Important Announcement
PubHTML5 Scheduled Server Maintenance on (GMT) Sunday, June 26th, 2:00 am - 8:00 am.
PubHTML5 site will be inoperative during the times indicated!

Home Explore CHUYÊN ĐỀ NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ 1

CHUYÊN ĐỀ NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ 1

Published by Nguyễn Thị Vân Trường THPT Hiệp Hòa 1, 2021-08-21 10:55:34

Description: CHUYÊN ĐỀ NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ 1

Search

Read the Text Version

TRƯỜNG THPT HIỆP HÒA SỐ 1 CHUYÊN ĐỀ NGỮ VĂN 12 Người lái đò Sông Đà (Nguyễn Tuân) Người thực hiện: Ngô Thị Khánh Linh Lớp 12D1 Trường THPT Hiệp Hòa số 1 Bắc Giang 8/2021

“NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ”- NGUYỄN TUÂN “Sau ánh mắt lặng yên Vui buồn đâu dễ thấy Sông Đà quen thuộc ấy Nói hết cùng tôi chưa?” MỤC LỤC I. Khái quát thời đại II. Những nét chung về tác giả 1. Tiểu sử

2. Sự nghiệp sáng tác 3. Phong cách sáng tác III. Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” 1. Tùy bút “Sông Đà” 2. Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” IV. Kiến thức trọng tâm 1. Ý nghĩa lời đề từ trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” 2. Hình tượng sông Đà 3. Hình tượng người lái đò sông Đà V. Tổng kết 1. Giá trị nội dung 2. Giá trị nghệ thuật VI. Một số lời bình về Nguyễn Tuân và “Người lái đò sông Đà” VII. Một số dạng đề phổ biến VIII. Một số đoạn văn, bài văn tham khảo I. KHÁI QUÁT THỜI ĐẠI - Xã hội Việt Nam những năm 1960 là những năm đầy biến động. Sau Hiệp định Geneva năm 1954, nước ta tạm thời bị chia cắt thành 2 miền Bắc - Nam. Từ năm 1955-1958, trong lúc hàng vạn chiến sĩ và cán bộ kháng chiến tập kết ra miền Bắc, thì tại miền Nam, nhân dân phải sống dưới sự kìm kẹp khủng bố dã man của Mỹ, Diệm. Miền Bắc xây dựng xã hội chủ nghĩa, tích cực lao động sản xuất, cung cấp sức người sức của, trở thành hậu phương vững chắc cho miền Nam, quyết tâm vì một ngày đất nước thống nhất. Văn học thời kì này là nền văn học chủ yếu vận động theo hướng cách mạng hóa, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước. Đề tài chủ yếu của văn học giai đoạn này là Tổ quốc

(bảo vệ đất nước, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước), CNXH (đề cao phẩm chất người lao động trên mặt trận sản xuất và xây dựng đất nước). Những tác giả tiêu biểu viết về đề tài này gồm: Tố Hữu, Chế Lan Viên, Giang Nam, thanh Hải, Thu Bồn, Lê Anh Xuân, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Thi, Anh Đức, Nguyên Ngọc, Nguyễn Khải, Đào Vũ, Chu Văn… Đây còn là nền văn học hướng về đại chúng. Đại chúng vừa là đối tượng phản ánh, vừa là nguồn cảm hứng sáng tác của các tác giả, hình thành trong họ một quan niệm mới, đất nước của nhân dân. Quần chúng trở thành hình tượng của văn học như hình ảnh, thân phận người mẹ, chị phụ nữ, em bé… với ngôn ngữ biểu đạt bình dị, trong sáng, dễ hiểu. Nền văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 mang đậm chất sử thi, tập trung phản ánh những vấn đề cơ bản, những sự kiện có ý nghĩa lịch sử, chủ nghĩa yêu nước và anh hùng. Nhân vật trong các tác phẩm là đại diện cho lí tưởng của dân tộc, gắn bó số phận cá nhân với số phận đất nước, thể hiện những phẩm chất cao đẹp của cộng đồng.

- Nguyễn Tuân sinh ra trong thời đại mà đất nước có nhiều biến động, trong đó có sự kiện Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã chia sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân thành hai mảng rõ rệt +Trước 1945: Ông là một trí thức có tài năng, khát vọng nhưng “mồ côi về mặt tư tưởng” nên Nguyễn Tuân tìm đến với thú xê dịch. +Sau 1945: Nguyễn Tuân tìm thấy ánh sáng của Đảng và Cách mạng nên đã sáng tác để ca ngợi cuộc sống mới, con người mới. II.NHỮNG NÉT CHUNG VỀ TÁC GIẢ Nguyễn Tuân – “Người nghệ sỹ suốt đời đi tìm cái đẹp” 1.Tiểu sử *Quê hương - Nguyễn Tuân(1910 – 1987) sinh ra ở làng mộc, tại phố Hàng Bạc, Thanh Xuân, Hà Nội. Mảnh đất Hà Nội đã đem đến cho con người và văn chương Nguyễn Tuân

nét tinh tế tài hoa. Hà Nội có một con đường mang tên ông nối từ đường Nguyễn Trãi cắt ngang qua các phố Nguyễn Huy Tưởng, Ngụy Như Kon Tum đến đường Lê Văn Lương, nối với phố Hoàng Minh Giám. *Gia đình - Nguyễn Tuân sinh ra trong một gia đình nhà Nho cuối thời, là con trai của cụ Nguyễn An Lan(tức ông tú Hải Văn), một nhà Nho bất đắc chí nhưng hết mực tài hoa. Từ nhỏ đã được tiếp xúc với Nho học. Trong gia đình, Nguyễn Tuân ảnh hưởng rất mạnh từ người cha của mình. Vợ của Nguyễn Tuân là bà Vũ Thị Tuệ. Nguyễn Tuân vì thế từ sớm đã mang tính phóng túng, tự do. *Bản thân - Đường đời: + Cuộc đời Nguyễn Tuân khá dài, có nhiều sóng giá trắc trở. Thời niên thiếu, ông theo gia đình sống nhiều nơi ở các tỉnh miền Trung, miền Bắc. Ông kể về thời gian học Thành chung ở Nam Định năm 1929: “Học đến năm thứ hai trung học thì tôi cưới vợ. Vợ tôi là con gái Hàng Bạc, cũng là chỗ môn đăng hộ đối, do gia đình lựa chọn cho. Tôi cưới vợ sớm vì hồi đó bố tôi ốm nặng, sợ không qua khỏi, tôi là con trưởng, hai gia đình quen biết đã lâu nên bà cụ muốn cưới sớm”. + Sau khi lấy vợ, Nguyễn Tuân vẫn còn đi học. Vì tham gia bãi khóa phản đối giáo viên Pháp nói xấu người Việt nên ông bị đuổi học, bị ghi vào hồ sơ là trong 5 năm không được nhận vào làm ở các cơ quan nhà nước. Ông kể tiếp: “Mẹ tôi lấy cho một cái bát họ, để tôi mở hiệu sách. Tôi làm đại lý cho các báo Trung Bắc tân văn, Thanh Nghệ Tĩnh, Tiểu thuyết thứ bảy,… Được vài năm thì tôi phá gần sạch vốn, đành đưa vợ con về sống bám vào thầy mẹ tôi”.

- Cá tính + Nguyễn Tuân là một trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Lòng yêu nước của ông có màu sắc riêng: gắn liền với những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc. Ông yêu tha thiết tiếng mẹ đẻ, những kiệt tác văn chương của Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Tú Xương, Tản Đà... những phong cảnh đẹp của quê hương đất nước, những thú chơi tao nhã như uống trà, nhắm rượu, chơi hoa, chơi chữ đẹp, đánh thơ, thả thơ... những món ăn truyền thống thể hiện khẩu vị tinh tế của người Việt. + Ở Nguyễn Tuân, ý thức cá nhân phát triển rất cao. Ông viết văn trước hết để khẳng định cá tính độc đáo của mình. Ông ham du lịch, tự gán cho mình một chứng bệnh gọi là “chủ nghĩa xê dịch”. - Tài năng + Nguyễn Tuân là con người rất mực tài hoa. Tuy chỉ viết văn nhưng ông còn am hiểu nhiều môn nghệ thuật khác: hội họa, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh... Đồng thời Nguyễn Tuân còn là một diễn viên kịch nói có tài và là một diễn viên điện ảnh đầu tiên ở nước ta. Ông thường vận dụng con mắt của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau để tăng cường khả năng quan sát, diễn tả của nghệ thuật văn chương. + Nguyễn Tuân là một nhà văn biết quý trọng thật sự nghề nghiệp của mình. Ngay từ trước Cách mạng tháng Tám, ông đã quan niệm nghề văn là một cái gì đối lập với tính vụ lợi kiểu con buôn, và ở đâu có đồng tiền phàm tục thì ở đấy không thể có cái đẹp. Đối với ông, nghệ thuật là một hình thái lao động nghiêm túc, thậm chí “khổ hạnh” và ông đã lấy chính cuộc đời cầm bút hơn nửa thế kỉ của mình để chứng minh cho quan niệm ấy.

+ Năm 1996, ông được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. 2. Sự nghiệp sáng tác - Bút danh của Nguyễn Tuân: Nguyễn Tuân, Nhất Lang, Thanh Thuỷ, Thanh Hà, Ngột Lôi Nhật, Ngột Lôi Quật, Ân Ngũ Tuyên, Tuấn Thừa Sắc. - Nguyễn Tuân không phải là nhà văn thành công ngay từ những tác phẩm đầu tay. Ông viết văn từ năm 1930 nhưng thực sự nổi tiếng ở năm 1939. Ông đã thử bút qua nhiều thể loại: thơ, bút kí, truyện ngắn hiện thực trào phúng. Nhưng mãi đến đầu năm 1938, ông mới nhận ra sở trường của mình và thành công xuất sắc với các tác phẩm: “Một chuyến đi, Vang bóng một thời, Thiếu quê hương, Chiếc lư đồng mắt cua...” Tác phẩm Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám chủ yếu xoay quanh ba đề tài: chủ nghĩa xê dịch, vẻ đẹp vang bóng một thời, và đời sống trụy lạc. - Sự nghiệp văn học của Nguyễn Tuân chia làm 2 giai đoạn: + Trước năm 1945: Tác phẩm của ông chủ yếu xoay quanh 3 đề tài: • Mảng đề tài “Chủ nghĩa xê dịch”: Chủ nghĩa xê dịch vốn là một lí thuyết vay mượn của phương Tây, chủ trương đi không mục đích, chỉ luôn luôn thay đổi chỗ để tìm cảm giác mới lạ và thoát li mọi trách nhiệm với gia đình và xã hội. Nguyễn Tuân đã tìm đến lí thuyết này trong tâm trạng bất mãn và bất lực trước thời cuộc. Nhưng viết về chủ nghĩa xê dịch, Nguyễn Tuân lại có dịp bày tỏ tấm lòng gắn bó tha thiết của ông đối với cảnh sắc và phong vị của đất nước mà ông đã ghi lại được bằng một ngòi bút đầy trìu mến và tài hoa (Một chuyến đi).Ông quan niệm một cách độc đáo là phải xê dịch để “thay đổi thực đơn cho các giác quan”

• Mảng đề tài “Vang bóng một thời”: Không tin tưởng ở hiện tại và tương lai, Nguyễn Tuân đi tìm vẻ đẹp của quá khứ còn vang bóng một thời. Ấy là thời phong kiến đã qua nhưng dư âm còn vang vọng lại. Ông không viết về trật tự xã hội, về tư tưởng đạo đức cũ, mà phục sinh lại vẻ đẹp riêng của thời xưa với những phong tục đẹp, những thú tiêu dao hưởng lạc lành mạnh và tao nhã, những cách ứng xử giữa người với người đầy nghi lễ nhịp nhàng... Ông đã âm thầm làm công việc khơi lại đống tro tàn để lưu giữ những vẻ đẹp chỉ còn vang bóng. Đặt trong hoàn cảnh đất nước đang bị thực dân Pháp cai trị, mảng đề tài này thể hiện sự quay lưng với thực tại. Tất cả được thể hiện thông qua những con người thuộc lớp người nhà nho tài hoa bất đắc chí, tuy đã thua cuộc nhưng không chịu làm lành với xã hội thực dân (trong số này cũng có những người có khí phách ngang tàng như Huấn Cao (Chữ người tử tù) chẳng hạn). • Mảng đề tài về đời sống trụy lạc: Do mồ côi về mặt tư tưởng, có những lúc Nguyễn Tuân rơi vào chán nản, bế tắc. Ở những tác phẩm này, người ta thường thấy có một nhân vật “tôi” hoang mang bế tắc, tìm cách thoát li trong đàn hát, trong rượu và thuốc phiện. Trong tình trạng khủng hoảng tinh thần ấy, người ta thấy đôi khi vút lên từ cuộc đời nhem nhuốc, phàm tục niềm khao khát một thế giới tinh khiết, thanh cao, được nâng đỡ trên đôi cánh của nghệ thuật (Chiếc lư đồng mắt cua, Ngọn đèn dầu lạc,…). +Sau năm 1945: • Nguyễn Tuân đã được giác ngộ Cách mạng, ông không còn quay lưng với cuộc đời mà ông tìm thấy sự hòa hợp với cuộc sống mới và con người mới. Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông chân thành đem ngòi bút phục vụ cuộc chiến đấu của dân tộc, theo sát từng nhiệm vụ chính trị của đất nước. Nhưng Nguyễn Tuân luôn luôn có ý thức phục vụ trên cương vị của một nhà

văn, đồng thời vẫn muốn phát huy cá tính và phong cách độc đáo của mình. Ông đã đóng góp cho nền văn học mới nhiều trang viết sắc sảo và đầy nghệ thuật ca ngợi quê hương đất nước, ca ngợi nhân dân lao động trong chiến đấu và sản xuất. ( Tùy bút sông Đà, Hà Nội ta đánh giặc Mỹ giỏi,… *Những tác phẩm của Nguyễn Tuân • Một chuyến đi (1938), tùy bút - du kí • Ngọn đèn dầu lạc (1939), phóng sự • Vang bóng một thời (1940), tập truyện ngắn • Thiếu quê hương (1940), tập tùy bút • Chiếc lư đồng mắt cua (1941), tập tùy bút • Tàn đèn dầu lạc (1941), tập tùy bút • Tùy bút (1941), tập tùy bút • Tóc chị Hoài (1943), tập tùy bút • Tùy bút II (1943), tập tùy bút • Nguyễn (1945), tập truyện ngắn • Chùa Đàn (1946), tiểu thuyết • Đường vui (1949), tập tùy bút • Tình chiến dịch (1950), tập bút kí • Thắng càn (1953), tiểu thuyết • Chú Giao làng Seo (1953), truyện thiếu nhi • Đi thăm Trung Hoa (1955), tập bút kí • Tùy bút kháng chiến (1955), tập tùy bút • Tùy bút kháng chiến và hòa bình (1956), tập tùy bút • Truyện một cái thuyền đất (1958), truyện thiếu nhi

• Sông Đà (1960), tập tùy bút • Cô Tô (1965), ký • Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972), tập tùy bút • Ký (1976) • Tuyển tập Nguyễn Tuân (tập I: 1981) • Cảnh sắc và hương vị đất nước (1988), tập tùy bút • Yêu ngôn (2000, sau khi mất) , tập tiểu luận 3. Phong cách sáng tác 3.1. Trước Cách mạng tháng Tám - Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể thâu tóm trong một chữ “ngông”. “Ngông” là thái độ khinh đời, ngạo đời, dựa trên tài hoa, sự uyên bác và nhân cách hơn đời của mình. “Nguyễn Tuân bước vào nghề văn như để “chơi ngông” với thiên hạ”. Nhu cầu “chơi ngông” buộc Nguyễn Tuân phải đẩy mọi cái thông thường tới cực đoan, thậm chí tới kì thuyết, nghịch thuyết. Chủ nghĩa độc đáo trong sinh hoạt tất dẫn đến lối sống lập dị, trong sáng tác tất dẫn đến bất chấp nội dung ý nghĩa nghiêm túc, tha hồ phóng bút để ném ra những gì kì lạ, oái oăm, cầu kì, rắc rối. Cái “ngông” đó không phải do chủ nghĩa cá nhân bế tắc mà do “thiên lương” của một trí thức yêu nước, biết coi trọng nhân cách, muốn tách mình ra và “đặt mình lên trên những cái tầm thường của những kẻ thỏa mãn với thân phận nô lệ” (Nguyễn Đăng Mạnh). Ngày xưa, Nguyễn Công Trứ có câu thơ rất ngông: “Trời đất cho ta một cái tài Giắt lưng dành để tháng ngày chơi”.

( Cầm kì thi tửu bài 1) - Nguyễn Tuân là một người tài hoa uyên bác. Sự thật đó được chứng minh ở các điểm sau: + Sự tài hoa • Nhân vật: Các nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân không được đánh giá các tiêu chuẩn tốt xấu, đúng sai, thiện ác mà ông chỉ chú ý đến vẻ đẹp trong mỗi nhân vật. Nhìn người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ, tạo nên những nhân vật tài hoa để... đem đối lập với những con người bình thường, phàm tục. Con người trong văn Nguyễn Tuân bao giờ cũng đẹp với vẻ tài hoa nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình. Với Nguyễn Tuân những người bình thường khi thực hiện những công việc bình thường trong phạm vi nghề nghiệp mà họ đang làm nếu đạt tới một trình độ tinh xảo, nhuần nhuyễn, khéo léo mà người khác khó lòng theo kịp thì được coi là một kẻ tài hoa: “mĩ thuật vốn không có bà con luận lí với thời đại, một thằng ăn cắp cũng trở lên đẹp đẽ khi nó cắt túi người ta rất gọn, rất nhanh”. Nguyễn Tuân tiếp cận mọi sự vật ở mặt văn hóa thẩm mĩ để khám phá và... khen chê. Nguyễn Tuân luôn say mê truy tìm vẻ đẹp độc đáo của con người và cuộc sống.Ông tô đậm cái phi thường, gây cảm giác mãnh liệt dữ dội. Nguyễn Tuân thường miêu tả những cảnh đẹp tuyệt mĩ, tuyệt đích; cái đẹp ấy là sự hội tụ của cái đẹp thi vị trữ tình và vẻ đẹp hoành tráng dữ dội đến dữ dằn. • Ngôn từ: Nguyễn Tuân được mệnh danh là bậc phù thủy ngôn từ trong văn học Việt Nam. Các nhà phê bình đã từng ca ngợi: “Ngôn ngữ của Nguyễn Tuân như những khớp xương, có sự co duỗi nhịp nhàng”. Còn nhà văn Anh Đức so sánh: “Mỗi chữ Nguyễn Tuân giống như một cái triện ngọc”.

+ Sự uyên bác: Ngòi bút uyên bác của Nguyễn Tuân được tạo nên bởi kho tri thức vô cùng đồ sộ về các ngành, khoa học và các bộ môn nghệ thuật. Vận dụng trí thức của nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật để quan sát hiện thực, sáng tạo hình tượng. + Sự phóng túng: Khi viết văn, Nguyễn Tuân đặt cá tính lên hàng đầu, không chịu khuôn mình theo bất kì một công thức, lối mòn nào. Chính vì thế mà Nguyễn Tuân sinh ra để dành cho thể loại tùy bút - thể loại phóng túng nhất trong văn học Việt Nam. - Nguyễn Tuân là một con người có nhân cách đạo đức hơn đời: chỗ dựa ở thái độ “ngông” của ông không chỉ ở sự tài hoa uyên bác mà còn ở tính cách “ngông” của ông. Cái gốc của nhân cách đạo đức của Nguyễn Tuân là lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, niềm tha thiết với cái đẹp của văn nghệ, của phong tục tập quán, của thiên nhiên và những thú chơi tao nhã. - Trước Cách mạng, Nguyễn Tuân quan niệm cái đẹp chỉ có ở trong quá khứ gọi là “Vang bóng một thời” và tài hoa người nghệ sỹ chỉ có ở những con người xuất chúng, thuộc thời trước còn vương sót lại như Huấn Cao trong “Chữ người tử tù”, Bát Lê trong “Bữa rượu máu”. =>Nguyễn Tuân là một cái tôi “ngông” vừa rất lạ, rất đặc biệt, vừa lấp lánh không gì sánh nổi trên bầu trời văn học Việt Nam. Ông là một con tằm rong chơi qua ngàn dâu thắm, hóa kén mọng, nhả tơ vàng, dệt nên nhiều lụa óng, lắm “trang hoa”, góp phần làm vẻ vang thêm cho nền văn học sớm đã rộn ràng của nước nhà.

3.2. Sau Cách mạng tháng Tám - Sự vận động, đổi mới trong phong cách nghệ thuật tồn tại song song với tính thống nhất, ổn định của phong cách nghệ thuật. Quy luật sáng tạo đòi hỏi người nghệ sĩ phải biết vượt lên chính mình và không được giẫm lên dấu chân người khác. Phong cách Nguyễn Tuân cũng có sự vận động theo chiều hướng tích cực ấy. Trước và sau Cách mạng là cả một sự thay đổi kì diệu trong văn ông. Cách mạng đã giải thoát cho tâm hồn và nghệ thuật Nguyễn Tuân, hướng nhà văn tới cuộc sống và nhân dân. - Sau Cách mạng, Nguyễn Tuân đi đầu trong cuộc “lột xác văn chương”, ông hòa cái tôi nghệ thuật của mình vào cái ta chung của cộng đồng, không còn nhấm nháp, say sưa chắt chiu cái đẹp trong những tiểu thế giới tù túng, chật hẹp nữa. Nhà văn cảm nhận được cái khỏe đẹp, rộng rãi, bao la của đất trời đổi mới. Cái nhìn của nhà văn với cuộc sống, con người trở nên đôn hậu hơn. Quan niệm của ông về cái đẹp vì thế mà bớt đi sự phù phiếm, phiến diện, từng bước tiếp cận với cái đẹp chân chính và tiến bộ. Ông đi tìm cái đẹp của chủ nghĩa anh hùng trong đời sống của những con người lao động bình thường mà rất phi thường ở công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa miền Bắc lúc bấy giờ như “thứ vàng mười” đã qua thử lửa mà ta bắt gặp đâu đó qua nhân vật Nhẫn (“Cỏ non” - Hồ Phương), anh thanh niên Long (“Lặng lẽ Sa Pa” - Nguyễn Thành Long), chị Đào(“Mùa lạc” - Nguyễn Khải). Ông lái đò sông Đà trong tuỳ bút Người lái đò sông Đà cũng là một con người như thế. Miêu tả tư thế vượt thác hiên ngang, anh dũng của ông lái đò, Nguyễn Tuân ca ngợi phẩm chất của người lao động thời đại mới, chủ động trước thiên nhiên, dám tấn công vào những thế lực dữ dội nhất của thiên nhiên. Đây là khám phá mới mẻ, độc đáo của Nguyễn về hình ảnh con người mới.

- Nếu như trước Cách mạng, Nguyễn Tuân có cái “ngông”, “khinh bạt”, “ngạo đời” với xung quanh thì nay ông dùng cái nhìn ấy để đả kích, tấn công kẻ thù. Nhà văn để dành lối khinh bạt ấy cho thực dân Pháp nhằm đả kích, mỉa mai chưa hề bao giờ tôi thấy dòng sông Đà đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây lếu láo mà cứ như thế mà phết vào bản đồ lai chữ (Người lái đò sông Đà). Sự thay đổi sắc sảo trong ngòi bút Nguyễn Tuân cũng là kết quả của quá trình “lột xác” đầy đau đớn của ông. - Trước và sau Cách mạng có sự thay đổi lớn trong thể loại văn Nguyễn Tuân. Nếu như trước Cách mạng, ở các tập truyện ngắn Nguyễn Tuân được coi là bậc thầy với những nét độc đáo, riêng biệt thì nét phong cách này được thể hiện rõ trong Chữ người tử tù – “một truyện ngắn gần đạt tới sự toàn mĩ” (Vũ Ngọc Phan). Sau Cách mạng, thể loại tuỳ bút phát triển mạnh mẽ hơn, Người lái đò sông Đà là một trong những thành công xuất sắc của tuỳ bút Nguyễn Tuân. Có thể nói trong thể loại tuỳ bút trong làng văn Việt Nam đã xuất hiện Thạch Lam, Vũ Bằng… nhưng chưa ai theo kịp được “thể phách Nguyễn Tuân”. - Nguyễn Tuân còn có đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của ngôn ngữ văn học Việt Nam. Ông có một kho từ vựng phong phú và một khả năng tổ chức câu văn xuôi đầy giá trị tạo hình, lại có nhạc điệu trầm bổng, biết co duỗi nhịp nhàng. Nhận xét về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, Anh Đức viết: “Không biết chừng nào mới lại có một nhà văn như thế, một nhà văn mà khi ta gọi là một bậc thầy của ngôn từ ta không hề thấy ngại miệng, một nhà văn độc đáo, vô song mà mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút đều như có đóng một dấu triện riêng”. =>Với gần 50 năm hoạt động văn học liên tục, bằng ngòi bút đầy tài năng của mình, Nguyễn Tuân đã có những đóng góp tto lớn, một vị trí quan trọng trong

lịch sử văn học Việt Nam: Thúc đẩy thể tùy bút, bút kí văn học đạt đến đỉnh cao, làm phong phú thêm ngôn ngữ dân tộc, đem đến cho nền văn xuôi hiện đại Việt Nam một phong cách tài hoa và độc đáo.Nguyễn Tuân đã thực sự “vang bóng một thời” và những trang văn tài hoa, độc đáo của ông cũng sẽ bất tử mãi tử mãi trong lòng bạn đọc. 3.3. Tiểu kết - Gần 50 năm hoạt động văn học liên tục, Nguyễn Tuân còn có đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của ngôn ngữ văn học Việt Nam. Sách giáo khoa hiện hành xếp ông vào một trong 9 tác gia tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Tuân thật xứng đáng ở tầm cỡ nhà văn lớn. Nói đến ông, người ta nghĩ ngay đến một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, rất mực tài hoa và độc đáo. Không thể tưởng tượng nổi sẽ lạnh lẽo và tiêu điều tới mức nào nếu đại ngàn văn chương dân tộc thiếu vắng những nghệ sĩ ngôn từ bậc thầy như nhà văn Nguyễn Tuân. - Ðặc biệt, Nguyễn Tuân “lớn” ở cả hai thời kỳ, từ cuộc đời cũ đến cuộc đời mới ; vừa là cây bút nổi bật của xu hướng văn học lãng mạn trước năm 1945 với đủ thứ “tật bệnh điển hình”, vừa ở trong hàng ngũ những nhà văn thành tâm chào đón và chân thành đi theo Cách mạng đến cùng. Trong hành trình gian khổ hơn nửa thế kỷ ấy có lúc va vấp, có lúc chênh vênh, cũng có lúc phải tự “lột xác” đớn đau, nhưng nhà văn vẫn luôn giữ vẹn được nhân cách, bản ngã của mình. Cái ngông, suy đến cùng, lại như một giá trị, được đảm bảo bởi sức bền vững của tài hoa và tầm cao tư tưởng nghệ thuật. Trên đỉnh cao sáng tạo vừa chói lòa vinh quang vừa cực kỳ cheo leo hiểm trở, nhà văn phải dốc đến kỳ cùng sức lực để không trở nên nhạt nhẽo, vẫn luôn giữ được nét độc đáo của phong cách nghệ thuật.

- Tinh thần tự nguyện dấn thân, bám trụ ở thành trì cái Ðẹp là biểu hiện sinh động của một nhân cách văn hóa lớn. Nhà văn Nguyễn Tuân “đặc Việt Nam” (chữ dùng của Vũ Ngọc Phan) từ quan niệm cho tới thực tế sáng tác. Chất văn hóa như sợi chỉ đỏ xuyên suốt, là cái phần cơ bản nhất làm nên giá trị vĩnh hằng cho văn nghiệp của ông. - Do đó, vẻ đẹp của trang viết Nguyễn Tuân là kết quả tất yếu từ một cách viết mang chiều sâu, bề rộng và tầm cao văn hóa. Lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, đặc biệt biểu hiện ở thái độ thành kính trân trọng tiếng mẹ đẻ và các giá trị truyền thống chính là động lực bên trong, thôi thúc nhà văn không ngừng tìm tòi, khơi nguồn vốn cũ và sáng tạo nên giá trị mới. Ông xứng đáng được mệnh danh là “chuyên viên cao cấp tiếng Việt”, là “người thợ kim hoàn của chữ” (Ý của Tố Hữu). Trong lâu đài văn chương nghệ thuật dân tộc Việt Nam ở thế kỷ 20, rất dễ nhận ra phần chạm trổ tinh xảo của người nghệ sĩ ngôn từ Nguyễn Tuân. III. TÁC PHẨM “NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ” 1. Tùy bút “Sông Đà”

- Tập Tùy bút Sông Đà gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ phác thảo; trong đó, đặc sắc hơn cả là tùy bút “Người lái đò sông Đà”. - Tác phẩm là kết quả chuyến đi thực tế lên Tây Bắc của Nguyễn Tuân những năm 1958 - 1960. Trở lại vùng đất đã từng gắn bó với ông những năm kháng chiến chống Pháp gian khổ, Nguyễn Tuân như được sống lại với những kỉ niệm thân thuộc và cảm xúc nghệ sĩ lại dâng trào trong tâm hồn ông. - Cảnh vật và con người Tây Bắc đã có một sức hấp dẫn cuốn hút đặc biệt đối với Nguyễn Tuân. Ông say mê trước vẻ đẹp thơ mộng trữ tình và cả cái hoang sơ dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc. Nhưng đề cập đến vẻ đẹp của lòng người, tình người. Trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân đã tự nhận mình là người “đi tìm thứ vàng của màu sắc sông núi Tây Bắc”. Nhất là thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí mỗi con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với Tây Bắc thêm sáng sủa, tươi vui và thêm bền vững - “Sông Đà” nói chung và “Người lái đò sông Đà” nói riêng tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám: uyên bác, tài hoa, tìm cái đẹp từ trong cuộc sống hiện tại của nhân dân lao động, câu chữ gọt giũa tinh xảo, câu văn giàu hình ảnh. 2. Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” 2.1. Xuất xứ - In trong Tùy bút “Sông Đà”,in lần đầu năm 1960 . Tập tùy bút này gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Người lái đò Sông Đà là một trong những áng văn tiêu biểu nhất của tập Sông Đà, thể hiện những nét đặc sắc trong nghệ thuật tùy bút của Nguyễn Tuân

2.2. Hoàn cảnh sáng tác - Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo. 2.3. Thể loại - Tuỳ bút là một thể thuộc loại hình kí, rất gần với bút kí, kí sự mà đôi khi trong tiếng Việt vẫn thường gọi là tạp văn. - Nét nổi bật của tuỳ bút là qua việc ghi chép những con người và sự kiện cụ thể có thực, tác giả đặc biệt chú trọng đến việc bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức, đánh giá của mình về con người và cuộc sống hiện tại. - So với các tiểu loại khác nhau của kí, tuỳ bút vẫn có không ít những yếu tố chính luận và chất suy tưởng triết lí trong một số trường hợp nhằm bộc lộ quan điểm, lý tưởng, cảm xúc của một người hoặc một lớp người trong xã hội - Cấu trúc của tuỳ bút, nói chung, không bị ràng buộc, câu thúc bởi một cốt truyện cụ thể, song nội dung của nó vẫn được triển khai theo một cảm hứng chủ đạo, một tư tưởng chủ đề nhất định xuyên suốt tác phẩm. Ngôn ngữ tuỳ bút giàu hình ảnh và chất thơ nhằm bộc lộ rõ những đặc điểm của sự vật sự việc được nói đến trong bài. Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Tuân là nhà văn viết tuỳ bút nổi tiếng với tùy bút “Cô Tô”, “Sông Đà”,… 2.4. Chủ đề

- Qua hình tượng sông Đà và người lái đò, Nguyễn Tuân muốn thể hiện niềm yêu mến thiết tha với thiên nhiên đất nước và ngợi ca những con người lao động - chất “vàng mười” của cuộc sống. 2.5.Ý nghĩa nhan đề - Nhan đề “Người lái đò sông Đà” trước hết gợi cho người đọc về nhân vật trung tâm của tác phẩm đó là ông lái đò – một người lao động tại vùng sông nước Tây Bắc. Ông lái đò vừa có những vẻ đẹp của một người lao động bình thường, vừa có phẩm chất của một người nghệ sĩ tài hoa. Đồng thời, nhan đề cũng nhấn mạnh đến một hình tượng không kém phần quan trọng của tác phẩm là con sông Đà. Vẻ đẹp thiên nhiên của sông Đà hiện lên đầy hùng vĩ, hung bạo nhưng cũng không kém phần thơ mộng, trữ tình. - Qua nhan đề trên, Nguyễn Tuân muốn khẳng định vẻ đẹp của con người lao động ở vùng núi Tây Bắc trong công cuộc chinh phục thiên nhiên để kiến thiết quê hương đất nước. 2.6. Bố cục tác phẩm - Phần 1 (từ đầu đến “cái gậy đánh phèn”): Vẻ hung dữ của con sông Đà - Phần 2 (tiếp đó đến “dòng nước sông Đà”): Cuộc sống của con người trên sông Đà và hình ảnh người lái đò sông Đà - Phần 3 (còn lại): vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của sông Đà 2.7.Tóm tắt Câu chuyện vượt sông Đà đã được nhà văn kể lại bằng tất cả niềm hứng khởi về sức mạnh con người chiến thắng thiên nhiên, với tất cả kịch tính, cao trào

để tôn vinh nghệ thuật chinh phục thác đá sông Đà. Thiên nhiên Tây Bắc được tô điểm bởi con sông đà vừa hung bạo vừa trữ tình. Sông Đà có lúc dịu dàng như người phụ nữ kiều diễm. Nước sông Đà thay đổi theo mùa phản chiếu trời xuân nắng thu “Mùa xuân dòn xanh ngọc bích, mùa thu lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”. Dọc theo sông Đà, có lắm thác nhiều ghềnh, có đá dựng vách thành, có đá tảng, đá hòn bày thế thạch trận, tạo nên cửa sinh cửa tử. Nổi bật trên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, đầy sức sống đó là hình ảnh ông lái đò sông Đà. Đó là một người mang vẻ đẹp khỏe khoắn của người dân lao động vùng sông nước với thân hình cao to, nước da rám nắng. Ông làm nghề lái đò đã nhiều năm, từng gắn bó với dòng sông Đà, hiểu được tính khí của nó. Ông thuộc nằm lòng từng con thác lớn, thác nhỏ, từng vách đá, luồng nước, từng cửa sinh, cửa tử do thế thạch trận tạo nên. Ông đã dùng kinh nghiệm nghề nghiệp cộng với sự cần cù gan dạ đưa con thuyền vượt thác nước sông Đà đầy nguy hiểm. Ông đã đưa nhiều chuyến hàng về xuôi an toàn để góp phần vào cuộc sống. Sau khi vượt sông Đà, ông lái đò trở về cuộc sống đời thường thanh thản của mình, ông neo thuyền chổ khúc sông bình lặng và nấu ống cơm lam, bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh. IV. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM 1. Ý nghĩa lời đề từ trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” Đề từ không phải thứ trang sức tô điểm cho tác phẩm văn học mà nó có vai trò như chìa khóa để người đọc mở cánh cửa thâm nhập vào thế giới nghệ thuật tác phẩm.Tiếp nhận tùy bút “Người lái đò sông Đà” bằng lời đề từ có thể giúp đọc giả phần nào nhận thấy những gợi ý về “tháp ngà nghệ thuật” mà Nguyễn Tuân dày công xây dựng.

1.1. Lời đề từ Lời đề từ có thể do tác giả sáng tạo ra, cũng có thể do tác giả vay mượn từ câu nói, lời thơ của một tác giả khác. Chẳng hạn, trong thi phẩm nổi tiếng “Tràng giang”, Huy Cận có lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” . Hay câu nói nổi tiếng của Hồ Chí Minh: “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu để quét sạch nó đi” được nhà văn Nguyễn Minh Châu làm lời đề từ cho tác phẩm “Dâu chân người lính”.Trong bài thơ “Ngày gặp gỡ”, Hồ Dzếnh đã mượn hai câu thơ của Tú Xương làm lời đề từ : “Vẳng nghe tiếng ếch bên tai Giật mình cứ tưởng tiếng ai gọi đò” Hay lời đề từ cho tập “Nhật kí trong tù” in ở bìa sách: “Thân thể ở trong lao Tinh thần ở ngoài lao Muốn nên sự nghiệp lớn Tinh thần càng phải cao” Chức năng cơ bản của lời đề từ là bổ sung và làm rõ tác phẩm, đề dẫn và dự báo nội dung tư tưởng tác phẩm, chứa đựng cái hồn, cái thần thái của tác phẩm văn học. Đối với chủ thể sáng tạo, lời đề từ không những khơi nguồn cảm hứng mà còn thể hiện cảm xúc, phong cách nghệ thuật và chuyển tải ý đồ đến độc giả.Với người đọc, đề từ là điểm nhấn, tín hiệu nghệ thuật mang ý nghĩa định hướng trong quá trình tiếp cận thế giới nghệ thuật của nhà văn, nhà thơ. Đề từ không phải là thứ đồ trang sức tô điểm cho tác phẩm văn học mà nó có tác dụng như chìa khóa để người đọc mở cánh cửa thâm nhập vào thế giới nghệ thuật. Có thể nói, tiếp cận lời đề từ độc giả có thể phần nào nhận thấy những gợi ý về “tháp ngà nghệ thuật” mà nhà văn xây dựng. Vì vậy, bỏ sót hoặc khai thác sơ sài lời đề từ chúng ta sẽ làm rơi rụng không ít vẻ đẹp của một công trình nghệ thuật.

1.2. Nhà văn Nguyễn Tuân Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách độc đáo bậc nhất, là tác giả lớn của văn học Việt Nam hiện đại với những thành tựu xuất sắc của cả hai giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945. Cả cuộc đời Nguyễn Tuân là một cuộc hành trình bền bỉ, không mệt mỏi kiếm tìm những cái đẹp của quá khứ mà hiện tại chỉ còn vang bóng. Sau Cách mạng, ông kiếm tìm, khám phá cái đẹp trong hiện thực cuộc sống đương thời. Lời đề từ đầu tiên: Nguyễn Tuân đã lấy câu thơ của nhà cách mạng Ba Lan Wladyslaw Broniewski: “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”. Tiếng hát trên dòng sông phải chăng là tiếng của những người chèo đò, vượt thác, kéo thuyền, tiếng hát cất lên từ những tâm hồn con người Tây Bác tha thiết với thiên nhiên, đất nước, lạc quan, yêu đời. Người lái đò sông Đà là một trong hai hình tượng trung tâm của thiên tùy bút. Tiếng hát trên dòng sông là tiếng ca của những người lái đò trên sông nước Đà giang - những người anh hùng lao động sông nước, nghệ sĩ ba lê giữa muôn trùng thác đá. Cuộc đời người lái đò vô danh nơi ngọn thác khuất nẻo hoan vu là thiên anh hùng ca, là pho nghệ thuật tuyệt vời. Sáng tạo nên nhân vật trung tâm của bản tráng ca ấy, Nguyễn đã cất lên tiếng hát say mê, phấn khích và đầy ngưỡng mộ, thể hiện một quan niệm mới của Nguyễn về con người: Con người bất kể nơi đâu, bất kể địa vị và nghề nghiệp, sống trọn với bản tính tự nhiên của mình là đều đáng được ngưỡng mộ và tôn vinh. Lời đề từ thứ hai: Nguyễn Tuân mượn hai câu thơ của Nguyễn Quang Bích để nói về sông Đà: “Chúng thủy giai Đông tẩu

Đà giang độc Bắc lưu” (Mọi dòng sông đều chảy về Đông Chỉ có một dòng sông Đà theo hướng Bắc) Lời đề từ ngắn gọn nhưng hàm ẩn nhiều ý nghĩa sâu sắc. Trước hết, việc sử dụng những câu thơ chữ Hán làm tăng thêm tính trang trọng, đồng thời nhấn mạnh đến ý nghĩa khác biệt, độc đáo, những tương quan đối cực của một hiện tượng địa lý của miền Tây Bắc Tổ quốc - Sông Đà như một sinh thể đa dạng, phức tạp. Mọi con sông đều chảy về phía Đông như quy luật của tự nhiên, duy chỉ có sông Đà chảy về phương Bắc. Từ “độc” được sử dụng vô cùng hiệu quả để thể hiện sự độc nhất, cá tính khác biệt của con sông. Lời đề từ làm toát lên vẻ đệp hoang sơ nhưng không kém phần độc đáo của sông Đà, đồng thời thể hiện sự mạnh mẽ của con sông khi chảy qua một vùng núi non hiểm trở. Lời đề từ không phải của Nguyễn Tuân nhưng lại được sử dụng rất đắt giá trong vị trí lời đề từ của tùy bút. Câu thơ ấy không chỉ bộc lộ vẻ đẹp độc đáo, dữ dội của sông Đà mà còn khẳng định phong cách “ngông” của Nguyễn Tuân, một con người luôn tìm tòi cái mới, sáng tạo những gì chưa có bằng tài năng uyên bác, cá tính con người của mình. Lời đề từ của thiên bút kí đặc sắc còn hé lộ khát vọng mãnh liệt của Nguyễn Tuân trên hành trình khám phá hiện tượng thiên nhiên kì thú, đó là thể hiện một dòng sông chữ, nghĩa là muốn thể hiện một phong cách nghệ thuật độc đáo để khẳng định cái tôi tài hoa, uyên bác, không lặp lại cũng như dòng chảy ngược hướng sông Đà khác với tất ca dòng sông khác. Những trang văn “Người lái đò sông Đà” chính là những trang hoa, những tờ hoa kết tinh bao cái đẹp: cái đẹp của thơ cơ, của hội họa và của những tác phẩm điêu khắc.

2.Hình tượng sông Đà “ Đẹp ngàn đời biển trời sông bát ngát Cá dầm xanh, anh vũ nhảy theo mùa Khi mùa lũ thác reo gầm dữ dội Thu chớm lạnh sóng nước lập lờ trôi” (“Nhớ sông Đà”, Quang Lâm)

2.1.Lai lịch con sông Đà Sông Đà (còn gọi là sông Bờ hay Đà Giang) là phụ lưu lớn nhất của sông Hồng. Sông dài 910 km. Sông bắt nguồn từ núi Vô Lượng, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc chảy theo hướng tây bắc - đông nam để rồi nhập với sông Hồng ở Phú Thọ. Đoạn Việt Nam dài 527 km. Điểm đầu là biên giới Việt Nam - Trung Quốc tại huyện Mường Tè (Lai Châu). Sông chảy qua các tỉnh Tây Bắc Việt Nam là Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Phú Thọ (phân chia huyện Thanh Thủy, Phú Thọ với Ba Vì, Hà Nội). Điểm cuối là ngã ba Hồng Đà, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. Thông tin về sông Đà trong tùy bút: \"Sông Đà khai sinh ở huyện Cảnh Đông tỉnh Vân Nam, lấy tên là Ly Tiên (theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi thì tên Trung Quốc của sông Đà lại là Bả Biên Giang) mà đi qua một vùng núi ác, rồi đến gần nửa đường thì xin nhập quốc tịch Việt nam, trưởng thành mãi lên và đến ngã ba Trung Hà thì chan hòa vào sông Hồng. Từ biên giới Trung Việt tới ngã ba Trung Hà là 500 cây số lượn rồng rắn, là tính toàn thân Sông Đà thì chiều dài là 883 nghìn thước mét chảy qua hai nước Việt Nam Trung Quốc xóm giềng\". (Trích tùy bút Người Lái Đò Sông Đà). Chia sẻ của một lão ngư lão luyện ở sông Đà: “Ngày trước, khi con sông Đà chưa bị ngăn dòng làm thủy điện, nó như con ngựa bất kham, nước chảy sôi ùng ục qua trùng lớp ghềnh thác.... Vào đầu những năm 70 thế kỷ trước, mùa lũ nào cũng vậy, dòng sông Đà cuồn cuộn sóng nước, cơ man cũng xoáy nên nuốt chửng đến bài chục mạng người xấu số. Có xác mắc kẹt ở chỗ nông thì người ta còn tìm bớt được, nếu mắc kẹt ở cách đá, hang hốc dưới lòng sông thì chịu...”

(Ông Ngô Văn Tám, làng chài Tân Thịnh, TP. Hòa Bình - một lão ngư có hơn 40 năm kinh nghiệm chài lưới trên dòng sông vùng Tây Bắc kể lại) 2.2.NÉT TÍNH CÁCH [HUNG BẠO] CỦA SÔNG ĐÀ Tùy bút “Người lái đò sông Đà” nổi bật lên với hai hình tượng chính: hình tượng Sông Đà và hình tượng ông lái đò. Trong đó, dọc thiên tùy bút này, vẻ dữ dội, hiểm trở và táo tợn của con Sông Đà đã làm không ít người phải khiếp đảm mà hình dung rằng: “Đi tới sông Đà là nguy hiểm trùng trùng”. Nhưng ẩn sau những hung bạo đó vẫn có sự hiền hào, trữ tình nên thơ. Hai tính cách đối lập như một “cố nhân” khó chiều, và lại lịch của loài thủy quái ấy cũng không kém phần đặc biệt: \"Sông Đà khai sinh ở huyện Cảnh Đông tỉnh Vân Nam, lấy tên là Ly Tiên (theo Dư địa chỉ của Nguyễn Trãi thì tên Trung Quốc của sông Đà lại là Bả Biên Giang) mà đi qua một vùng núi ác, rồi đến gần nửa đường thì xin nhập quốc tịch Việt Nam, trưởng thành mãi lên và đến ngã ba Trung Hà thi cham hoa vào sông Hồng. Từ biên giới Trung Việt tới ngã ba Trung Hoa là 500 cây số lượn rồng rắn, và tinh toàn thân Sông Đà thi chiều dài là 883 nghìn thước mét chảy qua hai nước Việt Nam Trung Quốc xóm giềng\" (Trích tùy bút Người Lái Đò Sông Đà). Sông Đà đã hiện lên như thế, như một đứa con mang hai dòng máu, mà lại thích gắn bó về một phía nên “nhập quốc tịch” về Việt Nam. Dưới ngòi bút của “nhà ngôn ngữ học” Nguyễn Tuân, Sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri vô giác, mà là một sinh thể sống động, có tính cách và cảm xúc như một con người. Bởi vì thế, “Sông Đà” cũng được viết hoa cả hai chữ cái đầu tiên như một danh từ tên riêng. Chính lời đề từ của tác phẩm đã thể hiện sự độc đáo và khác biệt của Sông Đà ấy: \"Chúng thủy giai Đông tẩu, Đà giang độc Bắc lưu\" - Mọi dòng sông đều chảy về hướng đông, chỉ có Sông Đà chạy theo hướng bắc. Và nhà văn đã mượn câu của nhà thơ cách mạng Ba Lan Wladyslaw Broniewski: “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng

sông\", đưa Nguyễn Tuân đến với lời khẳng định: nhà văn có một trong những lời đề từ hay nhất của làng văn chương Việt Nam” (Trần Quỳnh Trang). Hai lời đề từ đặc biệt ấy đã đưa người đọc vừa tò mò xen lẫn những hồ nghi về một con sông được giới thiệu quá đỗi khác biệt- khiến độc giả muốn đi tiếp để tìm ngay lời giải đáp thật thuyết phục. - Viết về sông Đà, nghĩa là Nguyễn Tuân đã chấp nhận một thử thách bởi lẽ: Với người Việt Nam thì vốn dĩ dòng sông ấy đã là một huyền thoại. Đó là huyền thoại về chàng Thủy Tinh với nỗi oán hờn không lấy được người mình yêu nên cứ năm năm báo oán đời đời đánh ghen. Điều đó chứng tỏ trí tưởng tưởng của người Việt Nam hẳn là phải rất bay bổng còn tâm hồn người Việt Nam thì hẳn là rất lãng mạn thì mới có thể gắm cho dòng sông thác lũ ấy hình ảnh người tình si và vì thế, khi mà viết về sông Đà, bản thân Nguyễn Tuân đã chấp nhận tìm đến môt huyền thoại mới cho dòng sông này. Mặt khác, một thử thách nữa của Nguyễn Tuân là: Xưa nay, thơ văn viết về sông nước là không hiếm. Thậm chí có cả kiệt tác để đời. Ví dụ không thể quên được hai câu thơ của Lý Bạch: “Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước Ngỡ dải ngân hà tuột khỏi mây” Còn trong “Bạch Đằng giang phú”, Trương Hán Siêu đã viết: “Bát ngát sóng kình muôn dặm Thướt tha đuôi trĩ một màu”. Nhưng dẫu sao, vẻ đẹp sông nước trong thơ xưa cũng chỉ là vẻ đẹp như của một bức tranh và sự dữ dội cũng là sự dữ dội ở thế tĩnh. Còn với Nguyễn Tuân, ông bắt sự dữ dội lia phải nổi lên thành hình khối và phải gào thét trong muôn vạn âm thanh, phải náo động và sống động như một sinh thể. Nguyễn Tuân đã khiến cho người ta khi đứng trước thiên nhiên ấy không hỉ chiêm ngưỡng mà còn khát khao chế ngự nó.

* Sự dữ dội của sông Đà được thể hiện qua vách đá sông Đà - Vách đá trên sông Đà: “đá bờ sông dựng vách thành” và những bức thành vách đá cao chẹt chặt lấy lòng sông hẹp. Cái hẹp của lòng sông tác giả tả theo đủ cách: + “Vách đá chẹt lòng sông như một cái yết hầu”. + “Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”. + Con hổ con nai có thể vọt qua sông, và chỉ cần nhẹ tay thôi cũng có thể ném hòn đá từ bờ bên này qua bên kia vách… + “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một cái khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. =>Cách so sánh vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ và lạ lùng. Cảm giác như Nguyễn Tuân luôn lục lọi đến tận kiệt cùng cái kho ấn tượng đầy ăm ắp để tìm cho được một cách nói có thể làm kinh động hồn trí con người. * Sự dữ dội của Sông Đà ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng: - Nếu như ở vách đá sông Đà, Nguyễn Tuân thiên về miêu tả hình ảnh thì ở quãng măt ghềnh Hát Loóng, Nguyễn Tuân lại tạo nên một bản hòa tấu, một bản giao hưởng tử thần với hàng cây số: “Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò nào tóm được qua đấy”. Bản giao hưởng này khiến cho ta nhớ tới sử thi “Ô – đi – xê” của Hermero. Trong bản sử thi đó, tiếng hát mê hồn của những nàng tiên cá Si – men cũng là tiếng hát của thần chết. Bởi lẽ tất cả các thủy thủ khi nghe tiếng hát này đều nhảy xuống biển. *Sự dữ dội được thể hiện ở quãng Tà Mường Vát:

- Để miêu tả cái hút nước, Nguyễn Tuân đã dường như huy động mọi kiến thức từ kiến thức thủy lợi, cầu đường khi miêu tả cái hút nước nó giống như cái giếng bê tông được thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu cho đến kiến thức giao thông khi miêu tả cảnh “không thuyền nào dám men gần cái hút nước ấy, thuyền nào cũng chèo nhanh để lướt qua quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực” . Lại có cả kiến thức của ngành khai thác dầu khoan với so sánh: “Chèo cho nhanh và tay lái cho vững để phóng qua một cái giếng sâu”, những cái giếng sâu mà “nước ặc ặc lên như rót dầu sôi vào”. Nhưng có lẽ, thú vị nhất là cách mà Nguyễn Tuân đã sử dụng kiến thức về điện ảnh để làm nổi bật lên cái hút nước đáng sợ kia và Nguyễn Tuân cũng đã rất giỏi để chọn góc quay khác nhau. Có những góc quay mang tính biểu tượng khi quay trên cái mặt xoáy hút nước ấy những “cánh quạ bay lừ lừ”. Cái ngôn ngữ ấy đủ để chúng ta hiểu là dưới những cái hút đáy chẳng khác nào một cái cối xay thịt. Lại có góc quay khác ấn tượng và táo bạo hơn khi quay được cảnh “nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là bị cái hút ấy hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở dưới khuỷu sông dưới”. Bè gỗ còn là thế, huống chi là con người nhỏ bé. Hình như ở cái quãng sông ấy, nếu ai phải lao động trên nó thì không khác gì phải lao vào một trận tử chiến. Nhưng Nguyễn Tuân có vẻ không bằng lòng ở cảm giác ấy, nhà văn còn tưởng tượng đến một cảnh quay mạo hiểm hơn, đáng sợ hơn khi nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khan giả đã dám dung cảm ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền, cả mình, cả máy quay xuống tận cái đáy của hút sông Đà để thu máy trong điều kiện: “cái thuyền xoay tít, những thước phim cũng quay tít. Cái máy đã lia ngược lên trên mặt giếng mà thành giếng đã xây toàn bằng nước sông xanh ve, một áng thủy tinh khối đúc dày và khối pha lê xanh ấy như là sắp vỡ tan để ụp cả

máy vào người quay và người xem”. Và để kì công hơn, Nguyễn Tuân lại phải thêm một so sánh nữa: “như thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt lấy ghế như ghì lấy mép của một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn”. Dày công như Nguyễn Tuân, kĩ lưỡng như Nguyễn Tuân để đạt được vẻ đẹp sinh động và sống động như Nguyễn Tuân cũng thực là hiếm hoi. * Sự hung bạo ở Thạch trận sông Đà - Âm thanh thác nước sông Đà: + Ban đầu tác giả mới để cất lên khúc như đang “oán trách”, “van xin”, “khiêu khích”, “giọng gằn mà chế nhạo”. Thế rồi bất ngờ âm thanh được phóng to hết cỡ, các nhạc khí bừng bừng thét lên khúc nhạc của một thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích mạnh mẽ và man dại: “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa...rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng...”. + Sự liên tưởng vô cùng phong phú, âm thanh của thác nước sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả không khác gì âm thanh của một trận động rừng, động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử. Lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông, Nguyễn Tuân quả là đã chơi “ngông” lắm trong nghệ thuật. - Diện mạo của thạch trận: Sau khi miêu tả âm thanh của thác đá, Nguyễn Tuân đã đặc tả diện mạo của đá sông Đà. Điều này cũng là một thử thách bởi đá bao giờ cũng là biểu tượng của sự câm lặng đến trơ lì. Vậy mà Nguyễn Tuân nhận ra: Đá sông Đà thằng nào cũng nhăn nhúm, ngỗ ngược. Cái sự ngỗ ngược ẩn chứa trong vẻ bề ngoài im lặng bao giờ cũng rất đáng sợ. - Tâm địa của thạch trận:

Nhưng đá sông Đà im lặng mà nham hiểm. Nó không nằm ngồi tùy ý mà đang cố tình bày thạch trận trên sông. Sơ đồ chiến thuật của sông Đà vừa gợi người đọc nhớ tới trận “Đồ Bát Quái” của Khổng Minh, vừa gợi đến sơ đồ chiến thuật rất hiện đại của quân sự. Sơ đồ chia thạch trận sông Đà làm ba tuyến (3 vòng trùng. + Tuyến 1( Trùng vi 1): Mở đầu là hàng tiền vệ, gồm hai hòn đá canh một cửa có nhiệm vụ dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa. Sông Đà bước vào trận với tư thế chủ động, hống hách và tự tin. Mở đầu trận đánh hai tảng đá của hàng tiền vệ vừa có nhiệm vụ dụ dỗ người lái đò lao vào trận địa của mình, vừa khiêu khích, thách thức với tất cả thái độ của kẻ chắc thắng. Rồi ngay khi ông đò xuất hiện, sông Đà sử dụng một sức mạnh tổng lực để ra những đòn phủ đầu quyết đánh dập con thuyền. Sông Đà không từ một món đòn hiểm nào, từ việc ùa vào bẻ gãy cán chèo đến việc đá trái, thúc gối vào bụng và hông thuyền, cho đến việc đội cả thuyền lên, túm lấy thắt lưng ông đò, đòi lật ngửa ra. Thêm vào đó, là sự tiếp sức của sóng nước sông Đà. Tiếng reo vang của chúng tạo nên cả một trận nước vang trời thanh la não bạt. Sông Đà càng đánh càng hung, càng đánh càng bạo. Thậm chí, chúng không từ một món đòn “vô sở bất chí”. Không từ cả trò tiểu nhân, bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò, miễn là phải buộc ông đò rời tay lái nhưng dẫu thế, sông Đà vẫn phải chịu thất bại trước người lái đò kiên cường. + Tuyến 2 (Trùng vi 2): Dù vừa chịu thất bại, sông Đà không hề nao núng, lập tức nó tỉnh táo để thay đổi chiến thuật. Điều đó cho thấy, sông Đà không phải là kẻ hữu dung vô mưu, dòng sông ấy như đã quá rõ về trận mạc, không điều gì là nó không tính được. Vòng đầu, sông Đà đánh phủ đầu để dọa đối thủ non tay nhưng ngay sau đó, sông Đà nhận ra ông lái đò là một đối thủ nặng kí, không chỉ dung sức mà còn phải dung mưu. Lần này, nó bố trí lệch cửa sinh, từ tả ngạn sang hữu ngạn. Chưa hết, nó còn bày thêm nhiều cửa tử để đánh lừa ông lái đò. Mưu ấy

quả xứng là mưu sâu kế hiểm, không phải thứ mưu mẹo tẹp nhẹp tầm thường. Đó thật sự là thứ binh pháp của thần sông thần đá được tôi rèn mấy nghìn năm nay. Hơn nữa, ở vòng này, sông Đà cũng không còn khinh xuất, coi thường đối thủ. Nó thận trọng, tập trung toàn bộ sức lực để thể hiện cho kì được âm mưu ấy. Dòng thác được miêu tả là: “Dòng thác hùm beo đang hùng hục tế mạnh. Bốn, năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái xô hết vào ông đò lôi ông vào bẫy cho dù đã chắc thua, chúng vẫn không ngớt khiêu khích”. Vậy mà, thua vẫn hoàn thua. + Tuyến 3 (Trùng vi 3): Thế thua của sông Đà đã xuất hiện ở cuối vòng hai nhưng Sông Đà thật sự là đối thủ cao thượn, hiệp võ, thua mà vẫn không bỏ cuộc, thua mà vẫn chiến đấu đến tận giây phút cuối cùng, vẫn mong sự ngoan cố có thể gowc gạc lại đôi phần. Quả thật, Nguyễn Tuân vừa miêu tả sông Đà như kẻ thù số 1 của con người lại vừa khẳng định, đó là một kẻ thù xứng tầm và xứng đáng để tôn vinh vẻ đẹp của người lao động. Trí tưởng tượng phong phú của Nguyễn Tuân đã khiến sông Đà hiện lên như một thiên anh hùng ca. Thần thoại Hy Lạp xưa tưởng tượng về biển ca trong hình hài của một vị thần. Thần biển Poxedong, chính vị thần tính khí thất thường ấy đã khiến người anh hùng Uylitxo mười năm trời lênh đênh trên biển cả mới trở về quê hương I-tắc nhưng cũng vì thế mà chính Poxedong đã làm nổi bật lên vẻ đẹp của Uylitxo. Xét ra, Nguyễn Tuân vẫn giữ trọn sự phong phú trong lối tư duy của con người thời ấu thơ. Bởi dòng Sông Đà của Nguyễn Tuân quả thật đã là một huyền thoại bên cạnh huyền thoại về chàng Thủy Tinh đa tình. =>Nguyễn Tuân là một nhà văn tài ba, uyên bác, lịch lãm. Ông thường vận dụng cách nhìn, cách tiếp cận của nhiều nghành nghệ thuật để phát hiện, miêu tả đối tượng, để làm cho nó hiện lên dưới nhiều góc nhìn phong phú, mới lạ.Nguyễn Tuân miêu tả sông Đà như một con quái vật có linh hồn, có tính cách, rất hung nộ và cọc cằn, ngày đêm làm mình làm mẩy với núi rừng Tây Bắc hùng vĩ.

2.2.NÉT TÍNH CÁCH [ TRỮ TÌNH ] CỦA ĐÀ GIANG Sinh thời Nguyễn Tuân rất tâm đắc với ý tưởng nghệ thuật của M.Groki: “Cái bình thường là cái chết của nghệ thuật”. Một người như ông không có cái khuôn khổ vô hình nào câu thúc nỗi khát vọng thiện lương, khát vọng dùng văn chương để thưởng ngoạn thì con sông Đà kia không chỉ hung bạo mà rất đỗi trữ tình, thơ mộng. Nếu như trên thượng nguồn, con sông Đà hung bạo, cuồng nộ bao nhiêu thì đến khúc sông hạ lưu sông Đà lại trở nên dịu dàng, thơ mộng bấy nhiêu. Sinh thể Đà giang giờ chợt rùng mình thoát xác, trở thành một dòng sông – thiếu nữ, dòng sông trữ tình. Đó là 1 khoảng vọng mĩ nhân muôn kiếp đa tình trong đôi mắt và tâm hồn thi nhân muốn thuở. * Vẻ đẹp trẻ trung, tình tứ của sông Đà: - Nguyễn Tuân đã khám phá ra một góc nhìn đầy mới lạ về sông Đà, đó là từ trên cao nhìn xuống. +Dòng sông chảy trong một không gian, tự nó như muốn khoe dáng hình kiều diễm. Vẻ đẹp của dòng sông thiếu nữ làm xiêu lòng người nghệ sĩ. Dòng sông như một bức tranh thủy mạc, đoạn văn như một bản nhạc, + Những câu văn của Nguyễn Tuân co duỗi nhịp nhàng, âm điệu uyển chuyển, hình ảnh mơ màng. Nguyễn Tuân lồng cảnh vào cành, tình vào tình để thú nhận với chính mình về nỗi say đắm “phải lòng” trước vẻ duyên dáng, tuyệt mỹ của sông nước Đà giang và mây trời Tây Bắc như một dải lụa mềm khoác trên bờ vai, vương vấn trên “áng mun dài ngàn ngàn vạn sải”. - Vẻ trẻ trung của Sông Đà còn được thể hiện ở sắc nước Sông Đà.

+ Mùa xuân: “Dòng xanh màu ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô”. + Mùa thu: Nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn, bực bội gì mỗi độ thu về”. Nguyễn Tuân chắc phải rất kì công quan sát để rồi miêu tả màu sắc biến ảo của sông Đà đẹp và tinh tế đến như vậy. Với Nguyễn Tuân thì sông Đà mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng, một vẻ quyến rũ và tình tứ mà không một dòng sông nào có được. * Vẻ đẹp của một dòng sông Đà gợi cảm: - Đối với sông Đà, Nguyễn Tuân đã thể hiện niềm sung sướng và yêu mến như với một người bạn cố nhân. Nói đến cố nhân là nói đến người bạn quen biết từ lâu rồi, tưởng như mình đã thân thuộc với người ấy lắm rồi, tưởng chẳng còn gì để mà xa lạ nữa. Thế mà lần nào gặp lại người cố nhân ấy, ta cũng có một niềm xúc động thật sâu sắc, một sự ngỡ ngàng khi ta như vừa nhận ra một điều gì đó vô cùng mới mẻ. Sông Đà với Nguyễn Tuân là một điều như thế! Đã bao lần Nguyễn Tuân đến với Sông Đà cũng là bấy nhiêu lần Nguyễn Tuân được trải nghiệm niềm vui sướng. Đặc biệt là những niềm vui sướng vô cùng đột ngột. Sông Đà đem lại cho ta một cảm giác yêu thích. Cảm giác như ta được sống lại thế giới tuổi thơ để thấy lòng bừng sáng náo nức đến rộn ràng. Sông Đà khiến cho mỗi người khi đứng trước nó không thể lặng yên mà lúc nào cũng thấy òa vỡ một niềm vui. Nguyễn Tuân khi viết tùy bút Sông Đà đã ở vào cái độ tuổi 50 – cái độ tuổi mà người ta không còn quá sôi nổi. Vậy mà, nhà văn Nguyễn Tuân vẫn tìm được những so sánh rất đỗi trẻ trung. Sông Đà hiện ra trước mắt trông “loang loáng như đứa trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”. Và Nguyễn Tuân ngỡ ngàng nhận ra cái miếng sáng loang loáng, lung linh, kì diệu kia chính là màu nắng của Sông Đà. Vốn dĩ,

Nguyễn Tuân không phải là nhà văn có sở trường tả nắng những thứ nắng sông Đà trong trang văn của Nguyễn Tuân thì vẫn cứ hiện lên rất đỗi Nguyễn Tuân. Đó là một thứ nắng tháng ba Đường thi vừa tươi tắn, tinh khôi; vừa rực rỡ, diễm lệ; vừa kì ảo, huyền thoại. Và khi được tràn ngập trong thứ ánh sáng kì diệu, nhiệm màu ấy thì một con người ưa sự độc đáo như Nguyễn Tuân cũng phải thốt lên đầy xúc động. Bởi lẽ, Sông Đà mà mình vẫn coi là tri kỉ nhưng sao lần nào gặp lại vẫn thấy là mới lạ, vẫn thấy ngây ngất, vẫn cứ thấy đắm say như lần đầu tiên gặp mặt, vẫn chỉ là bờ ấy, bãi ấy; vẫn chỉ là chuồn chuồn, bươm bướm ấy; vậy mà phải xúc động thốt lên: “Chao ôi, trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Những câu văn thực ra là phép liệt kê đơn giản nhưng theo cách của Nguyễn Tuân, nó vẫn có độ ngân vang tha thiết bởi mỗi lần gặp lại Sông Đà là một lần thấy vui, một niềm vui thật khó bút nào tả xiết và Nguyễn Tuân đã diễn tả niềm vui ấy một cách thành công bằng hai so sánh: + Ở so sánh 1: Đó là niềm vui hân hoan, rạo rực; niềm vui của sau biết bao nhiêu mong ngóng cuối cùng cũng đã được thỏa nguyện. Đây là so sánh rất hay, rất đậm chất văn chương nhưng so sánh sau mới thật đậm chất Nguyễn Tuân. + Ở so sánh 2: Đó là niềm “vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Đây thực sự là niềm vui kì diệu, hiếm có ở trên đời, là niềm may mắn không phải ai cũng được hưởng. Bởi thế, Nguyễn Tuân mới coi Sông Đà là cố nhân, mới đắm say dòng sông ấy! Dẫu biết rằng dòng sông ấy cũng lắm chứng, nhiều tật nhưng có lẽ chính điều này lại tạo nên sức hấp dẫn riêng cho dòng sông này! Và đã chót say dòng sông Đà rồi thì càng biết nó lắm chứng, nhiều tật, lại chỉ càng thấy nó hấp dẫn thôi! Ở trên đời này, mang được một vẻ đẹp gợi cảm như sông Đà quả là hiếm có. c. Vẻ đẹp Sông Đà như một dòng chảy được kết bằng thơ:

- Nếu như trong cảnh vượt thác, Nguyễn Tuân đã tìm ra một vốn từ ngữ phong phú, chính xác, mới lạ để diễn tả trận chiến giữa ông đò và thần sông thần đá, có đủ quân tướng bằng một giọng văn mạnh mẽ, bằng một nhịp văn như sóng gầm, thác réo thì đến đoạn văn này, giọng văn và nhịp điệu có sự thay đổi hẳn, đầy lâng lâng, mơ màng. Vẻ đẹp mơ mộng êm đềm của sông Đà ở quãng trung lưu này đã được diễn tả đậm chất thơ .Trên thực tế, đó là quãng từ thác tiếu đổ xuống như một câu tục ngữ mà người Thái đã nói: “Qua Thác Tiếu trải chiếu mà nằm”. Câu văn của Nguyễn Tuân toàn thanh bằng, như diễn tả một con thuyền nhẹ trôi, êm ái: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà ...”. Đó là một không gian nghệ thuật lặng tờ như ru người khách sông Đà vào giấc mộng phiêu du. Đó là một không gian, như ướp hương rừng, gió núi vào lòng người mà lắng nghe, mà cảm nhận, mà thưởng họa. Hai chữ “lặng tờ” khiến người đọc liên tưởng đến “Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên”. Và Nguyễn Tuân đã rất ngông khi lại cảnh bình yên ở một dòng sông tưởng như thác lũ gập ghềnh. Và khi mơ màng nhìn dòng sông, khi lắng nghe tiếng nước êm trôi, lặng lờ. Ông khách sông Đà đã bâng khuâng nhìn xa, nhìn gần khung cảnh ven sông, bao trùm lên cảnh vật là một màu xanh hoang sơ hồn nhiên. Hình ảnh nương ngô có nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa, rõ ràng cho ta thấy dấu ấn con người trên cái nền xanh ấy. Nhưng một điều kỳ lạ là nhìn mãi không thấy bóng người đâu. Chỉ thấy đôi gianh nối tiếp đôi gianh, chập chùng với những nõn búp. Và nhất là xuất hiện hình ảnh của một đàn hươu xuất hiện trên cái nền xanh bát ngát của đồi gianh. Đó là nét vẽ tài hoa, làm cho bức tranh thiên nhiên càng thêm đượm màu hoang dã, cổ tích. Cảnh tượng thật rất đỗi thanh bình. Và có lẽ chỉ có Nguyễn Tuân cũng mới có được cái nhìn xanh non ấy, cũng có được cách tả độc đáo ấy. Ông thực sự đã thả hồn mình vào cảnh vật để mà yêu mến, nâng niu. Và câu văn của ông đã đẹp, như hai vế của một câu song quan trong bài “Phú Lưu Thủy” xưa:

“Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa” Có cảm giác Nguyễn Tuân đã so sánh không phải để làm cụ thể hóa sự vật mà để trừu tượng hóa và thơ mộng hóa cảnh vật mà thôi. Ông không dựa vào trực giác để so sánh, ông dựa vào liên tưởng và tưởng tượng để tạo nên những so sánh đầy chất thơ mà cũng kỳ thú để mà gieo vào lòng người bao nhiêu cảm xúc, để cùng ông tận hưởng cái vẻ đẹp hồn nhiên hoang dã của Đà giang. Rồi từ trong cái không gian hoang dã ấy của sông Đà, Nguyễn Tuân đã khao khát một âm thanh của thời đại. Từ giấc mơ của bờ tiền sử đã chỉ sang giấc mơ của tương lai huy hoàng qua tiếng còi tàu trong mộng tưởng: “Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ -Yên Bái -Lai Châu.” Nguyễn Tuân yêu sông Đà, yêu vẻ đẹp thơ dại của nó, nhưng ông cũng thèm được thấy ánh sáng của thời đại được rọi chiếu vào đôi bờ của Đà giang. Cuộc đối thoại giữa ông khách sông Đà và con hươu thơ ngộ đích thực là bài thơ trữ tình kỳ diệu. Một giấc mơ chờn vờn chơi vơi trong cái lặng tờ của ven sông. Trong sự tĩnh lặng, cái không khí giao cảm của sông Đà và con hươu thơ ngộ như đã lên tới đỉnh điểm. Trên cái nền xanh của cỏ xương, hươu nhìn người mà ngơ ngác, người nhìn theo mà lòng lâng lâng, mà như chìm vào mộng tưởng. Không một tiếng động nhỏ nào, cả một không gian như thế trở nên tĩnh lặng, thiêng liêng, nhiệm màu. Và cũng chẳng biết là hươu hỏi người hay người tự hỏi mình. Một giả định vừa thực nhưng cũng vừa rất mộng ảo. Có thể nói, những nét vẽ của Nguyễn Tuân về đàn hươu núi là những nét vẽ thật tài hoa và độc đáo, để gợi tả được cái

hồn nhiên, hoang dã của đôi bờ Đà giang, để tạo nên được chất thơ và chất mộng ảo dạt dào trong lòng người và thiên nhiên. Nguyễn Tuân quả đã nhìn thiên nhiên với cái nhìn phát hiện để khiến thiên nhiên cũng mang linh hồn con người. Thèm nghe một tiếng còi tàu nhưng chẳng thấy còi đâu, chỉ thấy một đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông, bung trắng như bạc rơi thoi là đã khiến cho ông khách Sông Đà phải tỉnh mộng. Có lẽ chỉ có Sông Đà mới kì thú như thế để thoát ra khỏi cảm giác mộng ảo này phải là một không gian mộng ảo khác. Hương núi vụt biến, cá bụng trắng vọt lên rồi rơi xuống trước mặt du khách chỉ là một màu xanh của nước. Màu xanh của cỏ gianh và con người vừa thoát khỏi giấc mộng này đã rơi ngay vào giấc mộng kia. Vốn là một nhà văn tài hoa và uyên bác, những câu văn cổ kim, đông – tây, Nguyễn Tuân rắc đầy mình. Vui thì ông đưa duyên, buồn thì ông ngẫm ngợi và dường như đó cũng là nhã thú để mà thể hiện cái tình tri âm với người xưa. Với Nguyễn Tuân, Tản Đà là người bạn vong niên, chưa có một thi sĩ nào viết nhiều về núi tẳng Sông Đà như Nguyễn Khắc Hiếu: “Có trăng thì phải có rượu. Cũng như có cảnh đẹp thì phải ngâm thơ”. Nguyễn Tuân vốn coi Sông Đà là cố nhân nên việc lấy thơ của thi sĩ Tản Đà để ngâm vịnh, để ngắm cảnh đẹp thì không còn gì tinh tế bằng. Tản Đà từng có ba bài thơ cùng chung một giọng điệu: “Thư đưa người tình nhân không quen biết”, “Thư trách người tình nhân không quen biết”, “Thư lại trách người tình nhân không quen biết”. Ở đây, Nguyễn Tuân chỉ trích có hai câu thơ trong bài thơ thứ hai nhưng đồng thời lại là hai câu thơ đích đáng nhất. Bởi vì, nó hợp cảnh, hợp tình nhất: “Dải sông Đà bọt nước lênh đênh Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình.” (“Thư trách người tình nhân không quen biết”)

Việc trích dẫn thơ Tản Đà đã thể hiện sự tri âm bởi rượu ngon không có bạn hiền thì không còn là rượu ngon. Cũng như cảnh đẹp mà không có người tri kỉ thì cái tình yêu hoa, thưởng nguyệt cũng giảm đi ít nhiều. Đọc thơ bạn, ngâm thơ bạn, Nguyễn Tuân như đang cùng bạn ngồi trên con thuyền và cùng mình hưởng ngoạn, tâm tình. Đó là cái nét tài hoa, tài tử và cũng là cái tình tri kỉ, tri âm. =>Nguyễn Tuân đã dành nhiều câu chữ đầy ắp cảm xúc để tái hiện lên dòng sông tình, thơ mộng bằng ngôn ngữ đầy chất thơ vận dụng vốn hiểu biết và thi ca, hội họa, điện ảnh để vẽ lên hình hài, tính cách dòng sông ấy. Có một nhà phê bình đã viết: “Nguyễn Tuân đã đề thơ trên sóng nước mới có 1 cô gái mĩ miều, duyên dáng trong ý nghĩ của mọi người như thế” =>Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông với tất cả sự tinh tế của một tình yêu thiết tha thiên nhiên đất nước. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự hào về một dòng sông, một ngọn thác, một dòng chảy đã tạo nên những trang văn đẹp hiếm có. Nguyễn Tuân xứng đáng là một cây bút tài hoa bậc nhất của nền văn học Việt Nam. *Nghệ thuật xây dựng hình tượng sông Đà - Tác giả đã miêu tả Sông Đà bằng những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị. Từ ngữ trong bài tùy bút thật phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao. - Câu văn của tác giả rất đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả, gân guốc, khi thì chậm rãi, trữ tình. Con Sông Đà vô tri, dưới ngòi bút của nhà văn đã trở thành một sinh thể có tâm hồn, tâm trạng.

=>Hình tượng Sông Đà được tác giả khắc họa độc đáo, nổi bật với hai đặc điểm: vừa hung vĩ, hung bạo, vừa thơ mộng, trữ tình. Qua hình tượng con Sông Đà, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc, thể hiện tình cảm tha thiết của mình với đất nước. Hình tượng con Sông Đà trong bài tùy bút gợi lên ở người đọc suy nghĩ về trách nhiệm bảo vệ môi trường cho những dòng sông, bởi đó là quà tặng vô giá của thiên nhiên giành cho con người. 3. Hình tượng người lái đò sông Đà Nếu như tài năng và tình yêu của Nguyễn Tuân đã tạo nên một dòng Đà giang như một sinh thể có hồn, tài hoa, tiềm ẩn thì dưới con mắt của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân, người lái đò đã trở thành một người nghệ sĩ trên sông nước mà “tay lái ra hoa”. Qua hình tượng ông lái đò thể hiện 1 cái nhìn, một sự khám phá mới của Nguyễn Tuân về những con người lao động bình thường nhưng rất tài hoa nghệ sĩ. Đó cũng chính là phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân-người được mệnh danh “một định nghĩa về người nghệ sĩ”. (Nguyễn Minh Châu). 3.1. Lai lịch và vẻ đẹp ngoại hình ông lái đò sông Đà. - Lai lịch: Ông không có tên, chỉ biết là người Lai Châu, đã ngoài 70 tuổi, đã dành 1 phần lớn đời mình làm nghề lái đò dọc trên sông Đà. Trên sông Đà, ông xuôi ngược hơn 100 lần, chín tay giữ lái độ 60 lần. - Ngoại hình: Bằng hệ thống ngôn ngữ miêu tả đầy cá tính, giàu chất tạo hình, bằng lối so sánh độc đáo gợi cảm, trước hết Nguyễn Tuân đã làm sống dậy trước mắt người đọc hình ảnh một ông lái đò có ngoại hình đặc biệt ấn tượng

+ Người ta nói rằng làm cái nghề lái đò trên sông hiểm ác lắm thác nhiều ghềnh này tổn thọ lắm. Nhưng ông lái đò của Nguyễn Tuân đã cải chính một cách hùng hồn cái điều ấy bằng hình ảnh một con người đã gần bảy mươi tuổi, cái đầu bạc nhưng còn “quắc thước” lắm “đặt trên một thân hình cao to, gọn quánh như chất sừng, chất mun”, “ông giơ đôi tay còn trẻ tráng quá” làm cho nhiều người lầm tưởng là “mình đang đứng trước một chàng trai”... + “Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng. Giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông”. - Những dòng này được nhà văn viết ra không chỉ để giới thiệu ngoại hình một con người mà còn để ca ngợi sự gắn bó, yêu quý nghề ở chính người đó. Nguyễn Tuân là nhà văn luôn nén câu văn của mình nhiều điều muốn nói “hàm lượng thông tin” ở đó không bao giờ chỉ ở một tầng hiển ngôn. 3.2. Vẻ đẹp tính cách, phẩm chất của ông lái đò. * Ông lái đò là người tinh thạo, từng trải, giàu kinh nghiệm, hiểu biết sâu sắc về luồng lạch, từng ngõ ngách trên sông Đà. Trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà”, hình tượng Sông Đà và hình tượng người lái đò nổi bật lên và cũng là hai hình tượng chính, được nhà văn miêu tả và tái hiện bằng tất cả bút lực, với kiến thức sâu sát về nhiều lĩnh vực, từ tri thức về âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, lịch sử, địa lý, điện ảnh, văn học. Hình tượng người lái đò hiện lên với hình ảnh ông lái đò tinh thạo, từng trải, giàu kinh nghiệm, hiểu biết sâu sắc về luồng lạch, từng ngõ ngách trên sông Đà. “Ông lái đò

nắm chắc quy luật của thần sông, thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá”, ông thạo nghề, thuộc lòng từng đặc điểm nhỏ nhất của sông Đà: “nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào tất cả các luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”, sông Đà “như một thiên anh hùng ca mà ông đò thuộc đến cả những cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Đó chính là chân dung một người lao động tuyệt vời, khi họ dày dặn kinh nghiệm và gắn bó với vùng sông nước như gắn cả cuộc đời của mình vào đó. * Ông lái đò là người trí dũng song toàn như một viên tướng tài ba, thông minh linh hoạt và khéo léo như một nghệ trong nghệ thuật vượt thác sông Đà. + Ở trùng vi thứ nhất: • Thần sông dàn ra năm cửa đá thì có đến bốn cửa tử, cửa sinh duy nhất nằm sát bờ trái và huy động hết sức mạnh của sóng thác đánh vỗ mặt con thuyền. • Luồng sóng hung tợn “liều mạng vào sát nách mà đá trái, mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”. Thậm chí còn đánh đòn tỉa, đánh đòn âm, nhưng người lái đò bình tĩnh giữ chắc mái chèo giúp con thuyền “khỏi bị hất khỏi bờm sóng trận địa phóng thẳng vào mình”. • Ngay cả lúc bị trúng đòn hiểm, mặt méo bệch đi nhưng ông vẫn tỉnh táo chỉ huy con thuyền lướt đúng vào luồng sinh. + Ở trùng vi thứ hai: ▪ Dòng sông đã thay đổi sơ đồ phục kích và cả chiến thuật. Vòng vây thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào. Cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Nhưng ông đò đã “nắm chắc quy luật của thần

sông thần đá” nên lập tức cũng thay đổi chiến thuật theo, nhận ra cạm bẫy của bọn thuỷ quân nơi cửa ải nước này. ▪ Các luồng sóng đánh hồi lung, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Ông không né tránh mà đưa con thuyền cưỡi lên sóng thác “cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. “Nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo vào cửa đá ấy”. ▪ Ông kiên cường chịu đựng nỗi đau thể xác do cuộc vật lộn với sóng thác gây nên: “Ông đó hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng, ông cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy buồng lái, mặt méo bệch đi”. + Ở trùng vi thứ ba: trên sông Đà. ✓ Thạch trận ít cửa tử hơn những bên phải bên trái đều là luồng chết cả, của sinh lại nằm giữa lòng sông và bọn đá hậu vệ canh giữ. Nhưng ông đó không hề bất ngờ trước mưu mô hiểm độc của bọn chúng, tiếp tục chỉ huy con thuyền vượt qua trùng vây thứ ba. ✓ Ông nhớ mặt bọn giặc đá, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo, đứa thì ông đè sắn lên chặt đôi ra để mở đường tiến. Ông lái đò giống đôi khi giống như 1 đô vật lão luyện, 1 chiến binh quả cảm cứ tả xung hữu đột, vượt qua các tập đoàn của tử, cửa sinh của thạch trận đá =>Cuộc vượt thác của ông lái đò là như một cuộc thủy chiến không cân sức giữa thiên nhiên với con người. Sự dũng cảm, tài trí của ông lái đò thể hiện qua cuộc vượt thác như những trận quyết chiến, những trận đánh sinh tử chia làm nhiều hồi, nhiều đợt. =>Ông lái đò giống như một vị chỉ huy tài giỏi, một kị sĩ đã thuần thục được con tuấn mã bất kham . Ông lái đò vượt thác sông Đà cũng giống như hành trình vượt

biển trở về quê hương của Uy-lít-xơ trong trường ca “Ô-đi-xê” của Hô-me-rơ trong 10 năm trời ròng rã đầy gian nan và thử thách. * Ông lái đò là người tài hoa nghệ sĩ, mang cốt cách của người chỉ huy nhưng rất bình dị, là người anh hùng cuộc sống đời thường. Nếu người xưa vẫn thường coi “cưỡi con gió mạnh, đạp đầu sóng dữ” là biểu tượng cho một lí tưởng sống anh hùng thì ông lái đò trong tùy bút của Nguyễn Tuân cũng cưỡi gió, đạp sóng theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. - Ông nắm chắc quy luật của dòng sông, nắm chắc binh pháp của thần sống thần đá, biết rõ từng cửa tử, cửa sinh trên thạch trận và quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước sông Đà - Là người từng trải, hiểu biết, thành thạo trong nghề lái đò đã đạt đến trình độ: “Nhớ tỉ mi nhưđóng đanh vào lòng tất cả các luồng nước của tất cả các con thác hiểm trở”, hơn thế nữa, sông Đà đối với ông “Như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những cái chấm than, chầm câu và những đoạn xuống dòng” - Ông đối đầu với ghềnh thác cuồng bạo bằng sự tự tin, ung dung nghệ sĩ. Tay lái linh hoạt , khéo léo, tài hoa như một nghệ sĩ trên sông nước. Ông lái đò như một nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác qua ghềnh thực thụ: “Vút, vú, cửa ngoài , cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như 1 mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được”. Sông Đà giống như một bản anh hùng ca sông nước thì ông lái đò giống như một người nhạc trưởng và người nhạc trường này nắm vững bản nhạc của mình đến từng câu, từng chữ, đến dấu chấm, xuống dòng. - Dưới bàn tay chèo lái điêu luyện của ông con thuyền đã hoá thành con tuấn mã hiểu ý chủ, khi thì khéo léo né tránh luồng sóng dữ, khi thì phóng thẳng vào cửa đá

có 3 tầng cổng “cánh mở, cánh khép”. Con thuyền như bay trong không gian, ông đó luôn nhìn thử thách bằng cái nhìn giản dị mà lãng mạn. - Sau cuộc vượt thác gian nan, ông đó lại có phong thái ung dung của một nghệ sĩ “Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nước ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh...”. - Đây là hình ảnh về một người lao động mới mang vẻ đẹp khác thường. Người lái đò hiện lên như là vị chỉ huy dày dạn kinh nghiệm, tài trí và luôn có phong thái ung dung pha chút nghệ sĩ. Ông chỉ huy cuộc vượt thác một cách tài tình, khôn ngoan và biết nhìn thử thách đó qua bằng cái nhìn giản dị mà không thiếu vẻ lãng mạn. - Đoạn văn tả trận thủy chiến, tập trung khắc họa hình tượng ông lái đò một lần nữa cho thấy sự uyên bác, lịch lãm của Nguyễn Tuân. Ở đây có tri thức, có ngôn ngữ sống động của quân sự, thể thao, võ thuật, điện ảnh... =>Ông lái đò là một hình tượng đẹp đẽ về người lao động mới, người anh hùng không phải chỉ có trong chiến đấu mà còn có cả trong cuộc sống lao động hằng ngày đó chính là thứ “vàng mười” đã qua thử lửa. Ông lái đò thực sự đã trở thành một người nghệ sĩ tài hoa trên sông nước, đây cũng là một quan niệm mới của ông về chủ nghĩa anh hùng , đó là chủ nghĩa anh hùng có trong những con người bình thường, giản dị của cuộc sống lao động hàng ngày. Điều đó chứng tỏ trong cảm xúc thẩm mỹ của Nguyễn Tuân, người lao động đẹp và quý hơn tất cả. * Nghệ thuật miêu tả người lái đò - Sử dụng vốn kiến thức uyên bác sâu rộng trong lĩnh vực, nhiều kiến thức: Quân sự, điện ảnh, võ thuật,... - Tạo tình huống đầy thử thách - Sử dụng từ ngữ góc cạnh, giàu chất tạo hình, gợi liên tưởng, so sánh, nhân hoá bất ngờ mà vô cùng chính xác. - Tô đậm nét tài hoa nghệ sĩ ở nhân vật ông lái đò, cách viết phù hợp với quan niệm nghệ thuật về con người, phù hợp với phong cách độc đáo của Nguyễn Tuân.

=>Bằng nhiều biện pháp nghệ thuật, nhà văn Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công hình ảnh người lái đò Sông Đà dũng cảm, tài năng, đầy bản lĩnh và kinh nghiệm. Qua hình tượng người lái đò, tác giả ngợi ca người lao động Tây Bắc với những phẩm chất cao quí. Hình tượng người lái đò, cũng thể hiện quan niệm của nhà văn: người anh hùng không chỉ có trong chiến đấu mà còn có trong cuộc sống lao động thường ngày. Hình tượng người lái đò trong bài tùy bút của Nguyễn Tuân gợi ra ở mỗi chúng ta suy nghĩ về nhiệm vụ của mình trong công cuộc xây dựng Tổ quốc Việt Nam yêu quý. V. TỔNG KẾT 1. Giá trị nội dung - Người lái đò sông Đà là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng vừa trữ tình thơ mộng của thiên nhiên và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc. - Tác phẩm còn cho thấy công phu lao động nghệ thuật khó nhọc cùng sự tài hoa, uyên bác của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân trong việc dùng chữ nghĩa để tái tạo những kì công của tạo hóa (Sông Đà) và những kì tích lao động của con người (người lái đò). 2. Giá trị nghệ thuật - Tùy bút pha bút kí, kết cấu linh hoạt, vận dụng được nhiều tri thức văn hóa và nghệ thuật vào trong tác phẩm. - Nhân vật mang phong thái đời thường, giản dị. - Bút pháp: kết hợp hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn.

- Sáng tạo: ngôn từ, các biện pháp tu từ độc đáo. VI. MỘT SỐ LỜI BÌNH VỀ NGUYỄN TUÂN VÀ TÁC PHẨM “Người lái đò sông Đà” 1. “Trong cái vội vàng, cái cẩu thả của những tác phẩm xuất bản gần đây, những sản phẩm đã hạ thấp văn chương xuống mực giá trị của một sự đua đòi, người ta lấy làm sung sướng khi thấy một nhà văn kính trọng và yêu mến cái đẹp, coi công việc sáng tạo là công việc quý báu và thiêng liêng”. (Thạch Lam) 2. “Nguyễn Tuân là một nhà văn cả đời đi tìm kiếm cái thực và cái đẹp. Thực ra, sự thực và cái đẹp của cuộc sống là hai cái đích mà dường như bất kì ngòi bút chân chính nào cũng hướng tới nhưng không dễ chiếm lĩnh và chạm vào được. Nguyễn Tuân cũng trên hành trình tìm kiếm nhưng tác phẩm của ông đã chạm được đến cái đẹp, nhất là cái đẹp truyền thống và cái thực phồn hoa chốn thành thị. Nguyễn Tuân là người thưởng thức cái đẹp với tư cách người có văn hóa, có vốn tri thức, biết giá trị của đối tượng mình chiêm ngưỡng”. (Nguyễn Đình Thi) 3. “Chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức. Một ngày không xa, khi mà văn chương Việt Nam được người Việt Nam ham chuộng hơn bây giờ, tôi dám chắc những văn phẩm của Nguyễn Tuân sẽ còn có một địa vị xứng đáng hơn nữa”. (Vũ Ngọc Phan)

4. “Đây là một nhà văn “suốt đời đi tìm cái Đẹp, cái Thật”, tự nhận mình là người sinh ra để thờ NGHỆ THUẬT” với hai chữ viết hoa”. 5. “Khi thì nghiêm trang cổ kính, khi thì đùa cợt bông phèng, khi thì thánh thót trầm bổng, khi thì xô bồ bừa bãi như là ném ra trong một cơn say chếnh choáng, khinh bạc đấy, nhưng bao giờ cũng rất đỗi tài hoa”. (Nguyễn Đăng Mạnh) 6. “Tác phẩm gần đạt đến độ “toàn thiện hoàn mỹ” ấy góp phần đưa nghệ thuật văn xuôi Việt Nam phát triển thêm một bước mới trên con đường hiện đại hóa. “Vang bóng một thời” vẽ lại những cái “đẹp xưa” của thời phong kiến suy tàn, thời có những ông Nghè, ông Cống, ông Tú thích chơi lan, chơi cúc, thích đánh bạc bằng thơ hoặc nhấm nháp trong sương sớm với tất cả lễ nghi thành kính đến thiêng liêng. “Vang bóng một thời” vì thế có thể được xem như một bảo tàng lưu giữ các giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc. 7. “Hạt nhân của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể gói gọn trong một chữ ngông.Cái ngông vừa có màu sắc cổ điển, vừa kế thừa truyền thống tài hoa bất đắc chí của Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Đà, … và trực tiếp hơn là cụ Tú Lan, thân sinh nhà văn ; vừa mang dáng vẻ hiện đại, ảnh hưởng từ các hệ thống triết lý nổi loạn của xã hội phương Tây như triết lý siêu nhân, quan niệm về con người cao đẳng, thuyết hiện sinh…” (Nguyễn Đăng Mạnh)

8. Ông xứng đáng được mệnh danh là “chuyên viên cao cấp Tiếng Việt”, là “người thợ kim hoàn của chữ” (Ý của Tố Hữu).Tinh thần tự nguyện dấn thân, bám trụ ở thành trì cái Đẹp là biểu hiện sinh động của một nhân cách văn hóa lớn.Nhà văn Nguyễn Tuân “đặc Việt Nam” (chữ dùng của Vũ Ngọc Phan)từ quan niệm cho tới thực tế sáng tác. 9. “Nguyễn Tuân – một cây bút vốn luôn khao khát những cảm giác, cảm xúc mới lạ, nồng nàn, say đắm…” (Nguyễn Đăng Mạnh) 10. “Không biết chừng nào mới lại có một nhà văn như thế, một nhà văn mà khi ta gọi là bậc thầy của ngôn từ mà ta không hề thấy ngại miệng ; một nhà văn độc đáo vô song mà mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút đều như có đóng một dấu triện riêng…” (Anh Đức) 11. “Nhà văn lớn Nguyễn Tuân được mệnh danh là “người săn tìm cái Đẹp” (Nguyễn Thành), hoặc “người đi tìm cái Đẹp, cái Thật” (Nguyễn Đình Thi) 12. “Nguyễn Tuân như người họa sĩ tài năng với nhiều bút pháp linh hoạt, đã tạo nên những tuyệt tác mĩ thuật đầy màu sắc mà lung linh, huyền ảo.Có những trang viết lại giàu chất tạo hình, bài trí, bối cảnh như của nhà điêu khắc và đạo diễn điện ảnh”. (Đoàn Trọng Huy)


Like this book? You can publish your book online for free in a few minutes!
Create your own flipbook