Sau khi đánh phá thị xã Yên Bái, Mĩ tập trung đánh phá các địa phương, các công trình trọng điểm. Trên địa bàn Trấn Yên máy bay Mĩ phá cầu Ngòi Hóp, Nga Quán, bến phà Âu Lâu, xã Nga Quán, xã Nam Cường, nhà máy Z… Lực lượng dân quân tự vệ Trấn Yên đã phối hợp với các đơn vị pháo cao xạ, tên lửa phòng không Yên Bái giáng cho Mĩ những đòn đích đáng, bắn rơi máy bay phản lực F105. Nhà máy Z183 - Minh Quán - Trấn Yên Trong những năm 1966-1967, Trấn Yên phối hợp đánh trả máy bay Mỹ 150 trận, bắn rơi 14 máy bay, dân quân các xã Hồng Ca, Kiên Thành, Việt Thành đã bắt sống 6 tên giặc lái của Mĩ, trong đó phải kể đến nữ dân quân Lương Thị Mới dân tộc Tày cùng một số dân quân khác bắt sống trung tá không quân Giêm- cat-lơ. 51
Nhân dân các xã Nga Quán, Cổ Phúc, Báo Đáp đánh trả quyết liệt: tháng 6, 7 bộ đội phối hợp với dân quân tự vệ Tuy Lộc, Nam Cường bắn rơi 2 máy bay; tháng 8/1972 dân quân Minh Quán cùng lực lượng tự vệ nhà máy Z bắn rơi máy bay phản lực. Sang năm 1972, Mĩ leo thang chiến tranh. Trấn Yên trở thành trọng điểm đánh phá ác liệt của không quân Mĩ. Nhân dân Trấn Yên phối hợp với bộ đội chủ lực chiến đấu ngày đêm, lực lượng dân quân tự vệ của huyện đã lên tới hơn 8000 người (Lịch sử đảng bộ Trấn Yên). Tháng 12/1972 trong cuộc đọ sức cuối cùng với không quân Mĩ , trên bầu trời Trấn Yên máy bay Mĩ đã oanh tạc suốt 28 ngày đêm những trận đánh dữ dội tại Cường Thịnh, Tuy Lộc, Nga Quán đã gây nên những tổn thất lớn. Nhân dân các dân tộc Trấn Yên đã không ngại hy sinh giữ vững trận địa. Các tổ cứu sập hầm, phá bom nổ chậm… ngày đêm hoạt động, tiêu biểu là đội phá bom nổ chậm của xã Nga Quán, Báo Đáp do đồng chí Lê Thế Vận chỉ huy đã vô hiệu hóa hàng chục quả bom, phá hàng trăm quả bom bi đảm bảo thông suốt tuyến đường sắt từ ga Ngòi Hóp đến ga Văn Phú. 52
7. Trấn Yên đi lên chủ nghĩa xã hội Đất nước thống nhất, Trấn Yên đứng trước yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội trong giai đoạn mới. Huyện Trấn Yên đã nỗ lực thay đổi cơ cấu kinh tế nông- lâm nghiệp, tiến hành khai hoang, hình thành các vùng cây chuyên canh hướng tới mục tiêu ăn no, mặc ấm cho nhân dân. Mạng lưới giao thông, thủy lợi được coi là thành quả lớn của huyện Trấn Yên. Một số cây cầu đã được hình thành sớm để đảm bảo thông suốt, giao thương như cầu treo Âu Lâu, Vân Hội, Y Can… Những tuyến đường dân sinh được xây dựng nối liền các xã như Hưng Khánh-Hồng Ca; Km 9-Kiên Thành; Hợp Minh-Việt Hồng… Tất cả đã góp gần đưa Trấn Yên cùng tỉnh Yên Bái hòa nhịp chung với cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng quê hương giàu đẹp. 53
Chương IV TRẤN YÊN SẮC MÀU VĂN HÓA Đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng các dân tộc huyện Trấn Yên rất phong phú, chủ yếu là văn hóa phi vật thể bao gồm văn hóa tinh thần của người Kinh, là sự kết hợp tinh hoa văn hóa đồng bằng và trung du Bắc bộ với văn hóa tinh thần giàu bản sắc của đồng bào dân tộc Tày, Dao, Mường, Cao Lan, H’Mông 54
I. Văn hóa đồ đồng 1. Thạp đồng Đào Thịnh Thạp đồng Đào Thịnh được ông Phạm Văn Phúc phát hiện vào ngày 16/9/1960, tại thôn Đống Gianh nằm ở tả ngạn sông Hồng, thuộc xã Đào Thịnh (Trấn Yên) cách thị xã Yên Bái 20 km về phía Bắc.Đây là một hiện vật tiêu biểu thời văn hóa Đông Sơn,có niên đại cách ngày nay khoảng 2500 năm. Chiếc thạp được tìm thấy trong khối đất lở do xói mòn nằm cách mặt nước chừng 2m. Nếu kể cả lớp đất phủ ở trên, chiếc thạp nằm ở độ sâu 5m. Thạp đồng Đào Thịnh là một chiếc thạp lớn nhất trong sưu tập thạp Việt Nam được biết đến hiện nay. Thạp màu xanh rỉ đồng, trên nắp có nhiều hoa văn trang trí là các loại hoa văn kỉ hà, hoa văn bện thừng, các đường hoa văn gạch chấm mô tả các sinh hoạt xã hội và sinh vật. Tuy nhiên có nhiều chỗ hoa văn đã bị mất. Đỉnh nắp thạp có một cụm tượng đã bị mất mép, nắp có 4 tượng nam nữ giao hợp chỉ còn hai, nắp thạp hình khum. 55
Thạp có đường kính 0,6m, cao 0,98m, bị vỡ nhiều chỗ, có hai quai (bị mất một). Nắp và thân đều có hai cặp quai hình mui thuyền trang trí hoa văn sóng nước. Đường kính miệng 0,61cm, nơi phình ra nhất 0,7m, đường kính đáy 0,6m,nặng 76kg.Đây là chiếc thạp lớn nhất Việt Nam trong những chiếc thạp đã tìm thấy. Năm 2012,thạp đồng Đào Thịnh được công nhận là bảo vật quốc gia. Ngay sau khi thạp đồng được phát hiện, đã rộ lên nhiều ý kiến khác nhau của các nhà nghiên cứu, nhất là trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử và trong các hội nghị về khảo cổ học. Cuối cùng chiếc “chum” đó đã được chính thức xếp vào hàng ngũ “Thạp đồng Đông Sơn Việt Nam”, các nhà nghiên cứu đã đi đến thống nhất gọi đây là thạp đồng Đào Thịnh, xếp nó vào khung niên đại của văn hóa Đông Sơn, cách ngày nay 2.000 – 2.500 năm. Điều đặc biệt đây là chiếc thạp đồng lớn và đẹp nhất trong toàn bộ những thạp đồng đã được phát hiện. Hoa văn trên nắp và thân thạp 56
2. Thạp đồng Hợp Minh Thạp đồng Hợp Minh: Thạp đồng Hợp Minh được dân quân xã Hợp Minh trong buổi tập luyện đào công tập tìm thấy ở độ sâu 50m ở trên đỉnh đồi Chọi nằm sát ngay bên kia đầu cầu Yên Bái đi Văn Chấn (hữu ngạn Sông Hồng) vào năm 1995. Thạp đồng Hợp Minh có miệng nhỏ hơn thạp đồng Đào Thịnh, nặng 3,5kg, cao toàn bộ 47,4cm, cao phần thân thạp 41,5cm, đường kính miệng 33,6, đường kính đáy 34,9 cm, thân hơi phình ra, thân có dáng thẳng, cân đối, có hai quai hình chữ U ngược. Trong lòng thạp thu được một số hiện vật như: được đĩa đồng 3 chân, rìu đồng, dao găm đồng, quả thạc đồng, khuyên tai 4 mấu, 3 mảnh gốm miết láng đen. Đặc biệt còn tìm thấy dấu vết của sợi dệt, nan đan. Điều đáng chú ý ở đây là lần đầu tiên ở Việt Nam đã phát hiện được di cốt của người cổ còn nguyện vẹn chôn trong thạp. Di cốt này được giám định là một em bé gái khoảng 4 - 5 tuổi ở Việt Nam. Những mô típ văn hóa trên thạp Hợp Minh cũng rất tiêu biểu, trên nắp thạp có 4 tượng dạng “chim vịt” gần rìa nắp. Thân thạp có 37 vòng rộng hẹp khác nhau, trong đó có 18 vòng hoa văn và chia làm 3 nhóm. (Tư liệu sưu tầm tại Bảo tàng tỉnh Yên Bái) 57
II.Tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục 1. Lễ Lồng Tồng Với người Tày ở xã Kiên Thành, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái, hội Lồng tồng (hay còn gọi là lễ hội Cầu mùa) chính là một trong những lễ hội truyền thống đặc sắc nhất, vui nhất của dân tộc Tày được tổ chức trong dịp đầu xuân năm mới. Lễ hội được tổ chức vào đúng ngày rằm tháng Giêng, nhằm gửi gắm ước mong của dân làng, cầu cho mưa thuận, gió hòa, vạn vật sinh sôi nảy nở, người người ấm no, hạnh phúc. (lễ Lồ ng Tồ ng tại xã Kiên Thành) 58
2. Lễ Cấp Sắc của người Dao Đỏ Lễ Cấp sắc tiếng Dao gọi là “Lập tịnh” là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian. Với những nội dung rất đặc sắc miêu tả về quá trình di cư, định cư cũng như quá trình đấu tranh chinh phục chống lại các thế lực siêu nhiên giành lấy cuộc sống ấm no hạnh phúc. Trải qua bao thế kỷ và những thăng trầm của lịch sử, lễ cấp sắc vẫn tồn tại trong cộng đồng người Dao như một món ăn tinh thần không thể thiếu của đồng bào. (lễ cấp sắc của người Dao Đỏ tại Kiên Thành) 59
Lễ cấp sắc là một nghi lễ quan trọng công nhận sự trưởng thành cả về thể chất lẫn tinh thần của người đàn ông Dao. Người Dao nói chung rất coi trọng việc làm lễ cấp sắc, bất kể người đàn ông nào từ khi sinh ra đều phải làm lễ cấp sắc, nếu không dù nhiều tuổi vẫn bị xem là đứa trẻ. Sau khi được cấp sắc mới có đủ điều kiện để làm lễ cúng bái và được giao tiếp với thần linh. Lễ cấp sắc ngoài thể hiện nét văn hóa độc đáo riêng của dân tộc Dao, còn thể hiện đạo lý làm người, hướng con người tới cái thiện, hướng tới cội nguồn và tổ tiên. Ảnh: Sưu tầm 60
III. Văn hóa đình, đền 1.Đền Hóa Cuông (Quang Minh Linh Từ) Trong đền thờ Mẫu Hóa Cuông, là sự hóa thân của tiên thiên Thánh Mẫu Liễu Hạnh, mẫu nghi thiên hạ (Mẹ của muôn dân) và tôn thờ tam tòa Thánh Mẫu theo truyền thống thờ đạo Mẫu của người Việt. Trải qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử, đền đã nhiều lần được nhân dân gìn giữ, tôn tạo. Tuy khiêm nhường về vật chất nhưng ngôi đền được tọa lạc trên khoảng đất đẹp, đền nằm bên thượng nguồn suối Hòa Cuông lưng dựa vào dải đồi uốn lượn dáng rồng thiêng, tiền môn được ba cây xanh cổ thụ tán lá xum xuê che phủ sân đền. 61
Ngày 30/11/2005, Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái công nhận Di tích đền Hóa Cuông, xã Hòa Cuông, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh. Đền hướng về phía đông nam. Ngòi Hóa Cuông như dải lụa xanh ôm ấp, uốn lượn chín khúc rồng bay ngày đêm tưới mát cho gần hai ha đất canh tác. Xa xa, hai bên tả hữu được hai ngọn đồi tạo thế “tả thanh long, hữu bạch hổ” về chầu. Trong lòng đất nơi đây Cây cầu bắc sang đền, dưới là dòng còn ẩn chứa địa tầng nước trong xanh, một địa thế độc văn hóa ngàn năm gắn nhất vô nhị ở vùng sơn cước Trấn với nền văn hóa sông Hồng rực rỡ của thời đại Yên này vua Hùng và Thục Phán An Dương Vương dựng nước Văn Lang, Âu Lạc. . 62
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, đền Hóa Cuông là nơi họp bàn của Ủy ban Cách mạng lâm thời xã Mễ Lâm (huyện Trấn Yên). Tại đây, nhiều quyế t định quan trọng xây dựng phương hư ớng, lãnh đạo nhân kháng chiến chống lập tề và khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân đã được đưa ra. Trong chiến tranh đế quốc Mỹ xâm lược, đền là nơi sơ tán mở lớp học vỡ lòng cho bà con các dân tộc trong vùng. Trải qua gần 400 năm, đền Hóa Cuông đã được các triều đại phong kiến Việt Nam phong ba đạo sắc và giao cho nhân dân đời đời hương khói phụng thờ. 63
Lễ hội đền Hóa Cuông được mở vào ngày 14 tháng Giêng hàng năm, thu hút đông đảo nhân dân trong và ngoài vùng đến tham quan và chiêm bái. Trong lễ hội còn tổ chức các trò chơi dân gian như kéo co, đẩy gậy, đánh đu, leo cầu khỉ... với sự tham gia, cổ vũ sôi nổi của dân trong vùng và du khách thập phương. Đây cũng là dịp gìn giữ bản sắc văn hóa của nhân dân các dân tộc trong vùng. Trải qua thời gian, những dấu tích của Đền để lại không còn nhiều, và đã có sự thay đổi, nhưng với ý nghĩa lịch sử đó, di tích đền Hóa Cuông, xã Hòa Cuông, huyện Trấn Yên được Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh. 64
2. Đình Hòa Quân (Di tích lịch sử cấp Tỉnh) Từ tháng 8/1945 là trụ sở của ủy ban cách mạng lâm thời xã Hòa Quân. Cũng tại đây, ngày 4/7/1945 chính quyền UBND cách mạng lâm thời xã Hòa Quân được thành lập. (Di tích đình Hòa Quân - Minh Quân-Trấn Yên) Di tích đình Hòa Quân được xếp vào loại hình di tích lịch sử cách mạng và được công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh. Khu di tích Đình và chùa Hòa Quân tọa lạc tại khu đồi nhỏ giữa hai thôn Hòa Quân và Gò Bông xã Minh Quân, huyện Trấn Yên. Cấu thành di tích bao gồm : 65
Đình Thượng Đình Trung Đình Thượng nằm quay Đình Trung là nơi diễn ra mặt ra hướng Đông Nam, kết cuộc họp cán bộ tỉnh ủy cấu theo kiểu chữ nhất với tháng 7/ 1948. một gian đại bái và một gian Các vị thánh thần được thờ Hậu Cung, mái lợp ngói, tự: Chuyên Cẩn đại vương, tường xây gạch. Khoan Hòa đại vương, Lệnh Nghi đại vương, Đức đại Đền thờ 4 vị thần: Cao Sơn vương, Hồng Nghị đại đại vương, Hạ Sơn đại vương, vương, Thập phúc đại vương Quang Minh đại vương. Miếu Chùa Hòa Quân Các vị thánh được thờ Có tên là Diện Hựu tự, là: Đầu vị Bộ Sơn quân chùa có kết cấu hình chữ Hắc Hổ đại vương, Vương Đinh gồm 2 gian tiền tế và Mẫu Mỹ Hoa công chúa. 1 gian hậu cung. Các vị thánh thần được thờ là: Tam Thế, Đức Chùa Hiền, Đức chúa ông, Thích ca sơ sinh. 66
Phong tục lễ hội: Xuân thu nhị kỳ Đình Hòa Quân đều tổ chức lễ hội - Các kỳ cầu chính (tính theo âm lịch)như : 7/1 Cầu Đình (cúng đồ chay) dân làng tổ chức rước kiệu và hòm sắc từ nhà chứa lên đình trung Hòa Quân. Thời gian tổ chức từ 8h sáng tới buổi tối cùng ngày. Thành phần đoàn rước gồm trai tân, gái chỉ, đội cờ, đội kiệu, đội trống kèn, nhân dân thôn bản và du khách thập phương. Khác với các di tích khác, đình Hòa Quân nằm trong một tổ hợp kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng thống nhất gồm Đình, Chùa, Miếu. Di tích đình Hòa Quân có một vị trí quan trọng trong hệ thống các di tích văn hóa tâm linh ở bờ tả ngạn sông Hồng. Minh Quân ngày nay (ảnh sưu tầm) 67
3. Đình và đền Quy Mông Theo đánh giá của nhiều nhà khảo cổ, đình Quy Mông (xã Quy Mông, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái) có thể được xây dựng từ thời nhà Lê với kiến trúc độc đáo cổ xưa của một ngôi đình theo dạng nhà sàn (bán sàn) văn hóa Mường. Nghệ thuật trang trí đình và đền hầu hết được chạm khắc công phu thể hiện nghệ thuật điêu khắc gỗ tinh vi mang đậm tính chất văn hóa dân gian truyền thống của dân tộc Việt Nam. 68
Đình hiện còn giữ được các hiện vật cổ như: Hoành phi, câu đối, ngai thờ, ô, lọng. Nghệ thuật trang trí đình còn thể hiện trên gỗ được chạm khắc tinh vi mang đậm chất dân gian truyền thống Đình Quy Mông thờ rất nhiều nhân thần cụ thể. Đầu tiên là thờ Đệ Nhất Quốc Chủ Thông, Đại Vương Tản Viên Sơn Thần - một nhân thần huyền sử, một trong \"Tứ bất tử” của dân tộc Việt Nam. Đình còn thờ Đệ Nhị Cao Sơn Đại Vương - một trong 3 vị tướng của Tản Viên Sơn Thánh, được thờ cúng ở nhiều đình làng vùng Bắc Bộ... 69
4. Đình Yên Lương - Minh Tiến ( Đình Quan Thương, hay đình Quan Chiêu) Đình Yên Lương tọa lạc tại địa phận xã Minh Tiến, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái. Đình cách trung tâm thành phố Yên Bái 11km. Quyết định số 1390/QĐ-UBND ngày 12/9/2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái công nhận công nhận Di tích lịch sử văn hóa đình Yên Lương, xã Minh Tiến, huyện Trấn Yên là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh. Đình này vốn là nơi dân làng Yên Lương thuộc tổng Giới Phiên xưa hội họp và phối thờ sơn thần thổ địa. Di tích đình Yên Lương được hình thành từ khá sớm, xưa kia đình Yên Lương nằm tọa lạc ngay bên bờ sông Thao, với địa thế và quang cảnh rộng lớn. Trải qua năm tháng, đình đã bị phá hủy, không còn nguyên gốc. Để có nơi thờ cúng khang trang, xứng với công lao của tiền nhân, dòng họ Nguyễn cùng nhân dân xã Minh Tiến đã tu bổ, tôn tạo lại đình trên nền cũ của đình năm xưa. 70
Trong những năm kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954), đình Yên Lương là địa điểm làm việc của xã, nơi du kích - bộ đội luyện tập, nơi tập kết bộ đội - dân công và là nơi cấp cứu thương binh, tập kết trung chuyển vũ khí, lương thực, thực phẩm phục vụ chiến dịch giải phóng Tây Bắc 1952, Điện Biên Phủ (1953 - 1954). Thời kỳ bình dân học vụ (1945 - 1946), thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh diệt giặc đói, giặc dốt, đình là địa điểm dạy học, xóa mù chữ cho nhân dân trong xã. Năm 1949 - 1950, đình Yên Lương là nơi tập trung du kích luyện tập, tập kết bộ đội từ bến phà Âu Lâu lên Đình để họp bàn triển khai nhiệm vụ kháng chiến. Năm 1952 - 1953, đình tiếp tục là địa điểm tập kết lương thực, thực phẩm, bộ đội, thương bệnh binh tham gia chiến dịch Tây Bắc. Minh Tiến ngày nay (ảnh sưu tầm) 71
5. Đình Kỳ Can Đình Kỳ Can được công nhận đình Kỳ Can, xã Y Can, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh. Đình Kỳ Can được lưu giữ và bảo tồn trong hàng trăm năm qua, nơi đây còn giữ được nguyên vẻ hoang sơ của một công trình kiến trúc gỗ từ những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Nơi đây còn lưu giữ được nhiều các hiện vật quý giá, qua các thời kỳ lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của nhân dân các dân tộc trong xã và trong quần thể Di tích lịch sử văn hóa của huyện và của tỉnh. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, đình Kỳ Can là nơi thành lập Ủy ban hành chính kháng chiến lâm thời của xã Y Can, đây còn là nơi dừng chân của bộ đội. Tại đình còn diễn ra nhiều sự kiện khác: cuộc họp của cán bộ Việt Minh bàn về các công việc khai hóa đất đai, phát động các phong trào. Đình Kỳ Can cũng là nơi diễn ra nhiều cuộc tuyên truyền, vận động đường lối cách mạng của Đảng cho quần chúng nhân dân tích cực tham gia kháng chiến, tăng gia sản xuất, thành lập các tổ chức Nông hội, Thanh niên cứu quốc và củng cố lực lượng du kích. 72
Sau hơn nửa thế kỷ bị mai một do chiến tranh và thiên tai, đình Kỳ Can chỉ còn giữ lại được cảnh quan và khuôn viên. Năm 2013, Đình được khởi công trùng tu tôn tạo nơi đây đã thực sự trở thành nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh của người dân trong xã và du khách thập phương. 73
6. Đình Làng Xây (Đình Làng Ngà) Di tích Đình Làng Xây thuộc thôn Đình Xây, xã Báo Đáp, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái là Di tích lịch sử-văn hóa cấp tỉnh. Đình tọa lạc trên một khu đồi bằng phẳng, có địa thế đẹp, cách Đình là bờ sông Thao, phía sau đình là một mô gò bằng và hai bên tả hữu bằng phẳng và thoáng đãng. Trải qua thời gian, thiên tai và Di tích còn lại trong Đình Làng Xây các cuộc chiến tranh kéo dài, đình Làng Xây chỉ còn lại đất Đình là nơi diễn ra nhiều sự của khu di tích. Các hiện vật kiện lịch sử của địa phương, là thờ cúng của đình đã bị thất lạc địa điểm hội họp, tuyên truyền hiện giờ chỉ còn một cỗ ngai và cách mạng, kêu gọi nhân dân bài vị của họ Trần do ông Trần tham gia đánh đuổi Pháp - Văn Xuân cất giữ, còn cỗ ngai Nhật, là nơi tập kết bộ đội, du và bài vị do dòng họ Nguyễn giữ kích và cứu chữa thương binh. đã bị hư hỏng nặng, bị mối mọt. Đình đã từng được sử dụng làm lớp bình dân học vụ, xóa mù chữ cho nhân dân trong xã. 74
Do đình Làng Xây đã bị phá hủy hoàn toàn nên các hoạt động văn hóa tâm linh của nhân dân, lễ hội không còn được tổ chức. Vì vậy không gian văn hóa chỉ còn trong tâm thức của những người dân địa phương. Để đáp ứng nguyện vọng của nhân dân và làm cơ sở phục dựng lại đình, phục dựng lại không gian văn hóa xưa kia, nhân dân đã dựng một nhà nhỏ làm nơi thờ cúng. Ảnh: Phòng VHTT Trấn Yên Phố Hóp Báo Đáp Trấn Yên-ảnh sưu tầm 75
7. Đình Cửa Ngòi (Ngòi Hoang, Đôi Cô) Lúc đầu, Đền là một miếu nhỏ (vào khoảng cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX), tọa lạc trên vị trí đất bằng phẳng ngay sát mép giao thủy giữa cửa Ngòi Ngoang và Sông Hồng, sau được tu bổ, tôn tạo với quy mô 4 gian đại bái và 1 gian hậu cung, với kiến trúc hình chữ Đinh nhìn ra Sông Hồng. Đền được gọi là Đôi Cô do phụng thờ Thánh Mẫu Đệ Nhất Thượng Thiên và Thánh Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn, sau tôn thờ thêm Thánh Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ, tạo thành ban thờ Tam tòa thánh Mẫu. Đây là điểm tâm linh được nhân dân trong vùng, thương lái đường thủy và du khách thập phương qua đò thường xuyên chiêm bái, thắp hương cầu cho quốc thái dân an, cầu tài, cầu lộc, sức khỏe, cầu cho bản thâm may mắn, thượng lộ bình an… 76
Trong thời gian toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đền là nơi tổ chức Tuần lễ vàng để vận động nhân dân ủng hộ cách mạng, đóng góp cho ngân sách quốc gia, đây cũng là nơi nghỉ chân của bộ đội để qua sông vào giải phóng các địa phương miền Tây Bắc Đền Cửa Ngòi hiện nay được Thị trấn Cổ Phúc xây dựng trên diện tích 2.063m2 với các hạng mục như: nhà Đền chính, chùa, miếu cô, miếu cậu, cổng, sân, tường rào và các công trình phụ trợ khác. 77
Chương V TRẤN YÊN NHÂN VẬT LỊCH SỬ 78
Đại tá Đào Đình Bảng Đồng chí Đại tá Đào Đình Bảng nguyên là Giám đốc Công an các tỉnh Yên Bái, Cao Bằng, Lạng Sơn; Phó Trưởng đoàn chuyên gia Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) tại Lào; chuyên viên Cục Tham mưu An ninh, Tổng cục An ninh, Bộ Công an đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Sinh ra tại vùng đất giàu truyền thống cách mạng ở xã Minh Quân, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái, đồng chí Đào Đình Bảng tham gia cách mạng từ năm 16 tuổi (năm 1940). 79
Bị giặc Pháp bắt giam ở nhà tù Phú Thọ vào tháng 6-1941. Sau khi ra tù (tháng 6-1942), đồng chí bắt liên lạc với cách mạng, tham gia hoạt động ở các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Nghĩa Lộ, Sơn La… Đến tháng 11-1951, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ đó đến trước khi nghỉ hưu (1990), đồng chí Đào Đình Bảng đảm nhiệm nhiều trọng trách quan trọng như Giám đốc Công an tỉnh Yên Bái; Thường vụ Tỉnh ủy, Giám đốc Công an tỉnh Lạng Sơn, đại biểu Quốc hội khóa II… 80
Ở những địa bàn trọng điểm, tại các thời điểm chiến tranh ác liệt, đồng chí luôn khắc phục khó khăn, lãnh đạo, chỉ huy đơn vị hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, ngành và nhân dân giao phó. Đồng chí Đào Đình Bảng đã vinh dự được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang. 81
Liệt sĩ Trần Văn Thọ Anh là Trần Văn Thọ, sinh năm 1935 ở xã Nỗ Lực nay là xã Sai Nga, huyện Cẩm Khê (tỉnh Phú Thọ). Cha mất sớm, đói khổ nên năm Ất Dậu (1945) gia đình tha hương đến xã Việt Thành (Trấn Yên - Yên Bái). 15 tuổi anh tham gia du kích 17 tuổi đã dám trốn nhà trốn mẹ đi bộ đội. Biền biệt đến năm 1961 mới về phép được mấy ngày và cũng từ đó gia đình hoàn toàn bặt tin anh. 82
Ngày 25/10/2008, tỉnh, huyện đã long trọng tổ chức lễ truy điệu cho liệt sỹ Thọ ngay tại xã Việt Thành, quê hương anh và tên anh đã được trang trọng khắc lên dòng trên cùng của tấm bia lưu danh liệt sĩ xã Việt Thành. Năm 1952, anh nhập ngũ Nguồn: baoyenbai.com.vn vào Trung đoàn Tây Bắc, đã bienphong.com.vn tham gia hàng chục trận truy quét phỉ ở ngã ba biên giới Việt – Trung – Lào. Có lần anh một mình, tay không, vào hang ổ phỉ vận động được 5 tên phỉ ra hàng, không mất một viên đạn. Là người Kinh, nhưng Thọ thông thạo 7 thứ tiếng của đồng bào dân tộc thiểu số (Hà Nhì, Mông, Dao, Thái, Khơ Mú...). Anh đã được Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh CANDVT tặng 6 bằng, giấy khen, được Nhà nước truy tặng Huân chương Quân công hạng Ba. Ngày 1-1-1967, Trần Văn Thọ là 1 trong 5 chiến sĩ CANDVT đầu tiên (Trương Chí Cương, Nguyễn Văn Thử, Phạm Bá Hạt và Trần Văn Nhỏ) được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. 83
Nhân vât Ngô Minh Loan Ngô Minh Loan (1915 - 2001) nhà hoạt động cách mạng và chính khách Việt nam, Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương khóa III, Cục trưởng Cục Bảo vệ quân đội, Thứ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ, nguyên Đại sứ Việt nam tại Trung quốc, Bộ trưởng Bộ Lương thực thực phẩm Việt Nam. Ông hoạt động cách mạng tại tỉnh Yên Bái, giữ cương vị Bí thư tỉnh ủy, lãnh đạo xây dựng chiến khu cách mạng Vần - Hiền Lương ở địa bàn của 3 tổng Lương Ca, Giới Phiên (thuộc huyện Trấn Yên) và Đại Lịch thuộc huyện Văn Chấn. 84
Ngày 30/6/1945 Ban cán sự liên tỉnh Phú - Yên (Phú Thọ - Yên Bái) được thành lập do ông làm Bí thư lãnh đạo cách mạng tại hai tỉnh Yên Bái và Phú Thọ. Xứ ủy Bắc Kỳ chỉ thị cho Tỉnh ủy Phú Thọ - Yên Bái gấp rút chuẩn bị để giành chính quyền. Ủy ban quân sự cách mạng được thành lập do Bình Phương làm chỉ huy trưởng, Ngô Minh Loan làm Chính ủy. Ủy ban quân sự cách mạng có nhiệm vụ chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang, tổ chức các hoạt động quân sự làm nòng cốt cho phong trào quần chúng và các cuộc khởi nghĩa. Từ đây đã phát triển hoạt động cách mạng rộng lên Lào Cai và một phần Sơn La, lập nên chính quyền cách mạng tại 3 tỉnh Phú Thọ, Yên Bái và Phù Yên (Sơn La) góp phần tích cực vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc trong cuộc tổng khởi nghĩa có một không hai của lịch sử cách mạng tháng 8 năm 1945. Ngày 22 tháng 8 năm 1945 ông được cử làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Yên Bái. 85
Nhân vật Trần Đình Khánh Ông Trần Đình Khánh, dân tộc Tày, sinh ngày 5/2/1903 tại xã Lương Ca, tổng Lương Ca, huyện Trấn Yên, nay là xã Việt Hồng, huyện Trấn Yên.Dưới thời Pháp thuộc, ông tham gia bộ máy chính quyền thực dân với chức danh Chánh tổng Lương Ca. Ông là người có tư tưởng tiến bộ, yêu nước thương dân khi được các cán bộ Việt Minh giác ngộ đã đồng ý theo cách mạng. Với tầm ảnh hưởng của mình, ông đứng ra kêu gọi nhân dân ủng hộ của cải vật chất cho quân ta, bản thân gia đình ông ủng hộ cách mạng. Là một chiến sỹ cách mạng , nhà của ông trở thành sở chỉ huy của quân ta. 86
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, ông Trần Đình Khánh tham gia Ủy ban nhân dân cách mạng, Ủy ban Liên Việt với cương vị Chủ tịch. Ngày 6/1/1946, tại cuộc Tổng tuyển cử nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khóa I, ông Trần Đình Khánh là đại biểu của tỉnh Yên Bái tham gia Quốc hội. Khi bọn phản động Việt Nam Quốc dân đảng cướp chính quyền, thủ tiêu cán bộ, cách mạng, gia đình ông Trần Đình Khánh đã nuôi giấu, bảo vệ nhiều đồng chí cán bộ cốt cán của tỉnh. Trước nguy cơ xâm lược của thực dân Pháp đến gần, Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Yên Bái do ông Trần Đình Khánh làm Chủ tịch chuyển về chiến khu Vần, trụ sở đặt tại ngôi nhà sàn của gia đình ông. Nhà ông Trần Đình Khánh 87
Ghi nhận công lao và những đóng góp to lớn của ông Trần Đình Khánh cho phong trào cách mạng của tỉnh Yên Bái nói riêng và công cuộc kháng chiến, kiến quốc của toàn dân tộc nói chung, ông đã vinh dự được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Hai, Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhất. Cán bộ TTVH Trấn Yên giới thiệu về khu nhà ông Trần Đinh Khánh Gia đình ông Trần Đình Khánh được Chính phủ tặng thưởng \"đồng tiền vàng”, phần thưởng cao quý cho những người và gia đình có công giúp đỡ cách mạng trước ngày Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám năm 1945. 88
Chương VI TRẤN YÊN NGÀY MỚI 89
I. Trấn Yên- huyện đạt chuẩn nông thôn mới Trấn Yên là huyện nông thôn mới đầu tiên của tỉnh Yên Bái và khu vực Tây Bắc. Huyện có 6 xã ᴠà 46 thôn. Khi bắt tay ᴠào xây dựng nông thôn mới, Trấn Yên cũng như các địa phương khác trong tỉnh đều có xuất phát điểm thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao, thu nhập bình quân thấp, sản xuất, kinh tế phát triến nhỏ lẻ, phân tán, chủ yếu mang tính tự cung tự cấp... Khi có sự đồng thuận, tích cực tham gia của người dân thì xây dựng nông thôn mới mới thành công ᴠà bền vững. (Nguyên Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc dự lễ công nhận nông thôn mới) 90
II.Trấn Yên -Tiềm năng phát triển kinh tế Phát triển trồng tre Bát Độ lấy măng Đến năm 2020, tổng diện tích là 3.576,9 ha, tăng gần 2.554 ha so với năm 2008; trong đó diện tích trồng mới từ năm 2016-2020 là 1.500 ha; sản lượng măng vỏ tươi 74.000 tấn, tăng 65.500 tấn so với năm 2008; giá trị thu nhập gần 80 tỷ đồng.Dự kiến đến 2021 diện tích ổn định đạt 3.700 ha. 91
Phát triển vùng sản xuất quế Diện tích cây quế hiện có 16.186 ha, tăng trên 9.000 ha so với năm 2008; diện tích khai thác, trồng mới, trồng thay thế hàng năm đạt trên 1.000 ha; sản lượng vỏ quế khô năm 2020 là 3.800 tấn, tăng gần 3 lần so với năm 2008. 92
Sản xuất chè Diện tích chè chuyên canh 686 ha, sản lượng 7.352 tấn. Với giống chè Bát Tiên được chế biến, đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm; xây dựng chuỗi sản xuất chè Bát Tiên xã Bảo Hưng, chè Bát tiên xã Hưng Khánh, chè Bát Tiên xã Nga Quán thông qua các Hợp tác xã và làng nghề, sản phẩm chè Bát Tiên có nguồn gốc xuất xứ, xây dựng nhãn hiệu sản phẩm OCOP hiện đã có thương hiệu trên thị trường. 93
Phát triển trồng dâu nuôi tằm Diện tích trồng dâu 615,8 ha, tăng 515,8 ha so với năm 2008, tập trung thành vùng sản xuất chính ở các xã Tân Đồng, Báo Đáp, Đào Thịnh, Việt Thành, Hòa Cuông, Y Can, Quy Mông, Hồng Ca. Sản lượng kén tằm năm 2020 là 765,5 tấn; giá trị thu nhập trên 80 tỷ đồng. Đến năm 2021 dự kiến diện tích dâu là 815,8 ha, sản lượng kén tằm khoảng 800 tấn, giá trị khoảng 100 tỷ đồng. 94
III. Trấn Yên-Tiềm năng phát triển du lịch Đầm Vân Hội Đầm Vân Hội - Vân Hội – Trấn Yên, nơi có cảnh sắc thiên nhiên dễ mê đắm lòng người. Đầm Vân Hội - một “thiên đường” sinh thái, du lịch và được mệnh danh là \"Vịnh Hạ Long thu nhỏ“. 95
Thiên nhiên còn ban tặng cho Vân Hội một ngòi Lĩnh trong xanh, hùng vĩ hơn nhiều. Ngòi Lĩnh có hai thác nước là thác Ao Xanh ở chân núi và thác Vòi Rồng nơi ngọn nguồn. Cách trung tâm xã khoảng 3 km, du khách có thể nhàn nhã đến với Ao Xanh bằng mô tô, xe máy qua cánh đồng tỏa hương lúa mới. Ở đây có vùng nước rộng vài chục mét vuông, nước sâu nhưng trong tới đáy. Có lẽ vì vậy mà người ta gọi là Ao Xanh. Đến với Vân Hội là người ta đến với thác Quẽ, bởi nó rất gần trung tâm xã, chỉ chừng vài chục phút thả bộ. 96
Thác Bay (Kiên Thành) Từ trung tâm xã Kiên Thành (Trấn Yên) đi khoảng 3km về bản Đồng Ruộng, trước mắt du khách sẽ hiện ra dòng thác ào ào từ trên cao đổ xuống với những bọt nước trắng xóa. Vẻ đẹp tự nhiên nơi đây làm rung động hàng triệu con tim du khách. Được bắt nguồn từ các con suối trên các cánh rừng đầu nguồn từ bản Đồng Ruộng đổ về, thác có độ cao cột nước khoảng trên 30m. Nằm giữa hai vách núi đá cao thẳng đứng, thác Kiên Thành tựa như một bức tranh thủy mặc giữa núi rừng hoang sơ. 97
Hồ Chóp Dù (Cường Thịnh) Hồ Chóp Dù – Cường Thịnh là một địa điểm du lịch tại Huyện Trấn Yên. Cách trung tâm Tỉnh Yên Bái khoảng 6 km. Nước hồ ở đây trong xanh, phẳng lặng, soi bóng những vạt rừng. Núi non, cây rừng xanh biếc như tan trong tiếng suối róc rách, nhịp mõ gặm cỏ lốc cốc của đàn trâu ẩn hiện lẫn trong tiếng đàn chim nhảy nhót líu lo trong bản hòa tấu. Tất cả đã tạo nên vẻ đẹp lung linh, kỳ bí nhưng thật hữu tình và thân thiện với con người. 98
Cái tên Chóp Dù gắn với nhiều câu chuyện linh thiêng về những cây đa cổ thụ và Ao Vua huyền bí, gắn với những chiến công hiển hách của quân và dân Yên Bái trong lịch sử đấu tranh giữ nước. Theo các cụ cao niên trong xã kể lại, vào thời Pháp thuộc, lực lượng vũ trang Yên Bái đã bắn rơi máy bay của địch khi bọn chúng nhảy dù xuống, đồng thời cũng bắt sống được quân địch tại đỉnh núi này, từ đó người ta đặt tên cho núi là “Chóp Dù”. Đến năm 1978, do nhu cầu tưới tiêu tại địa phương, chính quyền đã cho xây dựng hồ nhân tạo, nước trong hồ được dẫn thẳng từ núi Chóp Dù xuống, chính vì thế người dân lấy tên núi đặt tên cho hồ. 99
Hồ Đầm Hậu (Minh Quân) Hồ Đầm Hậu ở xã Minh Quân, huyện Trấn Yên, Hồ Đầm Hậu còn được gọi là “Hồ 99 ngách”. Hồ Đầm Hậu quanh năm đầy nước, tới đây du khách có thể chèo thuyền khám phá những đảo lớn nhỏ, vào vùng trung tâm hồ hòa mình cùng với thiên nhiên và cảm nhận bầu không khí trong lành. 100
Search
Read the Text Version
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 7
- 8
- 9
- 10
- 11
- 12
- 13
- 14
- 15
- 16
- 17
- 18
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23
- 24
- 25
- 26
- 27
- 28
- 29
- 30
- 31
- 32
- 33
- 34
- 35
- 36
- 37
- 38
- 39
- 40
- 41
- 42
- 43
- 44
- 45
- 46
- 47
- 48
- 49
- 50
- 51
- 52
- 53
- 54
- 55
- 56
- 57
- 58
- 59
- 60
- 61
- 62
- 63
- 64
- 65
- 66
- 67
- 68
- 69
- 70
- 71
- 72
- 73
- 74
- 75
- 76
- 77
- 78
- 79
- 80
- 81
- 82
- 83
- 84
- 85
- 86
- 87
- 88
- 89
- 90
- 91
- 92
- 93
- 94
- 95
- 96
- 97
- 98
- 99
- 100
- 101
- 102
- 103
- 104