MỘT SỐ BÀI THƠ CỦA NGUYỄN CÔNG TRỨ 1
Hàn nho phong vị phú Chém cha cái khó! Chém cha cái khó! Khôn khéo mấy ai? Xấu xa một nó! Lục cực bày hàng sáu, rành rành kinh huấn chẳng sai, Vạn tội lấy làm đầu, ấy ấy ngạn ngôn hẳn có. Kìa ai: Bốn vách tường mo, Ba gian nhà cỏ. Đầu kèo mọt đục vẽ sao, Trước cửa nhện giăng màn gió. Phên trúc ngăn nửa bếp nửa buồng, Ống nứa đựng đầu kê đầu đỗ. Đầu giường tre, mối dũi quanh co, Góc tường đất, giun đùn lố nhố. Bóng nắng dọi trứng gà bên vách, thằng bé tri trô, Hạt mưa soi hang chuột trong nhà, con mèo ngấp ngó. Trong cũi, lợn nằm gặm máng, đói chẳng muốn kêu, Đầu giàn, chuột cậy khua niêu, buồn thôi lại bỏ. Ngày ba bữa, vỗ bụng rau bịch bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no, Đêm năm canh, an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ. Ấm trà góp lá bàng lá vối, pha mùi chát chát chua chua, Miếng trầu têm vỏ mận vỏ dà, buồn miệng nhai nhai nhổ nhổ. 2
Áo vải thô nặng trịch, lạnh làm mền, nực làm gối, bốn mùa thay đổi bấy nhiêu, Khăn lau giắt đỏ lòm, giải làm chiếu, vận làm quần, một bộ ăn chơi quá thú. Đỡ mồ hôi, võng lác, quạt mo, Chống hơi đất, dép da, guốc gỗ. Miếng ăn sẵn cà non mướp luộc, ngon khéo là ngon, Đồ chơi nhiều quạt sậy điếu tre, của đâu những của. Đồ chuyên trà, ấm đất sứt vòi, Cuộc uống rượu, be sành chắp cổ. Đồ cổ khí bức tranh treo trên vách, khói bay lem luốc, mầu thuỷ mạc lờ mờ, Của tiểu đồng pho sách gác đầu giàn, gián nhấm lăm nhăm, dấu thổ châu đo đỏ. Cỗ bài lá, ba đời cửa tướng, hàng văn sách mập mờ, Bàn cờ săng, bảy kiếp nhà ma, chữ nhật chữ điền xiêu xó. Lộc nhĩ điền lúa chất đầy rương, Phương tịch cốc khoai vừa một rỏ. Tiêu dụng lấy chi mà phao phóng, thường giữ ba cọc ba đồng, Mùa màng dành để có bao nhiêu, chừng độ một chiêng một bó, Mỏng lưng xem cũng không giầu, Nhiều miệng lấy chi cho đủ. Đến bữa chưa sẵn bữa, con trẻ khóc dường ong, Qúa kỳ lại hẹn kỳ, nhà nợ kêu như ó. Thuốc men rắp bòn chài gỡ bữa, song nghĩ câu ý dã, thế nào cho đáng giá lương y, Thầy bà mong dối trá kiếm ăn, lại nghĩ chữ dũng như, phép chi được 3
nổi danh pháp chủ. Quẻ dã hạc toan nhờ lộc thánh, trút muối đổ biển, ta chẳng bõ bèn, Huyệt chân long toan bán đất trời, ngôi mả táng cha, tìm còn chửa chỗ. Buôn bán rắp theo nghề đỏ, song lạ mặt, chúng hòng rước gánh, mập mờ nên hàng chẳng có lời, Bạc cờ toan gỡ con đen, chưa sẵn lưng, làng lại dành nơi, hỏi gạn mãi giạm không ra thổ. Gấp khúc lươn, nên ít kẻ yêu vì, Gương mắt ếch, biết vào đâu mượn mõ. Đến lúc niên chung nguyệt quý, lấy chi tiêu đồng nợ đồng công? Gặp khi đường xẩy chân cùng, nên phải tới cửa này cửa nọ. Thân thỉ to to nhỏ nhỏ, ta đã mỏi cẳng ngồi trì, Dần dà nọ nọ kia kia, nó những vuốt râu làm bộ. Thầy tớ sợ men tìm đến cửa, ngảnh mặt cúi đầu, Chị em e vất lấm vào lưng, chìa môi nhọn mỏ. Láng giềng ít kẻ tới nhà, Thân thích chẳng ai nhìn họ. Mất việc toan dở nghề cơ tắc, tủi con nhà mà hổ mặt anh em, Túng đường mong quyết chí cùng tư, e phép nước chưa nên gan sừng sỏ. Cùng con cháu thuở nói năng chuyện cũ, dường ngâm câu lạc đạo vong bần, Gặp anh em khi bàn bạc sự đời, lại đọc chữ vi nhân bất phú. Tất do thiên, âu phận ấy là thường, Hữu kỳ đức, ắt trời kia chẳng phụ. Tiếc tài cả phải phạn ngưu bản trúc, dấu xưa ông Phó ông Hề, 4
Cần nghiệp kho khi tạc bích tụ huỳnh, thuở trước chàng Khuông chàng Vũ. Nơi thành hạ đeo cần câu cá, kìa kìa người quốc sĩ Hoài âm, Chốn lý trung xách thớt chia phần, nọ nọ đấng mưu thần Dương võ. Khó ai bằng Mãi Thần Mông Chính, cũng có khi ngựa cưỡi dù che, Giàu ai bằng Vương Khải Thạch Sùng, cũng có hội tường xiêu ngói đổ. Mới biết: Khó bởi tại trời, Giàu là cái số. Dầu ai ruộng sâu trâu nái, đụn lúa kho tiền, Cũng bất quá thủ tài chi lỗ. Nguồn: Văn đàn bảo giám, Trần Trung Viên sưu tập 1926, Hư Chu hiệu chính 1968, Xuân Thu in lại ở California 5
Chí làm trai Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc, Nợ tang bồng vay giả, giả vay. Chí làm trai nam bắc đông tây, Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể. Nhân sinh tự cổ thuỳ vô tử, Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh. Đã hẳn rằng ai nhục với ai vinh, Mấy kẻ biết anh hùng khi vị ngộ. Cũng có lúc mưa dồn sóng vỗ, Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong. Chí những toan rời núi lấp sông, Làm nên tiếng anh hùng đâu đấy tỏ. Đường mây rộng thênh thênh cử bộ, Nợ tang bồng trang trắng, vỗ tay reo. Thảnh thơi thơ túi, rượu bầu. 6
Đi thi tự vịnh Không, há lẽ trở về không? Cái nợ cầm thư phải trả xong! Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt Trót đem thân thế hẹn tang bồng Đã mang tiếng ở trong trời đất Phải có danh gì với núi sông Trong cuộc trần ai, ai dễ biết? Rồi ra mới rõ mặt anh hùng Sách Văn đàn bảo giám chép tiêu đề là Đi thi. Nguồn: 1. Thơ văn Nguyễn Công Trứ, Trương Chính biên soạn & giới thiệu, NXB Văn học, 1983 2. Nguyễn Tường Phượng, Phan Văn Sách, Bùi Hữu Sủng, Việt văn diễn giảng hậu bán thế kỷ thứ XIX, Trường Nguyễn Khuyến xuất bản, Hà Nội, 1953 3. Văn đàn bảo giám, NXB Văn học, 2004 7
Trò đời Một lưng một vốc kém chi mô, Cho biết chanh chua khế cũng chua. Ðã chắc bữa trưa chừa bữa tối, Mà tham con giếc tiếc con rô. Trăm điều đổ tội cho nhà oản, Nhiều sãi không ai đóng cửa chùa. Khó bó cái khôn còn nói khéo, Dầu ai có quấy vấy nên hồ. Nguồn: Nguyễn Công Trứ - Cuộc đời và Thơ, Đoàn Tử Huyến biên 8
Chí nam nhi (Làm cho tỏ mặt nam nhi) Thông minh nhất nam tử, Yếu vi thiên hạ kỳ. Trót sinh ra thời phải có chi chi, Chẳng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu. Đố kị sá chi con Tạo, Nợ tang bồng quyết trả cho xong. Đã xông pha bút trận thì gắng gỏi kiếm cung, Làm cho rõ tu mi nam tử. Trong vũ trụ đã đành phận sự, Phải có danh mà đối với núi sông. Đi không chẳng lẽ về không? Nguồn: 1. Dương Quảng Hàm, Việt Nam thi văn hợp tuyển, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Hà Nội, 1951 2. Thơ văn Nguyễn Công Trứ, Trương Chính biên soạn & giới thiệu, NXB Văn học, 1983 3. Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề, Việt Nam ca trù biên khảo, Nhà in Văn Khoa, Sài Gòn, 1962 9
Kẻ sĩ Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt, Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên. Có giang sơn thì sĩ đã có tên, Từ Chu, Hán, vốn sĩ này là quý. Miền hương đảng đã khen rằng hiếu nghị, Đạo lập thân phải giữ lấy cương thường. Khí hạo nhiên chí đại chí cương, So chính khí đã đầy trong trời đất. Lúc vị ngộ, hối tàng nơi bồng tất, Hiêu hiêu nhiên điếu Vị, canh Sằn. Xe bồ luân dù chưa gặp Thang, Văn, Phù thế giáo một vài câu thanh nghị. Cầm chính đạo để tịch tà cự bí, Hồi cuồng lan nhi chướng bách xuyên. Rồng mây khi gặp hội ưa duyên, Mang quách cả sở tồn làm sở dụng. Trong lang miếu ra tài lương đống, Ngoài biên thuỳ rạch mũi Can Tương. Làm sao cho bách thế lưu phương, Trước là sĩ, sau là khanh tướng. Kinh luân khởi tâm thượng, binh giáp tàng hung trung, Vũ trụ chi gian giai phận sự, nam nhi đáo thử thị hào hùng. Nước nhà yên mà sĩ được thung dung, 10
Bấy giờ sĩ mới tìm ông Hoàng Thạch. Năm ba chú tiểu đồng lếch thếch, Tiêu dao nơi hàn cốc thanh sơn. Nào thơ, nào rượu, nào địch, nào đờn, Đồ thích chí chất đầy trong một túi. Mặc ai hỏi, mặc ai không hỏi tới, Gẫm việc đời mà ngắm kẻ trọc thanh. Này này sĩ mới hoàn danh. Nguồn: 1. Việt Nam thi văn hợp tuyển, Dương Quảng Hàm, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Hà Nội, 1951 11
Vịnh Cây Thông Ngồi buồn mà trách ông xanh Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười Kiếp sau xin chớ làm người Làm cây thông đứng giữa trời mà reo Giữa trời vách đá cheo leo Ai mà chịu rét thời trèo với thông 12
Tự Tình Vất vất vơ vơ cũng nực cười! Căm căm cúi cúi có hơn ai ? Nay còn chị chị anh anh đó, Mai đã ông ông mụ mụ rồi. Có có không không, lo hết kiếp, Khôn khôn, dại dại chết xong đời. Cho bằng láo láo lơ lơ vậy, Ngủ ngủ, ăn ăn, nói chuyện chơi. 13
Trò Đời Một lưng một vốc kém chi mô, Cho biết chanh chua khế cũng chua. Ðã chắc bữa trưa chừa bữa tối, Mà tham con giếc tiếc con rô. Trăm điều đổ tội cho nhà oản, Nhiều sãi không ai đóng cửa chùa. Khó bó cái khôn còn nói khéo, Dầu ai có quấy vấy nên hồ. 14
Cầm Kỳ Thi Tửu Bài 1 Trời đất cho ta một cái tài Giắt lưng dành để tháng ngày chơi Dở duyên với rượu khôn từ chén Trót nợ cùng thơ phải chuốt lời Cờ sẵn bàn son xe ngựa đó Đàn còn phím trúc tính tình đây Ai say, ai tỉnh, ai thua được Ta mặc ta mà ai mặc ai! 15
Search
Read the Text Version
- 1 - 15
Pages: