có nhiều kẻ thù và đội quân nước ngoài đông đúc như lúc này, tổng số khoảng gần 30 vạn tên. Nền độc lập của Tổ quốc bị đe dọa nghiêm trọng; vận mệnh chính quyền cách mạng như ngàn cân treo sợi tóc. Đảng Cộng sản cầm quyền đang phải đối mặt với những thách thức hết sức to lớn, nghiêm trọng và những khó khăn chồng chất, phức tạp khôn lường. 3.1.2 Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh chống giặc ngoài, thù trong và bƣớc đầu xây dựng xã hội mới từ 9-1945 đến 12-1946 3.1.2.1 Chủ trương lớn của Đảng nhằm bảo vệ chính quyền non trẻ  Ngày 25-11-1945, Ban chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” định hướng con đường đi lên của cách mạng Việt Nam sau khi giành được chính quyền.  Trên cơ sở đường lối chỉ đạo chiến lược và nguyên tắc, phương châm đã vạch ra; phân tích đúng âm mưu của phe đế quốc và từng kẻ thù đối với cách mạng Việt Nam, Đảng đã lãnh đạo toàn dân kiên quyết chống thực dân Pháp quay trở lại xâm lược ở Nam Bộ lần thứ 2 ngay từ ngày 23-9-1945.  Đối với quân đội Trung Hoa dân quốc (quân Tưởng), thực hiện tinh thần Nghị quyết Hội nghị toàn quốc của Đảng ở Tân Trào tháng 8-1945, Đảng chủ trương giao thiệp thân thiện, tránh khiêu khích, tránh xung đột, hòa hoãn, nhân nhượng có nguyên tắc, vận dụng sách lược mềm dẻo, khôn khéo để đối phó với quân Tưởng và các tổ chức đảng phái tay sai thân Tưởng và số cầm đầu Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc), Việt Nam Cách mạng đồng minh hội (Việt Cách) khi vào Việt Nam.  Những chủ trương, biện pháp đúng đắn, sự chỉ đạo kịp thời, quyết đoán, sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cuộc đấu tranh phản cách mạng nói chung, chống giặc ngoài, thù trong nói riêng những năm đầu chính quyền cách mạng được thành lập đã đem lại thắng lợi quan trọng.

UEF 36 Bài 3: Đảng lãnh đạo kháng chiến chống Pháp, Mỹ (1945-1975) 3.1.2.2 Kết quả thực hiện  Chống giặc đói, đẩy lùi nạn đói được xác định là một nhiệm vụ lớn, quan trọng, cấp bách lúc bấy giờ. Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung chỉ đạo, động viên, tập hợp lôi kéo đông đảo nhất mọi tầng lớp nhân dân tham gia với các phong trào lớn: Tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm; lập hũ gạo tiết kiệm và phát động các cuộc vận động lớn trong toàn quốc: Tuần lễ vàng, Quỹ độc lập, Quỹ đảm phụ quốc phòng, Quỹ Nam Bộ kháng chiến...  Chống giặc dốt, xóa nạn mù chữ được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm đặc biệt, coi đó là một “giải pháp quan trọng” để xây dựng hệ thống chính quyền cách mạng và phát huy quyền dân chủ của nhân dân. Đảng chủ trương phát động phong trào “Bình dân học vụ” toàn dân học chữ quốc ngữ để từng bước xóa bỏ nạn dốt; vận động toàn dân xây dựng đời sống mới, nền văn hóa mới để đẩy lùi các tệ nạn, hủ tục, thói quen cũ cản trở tiến bộ... Đến cuối năm 1946 cả nước có thêm hơn 2,5 triệu người dân biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ.  Xây dựng, củng cố hệ thống chính quyền cách mạng. Trước hết để bảo toàn chính quyền cách mạng, làm thất bại âm mưu thâm độc của quân Tưởng “diệt Cộng, cầm Hồ”, Đảng chủ trương tránh mọi âm mưu khiêu khích của quân Tưởng và thực hiện sách lược hòa hoãn, nhân nhượng có nguyên tắc với quân Tưởng ở miền Bắc. Đảng chủ trương rút vào hoạt động bí mật, bằng việc tuyên bố tự giải tán và thành lập Hội những người nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương (11- 1945); về quân sự Quân đội quốc gia Việt Nam được đổi thành Vệ quốc đoàn (9- 1945); Chính phủ Việt Nam nhân nhượng đồng ý đảm bảo cung cấp lương thực, thực phẩm cần thiết cho 20 vạn quân đội Trung Hoa dân quốc làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật khi ở Việt Nam và nhân nhượng cho phép quân Tưởng được sử dụng và lưu hành đồng tiền Quan kim cùng với đồng bạc Đông Dương ở phía Bắc Việt Nam.... Ngày 6-1-1946, toàn dân Việt Nam lần đầu tiên đi bỏ phiếu dân chủ bầu ra Quốc hội đầu tiên với 333 đại biểu. Quốc hội khóa I đã họp phiên đầu tiên tại Nhà hát lớn Hà Nội ngày 2-3-1946 và lập ra Chính phủ chính thức do Cụ Hồ Chí Minh làm chủ

Bài 3: Đảng lãnh đạo kháng chiến chống Pháp, Mỹ (1945-1975) 37 UEF tịch, Quốc hội cũng thành lập ra Ban soạn thảo Hiến pháp mới và sau đó đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Hiến pháp năm 1946)...  Đầu năm 1946, do sự thỏa thuận, dàn xếp của phe đế quốc, Chính phủ Pháp và Chính phủ Trung Hoa dân quốc đã ký kết với nhau bản “Hiệp ước Trùng Khánh” (còn gọi là Hiệp ước Hoa-Pháp ngày 28-2-1946), trong đó có nội dung thỏa thuận để Pháp đưa quân ra Bắc vĩ tuyến 16 làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật thay thế 20 vạn quân Tưởng rút về nước.  Đảng đã nhanh chóng đề ra chủ trương mới, đúng đắn là: tạm hòa với Pháp để đẩy đuổi nhanh quân Tưởng về nước, tranh thủ kéo dài thêm khoảng thời gian hòa hoãn để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Pháp sau này. Thực hiện chủ trương đó, ngày 6-3-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ký với đại diện Chính phủ Cộng hòa Pháp tại Hà Nội là ông J.Xanhtơny bản Hiệp định sơ bộ. Về mặt pháp lý Chính phủ Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện, tài chính và quân đội riêng nằm trong Liên bang Đông Dương thuộc khối Liên hiệp Pháp; Việt Nam đồng ý để 15.000 quân đội Pháp ra miền Bắc thay thế 20 vạn quân đội Tưởng rút về nước và sẽ rút dần trong 5 năm; hai bên sẽ tiếp tục tiến hành đàm phán chính thức... Từ ngày 19-4 đến 10-5- 1946, đại diện Việt Nam và Pháp gặp nhau tại Hội nghị trù bị ở Đà Lạt; từ ngày 31-5 đến 20-10-1946, theo lời mời của Quốc hội và Chính phủ Pháp, Hồ Chủ tịch dẫn đầu phái đoàn của Chính phủ Việt Nam thăm nước Pháp; phái đoàn Quốc hội Việt Nam thăm thân thiện và tham gia đàm phán chính thức giữa 2 bên Việt - Pháp tại Hội nghị Phôngtenơblô (Paris - Pháp) từ ngày 6-7 đến 10-9-1946. Tuy nhiên, do vấp phải lập trường hiếu chiến và dã tâm xâm lược của thực dân Pháp, nên mọi cuộc gặp gỡ, đàm phán Việt - Pháp đều không đạt kết quả tích cực. Vì vậy, để đảm bảo an toàn cho đoàn đại biểu Việt Nam rời Pháp về Việt Nam, trước khi lên đường về nước Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với đại diện của Chính phủ Pháp bản Tạm ước 14/9 tại Mác-xây (Pháp), nhân nhượng thêm cho Pháp một số quyền lợi kinh tế,

UEF 38 Bài 3: Đảng lãnh đạo kháng chiến chống Pháp, Mỹ (1945-1975) văn hóa ở Việt Nam, đồng thời hai bên cam kết đình chỉ chiến sự ở Nam Bộ và tiếp tục đàm phán.... 3.1.3 Đảng lãnh đạo và tổ chức cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lƣợc từ 12-1946 đến 12-1950 3.1.3.1 Đường lối kháng chiến của Đảng  Hoàn cảnh lịch sử  Sau bản Hiệp định sơ bộ 6-3 và Tạm ước 14-9, tình hình chiến sự ở Việt Nam tiếp tục căng thẳng do thái độ hiếu chiến và dã tâm xâm lược của thực dân Pháp ngày càng lộ rõ. Với tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, Hội nghị mở rộng Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp tại làng Vạn Phúc, Hà Đông (nay thuộc quận Hà Đông, thành phố Hà Nội) và kịp thời đề ra chủ trương đối phó; quyết định phát động toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến trong toàn quốc. Ngay tối ngày 19-12-1946 vào lúc 20 giờ, Hà Nội và tất cả các đô thị từ Bắc vĩ tuyến 16 trở ra quân và dân ta đã đồng loạt nổ súng chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp. Ngày 20-12-1946, Hồ Chủ tịch ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, khẳng định quyết tâm kháng chiến của nhân dân ta và vạch ra nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến...  Nội dung đƣờng lối kháng chiến của Đảng Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng ta được hình thành, bổ sung phát triển qua thực tiễn cách mạng, trong đó nội dung tập trung ở các văn bản: Chỉ thị toàn dân kháng chiến (12-12-1946); Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-12-1946); Tác phẩm kháng chiến nhất định thắng lợi của đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh (1947).

Bài 3: Đảng lãnh đạo kháng chiến chống Pháp, Mỹ (1945-1975) 39 UEF 3.1.3.2 Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến từ 12-1946 đến 12-1950  Thực hiện mệnh lệnh toàn quốc kháng chiến, tối ngày 19-12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc của nhân dân ta đồng thời nổ ra ở các đô thị từ vĩ tuyến 16 trở ra phía Bắc. Quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng và lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta dưới sự chỉ đạo của các cấp ủy đảng đã đồng loạt nổ súng tấn công địch mạnh mẽ, quyết liệt trong hầu hết các đô thị và những nơi đóng quân của thực dân Pháp.

UEF 40 Bài 3: Đảng lãnh đạo kháng chiến chống Pháp, Mỹ (1945-1975)  Triển khai thế trận chiến tranh nhân dân đánh bại hoàn toàn kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp. Để đối phó với cuộc tấn công lên căn cứ địa Việt Bắc của giặc Pháp, ngày 15-10- 1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị “phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp”. Sau 75 ngày đêm chiến đấu liên tục (từ ngày 7-10 đến 21-12- 1947), Chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947 đã đánh bại hoàn toàn ảo vọng chiến tranh đánh nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp. Thắng lợi của cuộc phản công Việt Bắc của quân ta đã mở ra bước ngoặt mới cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Tình hình quốc tế có sự chuyển biến có lợi: Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân đạt được nhiều thành tựu mới trong phát triển kinh tế, xây dựng và củng cố hệ thống chính quyền nhà nước. Tháng 10-1949 nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) ra đời. Trên mặt trận ngoại giao, Đảng chủ trương tích cực tranh thủ và đặt quan hệ ngoại giao với các nước trong phe xã hội chủ nghĩa. Lần lượt Trung Quốc (1-1950), Liên Xô (2-1950) và các nước dân chủ nhân dân Đông Âu công nhận Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và ủng hộ, giúp đỡ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Chiến dịch Biên giới thu đông 1950 diễn ra từ ngày 16-9 đến 14-10 trải dài dọc theo tuyến biên giới Việt - Trung từ Đình Lập (Móng Cái) đến thị xã Cao Bằng (Cao Bằng). Đây là chiến dịch quân sự lớn đầu tiên do quân ta chủ động mở, là chiến dịch hết sức quan trọng, đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thị sát và trực tiếp chỉ đạo chiến dịch này. 3.1.4 Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến thắng lợi từ 1-1951 đến 7-1954 3.1.4.1 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng Để đưa cuộc kháng chiến chuyển sang giai đoạn phát triển mới với khí thế mới, từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951, Đảng triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II tại thôn Chinh, xã Kim Bình, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang.

Bài 3: Đảng lãnh đạo kháng chiến chống Pháp, Mỹ (1945-1975) 41 UEF Đại hội Đảng lần thứ II thành công đánh dấu bước trưởng thành mới của Đảng ta về mọi mặt, nhất là về công tác xây dựng Đảng cầm quyền; đây là đại hội “thúc đẩy kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và xây dựng Đảng Lao động Việt Nam”. 3.1.4.2 Đảng chỉ đạo và tổ chức cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi  Để đối phó và làm thất bại Kế hoạch Đờ Lát Đờ Tátxinhi, Đảng chủ trương mở liên tiếp 3 chiến dịch tiến công quân sự có quy mô lớn đó là các chiến dịch mang biệt danh: Trần Hưng Đạo (12-1950), Hoàng Hoa Thám (3- 1951), Quang Trung (5-1951) đánh vào vùng chiếm đóng của địch ở một số địa bàn trung du và đồng bằng Bắc Bộ, nhằm tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch, tạo điều kiện phát triển cuộc chiến tranh du kích vùng sau lưng địch. Tiếp đó, ta mở chiến dịch Hòa Bình (12- 1951) đánh vào chỗ yếu của địch, phát huy lợi thế của ta và giành được thắng lợi to lớn. Thu đông 1952 Đảng chủ trương mở tiếp chiến dịch Tây Bắc nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng một phần đất đai và nhân dân vùng Tây Bắc. Sau hơn 2 tháng chiến đấu quyết liệt, gian khổ ta đã làm chủ vùng đất đai rộng lớn, địch chỉ còn đóng giữ được ở thị xã Lai Châu và Nà Sản (Sơn La). Tháng 4-1953 phát huy thắng lợi của các chiến dịch quân sự trong nước, Đảng

UEF 42 Bài 3: Đảng lãnh đạo kháng chiến chống Pháp, Mỹ (1945-1975) quyết định phối hợp với cách mạng Lào mở chiến dịch Thượng Lào (địa bàn 2 tỉnh Hủa Phăn và Xiêng Khoảng), giải phóng thêm một phần đất đai, giúp Chính phủ kháng chiến Lào xây dựng và mở rộng khu căn cứ địa, đồng thời phá thế bố trí chiến lược của thực dân Pháp ở Bắc Đông Dương. Quân đội Pháp mắc kẹt trong mâu thuẫn giữa tập trung và chiếm giữ, giữa tiến công và phòng ngự, giữa bảo vệ đồng bằng Bắc Bộ và bảo vệ vùng Thượng Lào... Nước Pháp lúng túng, bị động lệ thuộc ngày càng sâu vào viện trợ quân sự Mỹ; giới quân sự Pháp hung hăng, tuyệt vọng đang tìm mọi cố gắng đẩy mạnh chiến tranh hòng tìm một lối thoát trong danh dự. Tháng 5-1953 được sự thỏa thuận, đồng tình và hối thúc của Mỹ, Chính phủ Pháp quyết định của Đại tướng H.Nava đang đảm nhiệm chức vụ Tổng Tham mưu trưởng lục quân khối NATO sang làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Tháng 7-1953, Nava đã vạch ra kế hoạch chính trị-quân sự mới lấy tên là Kế hoạch Nava và đã được Hội đồng Quốc phòng Pháp nhanh chóng thông qua. Cuối tháng 9-1953, Hội nghị Bộ Chính trị họp về nhiệm vụ quân sự 1953-1954 và quyết định thông qua chủ trương tác chiến đông xuân 1953-1954 với phương châm “tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt”. Nghị quyết quan trọng này Bộ chính trị đã mở đường đi tới những thắng lợi lịch sử trong chiến cuộc Đông xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ. Để tạo điều kiện thuận lợi cho trận quyết chiến chiến lược ở Điện Biên Phủ và góp phần nghi binh, phân tán lực lượng địch trên chiến trường Đông Dương, Bộ Tổng tư lệnh chỉ đạo các đơn vị mở các cuộc tấn công địch đồng loạt, mạnh mẽ trên các hướng chiến lược quan trọng, như: Lai Châu (12-1953); Trung Lào (12-1953), Hạ Lào và Đông Campuchia (12-1953); mặt trận Tây Nguyên (1-1954); Thượng Lào (1-1954). Một số địa bàn quan trọng khác ở Bình Trị Thiên, cực Nam Trung Bộ, Nam Bộ ta tổ chức tấn công địch kết hợp phát động quần chúng phá tề, trừ gian, mở chiến dịch địch, ngụy vận, phá hủy giao thông, chiến tranh du kích... Từ tháng 12-1953, chiến dịch Điện biên Phủ được ráo riết chuẩn bị. Thực hiện quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị và chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quân đội ta đã tập trung 33 vạn quân với mọi nỗ lực cao nhất bao vây chặt Điện Biên Phủ. Để bảo đảm chắc thắng, Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã quyết đoán kịp thời

Bài 3: Đảng lãnh đạo kháng chiến chống Pháp, Mỹ (1945-1975) 43 UEF chuyển hướng phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”, “đánh chắc thắng”. Ngày 13/3/1954 quân ta nổ súng tấn công địch ở phân khu phía Bắc trung tâm Mường Thanh, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ. Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra theo 3 đợt: đợt I từ ngày 13-3 đến 26-3 ta tấn công vào các vị trí địch ở phía Bắc và Đông Bắc trung tâm Mường Thanh; đợt II từ ngày 30-3 đến 28-4 tập trung tấn công địch tại các ngọn đồi phía Đông, trong đó có đồi A1- cứ điểm phòng ngự quan trọng nhất, mạnh nhất ở phía Đông Mường Thanh; đợt III diễn ra từ ngày 1-5 đến 7-5-1954 ta tập trung tấn công tiêu diệt các cứ điểm ở phía Đông, chuyển sang tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Chiến thắng vĩ đại “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” ở Điện Biên Phủ là chiến thắng của toàn dân tộc Việt Nam, của lòng yêu nước sâu sắc, ý chí và khát vọng độc lập tự do của nhân dân Việt Nam mà nòng cốt là lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Đánh dấu sự thất bại thảm hại của chủ nghĩa thực dân Pháp, của quân đội Pháp và hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, thực dân trong thế kỷ XX. Với thắng lợi to lớn, vang dội ở Điện Biên Phủ và các mặt trận khác trên toàn chiến trường Đông Dương trong chiến cuộc Đông-Xuân 1953-1954, nước Pháp không còn sự lựa chọn nào khác, cùng với các nước Mỹ, Anh, Liên Xô, Trung Quốc đồng ý triệu tập Hội nghị Giơnevơ (Thụy Sĩ) bàn về lập lại hòa bình ở Đông Dương với sự tham gia của các nước hữu quan. Với thiện chí hòa bình, mong muốn chấm dứt chiến tranh, ngày 8-5-1954 phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Văn Đồng dẫn đầu đến Hội nghị với tư thế của một dân tộc chiến thắng. Sau 75 ngày đàm phán căng thẳng, gay go, phức tạp, trải qua 8 phiên họp toàn thể, 23 phiên họp hẹp và phải chịu nhiều tác động, áp lực của khách quan và sức ép của các nước lớn, nhưng với tinh thần chủ động, kiên trì đấu tranh, giữ vững nguyên tắc, nhân nhượng có điều kiện, ngày 20-7-1954 phía ta đã chấp nhận ký kết bản Hiệp định Giơnevơ. Tinh thần cao nhất của bản Hiệp định là: Pháp và các nước tham dự Hội nghị long trọng cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam, Lào, Campuchia là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước đó.

UEF 44 Bài 3: Đảng lãnh đạo kháng chiến chống Pháp, Mỹ (1945-1975) 3.1.5 Ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm của Đảng về lãnh đạo kháng chiến 3.1.5.1 Ý nghĩa thắng lợi của cuộc kháng chiến Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đã giành được thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử quan trọng đối với sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam; có tính lan tỏa rộng lớn trong khu vực và mang tầm vóc thời đại sâu sắc. Đã đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược có quy mô lớn của quân đội nhà nghề có tiềm lực quân sự và kinh tế hùng mạnh với các trang bị vũ khí, công nghệ khoa học kỹ thuật tiên tiến, hiện đại; được điều hành bởi các nhà chính trị lão luyện, các tướng tá quân sự tài ba của Pháp-Mỹ. Lần đầu tiên trong lịch sử phát triển giải phóng dân tộc, một nước thuộc địa nhỏ bé đã đánh thắng một cường quốc thực dân, nó có tác dụng cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ ở các châu lục Á, Phi, Mỹ Latinh. 3.1.5.2 Kinh nghiệm của Đảng về lãnh đạo kháng chiến Thắng lợi của cuộc kháng chiến, ghi nhận sự phát triển và thành công trong lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh giải phóng dân tộc của Đảng Lao động Việt Nam và để lại nhiều bài học, kinh nghiệm quý báu.  Một là, đề ra đường lối đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn lịch sử của cuộc kháng chiến ngay từ những ngày đầu.  Hai là, kết hợp chặt chẽ và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ cơ bản vừa kháng chiến vừa kiến quốc, chống đế quốc và chống phong kiến.  Ba là, ngày càng hoàn thiện phương thức lãnh đạo, tổ chức điều hành cuộc kháng chiến phù hợp với đặc thù của từng giai đoạn.  Bốn là, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích một cách thích hợp, đáp ứng kịp thời yêu cầu của nhiệm vụ chính trị-quân sự của cuộc kháng chiến.  Năm là, coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với cuộc kháng chiến trên tất cả mọi lĩnh vực, mặt trận.

Bài 3: Đảng lãnh đạo kháng chiến chống Pháp, Mỹ (1945-1975) 45 UEF 3.2 ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở MIỀN BẮC VÀ KHÁNG CHIẾN CHỐNG ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƢỢC, GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƢỚC (1954-1975) 3.2.1 Trong giai đoạn 1954-1965 3.2.1.1 Khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công (1954-1960) Sau ngày Hiệp định Giơnevơ (7-1954) được ký kết, cách mạng Việt Nam có những đặc điểm và thuận lợi, khó khăn mới. Trên trường quốc tế, thuận lợi của cách mạng Việt Nam là hệ thống xã hội chủ nghĩa tiếp tục lớn mạnh cả về kinh tế, quân sự, khoa học kỹ thuật, nhất là sự lớn mạnh của Liên Xô. Phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển. Phong trào hòa bình, dân chủ lên cao ở các nước tư bản. Bất lợi là: xuất hiện đế quốc Mỹ hùng mạnh có âm mưu làm bá chủ thế giới, với các chiến lược toàn cầu phản cách mạng được các đời tổng thống nối tiếp nhau xây dựng và thực hiện. Thế giới đi vào thời kỳ chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang. Xuất hiện sự bất đồng, chia rẽ trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, nhất là giữa Liên Xô và Trung Quốc. Ở trong nước, thuận lợi là đã có miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, làm căn cứ địa hậu phương cho cả nước. Thế và lực của cách mạng đã lớn mạnh hơn trước sau 9 năm kháng chiến. Có ý chí độc lập thống nhất của nhân dân cả nước. Khó khăn là: đất nước chia làm hai miền, có chế độ chính trị khác nhau, miền Nam do đế quốc, tay sai kiểm soát, không chịu thực hiện hòa bình thống nhất đất nước. Kinh tế miền Bắc nghèo nàn, lạc hậu. Đế quốc Mỹ trở thành kẻ thù trực tiếp của nhân dân Việt Nam. Tình hình phức tạp nêu trên đã đặt Đảng ta trước một yêu cầu bức thiết là phải vạch ra đường lối chiến lược đúng đắn để đưa cách mạng Việt Nam tiến lên phù hợp với tình hình mới của đất nước và phù hợp với xu thế phát triển chung của thời đại. Trải qua nhiều hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, chủ trương chiến lược cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới của Đảng từng bước hình thành. Về chủ trương đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sau khi miền Bắc được giải phóng, Trung ương Đảng đã chủ trương chuyển miền Bắc sang giai đoạn mới: cách mạng xã hội chủ nghĩa

UEF 46 Bài 3: Đảng lãnh đạo kháng chiến chống Pháp, Mỹ (1945-1975) Trước tinh thần đấu tranh của nhân dân ta, địch đã phải rút quân theo đúng Hiệp định. Kết quả của ba năm phát triển kinh tế-văn hóa và cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958- 1960) đã tạo nên những chuyển biến cách mạng trong nền kinh tế và xã hội ở miền Bắc nước ta. Miền Bắc được củng cố, từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội và trở thành hậu phương ổn định, vững mạnh đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Ở miền Nam, từ năm 1954, lợi dụng sự thất bại và khó khăn của Pháp, đế quốc Mỹ đã nhảy vào thay chân Pháp thống trị miền Nam Việt Nam. Âm mưu xâm lược của Mỹ đối với miền Nam là biến nơi đây thành thuộc địa kiểu mới, chia cắt lâu dài Việt Nam; xây dựng miền Nam thành một căn cứ quân sự để tiến công miền Bắc và hệ thống xã hội chủ nghĩa từ phía Đông Nam khi có điều kiện; biến miền Nam thành một mắt xích trong hệ thống căn cứ quân sự ở Đông Nam Á nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội xuống vùng này. Chính sách khủng bố và chiến tranh đó đã làm cho mâu thuẫn giữa đế quốc Mỹ và tay sai với nhân dân miền Nam Việt Nam thêm gay gắt, làm cho tình thế cách mạng chín muồi, dẫn đến bùng nổ các cuộc khởi nghĩa của quần chúng. Đáp ứng yêu cầu đó, tháng 1-1959, Hội nghị Trung ương lần thứ 15 đã ra nghị quyết về cách mạng miền Nam.

Bài 3: Đảng lãnh đạo kháng chiến chống Pháp, Mỹ (1945-1975) 47 UEF Sự hậu thuẫn và chi viện của miền Bắc cho cách mạng miền Nam được đẩy mạnh. Đường vận tải mang tên Hồ Chí Minh được hình thành và nối dài, cả trên bộ theo dãy Trường Sơn (đường 559) và trên biển (đường 759). Ngày 17-1-1960, ở Bến Tre, hình thức khởi nghĩa đồng loạt (đồng khởi) bắt đầu bùng nổ ở huyện Mỏ Cày, sau đó lan ra các huyện Minh Tân, Giồng Trôm, Châu Thành, Ba Tri, Thạnh Phú, rồi nhanh chóng mở rộng ra khắp các tình đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên và một số nơi thuộc các tỉnh Trung bộ. Hệ thống kìm kẹp của địch ở xã, ấp bị tê liệt và tan vỡ từng mảng lớn. Từ thắng lợi của phong trào Đồng khởi, ngày 20-12-1960, tại xã Tân Lập (Tây Ninh), Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập, do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch. Thắng lợi của phong trào Đồng khởi là bước nhảy vọt có ý nghĩa lịch sử của cách mạng miền Nam, chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công. 3.2.1.2 Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, phát triển thế tiến các của cách mạng miền Nam (1961-1965) Tháng 9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội. Trong diễn văn khai mạc, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”4. 4 Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 12, tr. 673.

UEF 48 Bài 3: Đảng lãnh đạo kháng chiến chống Pháp, Mỹ (1945-1975) Đại hội đã thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và thông qua Nghị quyết về Nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới, thông qua Báo cáo về xây dựng Đảng và báo cáo về Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,... Tuy vẫn còn một số hạn chế trong đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa như: nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn giản đơn, chưa có dự kiến về chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; song thành công cơ bản, to lớn nhất của Đại hội lần thứ III của Đảng là đã hoàn chỉnh đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm thực hiện mục tiêu chung trước mắt của cả nước là giải phóng miền Nam, hòa bình thống nhất Tổ quốc. Trên cơ sở miền Bắc đã hoàn thành kế hoạch ba năm cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958-1960), Đại hội lần thứ III của Đảng đã đề ra và chỉ đạo thực hiện kế hoạch năm năm lần thứ nhất (1961-1965) nhằm xây dựng bước đầu cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Trong những năm thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), miền Bắc xã hội chủ nghĩa đã không ngừng tăng cường chi viện cách mạng miền Nam. Tính chung, năm 1965 số bộ đội từ miền Bắc được đưa vào miền Nam tăng 9 lần, số vật chất tăng 10 lần so với năm 1961. Ở miền Nam, từ năm 1961, do thất bại trong thực hiện hình thức điển hình của chủ nghĩa thực dân mới, đế quốc Mỹ đã chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, một bộ phận trong chiến lược toàn cầu “Phản ứng linh hoạt”. Với công thức “cố vấn, vũ khí Mỹ và quân chủ lực Việt Nam Cộng hòa”, Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm triển khai thực hiện kế hoạch bình định miền Nam trong vòng 18 tháng, dự định lập 17.000 ấp chiến lược là “quốc sách”. Để tăng cường sự chỉ đạo của Trung ương Đảng đối với cách mạng miền Nam, tháng 10-1961, Trung ương Cục miền Nam được thành lập, do Nguyễn Văn Linh làm

Bài 3: Đảng lãnh đạo kháng chiến chống Pháp, Mỹ (1945-1975) 49 UEF Bí thư. Đảng bộ miền Nam được kiện toàn với hệ thống tổ chức thống nhất, tập trung từ Trung ương Cục đến các chi bộ. Ngày 15-2-1961, các lực lượng vũ trang ở miền Nam được thống nhất với tên gọi Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Tháng 3-1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt, biểu thị khối đại đoàn kết và quyết tâm chiến đấu bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của toàn thể nhân dân. Đến đầu năm 1965, các công cụ, chỗ dựa của “chiến tranh đặc biệt” là ngụy quân ngụy quyền, ấp chiến lược, đô thị đều bị lung lay tận gốc. Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ được triển khai đến mức cao nhất đã hoàn toàn bị phá sản. Đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ là một thắng lợi to lớn nữa có ý nghĩa chiến lược của quân và dân ta ở miền Nam. Thắng lợi này tạo cơ sở vững chắc để đưa cách mạng miền Nam tiếp tục tiến lên. 3.2.2 Trong giai đoạn 1965-1975 3.2.2.1 Phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và đường lối kháng chiến của Đảng Trước nguy cơ thất bại hoàn toàn của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, để cứu vãn cơ đồ chủ nghĩa thực dân mới, ngăn chặn sự sụp đổ của chính quyền và quân đội Sài Gòn, chính quyền của Tổng thống Mỹ Giôn xơn quyết định tiến hành chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam.

UEF 50 Bài 3: Đảng lãnh đạo kháng chiến chống Pháp, Mỹ (1945-1975) Chiến tranh lan rộng ra cả nước đã đặt vận mệnh của dân tộc ta trước những thách thức nghiêm trọng. Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ 11 (3-1965) và Hội nghị lần thứ 12 (12-1965) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên phạm vi toàn quốc. Nội dung đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong giai đoạn mới là sự kế thừa và phát triển sáng tạo đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt Nam đã được Đảng đề ra tại Đại hội lần thứ III (1960). Nghị quyết Trung ương lần thứ 11 và lần thứ 12 năm 1965 với nội dung như trên thể hiện tư tưởng nắm vững, giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng của Đảng và quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc của dân tộc ta. Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính trong hoàn cảnh mới, cơ sở để Đảng lãnh đạo đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đi tới thắng lợi vẻ vang. 3.2.2.2 Lãnh đạo miền Bắc xây dựng hậu phương, chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, chi viện miền Nam (1965-1968) Từ ngày 5-8-1964, sau khi dựng lên “sự kiện vịnh Bắc bộ” nhằm lấy cớ, đế quốc Mỹ đã dùng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc Việt Nam. Cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ diễn ra rất ác liệt kể từ đầu tháng 2-1965, với ý đồ đưa miền Bắc trở về thời kỳ đồ đá; phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc;


Like this book? You can publish your book online for free in a few minutes!
Create your own flipbook