Important Announcement
PubHTML5 Scheduled Server Maintenance on (GMT) Sunday, June 26th, 2:00 am - 8:00 am.
PubHTML5 site will be inoperative during the times indicated!

Home Explore BINH THƯ YẾU LƯỢC

BINH THƯ YẾU LƯỢC

Published by SÁCH HAY - SƯU TẦM, 2023-03-31 12:52:56

Description: Truyện lịch sử

Search

Read the Text Version

MỤC LỤC Trang 5 Giới thiệu 22 Tiểu sử Trần Quốc Tuấn 28 Tiểu sử Đào Duy Từ 31 Thuyết minh về bản dịch BINH THƢ YẾU LƢỢC QUYỂN I: I. Thiên tƣợng 38 II. Kén mộ 42 III. Chọn tƣớng 43 IV. Đạo làm tƣớng 51 V. Kén luyện 82 VI. Quân lễ (Phụ : Thƣởng phạt) 95 VII. Tuyển ngƣời làm việc dƣới trƣớng 98 VIII. Đồ dùng của binh 101 IX. Hiệu lệnh 114 QUYỂN II: I.Hành quân 122 II. Hƣớng đạo 145 III. Đồn trú 147

IV. Tuần canh 180 V. Quân tƣ 184 VI. Hình thế 188 VII. Phòng bị 196 VIII. Điểm về việc binh 202 IX. Phép dùng gián điệp 203 X. Dùng cách lừa dối 208 QUYỂN III I. Liệu thế giặc 212 II.Quyết chiến 248 III. Đặt kỳ 270 IV. Dã chiến 285 V. Sơn chiến 289 VI. Thủy chiến 296 VII. Lâm chiến 331 QUYỂN IV I. Đánh thành 334 II. Giữ thành 371 III. Xông vây 428 IV. Ứng cứu 430 V. Lui đánh 432 VI. Thắng và đặt phục 433 VII. Phép nhận hàng 435 Tựa HỔ TRƢỚNG KHU CƠ 443 QUYỂN I 448 Tập thiên 448 Tổng luận về cơ yếu binh pháp

QUYỂN II: Thiên hoả công 450 QUYỂN III: Thiên thuỷ chiến 462 Thiên bộ chiến 475 Thiên giữ trại 490 Lời tổng bình về Tập Thiên 500 Tập địa 503 Yếu chỉ bàn về trận 503 Các phép trận 506 Yếu luận về giáo trƣờng diễn trận 546 Yếu pháp phá trận 550 Tổng binh về Tập Địa 551 Tập nhân 553 Yếu chỉ về tƣớng 553 Phép chọn tƣớng luyện binh 558 Yếu luận về quân cơ 564 Phép dạy quân đánh giặc 565 Phép giữ thành chống giặc 571 Yếu luận về địa thế 573

BINH THƯ YẾU LƯỢC BINH THƢ YẾU LƢỢC HỔ TRƢỚNG KHU CƠ (Tái Bản) Người dịch : NGUYỄN NGỌC TỈNH Hiệu đính : ĐỖ MỘNG KHƢƠNG GS. ĐÀO DUY ANH NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN

LỜI GIỚI THIỆU Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Trần Quốc Tuấn có soạn một bộ sách quân sự là Binh gia diệu lý yếu lược(1) để giáo dục các tƣớng sĩ phép dùng binh. Lịch triều hiến chương loại chí (phần Văn tịch chí) cho biết Trần Quốc Tuấn đã soạn sách Binh gia yếu lược và sách Vạn kiếp binh thư(2). Nhiều ngƣời cho rằng Binh gia diệu lý yếu lược hay Binh gia yếu lƣợc chỉ là một, cũng nhƣ Vạn kiếp tôn bí truyền thư hay Vạn kiếp binh thư chỉ là một, Nhiều ngƣời lại cho rằng Binh gia yếu lược và Binh thư yếu lược cũng chỉ là một. Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí cho biết Binh gia yếu lược và Vạn kiếp binh thư đã thất lạc từ lâu. Ở Thƣ viện Khoa Học Xã Hội hiện nay có một bộ sách chữ Hán chép tay mang ký hiệu 476 đề là Binh ----------------------------------- (1) Đại Việt sử ký toàn thƣ, t.II, tr. 82, bản dịch của Viện Sử học, Nhà xuất bản Khoa học xã hội (2) Lịch triều hiến chƣơng loại chí, t. IV (Văn tịch chí), tr 120, Nhà xuất bản Sử học 5

thư yếu lược. Trang đầu bộ sách này ghi rõ rằng: “Binh thư yếu lược bốn quyển do Trần Hƣng Đạo vƣơng soạn, vƣơng húy là Quốc Tuấn. Binh thư yếu lược mang ký hiệu 476 gồm bốn quyển. Quyển I gồm có chín chƣơng là: 1. Thiên tƣợng, 2. Tuyển mộ, 3. Tuyển tƣớng, 4. Tƣớng đạo, 5. Giản luyện, 6. Quân lễ, 7. Mạc hạ, 8. Binh cụ, 9. Hiệu lệnh. Quyển II có mƣời một chƣơng là: 1. Hành quân, 2.Hƣớng đạo, 3. Đồn trú, 4. Tuần canh, 5. Quân tƣ, 6.Hình thế, 7. Phòng bị, 8. Xem mƣa gió, 9. Bình trƣng, 10. Dụng gián, 11. Dụng trá. Quyển III có bảy chƣơng là: 1. Liệu dịch, 2. Dã chiến, 3. Quyết chiến, 4. Thiết kỳ, 5. Lâm chiến, 6. Sơn chiến, 7. Thuỷ chiến, Quyển IV cũng có bảy chƣơng là: 1. Công thành, 2. Thủ thành, 3. Đột vây, 4. Cứu ứng, 5. Lui tránh, 6. Đƣợc, thua, 7. Đầu hàng. Trong Binh thư yếu lược thì quyển II, quyển III và quyển IV có nhiều đoạn rút ra từ Hổ trướng khu cơ của Dào Duy Từ(1), một nho sĩ có tài kinh bang tế thế đã giúp chúa Nguyễn Phúc Nguyên (chúa Phật) xây dựng cơ đồ hồi nửa đầu thế ký XVIII ở Đƣờng trong. Những doạn này, có đoạn ghi rõ là đã rút ra từ Hổ trướng khu cơ, có nhiều đoạn tuy lấy từ Hổ trướng khu cơ, song lại -------------------------- (1) Có thuyết cho Hổ trướng khu cơ do Cao Khuê, môn đệ của Đào Duy Từ, căn cứ vào những điều Đào Duy Từ truyền thụ cho mà soạn ra 6

không có chú thích gì cả. Ở quyến IV (Binh thư yếu lược) có mục ‚Phép làm hỏa tiễn chứa thuốc độc‛; ở Hổ trướng khu cơ cũng có mục ‚Phép làm hỏa tiễn chứa thuốc độc\". Nguyên văn chữ Hán ở Binh thư yếu lược cũng nhu Hổ trƣớng khu cơ đều là ‚Hoả tiễn trữ độc pháp‛. Liều lƣợng các vị thuốc dùng để chế hỏa tiễn ở Binh thư yếu lược và ở Hổ trướng khu cơ giống hệt nhau. Mở đầu mục ‚Phép làm hỏa tiễn chứa thuốc độc‛ trong Binh thư yếu lược, có đoạn văn nhƣ sau: ‚Phàm ít không địch đƣợc nhiều, yếu không địch đƣợc mạnh, đó là lẽ thƣờng. Nhƣng Binh pháp có nói: Ngƣời giỏi đánh làm thế địch không thể thắng để đợi thế địch mà mình có thế thắng. Cho nên cầm quân ba nghìn chống giặc năm đƣờng, phỏng ở đồng ruộng đƣờng dài, giặc đem cả nƣớc sang đánh, thì lấy cái gì mà chống đƣợc? Nên dùng phép ‚hỏa tiễn chứa thuốc độc‛. Đoạn văn này ở Hổ trướng khu cơ lại nhắc lại nguyên văn nhƣ thế, không sai và không thiếu một chữ nào. Trong Binh thư yếu lược có mục ‚Phép làm súng gỗ‛, trong Hổ trướng khu cơ cũng có mục ‚Phép làm súng gỗ‛. Trong Binh thư yếu lược có mục ‚Phép đốt đuốc trƣớc gió‛, trong Hổ trướng khu cơ cũng có mục ‚Phép đốt đuốc trƣớc gió‛, lời văn hai bên giống hệt nhƣ nhau. Về ‚Bí pháp làm quả nổ‛, ‚Bí pháp làm quả mù‛, ‚Phép chế hỏa đồng‛, ‚Phép chế hỏa tiễn‛ (tên lửa), Binh thư yếu lược và Hổ trướng khu cơ cũng rất giống 7

nhau. Nếu kể hết những đoạn, những mục giống nhau ở Binh thư yếu lược và Hổ trướng khu cơ thì nhiều lắm. Chúng tôi chỉ đƣa ra một số điểm giống nhau giữa hai bộ sách để các bạn thấy rằng giữa hai bộ sách có nhiều vấn để cần giải quyết. Binh thư yếu lược là sách đƣợc soạn ra từ thế kỷ XIII, còn Hổ trướng khu cơ đƣợc viết ra hồi nửa đầu thế kỷ XVII. Thời gian ra đời của hai bộ sách có một khoảng cách đến bốn trăm năm. Tại sao hai bộ sách có những đoạn, những mục giống nhau nhƣ lột ? Hổ trướng khu cơ đã lấy nhiều đoạn, nhiều mục trong Binh thư yếu lược hay ngƣợc lại? Nếu chỉ căn cứ vào yếu tố thời gian thì chúng ta còn thể suy luận rằng khi viết Hổ trướng khu cơ, Đào Duy Từ đã rút ra nhiều tài liệu từ Binh thư yếu lược của Trần Quốc Tuấn . Nhƣng nếu căn cứ vào nội dung các đoạn, các mục vừa có ở Binh thư yếu lược vừa có ở Hổ trướng khu cơ , thì chúng ta phải kết luận rằng chính Binh thư yếu lược đã lấy nhiều đoạn, nhiều mục của Hổ trướng khu cơ . Tại sao lại nhƣ vậy? Mục ‚Phép chế quả nổ’‛ trong Binh thư yếu lược cũng nhƣ trong Hổ trướng khu cơ đều nói phép làm quả nổ là của ngƣời phƣơng Tây. Hồi thế kỷ XVI và thế kỷ XVII theo chân các thƣơng nhân phƣơng Tây, phép làm quả nổ đƣợc đem vào Việt Nam, cụ thể là đem vào Đƣờng trong trƣớc. Hồi thế kỷ XIII, trong hai lần chỉ huy cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ, chƣa 8

bao giờ Trần Quốc Tuấn dùng quả nổ đánh quân xâm lƣợc. Hồi thế kỷ XIII, chúng ta cũng chƣa từng thấy quân đội nhà Trần sử dụng tên lửa (hoả tiễn) hay tên lửa chứa thuốc độc; trong các trận đánh, chúng ta chỉ thấy quân đội nhà Trần dùng tên tẩm thuốc độc bắn quân Mông Cổ mà thôi. Nhƣ vậy rõ ràng là mục ‚Phép chế quả nổ\", mục ‚Phép làm hỏa tiễn chứa thuốc dộc‛ cũng nhƣ ở nhiều mục, nhiều đoạn khác, đã đƣợc một nhân vật nào đó sống sau Đào Duy Từ rút ra từ Hổ trướng khu cơ của Đào Duy Từ rồi đƣa vào Binh thư yếu lưực . Đọc Binh thư yếu lược, chúng ta thấy nhiều đoạn không phải là của Trần Quốc Tuấn viết ra từ thế kỷ XIII. Quyển I chƣơng ‚Tuyển mộ‛, mục ‚Trao quyền cho tƣớng‛, viết: ‚Các triều Đƣờng, Tống, Minh bị thua cũng vì cớ đó, mà nhà Tống quá tệ, nhà Mình lại tệ hơn. Ngƣời bàn về việc nhà Tống thì cho rằng bàn bạc nhiều mà thành công ít; ngƣời bàn về việc nhà Minh thì cho rằng nhà Minh mất nƣớc, không mất ở giặc cƣớp, mà mất ở ngay từ trong cổng ngõ, không mất ở bờ cõi, mà mất ngay từ lời can của đài quan‛. Nếu chỉ đọc đoạn trên, chúng ta có thể nghĩ rằng bộ Binh thư yếu lược còn lại cho chúng ta ngày nay đã đƣợc một ngƣời Việt Nam nào đó hồi thế kỷ XVII hay thế kỷ XVIII sửa chữa, bổ sung hay viết lại. Chúng ta cũng nghĩ nhƣ thế khi chúng ta đọc đoạn này của Binh thư yếu lược : ‚Xƣa kia 9

đời vua Thành tổ nhà Minh đánh Mán Miến Điện đem ba mƣơi vạn quân, hơn một trăm voi đến cƣớp Định Viễn. Vua Minh sai Mộc Thạch và Anh Mã Thành đi đánh, bắt đƣợc voi đem về‛. Nhƣng đến những câu sau đây, thì chúng ta lại nghĩ rằng Binh thư yếu lược đã đƣợc bổ sung hay viết lại hồi đầu thế kỷ XIX tức thời Nguyên sơ: Năm Kỷ Dậu ngƣời Thanh sai Tổng đốc Lƣỡng Quảng sang nƣớc ta đánh giặc để khôi phục thành nhà Lê. Quân Ngụy Tây bày voi xông trƣớc. Ngƣời Thanh làm cản gỗ chống ngựa(1) để cản lại, đào hố để sập voi. Chƣớc đó rất mầu, song lại thất thủ, vì trong cái mầu có cái chƣa mầu‛. Những câu sau dây cũng làm cho chúng ta nghĩ nhƣ thế: ‚Nhƣ xƣa, Tây Sơn Nguyễn Huệ chống nhau với Thạc quân công ở bến Thuý Ái, ra quân theo đƣờng tắt mà vào kinh thành nhà Lê. Chúa Trịnh vừa về miền Tây, thì trong phủ đã dựng cờ Tây Sơn rồi. Năm Kỷ Dậu ngày mồng 5 tháng giêng, Nguyễn Huệ chia quân làm ba đạo cùng với quân Bắc tiếp chiến, mà thủy binh tiến đậu ở sông Nhị Hà, đó là mƣu chẹt đƣờng về của quân Bắc‛. Những tài liệu kể trên cho phép chúng ta bƣớc đầu kết luận rằng: Binh thư yếu lược của Trần Quốc Tuấn đến đầu thế kỷ XIX đã đƣợc một nho sĩ am hiểu (1) Một thứ chƣớng ngại vật chữ Hán là mộc mã, dùng để cản đƣờng tiến của voi, ngựa. 10

quân sự, yêu khoa học quân sự, sửa chữa và bổ sung nhiều. Nho sĩ ấy đã đọc nhiều binh thƣ của Trung Quốc, đã đọc Hổ trướng khu cơ của Đào Duy Từ, rồi trên cơ sở các tri thức về quân sự của mình, nho sĩ ấy dã sửa chữa và bổ sung Binh thư yếu lược của Trần Quốc Tuấn. Vì vậy Binh thư yếu lược là sách do Trần Quốc Tuấn làm ra từ thế kỷ XIII, mà lại có những đoạn nói về cuộc xâm lƣợc của quân Minh đối với Miến Điện, có đoạn nói về cuộc đấu tranh võ trang chống quân Thanh xâm lƣợc do vua Quang Trung lãnh đạo, lại có đoạn nói về những việc xảy ra ở đời Tự Đức. Kết luận nhƣ vậy, tất có ngƣời nói: Thế thì tại sao khi soạn Lịch triều hiến chương loại chí hồi thế kỷ XIX, Phan Huy Chú lại nói rằng Binh thư yếu lược của Trần Quốc Tuấn không còn nữa? Chúng ta đều biết rằng thời Phan Huy Chú biên soạn Lịch triều hiến chương loại chí là thời nƣớc Việt Nam mới tạm thời ổn định một phần nào(1), sau một thời loạn lạc kéo dài. Rất có thế ở dƣới tay Phan Huy Chú, Binh thư yếu lược không còn nữa. nhƣng ở một nơi nào đó, cụ thể là ở một tủ sách của gia đình một nho sĩ nào đó, Binh thư yếu lược của Trần Quốc Tuấn có thế vẫn còn hoặc là toàn bộ hoặc là một phần. Tình hình này có thể có đƣợc ở một số nƣớc (1) Chúng tôi nói ‚tạm thời ổn định một phần nào‛ vì suốt thời gian, từ Gia Long, qua Minh Mạng, Thiệu Trị đến Tự Đức, nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân đã nổ ra. 11

mà đƣờng giao thông liên lạc khó khăn nhƣ nƣớc Việt Nam hồi đầu thế kv XIX. Nho sĩ yêu Binh thư yếu lược của Trần Quốc Tuấn, đã dem bộ sách này sửa chữa và bổ sung trên cơ sở những tri thức về khoa học quân sự của ông. Do đó, Binh thư yếu lược tuy mang tên Trần Quốc Tuấn, vị danh tƣớng sống vào hồi thế kỷ XIII, mà lại có cả các đoạn trong Hổ trướng khu cơ của Đào Duy Từ, và các cuộc chiến tranh xảy ra hồi thế kỷ XV, thế kỷ XVI, thế kỷ XVII, thế kỷ XVIII. Đến đây, một vấn để cần đƣợc đặt ra và giải quyết: Trong bộ Binh thư yếu lược mà hiện nay chúng ta có, chỗ nào là của Trần Quốc Tuấn, chỗ nào không phải là của Trần Quốc Tuấn ? Đọc Binh thư yếu lược chúng tôi thấy có chỗ đã gọi rõ rằng đã lấy từ Hổ trướng khu cơ; có chỗ tuy không ghi là lấy từ Hổ trướng khu cơ, nhƣng đọc Hổ trướng khu cơ , chúng ta thấy chỗ ấy có trong tác phẩm của Đào Duy Từ. Những chỗ nhƣ thế dứt khoát không phải là của Trần Quốc Tuấn. Cũng không phải là của Trần Quốc Tuấn những đoạn chép về các sự kiện xảy ra về các đời Minh, đời Thanh, hay đời Tây Sơn. Nhƣ vậy không có nghĩa là những đoạn khác trong Binh thư yếu lược là của Trần Quốc Tuấn cả. Chúng tôi cho rằng có thể là của Trần Quốc Tuấn trƣớc hết những đoạn rút ra từ phép dùng binh của Tôn Vũ và Ngô Khởi. Cũng là của Trần Quốc Tuấn những đoạn mà tƣ tƣởng phù hợp với tƣ tƣởng của ông đã trình bày 12

trong Hịch tướng sĩ hay với lời của ông nói với vua Trần Anh Tôn khi nhà vua đến thăm ông ở nhà riêng tại Vạn Kiếp hồi tháng Tám năm Kỵ Hợi (1300). Chúng ta đều biết rằng tháng Tám năm Kỷ Hợi, Trần Quốc Tuấn bị bệnh nặng, vua Trần Anh Tôn thân chinh đến nhà riêng của ông để thăm ông và hỏi ông về kế sách giữ nƣớc. Trần Quốc Tuấn có nói với vua Anh Tôn nhƣ sau: ‚Đại khái quân giặc cậy vào trƣờng trận, quân ta cậy vào đoản binh, đem đoản binh đánh lại trƣờng trận là việc thƣờng trong binh pháp. Nhƣng cần phải xét: Nếu thấy quân giặc tràn sang nhƣ gió nhƣ lửa, thì thế giặc có thể dễ dàng chống cự đƣợc; nếu giặc dùng cách chiếm cứ dần, nhƣ tằm ăn dâu, không vơ vét của dân, không mong đánh đƣợc ngay, thì mình phải dùng tƣớng giỏi, phải xem xét tình thế biến chuyển nhƣ ngƣời đánh cờ tùy thời cơ mà ứng biến cho đúng, làm thế nào thu hút đƣợc quân lính nhƣ cha con một nhà mới có thể dùng để chiến thắng đƣợc. Và phải khoan dùng sức dân để làm cái kế sâu rễ bền gốc, đó là thƣợng sách giữ nƣớc không còn gì hơn‛. Phải ‚thu hút đƣợc quân lính nhƣ cha con một nhà‛, ‚phải khoan dùng sức dân để làm cái kế sâu rễ bền gốc‛, những tƣ tƣởng đó hoàn toàn phù hợp với những tƣ tƣởng sau đây của Binh thư yếu lược: ‚Dùng trí để phục thiên hạ, mà thiên hạ phải phục trí, nhƣng trí vẫn không thắng; dùng pháp (luật) để chế thiên hạ, mà thiên hạ phải theo 13

pháp (luật), nhƣng pháp (luật) cũng không thần. Vậy trí với pháp (luật) không phải là cái hay ở trong cái hay vậy. Bậc thánh võ trị đời, đánh ở chỗ không có thành, công ở chỗ không có luỹ, chiến ở chỗ không có trận. Nhẹ nhàng nhƣ mƣa rơi ở trên không, dựng nên cuộc đời vô sự‛. ‚Hoà mục có công hiệu rất lớn cho cuộc trị an. Hòa ở trong nƣớc thì ít dụng binh; hòa ở ngoài biên thì không sự có báo động; bất đắc dĩ mới phải phạt kẻ làm xằng. Vua tôi hòa mục thì dùng đƣợc ngƣời tài; các tƣớng văn tƣớng võ hòa mục thì làm nên công nghiệp. Tƣớng sĩ hòa mục khi đƣợc ban thƣởng sẽ nhƣờng nhịn nhau, nguy nan sẽ cứu nhau. Đó, hoà mục là một đạo rất hay cho việc trị nƣớc, hành binh, không bao giờ đổi đƣợc‛. Những ý kiến trên dây của Trần Quốc Tuấn biểu thị rằng ông không những là một nhà quân sự lớn, mà còn là một nhà chính trị lớn. Đó là nhà kinh bang tế thế vậy. Khi vạch ra những nguyên tắc hành động của viên tƣớng tổng chỉ huy, Trần Quốc Tuấn xuất phát từ tƣ tƣởng nhân nghĩa. Nhân nghĩa là mục đích của đời ngƣời cũng tức là mục đích của viên tƣớng, viên tƣớng phải dấu tranh cho chính nghĩa, đấu tranh vì lợi ích của nhân dân: ‚Khí lƣợng của tƣớng lớn nhỏ khác nhau Tƣớng mà che điều gian, giấu điều hoạ, không nghĩ đến sự quần chúng oán ghét, tƣớng ấy chỉ huy mƣời ngƣời. Tƣớng mà sớm dậy khuya nằm, lời lẽ kín đáo, tƣớng ấy 14

chỉ huy đƣợc trăm ngƣời. Tƣớng thẳng mà biết lo, mạnh mà giỏi đánh đó là tƣớng chỉ huy đƣợc nghìn ngƣời. Tƣớng mà ngoài mặt hăm hở, trong lòng ân cần, biết ngƣời khó nhọc, thƣơng kẻ đói rét, đó là tƣớng chỉ huy dƣợc vạn ngƣời. Tƣớng mà gần ngƣời hiền, tiến ngƣơi tài, ngày thƣờng cẩn thận, thành thực rộng rãi, giỏi việc dẹp loạn, đó là tƣớng chỉ huy đƣợc mƣời vạn ngƣời. Tƣớng mà dùng nhân ái đối với kẻ dƣới, lấy tín nghĩa để phục nƣớc láng giềng, trên biết thiên văn, dƣới biết địa lý, giữa biết việc ngƣời, coi bốn biển nhƣ một nhà, đó là tƣớng chỉ huy đƣợc cả thiên hạ không ai địch nổi‛, ở đây, tác giả Binh thư yếu lược đã vƣợt hẳn khuôn khổ một viên tƣớng tổng chỉ huy, mà trở thành một nhân vật có tài kinh bang tế thế, ở triều đình thì là tƣớng văn, ở ngoài mặt trận là tƣớng võ kiểu nhƣ Gia Cát Lƣợng vậy. Giai cấp đại quý tộc đời Trần thƣờng biết đoàn kết với nhau. Ở những phƣơng diện nhất định, lợi ích của giai cấp đại quí tộc nhất trí với lợi ích của nhân dân. Vua và các vƣơng hầu đều chú ý đến nông nghiệp, công nghiệp, sản xuất nông nghiệp, công nghiệp nhờ vậy mà phát triển. Tình hình trên cũng thấy phản ánh trong Binh thư yếu lược: ‚Thƣơng ngƣời, dốc chí làm việc thì đƣợc sự yêu mến. Nghe lời nói phải, xa kẻ gièm pha, thì ngƣời xa đến với mình. Đo tính trƣớc sau rồi mới làm, đó là đề phòng khi có biến cố. Có tội phải răn, 15

có công phải thƣởng mới có thể uốn nắn đƣợc ngƣời. Thông việc trƣớc, suốt việc sau mới có thể giáo dục đƣợc quần chúng. Rẻ sắc đẹp, trọng con ngƣời mới đƣợc lòng dân. Bỏ lợi tƣ theo lợi chung mới giữ đƣợc nƣớc\", ‚Thanh liêm của cải, tiết kiệm tiêu dùng, ít say về rƣợu, giữ mình theo lễ, thờ bề trên cho trung, có việc lo chung với quân chúng, lấy của địch mà không tích trữ (cho mình), bắt phụ nữ địch mà không lƣu dùng (cho mình)‛. Trần Quốc Tuấn thƣờng yêu tƣớng sĩ, luôn luôn săn sóc đến đời sống của tƣớng sĩ. Trong Hịch tướng sĩ, ông tuyên bố: ‚Các ngƣơi ở cùng ta coi giữ binh quyền cũng đã lâu ngày, không có áo thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho ăn, quan còn nhỏ thì ta thăng thƣởng, lƣơng ít thì ta tăng, đi thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa, lúc hoạn nạn thì cùng nhau sống chết, lúc nhàn hạ thì cùng nhau vui cƣời‛. Tinh thần đồng cam cộng khổ này của Trần Quổc Tuấn cũng thấy biểu hiện trong Binh gia yếu lược: ‚Trong quân có ngƣời ốm, tƣớng phải thân hình đem thuốc đến chữa, trong quân có ngƣời chết, tƣớng phải thƣơng xót, đau buồn, quân đi thú xa, thì (tƣớng) phải sai vợ con đến thăm hỏi. Phàm có khao thƣởng thì phải chia đều có quan và quân. Khi có cất đặt chức vị gì, thì phải họp cả tƣớng tá lại để bàn. Mƣu đã định rồi mới đánh giặc; cho nên tƣớng với quân có 16

cái ơn hòa rƣợu và hút máu‛(1). Trần Quốc Tuấn hiểu rõ rằng không tranh thủ đƣợc sự đồng tình của các tƣớng sĩ, thì không thể động viên các tƣớng sĩ đánh giặc đƣợc. Nhƣ chúng ta đều biết, Yết Kiêu, Dã Tƣợng là gia nô của Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngũ Lão là gia khách của ông. Yết Kiêu, Dã Tƣợng, cũng nhƣ Phạm Ngũ Lão đều hăng hái chiến đấu chống quân Mông Cổ và đều lập đƣợc nhiều chiến công quan trọng. Họ đã vì Trần Quốc Tuấn mà quên mình chiến đấu. Yết Kiêu, Dã Tƣợng và Phạm Ngũ Lão sở dĩ gắng sức ở nơi trận mạc, một phần là vì họ yêu nƣớc, nhƣng một phần khác cũng vì họ đƣợc Quốc Tuấn đãi ngộ nhƣ cha với con. Việc quan tâm đến đời sống của các tƣớng sĩ cũng thấy biểu hiện trong Binh thư yếu lược: ‚Cho nên quân sĩ có cái vui mổ trâu, nấu rƣợu, cái khí thế ném đá vƣợt rào, họ yêu mến tƣớng nhƣ con em yêu mến cha anh, nhƣ chân tay giữ gìn đầu mắt, không ai có thế ngăn nổi họ. Nếu đối xử khắt khe làm cho họ đau khổ, bắt họ làm những công việc quá (1) Sách Hoàng Thạch Công chép rằng'. Có một vị tƣớng tài có một vò rƣợu ngon do một ngƣời đến biếu, ông đem vò rƣợu ấy đổ xuống sông hòa với nƣớc, rồi cho tƣớng sĩ đến dòng nƣớc mà uống. Ba quân đều đƣợc uống rƣợu, vì vậy ai nấy đều gắng sức chiến đấu. Ngô Khởi nổi tiếng là ngƣời giỏi dùng binh. Có ngƣời lính có cái nhọt đang nung mủ, Ngô Khởi ghé mồm vào nhọt mà hút máu mủ. Ngƣời lính cảm động, càng ra sức chiến đấu (Binh thƣ yếu lƣợc)(1) 17

nặng nhọc thì tiếng oán thù không sao cho hết. Tƣớng mà coi quân sĩ nhƣ cỏ rác. thì quân sĩ coi tƣớng nhƣ cừu thù. Mong cho họ sung vào hàng ngũ cũng còn khó, còn mong gì họ gắng sức đánh giặc nữa. Đó là cái chƣớc lớn của tƣớng soái để vỗ về quân sĩ vậy‛. Căn cứ vào Tôn Vũ và Ngô Khởi, Binh thư yếu lược vạch ra cái đạo của ngƣời làm tƣớng, đạo này có tám điều phải tránh là: 1. Lòng tham không đáy, 2. Giết ngƣời hiền ghen ngƣời tài. 3. Tin lời gièm ƣa nịnh, 4. Biết ngƣời mà không biết mình,5. Do dự không quả quyết, 6. Hoang dâm tửu sắc, 7. Dối trá và lòng thì nhát sợ, 8. Nói bậy mà không giữ lễ độ. Những ý kiến trên cũng có thế là của Trần Quốc Tuấn. Tại sao chúng ta có thể biết nhƣ vậy đƣợc? Trong Hịch tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn viết rằng: ‚Nay ta đọc hết các sách binh pháp của các danh gia và soạn thành một quyển gọi là Binh thư yếu lược. Nếu các ngƣơi chuyên tập sách này theo lời dạy bảo thì mới phải đạo thần tử. Nhƣợc bằng khinh bỏ sách này, trái lời dạy bảo, thì tức là kẻ thù nghịch‛. Các sách binh pháp của các danh gia là những sách nào? Các danh gia ấy là những ai? Đọc Binh thư yếu lược , chúng ta thấy những sách ấy chủ yếu là Vũ kinh hay Vũ thư của Trung Quốc trong đó có sách Tôn Tử hay Tôn Tử binh pháp hay Binh pháp của Tôn Vũ đời Xuân Thu. Còn các danh gia nói đây chủ yếu là Tôn Vũ và Ngô Khởi, hai nhà 18

quân sự đại tài thời Xuân Thu Chiến Quốc. Chúng ta có thể nói tƣ tuởng quân sự trong Binh thư yếu lược chủ yếu là tƣ tƣởng của Tôn Vũ và Ngô Khởi mà Trần Quốc Tuấn muốn đem vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh Việt Nam hồi thế kỷ XIII. Xét nhƣ vậy, chúng ta sẽ thấy rằng những đoạn trích dẫn và bình luận ý kiến của Tôn Vũ và Ngô Khởi trong Binh thư yếu lược của Trần Quốc Tuấn một nhà chính trị kiêm quân sự thiên tài đã sở đắc rất nhiều ở binh pháp Tôn Ngô và đã đem những điều sở đắc của mình giáo dục cho các tƣớng sĩ ở dƣới quyền tiết chế của ông. Giả thuyết trên sẽ có giá trị, nếu có ngày chúng ta chứng minh đƣợc rằng ý kiến của Phan Huy Chú, tác giả Lịch triều Hiến chương loại chí là không đúng sự thật. Trong trƣờng hợp Binh thư yếu lược cũng tức Binh gia diệu lý yếu lược của Trần Quốc Tuấn quả thật không còn nữa nhƣ Phan Huy Chú đã nói trong Lịch triều hiến chương loại chí, thì quyển Binh thư yếu lược mang ký hiệu 476 của Thƣ viện khoa học xã hội sẽ là sách thế nào? Quyển Binh thư yếu lược này, chúng tôi nghĩ rằng có lẽ do một nho sĩ am hiểu khoa học quân sự, nắm đƣợc nhiều tri thức quân sự của Việt Nam và của Trung Quốc soạn ra. Theo cái phong thái thác cổ vẫn lƣu hành ở Việt Nam và Trung Quốc xƣa, nho sĩ ấy đã mƣợn tên sách của Trần Quốc Tuấn đặt cho tên sách 19

của mình nhằm tăng thêm uy tín của tác phẩm của mình đối với ngƣời đọc. Cũng có thể đầu tiên sách chỉ mang tên Binh thư yếu lược thôi, nhƣng sau đó một ngƣời nào đó lại thêm mấy chữ “Binh thư yếu lược bốn quyển do Trần Hƣng Đạo vƣơng soạn, vƣơng huý là Quốc Tuấn‛. Chúng tôi sở dĩ viết nhƣ thế là vì trong Lịch triều hiến chương loại chí không có sách nào của Trần Quốc Tuấn gọi là Binh thư yếu lược , mà chỉ cỏ sách Binh gia diệu lý yếu lược hay Binh gia yếu lược(1) mà thôi. Có thể một nho sĩ nào đó đã viết một quyển sách quân sự rồi đặt cho tên sách của mình cái tên gần giống tên sách của Trần Quốc Tuấn, rồi ngƣời sau đó, sau khi đã sửa chữa và bổ sung Binh thư yếu lược, mới thêm mấy chữ ‚Binh thư yếu lược bốn quyến do Trần Hƣng Đạo vƣơng soạn, vƣơng huý là Quốc Tuấn‛ nhƣ chúng tôi đã nói ở trên... Tất cả đều là giả thuyết, ức thuyết. Chƣa thể có kết luận khẳng định dứt khoát ai là tác giả thật sự bộ Binh thư yếu lược mang ký hiệu 476 của Thƣ viện khoa học xã hội. Nhƣng dù thế nào đi nữa, bộ Binh thư yểu lược vẫn là bộ sách quân sự quí của chúng ta. Tác phẩm quân sự, chúng ta có rất ít. Cho đến nay, có lẽ chúng ta (1) Trong Lịch triều hiến chương loại chí, phần Nhân vật chí nói sách của Trần Quốc Tuấn là Binh gia diệu lý yếu lƣợc nhƣng phần Văn tịch chí lại nói sách của Quốc Tuấn là Binh gia yếu lược. 20

mới có hai tác phẩm là Binh thư yếu lược và Hổ trướng khu cơ, Hổ trướng khu cơ là tác phẩm nặng về mặt thực hành hơn là mặt lý luận quân sự. Duy có Binh thư yếu lược vừa chú ý đến mặt lý luận vừa chú ý đến mặt thực hành, do đó, nó có thể là bộ sách quân sự đầu tiên của dân tộc Việt Nam đã tổng kết đƣợc các kinh nghiệm quân sự của Việt Nam từ xƣa cho đến thời Nguyễn sơ. Chúng ta có nhiều truyền thống ƣu tú của dân tộc, trong các truyền thống ƣu tú ấy, thì truyền thống đấu tranh quân sự của dân tộc chúng ta đáng đƣợc đặc biệt chú ý. Truyền thống đấu tranh quân sự của dân tộc Việt Nam dƣới thời phong kiến cụ thể nhƣ thế nào? Chúng tôi có thể nói truyền thông đó một phần quan trọng đã đƣợc đúc kết trong Binh thư yếu lược và Hổ trướng khu cơ. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc GS: VĂN TÂN 21

TIỂU SỬ TRẦN QUỐC TUẤN Trần Quốc Tuấn là con An-Sinh vương Trần Liễu và là cháu gọi vua Trần Thái Tôn bằng chú ruột, ông sinh vào khoảng năm 1226, 1227, 1228 hoặc 1229 gì đó, nguyên quán ông ở làng Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Khi quân Mông Cổ sang xâm lược nước ta lần thứ nhất (1257), ông tham gia cuộc kháng chiến. Năm 1283 khi quân Mông Cổ sắp sửa mở cuộc xâm lược lần thứ hai vào nước Đại Việt, Trần Quốc Tuấn được cử làm Quốc công Tiết chế toàn bộ quân đội của nhà Trần. Đầu năm 1285, năm mươi vạn quân Mông Cổ do Thoát Hoan chỉ huy từ biên giới tỉnh Quảng Tây đánh vào nước Đại Việt, trong khi ấy mười vạn quân Mông Cổ khác do Toa-Đô chỉ huy từ Chiêm Thành tiến ra Bắc. Thế giặc quá mạnh, triều đình phải bỏ Thăng Long, rút vào Thanh Hóa. Ở những nơi quân giặc chiếm đóng, nhân dân làm vườn không nhà trống. Tức giận, quân giặc đi đến đâu cướp phá và giết chóc nhân dân đến đấy. Vua Trần Nhân Tôn lo sợ, hỏi Trần Quốc Tuấn : “Hay ta tạm hàng để cứu muôn dân?” Quốc Tuấn khảng 22

khái trả lời: “Nếu bệ hạ muốn hàng, trước hết hãy chém đầu thần đi đã'’ Để giáo dục cho các tướng sĩ phép dùng binh đánh giặc giữ nước, Trần Quốc Tuấn đã căn cứ vào các sách binh pháp của Tôn Vũ và Ngô Khởi mà soạn ra sách Binh gia diệu lý yếu lược hay Binh thư yếu lược. Ông lại viết Hịch tướng sĩ để khích lệ lòng yêu nước và chí căm thù của các tướng sĩ đối với quân xâm lược. Do chiến lược, chiến thuật đúng đắn của Trần Quốc Tuấn, do tinh thần quyết chiến của quân đội, đầu Tháng Năm năm Ất Dậu (1285), quân đội nhà Trần đánh bại quân của Toa Đô ở cửa Hàm Tử làm cho Toa Đô phải đem tàn quân chạy về cửa biển Thiên Trường. Ngay sau đó, Trần Quốc Tuấn lại nhanh chóng tập trung quân đội, bất ngờ đánh vào căn cứ giặc ở Chương Dương, và đã tiêu diệt hầu hết các quân Mông Cổ đóng ở đấy. Thoát Hoan thấy Chương Dương bị đánh, vội cho quân từ Thăng Long đến cứu viện Chương Dương. Quân Mông Cổ vừa rời khỏi Thăng Long được một quãng, thì bị quân phục kích của Trần Quốc Tuấn đổ ra chặn đánh và tiêu diệt. Được tin Chương Dương bị hạ, viện binh bị diệt, Thoát Hoan hoảng sợ, vội vàng với bọn A Thích mang quân Mông Cổ vượt sông Hồng chạy sang các căn cứ quân Mông Cổ ở miền đất là tỉnh Hà Bắc ngày nay. Sau khi đại thắng ở Chương Dương, và đuổi Thoát Hoan ra khỏi Thăng Long, Trần Quốc Tuấn mang quân quay lại tiêu diệt lộ quân của Toa Đô 23

ở Tây Kết, và đến cuối tháng Năm năm Ất Dậu (1285), quân Trần lại đại thắng ở Tây Kết, nguyên soái Toa Đô bị chém đầu ngay tại trận, Ô Mã Nhi sợ hãi phải chạy vào Thanh Hóa. Quân Trần thừa thẳng truy kích, bắt sống được mấy vạn quân Mông Cổ. Các trận thắng trên buộc Thoát Hoan và toàn bộ quân Mông Cổ phải rút lui. Nhưng trên đường rút về Trung Quốc , quân Mông Cổ bị quân đội của Trần Quốc Tuấn phục kích, và bị chết rất nhiều. Thoát Hoan phải chui vào một cái thùng đồng mới trốn được về Trung Quốc. Năm Đinh Hợi (1287) quân Mông Cổ do Thoát Hoan chỉ huy lại xâm lược nước Đại Việt lần thứ ba.Vua Trần Nhân Tôn hỏi ý kiến Trần Quốc Tuấn, Quốc Tuấn tuyên bố: “Bây giờ quân ta đã quen chiến đấu, quân giặc từ xa đến mỏi mệt, và chúng còn đang khiếp sợ về những trận thua trước, mất cả nhuệ khí... Năm nay đánh giặc có phần dễ hơn trước\". Đầu năm Đinh Hợi (1287), quân Mông Cổ dưới quyền chỉ huy của Thoát Hoan, theo hai đường thủy và bộ kéo vào xâm lược nước Đại Việt. Trần Quốc Tuấn lại ra lệnh cho quân đội rút lui chiến lược. Quân Mông Cổ lại chiếm được Chi Lăng, Khả Ly, Chí Linh, Vạn Kiếp, Tam Đái Giang (Việt Trì), Thăng Long... quân đội nhà Trần lại đóng rải ra ở nhiều nơi, nhân dân lại làm vườn không nhà trống. Trần Quốc Tuấn lại cho quân du kích ngày đêm quấy rối 24

các vị trí của quân Mông Cổ. Quân Mông Cổ bị hãm vào cảnh thiếu lương thực. Ngày đêm chúng chỉ còn việc cố thủ ở các vị trí để chờ các đoàn thuyền lương do Trương Văn Hổ có trách nhiệm mang đến cho chúng. Nhưng đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ đã bị Trần Khánh Dư phá sạch ở Vân Đồn... Được tin đoàn thuyền lương bị phá, Thoát Hoan lại quyết định cho toàn bộ quân Mông Cổ theo hai đường thủy bộ rút lui về Trung Quốc. Trần Quốc Tuấn đã dự đoán nước cờ đó của Thoát Hoan, và ông đã cho quân đi bố trí phục kích tại các đường thuỷ, đường bộ mà quân Mông Cổ tất phải đi qua trên đường về nước. Tháng ba năm Mậu Tý (1288) trận phục kích qui mô nổi tiếng trong lịch sử đã diễn ra ở sông Bạch Đằng, kết quả 500 chiến thuyền Mông Cổ bị đánh đắm hoặc bị bắn, hơn ba vạn quân giặc bị giết, bị bắt, bị chết đuối, Ô Mã Nhi và Tích Lệ Cơ Ngọc bị bắt sống... Được tin toàn bộ quân Mông Cổ bị phá ở sông Bạch Đằng, Thoát Hoan sợ cuống quít, y vội ra lệnh cho toàn quân rút lui về nước. Trên đường chạy trốn, quân Mông Cổ lại bị quân đội của Trần Quốc Tuấn phục kích, và bị chết rất nhiều. Thoát Hoan phải theo đường huyện Đan Kỷ (Lạng Sơn) chạy sang Lộc Châu rồi theo thung lũng sông Lục Ngạn, qua các địa điểm Biên Động, An Châu, Đinh Lạp để vượt biên giới chạy về Tư Minh (Trung Quốc). Do có nhiều công lao đánh giặc cứu nước, Trần Quốc Tuấn được phong tước Hưng Đạo đại 25

vương, vì vậy ngươi ta thường gọi ông là Trần Hưng Đạo. Tháng Tám năm Kỷ Hợi (1300) , Trần Quốc Tuấn bị bệnh nặng ở Vạn Kiếp, và đến ngày 15 tháng Tám thì ông từ trần tại nhà riêng. Trước khi Quốc Tuấn sắp từ trần, vua Trần Anh Tôn có đến nhà riêng của ông ở Vạn Kiếp để hỏi ông về kế sách giữ nước. Nhân dịp này, Quỗc Tuấn có trình bày với vua Anh Tôn về chiến lược đánh giặc giữ nước khi đất nước bị xâm lăng như chúng tôi đã nói ở phần “Giới thiệu”. Chiến lược, chiến thuật của Trần Quốc Tuấn có thể tóm tắt như sau: Nước Đại Việt nhỏ và yếu hơn nước Đại Nguyên của Mông Cổ, vì vậy phải “Lấy đoản binh mà chống trường trận” tức phải lấy ít đánh nhiều, lấy yếu chống mạnh, khi quân giặc mới đến, thế chúng còn mạnh, thì ta rút lui để bảo toàn lực lượng, nhử cho giặc vào sâu và dàn mỏng lực lượng ra nhiều nơi chờ khi nào có điều kiện thuận lợi mới phản công; khi ta rút lui, ta cũng phải chủ động khiến cho giặc, “muốn đánh mà không đánh được”. Với chiến thuật vườn không nhà trống, với chiến tranh nhân dân, giặc không thể cướp được lương thực của nhân dân, và luôn luôn bị dân quân du kích đánh phá, quấy rối, cắt đường tiếp tế. Tinh thần quân giặc do đó tất phải giảm sút. Lúc ấy quân ta mới phản công, cắt hẳn đường liên lạc, tiếp tế của giặc, phục kích, tập kích giặc, dùng vận động 26

chiến thần tốc đánh vào các căn cứ quan trọng của giặc, buộc giặc phải rút lui về nước, và trên đường giặc rút lui, ta phục kích tiêu diệt chúng. Với chiến lược và chiến thuật trên, Trần Quốc Tuấn đã hai lần đánh bại quân Mông Cô đã từng tung hoành, bách chiến bách thắng ở châu Á, châu Âu. Khi vạch cho vua Trần Anh Tôn kế sách giữ nước, Trần Quốc Tuấn lại nhấn mạnh rằng, ‚phải khoan dùng sức dân để làm cái sâu rễ bền gốc, đó là thƣợng sách giữ nƣớc, không còn gì hơn‛. 27

TIỂU SỬ ĐÀO DUY TỪ Đào Duy Từ sinh vào khoảng năm 1572 ở xã Hoa-Trai, huyện Ngọc Sơn (này là huyện Tĩnh Gia) tỉnh Thanh Hóa, cha là Đào Tá Hán, mẹ là người họ Nguyễn. Ông thông minh, và học rộng biết nhiều. Ông đi thi hương ở Thanh Hóa, Hiến ty cho Đào Duy Từ là con nhà phường chèo, gạch bỏ tên không cho vào thi. Ông buồn bực quay về, căm giận chế độ vô lý của họ Trịnh lúc bấy giờ. Một hôm ông nói với bạn rằng: “Tôi nghe chúa Nguyễn hùng cứ đất Thuận Quảng, làm nhiều việc ân đức lại có lòng yêu kẻ sĩ, trọng người hiền... Nếu ta theo vào giúp thì chẳng khác gì Trương Lương về Hán, Ngũ Viên sang Ngô, có thể làm tỏ rạng thanh danh, ta không đến nỗi phải nát cùng cây cỏ, uổng phí một đời...”. Rồi mùa đông năm Ất Sửu (1627), Duy Từ trốn được vào xứ Đường trong. Đầu tiên ông ở huyện Vũ Xương hơn một tháng để nghe ngóng tình hình. Sau biết khám lý Hoài Nhân là Trần Đức Hoà là người có mưu trí được chúa Nguyễn Phúc Nguyên tin dùng, Duy Từ vào Hoài Nhân. Ông đi ở chăn trâu cho một phú ông ở xã Từng Châu. Phú ông thấy Duy Từ học rộng tài cao, biết ông không phải là người thường, liền 28

đem nói với Trần Đức Hoà. Đức Hoà cho gọi Duy Từ đến hỏi chuyện. Thấy Duy Từ không gì là không thông hiểu, Đức Hòa giữ ông lại rồi gả con gái cho. Duy Từ đem bài “Ngọa long cương‛ của ông cho Đức Hoà xem. Đức Hoà xem xong liền nói: “Đào Duy Từ là Ngọa Long(1) đời nay chăng?\" Một hôm, Trần Đức Hoà đem bài “Ngọa long cương‛ cho Nguyễn Phúc Nguyên xem, và nói: “Bài này là do thầy đồ của nhà tôi là Đào Duy Tư làm\". Đọc bài “Ngoạ long cương‛, Nguyễn Phúc Nguyên biết Đào Duy Từ là người có chí lớn, liền cho gọi Đào Duy Từ đến. Mấy hôm sau, Đào Duy Từ và Trần Đức Hoà cùng vào ra mắt Nguyễn Phúc Nguyên. Lúc ấy Phúc Nguyên đang mặc áo trắng, đứng ở cửa nách. Thấy thế Duy Từ dừng lại, không vào. Phúc Nguyên hiểu ý, trở vào, mặc áo đội mũ chính tề rồi ra đón Duy Từ vào nói chuyện. Duy Từ cao đàm hùng luận, tỏ ra rất am hiểu việc đời. Phúc Nguyên mừng lắm, hỏi: “Sao khanh đến muộn thế ?\" Liền ngay đó Phúc Nguyên trao cho Duy Từ chức Nha uý nội tán, tước Lộc khê hầu, trống coi việc quân cơ ở trong và ở ngoài, tham lý quốc chính. Từ đấy Duy Từ nói gì chúa Nguyễn cũng nghe. Ông bày mưu vạch kế giúp chúa Nguyễn làm nên nhiều việc lớn. Chúa Nguyễn thường nói với mọi người: “Đào Duy Từ thật là Tử Phòng (Trương Lương) và Khổng Minh (Gia Cát Lượng) ngày nay” Tháng ba năm Canh Ngọ (1630), Duy Từ khuyên (1) Ngoạ Long là biệt hiệu của Khổng Minh Gia Cát Lƣợng 29

chúa Nguyễn đắp luỹ Trường Dục từ núi Trường Dục đến phá Hạc Hải nhằm ngăn chặn quân Trịnh ngược dòng sông Nhật Lệ vào đánh xứ Đường trong. Năm Tân Mùi (1631), theo lời Đào Duy Từ, chúa Nguyễn lại cho đắp một núi Đâu Mâu qua cửa biển Nhật Lệ, rồi men theo sông Lệ Kỳ và sông Nhật Lệ tiến lên phía đông bắc đến làng Đông Hải. Nhờ có hai cái luỹ trên, chúa Nguyễn đã ngăn chặn được các cuộc tiến công của quân Trịnh trong một thời kỳ dài. Tháng chín năm Canh Ngọ (1630), theo đề nghị của Đào Duy Từ, Nguyễn Phúc Nguyên cho mở cuộc tấn công vào châu Nam Bố Chánh, và chiếm được châu này. Tháng mười năm Giáp Tuất (1634), Duy Từ bị bệnh nặng rồi mất, thọ 63 tuổi. Đào Duy Từ chỉ làm quan với chúa Nguyễn có tám năm. Nhưng trong tám năm đó, ông đã xây dựng cho họ Nguyễn một cơ sở xã hội vững chắc, và một đội quân hùng mạnh. Nguyễn Hữu Tiến, một viên tướng có tài của chúa Nguyễn, là con rể Đào Duy Từ do Dào Duy Từ tiến cử lên chúa Nguyễn. Hổ trƣớng khu cơ là tác phẩm do Đào Duy Từ soạn ra để dạy các tướng sĩ của xứ Đường trong. Đó là tác phẩm quân sự duy nhất của Việt Nam còn nguyên vẹn cho đến ngày nay. Xứ Đường trong sở dĩ có quân hùng tướng mạnh, một phần là do công lao của Đào Duy Từ. Đào Duy Từ, vì vậy, được coi là Đệ nhất khai quốc công thần của họ Nguyễn và được thờ ở nhà Thái miếu. 30

THUYẾT MINH VỀ BẢN DỊCH Những binh thƣ của Trung Quốc mà sách này trích lục trƣớc hết là bộ Võ kinh gồm bảy phần nhƣ sau: Sách Tôn tử hay Tôn tử binh pháp, có khi gọi tắt là Binh pháp, do Tôn Vũ thời Xuân Thu, tƣớng của Ngô Hạp Lƣ soạn. Theo Sử ký thì sách này có 13 thiên. Đỗ Mục đời Đƣờng nói rằng sách của Tôn Vũ nguyên có đến vài mƣơi vạn chữ, sau Tào Tháo bỏ bớt đi mà thành bản ngày nay, Sách Ngô tử do Ngô Khởi tƣớng của nƣớc Sở thời Chiến Quốc soạn. Lục Mỹ Thanh đời Đƣờng chia sách ấy làm 6 thiên, tức là bản thông hành ngày nay. Sách Lục thao, dẫu thời Chiến Quốc đã có tên sách, bản cũ đề là của Lã Vọng nhà Chu, nhƣng là sách đời sau giả thác, tác giả ở vào khoảng trƣớc đời Đƣờng. Sách Tư mã pháp, một sách binh pháp đời xƣa, đề là của Tƣ-Mã Nhƣơng Thƣ nƣớc Tề soạn, nhƣng không chắc đúng. Sách Tam lược, ngƣời đời sau soạn giả thác là của Hoàng Thạch công trao cho Trƣơng Lƣơng là công thần khai quốc của nhà Hán. Sách Uất liệu tử, do Uất Liệu đời Chu soạn. 31

Sách Lý vệ công vấn đối, do học trò của Lý Tĩnh ghi chép những lời vấn đáp của Đƣờng Thái Tông với tƣớng là Lý Tĩnh mà thành. Ngoài ra Binh thư yếu lược còn trích lục các sách: Võ kinh tổng yếu, do bọn Tăng Công Lƣợng và Đinh Độ đời Tống soạn, chép những binh pháp của đời xƣa và những mƣu kế phƣơng lƣợc của nhà Tống, gồm 40 quyển. Hồ kiềm kinh, do Hứa Động đời Tống soạn, gồm 20 quyển. Thuý vi bắc chinh lục, do Hoa Nhạc đời Tống soạn, gồm 20 quyển. Võ bị chí, do Mao Nguyên Nghi đời Minh soạn, gồm 19 quyển. Võ bị chế thắng chí, do học trò của Mao Nguyên Nghi soạn, gồm 31 quyển. Kinh thế, tức là Kinh tế bát loại toàn biên, do Trần Nhân Tích đời Minh soạn, trong ấy có phần ‚Binh tào‛ từ quyển 63 đến quyển 83. Hồng vũ đại định, không rõ tên tác giả, hiện Thƣ viện khoa học trung ƣơng chỉ có một tập sách chép tay nhỏ gồm 6 thiên đề là Hồng vũ đại định binh thư lược biên. Theo tên sách thì sách này thuộc đời Minh. Hồng vũ là niên hiệu của Minh Thái Tổ. Sách Bảo giám thì chúng tôi không tìm thấy, trong thƣ mục của Tứ khố toàn thƣ đề yếu của Trung Quốc chỉ thấy có sách Tướng giám (gƣơng làm tƣớng) ghi chép sự trạng của những ngƣời hành quân giỏi của 32

Trung Quốc từ xƣa, bắt dầu từ Tôn Vũ, cuối cùng là Quách Sùng Thao đời hậu Đƣờng. Còn bốn tác phẩm khác mà chúng tôi không tìm thấy ở Hà Nội là : Binh chế, Vạn cơ chí, Yên thủy thần kinh, Hành quân tu tri, không hiểu tác giả là ai và nội dung là thế nào. Về tác phẩm Việt Nam, thì Binh thƣ yếu lƣợc trích dẫn sách Binh lƣợc và trích lục gần hết sách Hổ trướng khu cơ. Sách Binh lược thì chúng tôi không tìm thấy, nhƣng đoán là sách Việt Nam về đời Nguyễn, là vì thấy nó dẫn những việc thuộc lịch sử Việt Nam từ cuộc xâm lƣợc của quân Minh đến cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Ngoài ra còn có tài liệu của Bộ Binh triều Nguyễn. Sách Hổ trƣớng khu cơ theo Đại nam thực lục chính biên là do Đào Duy Từ soạn ra hồi nửa đầu thế kỷ XVII. Hiện nay ở Hà Nội chỉ có một bản Binh thư yếu lược chép tay của Thƣ viện Khoa Học Xã Hội, gồm 4 quyển, đề là Trần Hƣng Đạo vƣơng soạn (!), không có tựa, chữ viết xấu, lại do nhiều ngƣời chép (xem nét chữ khác nhau), nhiều chữ sai, cũng có không ít chỗ sót. Trƣớc khi phiên dịch, chúng tôi phải làm công việc hiệu đính bản chữ Hán. Về những đoạn văn trích lục ở các binh thƣ Trung Quốc thì chúng tôi đối chiếu với nguyên văn theo các sách tìm thấy ở Thƣ viện Khoa Học Xã Hội. Nếu là những sách không tìm thấy ở Thƣ viện ấy thì chúng tôi đành phải theo văn pháp và văn nghĩa mà hiệu đính, cũng nhƣ đối với những đoạn do chính tác 33

giả biên soạn; về phần này, tƣơng đối ít, thì có khi tác giả cũng chỉ là tóm tắt ý kiến của các sách xƣa thôi. Theo nội dung Binh thư yếu lược nhƣ trên thì không thể xem nó là di tác của Hƣng Đạo Vƣơng đƣợc. Đấy là một bộ sách đƣợc biên soạn theo một phƣơng pháp đặc biệt, do nhiều nhà thông hiểu binh pháp thời Trần (có thể đặc biệt là Hƣng Đạo Vƣơng), thời Lê, thời Nguyễn tiếp tục nhau mà biên soạn bằng cách trích lƣợc những binh thƣ các đời của Trung Quốc và của nƣớc ta, thỉnh thoảng những ngƣời biên soạn có thêm những đoạn có quan hệ với những sự kiện quân sự vào kinh nghiệm của nƣớc nhà, hoặc tóm tắt ý kiến của các sách xƣa một cách gọn gàng. Sách này đƣợc hoàn thành ở thời nhà Nguyễn. Trong khi phiên dịch chúng tôi đã bỏ những đoạn có tính chất mê tín, đặc biệt là ở chƣơng ‚Thiên tƣợng‛ thuộc quyển I, ở các chƣơng ‚Chiêm phong vũ‛ và ‚Binh trƣng‛ thuộc quyển II. Phƣơng pháp biên soạn sách này có hơi lỏng lẻo, cho nên có những đoạn hình nhƣ chép lộn, những đoạn chép trùng hay chép lộn ấy chúng tôi đều bỏ cả. Cuối cùng, tất cả những đoạn lấy ở Hổ trướng khu cơ chúng tôi đều bỏ đi để đem cả tập Hổ trướng khu cơ dịch làm phần phụ lục mà nêu riêng một tác phẩm về binh pháp của nƣớc ta có ít nhiều màu sắc dân tộc. Sách Hổ trƣớng khu cơ hiện ở Thƣ viện Khoa Học Xã Hội có năm bản chép tay A157 , A565, A1783, A2117, A3003. Chúng tôi lấy bản số A157 là bản đầy đủ 34

nhất để dịch, nhƣng trong khi dịch chúng tôi cũng đã đối chiếu với các bản kia và với những chƣơng những mục đƣợc trích lục trong sách Binh thư yếu lược để đính chính những chỗ sai sót. Những hình vẽ về trận đồ và về binh khí chiến cụ dùng trong bản dịch này là vẽ lại theo hình vẽ của sách Võ kinh tổng yếu trong bộ Tứ khố toàn thư trận bản sơ tập (Thƣ viện Khoa Học Xã Hội số P1121) của sách Vũ bị chế thắng chí (Thƣ viện Khoa Học Xã Hội số A157). Binh thư yếu lược do Nguyễn Ngọc Tỉnh phiên dịch. Hổ trướng khu cơ do Đỗ Mộng Khƣơng phiên dịch. Ngƣời hiệu đính GS. ĐÀO DUY ANH 35

BINH THƢ YẾU LƢỢC 37

BINH THƢ YẾU LƢỢC QUYỂN I I- THIÊN TƢỢNG (HÌNH TƢỢNG CỦA TRỜI)(1) Sách Võ bị chí(2) Gặp khi trời đất mờ mịt tối tăm, gió thổi cát mù, cờ xí không cắm đƣợc, chiêng trống không nghe đƣợc, thì không nên ra quân. Nếu có quân giặc nhân khi tối tăm đem quân kỵ mạnh đến đánh, ta phải ra lệnh, nhắc đi nhắc lại, ƣớc thúc ba quân, bền giữ dinh trận, không đƣợc rối động, chỉ lấy lá chắn để đỡ tên đạn, dùng cung khỏe nỏ cứng, cứ ngồi mà bắn, chờ khi quân địch trễ tràng thì đem quân nhanh mạnh, nhân lúc rối loạn không ngờ, ngầm cho hậu quân (1) Chƣơng này phần nhiều nói những điều hoang đƣờng mê tín về thiên văn xƣa, chúng tôi bỏ không dịch, chỉ dịch một mục trích ở sách Võ bị chí chép về thời tiết mà thôi. (2) Võ bị chí: Tác phẩm của Mao Nguyên Nghi đời Minh, 19 quyển. Xem Võ bị chế thắng chí, quyển 6, chƣơng ‚Thẩm thời\" 38

đón chặn con đƣờng yếu hại địch dùng mà tới để đánh thì có thể bắt đƣợc ngay. Gặp khi trời đất gió mƣa đen tối mờ mịt bốn bề, thì không nên tiến quân, không nên hành dinh, cứ bền giữ dinh trại, phòng quân sĩ sinh biến và phòng giặc ngoài đến đánh. Gặp khi gió to mƣa lớn, rét lớn nắng lớn, không nên cho quân đi đánh; phải nên vỗ về quân sĩ mà bền giữ dinh trại. Tất nhiên giặc cũng chẳng ra quân. Nếu quân ta đi đƣờng thình lình thấy giặc, thì nên gấp đóng dinh trại, đợi cho nó ngày chiều thế kém mà dùng kế sách khác. Sách Tam lược nói: Xét tính thiên thời, rình chỗ sơ hở. Gặp khi tuyết lớn bay mù, trong khoảng trăm bƣớc mà chẳng trông thấy ngƣời ngựa, địch hay đặt quân kỳ(1) quân phục ở nơi đƣờng hiểm để đánh vào chỗ ta không ngờ. Nếu ta cho tƣớng nhỏ ra ứng đối thì nó giả thua chạy, mong ta đuổi đánh, để dẫn ta vào chỗ phục binh. Nếu ta thấy cơ trời nhƣ thế, thì nên sớm sai năm, bảy viên tƣớng nhỏ, vài mƣơi đội kỵ giỏi, chờ giặc từ tả hữu trƣớc sau đem quân đến nhử ta; nếu giặc dùng quân kỵ giỏi để xung đột quân ta, thì ta cho ngay hai viên tƣớng ra sau quân, bàn định thăm dò, cho quân và ngựa đi quanh quất tìm xét, liệu tính đƣờng về của giặc, rồi nhắm các nơi hiểm ải, dò thăm xem có phục binh hay không; nếu có thì nên (1) Quân lẻ để đánh thình lình 39

chia binh ra làm hai ba nơi thay đổi nhau mà đánh; nhƣ thế thì chúng phải thua chạy, mà kẻ đến đánh ta trƣớc kia đầu đuôi không thấy đƣợc nhau. Quân ta đã đuổi quân phục của địch, dùng binh giỏi lộn lại làm quân đón triệt, thì bọn giặc đến để đánh ta đó không biết quân phục ở chỗ kia hiện đã tan chạy. Vả quân ta đã sai kỵ binh giỏi đến, một đạo tiến một đạo lùi, thay đổi nhau đuổi đánh, chờ khi nó vào nơi có quân phục của ta thì đầu đuôi cùng ứng, có thế bắt gọn cả quân, Đấy là nói đại khái, chứ hoàn toàn là phải biến thông ở lúc lâm thời, để đối phó trong lúc hoãn cấp. Còn nhƣ ngƣời Khiết Đơn thì không thế. Thấy có tuyết lớn thổi mù thì cung cứng, ngựa mạnh, ngƣời khoẻ, họ coi là thƣờng không việc gì mà cứ đi săn bắn, huống chi trong lúc hai quân đánh nhau thì ta nhân đó mà thắng sao đƣợc? Họ ở phía nam Tam Quan(1), phía bắc Đại Hà(2) trong khoảng Tức Ký(3) , đất phẳng nhƣ đá mài, quân lính tiện đƣợc đƣờng rộng, sau khi tuyết lớn họ biết rằng quân bộ của ta khó tiến, họ bèn dùng mƣu lạ, đặt nhiều kỵ giỏi ở trƣớc sau tả hữu dinh luỹ của ta, khêu nhử quân ta, hoặc dùng kỵ giỏi đi đi lại lại xông đánh quân ta, hòng quân ta ra thì chia quân tản ra bốn phía để đầu (1) Ba cửa quan ở phía bắc Trung Quốc: của Nhạn Môn, cửa Vũ Ninh, cửa Thiên Đầu. (2) Tức sông Hoàng Hà (3) Tức là khoảng tỉnh Hà Nam, Ký là khoảng tỉnh Hà Bắc của Trung Quốc. 40

đuổi đánh lại, một mặt đánh dinh trại ta, một mặt chặn lƣơng thảo ta, khiến cho quân ta đầu đuôi không cứu đƣợc nhau. Nhƣ thế thì quân ta bền giữ chẳng đi, đợi cho quân họ xông lại thì ta mới dùng cung khoẻ nỏ cứng và nỏ bàn(1), một cái trên một cái dƣới mà bắn ra. Giặc đã mất thế thì không còn chí chiến đấu nữa. Có thể bắt gọn cả quân. Gặp cơn gió to, thổi bay bụi cát, không nên tiến binh đi đánh. Nhƣ đƣơng ở giữa đƣờng thì nên dừng chân mà tìm nơi thuận tiện yên nghỉ. Nhƣ đƣờng trƣớc gặp quân phục đón chặn, hay có trận lớn, thì đó là cái điềm trời chƣa thuận vậy. Nhƣ gặp lúc đƣơng ở dinh dã thì nên ra lệnh dặn đi dặn lại ba quân bền giữ dinh trại, phòng quân giặc nhân gió thuận mà đến để dò hoặc cƣớp, xông đánh trại ta. Nhƣ lúc trận quân vừa mới bố trí mà thấy có gió thì cũng không nên đánh, phải bền giữ. Khi hành quân ở đƣờng hay đƣơng ở dinh mà gặp có gió to mƣa to, tuyết lớn mù lớn, mờ tối không thể tiến quân để đánh, thì nên vỗ về quân sĩ, cố giữ là hơn. (1) Nỏ bàn: nỏ lớn đặt lên bệ bắn một phát nhiều tên 41

II. KÉN MỘ Đặt ba khoá để kén mộ tráng sĩ: Từ thuộc lại trở xuống, mỗi ngƣời đều cử ngƣời mình biết, tốt nhất là loại ăn cƣớp, sau đến loại hay đánh ngƣời và trộm cắp, rồi đến loại không nghề nghiệp. Sai thu 300 cỗ ngựa của các tƣớng, để cho quân cảm tử tình nguyện dùng, dù không phá đƣợc địch, cùng có thể làm nhụt đƣợc nhuệ khí của địch. Cái đạo mạnh binh để chiến thắng cốt yếu có 5 điều: 1. Sửa sang binh khí. 2. Có đủ quân lính và xe cộ. 3. Súc tích nhiều. 4. Rèn luyện sĩ tốt. 5. Kén đƣợc tƣớng giỏi. Năm điều ấy đƣợc đầy đủ thì mới có thể mạnh quân. Kén lính : Quân cần giỏi không cần nhiều. Nên chọn ngƣời mạnh mà dùng, không lấy nhiều ngƣời nhỏ yếu để thêm số lƣợng. Nên kén, ngƣời nhiều anh em, ngƣời không bố mẹ, ngƣời độc thân mà đã có con kế tự, ngƣời nghèo đói mà sức vóc khỏe mạnh. Có những ngƣời không nên kén là...(1) (1) Nguyên văn sót một đoạn 42

III- CHỌN TƢỚNG Sách Võ kinh: Phƣơng pháp xem ngƣời có tám điểm: 1. Hỏi bằng lời nói xem trả lời có rõ ràng không. 2. Gạn gùng bằng lời lẽ để xem có biến hóa không. 3. Cho gián điệp thử để xem có trung thành không. 4. Hỏi rõ ràng tƣờng tất để xem đức hạnh thế nào. 5. Lấy của mà thử để xem có thanh liêm không. 6. Lấy sắc đẹp mà thử để xem có đứng đắn không. 7. Lấy việc khó khăn mà thử để xem có dũng cảm không. 8. Cho uống rƣợu say để xem có giữ đƣợc thái độ không(1) Có tƣớng dũng và tƣớng trí, nên dùng thế nào cho phải? Rằng tƣớng dũng có thể giúp đƣợc việc đánh thành hãm trận; nhƣng liệƣ tính việc địch, chia đặt quân kỳ, lâm cờ ứng bích, nếu không có tƣớng trí thì không đƣợc. Mà kẻ dũng thì thƣờng kém kẻ mƣu. Cho nên đời xƣa đăng đàn, đắp đài, đẩy xe(2), phải tìm tƣớng mƣu trí để giúp cho kẻ có sức mạnh. Ngƣời làm tƣớng không nên lấy giỏi cung đao cỡi bắn làm tài, mà phải lấy thông suốt cổ kim làm giỏi. Xem giỏi ở chỗ nào? Muốn biết tƣớng giỏi hay tồi cần phải kích thích để xem (1) Xem Võ kinh trực giải, phần Lục thao‛ chƣơng 20 (2) Chỉ việc phong tƣớng 43

động hay không động. Kích thích mà động đó là tƣớng ngu. Tƣớng ngu thấy lợi thì động, khinh địch thì động. Nên dùng hai phép dụ thì bắt đƣợc ngay: kẻ thấy lợi mà dụ bằng mồi là bắt đƣợc; kẻ khinh địch thì uy hiếp là bắt đƣợc. Kích thích mà không động thì là tƣớng hiền. Tƣớng hiền thì trí chu đáo nên không động, phép chu đáo nên không động. Nên dùng hai phép để nắm. Đấu trí với nhau, không ai thắng ai, phải dùng phép để nắm chỗ sơ hở của trí, nhằm một chút hở của trí mà đánh vào. Đấu phép với nhau không ai chịu ai, phải dùng trí để nắm chỗ biến hóa của phép, nhân chỗ ngẫu nhiên sơ hở của phép mà đánh vào. Sách Binh chí(1) nói ‚đánh mƣu‛ là thế đó. Hai bên giao chiến với nhau mà muốn biết tình hình hƣ thực ở trong quân, trƣớc hết là mình phải biết ngƣời mà đừng để ngƣời ta biết mình. Biết đƣợc tình hình hƣ thực của ngƣời rồi thì đánh chỗ mềm mà không đánh chỗ cứng. Sách Binh chí nói đánh chỗ cứng thì chỗ mềm phải cứng, đánh chỗ mềm thì chỗ cứng phải mềm, chính là thế. Đi sâu vào đến chỗ vô hình, giấu kỳ ở chính, giấu chính ở kỳ, lấy kỳ làm chính, lấy chính làm kỳ. Sách Binh chí nói: Phàm đánh trận dùng chính mà hợp, dùng kỳ mà thắng, muốn chiến thắng không ngoài kỳ với chính, kỳ chính biến hoá không biết thế nào là cùng, kỳ chính cùng sinh ra nhau, nhƣ cái vòng tròn không có đầu mối. Xét đƣợc hƣ thực, rõ đƣợc mềm cứng, hiểu đƣợc kỳ chính, đó là ba (1) Chúng tôi không tìm ra sách nàỵ. 44

điều báu của phép dùng binh vậy. Lại nói: biết mình biết ngƣời, trăm trận trăm thắng(1). Nuôi khí dân, định chí quân, thế gọi là biết mình; xét rõ tình hình địch, thế gọi là biết ngƣời. Đó là ba điều thiết yếu. Ba điều thiết yếu cũng nhƣ ba điều căn bản, tại sao? Vì đạo làm tƣớng coi quân, khoan và nghiêm dùng không nhất định, mà phải lấy nghiêm làm gốc, cho nên binh gia với hình gia và danh gia phối hợp nhau; động và tĩnh không có hình thế thƣờng, mà phải lấy tĩnh làm chủ, Cho nên binh gia và âm dƣơng gia(2) giúp đỡ nhau. Hình gia và danh gia không cần kiêm làm binh gia, mà binh gia thì phải kiêm hình gia và danh gia; âm dƣơng gia thì không cần kiêm làm binh gia, mà binh gia thì phải kiêm âm dƣơng gia. Bởi thế mới nói ba điều thiết yếu cũng là ba điều căn bản. Nhân đƣợc những điều hay của bốn nhà mà lợi dụng lấy thì phƣơng lƣợc làm tƣớng có thể đủ đƣợc. Đạo dùng tƣớng là thế nào? Trƣớc hết phải cho có quyền: Tƣớng nói dân có thể dùng thì dùng. Tƣớng nói dân không thể dùng thì đừng dùng. Tƣớng nói quân có thể động thì động. Tƣớng nói quân không thể động thì đừng động. Tƣớng nói địch có thể đánh đƣợc rồi thì đánh. Tƣớng nói địch không thể đánh đƣợc thì đừng đánh. Nhƣ thế thì phép không rối, cơ không ngừng. (1) Tôn Tử, thiên II nói: Biết ngƣời biết mình, trăm trận không nguy. (2) Binh gia, hình gia, danh gia, âm dƣơng gia là những học phái của Trung Quốc ở thời Chiến Quốc 45

Nhƣng ngƣời giỏi dùng tƣớng thì trƣớc hết phải giỏi chọn tƣớng. Ngƣời giỏi chọn tƣớng thì trƣớc hết phải giỏi biến tƣớng. Ba điều giỏi ấy, cái tinh vi của ngƣời dùng tƣớng dùng quân đều ở cả đó. Tuy thế, Tôn Võ. và Ngô Khởi thì đã giỏi trong lãnh vực ấy rồi, nhƣng theo lời của Mạnh Tử, Tuân Tử thì cho là chƣa đƣợc. Vì sao mà nói thế ? Vì bảo rằng kế căn bản chƣa có. Vậy thì Tôn Võ, Ngô Khởi chỉ là cái rìu búa đẽo nƣớc mà thôi, bệnh ở ngoài mà hại ở trong, mất nƣớc có thể kiễng chân mà chờ đến. Ngô Khởi(1) nói: Phàm điều cốt yếu ở trong việc chiến trận, trƣớc nhất phải xem ngƣời, tƣớng và xét tài của tƣớng, rồi nhân hình thế mà dùng quyền biến thì không khó nhọc mà thành công. Tƣớng ngu hay tin ngƣời thì dùng cách dổi mà lừa; tƣớng tham khinh danh vọng thì dùng của mà đút; tƣớng coi thƣờng sự biến mà không mƣu thì làm cho vất vả mà phải khốn; ngƣời trên giàu mà kiêu, ngƣời dƣới nghèo mà oán, thì dùng cách chia cho lìa nhau; tiến thoái đa nghi, quân sĩ không nƣơng tựa đƣợc, thì làm cho hoảng sợ mà chạy; quân khinh thƣờng tƣớng mà có ý muốn về nhà, thì chẹn đƣờng dễ mở đƣờng khó, có thể đón mà bắt đƣợc; đƣờng tiến dễ, đƣờng lui khó, thì nên săn ở phía trƣớc; đƣờng tiến khó đƣờng lui dễ, thì nên đến sát mà đánh; đóng quân ở nơi thấp, nƣớc không có (1) Tôn tử, thiên TV 46

chỗ thông, mà hay mƣa dầm, thì nên tháo nƣớc vào cho ngập; đóng quân ở nơi chằm hoang, cây cỏ um tùm, gió thổi lồng lộng, thì nên đốt mà tiêu diệt; quân đóng mãi một nơi, tƣớng sĩ trễ nải, quân không đề phòng, thì nên lẻn mà đánh úp. * Sách Kinh thế (1): Có nho tƣớng, có dũng tƣớng, có cảm tƣớng, có xảo tƣớng, có nghệ tƣớng. Nho tƣớng hay mƣu; dũng tƣớng hay đánh; cảm tƣớng nhiều can đảm; xảo tƣớng giỏi chế tác; nghệ tƣớng thì tài năng; gồm cả thì không gì không thần, đủ cả thì không gì không lợi. Hoà mục có công hiệu rất lớn cho cuộc trị an. Hoà ở trong nƣớc thì ít phải dùng binh; hoà ở ngoài biên thì không sợ báo động. Bất đắc dĩ mới phải phạt kẻ làm xằng, càng quí hòa mục. Vua tôi hòa mục thì dùng đƣợc ngƣời tài; tƣớng văn tƣớng võ hoà mục thì làm nên công nghiệp; tƣớng sĩ hoà mục, trong lúc thƣởng sẽ nhƣờng nhịn nhau, gặp nguy nan sẽ cứu giúp nhau. Đó, hoà mục là đạo rất hay cho việc trị nƣớc hành binh, không thay đổi đƣợc... * Sách Bảo giám(2) (1) Sách Kinh thế bát loại toản biên ‚Binh tào, quyển 63-68, (2) Chúng tôi không tìm ra sách Bảo giám 47

Khí lƣợng của tƣớng, lớn nhỏ khác nhau. Tƣớng mà che điều gian, giấu điều họa, không nghĩ đến điều quân chúng án ghét, đó là tƣớng chỉ huy mƣời ngƣời. Tƣớng mà sớm dậy khuya nằm, lời lẽ kín đáo, đó là tƣớng chỉ huy đƣợc trăm ngƣời, Tƣớng thẳng mà biết lo, mạnh mà giỏi đánh, đó là tƣớng chỉ huy đƣợc nghìn ngƣời. Tƣớng mà ngoài mặt hăm hở, trong lòng ân cần, biết ngƣời khó nhọc, thƣơng kẻ đói rét, đó là tƣớng chỉ huy đƣợc vạn ngƣời. Tƣớng mà gần ngƣời hiền, tiến ngƣời tài, ngày thƣờng cẩn thận, thành thực rộng rãi, giỏi việc dẹp loạn, đó là tƣớng chỉ huy dƣợc mƣời vạn ngƣời. Tƣớng mà dùng nhân ái đối với kẻ dƣới, lấy tín nghĩa phục nƣớc láng giềng, trên biết thiên văn, dƣới biết địa lý, giữa biết việc ngƣời, coi bốn biển nhƣ một nhà, đó là tƣớng chỉ huy đƣợc cả thiên hạ, không ai địch đƣợc... Ra trận mà đổi tƣớng, điều đó nhà binh rất kiêng. Nên chờ ngày tháng để buộc cho thành công * Phép lập đàn phong tƣớng (1) Phụ: Trao quyền cho tướng Thái công(2) nói: Nhà nƣớc yên hay nguy, quan hệ ở một ngƣời tƣớng. (1) Chƣơng này trích ở sách Hổ trƣớng khu cƣ, ở đây xin bỏ, xin xem Hổ Trƣớng khu cơ ở sau (2) Xem Võ kinh trực giải phần ‚Lục thao‛, chƣơng 20. 48

Bèn sai quan thái sử ăn chay ba ngày, đem rùa bói ngày lành, ra Thái miếu để trao cho phủ việt(1) - Vua vào cửa miếu, đứng trông mặt về phía tây; tƣớng đứng trông mặt về phía bắc. Vua thân cầm cái việt, giữ lấy lƣỡi mà trao chuôi cho tƣớng, nói: ‚Từ đây lên tới trời là quyền của tƣớng quân‛. Vua lại cầm cái phủ, giữ lấy chuôi mà trao lƣỡi cho tƣớng, nói: ‚Từ đây xuống tới vực là quyền của tƣớng quân‛. Tƣớng nhận lấy, lạy mà đáp lại vua rằng: ‚Thần nghe: Nƣớc không thể tự bên ngoài mà trị; quân không thể tự bên trong mà chế; kẻ hai lòng không thể thờ đƣợc vua; kẻ phân chí không thể đánh đƣợc giặc. Thần đã vâng mệnh, chuyên cầm uy phủ việt, thần không dám mong đƣợc sống mà về. Xin vua rủ bảo cho thần một lời. Vua không hứa với thần thì thần không dám làm tƣớng‛. Đó là trên không nệ thời trời, dƣới không nệ thế đất, trƣớc không biết có địch, sau không nệ mệnh vua(2) * Sách Kinh thế(1) : Đời sau dùng ngƣời thì không nhƣ thế. Nói bàn thì một ngƣời, làm việc thì một ngƣời, do đó ngƣời nói không biết việc của ngƣời làm là khó, mà thƣờng đề cao thuyết của mình. Ngƣời làm thì muốn vâng theo ý của ngƣời bàn mà không hợp với cơ nghi; thậm chí làm việc (1) Hai thứ búa lớn và búa nhỏ dùng để đánh chém, tiêu biểu cho uy quyền. (2) Võ Kinh trực giải diễn nghĩa ca, chƣơng 20 dịch là: ở sau thì đã chịu mệnh vua rồi. 49

chỉ có một ngƣời, mà bàn nói thì có đến vài mƣơi ngƣời, trong đó hiền gian lẫn lộn, yêu ghét mỗi ngƣời một lòng, Ngƣời đƣợc yêu thì mƣu kế dù kém cũng phụ hội, mà ngƣời bị ghét thì mƣu kế dù hay, cũng cố tìm cách để ngăn trở. Không lƣờng tình thế giặc mạnh yếu thế nào, mà cứ cho là đánh nhỏ thì đƣợc nhỏ, đánh lớn thì đƣợc lớn; không hỏi thời thế khó hay dễ, hễ đóng quân là bắt tội dùng dằng, bền giữ là kết tội nhút nhát. Ngƣời làm việc thì trống tả nhìn hữu, muốn đánh muốn giữ, hoặc tiến hoặc lui, đều không thể tự chủ. đƣợc, đến nỗi mƣời cỗ xe của nguyên nhung chƣa đi, mà chức quan nói đã dâng giấy đàn hặc dồn dập(1); chỉ huy ở trong màn trƣớng(1) mới định mà quan tú y(3) đã có lệnh thúc giục rồi; dâng quân cho địch, dâng tƣớng cho địch, đều là do kẻ bàn nói mà đến nỗi. Các triều Đƣờng, Tống, Minh bị thua, đều vì cớ đó, mà nhà Tống quá tệ, nhà Minh lại càng tệ hơn. Ngƣời luận về việc nhà Tống thì cho rằng bàn bạc nhiều mà thành công ít; ngƣời luận về việc nhà Minh thì cho rằng nhà Minh mất nƣớc, không mất ở giặc cƣớp mà mất ngay từ trong cổng ngõ, không mất ở bờ cõi mà mất ngay từ lời can của đài quan(4), cái tệ là ở chỗ không bàn lấy ngƣời làm (1) Nghĩa là tƣớng đƣợc sai đi đánh chƣa xuất quân mà chức quan ngự sử có trách nhiệm ăn nói đã dâng sớ lên nhà vua dồn dập để vạch lỗi của tƣớng, chỉ cái tệ ngƣời làm thì ít, ngƣời nói thì nhiều. (2) Màn trƣớng, chữ Hán ‚duy ốc‛ là chỗ làm việc của vua. (3) Tú y trực là chức quan thị ngự sử đời Hán, (4) Đài quan: Tức quan sự sử, có trách nhiệm nói bàn. 50


Like this book? You can publish your book online for free in a few minutes!
Create your own flipbook