Important Announcement
PubHTML5 Scheduled Server Maintenance on (GMT) Sunday, June 26th, 2:00 am - 8:00 am.
PubHTML5 site will be inoperative during the times indicated!

Home Explore Chương II.TRẤN YÊN-NHỮNG ĐIỂM HẸN CỦA LỊCH SỬ

Chương II.TRẤN YÊN-NHỮNG ĐIỂM HẸN CỦA LỊCH SỬ

Published by Trấn Yên Quê Em, 2021-12-09 07:54:05

Description: II.TRẤN YÊN-NHỮNG ĐIỂM HẸN CỦA LỊCH SỬ

Search

Read the Text Version

Chương II TRẤN YÊN NHỮNG ĐIỂM HẸN LỊCH SỬ

1. Chiến khu Vần Chiến khu Vần là một vùng đất rộng, nằm ở phía Nam huyện Trấn Yên và Đông Nam huyện Văn Chấn. Căn cứ cách mạng kiểu Chiến khu có quy mô khá rộng trong đó có 2 vùng quan trọng nhất là làng Vần và làng Đồng Yếng Trước năm 1945, Chiến khu Vần nằm ở địa bàn của 3 tổng là: Lương Ca, Giới Phiên (thuộc Trấn Yên) và Đại Lịch thuộc Văn Chấn. Trung tâm của Chiến khu là xã Minh Phú (tổng Lương Ca, huyện Trấn Yên) nay gồm 3 xã Việt Hồng, Việt Cường, Vân Hội trong đó tiêu biểu là 2 điểm Làng Vần xã Việt Hồng (là trung tâm chỉ huy của Chiến khu) và Làng Đồng Yếng (thuộc xã Vân Hội) là trung tâm huấn luyện quân sự của căn cứ cách mạng Chiến khu. Video xã Việt Hồng Đình làng Vần

*Sự hình thành Di tích lịch sử (kiểu Chiến khu): Xưa vùng đất này chỉ có 3 tộc người: Kinh, Tày và Dao, có truyền thống đoàn kết, gắn bó. Từ khi Mặt trời Cách mạng soi rọi đến đã xây dựng được nhiều cơ sở cách mạng, tinh thần nhân dân sẵn sàng ủng hộ và đi theo cách mạng. Sau khi nhận định tình hình vị trí địa lý và tinh thần của nhân dân. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Xứ ủy Bắc Kỳ, khi thành lập đội du kích Âu Cơ đã chuyển lên Đồng Yếng rồi vào làng Vần. Lấy Vần làm trung tâm chỉ huy, lấy Đồng Yếng làm trung tâm huấn luyện quân sự cho hình thành Chiến khu. Lãnh đạo chiến khu gồm có các đồng chí: Trần Quang Bình, Bình Phương, Ngô Minh Loan, Nguyễn Phúc, Trấn Đức Sắc. Chiến khu cũng là nơi an toàn đón các đồng chí cách mạng kiên trung vượt ngục nhà tù Sơn La về và một số hoạt động ở miền xuôi bị lộ lên để tiếp tục tham gia hoạt động cách mạng. Cây vải trên di tích Đình Chung ở Chiến khu Làng Vần xã Việt Hồng

Ngày 30/6/1945, Ban cán sự liên tỉnh Phú - Yên (Phú Thọ - Yên Bái) được thành lập - một mốc lịch sử quan trọng đánh dấu sự hình thành Chiến khu do đồng chí Ngô Minh Loan làm Bí thư lãnh đạo cách mạng tại hai tỉnh Yên Bái và Phú Thọ. Từ đây đã phát triển rộng lên Lào Cai và một phần Sơn La. Tại đây, lực lượng Đảng hoạt động có tổ chức, có nền nếp để củng cố phát triển mạnh, nên lần lượt ra đời các tổ chức như: Cứu quốc của Việt Minh; Ủy ban cách mạng lâm thời Chiến khu được thành lập. Đội du kích phát triển mạnh đã đánh bại chính quyền địch tan rã và đánh bại các cuộc tấn công của quân ngụy, quân Nhật. Khi thời cơ đến, từ chiến khu quân cách mạng đã tiến ra 3 hướng đi: Phú Thọ, Yên Bái và Nghĩa Lộ, để phá kho thóc Nhật chia cho nhân dân đang lúc đói khổ, một cổ hai tròng. Nhân dân càng tin tưởng đi theo cách mạng đánh đổ chính quyền địch, giải phóng và lập nên chính quyền cách mạng ở 2 tỉnh Phú Thọ, Yên Bái và huyện Phù Yên (Sơn La) góp phần tích cực vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc trong cuộc tổng khởi nghĩa có một không hai của lịch sử cách mạng tháng Tám 1945.

*Một số địa điểm diễn ra những sự kiện lịch sử * quan trọng của Chiến khu Làng Vần: Là thung lũng được bao bọc bởi các dãy núi có độ cao trung bình từ 200 đến 500m, thung lũng có chiều dài 4,5 km, đường đi lại khó khăn, ngày nay được kết cấu bằng những chân ruộng bậc thang, sau cách mạng được đồng bào khai phá (có độ chênh lệch thấp) nay gọi là Đồng Trò, Đồng Cây Gạo… có ngòi Vần chạy dọc theo làng. Đây cũng là hợp lưu của 3 con ngòi nhỏ để tạo nên ngòi Vần. Địa thế hiểm trở, xưa chỉ có một con đường duy nhất vào làng và phải qua đèo. Vừa kín đáo lại vừa gần các trung tâm chính trị (tỉnh lỵ hai tỉnh Yên Bái - Phú Thọ) nên khu vực này đã được Xứ ủy Bắc Kỳ chọn làm nơi thuận lợi cho việc lập căn cứ cách mạng dần phát triển hình thành mô hình kiểu Chiến khu. Đình làng Vần

Làng Đồng Yếng: Nay mang tên Đồng Chão thuộc xã Vân Hội (Trấn Yên).Cách làng Vần khoảng 4 km về phía Đông và cách Hiền Lương hơn 3 km về phía Tây, là làng nằm giữa Vần và Hiền Lương. (Gò cọ Đồng Yếng nơi tập luyện của đội du kích Âu Cơ) Làng Đồng Yếng nay thuộc xã Vân Hội (Trấn Yên).Có vị trí thuận lợi, đồi hình mâm xôi, nên Đồng Yếng được đội du kích Âu Cơ chọn làm trung tâm huấn luyện quân sự để phát triển lực lượng vũ trang để chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng ở Yên Bái và Phú Thọ.Di tích quan trọng là Gò cọ Đồng Yếng.

Khu nhà của ông Trần Đình Khánh : Ngôi nhà sàn của ông Trần Đình Khánh tọa lạc tại làng Vần, xã Việt Hồng, huyện Trấn Yên. Trong đời sống hàng ngày, ngôi nhà của ông cũng bình dị như những ngôi nhà khác trong bản Tày, nhưng trong những năm tháng kháng chiến lại “sục sôi”, “hăng hái” như chính những con người vùng đất cách mạng này. Năm 1995, nơi đây cùng với các điểm Hang Dơi, đình Chung, gò cọ Đồng Yếng đã được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nhà ông Trần Đình Khánh - trụ sở đầu tiên của đội du kích Âu Cơ, nơi Ban cán sự Đảng Yên Bái - Phú Thọ đưa ra nhiều quyết định quan trọng. Ảnh: Bảo tàng tỉnh Yên Bái Ngôi nhà sàn có kiến trúc cột gỗ, 5 gian, 2 chái, 4 hàng chân, thiết kế theo kiểu chồng bồn, kẻ truyền, có hành lang phía trước. Nhà chính nối liền với nhà bếp, mái lợp cọ. Phía sau tựa lưng vào núi, phía trước hướng ra cánh đồng cây Gạo. Tại đây, đã diễn ra nhiều sự kiện, nhiều cuộc họp đưa ra những quyết định quan trọng của chiến khu Vần - Hiền Lương, đồng thời là nơi tập hợp lực lượng quần chúng nhân dân tham gia cách mạng, đấu tranh giành chính quyền trong thời gian kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Tại nhà ông Trần Đình Khánh đã diễn ra các sự kiện tiêu biểu như: + Khi được tin có đội du kích nổi dậy ở làng Vần, ngày 19/6/1945, Tri phủ Trấn Yên An Văn Tùng và chánh quản Khoát - chỉ huy lính Bảo An, đưa một đội lính gần 40 tên tiến vào làng Vần, đóng quân tại nhà chánh tổng Lương Ca Trần Đình Khánh. + Rạng sáng ngày 20/6/1945 đội du kích đã bất ngờ tấn công lính Bảo An từ mọi hướng, địch hốt hoảng bỏ chạy tán loạn, bị quân ta truy kích buộc phải đầu hàng. Trước khi thả về quân ta buộc Tri phủ Trấn Yên phải cam kết: thả hết tù chính trị đang bị giam giữ ở thị xã; trả lại tiền thuế của nhân dân Lương Ca đã nộp lên huyện; không được đem quân đi đàn áp cách mạng. + Thất bại của quân Bảo An, một tuần sau phát xít Nhật đã tổ chức đội quân gồm 20 tên do Quan Hai chỉ huy tiến vào làng Vần nhằm khủng bố quân ta. Nhận định rõ tình hình, đồng chí Ngô Minh Loan đã tổ chức cuộc họp bàn bạc phương án tác chiến, sau đó ông chỉ huy lực phục kích ở Đèo Giang (đoạn ngòi từ Vân Hội ra Hiền Lương), tấn công bất ngờ tiêu diệt một phần sinh lực địch, số còn lại bỏ chạy rồi rút quân về thị xã Yên Bái.

+Theo chỉ thị của Mặt trận Việt Minh, tháng 9/1945 Ủy ban hành chính kháng chiến được thành lập, với những đóng góp to lớn và uy tín của mình ông Trần Đình Khánh đã được bầu làm chủ tịch, trụ sở đầu tiên đặt tại nhà ông. + Cũng tại đây, ngày 30/6/1945 diễn ra cuộc họp để thành lập ban cán sự liên tỉnh Phú Yên do đồng chí Ngô Minh Loan làm Bí thư. Khu di tích nhà ông Trần Đình Khánh + Cuối năm 1945 khi quân Tưởng Giới Thạch và bọn phản động Việt Nam Quốc dân Đảng ra sức phá hoại cơ quan đầu não của ta, tỉnh đã rút về làng Vần, ông Trần Đình Khánh đã nuôi dấu các cán bộ quan trọng trong nhà của mình, đảm bảo an toàn cho các đồng chí. Có thể nói rằng nhà ông Trần Đình Khánh trở thành trụ sở đầu tiên của chiến khu Vần và trở thành địa điểm tiêu biểu cho cuộc đấu tranh giành chính quyền của tỉnh Yên Bái.

Di tích Hang Dơi : Nhũ đá trong hang Dơi Rộng 20 đến 25 mét, sâu trên 300 mét, vòm hang cao khoảng 20 mét nên hang Dơi được chọn làm hậu cứ của chiến khu trong những ngày đầu cách mạng. Đây là nơi cất giữ quân lương và đón tiếp các cán bộ cách mạng thoát ra từ nhà tù Sơn La, Hoả Lò. (Nhũ đá Hang Dơi) Những cánh rừng nguyên sơ, đi lại hiểm trở, hang đá rộng giúp cho hậu cứ này góp phần làm nên thắng lợi của những cuộc tấn công xuất quỷ nhập thần của Việt Minh năm xưa, nay trở thành điểm đến trải nghiệm của du khách gần xa với những sự hấp dẫn, lạ kỳ.

Di tích lịch sử đình làng Dọc ( xã Việt Hồng, huyện Trấn Yên) Làng Dọc xưa có tên cổ là Bản Guộc hay Bản Lọc, nghĩa tiếng Tày là bản rừng rậm. Nơi đây xưa kia mọc nhiều cây dọc, quả được dân bản ép làm dầu thắp sáng. Đình làng Dọc được xây dựng từ đầu thế kỷ XIX. Đời vua Khải Định (triều Nguyễn), Đình được vua ban sắc phong. Theo lời kể của các bậc cao niên ở đây thì các đời vua khác cũng có sắc phong cho Đình nhưng do chiến tranh loạn lạc nên các sắc phong này đã bị mất, bị giặc đốt cháy nay chỉ còn một bản.

Đình làng Dọc gồm 5 gian 2 trái, kiến trúc chữ “đinh”. Gian trước được kiến trúc cung thờ, loại kiến trúc tôn giáo. Hiên trái phía Đông được chọn làm cửa chính vào đình. Nét đặc dị này do dải đồi nơi xây dựng đình tạo nên và chính điều đó đã góp phần làm nên cảnh trí độc đáo của đình làng Dọc. Đình nhìn ra suối nước trong xanh có mỏ nước ngầm chảy 4 mùa, tương truyền đó là long mạch của đình và trên mỏ nước là phiến đá lớn nơi còn lưu giữ vết chân ngựa của người xưa đến vùng đất này khai khẩn. Sân trước đình hẹp, kề sát vực suối và mỏ nước ngầm. Chái đình kề dải đồi dốc thấp được chọn làm nơi lên xuống, đón khách chiêm bái.

Năm 1947, khi giặc Pháp quay lại chiếm khu cách mạng Vần - Dọc, chúng đã xây lại đồn cách đình 500m ở Gò Dứa, đối diện mặt trước của Đình. Hình ảnh Đình làng Dọc đã được tu bổ Chúng đốt phá làng mạc nhưng tuyệt nhiên không dám đụng đến ngôi Đình. Vào ngày rằm, mồng 1 hàng tháng, bọn lính thuê người Việt đến cửa Đình cúng bái cầu Thành Hoàng làng. Thời kỳ này, đình làng Dọc trở thành đài quan sát lợi hại của lực lượng du kích.

Lễ hội đình làng Dọc được tổ chức 2 kỳ trong năm là vào mồng 3, mồng 4 tháng giêng âm lịch (gọi là lễ hạ điền) và 13, 14 tháng 7 âm lịch (lễ hội cầu Thần Nông). Lễ cúng trong các ngày hội gồm 4 mâm cỗ chay và 27 mâm cỗ mặn. Riêng lễ tháng 7 còn có thêm thịt trâu hay thịt dê. Lễ hội đình làng Dọc mang đậm sắc thái của người Kinh và người Tày cổ. Phần lễ đình được tổ chức trang nghiêm, tiết kiệm, không lợi dụng mê tín dị đoan. Bên cạnh đó, phần hội cũng được tổ chức rất đa dạng, phong phú với hội chơi đu, hội còn, hội yến, hội hát đối, hội chọi gà... cùng những điệu xòe then duyên dáng của các bà, các chị, của thiếu nữ Tày, Kinh.

2. Bến phà Âu Lâu (Hình ảnh dân công vận tải trên bến Âu Lâu ) Bến Âu Lâu (nay nằm trên địa bàn xã Âu Lâu và phường Nguyễn Phúc, thành phố Yên Bái). Bến phà Âu Lâu năm xưa có vị trí đặc biệt quan trọng nối liền Việt Bắc với Tây Bắc qua sông Hồng. Từ bến phà này, các loại vũ khí hạng nặng: pháo mặt đất, pháo cao xạ, ô tô chở đạn dược, khí tài quân sự cùng bộ đội, dân công hỏa tuyến lần lượt nối nhau qua sông tiếp viện cho chiến trường Điện Biên Phủ .Bến Âu Lâu là nơi ghi dấu một thời đấu tranh chống quân xâm lược của nhân dân các dân tộc tỉnh Yên Bái nói chung và nhân dân huyện Trấn Yên nói riêng.

Từ cuối năm 1952, cùng với Yên Bái huyện Trấn Yên có hai nhiệm vụ quan trọng là đảm bảo giữ vững giao thông vận tải qua sông Hồng, đường 13A từ bến phà Âu Lâu qua đèo Lũng Lô và cung cấp lương thực, thực phẩm, dân quân hỏa tuyến. Bến phà Âu Lâu ,các đò ngang từ Trái Hút tới Minh Quân ngày đêm bị máy bay địch rà soát, thả bom nhằm cắt đứt mạch máu quan trọng nối căn cứ Việt Bắc với Điện Biên. Tuy nhiên bộ đội,dân quân,thanh niên xung phong của ta ngày đêm bảo vệ tuyến đường huyết mạch ấy. Riêng Trấn Yên khi đó lực lượng dân công làm đường là 800/1000 người toàn tỉnh. Đội thanh niên xung phong C236 có tới gần 200 đội viên là người huyện Trấn Yên. Các đội viên đã làm nên bảng thành tích vàng phá hàng trăm quả bom nổ chậm, hàng ngàn quả bom bươm bướm. Đội viên Mai Văn Cát, Trần Văn Tiền được phong tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua. Dân công Hà Văn Đoạn -Người Tày xã Hưng Khánh được bầu làm Chiến sĩ thi đua toàn chiến dịch.

Với những nỗ lực không ngừng nghỉ, quân dân Trấn Yên cùng quân dân tỉnh Yên Bái đảm bảo giao thông vận tải an toàn, thông suốt tuyến đường Yên Bái-Ba Khe-Phù Yên trong đó có những khúc quan trọng như Âu Lâu, đèo Lũng Lô góp phần quan trọng vào chiến dịch vĩ đại của dân tộc-Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954. Do ý nghĩa và giá trị lịch sử của bến Âu Lâu, tỉnh Yên Bái đã xây dựng tượng đài “Bến Âu Lâu lịch sử” ở phường Nguyễn Phúc trên ngã ba đường gần bến.

Tượng đài “Bến Âu Lâu lịch sử” với hình tượng người thợ phà tay giữ mỏ neo, một phụ nữ tay nắm chắc mái chèo và một anh bộ đội trong khí thế hào hùng. Ba nhân vật đứng trên đài hoa cách điệu cùng những bức phù điêu miêu tả cảnh thuyền phà vượt sông, cảnh xe ra tiền tuyến, cảnh phá đá mở đường tiến quân vào Tây Bắc trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Tượng đài là một biểu tượng cho tinh thần của những người đã chiến đấu, hy sinh để giành lại độc lập, tự do cho tổ quốc. Ngày 07/8/2012 Bến Âu Lâu được Bộ VHTT&DL công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia.

3. Đồn Ca Vịnh-(xã Hồng Ca) - Cánh cửa thép vào Nghĩa Lộ Ngày 21/6/2007, Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái ban hành Quyết định số 863/QĐ-UBND công nhận Di tích đồn Ca Vịnh xã Hồng Ca, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh. (Khu tưởng niệm các liệt sĩ trong trận đánh đồn Ca Vịnh)

Đồn Ca Vịnh còn có tên gọi khác Đồn Khau Coóc. Di tích cách huyện Trấn Yên 40,5km, cách thành phố Yên Bái 32km. Tháng 02/1951, Le-Roóc được điều tới chỉ huy đồn, quyết định chuyển đồn lên vị trí đồi Khau Coóc (đồn Ca Vịnh ngày nay). Đầu tháng 5/1951 lực lượng du kích xã Hồng Ca tổ chức phục kích quân Pháp, trong trận này ta tiêu diệt được 7 tên địch, làm bị thương nhiều tên, buộc chúng phải tháo chạy khỏi Hồng Ca. Tháng 9 năm 1951, Bộ Tổng tư lệnh quyết định mở chiến dịch Lý Thường Kiệt. Trận đánh đồn Ca Vịnh có sự tham gia của các Đại đội, cùng bộ đội địa phương (Đại đội 87 - Huyện đội huyện Trấn Yên) và dân quân du kích xã. Tại bến phà Âu Lâu, Trung đoàn 165 được nhân dân các xã Hợp Minh và Âu Lâu, huyện Trấn Yên bố trí thuyền phà đưa bộ đội qua sông an toàn, dân công và nhân dân địa phương phá đá mở đường, bắc cầu để bộ đội nhanh chóng chiếm lĩnh trận địa.

Trận đánh đồn Ca Vịnh ngày 1/10/1951 là một trong những thắng lợi quan trọng của quân và dân ta trong chiến dịch Lý Thường Kiệt. Thắng lợi này đã góp phần tiêu hao một phần sinh lực địch, phá vỡ một phần tuyến phòng thủ kiên cố bảo vệ phân khu Nghĩa Lộ, mở rộng thêm vùng giải phóng, phá thế bao vây uy hiếp của địch đối với căn cứ địa Việt Bắc từ hướng Tây. Trận đánh đồn Ca Vịnh 1/10/1951 đã mở ra bước ngoặt đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta tiến sang một thời kỳ mới, thời kỳ quân ta tiến công và phản công trên khắp các chiến trường.Với ý nghĩa lịch sử đó, di tích đồn Ca Vịnh xã Hồng Ca, huyện Trấn Yên được Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh. (Các chiến sĩ trung đoàn 165 tưởng nhớ đồng đội tại nghĩa trang đồn Ca Vịnh) - Nguồn ảnh báo Yên Bái

4.GÒ CỌ LÀNG CHIỀNG (Thôn Trung Mỹ xã Cường Thịnh-Trấn Yên) Di tích Gò Cọ - làng Chiềng, trước thuộc làng Chiềng, nay là thôn Trung Mỹ, xã Cường Thịnh, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái. Di tích Gò Cọ - làng Chiềng cách trung tâm xã 500 m. Để đưa cuộc kháng chiến tiến lên giành thêm những thắng lợi mới, từ ngày 10 tới ngày 15/1/1949, hội nghị Đảng bộ tỉnh Yên Bái lần thứ hai (tức Đại hội I) đã họp tại Gò Cọ, làng Chiềng, xã Cường Thịnh, huyện Trấn Yên. Gò Cọ, nằm ở trung tâm Làng Chiềng, xã Cường Thịnh, huyện Trấn Yên. Phía Đông giáp thôn Chung Mỹ, Tây giáp thôn Đồng Trò, Nam giáp thôn Đồng Chuối, Bắc giáp thôn Đồng Phương (xã Minh Quán). Ngay từ trung tuần 12/1948, công tác chuẩn bị phục vụ Đại hội I Đảng bộ tỉnh Yên Bái đã diễn ra tại Gò Cọ - làng Chiềng, xã Cường Thịnh, huyện Trấn Yên.Lực lượng bảo vệ do Trung đoàn 115 Liên khu 10 và lực lượng du kích xã Cường Thịnh. Địa điểm Gò Cọ - làng Chiềng chính là một di tích ghi dấu ấn lịch sử cách mạng của địa phương gắn với diễn biến sự kiện Đại hội lần thứ I Đảng bộ tỉnh Yên Bái. Đó là: - Nhà ông Bủ Tạ, là hội trường chính. Nơi tổ chức phiên họp đại hội Đảng bộ tỉnh Yên Bái lần thứ nhất 10/01/1949. Hiện nay ngôi nhà này đã bị tháo dỡ, chỉ còn dấu tích phần nền nhà có kích thước 20 x 20 m, cao nền 0,35 cm.

- Đình Cường Thịnh. Đình làng Cường Thịnh trong quãng thời gian từ năm 1945 đến năm 1949, tại đây đã gắn với nhiều sự kiện trọng đại của địa phương nói riêng, của tỉnh Yên Bái nói chung. Hiện nay, ngôi đình đã được tu sửa lại khá khang trang gồm 5 gian, được kết cấu theo lối chữ Nhất, gồm 4 gian Đại Bái và 1 gian Hậu Cung. Sân và nền được nát gạch bát tràng (gạch mộc). . Địa điểm Gò Cọ - làng Chiềng đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái cấp bằng chứng nhận Di tích cấp tỉnh theo Quyết định số 863/QĐ-UBND ngày 21/6/2007


Like this book? You can publish your book online for free in a few minutes!
Create your own flipbook