Important Announcement
PubHTML5 Scheduled Server Maintenance on (GMT) Sunday, June 26th, 2:00 am - 8:00 am.
PubHTML5 site will be inoperative during the times indicated!

Home Explore CHUYÊN ĐỀ ĐÀN GHI TA CỦA LOR-CA - VÂN TRANG

CHUYÊN ĐỀ ĐÀN GHI TA CỦA LOR-CA - VÂN TRANG

Published by Nguyễn Thị Vân Trường THPT Hiệp Hòa 1, 2021-10-31 15:56:58

Description: CHUYÊN ĐỀ ĐÀN GHI TA CỦA LOR-CA - VÂN TRANG

Search

Read the Text Version

CHUYÊN ĐỀ ĐÀN GHI TA CỦA LOR-CA – THANH THẢO – NGUYỄN THỊ VÂN TRANG LỚP 12D1 1

MỤC LỤC I.Khái quát về thời đại 1. Thời đại 2. Khái quát về thơ Việt Nam từ 1975 đến nay & hành trình sáng tác của Thah Thanh Thảo II. Những nét chung về tác giả 1. Tiểu sử, sự nghiệp 2. Thanh Thảo & những chặng đường thơ 3. Phong cách sáng tác 4. Sự biểu hiện những cảm hứng chính trong thơ Thanh Thảo III. Tìm hiểu về tác phẩm “Đàn ghi ta của Lor-ca” 1. Ý nghĩa câu thơ đề từ: 2. Hình ảnh của người nghệ sĩ thiên tài Lor-ca trong khung cảnh chính trị và bối cảnh nghệ thuật Tây Ban Nha trong 6 câu thơ đầu 3. 12 dòng thơ tiếp Thanh Thảo đã tái hiện cái chết đầy bi tráng của người anh hùng Lor-ca. 4. 13 dòng thơ cuối cùng là những suy tư của tác giả về cuộc đời, sự nghiệp và cách ra đi của người nghệ sĩ thiên tài. IV. Tổng kết 1. Giá trị nội dung 2. Giá trị nghệ thật V. Các dạng đề vận dụng 2

VI. Một số mở bài, kết bài hay I. KHÁI QUÁT VỀ THỜI ĐẠI 1. Thời đại: Thanh Thảo là nhà thơ trưởng thành từ chiến trường miền Nam trong thời kì chống mĩ cứu nước 2. Khái quát về thơ Việt Nam từ 1975 đến nay & hành trình sáng tác của Thah Thanh Thảo Sau chiến tranh, thơ Việt Nam chuyển biến khá phức tạp và hình thành nhiều xu hướng khác nhau. Theo cách hình dung mà giới nghiên cứu văn học đang chấp nhận, ta tạm chia sự phát triển của thơ đương đại làm hai giai đoạn: từ 1975 đến 1985 và từ 1986 đến nay. Thực tế sự phân chia này chỉ mang tính qui ước. 2.1 Thơ Việt Nam thời hậu chiến 1975 – 1985 Đại thắng mùa xuân 1975 có ý nghĩa đặc biệt với nhân dân ta: đất nước thống nhất, non sông liền một dải, một kỷ nguyên mới mở ra cho dân tộc. Sự kiện lịch sử này đã tác động đến mọi mặt của đất nước, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn học ở cả khía cạnh thuận chiều và không thuận chiều. Thơ ca giai đoạn này có những dấu hiệu của sự phân nhánh với những màu sắc thẩm mỹ khác nhau. 2.2. Những chuyển biến của thơ từ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ sang thời kỳ hậu chiến Sau chiến tranh, thơ việt Nam vẫn tiếp tục viết theo cảm hứng cũ, hình thức cũ như một thói quen, một quán tính của thơ ca thời kỳ Cách mạng. Cảm hứng ngợi ca là cảm hứng chủ yếu. Phải ít lâu sau, sang đầu những năm 80, trong thơ mới có những chuyển biến rõ rệt, được thể hiện qua một số tập thơ và bài thơ tiêu biểu như: Dấu chân qua trảng cỏ của Thanh Thảo 1978, Đường đến thành phố của Hữu Thỉnh 1980, Bài thơ không năm tháng của Lâm thị Mỹ Dạ 1983, Những điều cùng đến của Vũ Quần Phương 1983, Ánh trăng của Nguyễn Duy 1984, Người đàn bà ngồi đan của Ý Nhi 1985… Mười năm sau chiến tranh là chặng đường quán tính của thơ ca cách mạng. Đời sống nhân dân, thân phận nhà thơ không khỏi xót xa trước tình cảnh chung của đất nước, 3

nhưng thơ vẫn hát theo cảm hứng vui tươi. Nhà thơ và thơ, thân xác và tâm hồn cứ có những nghịch âm trong một hợp xướng… Thế nhưng ở chiều sâu của một quá trình chuyển động, thực tế thơ đang có những phương thức biểu hiện mới. Do tự thân phát triển của thơ, do nhu cầu đổi mới của nhà thơ, thơ hướng về cá nhân chiêm nghiệm và đối thoại với chính mình, với cuộc sống. Từ những nhận thức ấy, các tập thơ tiêu biểu của thời kỳ này đã có sự thay đổi: đề tài chiến tranh, đất nước nhân dân anh hung chuyển dần sang cuộc sống đời thường, thơ bớt tả mà đi sâu biểu hiện tâm trạng cá nhân, cái tôi trở thành trung tâm của cảm hứng sáng tạo, hình thức thể hiện phong phú, nhiều tìm tòi. So với thời kỳ trước, thơ sau 1975 xuất hiện một tư duy nghệ thuật mới: cảm hứng nghệ thuật bắt nguồn từ chính số phận và kinh nghiệm cá nhân nhà thơ. Thơ đã có một cái nhìn mới. Các mặt, các khía cạnh khác nhau của hiện thực được soi rọi bằng một nhận thức mới. nhận thức trong thơ đa dạng đa chiều cả về nội dung và nghệ thuật. Nguyễn Đức Mậu cho rằng: “Sau chiến tranh và những năm gần đây, thơ bắt nhịp cuộc sống mới đa chiều hơn, phức tạp hơn. Cảm hứng ngợi ca trong thơ hôm nay dường như lắng lại, thay vào đó là dòng thơ mang chính nội tâm tác giả, trước sự bề bộn, lo toan đời thường. Nhà thơ hướng vào nội tâm lấy cái tôi làm chủ đạo. Sử đổi mới trong thơ hôm nay là trở về với bản chất vốn có của thơ, tạo ra giọng điệu thích hợp với thời đại mình sống” (Sự đổi mới trong thơ – Nhân dân chủ nhật, 1989). Ta có thể thấy sự cảm nhận cuộc sống đa chiều thể hiện ở nhiều tập thơ như: Tự hát 1984 của Xuân Quỳnh, Ánh ttrăng 1984 của Nguyễn Duy, Khối vuông rubic 1985 của Thanh Thảo, Người đàn bà ngồi đan 1985 của Ý Nhi, Ngôi nhà có ngọn lửa ấm 1986 của Nguyễn Khoa Điềm… Có nhiều bài thơ đã nói lên những suy nghĩ thấm thía về con người, cuộc đời. Cũng chính thời kỳ hậu chiến này, nhiều nhà thơ đã dồn sức cho việc hoàn thành trường ca, qua đó nói được nhiều hơn, bao quát hơn hiện thực của đất nước và nhân dân. Hàng loạt trường ca ra đời đã ghi lại dấu ấn khó quên của một thời đại lịch sử: Những người đi đến biển1977, Những ngọn sóng mặt trời 1982 của Thanh Thảo, Ngọn giáo búp đa 1977 của Ngô Văn Phú, Thông điệp mùa xuân 1985 của Thu Bồn, Đường đến thành phố 1979 của Hữu Thỉnh, Trường ca sư đoàn 1980 của Nguyễn Đức Mậu, Đất nước hình tia chớp 1981 của Trần Mạnh Hảo… Tất cả đã đánh dấu sự cố gắng và trình độ nghệ thuật của các tác giả. Có thể nói phong trào sáng tác thơ dần trở lại gắn bó hơn với cuộc sống hiện tại. Khoảng cách giữa thơ và nhà thơ đang dần được rút ngắn lại và khỏa lấp. Những vấn đề mà trong chiến tranh thơ không đụng đến, hoặc có gợi lên thì vẫn nhằm tới lợi ích cộng đồng, bây giờ đã được khơi sâu nhấn mạnh, khẳng định: nỗi buồn riêng, thân phận cá nhân, những phía chìm, mặt khuất của thế giới nội tâm, vấn đề muôn thuở của con người… Thơ lúc này không phải chỉ là tả, là kể, là trình bày mà là biểu hiện hiện thực bằng những tâm trạng, những cá tính sang tạo độc đáo, nhờ vậy vừa phản ánh cuộc sống, thơ vừa đi vào tầng sâu, vùng xa của tình cảm con người. Và có những mảng hiện thực đến bây giờ chủ thể sang tạo mới đủ bản lĩnh, đứng ở một tư thế mới và yêu cầu mới để biểu hiện một cách trung thực và tạo nên chất lượng thẩm mỹ mới cho thơ. 2.3 Những cảm hứng chính trong thơ thời kỳ hậu chiến 1975 – 1985 4

Những năm trước đây, nhà thơ với tư cách là công dân, là chiến sĩ trên mặt trận văn hoá văn nghệ đã làm tốt phần việc của mình. Giờ đây tiếp tục nhận thức về trách nhiệm đó, nhà thơ vẫn đóng vai trò là người cổ vũ động viên quần chúng. Với thế hệ các nhà thơ chống Mỹ, trữ tình công dân vẫn là mạch nguồn quan trọng. Cảm hứng ngợi ca trước hết là một thái độ, một rung động chân thành trước thực tế đất nước đang phải đối mặt với cuộc chiến tranh mới. Tình cảm công dân, tinh thần yêu nước lại một lần nữa bùng lên ở mỗi người, nhất là ở nhà thơ có phần nhạy cảm. Mặt khác những giá trị tinh thần cộng đồng được tồn tại bền vững qua nhiều thời gian, trong những ngày kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, càng được khẳng định chói sáng, không dễ dàng bị phai nhạt. Hơn nữa chính các nhà thơ đã từng nếm trải gian lao thử thách, hi sinh và tự nguyện, tự giác hoà chung một giọng điệu, cất cao lời thơ ca ngợi đất nước do những yêu cầu tất yếu của lịch sử. Vì vậy, hậu chiến, hoàn cảnh còn những tương đồng, tâm trạng nghệ sỹ vẫn chưa thôi xúc động về Tổ quốc nhân dân. Có điều nhân dân trong thơ lúc này hiện lên với những cảm nhận cụ thể sinh động, sâu sắc hơn: chiến công và cái giá phải trả, chiến thắng và những mất mát hi sinh. Trong các trường ca, nhân dân là hệ qui chiếu, là điểm tựa cho mọi tư tưởng, cảm hứng. Nhân dân hiện lên qua hệ thống hình tượng người chiến sĩ, bà mẹ, người vợ…, hình tượng tập thể với sức mạnh kỳ vĩ. Xét tới cùng, cảm hứng ngợi ca trong thơ những năm thời kỳ hậu chiến được quy định bởi không khí xã hội, thái độ của nhà thơ lúc đó. Xã hội cần ổn định phát triển, cần khẳng định những việc đã qua là đúng, là chân lý đáng tự hào. Và hiện tại là đẹp đáng sống dù hiện tại còn bộn bề vất vả, nhưng đất nước sẽ tươi đẹp, giàu mạnh. Tố Hữu đã tin tưởng thật nhiều: “Ta sống thật đây, gian khổ đêm ngày Mà cứ tưởng bay trong mơ ước Bữa cơm khoai, ít cá nhiều rau Mà ngăn sông làm điện, khoan biển làm dầu Chân dép lốp Mà lên tàu vũ trụ” . ( Một nhành xuân ) Các thế hệ nhà thơ cùng đứng vào dàn đồng ca, ca ngợi để giữ niềm tin, để định hướng cuộc sống. Nhưng cũng chính từ dàn đồng ca lãng mạn ấy đã bắt đầu xuất hiện những giọng trầm có dư vang. Cùng với cảm hứng ca ngợi, thơ bắt đầu chuyển sang cảm hứng đời tư thế sự. Thơ chuyển từ hiện thực mô tả cách mạng sang biểu hiện hiện thực riêng tư hàng ngày, thường xuất hiện qua những mô típ: tôi một mình, tôi suy tư triết lý 5

về thân phận cá nhân, về cuộc đời. Thực ra cảm hứng đời tư, hạnh phúc gia đình, tình yêu đôi lứa lúc này vẫn còn ngượng ngập nhưng cảm hứng thế sự đã tìm được hướng đi và cũng phải đến đầu những năm 80, trước khi sự nghiệp đổi mới diễn ra trên qui mô cả nước, mới phát triển. Cái tôi suy tư đích thực xuất hiện trong thơ Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Ý Nhi, Lâm Thị Mỹ Dạ… và trở lại ở những nhà thơ lớn trụ cột của nền thơ cách mạng. Chế Lan Viên đã sớm nhận ra trong thơ có sự thay đổi cảm hứng, thay đổi đối tượng mà cất lên: “Những nhà thơ bỏ các đề tài khoáng đạt Về trong phòng con ngột ngạt Như con hổ đại ngàn Hoá chú mèo con” (Đề tài ) Nếu như ở các bài thơ mang cảm hứng ngợi ca, con người được nhìn nhận nghiêng bề nổi, phía hành vi cuộc sống quan hệ với vận mệnh cộng đồng dân tộc thì ở cảm hứng thế sự thơ chú ý phân tích lý giải con người ở nhiều bình diện, cả bề nổi lẫn bề chìm, cả mặt ổn định lẫn dao động, cả phần ý thức lẫn vô thức. Nguyễn Duy trong Đánh thức tiềm lực 1982, Bằng Việt trong Khoảng cách giữa lời 1983, Lâm Thị Mỹ Dạ trong Bài thơ không năm tháng 1983, Xuân Quỳnh trong Tự hát 1984, Ý Nhi trong Người đàn bà ngồi đan 1985… khao khát tìm lại mình, tìm lại những giá trị đích thực trong cuộc đời, tình yêu bằng những rung động chân thành, thông cảm, sẻ chia cùng những lo toan trách nhiệm. Bằng những khảo sát trên mặt bằng thơ mười năm thời hậu chiến, cảm hứng ngợi ca vẫn nổi trội và tâm lý thị hiếu người đọc, người làm thơ vẫn hướng về vẻ đẹp, kỉ niệm bi tráng cùng hiện tại nhiều dự cảm lãng mạn. Cảm hứng thế sự còn là mạch ngầm, khởi động nhưng đó chắc chắn là sự chuẩn bị cho những bứt phá mạnh mẽ sau 1985. 2.4 Thơ Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986 đến nay) Năm 1986, sự nghiệp đổi mới đã diễn ra ở mọi cấp độ đã làm thay đổi diện mạo đất nước, ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng tình cảm và tư duy sáng tạo nghệ thuật của các nhà thơ cũng như các văn nghệ sĩ nói chung. “Phát huy yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI - Đảng cộng sản Việt Nam) là định hướng quan trọng cho mọi suy nghĩ và hành động. Trước đây, con người cá nhân nhà thơ đôi khi phải sống trong ngụy tạo, chưa có sự thống nhất giữa hình thức bên ngoài và nội dung bên trong. Thậm chí, ngay những năm đầu hoà bình, đời sống văn học nghệ thuật có nhiều chuyển biến, 6

một số nhà thơ vẫn còn ở trạng thái phân đôi: thực tại khó khăn mà thơ cứ ca hát, lãng mạn. Từ sau 1985, thơ vẫn tiếp tục những cố gắng của thời kỳ tiền Đổi mới: cái tôi nhà thơ được khẳng định, cá tính sáng tạo được tôn trọng, con người cá nhân được đặt ở vị trí ưu tiên. Bên cạnh giọng điệu ngợi ca, thơ mở ra và chấp nhận nhiều giọng điệu ra nhiều sắc thái tâm lý: nỗi buồn, cô đơn, tâm trạng xao xuyến không yên… của thời mở cửa, kinh tế thị trường phát triển. Trên cái mặt bằng thơ ấy, chúng ta có thể nhận chân được giá trị đích thực và những bài học cho phong trào sáng tác thơ. 2.5 Những đổi mới trên phương diện nội dung Từ sau 1985, cái tôi cá nhân trong thơ được nhận thức và đề cao một cách rõ rệt. Nét nổi bật của thơ từ giai đoạn này là khẳng định con người cá tính. Được thể hiện ở ngay tên gọi của nhiều tập thơ, bài thơ: Tôi vẽ mặt tôi của Lê Minh Quốc, Tôi gọi tôi của Đinh Thị Thu Vân, Người đi tìm mặt của Hoàng Hưng… Thơ trở về với đời tư, cái tôi được biểu hiện và trở thành một khát vọng vừa âm thầm vừa mãnh liệt: “Em trở về đúng nghĩa trái tim em Là máu thịt đời thường ai chả có Vẫn ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi” (Tự hát – Xuân Quỳnh) Đó còn là cái tôi không giấu diếm, tìm mọi cách khẳng định mình, thể hiện mình; cái tôi trải nghiệm, đau khổ xót xa, triết lý về một thời phải biến dạng, ẩn hình; cái tôi giờ đây nhận ra sự nhỏ bé hữu hạn của mình; cũng có khi là cái tôi tự tin, hi vọng nhưng rất tội nghiệp… Thơ đã cố gắng và đã thành công trong việc phản ánh cái tôi bản ngã đích thực chứ không phải là con người của lý trí bỏ quên cái riêng cá nhân. Cùng với khẳng định cái tôi cá nhân, thơ Việt Nam từ sau đổi mới còn thể hiện những quan niệm về con người, sự sống và cái chết. Chiến tranh đã đi vào quá khứ, cuộc sống đặt ra nhiều so sánh, đối nghịch, những trải nghiệm trong đời sống, những mất mát đã qua và những thiệt thòi không bao giờ bù đắp được… đều tạo nên những cảm hứng cho thơ. Nhà thơ Phùng Khắc Bắc suy “Chết là hết Mọi cái đều không Vì ta không chết trên chiến địa 7

Vì vết thương này không chứng minh được ta là liệt sĩ” (Ta chết đây) Và khác với thơ kháng chiến, thơ bây giờ không tồn tại những phạm trù khái quát, những biểu tượng cao vời mà hiện hình trong những đường nét cụ thể, những con người, những mái đình, ngày hội quê hương… Thơ viết nhiều về người mẹ, người bà, người thân với những cảm xúc chân thành biết ơn xen lẫn chút gì đó ăn năn của kẻ đã một thời lãng quên, vô tình với những gì thân yêu nhất: “Hai mươi năm xa cách quê hương Tóc sắp bạc lần đầu về giỗ mẹ” (Xuân Tùng) “Thương cha tóc bạc như mây trắng Cỡi gió đồng hanh gánh lúa về Bụi hoa phố hội con nào biết Mồ hôi sinh thành ướt đẫm chân đê” ( Phan Hoàng) Trở về quá khứ, thơ cũng trở về với thiên nhiên, mượn thiên nhiên để gửi gắm tình người. Thiên nhiên trong thơ như một đối tượng để nhìn ngắm, bầu bạn tâm sự và chiêm nghiệm. Nữ thi sĩ Ý Nhi có lần từng giãi bày: “Đôi lần Em nhìn tán cây mà ứa nước mắt Vì màu xanh Đôi lần Em nghe tiếng chim khuyên mà ứa nước mắt Vì sự trong trẻo”. (Vườn 1) Cái tôi nhà thơ giờ đây đã thực sự đối diện đời thường. Thơ miêu tả xoáy sâu vào những vết đau hiện hữu của xã hội, đất nước, những tệ quan liêu, cửa quyền, thói cơ hội, nhiều tật xấu, đặc biệt những vấn đề số phận con người trong môi trường mới đang có sự xuống cấp, báo hiệu lương tâm con người đang dần bị tha hoá. Thơ phê phán để khẳng định và hướng tới cái cao cả, cái muôn thuở của con người. Nghệ sỹ nhìn hiện thực với 8

nỗi lo âu về sự xuống cấp của nhân cách và những giá trị tinh thần, điều này có thể thấy qua tập thơ Một chấm xanh của Phùng Khắc Bắc và Sự mất ngủ của Nguyễn Quang Thiều, những tập thơ được đánh giá như là tiếng nói có trách nhiệm tới những vấn đề thế sự nhân sinh. 2.6 Những đổi mới trên phương diện nghệ thuật Từ những đổi mới từ phương diện nội dung, đổi mới cảm hứng thẩm mỹ, quan niệm thơ đã dẫn tới sự đổi mới nghệ thuật biểu hiện. Hình thức thơ đã đổi mới sao cho phù hợp với nội dung cảm hứng thơ. Chúng ta có thể nhận thấy sự thay đổi diễn ra mạnh mẽ và sâu sắc trên hai mặt thể loại và ngôn ngữ thơ. Đầu tiên đó là sự đa dạng cấu trúc thể loại: trường ca thực sự thưa thớt và bài thơ ngắn có khi rất ngắn xuất hiện nhiều. Thơ tự do, thơ không vần, thơ văn xuôi phát triển đem lại thuận lợi cho việc thể hiện cảm xúc. Câu thơ vắt dòng, xuống dòng, leo thang tạo dáng mới. Thơ cổ được phục hồi và có sự sáng tạo, nâng cao. Đặc biệt là sự trở lại của thể thơ lục bát dân tộc với sức sống bền vững và nhiều biến hoá. Nguyễn Trọng Tạo thật tài hoa trong việc biến thể lục bát: “Chia cho em một đời tôi Một cay đắng Một niềm vui Một buồn” ( Chia) Cùng với đó là thơ bảy chữ cũng tạo ra nhiều biến thể phóng túng, nhấn mạnh ý, hình ảnh, cảm xúc thơ; hình dáng bài thơ, cấu trúc bài thơ phong phú; có thơ ngắn và thơ cực ngắn, cả bài thơ chỉ ba câu, hai câu, có khi một câu. Thơ văn xuôi cũng khẳng định vị trí của mình. Câu thơ dài rộng chứa chất nhiều tâm sự, có khi bộc bạch những trải nghiệm cá nhân, có lúc trầm tư suy nghĩ hoặc triết luận về thế sự. Như vậy, cùng tồn tại với thể thơ dân tộc, thơ có những tìm tòi đổi mới, làm cho thơ có dáng vẻ hiện đại hơn và nhất là để thơ biểu hiện đúng hơn nội dung cảm xúc đầy những phức tạp, có khi đối cực trong tâm trạng chủ thể trữ tình trước cuộc sống mới nhiều biến động. Ngôn ngữ thơ trước đây trang trọng, sử dụng nhiều ngôn ngữ sử thi thì giờ trong sáng, giản dị, là ngôn ngữ đời thường. Loại ngôn ngữ này nhằm góp phần thể hiện trực 9

tiếp tình cảm, tạo cảm giác thuận, thoải mái trong tiếp nhận. Ngôn ngữ thơ còn giàu sức gợi, tạo nghĩa mờ, hàm ngôn. Nhiều từ ngữ được chọn lọc, gia công kỹ làm tăng thêm chất biểu cảm. Lê Đạt tìm chữ, chọn chữ, làm chữ tạo nghĩa mới. Nhà thơ tạo chữ để hiện lên những câu thơ tạo nghĩa, các hình ảnh, ý thơ chứa đựng nhiều nghĩa: “Hè thon cong thân nắng cựa mình” (Nụ xuân). Hệ thống ngôn ngữ phong phú, đa dạng, nhiều kiểu loại từ ngữ, ít gặp trong thơ trước 1975, làm cho thơ “đời” hơn và cũng “bụi” hơn. Nhưng mặt khác có những tìm tòi câu chữ tiếp tục cách tư duy của những năm trước 1945, có những sáng tạo mới, gây đột biến táo bạo nhằm đi đến một cách tân thực sự triệt để. Tất nhiên, đa phần các nhà thơ vẫn giữ cho mình một ngôn ngữ gần gũi, một tiếng nói cảm thông, dù thế giới nội tâm mở ra nhiều chiều, nhiều hướng. II.NHỮNG NÉT CHUNG VỀ TÁC GIẢ 1. Tiểu sử, sự nghiệp 1.1Cuộc đời Thanh Thảo (tên khai sinh là Hồ Thành Công, sinh năm 1946, quê ở huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi) là một nhà thơ, nhà báo người Việt Nam. Tốt nghiệp khoa ngữ 10

văn, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Thanh Thảo vào công tác ở chiến trường miền Nam. 1.2 Sự nghiệp sáng tác Từ mấy thập niên trước, Thanh Thảo đã được công chúng chú ý qua những tập thơ và trường ca mang diện mạo độc đáo viết về chiến tranh và thời hậu chiến: Những người đi tới biển (1977), Dấu chân qua trảng cỏ (1978), Những ngọn sóng mặt trời (1981), Khối vuông ru-bích (1985), Từ một đến một trăm (1988)...Đặc biệt, bài thơ Đàn ghi ta của Lorca trong tập thơ Khối vuông ru-bích (1985) của ông được biên soạn vào giảng dạy trong chương trình văn học trung học phổ thông toàn quốc. Hiện ông là Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Quảng Ngãi, phó chủ tịch Hội đồng thơ Hội nhà văn Việt Nam. Thanh Thảo đã nhận giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1979, giải thưởng Ban Văn học Quốc phòng An nình, Hội Nhà văn Việt Nam năm 1995, giải thưởng Nhà nước (đợt 1) về văn học nghệ thuật năm 2001 và Giải thưởng Văn học Đông Nam Á năm 2014. Những năm gần đây, Thanh Thảo vẫn tiếp tục làm thơ đồng thời viết báo, tiểu luận phê bình và nhiều thể loại khác, nhưng đóng góp quan trọng và đặc sắc nhất của ông vẫn là thơ ca. Với các học sinh lớp 12 ở Việt Nam, ông nổi tiếng qua tác phần \"Đàn ghi-ta của Lor-ca\" nằm trong sách giáo khoa Ngữ Văn 12, tập 1. Mặc dù không có tài liệu nào nói rằng Lor-ca (Federico Garcia Lorca) biết chơi đàn ghi-ta nhưng ông vẫn nổi tiếng với các bạn học sinh Việt Nam qua hình ảnh người nghệ sĩ. 1.3 Giải thưởng: • Giải thưởng của Ban văn học Quốc phòng An ninh, Hội Nhà văn Việt Nam năm 1995 cho tập trường ca Những ngọn sóng mặt trời. • Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam cho tập thơ Dấu chân qua trảng cỏ năm 1979. • Giải thưởng của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam và Giải thưởng Hội Âm nhạc Việt Nam cho tập Trường ca chân đất (2012). 1.4 Các tác phẩm đã xuất bản: • Từ một đến một trăm (thơ, 1988) • Dấu chân qua trảng cỏ (thơ, 1980) 11

• Những người đi tới biển (trường ca, 1977) • Khối vuông Rubic (thơ, 1985) • Những ngọn sóng mặt trời (trường ca, 1994) • Trường ca chân đất (2012) 2. Thanh Thảo & những chặng đường thơ “Những bài thơ của ông thường tạo ra rất nhiều “không gian rỗng” để người đọc bị cuốn vào câu chữ mà tham gia đồng sáng tạo với nhà thơ. Thơ Thanh Thảo thường mở ra nhiều trường liên tưởng khác nhau, tạo ra độ mờ nhoè về nghĩa. Và người đọc cũng rất “tự do” trong việc tiếp nhận bài thơ”. Cũng như một số cây bút cùng thời với mình như Nguyễn Khoa Điềm, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy,… vào chiến trường, Thanh Thảo vừa tham gia chiến đấu vừa sáng tác văn học. Và ông cũng sớm khẳng định được vị trí của mình trên thi đàn thơ ca chống Mỹ. Từ bài thơ đầu tay ra đời trong không khí rát bỏng của chiến trường, tới nay, thơ Thanh Thảo đã đi trọn chặng đường hơn ba mươi năm. Hơn ba mươi năm ấy, Thanh Thảo đã trải qua không ít thăng trầm. Nhưng nhà thơ vẫn luôn luôn chung thuỷ với cái nghiệp mà mình đã chọn. Điều đáng trân trọng ở Thanh Thảo là ông đã đem đến cho thơ ca ViệtNamnhiều nét mới mẻ trên con đường hội nhập. Không ngừng lao động sáng tạo, không ngừng tìm tòi đổi mới thơ ca, thơ Thanh Thảo đã thực sự chinh phục được bạn đọc nhiều thế hệ. 2.1. Thơ Thanh Thảo trước 1975 Vào chiến trường năm 1971, năm 1972 Thanh Thảo viết Thử nói về hạnh phúc. Bài thơ đến được tay Chế Lan Viên (người đang phụ trách trang thơ tạp chí Tác phẩm mới của Hội Nhà văn) nhưng vì bài thơ có phần đau thương quá nên nhà thơ Chế Lan Viên chưa cho in. Sau này, khi được hỏi về bài thơ đầu lòng “duyên may phận rủi ấy” ấy, Thanh Thảo tâm sự: “Nó gây ngạc nhiên thì đúng hơn, vì nó viết rất thật về chiến tranh, về những hi sinh mất mát, về cả quan điểm của một người lính trẻ không chịu chết cho một tín điều mù quáng nào, mà chỉ chết cho đất nước của mình”.Sau đó không lâu, Thanh Thảo viết và gửi đến toà soạn một chùm 13 bài thơ. Mười ba bài thơ của một người lính trẻ đã thực sự chinh phục nhà biên tập cẩn trọng Chế Lan Viên. Và Chế Lan Viên đã làm một công việc xưa nay chưa từng làm: cho in một loạt 13 bài thơ của người lính trẻ từ chiến trường miền Nam gửi ra và “Thi đàn chống Mỹ từ đấy có Thanh Thảo”. Chính những “quả đầu mùa” ấy đã làm nên gương mặt thơ Thanh Thảo trước năm 1975 như Thiếu Mai đã khẳng định: “Thơ Thanh Thảo có dáng riêng”. Và cũng từ thời điểm ấy, Thanh Thảo đã đem đến cho độc giả “một thực đơn tinh thần mới mẻ và độc đáo”, làm phong phú thêm cho tiếng nói chung của thi đàn thời chống Mỹ. Sự mới mẻ, độc đáo của thơ Thanh Thảo trước 1975 không phải ở đề tài hay cảm hứng. Nhìn chung, các sáng tác của ông giai đoạn này vẫn hướng về vùng hiện thực mà văn học cả thời đại quan tâm: hiện thực chiến tranh cùng với những vấn đề nhân sinh được đặt ra trong đó. Tuy nhiên, điều mà Thanh Thảo không nhoà lẫn với bất cứ một nhà thơ nào là cách phản ánh hiện thực với một cái nhìn, một giọng điệu rất riêng. Là một 12

người nghĩa khí, trung thực, yêu thiết tha quê hương đất nước và quý trọng vô ngần mạng sống của nhân dân, của đồng đội mình, Thanh Thảo đã chọn cho mình một giọng thơ trữ tình đằm thắm, giàu “chất thực” và “chất nghĩ” (Chu Văn Sơn). Thơ Thanh Thảo giàu chất suy tư, chất triết lí và rất trí tuệ. Nói như Thiếu Mai: “Thơ Thanh Thảo có dáng riêng. Đọc anh, dù chỉ mới một lần, thấy ngay dáng ấy… Thơ Thanh Thảo có khả năng gợi dậy những suy nghĩ của người đọc bởi vì thơ ấy là thơ của một tâm hồn giàu suy tưởng, giàu trí tuệ”. Nhiều vần thơ của Thanh Thảo thấm thía chất suy tư trăn trở: “Ai đã viết Trường Sơn hùng tráng/ tôi muốn viết Trường Sơn im lặng” (Một trăm mảnh gỗ vuông). Bởi thế, thay vì phản ánh hiện thực chiến tranh một cách sôi động và hoành tráng như một số cây bút khác, Thanh Thảo đã viết những vần thơ về chiến tranh và bày tỏ những suy tư của bản thân về số phận của nhân dân, Tổ quốc, thế hệ những người lính với mình trong cuộc chiến khốc liệt ấy. Trong Thử nói về hạnh phúc, Thanh Thảo đã bộc bạch rất thật những trăn trở của mình và của cả thế hệ: “chúng tôi không muốn chết vì hư danh không thể chết vì tiền bạc chúng tôi xa lạ với những tin tưởng điên cuồng những liều thân vô ích đất nước đẹp mênh mang đất nước thấm tự nhiên đến tận cùng máu thịt chỉ riêng cho Người chúng tôi dám chết ! đêm nay ai cầm tay nhau vào tiệc cưới ai thức trắng lội sình ai trầm ngâm viết những câu thơ thông minh ai trả nghĩa đời mình bằng máu” Đây không phải là bài thơ đầu tay của Thanh Thảo nhưng có thể coi đó là bài thơ đầu lòng nhiều “duyên may phận rủi” của nhà thơ-lính Thanh Thảo. Tuy nhiên, đọc bài thơ còn rất “trẻ” ấy của Thanh Thảo, ta có thể nhận thấy Thanh Thảo không bồng bột, nông nổi. Trái lại, bài thơ lại thấm đẫm tinh thần mới của thời đại cùng với những suy nghĩ chân thành của ý thức cái tôi cá thể nhà thơ. Người chiến sĩ ý thức rất rõ về giá trị cuộc sống và sinh mệnh của bản thân nhưng vẫn sẵn sàng hi sinh cho lí tưởng: “chúng tôi đã đi không tiếc đời mình (nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc) 13

nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc” (Những người đi tới biển) Đó là lời tuyên ngôn cho sự lựa chọn của cả thế hệ mình. Một sự chấp nhận rất dứt khoát nhưng không hề đơn giản, một sự hi sinh lặng lẽ mà cao đẹp. Anh và những người lính với anh “không chết vì hư danh”, “không chết vì tiền bạc”, “xa lạ với những tin tưởng điên cuồng”, “những liều thân vô ích”. Sự lựa chọn của các anh là sự lựa chọn cho Tổ quốc: “đất nước đẹp mênh mang/ đất nước thấm sâu đến tận cùng máu thịt/… chỉ riêng cho Người chúng tôi dám chết!” (Thử nói về hạnh phúc). Và một khi đã lựa chọn như vậy, những băn khoăn chung – riêng sẽ không còn nữa, những gian khổ hi sinh cũng trở nên bình thường trong suy nghĩ các anh. Và trong cái khốc liệt của chiến tranh, người lính đã tìm được những giây phút riêng cho mình: “tôi gặp thằng bạn thân trong một chuyến bất ngờ đêm Mỹ Long hai đứa nằm lộ đất trải dưới trời một tấm ni long nơi khi chiều B52 bừa ba đợt nơi mấy năm rồi hố bom không đếm hết nơi tôi chợt thốt niềm mơ giản dị của mình … chừng nào thật hoà bình ra lộ Bốn trải ni lông nằm một đêm cho thoả thích thằng bạn tôi đăm đăm nhìn một ngôi sao mọc trong hố bom nhoè nước đôi mắt nó lạ lùng mà tôi thấy được chứa đầy một hố bom và một ngôi sao…” (Một người lính nói về thế hệ mình) Rõ ràng Thanh Thảo đã nói về những gian khổ, những hi sinh trong chiến tranh một cách giản dị. Một “niềm mơ giản dị” của người lính nhưng lại nói lên được một khát vọng tự do đến cháy bỏng của cả dân tộc. Đọc những dòng thơ trên, nhà thơ Boey Kim Cheng từng viết: “Đây là giây phút cảm động, là phút giải khuây đầy nhân bản trong sự kinh hoàng của chiến tranh, khi bản thân vượt ra ngoài giới hạn của sự chịu đựng để chia sẻ nỗi đau và hi vọng với người khác. Ở mức độ cùng cực nhất, cái tôi không thu mình 14

trong những mất mát của chính nó mà hướng tới những người khác, và đó là giọng điệu mong manh nhưng quả quyết trong thơ chiến tranh của Thanh Thảo”. Viết về chiến tranh, Thanh Thảo cũng không thể lảng tránh cái chết. Tuy nhiên, cách nhìn về sự ra đi của đồng đội ở Thanh Thảo có phần khác với những nhà thơ khác: “với người chết bình thường thời gian không quý nữa nhưng tôi biết các anh đã cháy ruột cháy gan khi phải giữa đường nằm lại” Anh đọc được trong sự hi sinh của đồng đội mình sự ra đi không thanh thản. Bởi cuộc đời họ là cuộc đời chưa bao giờ yên nghỉ: “Nếu một ngày ta dựng những hàng bia/ xin hãy đề “nơi đây những cuộc đời chưa bao giờ yên nghỉ”” (Những người đi tới biển). Trong thâm tâm nhà thơ – lính Thanh Thảo, đồng đội vẫn dõi theo bước hành quân của các anh: “soi lối cho chúng tôi/ bằng ánh tân linh trong đêm tối”. Và với Thanh Thảo, cuộc hành quân của những người lính hôm nay như được tiếp thêm sức mạnh từ những người đi trước và là niềm tin cho mai sau. Nhìn những dấu chân qua trảng cỏ mà nhà thơ hình dung được sức mạnh đó trên từng gương mặt người: “ai đi gần ai đi xa những gì gửi lại chỉ là dấu chân vùi trong trảng cỏ thời gian vẫn âm thầm trải mút tầm mắt ta vẫn đằm hơi ấm thiết tha cho người sau biết đường ra chiến trường…” (Dấu chân qua trảng cỏ) Cách nhìn hiện thực chiến tranh như thế đã làm nên nét độc đáo trong thơ Thanh Thảo, nói như nhà thơ Paul Hoover: “Thanh Thảo đã xử lí một cách tuyệt đẹp sự màu nhiệm của cái hiện hữu và cái phi hiện hữu, của quá khứ và hiện tại… Ông viết với nỗi khát khao cực kì mãnh liệt về sự chứng nghiệm tuổi thơ ông, về cuộc chiến chống Mỹ và về những gì ngỡ đã khuất đi trong dĩ vãng” (lời tựa Thanh Thảo 1 2 3, nhà thơ Nguyễn Đỗ dịch). 15

Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan, trước 1975, những đóng góp của Thanh Thảo cho toàn bộ sự nghiệp văn học của dân tộc là chưa nhiều. Ở giai đoạn sáng tác này, Thanh Thảo chưa có những tác phẩm đặc sắc cả trên phương diện nội dung và hình thức sáng tác. Những bài thơ của Thanh Thảo ở giai đoạn này chủ yếu thiên về bộc bạch giãi bày cùng với những suy tư, trăn trở của một người lính mới bước vào hiện thực khắc nghiệt của chiến trường. Nó chưa có sức khái quát cao cũng như chưa có nhiều khám phá trong tư duy thơ và chưa có những cách tân rõ rệt về hình thức. Cùng với suy nghĩ này, khi đọc tập thơ Thanh Thảo 1 2 3, Mai Bá Ấn ví các con số 1, 2, 3 được xếp theo trình tự bậc thang trên tiêu đề tập thơ như các bước vận động và đổi mới tư duy thơ Thanh Thảo. Theo tác giả bài viết “1 2 3 của Thanh Thảo và ba bậc tư duy trong quá trình hiện đại hoá thơ ca” thì bậc thang thứ nhất thể hiện nấc thang đầu tiên của một lối tư duy thơ. Ông viết: “Rõ ràng, cái giọng thơ táo bạo gai góc như là tuyên ngôn thơ chiến tranh của một thế hệ đã làm nên cái mới, cái lạ của “Một người lính nói về thế hệ mình” nhưng tư duy thơ thì vẫn nằm nguyên trong cách diễn ý theo cảm xúc trình tự…”. Nhận xét trên của tác giả Mai Bá Ấn đã chỉ ra được những chuyển biến trong tư duy thơ Thanh Thảo trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của nhà thơ. Như vậy, thời kì sáng tác trước 1975 có thể xem là bước chuẩn bị quan trọng cho những giai đoạn sáng tác sau này của Thanh Thảo. 2.2 Thơ Thanh Thảo từ 1975 đến 1985 Có thể khẳng định giai đoạn từ 1975 đến 1985 là thời kì sáng tác sung sức nhất của Thanh Thảo. Sau chiến tranh, tác giả có được quãng lùi thời gian cần thiết để có một cái nhìn sâu hơn về những vấn đề mà ông đã nghiền ngẫm trong chiến tranh. Thanh Thảo đã tìm đến trường ca và thể loại này đem lại cho nhà thơ nhiều thành tựu. Và ông được xem là “ông vua trường ca” (Chu Văn Sơn). Trường ca đầu tiên gây tiếng vang lớn đó là Những người đi tới biển (1976). Tiếp sau đó là một loạt 7 trường ca khác: Trẻ con ở Sơn Mỹ (1976 –1978), Những nghĩa sĩ Cần Giuộc (1978 – 1980), Bùng nổ của mùa xuân (1980 – 1981), Đêm trên cát (1982), Trò chuyện với nhân vật của mình (1983), Cỏ vẫn mọc (1983), Khối vuông ru – bích (1984). Tám trường ca trong khoảng mười năm quả là một thành tựu đáng nể đối với một nhà thơ. Tuy nhiên, chỉ có 6 trường ca được xuất bản trước 1985, còn lại hai trường ca Trò chuyện với nhân vật của mình và Cỏ vẫn mọc vì nhiều nguyên nhân khác nhau mà mãi đến năm 2002 mới được xuất bản. Trong khoảng thời gian này, Thanh Thảo còn sáng tác khá nhiều thơ ngắn nhưng chưa có tuyển tập riêng. Chỉ có tập Khối vuông ru – bích xuất bản năm 1985 cùng với trường ca cùng tên của nhà thơ. Sau này, Thanh Thảo cho xuất bản tập thơ Thanh Thảo 70, tuyển những bài thơ được tác giả viết trong những năm 70 của thế kỉ trước. Đây là kết quả của một đời lao động nghệ thuật đầy đam mê và nghiêm túc của một nhà thơ “giàu nghĩa khí”. Mỗi sáng tác của Thanh Thảo đều thể hiện một phong cách thống nhất, độc đáo của một cây bút ham cách tân, dám dấn thân trên con đường cách tân văn học. Thơ Thanh Thảo thực sự đã góp phần thúc đẩy quá trình hiện đại hoá thơ ca ViệtNam hiện đại. Đóng góp mới mẻ của thơ Thanh Thảo trước hết được thể hiện qua phương diện nội dung. Thanh Thảo là nhà thơ của “nghĩa khí”, của “chất người” lấp lánh. Ông đam mê đi tìm kiếm “chất người” của những con người lấy “nghĩa khí” làm lẽ sống. Bởi 16

vậy, không ngẫu nhiên mà Thanh Thảo viết nhiều và viết rất hay về nhân dân, về thế hệ mình, về mẹ, về những nhân vật đã làm nên lịch sử, văn hoá của dân tộc và nhân loại. Đó là nhân dân trong cuộc trường chinh gian khổ hy sinh cuộc đời mình trên từng tấc đất “địa hình” để làm nên Tổ quốc. Đó là những người lính cùng thế hệ nhường nhau một giọt nước mát cuối cùng để tiếp sức cho đồng đội trong cuộc chiến đấu ác liệt với kẻ thù: “buổi sáng ấy tôi bước vào tuổi 25/ ở đường dây 559 – trạm 73/ ngày sinh nhật bắt đầu bằng cơn sốt/ cổ đắng khô ngồi thở trên đỉnh dốc/ bạn mở bi đông nhường hớp nước cuối cùng/ hớp nước cuối cùng giữa cơn sốt đầu tiên/ ngày sinh nhật tuổi 25 mình được uống” (Những người đi tới biển). Đó là những người mẹ với tấm lòng mênh mông như “sông Hồng trằn sóng đỏ” thầm lặng hi sinh cả cuộc đời để yên bước chân con. Đó là người anh hùng Trương Định ngoảnh mặt với triều đình bạc nhược để đứng về phía nhân dân để cùng họ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng bảo vệ mảnh đất cha ông để lại. Đó là “nhà thơ làm loạn” Cao Bá Quát, nhà thơ mù “dùng bút đâm gian” Nguyễn Đình Chiểu luôn đứng về phía nhân dân để đấu tranh cho “tự do” và “sự thật”. Đó còn là Lor- ca của đất nước Tây Ban Nha, là Maiacốpxki, A.Puskin của nước Nga,… những nhà thơ giàu nghĩa nặng tình với quê hương, đất nước và cả cuộc đời cống hiến cho nghệ thuật. Những con người ấy, dù có tên hay không tên, là người của thời hiện tại hay quá khứ, là người Việt Nam hay một đất nước nào trên thế giới đều gặp nhau ở vẻ đẹp của “chất người nghĩa khí”, “chất người” “lấp lánh”. Cùng với việc khám phá vẻ đẹp của “chất người” “lấp lánh”, thơ Thanh Thảo còn đặt ra nhiều vấn đề có tính phổ quát của cuộc sống: vấn đề được – mất, niềm vui – nỗi đau, cá nhân – cộng đồng, hạnh phúc, nhân tính, nghệ thuật,… Khi đề cập đến những vấn đề này, Thanh Thảo không chỉ dừng lại ở khám phá, phản ánh mà còn thể hiện những suy tư, trăn trở và dự báo bằng một cảm quan tinh tế và nhạy bén. Dù viết về cái đẹp hay cái xấu, cái ác hay cái thiện, hạnh phúc hay đau khổ, được hay mất,… Thanh Thảo luôn tin tưởng tuyệt đối ở mỗi “phẩm chất người”, tin tưởng ở lòng tốt của con người, tin tưởng ở cái đẹp, ở sức sống mãnh liệt, trường tồn của nghệ thuật, dĩ nhiên là nghệ thuật chân chính. Cùng với những đóng góp về nội dung, thơ Thanh Thảo giai đoạn này luôn thể hiện những đột phá táo bạo trong cách tân nghệ thuật. Điều này đã góp phần làm nên nét độc đáo trong phong cách thơ Thanh Thảo. Với nhiều trường ca trong giai đoạn này, Thanh Thảo đã tìm cho mình một “lãnh địa’ để cách tân, đó là trên phương diện cấu trúc tác phẩm. Mỗi trường ca của Thanh Thảo là một sáng tạo trong cấu trúc và xử lý ngôn ngữ. Qua các trường ca của Thanh Thảo, người đọc dễ dàng nhận thấy trường ca của ông không thiên về tổ chức câu thơ theo mạch cảm xúc của thơ ca truyền thống, đồng thời nhà thơ cũng khước từ kiểu cấu trúc tác phẩm theo một “vỏ” tự sự đơn giản. Các kiểu kết cấu mà Thanh Thảo thường sử dụng trong các tác phẩm của mình là: kết cấu ru-bích, kết cấu giao hưởng, kết cấu điện ảnh,… Nhờ vậy mà hầu hết trường ca Thanh Thảo không sa vào bộn bề chi tiết hiện thực, không sa vào kể lể mà đào sâu vào tư duy, mang tính triết luận sâu sắc. Điều đáng ghi nhận ở Thanh Thảo trên con đường tìm tòi đổi mới hình thức biểu hiện của thơ ca là việc ông phát hiện và thử nghiệm một cấu trúc hoàn toàn mới cho thơ: “Ru-bích – đó là cấu trúc của thơ” (Khối vuông ru-bích). Đó chính là bản lĩnh của một cây bút dám dấn thân vì nghệ thuật: “Người ta yêu những người cố mở 17

đường mà thất bại, yêu những người biết thất bại mà dám mở đường. Bởi vì những người đó đã nghĩ đến sự tiến bộ của nghệ thuật”” (Thanh Thảo – Thơ chính là số phận). Sự tìm tòi đổi mới trong thơ Thanh Thảo còn thể hiện qua những tìm kiếm, thể nghiệm và đổi mới về mặt ngôn từ, giọng điệu. Xuất phát từ lối tư duy thơ giàu chất nghĩ, chất thực, ngôn từ trong thơ Thanh Thảo có độ nén năng lượng rất cao. Thanh Thảo đặc biệt ghét kiểu “chuốt chữ” cầu kì và cố gắng khai thác thứ ngôn ngữ “thô sơ mà hực sáng” (Thanh Thảo) của nhân dân. Trong thơ của Thanh Thảo, ngôn ngữ đời thường Nam Bộ, ngôn ngữ phổ thông của nhân dân được tiếp nhận một cách tinh tế và sâu sắc. Bằng tài năng và bản lĩnh của mình, Thanh Thảo đã biến ngôn ngữ của nhân dân thành những công trình nghệ thuật tuyệt mỹ. Đó là thứ ngôn ngữ giàu sức gợi, giàu chất nghĩ và chất trí tuệ. Và những tác phẩm thơ của Thanh Thảo lại góp phần làm giàu thêm cho ngôn ngữ của nhân dân. 3. Thơ Thanh Thảo từ 1986 đến nay Nếu so với giai đoạn sáng tác trước đó, thì đây là giai đoạn sáng tác có phần dịu lắng của Thanh Thảo. Không còn sáng tác ồ ạt như thời kì chiến tranh vừa kết thúc. Sau khi sáng tác xong Khối vuông ru – bích, chính Thanh Thảo tưởng như mình không còn gì để viết nữa. Nhưng chính “bản tính thông minh khôi hài hóm hỉnh của ông đã dìu ông ra khỏi trạng thái rỗng của người vừa viết xong một tác phẩm tâm huyết. Nó dìu ông, hay nói đúng hơn, nó đã bốc ông ra khỏi chính sự ngộ nhận tài năng để đem ông trở lại với khả năng lao động tìm tòi đích thực đầy khốc liệt” (Trung Trung Đỉnh). Như vậy, với bản chất của một cây bút ham tìm tòi đổi mới, Thanh Thảo đâu chịu đứng yên một chỗ. Thanh Thảo “vẫn trên đường” (Nguyễn Việt Chiến) mà mình đã chọn. Ông vẫn âm thầm đổi mới, đem đến những cái mới cho thơ ca, cho nghệ thuật. Với năm tập thơ được xuất bản (gồm cả một số sáng tác trước 1975): Tàu sắp vào ga (1986), Bạch đàn gởi bạch dương (1987), Từ một đến một trăm (1988), Thanh Thảo 1 2 3 (2007), Thanh Thảo 70 (2008) và một trường ca viết về Trường Sơn vừa ra mắt bạn đọc – trường ca Mêtro, Thanh Thảo tiếp tục có những đóng góp quan trọng cho nền văn học của dân tộc. Ngoài thơ ca, ở giai đoạn này Thanh Thảo còn viết tiểu luận, phê bình văn học. Ba tập tiểu luận phê bình: Ngón thứ sáu của bàn tay (1995), Mãi mãi là bí mật (2004), Trò chuyện với dòng sông (2009) là minh chứng hùng hồn cho quá trình lao động nghệ thuật không biết mệt mỏi của Thanh Thảo. Điều đáng chú ý ở nhà thơ – nhà phê bình Thanh Thảo là ông viết phê bình như sáng tác văn học. Trong bài viết “Không đề Thanh Thảo”, tác giả Nguyễn Đỗ nhận xét khá xác đáng về cách viết tiểu luận này của Thanh Thảo: “Tôi cho rằng điều mà Thanh Thảo có được trong tập sách này – cái thành công nhất – chính là anh đã được sáng tác, anh viết tiểu luận như là một hối thúc bên trong, giống khi làm thơ”. Ở một chỗ khác, tác giả viết tiếp: “Chưa có ai gọi viết tiểu luận là sáng tác nhưng với tôi tiểu luận của Thanh Thảo là một sáng tác, hay rõ hơn là một biến thái của sáng tác”. Tư duy thơ Thanh Thảo đến giai đoạn này đã tiến thêm một bậc nữa. Nó được ví như nấc thang thứ ba trong hành trình vận động tư duy thơ của ông. Trong bài viết “1 2 3 của Thanh Thảo và ba bậc tư duy trong quá trình hiện đại hoá thơ ca”, tác giả Mai Bá Ấn cho rằng:“Bậc 3 là 13 bài thơ còn lại được anh sáng tác gần đây với một ý thức bứt phá rõ nét, đẩy thơ Việt tiệm cận cùng những trào lưu thơ hiện đại thế giới”và “…tư duy 18

thơ đã nghiêng hẳn về lối sáng tác của chủ nghĩa hậu hiện đại. Chính lối tư duy này đã khiến Thanh Thảo cấu trúc tác phẩm thơ hoàn toàn mở, nhằm “rủ rê” sự tham gia của người tiếp nhận theo quan niệm “cái chết của tác giả” của chủ nghĩa hậu hiện đại”. Đây có thể xem là bước đột phá táo bạo của Thanh Thảo trong việc đổi mới hình thức thơ ca. Những bài thơ của ông thường tạo ra rất nhiều “không gian rỗng” để người đọc bị cuốn vào câu chữ mà tham gia đồng sáng tạo với nhà thơ. Thơ Thanh Thảo thường mở ra nhiều trường liên tưởng khác nhau, tạo ra độ mờ nhoè về nghĩa. Và người đọc cũng rất “tự do” trong việc tiếp nhận bài thơ. Mai Bá Ấn đã đánh giá khá cao lối tư duy thơ của Thanh Thảo trong những bài này: “Ở bậc tư duy thơ này, ta còn thấy rất rõ việc từ bỏ cách phản ánh “đại tự sự” của chủ nghĩa hiện đại để đi vào phản ánh “tiểu tự sự” của chủ nghĩa hậu hiện đại”. Mặc dù khái niệm “hậu hiện đại” theo Thanh Thảo là còn “mù mờ” nhưng những đóng góp của ông trên bình diện hiện đại hoá thơ là điều mà ai cũng nhận ra rất rõ. Về mặt nội dung, thơ Thanh Thảo giai đoạn này chủ yếu hướng vào hiện thực cuộc sống đời thường với những trăn trở về con người và những vấn đề nóng hổi của cuộc sống. Tuy nhiên không vì thế mà thơ Thanh Thảo bớt đi tính trí tuệ. Ngược lại, chất trí tuệ trong thơ ông được nâng lên một tầm khái quát mới. Những vấn nạn của cuộc sống, sự giả dối của con người, cùng bao nhiêu cái xấu, cái ác nhan nhản tồn tại xung quanh khiến Thanh Thảo phải chạnh lòng: “Có những lúc ra về lòng rỗng không/ vì phải gặp trong cơ quan một thằng cặn bã” (Tôi chào đất nước tôi). Nhưng dù thế nào thì Thanh Thảo cũng tin tưởng vào “một lòng tốt bình thường” của con người: “vì tôi tin mãi mãi con người là bí mật/ mãi mãi chúng ta không đi hết bản thân mình” (Gởi Iu.Bonđarep). 3. Phong cách sáng tác - Thơ ông mang tiếng nói của người trí thức nhiều trăn trở, nghĩ suy về các vấn đề thời đại và xã hội. - Ông luôn cố gắng để cách tân thơ Việt, thể hiện sâu cái tôi với những biểu đạt mới mẻ, đưa thơ ca lên một tầm thẩm mỹ mới. 4. Sự biểu hiện những cảm hứng chính trong thơ Thanh Thảo 4.1 Khái niệm cảm hứng Cảm hứng là trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư tưởng xác định, gây tác động đến cảm xúc của người tiếp nhận tác phẩm. Cảm hứng là cách gọi ngắn gọn của khái niệm cảm hứng chủ đạo. Theo từ điển thuật ngữ văn học “cảm hứng chủ đạo ban đầu chỉ yếu tố nhiệt tình say sưa diễn thuyết, sau chỉ trạng thái mê đắm khi xuất hiện tứ thơ. Về sau lý luận văn học xem cảm hứng chủ đạo là một yếu tố của nội dung nghệ thuật, của thái độ tư tưởng xúc cảm ở 19

người nghệ sỹ đối với thế giới được mô tả. Theo nghĩa này cảm xúc chủ đạo thống nhất với đề tài và tư tưởng tác phẩm” [13, tr. 38]. Với cách hiểu như trên, chúng tôi quan niệm khái niệm cảm hứng có sự thống nhất với các “dòng” văn học mà tác giả Pôxpêlôp đã phân chia. Ông chia nội dung tác phẩm thành ba dòng: dòng sử thi - dân tộc, dòng thế sự - đạo đức, dòng số phận - đời tư. Trần Đình Sử đã kế thừa khái niệm này theo góc độ thi pháp và sử dụng thuật ngữ “thể tài” thay cho thuật ngữ “dòng”. Như vậy, khái niệm cảm hứng hay cảm hứng chủ đạo, dòng, thể tài trong văn học đều được quan niệm bao gồm nội dung nghệ thuật và thái độ tư tưởng xúc cảm của người nghệ sĩ đối với thế giới được mô tả. Ta sẽ nghiên cứu những cảm hứng chính trong thơ Thanh Thảo theo quan niệm vừa trình bày trên. 4.2 Cảm hứng sử thi Bản chất của thơ trữ tình là sự ý thức về cái tôi, về giá trị bản thân, về quyền sống, quyền làm người. Khát vọng bức thiết của con người là tự do cá nhân và dân chủ xã hội. Sự thức tỉnh nhu cầu xã hội, nhu cầu của con người luôn là một đòi hỏi bức thiết và chính đáng. Song, khi đất nước có giặc ngoại xâm thì lợi ích của dân tộc và nhân dân hòa làm một, sự nghiệp giải phóng dân tộc đồng thời là sự nghiệp giải phóng con người. Như một lẽ tự nhiên, văn học nói chung và thơ chống Mỹ nói riêng đã ưu tiên đặt vấn đề tự do độc lập lên trên hết, vì lợi ích của Tổ quốc, vì nhiều nhiệm vụ khác lớn hơn, cái tôi cá nhân tạm thời “nén lại”, lặng lẽ lùi lại bình diện sau và vì thế “Cái tinh tế cỏ hoa tạm thời chưa nghĩ đến” (Chế Lan Viên). Thơ ca chống Mỹ là bản hợp xướng ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Cảm hứng sử thi được coi là cảm hứng chủ đạo của thơ thời kỳ này. Đó là cảm hứng đề cao, ngợi ca cái cao cả, vĩ đại hào hùng. Thanh Thảo ở một số tập thơ thời kỳ đầu sáng tác cũng lấy cảm hứng này làm cảm hứng chính. Và cảm hứng sử thi trong thơ Thanh Thảo về mặt nội dung được bộc lộ qua một số nét chủ yếu sau: 4.2.1 Khái quát hiện thực khốc liệt của chiến tranh Thanh Thảo đã từng tâm sự: chiến tranh là một trải nghiệm khốc liệt không ai muốn nhưng rồi khi phải đối đầu với nó, phải ngập chìm trong nó và may mắn cuối cùng 20

là thoát khỏi nó, lúc ấy người ta có thể coi những bài thơ ấy rất bình thường mình viết được trong chiến tranh như vắt cơm đã nuôi mình khi đói, như hớp nước cuối cùng trong bi đông mà mình sẻ chia với đồng đội, lại như một ân sủng mà mình tình cờ nhận được. Ông là một trong số rất nhiều người làm thơ viết văn đi vào chiến trường đầu những năm 70, suốt dọc Trường Sơn, theo dấu chân người lính trẻ, đến tận những con đường qua sình lầy của đồng bằng Nam Bộ. Cũng một thực tế chiến đấu bao trùm cả nước, nhưng đã ở vào một thời điểm khác, một không gian khác, một môi trường cụ thể khác, và tâm trạng người lính, đời sống chiến đấu của người lính, đời sống nhân dân trong vùng sát nách giặc đã dội vào thơ các tác giả với những âm điệu và màu sắc có khác. Thấm thía hơn với thực tế chiến tranh, có thời gian hơn để suy cảm về chặng đường chiến đấu, về trách nhiệm và số phận thế hệ mình, về đất nước và nhân dân - những điều này đem lại những nét mới mẻ hơn của thơ lớp trẻ mà chúng ta có thể thấy qua thơ của những Nguyễn Khoa Điềm, Dương Hương Ly, Nguyễn Duy, Ngô Thế Oanh, Trần Mạnh Hảo, Văn Lê, Diệp Minh Tuyền... Thanh Thảo là thuộc vào số này. Lăn mình vào cuộc kháng chiến gian khổ của dân tộc, nếm trải bom đạn, từng ngày đối diện với sự sống và cái chết, thơ viết về chiến tranh của ông thấm đẫm chất hiện thực khốc liệt của cuộc chiến. Thanh Thảo trở nên dạn dĩ hơn và những câu thơ của ông không còn mảnh mai, e dè. Chúng trở nên từng trải, gai góc, chắc nịch hơn rất nhiều. Những tác phẩm Thanh Thảo viết về đề tài chiến tranh chủ yếu được viết với một độ lùi thời gian nhất định, nhà thơ có thời gian nhìn lại, chiêm nghiệm những gì mình và đồng đội đã đi qua. Vì thế, thơ ông là những bức tranh được phản ánh đa chiều kích, chúng có một nội lực vô cùng mạnh mẽ bởi sự tích tụ rớm máu của chính bản thân nhà thơ, ở đó vừa có âm hưởng “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, vừa có âm hưởng đau xót, bi thương về những hi sinh, mất mát không thể kể xiết. Và đó đều là những tác phẩm mang chất giọng bi hùng, lắng sâu vào tâm hồn dân tộc. Thanh Thảo đã bao quát diện mạo đời sống chiến tranh theo chiều dài hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của dân tộc, từ những cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương của những nghĩa sĩ Cần Giuộc cho đến cuộc khởi nghĩa đánh dấu sự phát triển một cách tự giác của những người du kích Ba tơ trên con đường giác ngộ cách mạng, cho đến cuộc chiến tranh hiện đại của dân tộc. Phản ánh hiện thực chiến tranh một cách khát quát, cụ thể, đa chiều kích, nhà thơ đã cho chúng ta những định nghĩa và lột tả khái niệm chiến tranh một cách rõ nét nhất. Thật vậy, chiến tranh hằn lên ký ức dân tộc những mất mát, tổn thương to lớn, và dai dẳng mãi mãi về sau. Nỗi kinh hoàng của chiến tranh hằn lên kí ức từ những trẻ nhỏ - những sinh linh chưa đủ sức tự vệ, cuộc thảm sát ở Sơn Mỹ là một minh chứng điển hình cho tội ác của quân thù: “Tôi thấy hai đứa bé nằm đè lên nhau/ đứa lớn che đạn cho đứa nhỏ/ mắt chúng trùm xuống tôi/ súng nổ/ Đôi mắt ấy theo tôi về nước M / theo vào căn nhà tôi đã khoá cửa/ mở trừng trừng trong giấc mơ tôi/ ở ngay cái nhìn các con tôi” (Trẻ con ở Sơn Mỹ). Khói lửa chiến tranh bao trùm mọi miền quê tổ quốc, gieo rắc nỗi đau cho biết bao người 21

phụ nữ - người mẹ mất con, người vợ mất chồng... cùng nỗi đau thể xác cứ chảy âm ỉ qua bao thế hệ. Hình ảnh người bà già nua một mình nuôi cháu mồ côi đã làm nhà thơ đau xót vô tận khi ông trở về Sơn Mỹ: “bà ngồi lặng lảy từng hạt bắp/ hơn bảy mươi tuổi đời quần áo rách/ bóng tối cày trên vầng trán nhăn nheo/ cháu bên bà còm cõm giữa nia khoai/ chân bó giẻ vết thương chưa lành miệng/ câu hát ru đến lòng ta chết điếng/ chim bay về núi tối rồi/ không cây chim đậu không mồi chim ăn” (Trẻ con Sơn Mỹ). Hiện thực chiến tranh trong thơ Thanh Thảo là một hiện thực rộng lớn, có tầm bao quát cao. Ở đó không chỉ có những âm mưu xâm lược của kẻ thù, không chỉ có ý chí vô địch của con người mà còn có vô vàn những hi sinh mất mát không thể nào kể xiết và những tâm tư nguyện vọng sâu kín mà thống thiết của con người. Hiện thực về cuộc chiến ấy được nhà thơ nhìn với nhãn quan của chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc, một cái nhìn tỉnh táo, một sự đối mặt trực tiếp với hiện thực, với cái giá mà dân tộc ta phải trả cho cuộc chiến dành độc lập tự do ấy. 4.2.2 Xây dựng hình tượng sử thi điển hình Với cảm hứng sử thi, Thanh Thảo đã xây dựng những hình tượng sử thi điển hình, tiêu biểu cho cả thời đại: là những người mẹ, người vợ, người phụ nữ, người lính..., hình tượng tập thể mang vẻ đẹp, sức mạnh kỳ vĩ. Đó đều là chân dung những con người chứa phẩm chất tốt đẹp nhất của dân tộc Việt Nam và đó đều là những hình ảnh quen thuộc của thơ ca kháng chiến. Có điều ở những hình tượng này bên cạnh nét hào hùng cao cả Thanh Thảo còn khắc hoạ thêm ở những yếu tố bi kịch. Viết về người lính với ý thức lật mở hiện thực cuộc sống đến tận cùng bản chất của nó, hình ảnh người lính trong thơ Thanh Thảo hiện lên đúng với bản chất lính nhưng cũng thật chất người. Thanh Thảo đã khắc họa hình ảnh người lính trong kháng chiến chống Mỹ với lòng tự hào và tri ân sâu sắc. Nét thứ nhất, nét đầu tiên mà anh vẽ ra về họ là nét bình thường, giản dị, chân chất. Bình thường, gần như tầm thường nữa là khác. Đây cũng là tứ thơ chung của cả thời đại - những anh hùng vô danh, càng vô danh càng anh hùng. Có khi Thanh Thảo đem soi vào một cái gì khác − những ngôi sao xa xôi (Những ngôi sao bám chặt mảnh đất này, vùi trong đất và lấm đầy bùn đất), những hạt gạo gần gũi (...những hạt gạo trên sàng, sàng qua lửa qua bom, qua đắng cay còn nguyên chất gạo), cũng như đem ví với đám đế (Những cây đế mong manh/ Mọc khít ken thành đám đế/...Lũ giặc không ngờ nơi đó có chúng tôi/ Những cây đế biết nghĩ suy/ Và cầm súng) - những cây sậy mỏng manh - với những ngọn cỏ (Lối mòn như sợi chỉ giăng/ Còn in đậm đặc vô vàn dấu chân/ Dấu chân ai đọc nên vần/ Nên nào ai biết đi gần, đi xa), những hạt cát bình thường mà có lẽ cả đến con mắt người yêu cũng không dễ tìm ra. 22

Cái nét bình thường, vô danh này ở người lính trẻ được nhấn vào nhiều lần trong thơ Thanh Thảo. Thi sĩ rất già dặn để có thể vẽ chân dung đối tượng trong trạng thái không có đối tượng, khi chỉ gặp những xác tăng giặc rỉ nát bên đường mà lại hình dung về những người chiến thắng − những bông \"hoa đâu mất\"(...Màu áo xanh mất hút cuối rừng/ Tôi qua đây xuôi xuống chiến trường/ Bỗng xao xuyến nhớ màu hoa chưa gặp/ Hoa đâu mất/ Màu áo xanh qua khuất/ Chỉ còn đây những xác thù rỉ nát/ Mây mùa thu thấp thoáng cuối rừng...). Có thể nói, Thanh Thảo đã tìm được khá nhiều cung bậc, nhiều sắc thái để tô đậm nét vô danh, bình thường ở những người lính cùng thế hệ. Nhưng nét vô danh, bình thường này được nhấn đi nhấn lại nhiều lần đến thế thì quả không phải là sự vô tình: nó như báo trước một thầm thì gì nữa, một xác nhận về đặc điểm thế hệ, hơn nữa, một thứ \"tuyên ngôn\". Quả là qua thơ Thanh Thảo, những người lính chống Mỹ cùng thế hệ anh đã tuyên ngôn khá nhiều, \"tự bạch\" khá nhiều. Ta đọc được cái tự ý thức về thế hệ này ngay trong những lời nói với các bà mẹ: “Đêm nay con nằm nhẩm tên từng đứa Mai này đây sẽ tràn xuống đồng bằng Chúng con đi như dòng sông chảy xiết Chúng con đi rung từng trận gió rừng Cả thế hệ xoay trần đánh giặc Mặc quần đùi khiêng pháo lội qua bưng Vì mẹ sinh chúng con Vì chúng con là con mẹ” (Những ngôi sao của mẹ) Hoặc trong những lời nói với người thuộc tầng lớp đàn anh đang cùng mình trong trận: “Chúng tôi những thằng lính trẻ Lớn lên khắp trăm vùng gọi nhau là đồng đội Đi chiến đấu ngủ bụi nằm bờ đầu nguồn cuối bãi Nhiều đứa cùng tuổi với bài hát của anh 23

Lòng vô tư đã hát một lần Và như anh ngã xuống” Họ tự nhận về họ khá nhiều, ưu điểm và nhược điểm, tính cách và quan niệm: “Những thằng con trai 18 tuổi Nhiều khi bực quá khóc òa Nhiều lúc tức mình chửi bâng quơ Phanh ngực áo và mở trần bản chất Mỉm cười trước những lời lẽ quá to Nhưng nhất định không bao giờ bỏ cuộc” (Thử nói về hạnh phúc) Và như vậy, họ có ý thức, rất ý thức, càng ngày càng ý thức, nhất là trên vấn đề nóng bỏng trước mắt: trách nhiệm trước dân tộc và lịch sử, thái độ trước cuộc đụng đầu quyết liệt sống còn với kẻ thù, chỗ đứng và lối sống của mình: “Người ta không thể chọn để được sinh ra Nhưng chúng tôi đã chọn cánh rừng phút giây năm tháng ấy” (Những người đi tới biển) “Chiến tranh gắn chúng mình với nhau Triệu tổ ba người là đất nước Là Trường Sơn uy nghiêm liền mạch Là cuộc đời dày dạn yêu thương” (Tổ ba người) Cũng như Hữu Thỉnh khi nói về người lính giữa trận, thời điểm mà hình dung về Tổ quốc trở nên cụ thể, nó là cái gốc sim phải giữ lấy “một gốc sim thôi dù chỉ gốc sim cằn”, không có cách nào khác, trong thơ Thanh Thảo, người lính trẻ rất có ý thức về Tổ quốc, qua những gì gắn bó nhất, cụ thể nhất: 24

“Với những thằng con trai 18 tuổi Tổ quốc là một nhịp tim có thể khác thường Là một làn mây mỏng đến bâng khuâng Là mùi mồ hôi thật thà của lính Đôi khi là một giọng nữ cao nghe từ Hà Nội Hay một bát canh rau rừng” Và người lính lên tiếng tuyên thệ: “Chúng tôi không muốn chết vì hư danh Không thể chết vì tiền bạc Chúng tôi lạ xa với những tin tưởng điên cuồng Những liều thân vô ích Đất nước đẹp mênh mang Đất nước thấm sâu đến tận cùng xương thịt Chỉ riêng cho Người chúng tôi dám chết” Những câu thơ rắn rỏi như lời thề năm xưa của các chiến sỹ “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Vì đất nước các anh không tiếc đời mình, tuổi xuân, sương máu của mình. Với các anh hiến dâng cho tổ quốc là sự hiến dâng cao cả đáng tự hào, là sự hiến dâng xứng đáng và hữu ích. Đó là cả một thế hệ lên đường, cả thế hệ mang niềm tin sắt đá vào ngày hoà bình dân tộc, cả thế hệ tâm niệm rằng: đất nước thực là máu thịt, là người mẹ hiền thiêng liêng. Người ta thường nói chất trẻ là ở cái tươi mát, tươi tắn, non trẻ, xanh non. Thơ Thanh Thảo không phải không tươi mát, nhưng nó cũng rất nhiều đăm chiêu, suy tư. Nó thiếu \"chất trẻ\" chăng? Quả là có lúc có thể trách thơ ông đôi chỗ hơi \"già\" - ví như trước cái tên rất ngộ \"Hoa đâu mất\" mà chỉ cánh lính rất trẻ mới có thể nghĩ ra, tứ thơ Thanh Thảo đặt lại quá đăm chiêu, tưởng như lẽ ra phải đặt theo lối \"không có kính, ừ thì ướt áo\" như Phạm Tiến Duật mới là hợp cảnh. Nhưng có lẽ nói chung, phải nên nhìn nhận \"chất trẻ\" ở một cái gì đó sâu hơn, \"bên trong\" hơn. Tuổi trẻ vào đời mà khiến người ta thừa nhận thì có lẽ là do người ta bắt đầu để ý đến cánh tay nó hăng hái giơ cao xung phong, do nó mạnh về tính khuynh hướng, mạnh ở những dự định, đề nghị, quyết tâm mà nó muốn làm - làm tốt, làm đẹp cho cuộc đời này, đất nước này. Trong thơ Thanh Thảo, 25

có lẽ cái cốt của chất trẻ là ở sự tự khẳng định mạnh mẽ của thế hệ mình, một thế hệ do cách mạng đẻ ra và đào luyện từ trong lòng nôi một chế độ mới và đem cống hiến cho chế độ toàn bộ khát vọng, nhiệt tình, ý thức cho đến cả chính xương máu, số phận, sinh mạng mình: “Những tráng ca thuở trước còn hát trong sách thôi những thanh gươm yên ngựa giờ đã cũ mèm rồi bài ca của chúng tôi là bài ca ống cóng hành trang quân giải phóng đơn giản nhất trên đời ... tháng năm sẽ dần phai bao bài ca duyên dáng nhưng tôi biết từ đây như khắc vào đá tảng như vạch vào thân cây bài ca của hôm nay thô sơ và hực sáng...” (Bài ca ống cóng) Ở những dòng thơ vừa trích, nhà thơ đàn anh Tế Hanh đã nhận ngay ra chất tuyên ngôn của nó (Văn nghệ số 52 - 1979). Tuyên ngôn về lẽ sống, trước tiên, và có lẽ tuyên ngôn cả về nghệ thuật. Xây dựng hình tượng người lính trong kháng chiến, Thanh Thảo nói nhiều đến tình đồng đội, đồng chí. Nhà thơ đã vẽ lên thế hệ thanh niên người Việt không chỉ mang trong mình tình yêu giang sơn, tổ quốc thiết tha mà họ còn rất mực thương yêu bạn bè mình, đồng đội, đồng chí mình. Sức mạnh của tình đồng chí được Thanh Thảo nói đến như một tuyên ngôn thế hệ: 26

“Tất cả những gì chúng tôi có được đều trải cho nhau trải ra đất thật tình với quân thù – chi đến tối đa với bè bạn phải chơi hết mình (Một người lính nói về thế hệ mình) Thứ tình cảm thiêng liêng ấy đã làm nên sức mạnh để lính Trường Sơn vượt qua mọi chông gai thử thách, mọi thiếu thốn trong cuộc chiến không cân sức với quân thù. Biết bao kỷ niệm, biêt bao ký ức dù nhỏ nhắn, đơn sơ về một thời chinh chiến sát cánh bên nhau đều được người lính khắc sâu vào trái tim và coi đó là những gì quí giá nhất của cuộc đời mình. Chúng ta xúc động và tôn thờ biết bao khi đọc lại những dòng thơ Thanh Thảo viết về tình bạn giữa thời chiến: “Bạn từ xa về thăm mất hai ngày đi bộ đặt tiệc bên Vàm Cỏ nằm với nhau một đêm hai võng cùng thức suốt nói bao điều gan ruột phút mình lặng im mai sớm là chia tay vội quá không nấu kịp một chén canh tàu bay bạn đi nên để ý vùng trời B52... bạn cười “ khi đến cậu mình đã qua đường này” ( Thăm bạn ) 27

Và bài thơ đã cho thế hệ chúng ta biết thêm một lý do nữa là tại sao một dân tộc Việt Nam bé nhỏ, nghèo nàn, lạc hậu lại có thể chiến thắng được đế quốc Mỹ và bè phái xâm lược của chúng. Trong bom đạn chiến tranh, hàng ngày đối diện với cái chết, lưỡi hái của tử thần đến bất cứ lúc nào và không loại trừ một ai, song tâm hồn người lính không phải vậy mà mất đi vẻ lạc quan yêu đời. Họ luôn mở hồn mình với thiên nhiên, cỏ cây hoa lá. Đó là những tâm hồn thật nhạy cảm, dễ rung cảm trước thiên nhiên tạo vật. Dọc đường hành quân, hành trang của người lính không chỉ có ba lô con cóc mà còn là ánh trăng, ngôi sao, là bãi cát, là bụi cỏ dại, là những ngọn rau rừng... Người lính yêu tất cả những gì thuộc về non sông gấm vóc của mình. Thiên nhiên hiện lên trong thơ Thanh Thảo thật gần gũi và gắn bó với người lính: “Tôi “à” lên một tiếng ngạc nhiên Sao lại gọi là hoa “ đâu mất” Dọc con lộ những chiếc tăng nằm rỉ nát Màu hoa như phảng phất rất gần” (Hoa đâu mất) Nếu như Quang Dũng có những câu thơ khắc hoạ vẻ đẹp lãng mạn, hào hoa của người lính như “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/ Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” thì Thanh Thảo cũng có những câu thơ viết về người lính đầy “chất lính”: “Mây trôi ngang khoảng trời xanh không tên Những đám mây ban ngày không ngủ Có người lính trải ni lông nằm trên công sự Nắng mơ màng làm mắt lim dim” (Dưới khoảng trời không tên) Với cảm hứng sử thi, Thanh Thảo đã phác hoạ con đường hành trình đi đến thành công của cuộc kháng chiến chống Mỹ vĩ đại. Giọng thơ khách quan của Thanh Thảo đã đem lại cho thơ hình ảnh trần trụi và khốc liệt của chiến tranh; giọng thơ dù không gân lên nhưng vẫn đầy chất bi hùng của cảm hứng sử thi. Hướng vào khắc hoạ hiện thực chiến tranh nhưng tác giả không đi vào quan sát miêu tả chi tiết, những tình tiết sự kiện 28

lịch sử mà ông tập trung phát hiện, khám phá chân dung tinh thần của cả một thế hệ người lính trong giai đoạn chiến tranh khốc liệt. Có một thời cả nước ra trận, có một thời mỗi con người đều đặt tổ quốc lên vai và có một thời người ta sẵn sàng hi sinh , vì mục tiêu duy nhất là chiến thắng quân thù. Những năm tháng đau thương nhưng hào hùng ấy, cả dân tộc đã sống những đêm không ngủ, cả dãy Trường Sơn rung chuyển dưới bước chân hành quân người chiến sĩ. Tất cả vì miền Nam thân yêu ruột thịt, tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng, những khẩu hiệu ấy được cả dân tộc khắc cốt ghi tâm. Thơ Thanh Thảo đã ghi lại chân thực, cảm động chân dung những con người ưu tú mang trên mình sứ mệnh lịch sử cao cả. Có thể coi những bài thơ ấy là những khúc anh hùng ca về sứ mệnh lịch sử của thế hệ cầm súng. 4.3 Cảm hứng thế sự Thơ sau 1975 đã vắng hơn âm hưởng hùng ca , nói nhiều hơn đến nỗi đau hâụ chiến bằng sự cảm thông chân thành . Chiến tranh mang đến những bi kic ̣h cho mỗi gia điǹ h , mà sản phẩm ấy là những người vợ“hoá đá” thành nàng Tô Thị, núi Vọng Phu, là những Bến không chồng (Dương Hướng), là những làng không cha... Những con người vừa chiến thắng quân xâm lược tầm cỡ thế giới giờ đã trở về với cuộc sống đời thường, đối mặt với gánh nặng cơm áo hàng ngày. Thơ cũng kịp mang một giọng điệu mới với những xu hướng mới ngoài xu hướng tiếp tục nói về chiến tranh nhưng phần nào đã có sự “hạ tông” như đã trình bày phần đầu: xu hướng trở về với cái tôi cá nhân, cái tôi muôn mặt đời thường. Thơ trở về với cái hàng ngày và theo kịp bước đi của đời sống đang đổi thay từng giờ, thơ bớt đi chất giọng ru vỗ ngọt ngào ngày nào mà thay vào đó là giọng thô ráp hơn. Và cảm hứng thế sự trở thành cảm hứng chủ đạo của thơ từ đây. Nhận thức nhanh chóng được những thay đổi trên, Thanh Thảo đã viết: “Tôi xoay những ô vuông/ Có nhà thơ nói rằng đời bây giờ tỉnh táo quá / Tôi, ngược lại, tôi thích: tỉnh táo, tỉnh khô/ tỉnh bơ, tỉnh như sáo/ Vì tôi biết cái tỉnh đó chỉ là phía nhìn được/ của đam mê” (Khối vuông ru bíc). Tư duy thơ Thanh Thảo lúc này là lối tư duy phản tỉnh, nhìn thẳng vào những vấn đề gai góc của xã hội như đồng tiền mất giá, lối ứng xử ích kỷ của con người, sự mất cân bằng của xã hội, sự xa cách của thang bậc giàu nghèo, cuộc sống nhọc nhằn mưu sinh của những người lính thắng trận trở về với đời thường... Thơ Thanh Thảo hay đó cũng chính là những lời đối thoại của nhà thơ với cuộc đời. Tác giả đã đặt ra nhiều vấn đề mang tính triết luận, tính thời sự và có ý nghĩa sâu sắc. Thi sĩ nhìn thẳng vào nhiều vấn đề gai góc của xã hội như đồng tiền mất giá, lối ứng xử ích kỉ của con người, sự xa cách của thang bậc giàu nghèo, cuộc sống nhọc nhằn mưu sinh của những người lính thắng trận trở về đời thường... Sáng tác của Thanh Thảo đã mở ra bước ngoặt lớn trong tư duy thơ, nghệ thuật cấu tứ thơ và quan niệm thơ trong thời đại mới. Cảm hứng thế sự được Thanh Thảo thể hiện qua một số điểm chủ yếu: 29

4.3.1 Chiến tranh và người lính Là một nhà thơ trưởng thành ở giai đoạn ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ nên những gì là sự thật của chiến tranh Thanh Thảo đều trải qua, là một sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường nhà thơ gác bút lên đường nhập ngũ nên hơn ai hết ông hiểu bản chất của cuộc chiến tranh chống Mỹ, hiểu được cái giá dân tộc phải trả cho cuộc chiến này cũng như ông hiểu được phần sâu kín nhất nhưng thật nhất của người lính. Mà trước đây phải chăng người nghệ sĩ không dám và không nói tới. Bài thơ đầu tay Thử nói về hạnh phúc trước hết là một bài thơ tình nói nhiều về những trăn trở cho hạnh phúc lứa đôi, cho hạnh phúc của dân tộc nhưng đồng thời cũng là tiếng nói phản chiến dữ dội với điểm nhìn thẳng vào sự thật chiến hào. Vào thời điểm ra đời bài thơ, nó được coi là uỷ mị nhưng sự thật bài thơ được người lính chép tay và cảm nhận hoàn toàn khác. Cái hay, cái mới, cái lạ của bài thơ lại chính nằm ở chỗ tác giả đã nói lên được tiếng nói chung của thế hệ người lính trẻ: dám xả thân chống Mỹ cứu nước nhưng cũng rất khao khát hạnh phúc lứa đôi, khao khát hoà bình và xót xa cho sự đổ máu của dân tộc. Giờ đây đọc lại những dòng thơ ấy, chúng ta không khỏi thương xót, đau đớn về cái giá quá đắt mà tổ quốc phải trả cho ngày chiến thắng: “có những thằng con trai mười tám tuổi chưa từng biết đến nụ hôn người con gái chưa từng biết những lo toan phức tạp của đời câu nói đượm nhiều hơi sách vở khi nằm xuống trong đáy mắt vô tư còn đọng một khoảng trời hạnh phúc nào cho tôi hạnh phúc nào cho anh hạnh phúc nào cho chúng ta hạnh phúc nào cho đất nước ... chúng tôi không muốn chết vì hư danh không thể chết vì tiền bạc chúng ta xa lạ với những tin tưởng điên cuồng những liều thân vô ích đất nước đẹp mênh mang 30

đất nước thấm tự nhiên đến tận cùng máu thịt chỉ riêng cho Người, chúng tôi dám chết!” (Thử nói về hạnh phúc) Và đã hơn một lần Thanh Thảo ngậm ngùi, tiếc thương cho chính bản thân mình, cho những đồng đội đã ngã xuống giữa tuổi hai mươi xuân sắc: “Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình (nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc) nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi tổ quốc? cỏ sắc mà ấm quá, phải không em?” (Những người đi tới biển) Từ chiến trường Đông Nam Bộ, Thanh Thảo mang đến giong thơ đầy trăn trở, suy tư, chiêm nghiêṃ về mất mát, hy sinh. Ông choṇ cách diễn đạt cái bi hùng qua hình ảnh thơ ám ảnh “Chiếc áo dính chặt vào thân bạc màu ngắn nhanh rồi rách” với cách so sánh táo baọ “ Môṭ chiếc áo có thể sống lâu hơn môṭ cuôc ̣ đời”(Những người đi tới biển).Nhà thơ suy tư rất nhiều về sự sống – cái chết: “Với người chết bình thường Thời gian không quí nữa Nhưng tôi biết các anh Đã cháy ruột cháy gan Khi phải giữa đường nằm lại ... Tôi đã bao nhiêu lần nói về cuộc sống Mà chưa hiểu gì cuộc sống các anh Những người ra đi không để lại tuổi tên Lúc ngã xuống tôi chỉ kịp nhìn nấm đất Nấm đất Hay cả Trường Sơn cao ngất Làm sao che được ánh mắt con người” 31

(Các anh nằm giữa Trường Sơn) Đằng sau tấm huy chương chói ngời là biết bao sương máu, khổ đau mà nhà thơ đã chiêm nghiệm: “Tôi gặp ở Hồng trường những cụ ông cụ bà mang huân chương chói lọi tự hào thầm kín khổ đau những huân chương cùng lúc nói hai điều trước khi nhận vinh quang họ đã nhận những mảnh đạn thù găm vào thân thể nhưng trước vết thương và huân chương họ đã mang nước Nga nặng trĩu trong lồng ngực” (Những người mang huân chương) Những câu thơ như tất cả tấm lòng nhà thơ gửi gắm vào lời nhân vật trữ tình khiến ta không cầm nổi cảm xúc: “Ngày dân tộc tụ về đường số một Lòng không nguôi thương nhớ cánh rừng này Nơi những đứa con nằm lưng đèo cuối dốc Dọc theo lối mòn chìm khuất dưới tầng cây Nếu một ngày ta dựng những hàng bia Xin hãy đề “nơi đây những cuộc đời chưa bao giờ yên nghỉ” (Những người đi tới biển) Tri ân những đồng đội đã khuất, những câu thơ Thanh Thảo như tấm bia lòng tạc vào kí ức những công lao, xương máu của lớp lớp thế hệ đồng đội đồng chí đã ngã xuống 32

cho ngày độc lập, thống nhất tổ quốc. Những câu thơ viết cho người đã khuất nhưng cũng là lời nhắc nhở cho người còn, ở đó có gì đó bùi ngùi xót xa khi ta còn đấy mà bạn đã mất, đất nước độc lập thống nhất rồi mà linh hồn bạn đã ở cõi bất tử! Thơ ông đã nói và nói thành công về cái chết, về sự mất mát hy sinh, nói trong giọng trầm xuống, trong giọng nén lại. “Tin người bạn vừa nằm xuống đến với tôi từ một giọng bình thường một người chưa quen gió vần vụ trên nóc rừng buổi sớm” Thảng hoặc đâu đó có ý nghĩ cho rằng văn học viết về chiến tranh ở ta về sau này do có nói về mất mát hy sinh nên có phần chân thật hơn. Không hẳn là như vậy. Chiến thắng, thành công cũng chân thật như hy sinh mất mát, có khi còn chân thật hơn là đằng khác, vì nó đã được xác nhận bằng sự thực bao quát, sự thực cuối cùng. Chân thật là ở thái độ nhiều hơn là ở chỗ đưa ra loại sự việc nào. Cái nhìn thừa nhận thực tế, thừa nhận sự thực trong tất cả mọi loại biểu hiện của nó bao giờ cũng dễ thuyết phục hơn là cái nhìn muốn đơn giản hóa, muốn vỗ về làm yên lòng những người đang giẫm chân trên mảnh đất thực của một cuộc đấu tranh sống còn. Thanh Thảo chính đã thành công ở phần chân thật trong cảm quan về thực tại chiến đấu, một thực tại đa dạng như ta vẫn thường nói, có hy sinh mất mát, có chiến thắng, lạc quan; thơ ông đậm sắc thái bi hùng, trữ tình ở thơ ông không tách biệt mà hòa hợp ở mức khá cao với tính sử thi, điều này đem lại thành công cho ông trong cả những bài thơ ngắn lẫn trong trường ca trữ tình sử thi Những người đi tới biển, một trường ca vào loại thành công nhất trong hướng phát triển của thể loại này những năm gần đây. \"Ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc\" - lý lẽ này đã dẫn đến sự trình bày thẳng thắn những hy sinh mất mát một cách tự nhiên, giản dị, bằng giọng nói thường, bằng giọng nói trầm: “Những gì vỡ ra giờ rắn lại rồi bạn ngã xuống nơi cần ngã xuống một đời ấy cho yêu thương và ước vọng phút cuối cùng trần trụi thế thôi” 33

Cái đau xót trầm xuống này cũng là tự nhiên, nó là cái tình giữa những người đồng đội gắn bó - chúng tôi uống nước suối ăn lương khô/ miếng đường nhỏ chia ba trên đỉnh dốc - chia nhau từng ngụm nước đến cái sống cái chết. Cảm giác sinh ly tử biệt này không hàm một sự sợ hãi. Nó là sự cứng cỏi chấp nhận. Chỉ có xuất phát từ một chủ nghĩa cá nhân cực đoan mới có sự sợ hãi nhưng nhờ được vũ trang bằng lý tưởng của Đảng, nhờ ý thức được chính nghĩa của cuộc chiến đấu, thơ Thanh Thảo đã không sa vào thứ sợ hãi bảo mạng. Sự hy sinh này được ý thức bởi tính chất ác liệt thực tế. “Trên bờ ruộng nhà mình anh lặng lẽ gài bãi chết phía sau bãi chết - các con anh phía sau bãi chết - vợ anh phía sau bãi chết - nhà anh phía trước - là chúng nó Không có cách nào khác, phải bám đất. “Sống cồn đất, chết chôn trên cồn đất Ôi làm sao bỏ được nơi này” Hy sinh là điều không tránh được. Cho nên, cái đáng nói hơn cả trong cuộc chiến đấu lâu dài này vẫn là niềm tin, nó cho phép ta chấp nhận thử thách, hy sinh, cũng như dân gian xưa chấp nhận mọi sự cay đắng đời thường, qua ý tứ gởi vào câu ca dao về ngọn rau răm. \"Rau răm ở lại chịu đời đắng cay\" mặc ai kia như \"cây cải theo gió về trời\". “Dẫu rằng thêm nữa đắng cay Niềm tin nuôi lớn đất này bao năm” 34

Từ sự hy sinh, thơ Thanh Thảo thường dẫn ý nghĩ chúng ta tới sự bất tử. Ông hình dung những người đã vĩnh viễn nằm lại giữa Trường Sơn vẫn dõi theo bước chân đồng đội. Và cũng như Dương Hương Ly trong Bài thơ về hạnh phúc, ông nói về tâm niệm của những người còn sống nguyện đi tiếp con đường lớn mà những người đã khuất phải dừng lại. Ý nghĩ về phần xương máu của đồng đội làm nên ngày gặp lại với người yêu được diễn đạt thật cảm động. “Và em ơi ngày sum họp ngày mai giữa chúng mình còn bao bạn bè ngã xuống Những người ấy, những người hay mơ mộng tha thiết yêu và muốn làm được chút gì cho em cho anh cho đất nước đôi tay họ đôi bàn tay trong sạch đã vùi sâu trong đất sẽ vươn giữa hai ta như những nhành cây những nhành cây ôm chặt cuộc đời này giữ cho những lứa đôi tròn hạnh phúc.” Nhiệt tình phát ngôn bằng thơ cho sự tự ý thức của những người trẻ tuổi cùng thế hệ - ở đây là người lính - đã khiến thơ Thanh Thảo giàu khái quát, giàu chất triết lý, nhưng khái quát và triết lý ở ông thường không đưa thơ quay về dạng thuần túy chính luận. Cái cụ thể ở thơ ông cũng giàu, cũng đầy lên, sung mãn như triết lý và khái quát, thậm chí nhiều hơn thành phần triết lý và khái quát. Thơ ông không chỉ vẽ cái chân dung tinh thần qua những quan niệm, những nhận thức, những khái niệm. Trong thực tế máu lửa ác liệt, nhận thức là qua hành động, quan niệm bộc lộ trên lối sống, trên những ứng xử cụ thể. Xích lại gần sự thực cụ thể trần trụi, thơ ông đồng thời khắc họa cả diện mạo cụ thể của người lính cùng thế hệ: “Tổ ba người như ba ông táo xáp vào − tiểu đội có cơm ăn ngủ lán hầm chỉ căng một tăng mắc võng đầu quay về một hướng lắm câu đùa, nhiều tâm sự vụn 35

thân thiết lúc nào cũng không hay thằng lém ba hoa tán cả ngày thằng ít nói có tài cải thiện kiếm được gì anh em cùng chén bụng ổn rồi chuyện như bắp rang ngày nắng đêm mưa chuyện của rừng bom đạn Mỹ − chiến trường phải đụng gương mặt sốt soi vào vẫn sáng bùng tự nhiên như lửa trảng dầu Rồi ngày hoà bình cũng được lặp lại, người lính trở về sau chiến tranh. Nếu trước kia Thanh Thảo khám phá cuộc sống ở tầm vĩ mô thì giờ đây cũng vẫn là những đề tài đó nhà thơ nhìn nhận ở tầm vi mô. Vậy nên, đằng sau hào quang là nỗi buồn, phía sau số phận tổ quốc là số phận mỗi con người, phía sau sự khoa trương lớn tiếng là những trầm tư suy cảm, và đặc biệt Thanh Thảo đã làm độc giả rung cảm, đồng vọng bởi cuộc sống được nhìn nhận qua lăng kính của cái thường ngày. Người lính thắng trận trở về, đối mặt với những nhọc nhằn mưu sinh đã trở thành thể tài ám ảnh thơ Thanh Thảo. Nhà thơ buồn thương đau đáu cho những cảnh, những số phận: “đất nước tôi ôi đất nước tôi những người mang AK thuở trước những người cu li xe hôm nay mặt đen nhẻm rồi khói bom bụi bẩn mắt họ chuyển từ trong veo sang tối sẫm xe ba bánh thùng xe bụng rỗng có Trường Sơn nào trong thành phố đâu mà dấn từng vòng khó nhọc thế này” (Lại chào đất nước tôi) Nhà thơ đã bày tỏ nhiều tâm sự về đất nước, con người, những số phận người lính trở về với đời thường bằng những suy tư rất sâu sắc. Ông viết Tàu sắp vào ga, Lời chào đất nước tôi, Lại chào đất nước tôi, Hà Nội nhìn từ phía tôi với nhiều trăn trở về cuộc 36

sống mới ở đất nước hoà bình - những vấn đề tưởng đơn giản của “phận người nô lệ” bỗng phức tạp vô cùng khi ta sống tự do. Điều khiến tác giả trăn trở nhất là chất người trong đời sống hiện đại, cách ứng sử của con người hôm nay với lịch sử hôm qua, những điều mà ông đã như dự cảm được từ bao năm trước: “những dòng sông băng qua những vết thương/ về với biển đâu phải tìm yên nghỉ/ tới cửa sông là bắt đầu sóng gió/ những cây giá xoay trần ngâm nước giữ phù sa” (Những người đi tới biển). Thanh thảo tìm đến thể tài thế sự như một niềm ưu tư tâm huyết với cuộc đời, sự tri ân với quê hương và những anh hùng đã ngã xuống. Nhà thơ viết với ý thức với trách nhiệm như của một công dân với đất nước. Đây là những câu thơ được cất lên mộc mạc nhưng là kết quả của sự nung nấu suy nghĩ đến cháy lòng: “ta đi qua những rung chuyển vô hình không máy gì ghi lại được con người ta nhiều lúc như phát cuồng nhiều lúc ngồi lặng im bất lực những ngôi nhà mọc lên như tia chớp những vật dụng tiện nghi liên tục đổi dáng hình những cặp vợ chồng li hôn như cơm bữa những người già mỗi phút mỗi già thêm” (Trước thế kỷ 21) Chính những trăn trở về hạnh phúc, đạo đức, nhân phẩm con người có nguy cơ bị mai một trong xã hội hiện đại đã khiến Thanh Thảo viết lên những câu thơ như muốn chưng cất lại những cặn bã tâm hồn. Hay đó cũng là khát khao của tác giả làm cho xã hội ngày một đẹp hơn, là giá trị nhân văn sâu sắc Thanh Thảo để lại trên mỗi trang viết, mỗi bài thơ! 4.3.2 Bức tranh hiện thực cuộc sống Cùng với việc khắc hoạ tinh tế hình ảnh người lính thắng trận trở về sau bom đạn, thơ Thanh Thảo còn đề cập tới nhiều vấn đề thời cuộc. Cái tôi trữ tình nhà thơ có cơ hội 37

nói thật, nói một cách riết róng những nghịch lý cuộc đời, những giá trị đích thực cuộc sống khiến người ta phải thức tỉnh và nhìn lại chính mình. Cuộc sống mưu sinh khiến cho con người dần đánh mất những phẩm chất tốt đẹp, có lúc con người trở nên hám lợi, mưu toan, lọc lừa... Nguy cơ về sự suy giảm đạo đức con người được Thanh Thảo nhận định tương đối rõ nét trong những vần thơ ra đời vào đầu những năm đầu đất nước bước vào công cuộc đổi mới. Thi sĩ có cách nhìn thẳng hiện thực, bóc trần bản chất đời sống khiến không ít lần người đọc phải bàng hoàng, chạnh lòng nghĩ suy: “Những tấm tôn nhà nghèo vèo sang nhà giàu Những tấm tôn nhà giàu càu nhàu về nhà nghèo” (Sau cơn bão) Xã hội giờ lại xuất hiện thêm nhiều nghịch lý mới, sự đảo lộn giá trị cuộc sống, sự chênh lệch giàu nghèo không chỉ khiến cho xã hội mất cân bằng mà ở đây đã xuất hiện tâm lý sang hèn, sự phân biệt đẳng cấp. Con người giờ đây luôn phải đối mặt với tốt xấu, trắng đen: “trong cơn bão một bác nông dân moi nhà sập đỡ dậy ba người một gã thanh niên lẻn vào nhà hang xóm đâm suýt chết một người trong cơn bão, có người chạy cứu kho hàng có người chạy cướp kho hàng” (Tàu sắp vào ga) Nhà thơ cay đắng nhận ra vết hoen ố trong tâm hồn con người: “Dưới bàn tay con người biến hoá Những cặn bã của tâm hồn con người Chỉ riêng cặn bã tâm hồn con người Là vô phương chưng cất (Gỉ đường) 38

Chính con người, vì những vụ lợi cá nhân đã tạo ra những vệt đen, những góc tối trong tâm hồn mình, dần đánh mất chất người. Nhà thơ đã mạnh dạn nói thẳng và nói thật sự thật đáng buồn này. Tiếp đến, Thanh Thảo đưa ra lời cảnh báo về nguy cơ những lòng tốt bình thường khi con người tự nâng mình lên trong cảm giác về một tình thương bao la mà quên đi nhiệm vụ thường ngày đối với những người thân yêu nhất: “Tôi xoay những ô vuông. Thì ra, yêu thương cha mẹ, vợ con, bạn bè, hang xóm... lắm khi là gánh nặng với những nhọc nhằn phiền toái thực sự, trong lúc yêu thương toàn nhân loại là một gánh nặng tưởng tượng thật dễ chịu, nó lâng lâng trong ta cái cảm giác luôn thấy mình tốt, thấy mình cần thiết cho tất cả mọi người. Mà lung mình lại nhẹ không!” (Khối vuông ru bíc). Phải chăng cuộc sống xã hội hiện đại với những sức ép vô hình đã khiến tâm hồn con người chai sạn đến nỗi “vô phương chưng cất” khi người ta dễ dàng quên đi trách nhiệm của bản thân đối với gia đình, xã hội. Những lòng tốt rất bình thường ấy dễ dàng mất đi khi người ta có cơ hội gặp gỡ những chân trời của danh vọng. Đó là dự cảm tưởng như xa xôi nhưng dường như đang hiện hữu rõ nét trong xã hội của chúng ta ngày nay – xã hội chứng kiến sự đứt nối của những quan hệ gia đình thân thuộc. Qua những lời thơ ấy, ta nhận thấy một nỗi đau, niềm xót xa vô hạn trong tâm hồn thi sĩ! Vậy giá trị đích thực của cuộc sống, thước đo phẩm chất mỗi con người là gì, đó là câu hỏi vang lên suốt đời thơ Thanh Thảo, nhà thơ đã từng viết trong Gửi con những năm chưa ra đời những lời thơ như một lời nhắn nhủ của một thế hệ - thế hệ đã từng hi sinh tuổi xuân, xương máu cho tổ quốc: “Thước đo không ở áo quần hay những hột xoàn to nhỏ Thước đo mỗi gia đình không phải ở tiện nghi Trong bóng tối nhận ra người yêu nước Chiếc áo ngắn mùi mồ hôi thân thuộc Không có thời gian để triết lý dông dài Câu hỏi day dứt nhất một đời là sự mất còn của Tổ quốc” Nỗi niềm này của nhà thơ trong hoàn cảnh bây giờ vẫn còn nguyên giá trị, thật vậy, đất nước ra khỏi chiến tranh vẫn rất cần những tấm lòng yêu nước, những bàn tay chung sức xây dựng nước nhà. Và hơn bao giờ hết, nhà thơ thấm thía lời nói của Rơ- 39

mác: “cái mà nhân loại đang thiếu chinh là một long tốt bình thường” (Khối vuông rubíc). Có người cho rằng, trong thơ Thanh Thảo tốt xấu, trắng đen của cuộc đời cứ chằng chịt day dứt ông, ông đã cố tình lật mở đến tận cùng để định phận tốt xấu, và cho dù xã hội có đi đến đâu thì nhà thơ vẫn đề cao tinh thần nhân nghĩa, chất người cao quí trong mỗi con người. Những quan niệm về con người ấy khiến tác giả luôn suy nghĩ, khát vọng về những cuộc đổi thay: “bay ngang trời đàn ngựa trắng/ ta đã thấy con tàu đồ sộ của một thế giới khác/ như hiện từ giấc mơ ma quỉ/ nhưng cái gì sẽ đổi thay?/ vẫn những người da đen còng lưng kéo xe cho người da trắng/ trên sân khấu cuộc đời vẫn bôi mặt vẽ mày nhí nhố gươm dao/ mục nát lại chồng lên mục nát/ những chiếc ngai sơn son thiếp vàng những lọng vòng đình đám những tiệc tùng thừa mứa/ hệt như thời Nguyễn Du đã thấy/ và mặt trời cứ lẩn tránh/ không rõ vì xót thương hay xấu hổ hay hèn nhát/ bỏ mặc dân đen cho lũ sói diều” (Đêm trên cát). Đó là khát vọng của nhà thơ muốn cải tạo thế giới để con người sống với nhau bình đẳng và yêu thương nhau hơn. Những vần thơ ấy có âm điệu dồn nén như tích tụ những suy tư tâm huyết nhất của một nhà thơ, một đời thơ. Có thể nói, cảm hứng thế sự trong thơ Thanh Thảo cũng là nỗi niềm, cảm hứng chung cho những lời “sám hối” xuất hiện trong thơ những năm đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Những gì còn - mất giữa truyền thống và hiện đại, giữa quá khứ - hiện tại và tương lai được nhà thơ nhận thức rõ ràng: “Những bếp điện ga tiện nghi sạch sẽ Đã nuốt mất của ta ngọn lửa hồng Và mùi thơm nồng đượm gỗ rừng Cuối thế kỷ này ta được hưởng nhiều cái mới Nhưng mất quá nhiều Không thể nghĩ đến một ngày nào đó Những rô bốt trắng kia cũng biết yêu” (Thơ tám câu) Chính thực tại cuộc sống đã tác động vào thế giới tinh thần, khiến thi sĩ bật lên những vần thơ tâm huyết. Quả thật, Thanh Thảo đã làm giàu, làm đẹp cho đời bằng những vần thơ có sức công phá lớn đối với hiện thực bằng một khát vọng đổi thay thế 40

giới. Hiện thực cuộc sống đã mang lại cho nhà thơ những suy tư đầy nhân bản về cuộc đời, giúp cho nhà thơ có cơ hội bày tỏ những quan niệm về con người, nói không né tránh những vấn đề phức tạp của đời sống xã hội. Cảm hứng thơ thay đổi làm cho cái tôi trong thơ Thanh Thảo trở nên đời hơn với những tâm tình thực, đẹp hơn trong cái nhìn muôn mặt đời thường. Và như vậy, cuộc sống mới đã tiếp thêm những nội lực những “vùng đất màu mỡ” để Thanh Thảo làm mới cho nghệ thuật thơ ca. Như vậy có thể nói, cảm hứng thế sự là một mạch cảm hứng quan trọng chi phối đến nhiều phương diện nghệ thuật thơ Thanh Thảo. Nhà thơ đã bộc lộ cách nhìn sắc sảo nhưng đôn hậu về đời sống. Nó bộc lộ niềm trăn trở thường trực của nhà văn trong việc xác lập những giá trị tinh thần mới vừa gần gũi vừa thiết thực với đời sống hôm nay nhưng vẫn đáp ứng được chuẩn mực nhân văn cần có. Với điều đó, tác giả đã lựa chọn một hướng đi dù không nhiều cách tân quyết liệt về mặt hình thức nhưng để lại ấn tượng sâu và đằm về diện mạo của một nhà thơ đầy trách nhiệm với đời sống, nặng lòng với những giá trị tinh thần cội rễ, dứt khoát, can đảm nhưng chân thành và nồng hậu. 4.3 Cảm hứng đời tư Với cảm hứng đời tư, Thanh Thảo không nói tiếng nói của cộng đồng dân tộc mà là tiếng nói của chính bản thân nhà thơ với vô vàn cảm xúc, là những suy nghĩ, trăn trở của chính tác giả, đó là những hoài nghi, những vô vọng thất vọng, có cả khát vọng mãnh liệt về tình yêu đôi lứa, hạnh phúc... Cảm hứng đời tư và cảm hứng thế sự nhiều khi được Thanh Thảo đưa vào cùng một bài thơ hay một tập thơ. Do vậy, sự phân chia hai cảm hứng thơ: thế sự và đời tư trong thơ Thanh Thảo ở luận văn này của chúng tôi chỉ mang tính tương đối. Và cảm hứng đời tư trong thơ Thanh Thảo được biểu hiện qua một số khía cạnh cơ bản sau: 4.3.1 Cuộc hành trình tìm về kí ức Cảm hứng đời tư trong thơ Thanh Thảo trước hết được thể hiện qua chủ đề trở về. Đây là chủ đề xuyên suốt nhiều tác phẩm của ông, trở về là hành trình của cái tôi trữ tình tìm lại thời thơ bé, tìm lại cảm giác trọn vẹn và gắn bó với gia đình, quê hương, bạn bè. Trong những cuộc trở về ấy, có lúc Thanh Thảo đã ví chúng như những cuộc “viễn du”, chập chờn trong tiềm thức và vô thức: “ta sống bất chợt từ vùng này sang vùng khác 41

như những cuộc viễn du dễ dàng không tốn kém những cuộc viễn du một mình bất động khoái trá không thua gì những tua du lịch những cảnh sắc lập lờ khi anh vừa chợp mắt những hành lang hun hút đưa anh gặp những người thân đã khuất anh không hiểu và không giải thích và chính thế nó làm anh sướng lâng lâng” (Viễn du) Có khi nhà thơ bày tỏ niềm lo âu về một quá khứ lịch sử dân tộc có nguy cơ bị lãng quên: “Xe tải. Đêm ngầu đục. Thất lạc. Cố trèo xuống để đi lên. Không thấy chiếc xe. Không thấy đường về. Những hàng rào những người lạ. Lại một xe tải. Không phải xe mình tìm. Hình như Trường Sơn. Hình như một cuộc chiến khác. Không phải. Chiếc xe tải. Thằng em lái xe mất hút. Chợt hoang mang cùng cực. Không thấy đích. Không biết về đâu. Đêm giăng mắc. Những hình ảnh thoáng qua. Những người không thể hỏi. Không đường về. Không địa chỉ. Đại lý nước mắt. Cầu thang dốc. Tuột. Xuống dễ hơn lên. Xuống và mất hút. Cố nói to không thành tiếng. Cố hỏi không âm thanh. Chỉ những hình ảnh lướt qua kính chiếu hậu” (Đích). Bài thơ được viết bằng những câu thơ không đầy đủ về mặt ngữ pháp, có khi chỉ là một mệnh đề như những dòng tốc kí, chớp nhoáng về một hình ảnh vụt sáng. Chủ thể trữ tình bài thơ đang thảng thốt bởi những gì đang diễn ra quá gấp gáp và không thể định hình, chỉ thấy những hình ảnh loang loáng trôi đi trong sự bất lực của bản thân. Một loạt các thủ pháp nghệ thuật hiện đại đã đem lại hiệu quả biểu hiện rất lớn. Chúng ta như thấy nhà thơ đang gắng “câu lại những giấc mơ ngày cũ” hay cũng là tâm trạng thảng thốt, sợ hãi trước những quá khứ lịch sử có nguy cơ bị rơi vào quên lãng. Trên đây là những dòng thơ chất chứa nhiều khoảng lặng. Những đường biên mập mờ, sự chia tách, hoà trộn giữa quá khứ và hiện tại luôn tồn tại đâu đó ở mỗi con người, với Thanh Thảo cũng vậy, ông không bao giờ quên quá khứ, thậm chí những nỗi ám ảnh về quá khứ luôn thôi thúc ông theo đuổi khát vọng chữa lành vết thương chiến tranh và nói lên tiếng nói thức tỉnh mọi người hãy giữ gìn, trân trọng quá khứ. Đây cũng là suy tư rất đời thường của một con người giàu trải nghiệm, những kí ức về quê hương, người mẹ cùng quá khứ lịch sử được Thanh Thảo đề cập rất rộng rãi trong thơ, cái tôi trữ tình của nhà thơ cũng qua đó bộc lộ niềm tri ân vô bờ đối với nguồn cội. Nhiều người khẳng định rằng thơ Thanh Thảo nặng về kí ức, kí ức về lịch sử dân tộc, kí ức về một thời chiến tranh hào hùng và điều đặc biệt là có cả một kí ức của cá nhân nhà thơ gắn liền tuổi thơ, quê hương và người mẹ. Ở phần kí ức này, nó có khi trở 42

thành những ẩn ức, những giấc mơ hiện hình trên trang giấy. Những kí ức xa xôi hay những ám ảnh thời gian đã hằn in trong trái tim nhà thơ giờ đây mới có dịp tuôn trào. Trong “1, 2, 3”, với cảm hứng về đời tư, nhà thơ đã làm một cuộc hành trình tìm về quá khứ, cội nguồn với quê hương và người mẹ. Dường như đó là cuộc hành trình “ta tìm về nguồn sông ta hát” để giúp thi sĩ trả lời câu hỏi: “giọt nước nào khởi sự nguồn sông, giọt nước nào khởi sự đời ta” xuất hiện ngay từ những ngày đầu nhà thơ cầm bút. Trong cuộc hành trình ấy, thời gian dường như hoá lỏng, không gian xoá nhoà khi người ta: “nhấp cần câu/ câu giấc mơ ngày cũ/ những giấc mơ tớp bóng dưới lục bình/ xanh buồn bã” (Không đề). Quá khứ như: “bóng một chiếc cầu/ bao nhiêu nước chảy qua/ không xoá nổi” (Bóng), quá khứ hiện hình thành những giấc mơ ám ảnh con người: “đuổi theo tôi những giấc mơ buồn/ hiện lên gương mặt mẹ già khuất bóng/ đêm lo âu ầm ì biển động/ thương yêu ơi tan biến về đâu/ nghiệt ngã/ làm sao quay ngược. Làm sao?” (Dao động sóng). Cảm xúc nhà thơ hướng về ngày xưa cũ với khát khao quay ngược thời gian để có thể sống lại một cảm giác bình yên, đầm ấm nơi quê hương có niềm an ủi vỗ về của bậc sinh thành: “Con lại về nhà thầy má Cây mai mới trồng bật hoa Như mắt nắng lạc giữa vùng lụt bão Như mắt má Đăm đăm gốc vườn Trong veo màu vú sữa” (Không đề) Có lẽ trong mỗi con người đến lúc trưởng thành đều thấm thía tình cảm quê hương và tình mẫu tử thiêng liêng, vậy nên mỗi nhà thơ khi chấp bút đều hướng lòng mình về quê cha đất tổ. Nếu Tế Hanh có Con sông quê hương, Giang Nam có Quê hương in dấu bao kỉ niệm tuổi thơ thì quê hương với Thanh Thảo gắn liền với tình mẹ ngọt ngào: “thơm đậm mùi chuối chín”, giản dị: “quả chuối ngọt trên bàn tay má ngọt trên lưng”. Khi viết về những ngày xưa cũ, tâm trạng nhà thơ đầy những bâng khuâng, mang một nỗi buồn sâu thẳm. Những câu thơ tự do, ngắn, xuống dòng liên tục cho thấy tâm trạng nghẹn ngào của nhà thơ trên hành trình tìm về quá khứ: “con lại về 43

giếng thơi vành vạnh trời bóng cây nghiêng bóng má bóng tiếng chuông loáng thoáng mưa chuông lá lá nhìn con lấp láy trắng từng chùm mây dại lơ lửng ngày” (Không đề) Nhịp thơ như tiếng đàn buông lơi, buông lơi trong nỗi nhớ, buông lơi trong những kỉ niệm xa xôi, buông lơi khi những trải nghiệm cuộc đời khiến ta chùn chân mỏi gối và khát khao tìm về cội nguồn để tắm trong miền kí ức, để tự hỏi: “con lặng như cây dừa/ không hiểu sao mình đậu quả”. 4.3.2 Khát vọng tình yêu hạnh phúc Là một thi sĩ đa tình, nhiều cảm xúc, Thanh Thảo đã không ít lần bày tỏ khát khao được yêu, được nhớ của mình vào trong thơ, nhất là ở những bài thơ thời kỳ đầu sáng tác. Có lần, thi sĩ đã viết lên những câu thơ thật xúc động và cũng thật chân thật về tình cảm của mình dành cho một người con gái. Tình yêu gắn liền với nỗi nhớ. Nỗi nhớ trong tình yêu của Thanh Thảo thường âm thầm mà mãnh liệt, nỗi nhớ như đập tan màn đêm đen và những bức tường ngăn cách. Có lúc nỗi nhớ mãnh liệt đến tuyệt vọng: “dấu bớt im lặng cũng chẳng ích gì vì sau đó anh nhớ em anh không nói được những phút ấy thế nào yêu nhau 44

nói khoác uống rượu anh cạn con đường em đi hàng ngày nhạt nhẽo nghiệt ngã” (Quán rượu) Tình yêu trong thơ Thanh Thảo luôn được đặt trong sự đối lập với thời gian, thể hiện một khát vọng vượt thời gian để tình yêu biến thành vĩnh cửu. Trong thơ ông ta bắt gặp những câu thơ về cảm nhận thời gian rất tinh tế, nhà thơ đếm nhịp thời gian bằng sự hiện hữu của cơn mưa, bằng chút nắng gắt ngày tàn hay chính là nhà thơ đang đếm nhịp con tim tình yêu thổn thức với nỗi nhớ nhung: “mưa đập xuống lòng đường những ngôi sao vỡ vụn mười một giờ đêm những giọt nước âm thầm lăn trên bức tường anh trở lại với em từng phút bây giờ duy nhất anh nhớ em không tiếng kêu nào vọng đến nhau mưa đập xuống lòng đường” (Mưa) Thanh Thảo không phải là nhà thơ của tình yêu như nhiều thi sĩ khác nhưng cảm xúc trong tình yêu nhà thơ đều có cảm nhận của riêng mình. Có lẽ thế mà tình yêu trong thơ Thanh Thảo còn mang hương sắc rất lạ, nó vừa giản dị nhưng lại cao quí, nó ập đến lòng ta như một cơn bão mãnh liệt và dư ba. Đó là thứ tình yêu được giản dị hoá. Chính nhà thơ đã gắn những vật chất rất tầm thường vào một tình yêu trong sáng và đầy bí ẩn: “anh sẽ đeo vào tay em gié lúa/ vòng ngọc xanh tiếng dế kêu lá đỏ/ ngọn lửa của da thịt/ chìm trong núm vú hồng hồng/ anh sẽ đeo vào cổ em/ sợi dây chuyền bí ẩn của bóng đêm/ những chiếc chuông mùa thu trong trẻo/ rung lên khi thành phố bay về trời/ anh sẽ đeo vào ngực em/ cơn bão” (Trang sức). Như vậy, tình yêu vượt lên mọi nhu cầu vật chất cao sang và những khát khao xác thịt. 45

Thơ Thanh Thảo ở cảm hứng sử thi và thế sự, người đọc bắt gặp cái tôi trữ tình suy tư, triết luận về những mất mát hi sinh trong chiến đấu, nỗi day dở về những đổi thay khi đã có hoà bình. Còn ở những tác phẩm viết với cảm hứng đời tư thì ta bắt gặp cái tôi trữ tình với một thế giới tinh thần sâu sắc bởi nhiều trải nghiệm nhân sinh. Sự thay đổi này cho thấy một hành trình mới của cái tôi trữ tình trong thơ Thanh Thảo. Nếu như trước đây cái tôi trữ tình mang tiếng nói công dân, tiếng nói có trách nhiệm trước cộng đồng thì nay cái tôi trữ tình lặn sâu vào đời sống tâm hồn của con người, khám phá những cơn mơ, những kí ức nhạt nhoà, những xúc cảm yêu đương. Nhà thơ hướng về cái tôi nội cảm. Cái tôi trữ tình trong thơ trở nên ám ảnh bởi những kí ức, những niềm xúc cảm mãnh liệt giăng mắc. Phải chăng đó cũng là con đường chinh phục thế giới tâm hồn con người đầy bí ẩn và thú vị của thơ hiện đại. III.TÌM HIỂU VỀ TÁC PHẨM ĐÀN GHI TA CỦA LOR-CA 46

ĐÀN GHI TA CỦA LOR-CA “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn” Ph.G. Lor-ca Những tiếng đàn bọt nước Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt li-la li-la li-la đi lang thang về miền đơn độc với vầng trăng chếnh choáng trên yên ngựa mỏi mòn Tây Ban Nha hát nghêu ngao bỗng kinh hoàng áo choàng bê bết đỏ Lor-ca bị điệu về bãi bắn chàng đi như người mộng du tiếng ghi-ta nâu bầu trời cô gái ấy tiếng ghi-ta lá xanh biết mấy tiếng ghi-ta tròn bọt nước vỡ tan tiếng ghi-ta ròng ròng máu chảy không ai chôn cất tiếng đàn tiếng đàn như cỏ mọc hoang giọt nước mắt vầng trăng long lanh trong đáy giếng đường chỉ tay đã đứt dòng sông rộng vô cùng Lor-ca bơi sang ngang trên chiếc ghi-ta màu bạc 47

chàng ném lá bùa cô gái di-gan vào xoáy nước chàng ném trái tim mình vào lặng yên bất chợt li-la li-la li-la… Phân tích tác phẩm: Khi tâm hồn nghệ sĩ đồng cảm với một tâm hồn nghệ sĩ thì khoảng cách và văn hóa sẽ không còn là rào cản. Nhà thơ Thanh Thảo đã dành một tình cảm, sự chân trọng như thế với người nghệ sĩ tài hoa Fê-đê-ri-cô Gar-xi-a Lor-ca (1898 – 1936), một nghệ sĩ tài hoa của đất nước Tây Ban Nha. Bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” in trong tập “Khối vuông ru bích” (1985) chính là thể hiện điều đó. Bài thơ như gẩy lên tiếng đàn thánh thót tiễn đưa người nghệ sĩ đa tài nhưng không thoát khỏi sự éo le của số phận, cũng như thể hiện một cây bút xuất sắc trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam – tác giả đầy nhiệt huyết, phản ánh tiếng nói của người tri thức đầy suy tư, trăn trở trước các vấn đề nóng bỏng của xã hội và thời đại. Nhà thơ muốn cuộc sống phải được cảm nhận và thể hiện ở chiều sâu bản chất của nó nên ông không chấp nhận lỗi biểu đạt ồn ào, dễ dãi. Bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” đã thể hiện được đầy đủ phong cách nghệ thuật Thanh Thảo, cũng đã để lại những ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc 1. Ý nghĩa câu thơ đề từ: - Thanh Thảo sử dụng câu thơ mở đầu bài \"Ghi nhớ\" của Lor-ca: \"Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn\" để làm đề từ cho bài thơ của mình với nhiều ý nghĩa: + Lời thơ như một lời di chúc ấy có thể hiểu đó là tình yêu say đắm của Lor-ca đối với nghệ thuật, đối với đất nước Tây Ban Nha của mình, nơi sản sinh ra cây đàn Tây Ban Cầm. + Đó cũng chính là ước vọng của Lor-ca: Nếu có phải chết thì sẽ chết trong tiếng đàn dân tộc, chết trong nỗi niềm dân tộc, chết với niềm vui được làm một người Tây Ban Nha. + Đó còn là lời nhắn nhủ của Lor-ca đối với các thế hệ nghệ sĩ trên đất nước của ông: hãy biết chôn nghệ thuật của ông để đi tới, hãy vượt qua sự nghiệp của ông. 2. Hình ảnh của người nghệ sĩ thiên tài Lor-ca trong khung cảnh chính trị và bối cảnh nghệ thuật Tây Ban Nha trong 6 câu thơ đầu: 48

“những tiếng đàn bọt nước Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt li-la li-la li-la đi lang thang về miền đơn độc với vầng trăng chuếnh choáng trên yên ngựa mỏi mòn.\" * Hình ảnh Tây Ban Nha: - Hiện lên không chỉ trong 6 dòng đầu mà còn xuyên suốt cả bài thơ với chuỗi hợp âm “li-la li-la li-la”, với hình ảnh tiếng đàn ghi-ta “bọt nước”, tiếng ghi-ta nâu, tiếng ghi ta lá xanh,... - Gợi liên tưởng về một quốc gia xinh đẹp, phóng khoáng với hình ảnh những ca sĩ dân gian say sưa ca hát bên cây đàn, những vũ nữ Di-gan cháy bỏng trong vũ khúc Flamenco, hay loài hoa li-la với sắc tím dịu dàng, những trận đấu bò tót của các dũng sĩ áo đỏ, hình tượng những kỵ sĩ với lý tưởng cao đẹp “trên yên ngựa mỏi mòn” với “vầng trăng chếnh choáng”. => Bức phông nền tuyệt vời để làm nổi bật hình ảnh người anh hùng, nghệ sĩ Lor-ca. * Hình tượng Lor-ca: - Hiện lên trong hình ảnh “những tiếng đàn bọt nước”, gợi ra sự nghiệp làm nghệ thuật nổi trội của Lor-ca, cũng như chỉ tiếng lòng, tâm hồn và cả cuộc đời người nghệ sĩ. + “bọt nước” biểu trưng cho những cái đẹp lung linh, nhưng dễ dàng tan biến vào hư vô => khát vọng được dâng hiến tài năng cho cuộc đời, liên tưởng về cuộc đời đẹp đẽ nhưng quá ngắn ngủi, mỏng manh, và đơn độc của người nghệ sĩ. + “Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt”: Nâng tầm vóc của Lor-ca lên làm biểu tượng cho cả một quốc gia một dân tộc, là hình ảnh Lor-ca với sức mạnh anh hùng nắm giữ sứ mệnh cao cả vừa đấu tranh với nghệ thuật già nua vừa đấu tranh với nền phát xít độc tài trên quê hương. 49

- “đi lang thang về miền đơn độc/với vầng trăng chếnh choáng/trên yên ngựa mỏi mòn” => sự cô đơn, mệt mỏi, cũng mang phong thái tự do, phóng khoáng của người nghệ sĩ trên bước đường thực hiện lý tưởng. 3. 12 dòng thơ tiếp Thanh Thảo đã tái hiện cái chết đầy bi tráng của người anh hùng Lor-ca. “Tây Ban Nha hát nghêu ngao bỗng kinh hoàng áo choàng bê bết đỏ Lor-ca bị điệu về bãi bắn chàng đi như người mộng du tiếng ghi-ta nâu bầu trời cô gái ấy tiếng ghi-ta lá xanh biết mấy tiếng ghi-ta tròn bọt nước vỡ tan tiếng ghi-ta ròng ròng máu chảy” * Cái chết bi tráng: - Tận dụng triệt để nghệ thuật đối lập tương phản để khắc họa cái chết bi thảm của Lor- ca. - Sự đối lập giữa sự sống và cái chết. + “Tây Ban Nha/hát nghêu ngao”: hình ảnh người anh hùng Lor-ca lạc quan, yêu đời, vui sống. + “bỗng kinh hoàng/áo choàng bê bết đỏ”: cái chết đau thương và bạo lực kinh hoàng. 50


Like this book? You can publish your book online for free in a few minutes!
Create your own flipbook