Important Announcement
PubHTML5 Scheduled Server Maintenance on (GMT) Sunday, June 26th, 2:00 am - 8:00 am.
PubHTML5 site will be inoperative during the times indicated!

Home Explore TV101 TÀI LIỆU -Document

TV101 TÀI LIỆU -Document

Published by tuan69t, 2021-08-26 11:01:42

Description: TV101 TÀI LIỆU -Document

Search

Read the Text Version

Dữ liệu được đưa vào Các quá trình xử lí Thông tin được xuất ra Kết quả Inputs  Processes  Outputs  Outcomes Mô hình này giải thích việc các thư viện đã đi xa ý kiến về chức năng chỉ xây dựng các bộ sưu tập đối với thông tin được đưa ra đáp ứng những sự mong đợi của người sử dụng hay các khách hàng của thư viện. Đây là những “thông tin được xuất ra” mà chúng ta hy vọng sẽ mang lại “kết quả” tích cực (điều mà chúng ta không thể kiểm soát). Không phải rằng chúng ta đang đạt được những thông tin được xuất ra, nhiều thư viện đã cố gắng cải thiện khả năng xảy ra rằng sẽ có những kết quả tốt cho người sử dụng thông qua các hoạt động như các lớp học chuyên gia cho người sử dụng, dạy cho họ cách đánh giá chất lượng thông tin, làm thế nào để hướng dẫn/chỉ cách tìm kiếm nâng cao hơn. Thường thì các hoạt động này được đưa vào trong các chương trình Phổ cập Thông tin. Theo mô hình những hệ thống này, chúng ta thấy rõ rằng thư viện hiện đại hầu hết ở các nước phát triển trên thế giới là những gì chúng ta gọi là “thư viện bán tự động” (hybric library). Brophy định nghĩa điền này ở trang 51. Bản chất của thư viện bán tự động là nó là một loại hình thư viện mà trong đó các hoạt động truyền thống và hiện đại đi cùng với nhau. Đó là, các nguồn tài nguyên vật lý, những quyển sách trên kệ, tiếp tục giữ vai trò trong việc cung cấp các dịch vụ, và cùng với nó là sự gia tăng những sự chọn lựa theo khuynh hướng công nghệ như những bộ sưu tập các tài liệu điện tử, các nguồn tài nguyên điện tử như những sản phẩm tham khảo chuyên ngành và các cơ sở dữ liệu khác. Cả hai được kết hợp để mang đến cho khách hàng và người dùng tin nhiều sự lựa chọn phù hợp với những yêu cầu của họ, và cũng để làm cho thư viện có thể phổ biến các nguồn tài nguyên của nó một cách hiệu quả hơn. Thư viện đại học Một thư viện đại học có thể được định nghĩa là “một thư viện mà là một phần của cơ quan/tổ chức nghiên cứu như một trường cao đẳng hay trường đại học. Một thư viện đại học hỗ trợ chương trình học và nhu cầu nghiên cứu của các sinh viên, các khoa và đội ngũ cán bộ.” <http://www.usg.edu/galileo/skills/ollc_glossary.html> Trong sự cung cấp toàn cảnh các dịch vụ thông tin ở nhiều nước, thư viện đại học được xem là bản mẫu về dịch vụ thư viện chất lượng. Nếu bạn nghĩ đến “những thư viện quy môcủa thế giới”, điều gì xuất hiện trong suy nghĩ của bạn? Ví dụ, có thể nó là một danh sách bao gồm Thư viện Bodleian ở Đại học Oxford, Thư viện Đại học Cambridge, Thư viện Senate House ở Đại học London (Luân Đôn), Thư viện Đại học Harvard, Thư viện đại học Peking và nhiều thư viện khác – các thư viện đại học thật sự được cho là trong số những thư viện quy mô nhất trên thế giới. Nhưng chúng ta phải giái thích rõ điều này. Thứ nhất, những thư viện này phát triển hơn hàng trăm năm, và nó trở nên đáng chú ý nhất cho chiều sâu và bề rộng của những bộ sưu tập, điều mà họ tiếp tục duy trì. Cùng lúc, các thư viện thế kỉ 21 đã phát triển một sự ám ảnh cho đặc tính dịch vụ, các dịch vụ khách hàng, và những thư viện quỹ mô với các bộ sưu tập đã không luôn luôn thay đổi để bắt kịp khuynh hướng này một cách nhanh chóng – các thư viện có thể có những lí do hay cho việc làm như thế, vì lịch sử có thể đề nghị với các thư viện rằng “những mốt nhất thời” hiện tại không luôn luôn có giá trị với sự nhiệt tình quá mức. 50

Điểm thứ hai đáng ghi nhớ là các trường đại học và các thư viện đại diện không chỉ một phạm trừu của thư viện đại học. Ví dụ, ở Úc và New Zealand, giới thư viện thích nói đến “thư viện mức thứ ba”; đây là những thư viện ở bất cứ những cơ quan giáo dục sau mức thứ hai, bao gầm những trường đại học, các trường cao đẳng giáo dục kỹ thuật, trường đại học bách khoa, …. Một điều gì đó tương tự ứng dụng ở Mĩ, nơi mà các cơ quan giáo dục bao gồm cá các trường đại học (thường lớn hơn, các trung tâm nghiên cứu nhiều bậc như Đại học Michigan, Đại học Chicago,…) và những trường đại học chuyên ngành nhỏ hơn, cấp bậc giới hạn (như Đại học Simmon, Đại học William và Mary,…). Điều này ám chỉ rằng các thư viện đại học thay đổi một cách đáng kể, từ bộ sưu tập mang tính lịch sử to lớn ở một địa điểm chủ yếu (Thư viện Bodleian ở Oxford), đến bộ sưu tập ở nhiều chi nhánh của trường (Đại học Charles Sturt ở Úc với 7 chi nhánh), đến bộ sưu tập nhỏ hơn chỉ thuộc một địa điểm phục vụ cán bộ và sinh viên thuộc một một lĩnh vực hay chuyên ngành (Đại học Dartmouth ở Mĩ). Chính sự đa dạng về kích cỡ, loại hình và chiều sâu làm cho các thư viện đại học thú vị hơn để học tập và để làm việc. Chính xác một thư viện đại học ở thế kỉ thứ 21 là gì? Đây là một câu hỏi hay cho việc bắt đầu xem xét loại hình thư viện này, và đó chính là câu hỏi mà Giáo sư Peter Brophy đưa ra trong các chương sách của ông trong quyển The Academic Library. Hãy đọc chương này. ! Now read: Peter Brophy, ‘The Library in the Institution’, Chapter 3 in The Academic Library. 2nd ed. (London: Facet Publishing, 2005), pp. 46-59. Trong chương này Brophy cung cấp một bản tóm tắt rất hay về những gì các thư viện đại học làm. Ông bắt đầu một cách khá hợp lí với Five Laws of Library Science (Năm Điều luật về Khoa học Thư viện), được viết bởi một thủ thư người Ấn Độ vĩ đại, S.R Ranganathan, người đã nghiên cứu tại trường Đại học Luân Đôn. (Không nên bỏ qua rằng Ấn Độ vẫn giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển những ý tưởng đổi mới và những dịch vụ thư viện chất lượng cao trong khu vực Châu Á, và người Việt Nam có thể trải qua sự huấu luyện chuyên nghiệp tại các cơ quan của Ấn Độ.) Năm Điều luật này vẫn còn giá trị đến ngày hôm nay, mặc dù một vài rắc rối với các thuật ngữ được chọn bởi Ranganathan, một cácch chính xác vì những lí do được ghi chú bởi Brophy: chúng nhấn mạnh rằng một mặt các thư viện là về những nguồn tài nguyên thông tin, mặc khác là về những người sử dụng các nguồn tài nguyên này. Chính việc kết hợp hai lí do này là chìa khóa cho sự thành công thư viện đại học, và điều đó đã tiến triển nổi bật trong nhiều năm qua. ? Đối với Việt Nam, và dựa vào sự hiểu biết của bạn về một trường đại học là gì và nó có chức năng gì, bạn nghĩ là Năm điều luật của Ranganathan có thích hợp không? Bằng những cách thức nào? Khi bạn xem xét vấn đề này, thay đổi “sách vở” sang “thông tin”, và thay đổi “người đọc” sang “người sử dụng” hay “khách hàng”. Các vai trò chủ yếu của nguồn tài nguyên thông tin và người dùng tin được nhấn mạnh trong hai chương trong quyển The Information Society (Xã hội thông tin) của Giáo sư Feather. Các thư viện đầu tiên tồn tại như là những điểm tập hợp những thông tin được ghi lại, như là các 51

trung tâm và những kho lưu trữ tài liệu an toàn. Chỉ có một số ít người có thể thật sự đọc được, và ý tưởng chung rằng các tài liệu có giá trị sẽ được giữ gìn cho giới thượng lưu và học giả (thành viên của hoàng gia, các linh mục, thành viên của tòa án và nhà thờ). Chức năng của các thư viện là sự giữ gìn hơn là sự phổ biến và sử dụng. Điều này cư thế tiếp tục trong hàng ngàn năm, thậm chí sau khi các trường đại học lớn được thành lập vào thời Trung Cổ ở châu Âu - ở Bologna, Paris, Oxford, Cambridge. Sau đó, sách vở và những tài liệu khác trở nên quý giá và được đưa lên kệ sách, và có nhiều nội quy quy định ai có thể xem tài liệu này. Các thư viện vẫn còn quan tâm đến các dữ liệu được nhận vào – hay chú trọng việc xây dựng vốn tài liệu/các bộ sưu tập. Đối với Việt nam, đây là giai đoạn náo động nhất đối với các thư viện đại học, đó là nó bắt đầu nhận biết những vai trò chủ yếu của các nguồn tài nguyên thông tin và người sử dụng, thậm chí cuộc cách mạng điện tử đang thay đổi suy nghĩ của chúng ta về những vai trò của thư viện. Cho đến bây giờ, khi bàn than người Việt Nam thừa nhận, các thư viện đại học là những bộ sưu tập các tài liệu được bảo vệ một cách cẩn thận, người sử dụng rất khó để tiếp cận. Bây giờ, qua sự phát triển của các thư viện bán tự động ở Đại học Huế, Đại học Cần Thơ và ởi một nơi nào khác, chúng ta bắt đầu thấy trọng tâm của ý kiến của Rangahathan là thông tin là để sử dụng, và các thư viện đại học có nghĩa vụ cụ thể trong cách nhìn nhận này, điều đó sẽ trở nên dễ dàng hơn bởi cuộc cách mạng điện tử. Giáo sư Brophy cũng phát thảo các chức năng chính của một thư viện đại học, cho dù nó là thư viện truyền thống, bán tự động hay trực tuyến (tất cá tài liệu ở dạng điện tử). Các chức năng này có thể được tóm tắt dưới 5 chức năng chính (Brophy trình bày 7 chức năng, nhưng hai trong số 7 chức năng này không cần thiết cho dịch vụ chất lượng cho người sử dụng): 1. Xử lí các nguồn tài nguyên để cung cấp sự tiếp cận của người sử dụng ở bất cứ nơi nào (bao gồm việc biên mục và truy cập vào cơ sở dữ liệu OPAC) 2. Cung cấp các dịch vụ phân phát tài liệu bằng nhiều phương tiện (tại quầy, từ xa, bản sao dạng in ấn, bản sao dang điện tử,…) và từ nhiều nguồn, cả trong nước và quốc tế. 3. Cung cấp không gian học tập thích hợp và những tiện nghi liên quan (máy photocopy, ) 4. Cung cấp các dịch vụ tham khảo và thư vấn để giúp người sử dụng tạo nên các dịch vụ và những nguồn tài nguyên tốt nhất 5. Cung cấp các dịch vụ phát triển kỹ năng như giáo dục phổ cấp thông tin, giúp người sử dụng có thể phát triển những kỹ năng cần thiết cho việc học tập suốt đời, sử dụng thông tin có tính phê bình, làm thế nào để trích dẫn các nguồn tài thông tin, những kỹ thuật tìm tin nâng cao,…. Rõ ràng đối với mỗi sinh viên, trọng tâm là dịch vụ cho người sử dụng của thư viện đại học - một sự đưa ra sáng kiến lai những gì thư viện đại học được sử dụng để làm gì. Thật sự, đây là một điều quan trọng mà Brophy dành hết cả chương về người sử dụng đại học, và bạn nên đọc phần đầu của chương. ! Now read: Peter Brophy, ‘Users of the Academic Library’, Chapter 4 in The Academic Library. 2nd ed. (London: Facet Publishing, 2005), pp. 60-69. 52

Ở những trang này, nhiều phạm trù người sử dụng thư viện đại học khác nhau được đề cập, như là:  Sinh viện đại học  Sinh viện cao học và sinh viên nghiên cứu  Cán bộ giảng dạy  Cán bộ phục vụ giảng dạy  Người sử dụng ngoài trường ? Sau khi đọc các trang này, bạn sẽ mô tả đặc điểm của những người sử dụng thư viện đại học ở Việt Nam như thế nào? Đầu tiên hãy nghĩ đến một thư viện rất truyền thống, sau đó đến thư viện bán tự động đang xuất hiện. Bạn có nghĩ là có nhiều nhóm người sử dụng khác nhau cho mỗi loại hình thư viện này không? Những người sử dụng như thế mong đợi thư viện đại học mang đến lợi ích gì cho họ? Việc nhấn mạnh các dịch vụ chúng ta cung cấp cho nhiều người sử dụng khác nhau là mối quan tâm đặc biệt của các thư viện đại học trong thế kỉ 21, và cũng như những loại hình thư viện khác, như các trường học. Đây là thuật ngữ “tạo thuận tiện cho việc học”; tất cả 5 chức năng được phát thảo bởi Giáo sư Brophy điều nhằm vào thuật ngữ này, và ở nhiều nước, những hướng dẫn đã được phát triển để hổ trợ những thư viện đại h trong việc đáp ứng mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho việc học. Điển hình của những hướng dẫn này cho các thư viện ở các trường Đại học Giáo dục Cao học Anh quốc (UK Colleges of Futher and Higher Education, CoFHE), bản hướng dẫn đó bao gồm sự đề nghị này: Các dịch vụ tài nguyên học tập giữ một vai trò chủ yếu trong việc nâng cao những kỹ năng cuộc sống của cộng đồng nó phục vụ thông qua sự cải thiện hiệu quả các kỹ năng thông tin và phổ cập thông tin. (Eynon 2005) Sự đề nghị này đưa ra những nguyên tác chỉ đạo cho năm hoạt động:  Phổ cập thông tin (Information literacy)  Các hình thức học tập (Learning styles)  Hỗ trợ người học (Learner support)  Phát triển người đọc (Reader development)  Sự cộng tác (Collaboration) Các hoạt động này được thảo luận chi tiết trong Những quy định CoFHE được soạn bởi Andrew Eynon mà bạn cần đọc một kỹ càng. ! Now read: Andrew Eynon, ed. ‘Facilitating Learning’. Guidelines for Colleges: Recommendations for Learning Resources. 7th ed. (London: Facet Publishing, 2005), pp. 1-5. 53

? Nếu bạn phải dịch năm nguyên tắc chỉ đạo cho việc tạo điều kiện thuận lợi cho việc học đối với các thư viện đại học Việt Nam, bạn thữ nghĩ kết quả sẽ là gì, Khi bạn xem xét câu hỏi này, hãy nhìn nó từ nhiều quan điểm: sinh viên,giáo viên, thủ thư và những nhà quản lí trường đại học. Bạn có nghĩ rằng các quan điểm của các nhóm này sẽ . Bạn có nghĩ rằng các quan điểm này tương hợp nhau hay sẽ có những sự không đồng ý nên được khắc phục? Thư viện công cộng Trong một số các cách thức, các thư viện công cộng giống với những hình thức thư viện khác. Sự thảo luận ở trên về các thư viện đại học đã chỉ ra rằng tất cả các loại hình thư viện và các tổ chức thông tin chia sẻ nhau nhiều mối quan tâm chung. Ví dụ, tất cả các cơ quan này phải cung cấp những loại hình dịch vụ và những nguồn tài nguyên được yêu cầu bởi người sử dụng nếu nó phải làm tròn một vai trò hữu ích trong xã hội. Vai trò của thư viện công cộng là đáp ứng những nhu cầu của tất cả những người sống trong khu vực mà nó phục vụ với sự xem trọng giáo dục, thông tin, văn hóa, thư giãn và giải trí. Tuy nhiên, dân số trong một vùng có thể rất đa dạng – và sẽ bao gồm cả những cá nhân bị tàn tật, những người từ các nền văn hóa thiều số, người lớn tuổi và thâm chí cả những người phạm tội. Một nhóm mà họ yêu cầu các thư viện công cộng phải chú ý là thiếu nhi để đảm bảo rằng các em trở thành những độc giả tự tin và những người sử dụng thư viện nhiệt tình. Thiếu nhi những em được đặt vào thế giới của các quyển sách khi còn nhỏ thì sẽ tốt hơn những sinh viên ở trường và đạt được sự thành công cao hơn trong cuộc sống. Các thư viện công cộng cũng phục vụ những nhu cầu xã hội khác cho các cộng đồng người sử dụng của họ. Ví dụ, các thư viện công cộng thường đóng vai trò như các trung tâm thông tin khu vực bằng cách lưu giữ những tập tin về những tờ báo địa phương và bản liệt kê các cơ quan trong vùng. Các thu viện công cộng cũng cung cấp các phòng hội hợp và không gian trưng bày cho các nhóm cộng đồng trong khu vực. Như đã được chú thích trong một xuất bản phẩm IFLA gần đây, The Public Library Science Service, các thư viện công cộng là hiện tượng mang tính quốc tế nhưng nó vận hành trong ở những giai đoạn phát triển khác nhau ở những quốc gia khác nhau. Trong khi điều này dẫn đến những sự khác nhau ở các dịch vụ được cung cấp và cách thức những dịch vụ của các thư viện được phân phát, các thư viện công cộng chia sẻ một số những đặc điểm chung như những đặc điểm đã được thảo luận phần từ đầu. ! Now read: “The role and purpose of the public library,” Chapter 1 in The Public Library Service: IFLA/UNESCO Guidelines for Development. Munchen: K.G. Saur, 2001. pp. 1-12 ? Nếu bạn vào một thư viện công cộng ở Việt Nam, bạn mong muốn sẽ tìm thấy gì? Điều này gợi ý gì về giai đoạn phát triển của các thư viện công cộng ở Việt Nam và nó được so sánh như thế nào với sự mô tả tổng quát về các thư viện được nói đến ở trên? 54

Thư viện trường học Mục đích của thư viện trường hcọ là hỗ trợ các sinh viên và cán bộ ở các trường tiểu học và trung học cơ sở. điều này có nghĩa là cả những nguồn tài nguyên và các dịch vụ của thư viện trường học phải liên hệ với những yêu cầu của chương trình học. Mọi người thường cho rằng thư viện trường học chỉ phục vụ những yêu cầu của học sinh – nhưng thật sự thật sự quan trọng để chúng ta nhận biết rằng các nguồn tài nguyên của thư viện phục vụ cho cả học sinh và giáo viên. Một thư viện trường học điển hình ở một phương Tây bao gồm một bộ sưu tập tham khảo tổng quát, cho mượm các tài liệu liên quan đến chương trình học và nhiều tài liệu không ở dạng in ấn thích hợp cho các học sinh ở những cấp học khác nhau. Tỉ lệ các tài liệu không ở dạng in ấn đối với các tài liệu in ấn ở một thư viện trường học thường cao hơn nhiều so với ở một thư viện công cộng hay một thư viện đại học. Thư viện trường học cung cấp sự tiếp cận nhiều nguồn tài liệu điện tử ngày càng gia tăng. Một phần quan trọng của công việc ở một thư viện trường học là chương trình giáo dục phổ cập thông tin liên quan đến chương trình học. Điều này có nghĩa là một thử thư chuẩn mực sẽ liên quan đến việc dạy cho học sinh sự định vị, đánh giá và sử dụng nguồn tài nguyên thông tin. Ở một thư viện trường học phát triển, cách thức “giáo dục thông tin” này được cung cấp ở mỗi giai đoạn tiến triển qua chương trình học của sinh viên. Một ví dụ rất hay hướng dẫn về những quy định về mục đích, chức năng và các hoạt động của một thư viện trường học có sẵn từ IFLA và UNESCO. ! Now read: “IFLA/UNESCO School Library Manifesto, 1999.” Available online at: http://www.ifla.org/VII/s11/pubs/manifest.htm Note – there is a Vietnamese version on this website ? Khi bản Tuyên ngôn về Thư viện Trường học của IFLA/UNESCO được dịch sang tiếng Việt, hãy thảo luận xem bạn thử nghĩ nội dung của nó có thể được áp dụng ở Việt Nam như thế nào. Thư viện chuyên ngành Một thư viện chuyên ngành được định nghĩa do việc các khách hàng của nó bị giới hạn là các thành viên trong tổ chức gốc, ví dụ như thư viện của một công ty tư nhân tồn tại chỉ phục vụ cho các thành viên của công ty đó hay thư viện của một cơ quan chính phủ tốn tại chỉ để phục vụ cho các thành viên trong cơ quan chính phủ. Điều này có nghĩa rằng như một quy luật chung, các dịch vụ và các bộ sưu tập của một thư viện chuyên ngành không có sẵn cho cộng đồng sử dụng - thục tế, thư viện chuyên ngành tồn tại chỉ để hỗ trợ những thành viên của tổ chức gốc thực hiện các công việc của họ tốt hơn. Từ điều này kéo theo bộ sưu tập của một thư viện chuyên ngành được mô tả bởi phạm vi giới hạn, đó là nó bao trùm chỉ những đề mục có liên quan đến các chức năng của cơ quan gốc. Một ví dụ như thư viện đặc biệt dành cho một công ty viễn thông sẽ tập trung vào công nghệ truyền thông và thông tin cũng như những điều luật và nội quy kiểm soát công nghệ truyền thông. Thêm vào đó, một thư viện chuyên ngành chung quy quan tâm đến việc giữ gìn những nguồn tài nguyên thông tin hiện tại chủ yếu trong những tạp chí hay những bài báo cáo hơn là 55

trong những quyền sách với mục đích là giúp cho đội ngũ cán bộ vẫn cập nhật lĩnh vực của mình hay trả lời các câu hỏi của nhân viên đúng lúc. Trong khi một lời yêu cầu của một thành viên trong đội ngũ giảng dạy trong một thư viện đại học có thể mất vài ngày hay thạm chí vài tuần để trả lời với một cách thức mang tính chuyên sâu và bao hàm toàn diện, một lời yêu cầu của một thành viên trong đội ngũ nhân viên trong một công ty thương mại như công ty bảo hiểm ở Việt Nam sẽ cần một câu trả lời nhanh chóng để công ty có thể cạnh tranh một cách hiệu quả trong thị trường. Cụ thể trong trường hợp của các thư viện đặc biệt trong các công ty thương mại thì cần thiết vì bản chất cạnh tranh của kinh doanh và giá trị thương mại của một số loại hình thông tin thương mại. ! Ví dụ bạn là một khách hàng của thư viện chuyên ngành, hãy xem xét trang web của Thư Viện David Lubin Memorial về tổ chức Nông lương (Food and Agricuture Organisation – FAO) tại đia chỉ: http://www.fao.org/library/_info_services/index.asp?lang=EN Hãy nhìn qua các dịch vụ bằng cách nhấp vào những đường dẫn bên trái của của trang chủ thư viện – ví dụ, Collection, Virtual Library, Networks, IT Learning Tools. ? Thư viện David Lubin Memorial là thư viện rất lớn và nhận được nguồn kinh phí ở mức khá cao vì nó phục vụ những nhu cầu của một tổ chức thế giới – là một phần của Liên Hiệp Quốc. Ở một cấp bậc nhỏ hơn, bạn có thể hình dung những loại hình dịch vụ này mà nó được cung cấp trong một thư viện chính phủ ở Việt Nam không? Những rào cản hay những cơ hội đạt được điều này là gì? Câu hỏi ôn tập Qua các bài học của tuần này sinh viên sẽ được hỏi một số câu hỏi. Chúng tôi hy vọng bạn đã nghĩ về những câu hỏi đó, thảo luận chúng với các bạn cùng lớp và giáo viên. Chúng tôn đưa ra một số câu hỏi ôn tập dựa vào những ghi chú và các tài liệu đã đã đọc. Những câu hỏi này giúp bạn ôn tập lại công việc của tuần này, và chúng có thể sẽ được thảo luận trong lớp hay được cho trong bài kiểm tra. 1. Bạn hãy thử nghĩ những cơ quan nào liên quan đến tính sáng tạo, phổ biến và quản lí thông tin, liệt kê ra các cơ quan đó. Đối với mỗi cơ quan trong bản liệt kê của bạn, hãy viết một nhóm từ ngắn gọn mô tả chức năng chính của nó. 2. Lester và Koehler nhận ra nhiều nhà xuất bản và những nhà cung cấp thông tin khác và ở cuối chương họ hỏi một số câu hỏi. Khi trả lời các câu hỏi đó, hãy nghĩ về hoàn cảnh ơ Việt Nam khác với những gì được cung cấp bởi Lester và Koehler như thế nào và sự tác động đối với các cơ quan thông tin và người dùng tin ở Việt Nam là gì? i. Những chức năng cần thiết nào mà các cơ quan này thể hiện trong xã hội. Những chức năng này có phân biệt bằng phương tiện truyền thông, đó là nhà cung cấp nội dung trên web thể hiện cùng chức năng như một nhà xuất bản sách không? ii. Những chức năng đầu tiên được thể hiện bởi các tổ chức xã hội, như các thư viện, các trường học, trường đại học mà nó liên kết người dung tin (như sinh viên, khách hàng thư viện) với nội dung thông tin trong những phương tiện truyền thông khác nhau (ví dụ như sách, băng video) không? Các dịch vụ của những tổ chức này khác 56

nhau như thế nào? Ví dụ, bạn nhận được gì trong những thuật ngữ thông tin, từ một trường học công cộng - những thông tin mà bạn không nhận từ một thư viện? Bạn nhận được gì từ cơ quan chính phủ - những thông tin mà không nhận được từ một trường đại học? iii. Trong môi trường hiện tại, những cơ quan thông tin riêng biệt trước đây thể hiện những chức năng thông tin khác biệt nhau đã hợp nhất, và những chức năng riêng biệt đã phai mờ. Ví dụ, AOL Time Warner là một khối kết nối các phương tiện truyền thông đơn giản bao gồm các công ty xuất bản rêng biệt, các hệ thống truyền hình cab, các xưởng phim, mạng vô tuyến, các công ty ghi âm ghi hình, các nhà cung cấp dịch vụ Internet. Đối với người dùng tin những kết quả của việc kết hợp các loại hình và những chức năng khác biệt trước đó là gì? iv. Một người nào đó giải thích thế nào nhu cầu tiếp diễn đối các cơ quan cung cấp thông tin trung gian cho người sử dụng “nếu mọi thứ đều có trên Net”? Theo thời gian, bạn có nghĩ rằng định nghĩa về một thư viện đại học đã thay đổi không? Bạn có nghĩ rằng thư viện đại học vẫn là “trung tâm của một trường đại học? Nếu sơ đồ Inputs Process Outputs Outcomes là một sơ đồ có giá trị, theo kinh nghiệm của bạn các thông tin được xuất ra nào quan trọng nhất của thư viện đại học là gì ? Bạn nghĩ điều này ảnh hưởng đến các dữ liệu được đưa vào như thế nào? Bạn có nghĩ rằng ý tưởng về thư viện bán tự động có thể trở thành hiện thực ở thư viện đại học của Việt Nam không? Để điều này xảy ra cần có những điều kiện gì? Hãy nghĩ đến tài chính, nhân viên, những mong đợi của người sử dụng (sinh viên và cán bộ), chính sách của chính phủ, cơ sở hạ tầng Những đặc điểm chính của những người sử dụng thư viện đại học ở Việt Nam là gì? Những đặc điểm này ảnh hưởng đến những gì họ mong đợi một thư viện cung cấp như thế nào? Loại hình giáo dục ảh hưởng đến những gì người sử dụng thư viện mong muốn? Nếu bạn phải dịch năm hướng dẫn cho “tạo thuận lợi việc học cho các thư viện đại học Việt Nam, bạn thữ nghĩ kết quả sẽ là gì, Khi bạn xem xét câu hỏi này, hãy nhìn nó từ nhiều quan điểm: sinh viên,giáo viên, thủ thư và những nhà quản lí trường đại học. Bạn có nghĩ rằng các quan điểm của các nhóm này sẽ . Bạn có nghĩ rằng các quan điểm này tương hợp nhau hay sẽ có những sự không đồng ý nên được khắc phục? Nếu bạn vào một thư viện công cộng ở Việt Nam, bạn mong muốn sẽ tìm thấy gì? Điều này gợi ý gì về giai đoạn phát triển của các thư viện công cộng ở Việt Nam và nó được so sánh như thế nào với sự mô tả tổng quát về các thư viện được nói đến ở trên? Khi bản Tuyên ngôn về Thư viện Trường học của IFLA/UNESCO được dịch sang tiếng Việt, hãy thảo luận xem bạn thử nghĩ nội dung của nó có thể được áp dụng ở Việt Nam như thế nào. Thư viện David Lubin Memorial là thư viện rất lớn và nhận được nguồn kinh phí ở mức khá cao vì nó phục vụ những nhu cầu của một tổ chức thế giới – là một phần của Liên Hiệp Quốc. Ở một cấp bậc nhỏ hơn, bạn có thể hình dung những loại hình dịch vụ này mà nó được cung cấp trong một thư viện chính phủ ở Việt Nam không? Những rào cản hay những cơ hội đạt được điều này là gì? Bài đọc Brophy, P. (2005) ‘Users of the Academic Library’, Chapter 4 in The Academic Library. 2nd ed. (London: Facet Publishing, 2005), pp. 60-69. 57

Eynon, Andrew, ed. ‘Facilitating Learning’. Guidelines for Colleges: Recommendations for Learning Resources. 7th ed. (London: Facet Publishing, 2005), pp. 1-5. “IFLA/UNESCO School Library Manifesto, 1999.” [Vietnamese version.] Available online at: http://www.ifla.org/VII/s11/pubs/manifest.htm Lester, June and Wallace C. Koehler, Jr. “Societal Institutions for Creation, Distribution, and Management of Information,” Chapter 5 in Fundamentals of Information Studies: Understanding Information and its Environment. New York: Neal-Schuman, 2003. pp. 65 – 96. The David Lubin Memorial Library of the Food and Agriculture Organisation (FAO) located at: http://www.fao.org/library/_info_services/index.asp?lang=EN “The role and purpose of the public library,” Chapter 1 in The Public Library Service: IFLA/UNESCO Guidelines for Development. Munchen: K.G. Saur, 2001. pp. 1-12. 58

Chương 7: Truy cập thông tin - Tổ chức thông tin trong thư viện Mục tiêu Cuối chương này các sinh viên sẽ có thể 1. Giải thích được mục đích của việc tổ chức thông tin cho việc truy cập hiệu quả ở các thư việc và những môi trường thông tin khác 2. Thảo luận về các vấn đề chủ yếu liên quan đến việc tố chức thông tin được ghi lại. 3. Xác định được những công cụ chính cho việc tổ chức thông tin trong thư viện. 4. Giải thích được siêu dữ liệu và vai trò của nó trong việc cung cấp sự tiếp cận thông tin. Giới thiệu Trong thời đại Internet, nhiều người nghĩ rằng những hệ thống được tạo ra và được sử dụng bởi các thư viện cho việc cung cấp sự tiếp cận thông tin đang trở nên lỗi thời. Tuy nhiên đó là sự thật. Trong khi Google có thể như là một cách thức quy mô để tìm kiếm thông tin, bạn cần ý thức được rằng Google tím kiếm thông tin không được kiểm soát, và thường có hàng ngàn hay hàng triệu các mục được tìm kiếm trong mục tìm kiếm cơ bản vì thế xem qua những danh sách dài thượt là điều cần thiết (Có bao nhiêu người thật sự xem hết 20 hay 30 các kết quả được tìm về?) để có được những nguồn tài nguyên có liên quan. Chương này nói về việc các thư viện (và những cơ quan trung tâm thông tin khác) cung cấp cho các khách hàng của họ sự tiếp cận thông tin như thế nào, điều mà nếu bạn nghĩ nó là mục đích chính của những loại hình các tổ chức. Chúng ta cần nhớ rằng các thư viện và các cơ quan thông tin khác cung cấp các dịch vụ cho nhiều người có những nhu cầu thông tin đa dạng. Vì vậy, những loại hình thư viện và tổ chức của những khách hàng khác nhau thông tin khác nhau đã được thành lập để đáp ứng những nhu cầu thông tin của những khách hàng khác nhau, và những tổ chức thông tin này đã phát triển những phương pháp tiếp cận để cung cấp cho các khách hàng của họ “sự tiếp cận thông tin” Trước khi chúng ta đi xa hơn, điều quan trọng là chúng ta biết rõ về những gì chúng ta thảo luận ở đây. Cung cấp “sự tiếp cận thông tin” có thể có nghĩa là nhiều thứ khác nhau. Ví dụ: 1) Cung cấp cho các khách hàng của cơ quan thông tin cổng vào các nguồn tài nguyên thông tin điện tử thông qua ICTs hay cho phép khách hàng vào một cơ quan thông tin hay các phòng trong cơ quan thông tin để sử dụng các bộ sưu tập hay những nguồn tài nguyên thông tin in ấn; 2) Cung cấp cho các khách hàng những dịch vụ tham khảo để giúp họ tìm thông tin trong câu trả lời trực tiếp đối với những câu hỏi/yêu cầu cụ thể, hay cung cấp cho họ những dịch vụ như các thông báo kịp thời để thông tin cho người dùng về các tài liệu mới thuộc lĩnh vực mà họ quan tâm; 3) Tổ chức thông tin một cách có hệ thống sử dụng các hệ thống và công cụ để các khách hàng của cơ quan thông tin dễ dàng nhận được thông tin từ các bộ sưu tập hay với sự trợ giúp của cán bộ của cơ quan thông tin. 59

Chương này trước tiên nói về mục số 3 trong danh sách trên, mặc dù hay mục đầu tiên được liệt kê ở trên rất quan trọng khi thiết kế các công cụ cho các nguồn tài nguyên thông tin. ? Theo bạn, tại sao hai ý nghĩa đầu tiên về “việc cung cấp sự tiếp cận thông tin” là những sự xem xét quan trọng khi các thư viện và những cơ quan thông tin khác thiết kế các hệ thống và các công cụ cho việc tổ chức các nguồn tài nguyên thông tin một cách có hệ thống? Những lí do và các hoạt động cho việc tổ chức thông tin Nhiều người nói rằng hiện tại chúng ta đang trong thời kỳ “Kỷ nguyên thông tin” vì cả số lượng thông tin và nguồn thông tin đang gia tăng với một tốc độ rất nhanh. Điều này là hiển nhiên nhưng nhân loại cũng luôn sử dụng đến thông tin – và họ tổ chức nó từ khi họ bắt đầu ghi nhận lại nó – và có thể trước khi họ bắt đầu ghi nhận lại nó. Như Arlene Taylor đề cập trong chương đầu tiên trong quyển sách của bà, The Organization of Information, “chúng ta tổ chức thông tin vì chúng ta cần truy hồi/tìm lại nó” (trang 1). Và bà cũng đưa ra một số ví dụ mà chúng ta tổ chức sắp xếp nhà bếp của chúng ta để chúng ta có thể tìm được các đồ dung nấu ăn và chúng ta có thể sử dụng thực phẩm và các gia vị khi chúng ta cần chúng. Hy vọng bạn sẽ tổ chức những quyển tâp ghi chép và thông tin môn học để bạn biết được những thông tin quan trọng nằm ở đâu (như các bài tập và thời hạn nộp bài) và bạn có thể tìm lại chúng khi. Chúng ta có thể có thông tin tại nhà của chúng ta mà chúng ta có thể cần đến trong tương lai, vì thế chúng ta tổ chức sắp xếp chúng trong các file và cất chúng trong các tủ hồ sơ - hoặc nếu thông tin ở dạng điện tử, chúng ta tổ chức sắp xếp chúng trong trong các folder trong máy tính đặt tên cho các folder để chúng ta nhận biết. Taylor nói rằng nếu thông tin không được tổ chức sắp xếp, thật khó khăn, nếu không nói là không thể, để tìm ra nó. Vì vậy chúng ta có tất cả các loại công cụ được tổ chức để hỗ trợ trong quá trình tìm kiếm thông tin mà chúng ta cần: danh bạ điện thoại, các danh bạ, các từ điển, các quyển bách khoa toàn thư, các thư mục, các chỉ mục, các mục lục, các danh sách bảo tàng, những phương tiện hỗ trợ việc tìm kiếm văn thư và các cơ sở dữ liệu” . ? Các loại công cụ thông tin nào mà bạn có thể nghĩ đến? Giúp bạn trong câu hỏi này, hãy xem xét các hoạt động mà bạn làm ngoài cả sự cần thiết (liên quan đến giáo dục và du lịch) và cho cả việc giải trí (ví dụ về thể thao và âm nhạc). Có các công cụ thông tin nào để giúp bạn tìm thông tin liên quan đến đến các hoạt động đó? Các thông tin bạn nghĩ chúng nên được tạo ra để nâng cao sự tiếp cận thông tin liên quan đến các hoạt động đó? Trong khi chương trình học của bạn tập trung đầu tiên vào các thư viện, bạn cần nhận thức rằng có những môi trường khác cung cấp các dịch vụ thông tin có giá trị - ví dụ như các cơ quan lưu trữ và các viện bảo tàng. Nhưng trước khi nhận thức điều đó, hãy nghĩ về 6 hoạt động chính mà Ronald Hagler (như đã được trích dẫn trong bài của Taylor, trang 4-6) nói là liên quan đến việc tổ chức sắp xếp thông tin đươc ghi nhận lại. Hãy lưu ý rằng thông tin được ghi nhận lại bao gồm tài liệu dạng văn bản như sách cũng như các tài liệu ghi âm ghi hình, tranh ảnh, tranh ảnh, bản đồ, các trang Web – vì vậy nó là một thực ngữ khái quát và Taylor 60

nói về “những gói thông tin” thay vì nói về các quyển sách hay những thứ khác vì một quyển sách có thể chứa những mẫu chuyện ngắn mà cũng có thể được xem như là những gói thông tin. Dưới đây là 6 hoạt động liên quan đến việc tổ chức sắp xếp thông tin mà Hagler xác định: 1. Nhận biết được sự tồn tại của tất các gói thông tin khi chúng xuất hiện 2. Nhận biết được những tác phẩm, hay một phần của tác phẩm được chứa trong các gói thông tin đó. 3. Tập hợp lại những gói thông tin này vào các bộ sưu tập trong thư viện, các cơ quan lưu trữ, các viện bảo tàng, các tài liệu truyền thông Internet và những nơi lưu trữ khác một cách có hệ thống. 4. Lập danh sách những gói thông tin này theo những quy tắc trích dẫn chuẩn. 5. Cung cấp tên, nhan đề, chủ đề và những điểm truy cập hữu ích đến các gói thông tin.. 6. Cung cấp các phương tiện định vị mỗi gói thông tin hay bản sao của nó ! Now read Arlene Taylor, pages 1 – 7 in “Organization of recorded information,” Chapter 1 in The Organization of Information, 2nd ed. Westport, CT: Libraries Unlimited, 2004. ? Những loại hình công cụ/hệ thống nào bạn có thể nghĩ đến cho mỗi 6 loại hình hoạt động chính trong việc sắp xếp tổ chức những thông tin được ghi nhận lại được xác định bởi Hagler mà được sử dụng hay được tao ra bởi các thư viện và những cơ quan thông tin khác? Tổ chức thông tin trong những mội trường khác nhau Có nhiều loại môi trường tập hợp và tổ chức thông tin khác nhau cho những mục đích khác nhau. Thực tế, có nhiều loại thông tin khác nhau được tập hợp và được tổ chức trong những môi trường khác nhau – vì vậy chúng ta có nhiều biến đổi tác d0ộng đến công cụ và hệ thống được sử dụng để tổ chức và truy dụng thông tin. Các loại hình môi trường thông tin được thảo luận bởi Taylor là các thư viện, các cơ quan lưu trữ, các viện bảo tàng và các phòng trưng bày nghệ thuật, Internet (bao gồm các thư viện số), những môi trường quản lí dữ liệu, những môi trường quản lí tri thức. Chúng ta hãy nhìn sơ qua việc tổ chức thông tin trong các thư viện và các cơ quan lưu trữ. Thư viện Các thư viện nhìn chung làm việc với các bộ sưu tập của những gói thông tin được xuất bản. Các cán bộ thư viện tạo ra những bộ sưu tập của những gói thông tin thông qua một quá trình hoạt động tích cực gọi là phát triển bộ sưu tập. Quá trình đòi hỏi các thủ thư xác định và đánh giá những gói thông tin được đưa đến thư viện, các cán bộ biên mục tạo ra những biểu ghi mục lục để các gói thông tin có thể được truy dụng bởi những người tìm kiếm các gói thông tin theo tác giả và nhan đề. Như là một phần của quá trình biên mục, các thủ thư cũng quyết 61

định mỗi gói thông tin đề cập đến nội dung gì và họ chỉ định tiêu đề đề mục để mọi người có thể tra cứu mục lục để tìm được những gói thông tin về chủ đề họ cần. Cùng lúc các thủ thư cũng lựa chọn những ghi chú phân loại dựa vào chủ đề đưa ra các số phân loại để các tài liệu in ấn có thể được sắp xếp theo số hiệu trên các kệ sách của thư viện. Hình thức sắp xếp trên kệ cho phép các khách hàng tìm kiếm những gói thông tin trên kệ sau khi họ định vị được chúng trên mục lục thư viện. Việc sắp xếp theo kệ cũng cho phép khách hàng xem lướt qua các kệ đối với những thông tin có liên quan vì tài liệu cùng chủ đề được sắp xếp cạnh nhau. Một khía cạnh quan trọng của các thư viện là các bộ sưu tập của nó giữ những bản sao của những gói thông tin được xuất bản. Những gói thông tin này gồm những thông tin được tiêu chuẩn hoá – nhan đề, tác giả, nhà xuất bản. Thực chất, vì những gói thông tin này được xuất bản thành nhiều bản sao, nhiều thư viện cần tạo nên những biểu ghi mục lục cho những gói thông tin giống nhau – vì vậy các thư viện ở những nước phát triển sử dụng hệ thống dựa vào những tiêu chuẩn quốc tế cho phép các thư viện mua những biêu ghi mục lục ở dạng máy đọc được và đưa chúng vào các hệ thống mục lục trực tuyến, vì thế tiết kiệm tiết kiệm được thời gian của cán bộ. Chúng ta nói rằng một thủ thư thu được một biểu ghi mục lục cho một gói thông tin bằng cách sử dụng hệ thống như OCLC ở Mĩ là đang thực hiện việc sao chép biên mục, trong khi một thủ thư tạo ra một biểu ghi mục lục mới cho một gói thông tin thì đang thực hiện công việc biên mục truyền thống. Mức độ tiêu chuẩn hoá cao giữa các thư viện là có thể thực hiện được bằng việc tạo và sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế như Anglo-American Cataloguing Rules – AACR (Bộ quy tắc biên mục Anh-Mĩ) để tạo ra các biểu ghi mục lục và tiêu chuẩn Machine Readable Cataloguing – MARC (Biên mục máy đọc được) để mã hoá các biểu ghi mục lục ở dạng máy đọc được. Cơ quan lưu trữ Các cơ quan lưu trữ chứa những gói thông tin duy nhất của những thông tin không được xuất bản mà nó chứng minh bằng tài liệu các hoạt của một tổ chức hay của một người. Những gói thông tin duy nhất này có thể là các sổ sách thương mại, các bài báo cáo hàng năm, thư từ,… - và nó có thể ở nhựng hình thức như văn bản in ấn hay các tài liệu ghi âm và nó cũng có thể ở những định dạng hữu hình như các văn bản giấy hay hình ảnh, hoặc nó có thể ở dạng điện tử. Trong khi các thư viện có mức tiêu chuẩn hoá cao – liên quan đến các loại gói thông tin má các thư viện lưu giữ và những biểu ghi mục lục được tạo ra để tổ chức sắp xếp và tìm kiếm những gói thông tin đó - ngược lại các cơ quan lưu trữ thì khác. Bởi vì các gói thông tin họ lưu giữ là duy nhất, các cơ quan lưu trữ không thể lợi dụng việc sao chép biên mục, và mãi đến gần đây các chuyên viên lưu trữ văn thư đã không nghĩ rằng sự tiêu chuẩn hoá sẽ mang đến cho họ những lợi ích. Tuy nhiên, với sự xuất hiện của việc truy cập trực tuyến những thông tin văn thư thông qua ICTs, các cơ quan lưu trữ bây giờ đang tiêu chuẩn hoá những nguồn tài nguyên thông tin của họ để các nhà nghiên cứu dể dàng tiếp cận và sử dụng các tài liệu văn thư. Các hệ thống được sử dụng bởi các cơ quan lưu trữ để tổ chức sắp xếp và tìm kiếm thông tin được dựa vào việc sắp xếp và mô tả các nhóm tài liệu liên quan nhau. Taylor cung cấp các định nghĩa cho một số những khái niệm chính liênq uan đến sự tổ chức và tìm kiếm các những thông tin về văn thư. Đây là dưới đâu là một dạng ngắn gọn về các định nghĩa này, tất cả chúng được Taylor cung cấp một cách chi tiết ở trang 10 và 11 trong chương sách của bà: 62

 Provenance (nguồn gốc): thông tin về tác giả của một bộ sưu tập các tài liệu văn thư.  Original order (trật tự gốc): trật tự mà tác giả đã lưu giữ hay đã tạo ra bộ sưu tập;  Accession record (Hồ sơ đăng ký): một biểu ghi cung cấp những thông tin tóm tắt về nguồn của bộ sưu tập, với những chi tiết về hoàn cảnh bổ sung cũng như các dữ liệu về kích cỡ và nội dung;  Finding aid (phiếu chỉ dẫn):một biểu ghi mô tả nội dung của bộ sưu tập, với những thông tin ngữ cảnh về lịch sử và tổ chức của bộ sưu tập;  Catalogue record (Biểu ghi biên mục): một phiên bản ngắn gọn của phiếu chỉ dẫn Một điểm đáng ghi nhận là có nhiều tiêu chuẩn cho việc mã hoá thông tin mục lục tài liệu văn thư. Một định dạng MARC cho các tài liệu văn thư được phát triển vào những năm 1980, và gần đây hơn tiêu chuẩn Encoded Archival Description – EAD (mô tả tài liệu văn thư được mã hoá) đã được phát triển cho việc mã hoá những sự trợ giúp việc tìm kiếm để chúng có thể có hiệu lực trên Internet. ! Now read pages 7-28 in Arlene Taylor, “Organization of recorded information,” Chapter 1 in The Organization of Information, 2nd ed. Westport, CT: Libraries Unlimited, 2004. ? Những điểm khác nhau chính giữa các loại thông tin được lưu giữ trong thư viện, trong các cơ quan lưu trữ, trong các viện bảo tàng và các viện trưng bày - những công cụ và hệ thống cho việc tổ chức thông tin ở các nơi này. Tại sao các công cụ khác nhau trong những môi trường thông tin khác nhau? Theo cách diễn đạt của bạn, “information architecture” (kiến trúc thông tin) có nghĩa gì? Sự khác biệt giữa quản lí dữ liệu (data administration) và quản lí tri thức (knowledge management) là gì? Những công cụ chính cho việc tổ chức thông tin trong các thư viện Khi chúng ta thảo luận về sự tổ chức thông tin trong các thư viện, họ thường liên hệ đến thông tin như là tổ chức thư mục – bibliographic organisation hay kiểm soát thư mục – bibliographic control. Ross Harvey and Philip Hider, các cán bộ giảng dạy tại trường Charles Sturt University ở Úc, đã viết một quyển sách với tên gọi là Organising Knowledge in Global Society trình bày nhiều ý tưởng phức tạp trong một cách thức rất rõ ràng và có thể hiểu được. Trong chương đầu của quyển sách, họ giới thiệu những khái niệm chính liên quan đến tổ chức thư mục và họ thảo luận về các loại công cụ chính. Một trong những phần của chương bàn về “yêu cầu cho sự tổ chức thư mục” và cũng không có gì ngạc nhiên khi họ trích dẫn của Michael Gorman, một trong những người chủ trương hăng hái cho vấn đề kiểm soát thư mục nói rằng “không thể tưởng tượng được bất cứ điều gì được gọi là “librarianship” (công tác thư viện) mà không có những cấu trúc và những khuôn mẫu của sự suy nghĩ mà chúng ta tìm thấy 63

trong kiểm soát thư mục” (Grman, 1992), được trích dẫn bởi Harvey và Hider, 2004, trang 8). Gorman cũng viết đều đặn về yêu cầu cho việc giữ gìn những tiêu chuẩn cao trong công tác biên mục - thậm chí khi bàn về việc biên mục các nguồn tài nguyên thông tin trên Internet. Các khái niệm mà Harvey và Hider thảo luận trong chương 1 của quyển sách sẽ được đề cập một cách chi tiết hơn trong các môn học sau. Khi đọc chương này, bạn tập trung vào những điểm sau. Harvey và Hider thảo luận khái niệm metadata (siêu dữ liệu) mà nó trở nên rất phổ biến trong một vài năm qua do yêu cầu tổ chức và tìm kiếm thông tin ở dạng điện tử như thông tin trên Internet. Họ cũng nói về những loại hình tiếp cận nguồn tài nguyên thông tin khác nhau được cung cấp qua sự tổ chức thư mục. “Hệ thống cho sự tổ chức thư mục” mà họ thảo luận là những yếu tố cơ bản đối với sự tìm kiếm thông tin – vì vậy hãy đọc kỹ phần này. ! Now read Ross Harvey and Philip Hider, ‘Definitions and introductory concepts,” in Organizing Knowledge in a Global Society: Principles and Practice in Libraries and Information Centres. Wagga Wagga, NSW: Centre for Information Studies, Charles Sturt University, 2004. pp. 3-25. ? Tại sao bạn nghĩ Michael Gorman nói rằng “Quan trọng là các thủ thư suy nghĩ một cách logic, hiểu được những cách thức mà tri thức và thông tin được tổ chức và được tìm kiếm, và họ có thể truyền đạt kiến thức của họ về những cấu trúc này đến người sử dụng thư viện” Gorman, 1992, được trích dẫn bởi Harvey và Hider, 2004, trang 8)? Những người sử dụng các mục lục của thư viện điển hình ở Việt Nam có khác với những người sử dụng được xác định bởi Harvey và Hider? Nếu có, họ khác nhau như thế nào? Nếu không, tại sao? “Những hình thức của hệ thống truy hồi thông tin” nào mà Harvey và Hider thảo luận có trong danh sách liệt kê của bạn từ đầu của chương này? Tổ chức thông tin điện tử - Siêu dữ liệu (Metadata) Khi chúng ta tổ chức thông tin điện tử, bao gồm thông tin có sẵn trên Internet, để cung cấp sự tiếp cận tri thức cho các khách hàng, có nhiều các vấn đề tác động đến những phương pháp chọn lọc. Đâu tiên, nhiều loại thông tin này (đặc biệt là thông tin trên WWW) là phù du – có nghĩa là thông tin hiện diện ở đây một ngày, ngày hôm sau nó lại mất đi – hay nội dung hay vị trí của nó thay đổi. Như đã được đề cập ngay từ đầu, khi chúng ta tìm kiếm trang web sử dụng công cụ tìm kiếm như Google, chúng ta thường tìm thấy hàng trăm, hàng ngàn hay có lẽ hàng triệu những gói thông tin. Phương pháp tím kiếm này thường hữu ích, nhưng nó không cung cấp tính chính xác của viện tìm kiếm mà người sử dụng các mục lục thư viện mong đợi, họ cũng không yên tâm về chất lượng của thông tin được tìm thấy - một điều gì đó mà họ sẽ mong đợi nếu những gói thông tin được tìm thấy trong một mục lục của thư viện. Vì những lí do này, một số các thư viện sẽ cung cấp những đường dẫn thông qua các mục lục của họ một cách trực tiếp đến thông tin trên Web. Và một số tổ chức tạo ra các cơ sở dữ liệu các biểu ghi của những nguồn tài nguyên thông tin trên Web được đánh giá bởi đội ngũ cán bộ chuyên môn để đảm bảo rằng các nguốn tài nguyên đó là có chất lượng và thích hợp với 64

người sử dụng. Một ví dụ về cơ sở dữ liệu như thế được cung cấp bởi Bộ giáo dục của New Zealand cho các giáo viên ở New Zealand. Cơ sở dữ liệu TKI cung cấp cho các giáo viên những thông tin về các nguồn tài nguyên trực tuyến và không trực tuyến có ích cho các mục đích giảng dạy. Vì vậy, cơ sở dữ liệu TKI chứa siêu dữ liệu, đó là thông tin về thông tin cho cả những nguồn tài nguyên in ấn và điện tử cho các giáo viên. Trong ngữ cảnh này, siêu dữ liệu rất quen thuộc với thông tin có trong một mục lục của thư viện – tác giả, nhan đề, vị trí, .... Một định nghĩa tổng quát về siêu dữ liệu là “những thông tin có cấu trúc về thông tin”. Một số người nói rằng thuật ngữ siêu dữ liệu có thể liên quan đến nhiều thứ hơn những nguồn tài nguyên thông tin. Ví dụ, Ned Batchelder, một người phát triển phần mềm ở Massachusetts nói rằng siêu dữ liệu ‘là thông tin về một điều gì đó/một sự vật nào đó, ngoài cả bản thân điều đó/sự vật đó” (http://www.nedbatchelder.com/text/metadata-is-nothing-new.html). Ông nói rằng các đĩa nhạc CD có si6eu dữ liệu (nhạc sĩ, bản liệt kê các tựa đề, ...), các nhãn hiệu trên quần áo là siêu dữ liệu vì nó cung cấp thông tin về kích cở, những hướng dẫn co việc giặc ủi, nhà sản xuất, .... Vì vậy, trong một “thế giới thật” mục đcí của siêu dữ liệu là thông báo cho mọi người về những điều/những sự vật - những sự vật này có thể là các quyển sách, các đĩa CD, hay quần áo. Định nghĩa của Batchelder là một định nghĩa rộng, nhưng nó không chỉ ra được rằng siêu dữ liệu là thông tin về một sự vật – và không phải là chính sự vật đó. ! Now read Ned Batchelder, “Metadata is nothing new” available online at: http://www.nedbatchelder.com/text/metadata-is-nothing- new.html ? Những điểm giống và khác nhau giữa siêu dữ liệu và thông tin trong một mục lục của thư viện? Dưới đây là bản in màn hình về siêu dữ liệu cho một biểu ghi trong cơ sở dữ liệu TKI qua việc tìm kiếm trên trang web (http://www.tki.org.nz/e/search/) dành cho trường “Đại học Victoria Thử Đô Wellington”. Khi một người nào đó tìm kiếm thông tin từ TKI, anh ta có thể xem qua siêu dữ liệu cho mỗi biểu ghi bằng cách nhấp vào “Metadata record” (biểu ghi Metadata). Trong màn hình in được đưa ra dưới đây, cột bên trái cung cấp tên của mỗi yếu tố siêu dữ liệu. Một yếu tố siêu dữ liệu đơn giản là tên của một trong số các trường trong biểu ghi siêu dữ liệu. Trong cơ sở dữ liệu TKI, trước các yếu tố siêu dữ liệu là “DC” hay “TKI”. “DC” xác định các yếu tố mà nó cụ thể đối với Te Kete Ipurangi. Cột trung tâm cung cấp những dữ liệu thật sự cho các yếu tố siêu dữ liệu có liên quan với nhau, trong khi cột bên phải cung cấp những thông tin bổ trợ về thông tin, như là hoặc nó là văn bản tự do hay có từ một danh sách cụ thể như TKI Subject Heading List – TKISubj. ! Now read “Metadata and Te Kete Ipurangi: Discovering Resources on the Web,” available online at: http://www.tki.org.nz/e/tki/about/metadata.php 65

? Dublin Core là gì tại sao nó lại quan trọng? Những đặc điểm chính của Dublin Core là gì? Câu hỏi thảo luận Qua các bài học của tuần này sinh viên sẽ được hỏi một số câu hỏi. Chúng tô hy vọng bạn đã nghĩ về những câu hỏi đó, thảo luận chúng với các bạn cùng lớp và giáo viên. Chúng tôn đưa ra một số câu hỏi ôn tập dựa vào những ghi chú và các tài liệu đã đã đọc. Những câu hỏi này giúp bạn ôn tập lại công việc của tuần này, và chúng có thể sẽ được thảo luận trong lớp hay được cho trong bài kiểm tra. 1. Theo bạn, tại sao hai ý nghĩa đầu tiên về “cung cấp sự tiếp cận thông tin” là những sự xem xét quan trọng khi các thư viện và những cơ quan thông tin khác thiết kế các hệ thống và các công cụ cho việc tổ chức các nguồn tài nguyên thông tin một cách có hệ thống? 2. Các loại công cụ thông tin nào mà bạn có thể nghĩ đến? Giúp bạn trong câu hỏi này, hãy xem xét các hoạt động mà bạn làm ngoài cả sự cần thiết (liên quan đến giáo dục và du lịch) và cho cả việc giải trí (ví dụ về thể thao và âm nhạc). Có các công cụ thông tin nào để giúp bạn tìm thông tin liên quan đến đến các hoạt động đó? Các thông tin bạn nghĩ chúng nên được tạo ra để nâng cao sự tiếp cận thông tin liên quan đến các hoạt động đó? 3. Những loại hình công cụ/hệ thống nào bạn có thể nghĩ đến cho mỗi 6 loại hình hoạt động chính trong việc sắp xếp tổ chức những thông tin được ghi nhận lại được xác định bởi Hagler mà được sử dụng hay được tao ra bởi các thư viện và những cơ quan thông tin khác? 4. Những điểm khác nhau chính nào giữa các loại thông tin được lưu giữ trong thư viện, trong các cơ quan lưu trữ, trong các viện bảo tàng và các viện trưng bày - những công cụ và hệ thống cho việc tổ chức các thông tin ở các nơi này. Tại sao các công cụ lại khác nhau trong những môi trường thông tin khác nhau? 5. Theo cách diễn đạt của bạn, kiến trúc thông tin có nghĩa là gì? 6. Sự khác biệt giữa quản lí dữ liệu và quản lí tri thức là gì? 7. Tại sao bạn nghĩ Michael Gorman nói rằng “Quan trọng là các thủ thư suy nghĩ một cách logic, hiểu được những cách thức mà tri thức và thông tin được tổ chức và được tìm kiếm, và họ có thể truyền đạt kiến thức của họ về những cấu trúc này đến người sử dụng thư viện” Gorman, 1992, được trích dẫn bởi Harvey và Hider, 2004, trang 8)? 8. Những người sử dụng các mục lục điển hình ở Việt Nam có khác với những người sử dụng được xác định bởi Harvey và Hider không? Nếu có họ khác nhau như thế nào? nếu không, tại sao? 9. “Những hình thức của hệ thống truy hồi thông tin” nào mà Harvey và Hider thảo luận có trong danh sách liệt kê của bạn từ đầu của chương này? 66

10. Những điểm giống và khác nhau giữa siêu dữ liệu và thông tin trong một mục lục của thư viện? 11. Dublin Core là gì tại sao nó lại quan trọng? Những đặc điểm chính của Dublin Core là gì? Readings Batchelder, Ned, “Metadata is nothing new.” Available online at: http://www.nedbatchelder.com/text/metadata-is-nothing-new.html Harvey, Ross and Philip Hider, “Definitions and introductory concepts,” in Organizing Knowledge in a Global Society: Principles and Practice in Libraries and Information Centres. Wagga Wagga, NSW: Centre for Information Studies, Charles Sturt University, 2004. pp. 3-25. Taylor, Arlene, “Organization of recorded information,” Chapter 1 in The Organization of Information, 2nd ed. Westport, CT: Libraries Unlimited, 2004. pp. 1-28. Te Kete Ipurangi – The Online Learning Centre, “Metadata and Te Kete Ipurangi: discovering Resources on the Web,” available online at: http://www.tki.org.nz/e/tki/about/metadata.php Resources Dublin Core Metadata Initiative. Available online at: http://dublincore.org/ Gill, Tony, Anne J. Gilliland, and Mary S. Woodley. Introduction to Metadata: Pathways to Digital Information. Online Edition, version 2.1, edited by Murtha Baca. The J. Paul Getty Trust. Available online at: http://www.getty.edu/research/conducting_research/standards/intrometadata/ 67

Chương 8: Tổng quan về chính sách thông tin Mục tiêu Kết thúc Chương này sinh viên sẽ có thể: 1. Định nghĩa được chính sách thông tin. 2. Giải thích được những mục đích và các vấn đề mà các chính sách thông tin được đưa ra 3. Kết hợp quá trình hình thành chính sách thông tin ở Việt Nam. 4. Xác định được ban soạn thảo chính sách và vị trí của họ đối với những chính sách thông tin chủ yếu ở Việt Nam. 5. Giải thích được tầm quan trọng của các chính sách thông tin quốc gia chủ yếu của Việt Nam đối với các thủ thư và những nhà quản lí thông tin. Giới thiệu Giới thiệu Chính sách thông tin là một chủ đề rất rộng. Những buổi thảo luận về chính sách thông tin có thể bao gồm các vấn đề quốc tế, như các tiêu chuẩn cho sự kết nối mạng lưới viễn thông, bản quyền, sự riêng tư, và sự truyền tải thông tin giữa các quốc gia. Các buổi thảo luận về chính sách thông tin có thể tập trung một cách dễ dàng vào các vấn đề trong nước, như đảm bảo sự truy cập Internet mang tính toàn cầu hay giới hạn sự tiếp cận một số các loại hình trò chơi video mà nó được cho rằng không thích hợp đối với những người ở dưới một độ tuổi nhất định. Ở mức độ chính quyền, chính sách thông tin có thể liên quan đến những tiêu chuẩn quản lí các tài liệu cơ quan chính phủ hay sự thừa nhận các chữ ký điện tử trong những giao dịch kinh doanh. Những vấn đề tổ chức như sự sử dụng và loại bỏ các tài liệu của tổ chức và sự truy câp Internet của nhân viên, cũng là những chủ đề của những buổi thảo luận về chính sách thông tin. Một số các bạn có thể tự hỏi “Tại sao những người công tác trong lĩnh lực thông tin cần biết về chính sách thông tin?” Đây là một câu hỏi hay và chương này sẽ giúp ích cho câu trả lời của bạn. Chúng ta có thể bắt đầu bằng việc cung cấp một một câu trả lời đơn giản. Là một người công tác trong lĩnh vực thông tin tương lai, bạn sẽ cần biết về chính sách thông tin vì nó trực tiếp ảnh hưởng những gì bạn có thể và không thể làm đối với công việc. Hãy bắt đầu bằng một ví dụ về chính sách thông tin mà nó trở nên càng ngày càng quan trọng đối với Việt Nam – chính sách về bản quyền. Bản quyền bảo vệ các quyền của những người và những tổ chức mà họ có óc sang tạo như các tác giả, các nhạc sĩ, những nhà làm phim để kiềm tiền từ những ý nghĩ sang tạo của họ, và cùng lúc bản quyền bảo vệ các quyền lợi của những người trong xã hội của chúng ta, những người muốn sử dụng những ý tưởng của những người sáng tạo. Điều đó ảnh hưởng những người làm công tác thông tin như thế nào? Những người làm công tác thông tin cung cấp những ý tưởng của những người và những tố chức sang tạo đến những cá nhân muốn sử dụng nó. Những người làm công tác thông tin cần hiểu các luật được phát 68

triển từ các chính sách bản quyền được thông qua bởi chính phủ để quản lí các thư viện và các dịch vụ thông tin theo luật. Khi một luật sư ngay khi nói với người thủ thư - người hỏi về tính hợp pháp của một việc gì đó anh ta đã làm trong công việc – “Nếu nó không hợp pháp, thư viện nơi anh làm không bị giam tù, nhưng anh thì có thể!” Định nghĩa về chính sách thông tin Chính sách thông tin được Hernon và Reylea định nghĩa như sau là tập hợp những nguyên tắc, điều luật, hướng dẫn, qui định và những thủ tục hướng dẫn sự giám sát và quản lí dòng đời thông tin (information life-circle): sản xuất, sưu tập, phân phối/phổ biến, truy dụng, và sự không còn được sử dụng của thông tin bao gồm cả sự bảo tồn thông tin. Chính sách thông tin bao gồm cả sự tiếp cận, việc sử dụng thông tin và biểu ghi… . Điểm mạnh của định nghĩa này, mà nó xuất phát từ Hợp chuẩn quốc Hoa kỳ, là nó trình bày rõ rằng chính sách thông tin cung cấp những nguyên tắc chỉ dẫn tất các mặt của thông tin, sự quản lí, bắt đầu từ sự tạo ra thông tin, thông qua sự sưu tập, phân phối/phổ biến, truy dụng và sự không còn được sữ dụng của thông tin. Các giai đoạn kết hợp liên quan đến sự quản lí thông tin được gọi là dòng đời của thông tin. Vì vậy, tất cả các giai đoạn trong dòng đời của thông tin đòi hỏi các chính sách thông tin. Maxwell có cái nhìn rộng hơn. Ông nói rằng chính sách thông tin là “những quyết định mang tính xã hội, chính trị, luật pháp, kinh tế, kỹ thuật về vai tròn của thông tin trong xã hội. Các quyết định này vận hành cả ở mức độ xã hội khi được áp dụng đối với chính sách quốc gia và quốc tế, và cả ở mức độ phương tiện/công cụ, nó tác động đến sự sáng tạo phổ biến, sử dụng và bảo quản thông tin”2. Từ định nghĩa này, chúng ta có thể thấy rằng chính sách thông tin hoạt động ở mức độ quốc gia và quốc tế, cũng như ở mức độ tổ chức. Các quyết định thuộc mang tính công nghệ ở mức độ quốc tế, ví dụ tác động việc thông tin điện tử được truyền tải trên Internet giữa các máy tính ở những quốc gia khác nhau như thế nào. Những quyết định mang tính xã hội và chính trị ở mức độ quốc gia ảnh hưởng các loại hình thông tin mà các công dân của một quốc gia có thể truy cập trên Internet một cách hợp pháp. Vì vậy, chúng ta có thể thấy rằng chính sách thông tin thật sự là các quyết định về “vai trò của thông tin trong xã hội”. Chính sách thông tin được phát triển để đương đầu với nhiều vấn đề khác nhau liên quan đến thông tin. Hill (1994) chỉ ra rằng bởi vì công nghệ đang thay đổi một cách quá nhanh, do đó chính sách thông tin được sử dụng bởi các tố chức chính phủ để hướng dẫn sự phát triển theo những định hướng mong đợi và thực hiện việc đẩy lùi những định hướng không như mong đợi. Trong nền kinh tế thông tin, tốc độ của sự thay đổi cả về sự thông qua những sự phát triển mang tính kỹ thuật mới và những tahy đổi trong sự liên kết mang tính tổ chức to lớn và sự bảo vệ là cần thiết. New Zealand cung cấp một ví dụ gần đây về việc một tổ chức chính phủ cố gắng hướng dẫn sự phát triển ICT trong theo một định hướng mong đợi. Vào năm 2005, sau khi việc nhập các dữ liệu từ công đồng và các tố chức kinh doanh, chính phủ New Zealand đã thông báo “Chiến lược kỹ thuật số: Sáng tạo ra tương lai kỹ thuật số của chúng ta”. Tài liệu này có sẵn trực tuyến tại trang web: http://www.digitalstrategy.govt.nz/, cung cấp chi tiết các kế hoạch của chính phủ trong hơn 5 năm tới cho việc sáng tạo một môi trường mà ICTs sẽ cung cấp 69

những lợi ích cho tất cả người dân New Zealand- những người ở vùng nông thôn cũng như những người ở đang sống trong các thành phố, người nghèo cũng như người giàu có. Chính phủ New Zealand nhận ra rằng công nghệ của chính quốc gia của họ vẫn chưa đủ - kế hoạch cũng liên quan đến việc sáng tạo ra nội dung số về New Zealand vì lợi ích của của tất các công dân của nó. Chính phủ New Zealand cũng cập nhật The National Act (Đạo luật thư viện quốc gia) để yêu cầu thư viện quốc gia New Zealand bảo quản các nguồn tài nguyên thông tin số của New Zealand trên WWW cũng như những nguồn tài nguyên thông tin được xuất bản dạng in ấn ở New Zealand. Một ví dụ, Singapore trong những năm giữa thập niên 1990 khi chính phủ của nước này xuất bản IT2000, một kế hoạch phát triển một môi trường tích cực ở Singapore cho các công ty công và tư nhân để hợp tác trong việc khai thác IT cho lợi ích mang tính cạnh tranh của quốc gia. kế hoạch đã đưa Singapore trở thành một vị trí envible ở Đông Nam Á như một regional hub của nền thương mại điện tử (e-commerce) ? Chính phủ Việt Nam đã đưa ra những quyết định vể những vấn đề gì để hướng dẫn ICT hay những sự phát triển thông tin số theo những định hướng như mong đợi và/hoặc để đảo ngược lại những quyết định dẫn đến những định hướng không như mong đợi? Sự phát triển Internet ở Việt Nam Internet, đầu tiên được gọi là ARPANET (Advanced Research Projects Agency NETwork), có nguốn gốc ở Hoa Kỳ vào năm 1969 như là một dự án nghiên cứu với những mục đích quân sự. Dự án được Cục Quốc Phòng Hoa Kỳ tài trợ để sáng tạo ra mạng máy tính xuyên quốc gia tiếp tục làm chức năng dù một tỉ lệ khá lớn mạng máy tính đã bị huỷ diệt trong cuộc chiến tranh hạt nhân hay thiên tai. Đầu tiên nó đã kết nối 526 các máy tính nhỏ của 4 trường đại học. Ngày nay, Internet là mạng lưới toàn cầu của các mạng lưới làm cho các loại máy tính có thể liên lạc với nhau và chia sẻ các dịch vụ một cách trực tiếp và kết nối toàn thế giới. Qua nhiều năm, Internet đa tha đổi thành một nguồn tài nguyên thông tin toàn cầu có giá trị khổng lồ làm cho mọi người và các tổ chức có thể chia sẻ tri thức và nó cho phép các công đồng đa dạng khác nhau hợp tác về những lĩnh vực cùng quan tâm. Việt Nam tham gia vào mạng Internet năm 1997. Email đầu tiên và các tên miền được thành lập với sự giúp đỡ từ Cooms Computing Unit của Đại học quốc gia Úc, thành lập mạng Internet Vietnam. Cho đến năm 2002, tì lệ phát triển là 80% mỗi năm với giữa 200.000 đến 250.000 người đang ký và được dự đoán 3.000.000 người sử dụng thông qua cybercafes. Vào tháng 12 na9m 2005, trung tâm thông tin mạng lưới thông tin Việt Nam ghi nhận rằng số người sử dụng Internet ở Việt Nam đã lên đến 9,2 triệu người hay 11,1 % dân số bao gồm 2,5 người đang ký sử dụng, một sự gia tăng từ 5,8 triệu người và 1,5 triệu người đang ký sử dụng trong năm 1994?. Trung tâm củng ghi nhận rằng 180,000 người được đăng ký các dịch vụ Internet broadband tăng từ 50.000 người trong năm 2004. Việc cung cấp truy cập Internet chỉ là một phần của những gì chính phủ Việt nam đang phát triển để cải thiện cuộc sống của người dân Việt Nam. Như những quốc gia khác, Việt Nam 70

muốn gia nhập vào sự giàu có được tạo ra bởi sự phát triển của phần cứng và phần mềm và chính phủ Việt Nam đã phát triển một chiến lược để đạt được mục tiêu này. ! Now read Jason P. Abbott, “The Internet and Development in Vietnam: Bamboo Networks and the Digital Diaspora,” Chapter 5 in Jason P. Abbott (ed.), The Political Economy of the Internet in Asia and the Pacific Digital Divides, Economic Competitiveness, and Security Challenges. (Westport, Conn. : Praeger, 2004), 99 – 105. (Reading 1) ? Chính phủ Việt Nam đã đưa ra những quyết định vể những vấn đề gì để hướng dẫn ICT hay những sự phát triển thông tin số theo những định hướng như mong đợi và/hoặc để đảo ngược lại những quyết định dẫn đến những định hướng không như mong đợi? Những mục tiêu cơ bản của chính sách thông tin Rowlands (reading 2) cung cấp một khuôn dạng cho việc quyết định những mục tiêu cơ bản của một chính sách thông tin. Bài đọc của ông đưa ra một phạm vi và định nghĩa về “chính sách thông tin” là gì, và chứa đựng một một khuôn mẫu “tiêu chuẩn” của năm nhóm các lĩnh vực mà chính sách thông tin bao hàm: 1. Bảo vệ thông tin (Information protectionism) — các qui định kiểm soát sự tiếp cận thông tin (đó là, sự bảo vệ thông tin cá nhân, lưu trữ thông tin,…) 2. Thị trường thông tin (Information markets) – các điều luật và các qui định (ví dụ, luật bản quyền, luật phát minh sáng chế); 3. Truyền thông và các phương tiện viễn thông (Broadcasting and telecommunications) — Chính sách và các qui tắc công tác (ví dụ, các tiêu chuẩn về những gì được phát thanh trên TV hay radio, các điều luật của chính phủ liên quan đến điện thoại và các dịch vụ liên quan đến Internet, …); 4. Truy cập công cộng thông tin chính thức (Public access to official information) – chính sách và các điều lệ qui định việc truy cập thông tin (ví dụ như các qui định bố trí việc truy cập thông tin chính phủ,…); 5. Xã hội thông tin và cơ sở hạ tầng (Information society and infrastructure) – chính sách đo lường đối với viêc đầu tư vào cơ sở hạ tầng thông tin (đó là các chính sách liên quan đến quyền kiểm duyệt và tự do trí tuệ, và đối với sự phát triển ICTs, …) ! Now read Ian Rowlands, “Information Policy: Complexity, Scope and Normative Structure,” in Challenge and Change in the Information Society, eds. Susan Hornby and Zoe Clarke (London: Facet, 2003), 131–46. (Reading 2) 71

Như trường hợp cho tất cả chính sách công cộng, ngay khi chính sách thông tin được đưa vào nó được sử dụng như là một nền tảng cho việc đưa ra quyết định và cho chính phủ để đánh giá việc làm thề nào nó phân phối nguồn tài nguyên ngân sách. Cũng quan trọng để nhận biết rằng nhận biết rằng chính sách thông tin chính thức về một vấn đề thông tin cụ thể có thể được biểu thị/kê khai trong hơn một qui chế hay bộ các qui định. Ví dụ, trong nhiều năm chính phủ quốc gia của Canada đã có một chính sách để bảo vệ bản sắc văn hoá của dân tộc, đặc biệt là chống lại ảnh hưởng quá mạnh của các hàng nhập khẩu của Mĩ như phim ảnh và tạp chí. Để hỗ trợ cho chính sách này, Canada đã ban hành các luật vào những thời điểm khác nhau ảnh hưởng những vấn đề về thông tin như nội dung tiếng Canada trong các phương tiện truyền thông, các tỉ lệ bưu phí ưu đãi đối với các xuất bản phẩm tiếng Canada, các giới hạn về quyền sở hữu các công ty phương tiện truyền thông nước ngoài đang hoạt động ở Canada. Gần đây hơn, do Hiệp Ước Thương Mại Tự Do Bắc Mĩ (North American Free Trade Agreement - NAFTA), Canada đã giài phóng một số luật về những lĩnh vực này. Các ví dụ về các sáng kiến và các tài tài liệu chính sách của chính phủ chú tâm và các vấn đề chính sách thông tin ở những quốc gia đang gia tăng ICTs mới, hay xem: • các cuộc hội đàm về mạng lưới truyền thông mới từ UK: http://www.communicationsact.gov.uk/implementation_consultations.html • những chiến lược điện tử Sáng kiến Xã hội Thông tin Phi Châu http://www.uneca.org/aisi/nici/index.htm Các vấn đề về chính sách thông tin mà tất cả các quốc gia đang đối mặt Dưới đây là bản liệt kê một số các vấn đề về thông tin mà các quốc gia đối mặt và những vấn đề nào đòi hỏi các quyết định chính sách:  Sự tiếp nhận, sử dụng, và phổ biến thông tin bởi tổ chức chính phủ;  Nhu cầu để cân đối các quyền sở hữu của tác giả và những nhà sang chế với quyền truy cập của người dùng tin (các vấn đề sở hữu trí tuệ, như được trình bày trong luật bản quyền và luật phát minh sáng chế);  Qui định của các ngành công nghiệp thông tin;  Sự lưu chuyển thông tin trong và ngoài các bộ phận của nền kinh tế (ví dụ như, công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, xuất bản, các phương tiện truyền thông, các dịch vụ y tế, bộ phận giáo dục);  Sản xuất và phổ biến nguồn thông tin khoa học kỹ thuật;  Nhu cầu kích thích nghiên cứu và phát triển;  Cung cấp các dịch vụ thư viện công cộng;  Sự lưu chuyển các dữ liệu xuyên quốc gia;  Nhu cầu bảo vệ sự riêng tư và các dữ liệu mang tính cá nhân và nhạy cảm;  Cung cấp thông tin người tiêu dùng; 72

 Nhu cầu cân đối sự tự do thông tin với những sự quan tâm an ninh quốc gia và sự kiểm soát các hoạt động tội phạm; các vấn đề tự do trí tuệ (tự do ngôn luận, quyền kiểm duyệt).1 Như chúng ta thấy, bản liệt kê này dài dòng, nhưng có thể không đề cập hết mọi khía cạnh. Thêm vào đó, nhiều vấn đề chồng chéo nhau. Bản liệt kê này bao gồm những lĩnh vực mà bạn có thể không xem xét trước mà có mối quan hệ với chính sách thông tin. Ví dụ, sự lưu chuyển các dữ liệu xuyên quốc gia là một vấn đề lớn khi đề cập đến việc lưu trữ thông tin. Các khách du lịch tham quan Việt Nam những người sử dụng các máy rút tiền tự động) – ATMs muốn chắc chằn rằng những các chi tiết về tài chính của họ là an toàn. Việt Nam tham gia các hiệp ước quốc tế liên quan đến việc nắm bắt các dữ liệu ở Việt Nam và truyền thông tin đến những ngân hàng ngoài Việt Nam. Ví dụ về việc gửi tiền ở ngân hàng cũng liên quan đến thông tin cá nhân về các chi tiết tài chính của các cá nhân liên quan đến sự giao dịch ATM – vì thế có những vấn đề về sự riêng tư cá nhân và an ninh cũng liên quan đến vì dụ này. Thông tin về những sự khởi đầu chính sách thông tin liên quan đến những vấn đề ở trên có sẵn trên WWW cho nhiều quốc gia khác như Mĩ, Úc và khối Cộng Đồng Châu Âu. Nói chung, chính sách thông tin có ba mục tiêu cơ bản:  Để xác định nhu cầu thông tin của các công dân của một quốc gia;  Đưa ra những cơ chế mà nó đáp ứng các nhu cầu đó;  Cải thiện việc sử dụng các dịch thông tin hiệu quả.2 Ở một mức độ cơ bản hơn, chính sách thông tin có hai phạm trù:  Các chính sách cân đối sự tự do của các cá nhân với sự tốt đẹp của xã hội;  Các chính sách cân đối lợi ích và trách nhiệm của khu vực tư nhân (như các doanh nghiệp tư nhân) với trách nhiệm và lợi ích chung. Xây dựng chính sách thông tin Việc xây dựng chính sách thông tin diễn ra trong một ngữ cảnh mang tính chính trị và lịch sử. Chính sách thông tin dường như thích hợp ở một nơi, vào một thời điểm trong lịch sử thường được xem là không thích hợp trong những hoàn cảnh khác. Ví dụ, sự kiểm soát tuyệt đối của nhà nước về các phương tiện thông tin truyền thông dường như là một mục tiêu chính sách thông tin thích hợp với hầu hết các quốcgia trong suốt thời kỳ chiến tranh thế giới thứ I và thứ II, nhưng ngày nay nó được xem không còn phù hợp. Ở New Zealand, chính sách thông tin, giống như những chính sách công cộng khác, thường được quyết định thông qua một quá trình công khai liên quan đến nhiều giai đoạn. Các vấn đề về chính sách này sinh theo nhiều cách thức. Ví dụ, một vấn đề có thể được phát sinh trong Quốc Hội như là kết quả của một sự tranh cãi bùng nổ về việc thiếu một quan điểm chính thức về một vấn đề. Trước khi các quan chức chính phủ chấp nhận một vần đề quan trọng, một cơ quan chính phủ được chọn ra để nghiên cứu vấn đề này và điều này thường liên quan đến việc thu nhận dữ liệu của ban soạn thảo chính sách. Digital Strategy (Chiến lược số) cung cấp một ví dụ hữu ích và được thảo luận dưới đây. 1 Much of this list is taken from Hill (1994). 73

Ban soạn thảo chính sách Nhiều nhà soạn thảo chính sách tham gia vào các quá trình phát triển chính sách thông tin. Một nhà soạn thảo có thể bất cứ một người hay nhóm những người quan tâm đến những vấn đề liên qua đến việc phát triển một chính sách. Nếu chúng ta xem sự tham khảo ý kiến với cộng đồng về Digital Strategy của chính phủ New Zealand như là một phần của quá trình phát triển chính sách, chúng ta có thể nhận ra ban soạn thảo chính sách khác nhau bằng cách nhìn vào Summary of Submissions (Bản tóm tắt các đệ trình) (qua đường dẫn: http://www.med.govt.nz/pbt/infotech/digital-strategy/submissions-summary/index.html). Có hơn 190 tổng số các đệ trình được tổ chức thành những nhóm soạn thảo chính sách như sau:  Bộ phận Nghiên cứu và Giáo dục  Bộ phận Văn hoá và các Thư viện  Các doanh nghiệp  Chính phủ  Chính quyền địa phương  Bộ phận ICT  Các nhóm ngành nghề  Các cộng đồng, cá nhân, dân tộc Maori và người đảo Thái Bình Dương  Các tổ chức từ thiện, nhóm tình nguyện và các tổ chức phi chính phủ (NGOs) Vì chính sách thông tin được phát triển trong những ngữ cảnh cụ thể, ban soạn thảo trong những chính sách thông tin sẽ khác nhau. Nói chung, trong các chế độ dân chủ trưởng thành như New Zealand, chính phủ quốc gia sẽ có một sự quan tâm và trách nhiệm trong sự phát triển các chính sách thông tin. Trong các chính phủ quốc gia, nhiều cơ quan hay các bộ khác nhau có thể có trách nhiệm trùng lấp nhau đối với một vấn đề thông ton cụ thể hay sáng kiến về chính sách thông tin. Nếu những đường ranh giới không được thành lập một cách rõ ràng ở sự khởi đầu, một tình huống với những trách nhiệm trùng lấp nhau có thể dẫn đến những cuộc tranh trãi về lãnh thổ giữ các cơ quan chính phủ, hay dẫn đến một việc thiếu sự hợp tác chung. Sự chồng chéo giữa các cơ quan chính phủ làm cho sự phát triển chính sách thông tin phức tạp. Ví dụ, các thư viện công cộng thường được nhận biết như những nơi hợp lí đối với việc cung cấp sự truy cập Internet công cộng miễn phí để bắt cầu sự phân bố mạng lưới kỹ thuật số cho người bị không có điều kiện tiếp cận. Tuy nhiên, vấn đề lại phức tạp ở NewZealand bởi vì chính sách công cộng và nguồn tài chính cho sự phân bố mạng lưới kỹ thuật số nằm trong phạm vi quyền lực pháp lí của chính phủ quốc gia nhưng các thư việc công cộng lại dưới sự kiểm soát về tài chính và trách nhiệm của các chính phủ quốc gia. Ở những quốc mà nhà nước và các chính quyền đại phương tốn tại, hoàn cảnh có thể trở nên phức tạp hơn bởi vì họ có thể cũng bị ảnh hưởng bởi việc xây dựng chính sách thông tin. Thường thì những sự quan tâm về thương mại và công nghiệp sẽ có nguyên tắc trong sự phát triển chính sách thông tin.Người ta nói rằng mức độ các nguồn tài nguyên mà những sự quan tâm đưa vào chính sách thông tin nằm trong phần trực tiếp đến …. Vì vậy một vấn đề chính 2 John Gray, National Information Policies: Problems and Progress (London: Mansell, 1988). 74

sách thông tin như việc đảm bảo rằng tất cả các công dân có thể đủ khả năng/điều kiện để truy cập Internet là một vấn đề liên quan đến trực tiếp đến các công ty điện thoại hay các công ty truyền thông khác mà nó cung cấp một dịch vụ như thế. Vì thế các công ty này sẽ triển khai những nguốn tài nguyên quan trọng chủ yếu để đảm bảo các quan điểm của họ để những người xây dựng chính sách hiểu được. Ở các quốc gia theo chế độ dân chủ như Canada, Úc và Vương quốc Anh, những công dân bình thường cũng có thể tham gia vào sự phát triển các chính sách công cộng. Các cá nhân với những quan đểim giống nhau đôi khi tự tổ chức họ thành những nhóm quan tâm công cộng để làm cho khả năng lớn mạnh hơn để tác động những người xây dựng chính sách về các vấn đề mà họ quan tâm. Đối với một vài ví dụ về các nhóm quan tậm công cộng tìm kiếm để tác động quá trình thông tin về những vấn đề thông tin. Hãy xem lướt qua trang các địa chỉ web:  Internet New Zealand (formerly Internet Society of New Zealand) http://www.internetnz.net.nz/  Electronic Frontier Canada http://www.efc.ca/ Từ quan điểm của nhiều người ở những quốc gia theo chế độ dân chủ ở phương Tây, Việt Nam là một quốc gia theo chủ nghĩa cộng sản mà không cho phép những công dân bình thường cung cấp thông tin vào ý kiến của chính phủ. Tuy nhiên, một bản khảo sát gần đây được Dalton và Ong tường thuật lại đã chỉ ra rằng những người thuộc mức trung bình ở Việt Nam sẽ thuộc các nhóm mà có thể tác độngếy kiến của chính phủ về các vấn đề chính sách. Bản khảo sát giá trị thế giới (The World Values Survey) đã hỏi những người tham gia có phải họ là một thành viên của một nhóm trong 14 lĩnh vực khác nhau cộng thêm một lĩnh vực khác. Dữ liệu được thu thập trong bản khảo sát chỉ ra rằng một phần năm hay nhiều hơn công chúng ở Việt Nam tuyên bố rằng họ là những thành viên của một nhóm thể thao/giải trí, một nhóm công đồng địa phương, một tổ chức phúc lợi xã hội, một nhóm phụ nữ, hay một nhóm chính trị. Cũng có sự liên quan đáng kể trong các nhóm văn hoá/giáo dục, các hội liên hiệp, các hội đoàn chuyên môn và những nhóm thanh niên. Ít nhất, các mẫu của toàn thể hội viên nhóm phản ánh những cố gắng nổ lực của chính phủ để làm cho quần chúng thma gia vào các nhóm xã hội được chính phủ đề xướng và điều khiển. Hội Phụ Nữ Việt Nam, Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh, Hội Nông Dân Việt Nam, Liên Đoàn Lao Động Việt Nam và những nhóm khác đã phục vụ như những con đường cho chính phủ để liên lạc với những tổ chức xã hội chủ yếu ở Việt Nam, và thường thì những nhóm này khẳng định tư cách hội viên quốc gia (Porter 1993: ch. 3). Ví dụ, sự tham gia vào Đoàn Thanh Niên là con đường đi đến sự thăng tiến nghề nghiệp, và sự tham gia vào các nhóm như thế đã được khuyến khích. Gần đây chính phủ khuyến khích các hợp tác xã địa phương khác nhau đưa ra một số vấn đề cộng đồng. Kết quản là một mức độ ràng buộc xã hội cao giữa công chúng Việt Nam.8 Như là trường hợp trong tất cả các tình huống mà những sự quan tâm khác nhau tin rằng họ có một sự khẳng định hợp pháp/chính đáng đến việc tác động quá trình xây dựng chính sách, các nhóm giữa vị trí quyền lực hơn thường có mức độ kiểm soát cao hơn trong quá trình xây đựng chính sách. Vì vậy, ở những xã hội tư bản tiên tiến, nền công nghiệp có một tác động quyền lực đến qui trình xây dựng chính sách liên quan đến các vấn đề về thông tin. Quyền lực như thế được biểu thị trong những giới hạn được thiết lập xung quanh về sắp tới, trong việc 75

quyết định ai tham gia vào qui trình xây dựng chính sách, trong việc quyết định các kết quả như được mong đợi, và trong việc đưa ra những vấn đề phải bàn cho đối với qui trình xây dựng chính sách. Khi phân tích qui trình của việc phát triển chính sách thông tin, các nhà chính trị xoay quanh qui trình phát triển và sự thực hiện những chính sách đó phải luôn được xem xét. ? Cách thức nào được sử dụng ở Việt Nam để xây dựng chính sách công? Ai là những người soạn thảo các vấn đề chính sách liên quan đến a. Sự phát triển điện mạng điện thoại và các dịch vụ Internet ở Việt Nam? b. Sự phát triển các dịch vụ thông tin khoa học kỹ thuật ở Việt Nam? c. sự phát triển giáo dục quản lí thông tin và thư viện ở Việt Nam? d. Cung cấp các dịch vụ thư viện công cộng ở khu vực Cần Thơ? e. khắc phục sự phân bố mạng lưới công nghệ số ở Việt Nam? f. Công tác kiểm duyệt ở Việt Nam ? Ban soạn thảo chính sách cung cấp dữ liệu vào các các qui trình phát triển chính sách thông tin như thế nào? Bạn có nghĩ rằng các nhóm được xác định bởi Dalton và Ong có tác động đến sự phát triển của chính sách chính phủ? nếu có như thế nào? Những vấn đề chính sách thông tin chủ yếu đối với các thủ thư Công tác kiểm duyệt Như đã được chú thích từ đầu ở chương này, có nhiều vấn đề về kinh tế, xã hội, chính trị dẫn đến việc xây dựng chính sách thông tin. Một số vấn đề thường rõ rang hơn những vấn đề khác vì họ nó nhận được tường thuật trong các phương truyền thông. Một lĩnh vực liên quan đến công việc của các thủ thư là quyền/công tác kiểm duyệt. The Columbia Encyclopedia định nghĩa quyền kiểm duyệt như sau: sự ngăn cấm hay sự giới hạn chính thức bất kỳ hình thức biểu lộ nào được cho là đe dọa phẩm chức đạo đức, qui định chính trị, xã hội. Nó có thể được áp đặt bởi chính quyền, địa phương hoặc quốc gia, bởi tổ chức tôn giáo, hay đôi khi bởi một nhóm các cá nhân có quyền lực. Nó có thể được áp dụng trong các thư từ, bài diễn văn, báo chí, nhà hát, vũ trường, nghệ thuật, văn học, nhiếp ảnh, điện ảnh, radio, tivi, hay mạng máy tính. Quyền kiểm duyệt có thể mang tính ngăn ngừa hay trừng phạt căn cứ theo việc nó được thi hành trước hay sau sự biểu lộ trước công chúng. Có nhiều sự tranh cãi về vai trò của các thư việc trong đối trong việc cung cấp sự tiếp cận thông tin. Nhiều người ở các quôc gia dân chủ sẽ tranh luận rằng các thư việc và các cơ quan lưu trữ công cộng phải bảo vệ các quyền lợi của các cá nhân để tiếp cận thông tin một cách tự do. Ở Mĩ, USA Patriot Act (Đạo luật người yêu nước Mĩ) được chuyển sang thành luật sau những cuộc tấn công vào World Trade Center (Trung tâm Thương mại Thế giới) vào tháng 9 năm 1991. Tuy nhiên, American Library Association (ALA) (Hiệp hội Thư viện Mĩ) đã chỉ 76

trích bộ luật vì nó yêu cầu các thư việc cung cấp cho các cơ quan chính phủ Mĩ những thông tin về những gì mà các khách hàng của thư viện đang đọc. Tố chức ALA cảm thấy rằng Patriot Act xâm phạm quyền tiếp cận thông tin mà không có sự buộc tội/tố cáo của mọi người, một điều gì đó cần thiết trong một xã hội dân chủ. Những quan điểm của ALA được chính phủ Mĩ thi hành một cách nghiêm túc, như có thể đươc nhận biết trong bài tường thuật của Charles Doyle của Congressional Research Service (CRS) (Cơ quan Nghiên cứu thuộc Quốc Hội Mĩ) ! Now read Charles Doyle. “Libraries and the USA Patriot Act: CRS Report to Congress. Downloaded January 11, 2006, from CRS Web at: http://www.fas.org/sgp/crs/intel/RS21441.pdf (Reading 3) Bạn có thể xem trực tiếp thông tin về quan điểm của ALA về Patriot Act từ trang web của Hiệp hội: http://www.ala.org/ala/washoff/WOissues/civilliberties/civilliberties.htm ? Từ quan điểm của bạn, ALA có đủ lí do chính đáng trong sự quan tâm của họ về US Patriot Act không? Tại sao có và tại sao không? Gần đây, Thông tấn xã Việt Nam (VNA) đã xuất bản một bài báo không chấp nhận sự buộc tội rằng Việt Nam giới hạn việc truy cập Internet. Sự buộc tội được đưa ra bởi một tổ chức quốc tế gọi là Reporters Without Borders (RWB) (Những phóng viên không biên giới) trước sự khởi đầu của giai đoạn 2 của World Summit on Information Society (WSIS) (Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Xã hội Thông tin) đã được tổ chức ở Tunis vào cuối tháng 11 năm 2005. Giai đoạn đầu được tổ chức ở Geneva vào tháng 11 năm 2003. Mục đích chính của WSIS là xây dựng các bước cụ thể để “hình thành những nền tảng cơ bản cho một Xã hội Thông tin cho tất cả mọi người, phản ánh tất các những lợi ích khác nhau đang bị đe dọa. (http://www.itu.int/wsis/basic/about.html ! Now read Vietnam News Agency. “Vietnam rejects accusation of restrictions on Internet access.” 26 November, 2005. Downloaded 17 December 2005, from BBC Monitoring International Reports. (Reading 4) ? Những sự khác nhau nào nếu có giữa những gì chính phủ Mĩ đã làm torng US Patriot Act, và những sự giới hạn việc truy cập Internet của chính phủ Việt Nam? Vai trò của các thư viện trong việc cung cấp sự tiếp cận thông tin cho người sử dụng là một chủ đề phổ biến trong các tài liệu về công tác thư viện ở các nước phương Tây. Stuart hannabuss và Mary Allard thảo luận việc các thủ thư đáp ứng qúa trình của công tác kiểm duyệt như thế nào. Họ nói “quá nhiều sự kiểm soát có thể sự chuyên chế, trong khi quá nhiều sự chịu đựng có thể suy yếu dần dang sự bị động và thuyết tương đối không suy xét” (p.81). Họ thảo luận, trong số những vấn đề khác, những tiêu chuẩn cộng đồng, và họ đề nghị rằng các thư viện cần phản ánh các tiêu chuẩn cộng đồng trong giới hạn những thông tin nào có thể 77

chấp nhận và những thông tin nào thì không, một quan điểm đối lập/trái ngược với quan điểm được đưa ra bởi Alex Byrne, chủ tịch hiện tại của Liên đoàn các hiệp hội và các cơ quan thư viện quốc tế ! Hãy đọc: Alex Byrne, “The end of history: censorship and libraries,” The Australian Library Journal, vol. 53 no. 2 (2004): pp. 133-151 (Reading 5) Stuart Hannabuss and Mary Allard, “Issues of censorship,” Library Review, vol. 50 no. 2 (2001): pp 81-89. (Reading 6) ? Những hình thức nào của quyền kiểm duyệt mà Byrne thảo luận (bài đọc 5) và những tác động chính nào của nó đến xã hội? Bạn có đồng ý với ông không? Tại sao và tại sao không? Những thử thách gì được Hannabuss và Allard nhận ra là gây khó khăn cho các thủ thư ở nhiều nước hỗ trợ mức độ tự do trí tuệ và sự tiếp cận có thể ở các nước phương Tây như Canada, Mĩ, Vương quốc Anh và New Zealand? Bạn có đồng ý với Hannabuss và Allard ở trang 85 đối với việc sử dụng các tiêu chuẩn cộng đồng cho phép cộng đồng tự đưa ra quyết định hay bạn đồng ý với quan điểm của Byrne’s về tiêu chuẩn xã hội và thực tiễn cũng như chính sách của thư viện ? tại sao? Tiếp cận thông tin chính phủ Các thông tin chính phủ là gì, và tại sao các chuyên gia thông tin quan tâm đến việc bảo đảm sự tiếp cận các thông tin đó? Khi bạn nghĩ về nó, các cơ quan chính phủ tạo ra, sưu tập, và tổ chức một số lượng lớn thông tin trong suốt tất cả các loại hình hoạt động được thực hiện bởi các ban ngành, cơ quan và các doanh nghiệp. Thực tế, các cơ quan chính phủ là những người thu thập thông tin lớn nhất trong xã hội của chúng ta. Thông tin chính phủ là trung tâm đối với cách thức mà xã hội hoạt động. Nhiều loại hình của nó bao gồm:  Các điều luật và các nguyên tắc kiềm soát/điều hành cách thức mà chúng ta kiểm soát cuộc sống và công việc của chúng ta;  Dữ liệu nhân khẩu và kinh tế (với hình thức con số thống kê) được hướng đến sự hỗ trợ các cơ quan của công và tư nhân trong việc lập kế hoạch;  Những bài thảo luận nhằm mục đích khuyến khích sự thảo luận về các vấn đề chính sách công cộng hiện tại. 78

 Các sổ tay thời sự mang tính quản cáo giải thích và khuyến khích sự chấp nhận các chính sách hiện tại (ví dụ, Sở Y tế có thể phát hành những quyền sổ tay về sự nguy hiểm của hút thuốc, hay để vận động vấn đề an toàn tình dục;  các hồ sơ văn bản thuộc sở/cục bao gồm các quyết định hành chính được lưu giữ bởi các quan chức làm việc trong cơ quan nhà nước cũng như các viên chức đắc cử;  các tài liệu liên quan đến thông tin cá nhân qui định về những mục đích thuế thu nhập. Đối với xã hội của chúng ta để hoạt động một cách hiệu quả, và để duy trì và nâng cao tiêu chuẩn sống, chúng ta cần tiếp cận thông tin chính phủ. Tuy nhiên, không phải tất cả những hình thức thông tin chính phủ được hay nên được đưa vào công chúng. Một số thông tin cần được quản lí hay giới hạn sử dụng một cách cẩn thận như thông tin chiến lược quân sự hay thông tin nhạy cảm về phương diện thương mại như các tài liệu kinh doanh của công ty nhà nước. Một mặt, các công sân cần tiếp sự một số loại hình thông tin chính phủ, như mặt khác xã hội của chúng ta cần những sự giới hạn về sự tiếp cận những loại hình thông tin chính phủ khác. Có nhiều lí do để bảo đảm rằng công chúng có sự tiếp cận thông tin chính phủ, chúng ta hãy xem qua những lí do đó dưới đây:  thông tin chính phủ làm cho công chúng có thể bảo vệ được các quyền và những đặc quyền như những công dân;  cho phép công chúng tham gia một cách hiệu quả hơn trong việc thành lập và quản lí điều luật và chính trị;  khuyến khích trách nhiệm giải trình của các Bộ trưởng và các quan chức chính phủ  làm tăng sự tôn trọng luật pháp và xúc tiến một chính phủ tốt đẹp. Ở một số quốc gia, các thư viện là một trong những điểm truy cập chính những thông tin chính phủ. Ví dụ ở Hoa kỳ cung cấp những thư viện được chọn lọc với những xuất bản phẩm chính phủ chính thức dạng để các công dân Mĩ có thể tiếp cận các tài liệu đó. Cơ cấu này được biết đến như Federal Depository Library Program (FDLP) và nó được điều khiển bởi U.S. Government Print Office (Văn phòng in ấn Chính phủ Mĩ). FDLP thu hút hơn 1250 thư viện các nước và trong những năm gần đây các thư viện này đã trở thành trung tâm cho GPO Access, một dịch vụ công cho dành cho việc cung cấp sự tiếp cận các thông tin chính phủ ở dạng điện tử. Thông tin về FDLP và GPO Access có thể được tìm thấy tại địa chỉ: http://www.gpo.gov/ Một số quốc gia cũng có cơ cấu tương tự, nhưng không nó không có phạm vi rộng như các dịch vụ FLDP và GPO Access ở Mĩ. Vì thông tin chính phủ và các dịch vụ có sẵn ở dạng điện tử và được đưa lên Internet, nhiều quốc gia cũng thành lập “e-government programs” (Chương trình chính phủ điện tử) chính thức với phạm vi rộng. Ví dụ, ở New Zealand, các thủ thư và các chuyên viên lưu trữ văn thư giữ những vai trò chính trong trợ giúp việc thành lập sự sắp xếp siêu dữ liệu thích hợp cho việc quản lí và cung cấp sự tiếp cận thông tin và các dịch vụ chính phủ. Các thủ thư cũng liên quan đến việc quản lí nội dung các trang web chính 79

phủ. Bạn có thể xem qua những tài liệu chính liên quan đến chiến lược chính phủ điện tử của New Zealand tại địa chỉ: http://www.e-government.govt.nz ? Các thư viện giữ vai trò gì (hay họ nên giữ vai trò gì) trong việc cung cấp sự tiếp cận thông tin chính phủ ở Việt Nam? Thực trạng chính phủ điện tử ở Việt Nam hiện nay như thế nào Sở hữu trí tuệ Các thư viện cung cấp nhiều cơ hội cho mọi người để cam kết những sự vi phạm chống lại luật sở hữu trí tuệ, vì vậy đây là một lĩnh vực chính sách thông tin chính cho các quản thủ thư viện. Sở hữu trí tuệ liên qua đến những sản phẩm của trí tuệ con người mà nó mang tính duy nhất, mới lạ, và không rõ rang. Các sản phẩm bao gồm những sự phát minh, những cách thức/phương pháp (sản xuất, chế biến), các tác phẩm văn học, bản nhảc được viết và trình diễn, các tên gọi và công thức. Có nhiều loại hình sở hữu trí tuệ, bao gồm:  Bản quyền  Quyền đạo lí  Bằng sáng chế  Các kiểu mẫu / designs  Các thương hiệu  Tài sản văn hoá Cơ chế quản lí việc sử dụng sỡ hữu trí tuệ trong xã hội phát sinh từ hai lí do mang tính đối lập nhau, cả hai là sự quan tâm đối với các chuyên gia thông tin. Một mặt, xã hội cần khuyến khích sự lưu chuyển thông tin tự do về những vật sang chế, thuốc, phần mềm,…để các ý tưởng có thể được khia thác và mọi người có thể có cuộc sống tốt hơn. Mặc khác, những người có những ý tưởng – nhà phát minh, nhà khoa học, các tác giả, những người phát triển phần mềm,… cần biết rằng họ sẽ được thưởng cho các ý tưởng cảu mình và các ý tưởng của họ sẽ không được sử dụng theo những cách thức mà nó làm cho họ bị thiệt thòi. Cơ chế bảo vệ sở hữu trí tuệ được dự định để đảm bảo rằng sự sáng tạo được khen thưởng trong khi xã hội có sự tiếp cận hợp lí các sản phẩm của sự sáng tạo đó. ? Một số cách thức khác nhau nào mà chủ nhân của sở hữu trí tuệ được khen thưởng? Bản quyền là một vấn đề chính đối với các thủ thư và những nhà quản lí thông tin vì nó ảnh hưởng trực tiếp việc một tác phẩm được sao chép và phân phối như thế nào. Các thư viện thường là trung tâm của những sữ giao dịch liên quan đến sao chép của các tác phẩm từ bộ sưu tập của thư viện – hay các tác phẩm được mượn từ các thư viện khác. Theo truyền thống, một bản quyền bao gồm “những tác phẩm văn học” nhưng khái niệm này được mở rộng bởi sự xuất hiện của các phương tiện truyền thông mới. Vào thời điểm đầu, 80

người sở hữu bản quyền thường là tác giả, nhưng tác giả đó có thể bán bản quyền hay thương lượng giấy phép, ví dụ như với một nhà xuất bản. Luật sở hữu trí tuệ ở mỗi nước khác nhau, vì thế đối các chuyên gia thông tin Việt Nam việc có sự hiểu biết về luật bản quyền của Việt Nam là điều quan trọng. Ví dụ, ở Mĩ, chính phủ gần đây đã mở rộng khoảng thời gian bảo vệ bản quyền cho các bộ phim từ 70 đến 100 năm, một phần nào đề bảo vệ công ty điện ảnh Disney từ việc đánh mất bản quyền hình ảnh chuột Mickey xuất hiện đầu tiên vào ăm 1928 trong bộ phim Steamboat Willie. Ở New Zealand, bản quyền của các tác phẩm văn học được bảo vệ trong vòng 50 năm tính từ sự quan đời của tác giả, hay trong một số trường hợp, như các bộ phim và các chương trình máy tính, bản quyền được bảo vệ từ ngày nó được sáng tạo hay lần đầu tiên được đưa vào công chúng. ? Cơ chế ở Việt Nam đối với việc cung cấp sự bảo vệ sở hữu trí tuệ liên quan đến các tác phẩm văn học? Thời gian của sự bảo vệ bản quyền đối với các phẩm văn học ở Việt Nam? Những hình thức hoạt động mà bản quyền có thể cho người sở hữu sự kiểm soát bao gồm:  Sao chép tất cả hay bất cứ phần nào của tác phẩm  Xuất bản và phát hành các bản sao của tác phẩm (mặc dù thường các thư viện là được miễn và được cho phép cho mượn một bản sap chép của một tác phẩm nếu nó được bán một cách hợp pháp)  Sự trình diễn một tác phẩm trước công chúng (vi dụ như các vở kịch sân khấu, các tác phẩm âm nhạc)  Phổ biến tác phẩm  Phỏng theo tác phẩm Luật bản quyền thường thừa nhận rằng việc bào vệ sự sao chép thì không tuyệt đối. Khái niệm “sự thoả thuận công bằng” với ý định là làm cho các bản sao của một tác phẩm có thể được cung cấp một cách tự do bởi các các nhân cho những mục đích như nghiên cứu, bình luận,…. Các tiêu chí được được sử dụng để quyết định việc sao chép là sự thoả thuận công bằng bao gồm những điều như:  Mục đích của việc sao chép  Bản chất của tác phẩm  Ảnh hưởng của việc sao chép đến thị trường tiềm năng đối với tác phẩm  Số lượng và tính chất chắc chắn của một phần của tác phẩm được sao chép. ? Những ví dụ nào của “sự thoả thuận công bằng” có thể ứng dụng trong những tình huống trong các trung tâm thông tin và thư viện? 81

Nhiều sự kinh doanh quốc tế liên quan đến xung quanh sự sáng tạo và sự bán sở hữu trí tuệ - hoặc một cách rõ ràng như việc bán các phần mềm, các đĩa phim DVD, các đĩa nhạc CD,… hoặc không rõ ràng trong sự sáng tạo các loại thuốc mới hay hình dáng của điện thoại di động. Các quốc gia như Mĩ, nơi có một số lượng tiền khổng lồ được đầu tư vào sở hữu trí tuệ, đòi hỏi rằng các đối tác kinh doanh tiềm năng của họ tâun thoe các luật bản quyền. Nếu Việt Nam mong muốn gia tăng việc kinh doanh mua bán của nó với các nước như Mĩ, Anh, Đức,… nó phải bảo đảm rằng các tổ chức chính phủ của nó, các doanh nghiệp và các công dân tôn trọng điều luật với sự lưu ý đến sởsở hữu trí tuệ. Các thư viện có một vai trò chủ yếu trong việc này – như những nhà quản lí sở hữu trí tuệ trong bộ sưu tập của họ và như những nhà giáo dục về sở hữu trí tuệ đối với các khách hàng của thư viện. Kết luận Để kết luận lại dung của chương này, điều quan trọng là bạn nghị về những loại hình chính sách thông tin ở mức độ mang tính tổ chức. Đầu tiên chúng ta đề cập về chính sách thông tin từ mức độ mang tính quốc gia, tiếp theo là đến mức độ mang tính quốc tế. Nhưng chính sách thông tin cũng tồn tại ở mức độ mang tính tổ chức. Ví dụ, các cơ quan/tổ chức công và tư nhân sẽ có chính sách về việc sử dụng Internet đội ngũ nhân viên và về khoảng thời gian thông tin được giữ lại trước khi nó hoặc bị huỷ bỏ hay được xem là lạc hậu hơn những thông tin hiện tại. Tất cả các tổ chức cần ý thức về các luật lệ/qui định liên quan đến sở hữu trí tuệ (bản quyền, sáng chế,…) và trong nhiều trường hợp nó sẽ có lợi đối với tổ chức nếu họ có các chính sách để đối phó với các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ. Các loại hình chính scáh này thực tế là những chính sách thông tin và chính những nhà quản lí thông tin - những người có trách nhiệm đối với việc phát triển những chính sách này. Chính sách thông tin là một phần quan trọng chủ yếu của công việc của các thủ thư và những nhà quản lí thông tin, và nó là ví do vì sao hiểu biết về nó là điều cần thiết. Câu hỏi thảo luận Trong suốt bài học của tuần này các sinh viên được hỏi một số câu hỏi. Chúng tôi hy vọng rằng bạn đã có suy nghĩ về chúng, thảo luận chúng với các bạn cùng lớp và với giáo viên. Dưới đây là một số câu hỏi ôn tập dựa vào những ghi chú và vào tài liệu bạn đã đọc. Những câu hỏi này giúp cho các sinh viên ôn tập lại bài học trong tuần, nó có thể được thảo luận trên lớp hay sẽ được cho trong bài kiểm tra. 1. Chính phủ Việt Nam đã đưa ra những quyết định về những vấn đề gì để hướng dẫn ICT hay những sự phát triển thông tin số theo những định hướng như mong đợi và/hoặc để đảo ngược lại những quyết định dẫn đến những định hướng không như mong đợi? 2. Chính phủ Việt Nam đã đưa ra những quyết định vể những vấn đề gì để hướng dẫn ICT hay những sự phát triển thông tin số theo những định hướng như mong đợi và/hoặc để đảo ngược lại những quyết định dẫn đến những định hướng không như mong đợi? 3. Cách thức vá các cách thức được sử dụng ở Việt Nam để xây dựng chính sách công? 4. Những ai là người soạn các vấn đề chính sách liên quan đến a. Sự phát triển điện mạng điện thoại và các dịch vụ Internet ở Việt Nam? 82

b. Sự phát triển các dịch vụ thông tin khoa học kỹ thuật ở Việt Nam? c. sự phát triển giáo dục quản lí thông tin và thư viện ở Việt Nam? d. Cung cấp các dịch vụ thư viện công cộng ở khu vực Cần Thơ? e. khắc phục sự phân bố mạng lưới công nghệ số ở Việt Nam? f. Công tác kiểm duyệt ở Việt Nam ? 5. Ban soạn thảo chính sách cung cấp dữ liệu vào các các qui trình phát triển chính sách thông tin như thế nào? 6. Bạn có nghĩ rằng các nhóm được xác định bởi Dalton và Ong có tác động đến sự phát triển của chính sách chính phủ? nếu có như thế nào? 7. Từ quan điểm của bạn, ALA có đủ lí do chính đáng trong sự quan tâm của họ về US Patriot Act không? 8. Những sự khác nhau nào nếu có giữa những gì chính phủ Mĩ đã thực hiện trong US Patriot Act, và những sự giới hạn việc truy cập Internet của chính phủ Việt Nam? 9. Những hình thức nào của quyền kiểm duyệt mà Byrne thảo luận (bài đọc 5) và những tác động chính nào của nó đến xã hội? Bạn có đồng ý với ông không? Tại sao và tại sao không? 10. Những thử thách gì được Hannabuss và Allard nhận ra là gây khó khăn cho các thủ thư ở nhiều nước hỗ trợ mức độ tự do trí tuệ và sự tiếp cận có thể ở các nước phương Tây như Canada, Mĩ, Vương quốc Anh và New Zealand? 11. Các thư viện giữ vai trò gì (hay họ nên giữ vai trò gì) trong việc cung cấp sự tiếp cận thông tin chính phủ ở Việt Nam 12. Hoàn cảnh ở Việt Nam đối với chính phủ điện tử? 13. Một số cách thức khác nhau nào mà chủ nhân của sở hữu trí tuệ được khen thưởng? 14. Cơ chế ở Việt Nam đối với việc cung cấp sự bảo vệ sở hữu trí tuệ liên quan đến các tác phẩm văn học? 15. Thời gian của sự bảo vệ bản quyền đối với các phẩm văn học ở Việt Nam? 16. Những ví dụ nào của “sự thoả thuận công bằng” có thể ứng dụng trong những tình huống trong các trung tâm thông tin và thư viện? Readings Abbott, Jason P. “The Internet and Development in Vietnam: Bamboo Networks and the Digital Diaspora,” Chapter 5 in Jason P. Abbott (ed.), The Political Economy of the Internet in Asia and the Pacific Digital Divides, Economic Competitiveness, and Security Challenges. (Westport, Conn. : Praeger, 2004), 99 – 105. Byrne, Alex. “The end of history: censorship and libraries,” The Australian Library Journal, vol. 53 no. 2 (2004): pp. 133-151 Doyle, Charles. “Libraries and the USA Patriot Act: CRS Report to Congress. Downloaded January 11, 2006, from CRS Web at: http://www.fas.org/sgp/crs/intel/RS21441.pdf 83

Hannabuss, Stuart and Mary Allard. “Issues of censorship,” Library Review, vol. 50 no. 2 (2001): pp 81-89. Rowlands, Ian. “Information Policy: Complexity, Scope and Normative Structure,” in Challenge and Change in the Information Society, eds. Susan Hornby and Zoe Clarke (London: Facet, 2003), 131–46. Vietnam News Agency. “Vietnam rejects accusation of restrictions on Internet access.” 26 November, 2005. Downloaded 17 December 2005, from BBC Monitoring International Reports. Resources: International Federation of Library Associations and Institutions (IFLA). Libraries and Intellectual Freedom. Available online at: http://www.ifla.org/faife/faife/presen.htm Orna, Elizabeth. Practical Information Policies, 2d ed. Aldershot, Hampshire, England: Gower, c1999. Zorich, Diane M. Introduction to Managing Digital Asset: Options for Cultural and Educational Organizations. Los Angeles: Getty Trust Publication. 84

Chương 9 :Tác phong nghề nghiệp và Phẩm chất chuyên môn Mục tiêu Kết thúc chương này, sinh viên sẽ có thể 1. Đánh giá tác phong nghề nghiệp được áp dụng cho việc quản lí thông tin 2. Xác định các tình huống đòi hỏi những quyết định mang tác phong nghề nghiệp của những nhà quản lí thông tin 3. Áp dụng các nguyên tắc mang tính đạo đức cho việc đưa ra quyết định đúng tác phong nghề nghiệp đối với các nhà quản lí thông tin. 4. Đưa ra một sự đánh giá mang tính phê bình ở cấp bậc chuyên môn của những nhà quản lí thông tin (như các thủ thư, các chuyên viên lưu trữ văn thư và những người quản lí hồ sơ). Chương này bao gồm hai khía cạnh chủ yếu cùa công tác thông tin và thư viện: (1) tác phong nghề thông tin; (2) phẩm chất chuyên môn trong quản lí thông tin và thư viện. Hai khía cạnh này có quan hệ mật thiết khi chúng ta tìm hiểu. Tác phong nghề nghiệp và phẩm chất chuyên môn Giới thiệu Tác phong nghề nghiệp là một vấn đề được quan tâm và có nhiều chương trình học thuật về lĩnh vực triết học ở nhiều trường đại học trên thế giới đề cập đến tác phong nghề nghiệp. Tác phong nghề nghiệp là trọng tâm của việc nghiên cứu trong các chương trình chuyên môn về các chuyên ngành như y học, luật, và ngành kế toán. Tuy nhiên, đối với mọi người việc thảo luận về tác phong nghề nghiệp có liên quan đến sự nghiệp công tác của một thủ thư, chuyên viên lưu trữ văn thư hay người quản lí các hồ sơ tài liệu. ? Tại sao công chúng nghĩ rằng sự thảo luận về tác phong nghề nghiệp có sự liên quan đến sự nghiệp công tác của một thủ thư, chuyên viên lưu trữ văn thư hay người quản lí hồ sơ tài liệu. Dường như rằng không có sự khác biệt giữa một chuyên gia thông tin cư xử như thế nào và một chuyên gia trong bất kỳ lĩnh vực nào nên cư xử như thế nào. Vì thế tại sao chúng ta cần thảo luận tác phong nghề nghiệp trong công tác thông tin? Dường như công việc của một chuyên gia thông tin có khuynh hướng là không đầy những khó khăn trở ngại lớn hay những lựa chọn mang nặng tính đạo đức như công việc của một người đang công tác trong lĩnh vực y khoa hay một luật sư. Vì thế tại sao các thủ thư, chuyên viên lưu trữ văn thư hay những người quản lí hồ sơ nên nghiên cứu tác phong nghề nghiệp? Việc thảo luận về các vấn đề mang tính đạo đức có thể quan trọng đối với những nhà chuyên môn mà công việc của họ ảnh hưởng một cách trực tiếp đến sự quan tâm của các khách hàng, nhưng điều này dường như không là trường hợp đối với công việc của một thủ thư, chuyên viên lưu trữ hay người quản lí hồ sơ/tài liệu. 85

Nhiều người sẽ thật sự tự hỏi rằng những vần đề manh tính đạo đức nào có thể nảy sinh trong công việc hằng ngày của một thủ thư hay một nhà quản lí thông tin. Nhưng các vấn đề đó nảy sinh! Ví dụ, nếu bạn biết rằng đứa con gái đang ở tuổi vị thành nhiên của người hàng xóm thật sự không vui và đang chịu đựng sự chán nản phiền muộn, và rồi cô ấy tìm đến thư viện của bạn và yêu cầu cung cấp cho cô ta những thông tin về việc tự sát như thế nào, bạn sẽ trả lời/phản ứng như thế nào? bạn sẽ cung cấp cho cô gái vị thành niên những thông tin được yêu cầu không? Bạn sẽ liên lạc với bố mẹ của cô ấy không? Và bạn phản ứng như thế nào nếu một người nào đó yêu cầu thông tin về việc chế tạo một quả bom? Trong những tình huống như thế này, điều mang tình đạo đức nhất để bạn làm là gì? Bạn sẽ gọi cảnh sát không? Hay bạn tôn trọng sự riêng tư của các khách hàng thư viện? Những nguyên tắc nào bạn sẽ sử dụng dẫn đường cho việc đưa ra quyết định của bạn? Như bạn có thể thấy, đây là những câu hỏi khó để trả lời mà không có một vài sự phân tích về khái niệm của đạo đức nghể nghiệp. Mục từ ethics – tác phong nghề nghiệp trong The Columbia Encyclopedia (6th ed.) giải thích Trong triết học, việc nghiên cứu và đánh tư cách giá đạo đức con người theo nguyên tắc mang tính đạo đức. Các nguyên tắc đạo đức có thể được xem xét hoặc như là tiêu chuẩn của đạo đức mà các cá nhân xây dựng nên cho chính họ hay như là một phần chính yếu của bổn phận và nghĩa vụ mà một xã hội cụ thể đỏi hỏi ở các thành viên của nó. (http://www.bartleby.com/65/et/ethics.html) Nói cách khác, tác phong nghề nghiệp là về nghiên cứu và đánh giá cách cư xử của con người theo các nguyên tắc mà nó giúp cho mọi người quyết định giữa thiện và ác hay giữa đúng và sai. Trong một bài báo gần đây về việc đưa ra quyết định mang tính đạo đức trong quản lí thư viện, Shorb1 đã ghi chú rằng Điều quan tâm cơ bản nhất về tác phong nghề nghiệp chứa đựng sự khởi đầu của một khuôn mẫu cho việc đưa ra quyết định. Những cách cư xử, bao gồm các quyết định và sự thực hiện, được chỉ dẫn bởi những niềm tin và những hành động mang tính đạo đức. Những niềm tin mang tính đạo đức hình thành khuôn khổ mang tính tinh thần đã tồn tại mà những thói quen mang tính đạo đức xuất phát. Những thói quen mang tính đạo đức tượng trưng cho sự biểu lộ bên ngoài và những kết quả của các niềm tin đó. (trang 3) Vì các thủ thư, các chuyên viên lưu trữ văn thư và các nhà quản lí hồ sơ/tài liệu đưa ra các quyết định mang tính chuyên môn về nền tảng hàng ngày, họ bắt buộc hiểu tác phong nghề nghiệp và những nguyên tắc chỉ dẫn nó. Shorb2 mô tả các nguyên tắc như “những điều luật cơ bản và những phương ngôn mà nó mô tả các giá trị và cung cấp một ý nghĩa mang tính chỉ dẫn những yêu cầu và nghĩa vụ của tư cách đạo đức đúng đắn.” Nói cách khác, các nguyên tắc giúp chúng ta biến các giá trị cơ bản thành hành động động. Là những chuyên gia, các nhà quản lí thông tin có trách nhiệm đối với hành động với một tính cách mang tính đức - bằng việc đưa ra những quyết định phản ánh những giá trị đạo đức của xã hội nơi mà chúng ta làm việc. Nhưng các nhà quản lí thông tin có thật sự là những nhà chuyên môn không? Các thủ thư bâng khuâng nhiều năm về cấp bậc chuyên môn của họ, và về việc họ có thật sự là những nhà chuyên môn như các bác sĩ, nha sĩ, luật sư và kế toán viên hay không. Ở các nước phương Tây như Mĩ, Canada, và Vương quốc Anh, sự quyết tâm của của những người làm công tác trong lĩnh vực thông tin để đạt được vị trí chuyên môn đã dẫn đến sự phát triển những biệu hiện của phẩm chất chuyên môn: ví dụ, một hội đoàn chuyên môn, các tiêu chuẩn về tác phong nghề nghiệp và các 86

qui tắc về tác phong nghề nghiệp. Đây là những dấu hiệu phân biệt của một nghề nghiệp, và nó như là một kết quả của sự đấu tranh để đạt được vị trí chuyên môn mà những người công tác trong lĩnh vực thông tin ở nhiều nước đã phát triển các hiệp hội chuyên môn với các qui tắc về tác phong nghề nghiệp và các tiêu chuẩn về tác phong nghề nghiệp. Định nghĩa về một nghề nghiệp Daniel Bell là một trong những thuyết gia sử dụng thuật ngữ “chuyên gia thông tin”3. Các chuyên gia thông tin là chức danh mới trong xã hội hậu công nghiệp của Bell, và ông nói rằng họ sẽ nắm quyền lực như là một kết quả của việc quản lí và tập hợp tri thức. Nhưng nghề nghiệp là gì? Việc quản lí thông tin, bao gồm nghề công tác thư viện và sự quản lí các hồ sơ tài liệu và văn thư có thích hợp với định nghĩa về nghề nghiệp không? Đã có rất nhiều sự nổ lực để định nghĩa các đặc điểm của nghề nghiệp. Professions Australia (Hội nghề nghiệp Úc), trước kia từng được biết là The Australian Council of Professions, đưa ra định nghĩa về nghề nghiệp mà nó được chấp nhận tại Annual General Meeting (Hội nghị tổng kết hằng năm) vào ngày 26 tháng 5 năm 1997, như sau: Nghề nghiệp là một nhóm những cá nhân chuyên về một lĩnh vực, những người gắn bó với những tiêu chuẩn mang tính đạo đức được chấp nhận bởi công chúng khi có kiến thức và các kỹ năng chuyên môn trong một hội đồng có kiến thức xuất phát từ nghiên cứu, giáo dục và đào tạo ở cấp bậc cao được tín nhiệm, và những người sẵn sàng áp dụng kiến thức và sử dụng các kỹ năng này trong sự quan tâm của những người khác. Rõ ràng trong định nghĩa về nghề nghiệp rằng các qui tắc tác phong nghề nghiệp chi phối các hoạt động của nghề nghiệp. Những qui tắc như thế đòi hỏi cách cư xử và thực hiện vượt qua ngoài giới hạn những nghĩa vụ mang tính đạo đức của một cá nhân. Họ định nghĩa và đòi hỏi những chuẩn mực cư xử cao đối với các dịch vụ được cung cấp cho công chúng và trong giao thiệp/cư xử với các đồng nghiệp chuyên môn. Hơn nữa, các qui tắc này được nghề nghiệp tuân theo và được công chúng thừa nhận4. Thực tế, có nhiều khuôn mẫu về những gì nghề nghiệp đòi hỏi. Năm 1993 Harris và Hannah5, hai viện sĩ từ Mĩ đã tóm tắt khuôn mẫu “ideal-typical” (đặc trưng lí tưởng) của nghề nghiệp. Họ nói rằng nghề nghiệp bao gồm sự đào tạo chuyên ngành trong thời gian dài, một phần kiến thức mang tính lý thuyết, một hội đoàn chuyên môn lớn mạnh, một định hướng dịch vụ, và một qui tắc tác phong nghề nghiệp có thể thi hành. Nghề thư viện đáp ứng tất cả những yêu cầu trên, vì thế nó có thể khẳng định vị trí chuyên môn của mình. Những gì còn thiếu từ khuôn mẫu đặc trưng lí tưởng là yếu tố trách nhiệm chuyên môn mang tính thực hành, cụ thể là trong các mội quan hệ với các khách hàng. Sự tự quản về kỹ thuật của nghề nghiệp hàm ý rằng trong công việc của nhóm nghề nghiệp, hay cá nhân các thành viên của nó là những người nắm toàn quyền duy nhất những gì được xem là có thể được chấp nhận. Điều này bao gồm cả sự chọn lựa kỹ thuật phẫu thuật hay sự cho thuốc của các bác sĩ, những kỹ thuật sư phạm và những tài liệu hướng dẫn của các giảng viên đại học…. Những sự chọn lựa mang tính sư phạm nhìn chung bao hàm cả triết lí về giáo dục, cách thức của bác sĩ để cho thuốc bao hàm triết lí về sức khoẻ và bệnh tật. 87

Nếu đây là một yếu tố của phẩm chất nghề nghiệp, các thủ thư và các chuyên viên lưu trữ văn thư hay những người quản lí hồ sơ tài liệu có đáp ứng với những yêu cầu trong định nghĩa này không? Các nhóm này sử dụng sự kiểm soát gì trong các mối quan hệ khách hàng? Rõ ràng là rất ít. Cách thức thông thường thì bị động và không rõ ràng. Nếu một khách hàng yêu cầu thông tin, người thủ thư, chuyên viên lưu trữ văn thư hay người quản lí hồ sơ tài liệu cố gắng cung cấp chính xác những gì được yêu cầu. Có thể người quản lí thông tin biết rằng khách hàng được khuyên là tìm kiếm thông tin thay thế, nhưng điều này rất ít khi được đề nghị. Mặc khác, chúng ta có giống như những bệnh nhân bảo các bác sĩ kê đơn thuốc gì hay không? Chúng ta có thường hỏi các quyết định của họ không? Trong ngữ cảnh này, rõ ràng rằng các thủ thư, chuyên viên lưu trữ văn thư hay những người quản lí các hồ sơ tài liệu chỉ có một sự khẳng định mỏng manh họ là chuyên nghiệp, và vì vậy họ có thể không là “những chuyên gia thông tin”, những người mà Bell nói rằng họ sẽ nắm giữ quyền lực nhiều hơn trong Xã hội Thông tin. ? Định nghĩa về nghề nghiệp được Professions Australia đưa ra có ý nghĩa trong ngữ cảnh ở Việt Nam không? Nếu không, nó nên được sửa đổi/thay đổi như thế nào? Tác phong nghề nghiệp và các tiêu chuẩn công tác trong nghề công tác thông tin Tác phong nghề nghiệp và các tiêu chuẩn là hai yếu tố của định nghĩa về nghề nghiệp được Profession Australia đưa ra. Cả tác phong nghề nghiệp và các tiêu chuẩn cung cấp chỉ dẫn cho cách cư xử, lời chỉ dẫn về chất lượng của công tác của các thành viên của nghề nghiệp. Tuy nhiên, có một sự tranh luận về những lời khẳng định về tác phong nghề nghiệp và các tiêu chuẩn của các hội đoàn như American Library Association (ALA) and the Library and Information Association of New Zealand/Aotearoa (LIANZA) là những lời khẳng định đầu tiên. Sự tranh luận này là bời vì các qui tắc tác phong nghề nghiệp đã cung cấp cho các hội đoàn này dường như không thề được thi hành, vì thế các hội đoàn này không thể có hành động kỷ luật phản đối những thành viên không hành động theo cách cư xử mang tính đạo đức. Có nhiều đề nghị khác nhau như tại sao các qui tắc về tác phong nghề nghiệp cần thiết cho các nhóm chuyên môn, bao gồm các thủ thư. Đối với một số nhóm, một tập hợp các qui tắc như thế là một phương tiện của việc bảo vệ xã hội tránh khỏi những sự lạm dụng bởi một nhóm chuyên môn có quyền lực – mà có thể không là một luận cứ mang tính thuyết phục trong trường hợp của các thủ thư, các chuyên viên lưu trữ văn thư và những người quản lí hồ sơ tài liệu. Có thể trong trường hợp của chúng ta quan điểm rằng một qui tắc tác phong nghề nghiệp cố gắng làm sáng tỏ và chính hoá sự đóng góp của một nghề nghiệp cụ thể đối với xã hội. Nói cách khác, “tác phong nghề nghiệp là sự thành lập các tiêu chuẩn hay những sự mong đợi đối các chuyên gia trong hoàn cảnh chuyên môn tiêu biểu”7. Một tập hợp các qui tắc bao gồm các nghĩa vụ của một một nhà chuyên môn trong các mối quan hệ khách hàng, cách cư xử và trách nhiệm nghề nghiệp. Nó cũng có thể là cơ sở cho việc thảo lậun và hiểu biết trong nghề nghiệp - một hình thức đối thoại giữa cá nhân người đang công tác và nghề nghiệp. Theo quan điểm này, một qui tắc tác phong nghề nghiệp qui định mối những mối quan hệ giữa các nhà chuyên môn, giữa các nhà chuyên môn với các nhà quản lí, và giữa các nhà chuyên môn với các khách hàng. Vì vậy, một tập hợp các qui tắc về tác 88

phong về nghiệp hiện hữu để kiểm tra sự mong đợi của các thành viên của nghể nghiệp và giữa các khách hàng của nhóm nghề nghiệp đó. Elizabeth A. Buchanan thảo luận tác phong về nghề nghiệp trong mối quan hệ với công việc trong các thư viện, các cơ quan lưu trữ và các viện bảo tàng. Đây là một bài viết rất hay và bao gồm cả một tổng quan về các vấn đề then chốt trong tác phong nghề công tác trong lĩnh vực thông tin. Xem qua bản liệt kê này một cách cẩn thận khi bạn đọc bài viết này. Bà ghi chú rằng các qui tắc tác phong chuyên môn cần cung cấp những hướng dẫn đối với cách cư xử mang tính đạo đức mà nó không mang tính qui tắc. ! Now read Elizabeth A. Buchanan, “Organizing Ethics in Archives, Museums, and Libraries, Challenges and Strategies,” Chapter 12 in Libraries, Museums, and Archives: Legal Issues and Ethical Challenges in the New Information Era, ed. Thomas A. Lipinski (Lanham, Md: Scarecrow Press, 2002), 221-234 (Reading 1) ? Những điểm gì bạn cho là những điểm chính/then chốt mà Buchanan truyền đạt đến độc giả của bà về những thử thách và các chiến lược liên quan đến tác phong nghề nghiệp trong các cơ quan lưu trữ, viện bảo tàng và các thư viện? Những vấn đề khác nào (nếu có) cần được sự khi chú ý khi xem xét tác phong nghề nghiệp trong các thư viện, cơ quan lưu trữ và viện bảo tàng ở Việt Nam? Như đã được trình bày ở trên, tác phong nghề nghiệp là sự chỉ dẫn giúp các thành viên của một nghề nghề nghiệp khi đưa ra các quyết định. Stephen Shorb nói rằng có năm qui tắc của khoa học thư viện, được phát triển bởi nhà toán học và thủ thư người Ấn Độ nổi tiếng. S.R. Ranganathan, có những nét chính của các qui tắc và có thể được sử dụng để hướng dẫn việc đưa ra quyết định trong quản lí thư viện. Các qui tắc này là: 1. Sách là của chúng ta 2. Mỗi độc giả đều được đáp ứng nhu cầu 3. Mỗi quyển sách đáp ứng nhu cầu của từng độc giả 4. Tiết kiệm thời gian của độc giả (đáp ứng nhu cầu đúng lúc) 5. Thư viện là một thực thể đang phát triển ! Now read Stephen R. Shorb, “Ethical decision-making in library administration.” The Southeastern Librarian (Fall 2004) vol. 52, no. 3: pp. 3-8 (Reading 2) Khi bạn đọc bài của Shorb, hày xem xét việc ông liên hệ năm qui tắc với hoàn cảnh hiện đại và nghĩ đến hoàn cảnh hiện tại ở Việt nam. 89

? Theo quan điểm của bạn, chiến lược sử dụng năm qui tắc của khoa học thư viện như các nguyên tắc/yếu tố cơ bản cho việc đưa ra quyết định mang tính đạo đức của Ranganathan giúp ích như thế nào trong quản lí thư viện ở Việt Nam? Chọn hai vấn đề mà Buchanan (Reading 1) liệt kê trong “Overview of Information Ethics” ở trang 224. Đối hai vấn đề mà bạn lựa chọn, vấn đề nào sẽ là một vì dụ cụ thể ở Việt Nam? Các hội đoàn chuyên môn và các qui tắc về tác phong nghề nghiệp Một tập hợp các qui tắc về tác phong nghề nghiệp có một vị trí tượng trưng trong nghề nghiệp - một tập hợp các qui tắc như thế giúp chúng ta xác định được những nguyện vọng và những ý tưởng của các nhà quản lí thông tin – nhưng nó cũng có thể là một sự hướng dẫn “tuân thủ điều luật một cách tuyệt đối” đối với cách cư xử nghề nghiệp chuyên môn thcíh hợp hay có thể chấp nhận. Cả cách cư xử của một chuy6en gia thông tin lý tưởng và những yêu cầu của việc liên kết tài liệu một cách hợp pháp nên được phản ánh trong nội dung của các qui tắc. Các qui tắc có thể sắp xếp từ các nguyên tắc đạo đức như các tiêu chuẩn đạo đức đến những điều mà các nhà chuyên môn mong đợi, đến những qui tắc đạo đức mang tính bắt buộc phải được kèm theo. Nó quan trọng đối với chuyên gia thông tin, và đối với các hội đoàn chuyên môn để nhận biết phạm vi trách nhiệm về tác phong nghề nghiệp và để hiểu biết ý nghĩa chính xác của một tập hợp các qui tắc như thế mà nó định rõ phảm chất chuyên môn của một người. Một khía cạnh của các qui tắc về tác phong nghề nghiệp liên quan đến sự bắt buộc phải tuân theo. Nếu một thành viên của một nghể nghiệp hành động không có đạo đức, hội đoàn chuyên môn có thể trừng phạt người này bằng một vài cách thức nào đó. Nếu cách cư xử không có đạo đức ở bản chất nguyên trọng, hội đoàn sẽ có thể đuổi việc người này ra khỏi nghề nghiệp. Điều này thường xảy ra đối với một bác sĩ hay một luật sư hành động không có đạo đức. Nhưng ở nhiều nước điều nay dường như không là trường hợp của đối với các thủ thư hay các chuyên viên lưu trữ văn thư vì các hội đàon chuyên môn không có các qui tắc về tác phong nghề nghiệp Tuy nhiên, ở Anh quốc, Chartered Institute of Information Professionals (CILIP) là hội đoàn chuyên môn của 23000 thủ thư, các nhà khoa hcọ thông tin và những nhà quản lí tri thức, đã thành lập một bộ các qui tắc mang tính đạo đức và tác phong chuyên môn đưa ra các tiêu chuẩn vế tác phong chuyên môn có thể thi hành và đánh giá. Bô luật (tập hợp các qui tắc) CILIP giả thích một cách cụ thể “những chuẩn mực cư xử” và khẳng định rằng Bô luật, theo thuật ngữ chung, “trình bày những tiêu chuản và trách nhiệm mà có thể mong đợi một nhà chuyên môn phải tuân theo. Các tiêu chuẩn này có thể được sử dụng như là một mục đích để tham khảo khi đối phó với các thủ tục mang tính kỷ luật phản đối các thành viên”. Những từ ngữ như “trục xuất” và “đình chỉ” cũng xuất hiện; nó chỉ ra rằng các hành vi cư xử đúng đắn/không đúng đắn sẽ được CILIP xem xét một cách nghiêm túc. Các qui tắc về tác phong chuyên môn của ALA, LIANZA và CILIP có thể được tìm thấy theo địa chỉ các trang web sau: CILIP Ethical Principles and Code of Professional Practice: http://www.cilip.org.uk/aboutcilip/howcilipworks/structure/committees/executive/ethicalprinc iples.htm 90

Tiêu chuẩn nghề nghiệp của ALA: http://www.ala.org/ala/oif/statementspols/codeofethics/codeethics.htm Tiêu chuẩn nghề nghiệp của LIANZA: phần1, chương 11: Tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp: http://www.lianza.org.nz/cop/code_1.shtml#11 Chương 12: Các nguyên tắc áp dụng cho cán bộ thư viện: http://www.lianza.org.nz/cop/code_1.shtml#12 ? Theo quan điểm của bạn, nghề thư viện, quản lí hồ sơ tài liệu và công văn ở Việt Nam có phù hợp với định nghĩa về nghề nghiệp không? Tại sao và tại sao không? Tìm các thông tin về một hội đoàn chuyên môn ở Việt Nam để quyết định nghề nghiệp mà nó tượng trưng có phù hợp với định nghĩa về nghề nghiệp không. (Ví dụ, Vietnam Association of Lawyers, 4 Nguyen Thuong Hien, Ha Noi. Tel. 84 4 8228908. Fax: 84 4 822 9222.) Nếu nhà quản lí thông tin mong muốn được xem như các nhà chuyên môn như các bác sĩ và các luật sư thì họ phải được ràng buộc bới các tiêu chuẩn mà mỗi một tiêu chuẩn phải rõ ràng như các tiêu chuẩn của các nghề nghiệp khác, và các tiêu chuẩn này cũng phải có những hình thức xử phạt đối với việc vi phạm các chuẩn mực tác phong chuyên môn. Tuy nhiên, bạn có thể nhận thấy một cách khác biệt và đây là lúc để phản ánh việc một người xem xét vần đề về tác phong chuyên môn. Tác phong chuyên môn, trong một sự phân tích cuối cùng, là về sự phát triển thái độ nghề nghiệp. ? Buchanan nói rằng “Không có quyết định nào dễ dàng đưa ra, và những quyết định mang tính đạo đức đặt chúng ta vào những thử thách khắc khe – cá nhân hay chuyên nghiệp” (trang 231). Trong 3 trường hợp theo sau, xem xét vấn đề mang tính đạo đức được nới đến và cách thức nó được điều khiển. Hãy chuẩn bị thảo luận vấn đề mang tính đạo đức nào dành cho chuyên gia thông tin và những nguyên tắc nào nên được sử dụng bởi các chuyên gia thông tin khi đề cập đến vấn đề. bạn có thể sử dụng năm qui tắc của Ranganathan nếu nó trợ giúp cho bạn – hay bạn có thể chọn những nguyên tắc khác. Trường hợp 1: Nguyễn Kim Thoa, giám đốc hệ thống thư viện đại học ở một thành phố chính Việt Nam, đã có một ngày thật khó khăn. Ba sinh viên cao học đại diện cho một nhóm nhỏ nhưng rất nồng nhiệt gồm các nhà hoạt động xã hội mang tính chính trị trong trường đã đến gặp cô và yêu cầu một điều gì đó nên được thực hiện về sự tiếp cận được cung cấp 91

cho sinh viên các máy tính của thư viện với những trang web phản đối quan điểm chính trị cụ thể của nhóm của họ. Họ trình bày trường hợp rất rõ ràng, phức tạp và mang tính tranh luận hợp lí, họ nói rằng quan điểm của họ đã ủng hộ cho công lý quốc gia. Tuy nhiên, Kim Thoa biềt rằng nhóm của họ không được chính phủ thừa nhận một cách chính thức, và quả thực nhóm đã trình bày một số quan điểm về chính sách của chính phủ thật đáng ngờ. Cô nhận thấy rằng các sinh viên trong trường vì thế sẽ có thể đọc được những quan điểm mang tính phản đối. Ba sinh viên nói rằng nếu các yêu cầu của họ không được đáp ứng, họ sẽ đến gặp ban giám hiệu trường đại học và báo chí để nói rằng giám đốc thư viện cho phrp1 sinh viên sử dụng thư viện vào những trang web có thể bị phản đối. Kim Thoa suy nghĩ cả ngày về sự lựa chọn của cô. Cô không đồng cảm với ba sinh viên, nhưng cô không muốn gặp rắc rối với ban giám hiệu. Trường hợp 2 Một bạn đọc của một thư viện đại học yêu cầu sự giúp đỡ từ Lê Phương Dương, một thủ thư phụ trách công việc tham khảo và một chuyên viên lưu trữ văn thư ở một trường cao đẳng nhỏ trong trung tâm. Cô sạon thảo một thư mục cho một tác phẩm của một hoạ sĩ nổi tiếng, người mà gần đây đã tặng nhiều tài liệu có giá trị cho thư viện của trường. Một số các tài liệu này là các quyển sách được xuất bản và các bài viết về tác phẩm của học sĩ, trong khi những tài liệu khác là các ghi chú, sổ nhật ký, những bức phát hoạ sơ bộ và các bản thảo không được xuất bản. Tài liệu không được xuất bản được cung cấp sự hiểu biết sâu sắc vào cuộc đời và sự nghiệp của hoạ sĩ và vì thế không thể thay thế được. Người đưa ra yêu cầu đối với Dương là một nhà sử gia nghệ thuật nổi tiếng và rất được tôn trọng, và vì vậy bà muốn biết Dương sẽ để bà nhận một số tài liệu được xuất bản và không được xuất bản về nhà để bà có thể làm việc sau khi thư viện đóng cửa cho việc nghỉ Tết. Bà hứa sẽ hoàn trả lại tài liệu ngay khi thư viện mở cửa sau Tết. Bà cũng nói rằng bà sẽ cung cấp miễn phí các bản sao của các quyển sách mới nhất cũng như một số các quyển sách khác về lịch sử nghệ thuật cho thư viện nếu Dương cho phép bà đem các tài liệu về nhà. Trường hợp 3 Case study 3 Vũ Ngọc Vân am hiểu nhiều lĩnh vực. Thật vậy, cô được tuyển chọn xuất hiện trên chương trình trò chơi truyền hình nơi mà kiến thức thật sự là điều kiện tiên quyết. (đáng tiếc, cô quá căng thẳng đến nỗi mà cô chỉ đạt vị trí thứ hai vì vậy mà cô đã không giành được giải thưởng chính). Vân cũng là một thủ thư làm công tác tham khảo chu đáo và tận tụy trong thư viện đại học của cô. Cô vẫn không bỏ cuộc, vẫn tiến về trước, vẫn gọi và tiếp xúc với mọi người, và vẫn tìm hiểu vấn đề cho đến khi người yêu cầu thoã mãn với câu trả lời. Các câu hỏi chất vần thường xuất hiện một cách tình cờ, nhưng phần lớn thời gian của Vân làm việc với các sinh sinh viên đại học mà những kỹ năng nghiên cứu điện tử và truyền thống của họ không được phát triển. Khi cô nhận được câu hỏi khó, cô tận hưởng cơ hội sử dụng kiến thức sâu xa của cô. 92

Vào một chiều thứ sáu không bận rộn như mọi khi, Vân bắt đầu giúp hai thành viên cán bộ giảng dạy cần rất gấp một số thông tin. Ngươiù đầu tiên cần sự gaỉi thích việc quan tâm những lời tuyên bố mang tính đạo đức của quyền sở hữu của chính phủ các công ty thuốc lá và người thứ hai phải định vị được các bài viết liện quan về việc tại sao một loại thuốc mới thì tốt hơn truốv truyền thống đối với việc chữ bệnh cho bệnh nhân mắc những căn bệnh hiểm nghèo. Điện thoại reo: Đó là Hiệu trưởng trường đại học và ông ta cần gấp một số cố liệu thống kê. Ông muốn biết Vân có thể gọi lại cho ông trong vòng 30 phút với các số liệu thống kê không? Nếu không thông tin sẽ không có giá trị. Câu hỏi thảo luận Trong suốt bài học của tuần này các sinh viên được hỏi một số câu hỏi. Chúng tôi hy vọng rằng bạn đã có suy nghĩ về chúng, thảo luận chúng với các bạn cùng lớp và với giáo viên. Dưới đây là một số câu hỏi ôn tập dựa vào những ghi chú và vào tài liệu bạn đã đọc. Những câu hỏi này giúp cho các sinh viên ôn tập lại bài học trong tuần, nó có thể được thảo luận trên lớp hay sẽ được cho trong bài kiểm tra. 1. Tại sao công chúng nghĩ rằng sự thảo luận về tác phong nghề nghiệp có sự liên quan đến sự nghiệp công tác của một thủ thư, chuyên viên lưu trữ văn thư hay người quản lí hồ sơ tài liệu. 2. Định nghĩa về nghề nghiệp được Professions Australia đưa ra có ý nghĩa trong ngữ cảnh ở Việt Nam không? Nếu không, nó nên được sửa đổi/thay đổi như thế nào? 3. Những điểm gì bạn cho là những điểm chính/then chốt mà Buchanan truyền đạt đến độc giả của bà về những thử thách và các chiến lược liên quan đến tác phong nghề nghiệp trong các cơ quan lưu trữ, viện bảo tàng và các thư viện? Những vấn đề khác nào (nếu có) cần được sự khi chú ý khi xem xét tác phong nghề nghiệp trong các thư viện, cơ quan lưu trữ và viện bảo tàng ở Việt Nam? 4. Theo quan điểm của bạn, chiến lược sử dụng năm qui tắc của khoa học thư viện như các nguyên tắc cơ bản cho việc đưa ra quyết định mang tính đạo đức của Ranganathan giúp ích như thế nào trong quản lí thư viện ở Việt Nam? Chọn hai vấn đề mà Buchanan (Reading 1) liệt kê trong “Overview of Information Ethics” ở trang 224. Đối hai vấn đề mà bạn lựa chọn, vấn đề nào sẽ là một vì dụ cụ thể ở Việt Nam? 5. Theo quan điểm của bạn, nghề thư viện, quản lí hồ sơ tài liệu và công văn ở Việt Nam có phù hợp với định nghĩa về nghề nghiệp không? Tại sao và tại sao không? Tìm các thông tin về một hội đàon chuyên môn ở Việt Nam để quyết định nghề nghiệp mà nó tượng trưng có phù hợp với định nghĩa về nghề nghiệp không. (Ví dụ, Vietnam Association of Lawyers, 4 Nguyen Thuong Hien, Ha Noi. Tel. 84 4 8228908. Fax: 84 4 822 9222.) 6. Buchanan nói rằng “Không có quyết định nào dễ dàng đưa ra, và những quyết định mang tính đạo đức đặt chúng ta vào những thử thách khắc khe – cá nhân hay chuyên nghiệp” (trang 231). Trong 3 trường hợp theo sau, xem xét vấn đề mang tính đạo đức được nới đến và cách thức nó được điều khiển. Hãy chuẩn bị thảo luận vấn đề mang tính đạo đức nào dành cho chuyên gia thông tin và những nguyên tắc nào nên được sử 93

dụng bởi các chuyên gia thông tin khi đề cập đến vấn đề. bạn có thể sử dụng năm qui tắc của Ranganathan nếu nó trợ giúp cho bạn – hay bạn có thể chọn những nguyên tắc khác. Readings Buchanan, Elizabeth A. “Organizing Ethics in Archives, Museums, and Libraries, Challenges and Strategies,” Chapter 12 in Libraries, Museums, and Archives: Legal Issues and Ethical Challenges in the New Information Era, ed. Thomas A. Lipinski (Lanham, Md: Scarecrow Press, 2002), 221-234 Shorb, Stephen R. “Ethical decision-making in library administration.” The Southeastern Librarian (Fall 2004) vol. 52, no. 3: 3-8 Suggested further reading on professional ethics Alfino, Mark, and Linda Pierce. Information Ethics for Librarians. Jefferson, NC: McFarland and Company, 1997 Coady, Margaret, and Sidney Block. Codes of Ethics and the Professions. Melbourne: Melbourne University Press, 1996 Ferguson, Stuart, and John Weckert. “The Librarian’s Duty of Care: Emerging Professionalism or Can of Worms?” Library Quarterly 68, no. 4 (1998): 365-89 Froelich, Thomas J. Survey and Analysis of the Major Ethical and Legal Issues Facing Library and Information Services. IFLA Publications, 78. Munich: K.G. Saur, 1997 Gorman, Michael. Our Enduring Values: Librarianship in the 21st Century. Chicago: American Library Association, 2000 Hamelink, Cees J. The Ethics of Cyberspace. London, Thousand Oaks, New Delhi: Sage Publications, 2000 Hannabus, Stuart. “Information Ethics: A Contemporary Challenge for Professionals and the Community.” Library Review 47, no. 2 (1998): 91-98. Hauptman Robert. Ethics and Librarianship (Jefferson, NC: McFarland, 2002) Lindsey, Jonathan A., and Ann E Prentice. Professional Ethics and Librarians. Phoenix, AZ: Oryx Press, 1985 Lipinski, Thomas A., ed. Libraries, Museums and Archives: Legal Issues and Ethical Challenges in the New Information Era. (Lanham, Md: Scarecrow Press, 2002 Peterson, Kenneth G. “Ethics in Academic Librarianship: The Need for Values.” Journal of Academic Librarianship 9, no. 3 (1983): 132-37. Rockenbach, Barbara, and Tom Mendina, eds. Ethics and Electronic Information: A Festschrift for Stephen Almagno. Jefferson, N.C.: McFarland & Co., 2002 Rudinow, Joel and Anthony Graybosch, eds. Ethics and Values In The Information Age. South Melbourne, Australia; Belmont, CA: Wadsworth/Thomson Learning, 2002. Stichler, Richard N., and Robert Hauptman. Ethics, Information and Technology: Readings. Jefferson, NC: McFarland and Company, 1998 94


Like this book? You can publish your book online for free in a few minutes!
Create your own flipbook