Important Announcement
PubHTML5 Scheduled Server Maintenance on (GMT) Sunday, June 26th, 2:00 am - 8:00 am.
PubHTML5 site will be inoperative during the times indicated!

Home Explore CÁC ĐỀ VĂN HỌC TRUNG ĐẠI

CÁC ĐỀ VĂN HỌC TRUNG ĐẠI

Published by Nguyễn Thị Vân Trường THPT Hiệp Hòa 1, 2021-10-30 16:14:53

Description: CÁC ĐỀ VĂN HỌC TRUNG ĐẠI

Search

Read the Text Version

VÀO PHỦ CHÚA TRỊNH - Trích “Thượng kinh kí sự” của Lê Hữu Trác- I. MỞ BÀI Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác không chỉ là một danh y nổi tiếng, mà còn là một tác giả có nhiều tác phẩm văn học có giá trị thời trung đại. Lê Hữu Trác để lại cho đời một sự nghiệp y học đồ sộ, nổi bật hơn cả là bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh được coi là bách khoa toàn thư về y học thế kỉ XVIII. Các tác phẩm của ông không chỉ có giá trị về y học mà còn mang nhiều giá trị văn học sâu sắc vì đã ghi lại cảm xúc chân thật cùng như bộc lộ tâm huyết, đức độ của người thầy thuốc. Thượng kinh kí sự là tập kí sự nổi tiếng trong cuộc đời Lê Hữu Trác. Tác phẩm kể về cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh và quyền uy thế lực nhà chúa cũng như những điều mắt thấy tai nghe nhân dịp được chúa Trịnh Sâm triệu vào chữa bệnh. Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh không chỉ miêu tả cuộc sống xa hoa ở phủ chúa, mà còn thể hiện rõ nét tâm hồn và nhân cách của vị lương y tài hoa đức độ này. II. THÂN BÀI 1. Khái quát 1.1. Thể loại: Kí là là tên gọi chung cho một nhóm thể loại có tính giao thoa giữa báo chí với văn học. Kí viết về cuộc đời thực tại, viết về người thật, việc thật. Người viết kí miêu tả thực tại theo tinh thần của sử học. Mẫu hình tác giả kí gần gũi với nhà sử học. Tác giả kí coi trọng việc thuật lại có ngọn ngành và không bao giờ quên miêu tả khung cảnh. Kí bao gồm nhiều thể văn như: Bút ký, phóng sự, du kí, hồi kí,nhật kí,… Trong số đó kí tự thiên về ghi chép chi tiết, tỉ mỉ sự việc câu chuyện có thật. Tất nhiên đan xen vào mạch tự sự còn có những đoạn thể hiện nhận xét chân thực, tinh tường của nhà văn trước sự việc. 1.2. Hoàn cảnh ra đời: Lê Hữu Trác xuất thân trong một gia đình quý tộc, giỏi binh thư, võ nghệ. Làm quan dưới thời chúa Trịnh được một thời gian, ông nhận thấy xã hội thối nát, cương thường lỏng lẻo, nhân khi người anh ở Hương Sơn mất (1746), ông liền viện cớ cáo quan về nuôi mẹ già. Từ đó ông chuyên nghiên cứu y học vừa chữa bệnh cứu đời, vừa soạn sách và mở trường dạy học truyền bá y đức, y lí, y thuật. Ngày 12 tháng giêng năm Cảnh Hưng 43(1782), Lê Hữu Trác nhận được lệnh chúa triệu về kinh xem mạch, kê đơn chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Sau đó một thời gian thì chữa bệnh cho chúa Trịnh Sâm. Những điều Lê Hữu Trác mắt thấy tai nghe trong nhiều chuyến đi từ Hương Sơn ra Thăng Long đã thôi thúc ông cầm bút. Vì thế tập “Thượng kinh kí sự” bằng chữ Hán được ông viết xong năm 1783. Tập kí sự này là một tác phẩm văn học đích thực, đặc sắc, có giá trị sử liệu cao. Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” thể hiện được đầy đủ những nét độc độc đáo trong bút pháp kí sự của Lê Hữu Trác. 1.3. Giới thiệu đoạn trích: - Tính chất kí trong bút pháp của Lê Hữu Trác thể hiện rõ ở chỗ kể tỉ mỉ về một sự kiện cụ thể, chân thực với không gian, thời gian xác định. Chẳng hạn: “Mồng một tháng 2. 1

Sáng tinh mơ, tôi nghe tiếng gõ cửa rất gấp. Tôi chạy ra mở cửa . Thì ra một người đầy tớ quan Chánh đường….” . Ở đây “trong việc có người”, người gắn chặt với cảnh, với môi trường hoạt động cụ thể. - Lê Hữu Trác sử dụng người trần thuật ngôi thứ nhất. Nhân vật “tôi” không hiện ra qua hình dáng cụ thể nhưng có tư cách là một người trong cuộc, trực tiếp tham gia vào sự việc được miêu tả trần thuật, trực tiếp tiếp cận quan sát tỉ mỉ và ghi chép trung thực, tả cảnh sinh động, thuật việc khéo léo. Vì thế ngay từ đầu truyện người đọc đã có cảm giác đây không phải câu chuyện hư cấu, mà chính là bức tranh cuộc sống đang hiện hữu. - Khi kể việc, tả người Lê Hữu Trác không vay mượn những khuôn mẫu, chất liệu có sẵn, tác giả hướng tới khai thác chất liệu đời thường, đời tư một cách tự nhiên, chân thật. Ông kể lại có ngọn ngành, sắp xếp sự việc cho đầy đủ mạch lạc có đầu có cuối, thể hiện thành công cái lôgíc nhân quả của sự kiện, hành động, suy nghĩ, tâm trạng. Ban đầu ta tưởng như nhân vật “tôi” chủ động, nhưng càng đọc càng thấy nhân vật “tôi” bị cuốn vào hết sự việc này đến sự việc khác. 2. Cảnh sống xa hoa, vương giả nơi phủ chúa Quang cảnh và cung cách sinh hoạt trong phủ chúa được ghi lại khá tỉ mỉ qua con mắt quan sát của một thầy thuốc lần đầu tiên bước chân vào thế giới mới lạ. Không gian nghệ thuật của tác phẩm ngày càng được mở rộng hơn theo bước chân, và cách nhìn của nhân vật xưng “tôi”. Bức tranh toàn cảnh về phủ chúa Trịnh không chỉ có bề rộng mà còn có chiều sâu, với một sức gợi mạnh mẽ. 2.1. Là chốn thâm nghiêm uy quyền tột bậc Bước chân vào phủ chúa mới biết đây là chốn thâm nghiêm, uy quyền tột bậc. Quyền uy của nhà chúa được tác giả thể hiện qua một số chi tiết: + Quyền uy: Muốn vào phủ chúa phải qua những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp, có người giữ cửa truyền báo rộn ràng, có vệ sĩ canh cửa cung, ai muốn ra vào phải có thẻ, người bên ngoài vào phải có người truyền lệnh, dẫn đường. Chúa quyền uy như thế nên có nhiều người hầu kẻ hạ: người có việc quan qua lại như mắc cửi \"có người hầu kẻ hạ ra vào tấp nập. Khi tác giả lên cáng vào phủ thì có tên đầy tớ chạy trước hét đường. + Khuôn phép, lễ nghi: Lời nói của mọi người khi nhắc đến thế chúa và thế tử đều rất cung kính, lễ độ như Thánh thượng đang ngự ở đấy, chưa thể yết kiến, hầu mạch, hầu trà … Chúa Trịnh có phi tần chầu chực xung quanh, giống như bậc thánh. Tác giả khám bệnh cho con chúa mà cũng không được nhìn mặt chúa, chỉ làm theo chỉ dẫn để vào cung thăm bệnh cho thế tử. Khi xem bệnh xong thì không được trao đổi với chúa mà phải viết tờ khải đưa lên. Còn phần thế tử thì khi bị bệnh lại có đến bảy, tám ngự y thúc tục vây quanh. Thế tử chỉ là đứa bé 5, 6 tuổi nhưng khi vào xem bệnh, Lê Hữu Trác là một cụ già, trước khi xem mạch và sau khi ra vẫn phải quỳ bốn lạy, muốn xem thân hình của thế tử phải có viên quan nội thần đến xin phép trước. 2.2. Sự xa hoa của phủ chúa Cuộc sống xa hoa, vương giả bậc nhất nơi phủ chúa được tác giả cảm nhận rõ nét ngay từ khi bước vào phủ chúa: 2

- ”Tôi ngẩng đầu lên, đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đung đưa thoang thoảng mùi hương”. Cảnh vật ấy khiến cho ta có cảm giác, nơi đây là một khu vườn địa đàng nào đó trên tiên giới trong các truyện cổ tích dân gian, chứ không phải cảnh ở hiện thực mà tác giả nhìn thấy. - Khung cảnh càng trở nên choáng ngợp khi bước vào sâu trong phủ chúa. Khuôn viên phủ chúa rộng, có trạm dừng chân được kiến trúc thật kiểu cách, cảnh trí độc đáo. Điếm là bên cái hồ, có những cái cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ. Trong điếm cột và bao lơn lượn vòng, kiểu cách thật là xinh đẹp. Bên trong là nhà Đại đường, gác tía với kiệu son, võng điều. - Đồ dùng của chúa được son son thiếp vàng, đồ dùng tiếp khách ăn uống cũng đều là mâm vàng, chén bạc, đồ ăn đầy của ngon vật lạ mang phong vị nhà đại gia… - Đến nội cung của thế tử phải trải qua 6 lần trướng gấm. Nơi ở của thế tử rất sang trọng,có sập thếp vàng, ghế rồng bày nệm ấm, xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt… => Tô đậm sự cao sang, quyền uy tột đỉnh cùng với cuộc sống hưởng thụ xa hoa đến cực điểm và sự lộng quyền của nhà chúa. 2.3. Cảm nghĩ của tác giả trước uy quyền, cuộc sống xa hoa nơi phủ Chúa Đồng thời với việc miêu tả, tác giả cũng bộc lộ những suy nghĩ, cảm xúc của mình một cách chân thật: ”Tôi nghĩ bụng: mình vốn con quan... Bước chân đến đây mới hay cái cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”. Điều này chứng tó thái độ ngỡ ngàng đến bất ngờ của tác giả. Khung cảnh giàu sang đó là ngoài sức tưởng tượng của ông. Bản thân vốn là một con người không màng danh lợi, nhưng đứng trước khung cảnh hoành tráng này, Lê Hữu Trác cũng không tỏ ra miệt thị, phê phán. Trái lại, trước cảnh đẹp đệ nhất trời Nam ấy ông vẫn ngợi ca, vẫn ngập tràn xúc cảm mà cảm tác thành thơ: Lính nghìn cửa vác đòng nghiêm ngặt Cả trời Nam sang nhất là đây... ...Quê mùa cung cẩm chưa quen Khác gì ngư phủ đào nguyên thủa nào. Ông còn thấy mình như kẻ quên mùa được lạc vào chốn Đào nguyên. Điều này chứng tỏ Lê Hữu Trác là nhà thơ có tâm hồn giàu cảm xúc trước thiên nhiên, tạo vật, thế sự. Ông nhìn và cảm nhận bằng con mắt khách quan, đứng trước cảnh đẹp thì ông ngợi ca, nhưng dường như đằng sau những dòng thơ này vẫn ẩn chứa một nỗi niềm u hoài, sự phê phán kín đáo của tác giả. 3. Hình ảnh thế tử Trịnh Cán 3.1. Là con vua cháu chúa: Hình ảnh nhân vật Trịnh Cán được khắc họa bằng những nét riêng, nhưng đồng thời mang ý nghĩa khái quát. Thế tử bị bệnh có đến bảy tám thầy thuốc phục dịch và có nhiều cung nhân hầu hạ. Dù thế tử chỉ là một đứa bé trẻ, nhưng khi vào xem bệnh, thầy thuốc phải quỳ lạy bốn lạy và khi xem mạch xong phải lạy bốn lạy nữa trước khi lui ra. Việc thế tử ngồi chễm chệ trên sập vàng để một cụ già phải quỳ dưới đất lạy bốn lạy, rồi cười và ban một lời khen: “Ông này lạy khéo!” không chỉ gợi rõ bản chất thơ trẻ, hồn nhiên mà còn cho thấy rõ vị trí rất \"bề trên\" của thế tử. Khi khám bệnh, 3

muốn xem thân thể của thế tử như thế nào để đoán bệnh thì phải có một viên quan nội thần đến xin phép được cởi áo cho thế tử. 3.2. Ngoại hình: Thế tử là một đứa trẻ khoảng 5 – 6 tuổi, mặc áo đỏ, ngồi trên sập vàng. Nhưng khi cởi áo khám bệnh tác giả nhận thấy thế tử mắc bệnh đã lâu nên tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân thời xanh, tay chân gầy gò… Thế tử Cán được miêu tả qua con mắt của một vị lang y tài giỏi thật đáng thương và cạn dần sự sống. 3.3. Nơi ở: Muốn đến chỗ thế tử phải đi qua 5,6 lượt màn là chướng gấm, vào trong tối om giữa ban ngày mà phải đền nến, đèn sáp. Trong phòng đặt sập vàng, cắm nến to trên giá đồng, bày ghế đồng sơn son thếp vàng, nệm gấm, chục người đứng chầu chực…Xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt. Chỉ có một ấu chúa mà vây quanh bao nhiêu là vật dụng gấm vóc lụa là vàng ngọc. Người thì đông mà không khí vẫn lạnh lẽo. Có thể thấy thế tử là một cậu bé bị vây tròn, bọc kín trong cái tổ ấm vàng son. 3.4. Hình ảnh thế tử Trịnh Cán tiêu biếu cho xã hội phong kiến Đàng ngoài: Thế tử xuất hiện trong khung cảnh vây bọc thâm nghiêm, giữa vàng son vương giả nhưng thiếu sức sống. Không chỉ thế tử Trịnh Cán mà ngay cả phủ chúa dù xa hoa, tráng lệ, quyền uy thâm nghiêm tột bậc vẫn rất thiếu sinh khí và ngột ngạt. Khung cảnh khiến ta liên tưởng đến Vũ Trung tùy bút của Phạm Đình Hổ với câu nhận xét: “Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất thường”. Hình ảnh thế tử với những đường nét chết và khung cảnh phủ chúa xa hoa mà thiếu sinh khí đó chính là tín hiệu dự báo triều đại nhà Trịnh đã đi vào mạt vận và chẳng bao lâu nữa sẽ đến hồi diệt vong. 4. Tài năng và vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của Lê Hữu Trác 4.1. Giới thiệu: Tác phẩm được viết trong bối cảnh xã hội thối nát, những vị quan thanh liêm đều tìm cách lui về ở ẩn với nhân dân, giúp đỡ nhân dân để giữ được tâm hồn, lối sống thanh cao. Lê Hữu Trác cũng vậy, vốn bản thân không màng công danh, ông đã chọn nơi rừng núi yên tĩnh để sống cuộc sống ẩn dật, lấy chim muông làm bầu bạn, hoa cỏ làm niềm vui. Bởi thế mà ông dường như xa lạ trước cuộc sống cung đình và người ta thường biết đến ông là một người lười làm quan, biếng danh lợi với cái tên là Hải Thượng Lãn Ông. Đoạn trích ”Vào phủ chúa Trịnh” là những trang kí sự giàu cảm xúc của Lê Hữu Trác về cảnh giàu sang nơi phủ chúa và bệnh tình của thế tử. Bên cạnh những dòng hiện thực ấy, người đọc vẫn thấy toát lên trên tất cả là tài năng, tâm hồn, nhân cách cao đẹp của Ông già lười. 4.2. Tài năng về Y học: Lê Hữu Trác nhanh chóng nhận ra khuyết tật của phủ chúa, phán xét chính xác căn bệnh của thế tử, đồng thời cũng thấy được căn bệnh chung của nơi giàu sang này. Trước cuộc sống xa hoa, nhưng yếm khí đó ngay lập tức tác giả đã chuẩn đoán được căn nguyên căn bệnh mà Thế tử mắc phải: “Ở trong trốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi”. Quả thật lời chuẩn đoán của ông vô cùng chính xác, do cuộc sống thừa thãi về vật chất mà lại thiếu đi sự vận động, sống trong không gian tăm tối, ngột ngạt, thiếu khí trời khiến cho phủ tạng ngày càng yếu, người ngày một gầy mòn. 4

Chốn lầu son gác ngọc ấy đã làm cho con người trở nên hao mòn, mất hết nhuệ khí, lại chứa toàn bọn ngu dốt như quan chánh đường và các quan thái y chỉ lo dùng thuốc công phạt theo ý mình. Những phương thuốc ấy tưởng là có bài bản nhưng hóa ra chỉ làm cho thế tử ngày càng yếu đi. Bằng tài năng y học Lê Hữu Trác nhận thấy, thế tử chính là nạn nhân của sự ngu dốt, của sự thừa thãi quá mức nơi phủ chúa. Đó cũng chính là những biểu hiện rõ nét nhất của một triều đại suy đồi đã đến lúc mạt vận, diệt vong, là sản phẩm của một chốn chỉ biết xu nịnh, ăn chơi phè phỡn không lo cho cuộc sống của nhân dân lao động. 4.3. Vẻ đẹp tâm hồn và tài năng văn học: Là một lương y nhưng Lê Hữu Trác có tâm hồn bay bổng, phong phú, đầy cảm xúc. Bởi vậy, trước cảnh đẹp nơi phủ chúa ông có thể tức cảnh mà sáng tác thành bài thơ, chỉ một bài thơ vịnh cảnh mà tả hết cái sang trọng, vương giả trong phủ với gác vẽ, rèm châu, hiên ngọc, vườn ngọc có hoa thơm, vẹt nói… Hơn nữa, những ghi chép về quá trình vào chữa bệnh cho thế tử của ông trở thành bài kí chân thật và hấp dẫn. 4.4. Vẻ đẹp nhân cách: - Dù ca ngợi sự sang trọng, đẹp đẽ, cao quý nơi phủ chúa nhưng tác giả tỏ ra không đồng tình với cuộc sống no đủ, dư thừa, tiện nghi nhưng lại thiếu sinh khí và đồng thời ông cũng biểu hiện thái độ dửng dưng trước những quyến rũ vật chất. - Khi bắt bệnh xong Lê Hữu Trác rơi vào tình thế khó xử, tin vào khả năng chữa bệnh của mình nhưng sợ bị danh lợi ràng buộc, không tiếp tục cuộc sống tự do tự tại, ẩn dật mà ông yêu thích nữa. Lúc này, ông đã phải trải qua một cuộc đấu tranh nội tâm quyết liệt giữa một bên là sự trói buộc của công danh và một bên là lương tâm của người thầy thuốc, cái đạo làm người, cái phận làm bề tôi. Trong cuộc đấu tranh nội tâm ấy, đã có lúc ông do dự: Nếu mình làm, sao về núi được nữa, chi bằng ta dùng phương thuốc hòa hoãn, nếu không trúng thì cũng không sai bao nhiêu. Từ xưa đến nay, con người chỉ sợ thất bại, khổ đau. Còn với Lê Hữu Trác thì hoàn toàn ngược lại, ông sợ công danh, sợ uy quyền ràng buộc. Nhưng những suy nghĩ vì cá nhân nhanh chóng mất đi, nhường chỗ cho lương tâm, cho chữ trung, chữ đức... để nối tiếp cái lòng trung của cha ông đời trước. Là một nhà nho chân chính, dù lánh xa danh lợi, nhưng để giữ vững khí tiết của mình, ông vẫn đặt chữ trung lên hàng đầu, dù vị chúa mà ông thờ, triều đại mà ông sống là một xã hội thối nát, suy đồi. Ông có thể làm như suy nghĩ trước đó, không hại ai, cũng không gây đau khổ cho ai, nhưng cuối cùng ông đã quyết định khám và chữa bệnh cẩn thận cho thế tử. Qua đó, ta thấy Lê Hữu Trác không chỉ là một lương y có tay nghề cao mà còn có cái tâm sáng của người lương y luôn hết lòng vì người bệnh, một bề tôi giữ được chữ trung, một con người biết giữ đạo làm người. Hơn nữa, tâm hồn và nhân cách cao đẹp của ông cũng được bộc lộ rõ ở sự tự do, tự tại và coi thường danh lợi. III. KẾT LUẬN * Nghệ thuật: Đoạn trích đã cho thấy tài năng nghệ thuật đặc sắc trong ngòi bút kí sự của Lê Hữu Trác. Nghệ thuật miêu tả, ghi chép rõ nét, trung thực, tạo sự tin cậy nơi người đọc. Lựa chọn chi tiết tiêu biểu, ấn tượng qua quang cảnh phủ chúa, hình ảnh thế tử,… tất cả 5

đều ngầm lên án, phê phán cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa. Kết hợp hài hòa giữa tự sự, miêu tả và biểu cảm tạo nên sự cuốn hút và tăng giá trị hiện thực cho tác phẩm. Câu văn của Lê Hữu Trác ngắn gọn, giàu thông tin, được viết ra một cách nhẹ nhàng, tự nhiên, không một chi tiết thừa. Lời văn giản dị, chắc mà bay bổng, vừa “truyền cảm” vừa truyền nhận thức. Giọng văn kể chuyện khách quan, pha chút hài hước, tạo được sự thú vị cho người đọc: nín thở đứng chờ, bị sóc một mẻ, một chỗ tối om không có cửa ngõ gì cả… Về nhân vật, ngoài những người mang họ Trịnh, các nhân vật khác, tuy quyền hành và phận sự khác nhau, nhưng đều giống nhau ở chỗ cùng dựa dẫm, nịnh bợ nhà chúa nhằm củng cố địa vị cá nhân. Các quan ngự y ngày đêm chầu chực để liệu phương thuốc chạy chữa cho Trịnh Cán, nhưng lại sợ trách nhiệm, chỉ theo ý của quan Chánh đường để ra toa. Ngay cả quan Chánh đường cũng không khá hơn, ông hoàn toàn đặt mọi hi vọng vào thế tử ốm yếu, bệnh hoạn. Tất cả những nhân vật này đếu có một điểm chung là làm thân phận tôi đòi, chim lòng cá chậu. * Nội dung: Vào phủ chúa Trịnh là một bức tranh hiện thực sắc nét về sinh hoạt của vua chúa thời xưa, cụ thể là uy quyền và cảnh sống xa hoa của chúa Trịnh Sâm. Qua đoạn trích, với bút pháp kí sự tài hoa, người đọc còn thấy được bức chân dung tự họa của tác giả là một thầy thuốc giàu kinh nghiệm, có tài năng, lương tâm và đức độ. Lê Hữu Trác xem nghề thuốc vô cùng thiêng liêng cao quí, người làm thuốc phải nối tiếp lòng trung của cha ông mình, phải luôn giữ đức cho trong, giữ lòng cho sạch. Lê Hữu Trác yêu thích tự do, nếp sống thanh đạm. Vượt lên trên những danh lợi tầm thường ông trở về hành đạo cứu đời với quan niệm: “Thiện tâm cốt ở cứu người. Sơ tâm nào có mưu cầu chi đâu/Biết vui, nghèo cũng hơn giàu/Làm ơn nào phải mong cầu trả ơn”. Vì thế, tên tuổi của ông được người đời sau nhắc đến với sự thán phục và trân trọng. TỰ TÌNH (Bài 2) - Hồ Xuân Hương- I. MỞ BÀI Thơ là một hình thái nghệ thuật cao quý, tinh vi. Mỗi bài thơ là tiếng hát của trái tim, là những cảm xúc chân thành mà mãnh liệt của người nghệ sĩ. Bởi vậy, Diệp Tiến cho rằng, “thơ là tiếng lòng”. Thơ là thư kí trung thành của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn người nghệ sĩ. Thơ phản ánh cuộc sống con người, xã hội để qua đó, nhà thơ bộc bạch nỗi lòng mình. Trong số những “ tiếng lòng” trong thơ, ta bắt gặp nỗi lòng đầy xót xa, tủi hổ của Hồ Xuân Hương cũng là của những người phụ nữ sống trong xã hội xưa. Hồ Xuân Hương xứng đáng với danh hiệu bà chúa thơ Nôm và là một hiện tượng đặc biệt của thơ ca trung đại Việt Nam. Chùm thơ Tự tình của bà gồm ba bài là sự phản ánh đặc sắc tâm tư, tình cảm của nhà thơ một người phụ nữ “hồng nhan bạc phận” đường tình duyên không trọn vẹn, quá lứa lỡ thì. Trong đó Tự tình (bài II) được coi là bài thơ hay nhất, giàu cảm xúc và lắng đọng nhất. “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn ...Mảnh tình san sẻ tí con con!” 6

II. THÂN BÀI 1. Khái quát - Thể loại và ngôn ngữ: Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật nhưng đáng chú ý là nó không được viết bằng chữ Hán mà được viết bằng chữ Nôm là chữ viết ghi lại tiếng nói của dân tộc. Và phải đến thời Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du thì phong trào làm thơ Nôm mới đạt đến đỉnh cao thực sự. - Hoàn cảnh ra đời: Hồ Xuân Hương là người phụ nữ đa tài, đa tình, giao du rộng rãi mà số phận truân chuyên, cuộc đời đầy éo le ngang trái và duyên phận hẩm hiu. Bà là con vợ lẽ, lại muộn màng trong đường tình duyên, từng hai lần làm lẽ rồi hai lần đều duyên phận ngắn ngủi, rơi vào cảnh góa bụa. Chính hoàn cảnh éo le ấy là nguồn cảm hứng cho bà sáng tác chùm thơ Tự tình. Bài thơ Tự tình (bài II) là hình ảnh người phụ nữ cô đơn, lẻ loi trong đêm khuya thanh vắng than ngẫm, đau xót cho thân phận của mình. - Nhan đề: Tự tình trước hết có nghĩa là bộc lộ cảm xúc, tâm tình. Với đặt nhan đề như vậy, bài thơ là lời tự bộc bạch, lời của tâm hồn, con tim muốn được thổ lộ, giãi bày. Khi có tâm trạng cô đơn, trống trải người ta thường tìm đến một đối tượng khác để tâm tình nhưng Xuân Hương ở đây lại tâm sự với chính mình, nói về chính mình, về nỗi cô đơn, bất hạnh của chính mình. Tuy nhiên, bài thơ không chỉ là nỗi tự tình của riêng Xuân Hương mà còn là nỗi đau, sự bẽ bàng của những người phụ nữ bị chèn ép, bị chế độ phong kiến làm cho dang dở, lẻ loi. 2. Hai câu đề: Nỗi niềm buồn tủi, chán chường Hai câu đề trong bài thơ thất ngôn bát cú thường có nhiệm vụ làm cho người đọc “mở cửa ra thấy núi” (khai môn kiến sơn). Hai câu thơ đầu trong bài thơ này cũng vậy, gợi ra không gian, thời gian và tâm trạng tê tái của người phụ nữ: “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn Trơ cái hồng nhan với nước non” Trong đó, câu thơ thứ nhất thể hiện thời gian và thời gian ở đây là lúc đêm khuya, là khoảng thời gian dễ gây tâm trạng. Bước đi của thời gian được cảm nhận rõ qua tiếng trống canh. Bởi vì, thời xưa đêm thường được chia thành năm canh, giữa các canh thường có trống báo hiệu. Tiếng trống canh vang lên giữa đêm khuya báo hiệu thời gian đang trôi đi. Trong khi mọi người đã chìm sâu vào trong giấc ngủ để nghỉ ngơi sau một ngày lao động mệt mỏi, thì nhân vật trữ tình ở đây lại thao thức, trằn trọc không ngủ được. Không gian là khoảng không bao la, rộng lớn yên tĩnh, vắng lặng nghe thấy “văng vẳng trống canh dồn”. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh lấy cái âm thanh “văng vẳng” (từ láy) của tiếng trống canh để nói cái không gian tĩnh lặng về đêm. Lấy cái ngoại cảnh để nói tâm cảnh. Là cảnh vật tác động đến con người hay là vì “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Đêm khuya thanh vắng là lúc con người ta trở nên bé nhỏ và lạc lõng vô cùng khi giường đơn gối chiếc đối diện với chính mình. “Trơ”ở đây là trơ trọi, là cô độc chỉ có một mình được đặt ở đầu câu càng nhấn mạnh nỗi đau, sự bất hạnh của một người phụ nữ. “Hồng nhan” là chỉ cái vẻ đẹp nhan sắc bên ngoài của người con gái nhưng cũng là để nói đến cái phẩm hạnh là tấm lòng son bên trong. Chữ “cái” vốn chỉ vật bé nhỏ, tầm thường được sử dụng nhằm cụ thể hóa đối tượng diễn tả “cái hồng nhan” cho thấy sự tủi hổ, bẽ bàng khi nhan sắc, đức hạnh của 7

người phụ nữ bị coi rẻ, bị mỉa mai. “Nước non” chỉ cả thế giới tự nhiên và xã hội bên ngoài, chỉ không gian rộng lớn. Như vậy từ “Trơ” nhấn mạnh cái nhỏ bé, đơn chiếc trước cái rộng lớn là “nước non”, là sự thách thức của một con người có cá tính mạnh mẽ, táo bạo. Nó có cùng hàm nghĩa với chữ “trơ” trong câu thơ sau của Bà Huyện Thanh Quan: “Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt”. Vì lắm đau buồn mà nét mặt con người như trơ ra trước cảnh vật, trước mọi người như hóa đá không còn cảm giác. Nhìn chung, bằng cách sử dụng ngôn từ độc đáo, gợi cảm, Hồ Xuân Hương đã gợi tả, đã tự giãi bày nỗi cô đơn, lẻ loi, buồn tủi, bẽ bàng của mình. Đó cũng là tình cảnh của biết bao người phụ nữ trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, đặc biệt là những người phụ nữ phải rơi vào cảnh lẽ mọn: Tối tối chị giữ lấy chồng Chị cho manh chiếu nằm không nhà ngoài Người đọc tưởng như nghe được cả tiếng thở dài đầy ngao ngán của người phụ nữ trước duyên phận bẽ bàng. Và tình cảnh ấy đã từng khiến Hồ Xuân Hương uất hận mà viết: Chém cha cái kiếp lấy chồng chung Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng 3. Hai câu thực: Thể hiện rõ nét hơn tình cảnh cô đơn, buồn tủi, chán chường Khi nỗi buồn đè nặng đến không chịu đựng nổi, Hồ Xuân Hương muốn vùng vẫy chống lại, giải thoát. Bởi vậy, nữ thi sĩ tìm đến rượu, bà muốn mượn chút hương nồng, đê mê ngây ngất của rượu để quên đi nỗi buồn nhưng càng uống lại càng tỉnh, càng tỉnh lại càng đau, nỗi buồn không nguôi trong vòng xoáy luẩn quẩn. “Chén rượu hương đưa say lại tỉnh Câu thơ của nữ sĩ gợi nhớ một câu thơ đầy trầm tư của Lí Bạch: “Rút dao chém nước, nước càng chảy Nâng chén tiêu sầu, sầu vẫn sầu” Gợi liên tưởng cả tâm trạng Thúy Kiều khi tỉnh rượu vào lúc tàn canh: Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh Giật mình, mình lại thương mình xót xa Tưởng nâng chén tiêu sầu hóa ra càng sầu thêm, càng xót xa, tủi hổ nên sau đó nữ thi sĩ tìm cách khác để giải sầu: “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn” Xuân Hương tìm đến thiên nhiên để xoa dịu nỗi đau nhưng ngẩng đầu lên ngắm trăng thì trăng đã xế khi chưa lúc nào tròn. Vầng trăng hao khuyết ở đây vừa là hình ảnh thiên nhiên vừa là hình ảnh tượng trưng cho tuổi xuân sắp qua đi mà tình yêu vẫn chưa bao giờ được trọn vẹn, được ắp đầy. Nghệ thuật đối trong hai câu thơ thật tài tình, đăng đối, hô ứng nhau cùng nhau làm nổi bật lên thân phận của một khách hồng nhan bạc mệnh tài hoa mà phải chịu cảnh dang dở. Nguyên do ấy là vì đâu? Phải chăng như Nguyễn Du đã từng nói về “Tài mệnh tương đố”, vì “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”. 4. Hai câu luận: Nỗi niềm phẫn uất, sự phản kháng của Xuân Hương 8

Hai câu luận là hai câu thơ tả cảnh ngụ tình, mượn ngoại cảnh để nói cái “chí”, cái “tình”bên trong. “Xiên ngang mặt đất rêu từng đám Đâm toạc chân mây đá mấy hòn” Rêu và đá là hai sự vật nhỏ bé nhưng không hề yếu mềm mà mang một sức sống mãnh liệt. Rêu vốn mềm yếu bỗng dưng vươn dậy đầy sức mạnh, có thể “xiên ngang mặt đất”. Đá vốn đã cứng nhưng im lìm, thấp bé giờ đây trở nên cứng hơn, sắc nhọn hơn và vươn lên cao để có thể “đâm toạc chân mây”. Hình ảnh thiên nhiên với sức sống mãnh liệt, phép so sánh, cường điệu kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ và các động từ mạnh “xiên”, “đâm” cộng với bổ ngữ “ngang”, “toạc” vừa nhấn mạnh trạng thái của thiên nhiên nhưng cũng là để nhấn mạnh tâm trạng của con người phẫn uất, phản kháng không chịu chấp nhận số phận. Các hình ảnh thiên nhiên cùng các biện pháp nghệ thuật ấy thể hiện rõ sự vùng vẫy, bứt phá, phản kháng của Hồ Xuân Hương. Dường như nữ thi sĩ đang muốn xé trời, vạch đất cho thỏa nỗi hận sầu, để thoát khỏi bi kịch của duyên phận, cuộc đời, thoát khỏi sự sắp đặt của số phận. Phản ứng của nữ sĩ tuy mạnh mẽ, dữ dội nhưng thực tại vẫn là đắng cay, chua chát. Hồ Xuân Hương sống vào khoảng thời gian cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Đây là thời kì mà chế độ phong kiến Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên sâu sắc. Sống trong một xã hội “trọng nam khinh nữ” với chế độ đa thê nhà thơ muốn cất lên tiếng nói nhằm đấu tranh cho nữ giới, đòi quyền bình đẳng, muốn được sống, được yêu thương và có được cuộc đời hạnh phúc. Nhưng việc ấy không hề dễ dàng bởi chính bản thân bà vẫn phải chấp nhận số phận éo le, ngang trái. Số phận của thi sĩ cũng chính là số phận của biết bao những người phụ nữ trong xã hội xưa. Chính điều đó đã khiến cho Nguyễn Du phải khóc than cho thân phận của nàng Tiểu Thanh, nàng Kiều và những người phụ nữ như Hồ Xuân Hương: “Đau đớn thay thân phận đàn bà Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” 5. Hai câu kết: Quay trở lại với tâm trạng chán ngán, buồn tủi Xuân Hương không muốn cam chịu nhưng vẫn phải chấp nhận, bà biết làm gì khác ngoài việc trở về với chính lòng mình. Hai câu kết nói về tận cùng của sự đau khổ, chán chường, buồn tủi của tác giả: “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại Mảnh tình san sẻ tí con con!” “Ngán”ở đây là tâm trạng, cảm xúc ngao ngán, chán nản cuộc đời ngang trái. Xuân chỉ mùa xuân của đất trời, mùa của muôn hoa đua nở khoe sắc khoe hương, mùa của sum họp nhưng còn có hàm ý chỉ tuổi trẻ, tuổi xuân thì của người phụ nữ. Hai từ “lại lại” cho thấy sự tuần hoàn lặp đi lặp lại, chỉ mùa xuân của thiên nhiên, đất trời qua đi rồi trở lại, nó đến mang đi mùa xuân của con người và mùa xuân của con người thì một đi không trở lại, chỉ còn “Ngày xanh mòn mỏi, má hồng phôi pha” (Truyện Kiều). 9

Đáng lẽ mùa xuân tươi đẹp căng tràn nhựa sống trở về con người phải cảm thấy hớn hở, vui mừng thì thi sĩ lại càng cảm thấy thêm ê chề, ngao ngán bởi lẽ xuân đến là một lần tuổi đời lại thêm, tuổi trẻ dần qua đi mà bản thân mình vẫn đơn độc, thiếu thốn yêu thương. “Mảnh tình san sẻ tí con con”, câu thơ cất lên đầy ai oán chua xót. Trong một bài thơ khác Hồ Xuân Hương đã từng viết: “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung/ Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng” để cho thấy tình cảnh làm lẽ mọn của người phụ nữ trong xã hội cũ. Thanh xuân của người con gái có được là bao nhiêu, đã ít rồi lại còn ngày một ngắn lại. Vậy mà mảnh tình cũng phải san sẻ, chia năm sẻ bảy. Cách dùng từ độc đáo, cho thấy sự nhỏ dần, ít dần của tình duyên, hạnh phúc: mảnh tình – nhỏ bé, san sẻ – càng ít hơn và cuối cùng phần nhận được chỉ còn lại “tí con con”. Người phụ nữ ấy vẫn khát khao một hạnh phúc trọn vẹn để được trao đi sự thủy chung, thế mà trái tim lại bị chia cắt, chảy máu. Nghệ thuật tăng tiến không chỉ nhấn mạnh vào sự nhỏ bé của tình cảm mà còn góp phần thể hiện rõ hơn nỗi đau, sự uất ức, càng làm cho nghịch cảnh càng trở nên éo le hơn. Bằng khả năng điều khiển ngôn ngữ tài tình, Hồ Xuân Hương đã cho người đọc phần nào thấy được thân phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội cũ, tình yêu bị san sẻ, hạnh phúc không thể với đến. Nhưng đồng thời ở đó, ta còn thấy được khát khao hạnh phúc mãnh liệt của họ. Qua những vần thơ đó Hồ Xuân Hương cũng lên án xã hội phong kiến đã kìm kẹp, phá tan nhu cầu, khát vọng hạnh phúc chính đáng của con người. III. KẾT LUẬN Hồ Xuân Hương đã vận dụng sáng tạo thể thơ thất ngôn bát cú Đường Luật với ngôn ngữ tiếng Việt nhưng không làm mất đi giá trị của thể thơ mà trái lại nó còn mang đến cho thể thơ cổ điển ấy một vẻ đẹp mới, gần gũi, thân thuộc hơn với người Việt. Từ ngữ giản dị mà đặc sắc với những động từ mạnh kết hợp nghệ thuật đảo ngữ (xiên ngang mặt đất/ đâm toạc chân mây), từ láy tượng thanh đã thể hiện khao khát đến cháy bỏng và sự nổi loạn trong tâm hồn của Hồ Xuân Hương. Những hình ảnh giàu sức gợi (trăng khuyết chưa tròn, rêu từng đám, đá mấy hòn,...) để diễn tả các cung bậc cảm xúc, sự tinh tế, phong phú trong tâm trạng của người phụ nữ khi nghĩ đến thân phận của mình. Tự tình II là bài thơ tự than thân, tự bộc lộ, tự nói lên nỗi lòng của một người phụ nữ lận đận trong đường tình duyên nhưng luôn khao khát có được một tình yêu trọn vẹn xứng đáng với tấm chân tình của mình. Tâm trạng vừa buồn tủi, xót xa lại vừa uất ức cho thân kiếp làm lẽ của người phụ nữ đồng thời cũng là bi kịch và khát vọng hạnh phúc cá nhân của Hồ Xuân Hương. Bài thơ truyền tải ý nghĩa nhân văn sâu sắc tới độc giả dù sống trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhưng con người vẫn cố gắng vươn lên muốn thay đổi số phận, thay đổi nghịch cảnh mong muốn có một cuộc sống tốt đẹp hơn với hạnh phúc lứa đôi và tình duyên trọn vẹn. LUYỆN ĐỀ Đề bài 1: Có ý kiến cho rằng “ Thơ Hồ Xuân Hương thể hiện sâu sắc niềm khát khao hạnh phúc của người phụ nữ trong xã hội phong kiến . Ý khác lại khẳng định “ Thơ Hồ Xuân Hương bộc lộ một cách chân thực tâm trạng bi kịch của nữ sĩ . Bằng cảm nhận về bài thơ “Tự tình 2” em hãy bình luận các ý kiến trên. 10

I. MỞ BÀI - Vài nét về tác giả, tác phẩm. - Dẫn dắt vào hai nhận định. II. THÂN BÀI 1. Giải thích - Ý kiến 1: Khát khao hạnh phúc là mong muốn được sống, được hạnh phúc thiết tha, cháy bỏng. Trong bài thơ, trước sự trớ trêu của cuộc đời, số phận, Hồ Xuân Hương vẫn tha thiết mong muốn, khát vọng có được hạnh phúc tình yêu. - Ý kiến 2: Bi kịch: Bi là buồn, là bi thương. Bi kịch là chỉ tinh cảnh éo le, ngang trái, bất hạnh, buồn đau. Bi kịch của Hồ Xuân Hương trong tác phẩm là sự buồn tủi, xót xa trước duyên phận bẽ bàng, tình cảnh đầy éo le ngang trái của mình cũng như của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. => Hai ý kiến là hai nhìn nhận khác nhau, thậm chí có phần trái ngược nhau về bài thơ. 2. Phân tích, chứng minh 2.1. Ý kiến 1: Thể hiện rất sâu sắc niềm khao khát hạnh phúc của người phụ nữ trong xã hội phong kiến: +Sử dụng cụm từ chỉ thời gian: \" Đêm khuya\" + Động từ \" trơ, cái hồng nhan\" => sự khao khát hạnh phúc, cô đơn, tĩnh mịch trong đêm khuya. + \" Chén rượu... tròn\" => Khao khát hạnh phúc nhân lên theo năm tháng, kéo dài suốt thời gian dài. + Những hành động phản kháng mạnh mẽ, quyết liệt của người phụ nữ đã bộc lộ khao khát hạnh phúc mãnh liệt. \" Xiên toạc.... hòn\". Tác giả sử dụng những động từ mạnh, kết hợp với những hình ảnh tượng trưng cho sự yếu ớt \" Rêu\", sức mạnh rắn rỏi \" đá mấy hòn\" như thể hiện thái độ của bản thân trước sự trắc trở, lận đạn trong tình duyên của người phụ nữ. Dù có muôn vàn sóng gió trong tình yêu, nhưng chắc chắn người phụ nữ sẽ vượt qua. 2.2. Ý kiến 2: Bộc lộ chân thực tâm trạng bi kịch của nữ sĩ. - Bi kịch duyên phận hẩm hiu, nữ sĩ tự chua xót cho bản thân mình, thân phận rẻ rúng, bị vùi dập trong xã hội phong kiến đầy những bất công. - Bi kịch về tình duyên cho những người phụ nữ đã quá lỡ, tình duyên ngang trái trong cuộc sống xã hội phong kiến xưa. - Bi kịch không lối thoát trong tình yêu, hạnh phúc. Bế tắc cùng bế tắc luôn ập đến, khiến người phụ nữ dù có đứng lên phản kháng, đấu tranh quyết liệt cũng bị vùi dập khiến nữ sĩ trở nên vô vọng trong tình yêu. “Ngán nỗi… con con”. 3. Đánh giá hai nhận định: - Hai nhận định đều đúng những chưa đủ. Hai nhận định cần phải bổ sung cho nhau mới có thể thể hiện cái nhìn sâu sắc và toàn diện về bài thơ \"Tự tình 2\". - Đánh giá về nội dung và nghệ thuật. III. KẾT LUẬN: Suy nghĩ chung của bản thân về vấn đề đã nêu. 11

Đề bài 2: Phân tích bài “Tự tình 2” để chứng minh nhận định: Thơ là tự truyện của khát vọng “Thơ là tự truyện của khát vọng” (I. Michel Manlpose) Trong “Mấy ý kiến về thơ” Nguyễn Đình Thi đã khẳng định “làm thơ là đúng lời và chữ, những dấu hiệu thay cho lời nói, tức là chữ để thể hiện một trạng thái, tâm lý đang rung chuyển khác thường”. Đúng như vậy! Đến với thơ ca là đến với ngôn ngữ, dùng ngôn ngữ để ghi lại trạng thái tâm hồn mình đang có những biến chuyển rung động sâu sắc, mạnh mẽ, căng thẳng, những say mê khác thường. Đó có thể là vui, buồn, hờn, giận hoặc đó là những khao khát, ước mơ từ một hiện thực khổ đau cho một tương lai tốt đẹp. Bàn về điều này I. Michel Manlpose cho rằng “Thơ là tự truyện của khát vọng” và một trong những minh chứng rõ nhất cho ý kiến đó chính là tác phẩm “Tự Tình 2” của Hồ Xuân Hương. Gorki đã từng quan niệm rằng thơ chính là tâm hồn, thơ là một đỉnh cao của cảm xúc phát khởi từ lòng người, mang trong nó cái tình cảm, cảm xúc ngất ngây của thi nhân. Hiểu theo nghĩa gốc thì thơ là cái bên trong, cái cảm, cái nghĩ của tác giả, là cái chủ quan của nội tâm trước cuộc sống tươi đẹp, hay khổ đau, dường như cũng đồng quan điểm trên ai I. Michel Manlposc cũng cho rằng “thơ là tự truyện của khát vọng”. Tự truyện là những tác phẩm văn học tự sự mà tác giả tự kể lại và miêu tả cuộc đời mình trong tác phẩm, khát vọng là những ước mơ, khát khao, mong muốn điều lớn lao tốt đẹp. Với một sự thôi thúc mạnh mẽ như vậy Ý kiến của I. Michel Manlpose muốn khẳng định rằng thơ chính là một câu chuyện nội tâm của thi sĩ, do thi sĩ kể lại mong muốn, ước mơ những điều tốt đẹp hay nói một cách khác thơ có một vai trò to lớn trong đời sống, tình cảm cá nhân của con người. Đó là hiện thực, là ước mơ cho cuộc sống ấy trở nên nhạy cảm phong phú. Gamratop đã cho rằng thơ sinh ra từ tình yêu và lòng căm thù từ nụ cười trong sáng hay giọt nước mắt đắng cay. Đúng thế đặc trưng của thơ chính là tình cảm, cảm xúc, đó là nền gốc cơ bản để sáng tác ra một bài thơ hay. Nếu không có cảm xúc thì nguôn từ chỉ là những xác chữ nằm thẳng đơ trên trang giấy. Nói như Ngô Thì Nhậm “thi sĩ phải xúc động, Hồn thơ cho ngọn bút có thần”. Tình cảm cảm xúc đó là yêu ghét đừng giận và tình cảm lãng mạn đột khởi, hay đó là những khao khát cháy bỏng, nhưng dù là gì thơ cũng là cái đời sống tâm hồn, tình cảm phong phú của chính nhà thơ “thơ là thư kí trung thành của những trái tim”, (Tố Hữu). Hơn nữa cảm xúc ở trong thơ không phải là thứ cảm xúc nhạt nhòa, nhàn nhạt. Đó là tình cảm ở mức độ mãnh liệt nhất, thôi thúc nhất, khiến người nghệ sĩ sáng tạo. Bởi vì “thơ chỉ tràn ra trong tim khi cuộc sống đã tràn đầy”. Như vậy cái chủ chốt trong thơ chính là cái tôi cá nhân, cái chủ quan của tình cảm, của sống tinh thần. Nói “thơ là tự truyện của khát vọng” bởi I. Michel Manlpose còn xuất phát từ quy luật tiếp nhận văn học, trong đó có thơ ca. Nhà thơ Tố Hữu đã từng nói “thơ là một tâm hồn, đi tìm những hồn đồng điệu”, bạn đọc tìm đến với thơ là tìm đến tiếng nói đồng điệu, đi tìm hồn mình trên trang viết nhà thơ. Vì vậy, nếu những tình cảm, cảm xúc hay khát 12

khao được bộc lộ không chân thành, sâu sắc, ám ảnh thì không thể tạo nên sự đồng cảm ở độc giả, cũng có ý nghĩa là thơ thiếu sức sống. Điều đó đánh mất dần vai trò chính đáng của thơ ca trong đời sống nội tâm của người đọc. Bài thơ “Tự Tình 2” của Hồ Xuân Hương là cảm xúc, là khát khao của tình yêu, của hạnh phúc. Đến với “Tự Tình 2” của Hồ Xuân Hương người con gái ngang tàng, nhưng không tránh khỏi những lễ giáo khắt khe của xã hội cũ, khiến cuộc đời long đong bất hạnh. “Tự Tình 2” cũng bắt nguồn từ dòng cảm xúc ấy. “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn Trơ cái hồng nhan với nước non”. “Đêm khuya” chính là khoảng thời gian mọi vật đã chìm sâu vào bóng tối, đó là khoảng thời gian con người đối diện với chính mình trong những suy tư, trăn trở vừa gợi ra một không gian vắng lặng, yên tĩnh, âm thanh “văng vẳng” của tiếng trống canh làm cho không gian thêm quạnh hiu. Thứ âm thanh này xuất hiện trong thơ Hồ Xuân Hương không ít “văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì”. ( Bà lang khóc chồng). Hay: Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom. (Tự Tình 1) Tuy chỉ là gợi đùa nhưng cũng gợi ra bao nỗi cô đơn, cay đắng trong không gian vắng lặng ấy con người cảm thấy cô đơn lẻ loi. ở đây Hồ Xuân Hương đã cảm nhận được bước đi vội vã, hối hả, gấp gáp như giục giã, thôi thúc thời gian qua nhịp dồn dập, liên hồi của tiếng trống vang. Đó cũng chính là tâm trạng âu lo, rối bời, buồn bã của con người. ý thức được sự trôi chảy của thời gian, đời người. Thời gian bước đi một cách vô tình, bước qua tuổi trẻ và tình yêu đó là sự rối bời khi trăm mối tả lòng không thể gỡ mà thời gian gấp gáp cứ trôi thì còn lại là sự bẽ bàng. “Trơ cái hồng nhan với nước non”. Từ “trơ” đặt ở đầu câu với nghệ thuật đảo ngữ, bên cạnh bản lĩnh vẫn là nỗi đau. Nguyễn Du cũng đã từng viết. “Đuốc hoa để đó mặc nàng nằm trơ”. (Truyện Kiều). “Trơ” là tủi hổ, là bẽ bàng, thêm vào đó hai chữ hồng nhan là để nói về dung nhan của người thiếu nữ, mà lại đi với từ “cái” thì thật rẻ rúng, mỉa mai. Cái hồng nhan trơ với nước non, là sự phũ phàng, nó không chỉ giàu rãi mà còn cay đắng. Dù câu thơ chỉ nói một vế “hồng nhan” nhưng vẫn gợi lên sự bạc vậy. Vì vậy nỗi xót xa, cay đắng càng thấm thía, càng ngẫm càng đau. Nỗi đau của Hồ Xuân Hương càng rõ hơn, càng thấm thía hơn nhưng đã có sự khao khát, sự chia sẻ, mong muốn được đồng cảm. “Chén rượu hương đưa say lại tỉnh Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”. Tìm đến rượu để giải sầu nhưng cuộc rượu say rồi tỉnh, như cuộc tình có vướng chút cũng tan mau. rượu tan còn say còn là sự rã rời. Tình say giấc mộng để lại bị đắng chát, hương tình thoáng qua chỉ còn để cái phận ẩm, duyên ươn. Cái vòng luẩn quẩn say lại tỉnh 13

gợi lên sự cảm nhận duyên tình, đã trở thành trò đùa của tạo hóa. Trong Truyện Kiều Nguyễn Du viết. “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh Giật mình mình lại thương mình xót xa”. Dường như Xuân Hương cũng như vậy, nhưng ở bà nỗi đau tràn trề hơn, xót xa hơn với hận đời bạc bẽo, gian chuân. Rượu hồng giải quyết được gì? Người phụ nữ bất hạnh ấy tìm đến với trăng, nhưng lại đau đớn thay đó là một vầng trăng lạnh, một vầng trăng bóng xế, không tròn. Tìm đến với trăng như để khao khát sự đồng cảm mãnh liệt, Nhưng trăng lại chiếu soi vào cuộc đời của Hồ Xuân Hương khiến bà nhìn thấy chính mình ở trong đó, càng xót xa tủi cực hơn cho cái thân phận dở dang của mình, vừa buồn đau, vừa say, vừa chán chường. khi tỉnh rượu lúc trăng tàn bóng xế, Xuân Hương lại ê ẩm trong nỗi đau ê chề. Với một tâm trạng đắng cay như vậy, Hồ Xuân Hương như oán hận đời mình, oán hận lan gia với cả trời đất, hổ thẹn với tự nhiên, khao khát có sức mạnh để vượt qua nỗi đau duyên phận, nỗi đau của kiếp người. “Xiên ngang mặt đất rêu từng đám Đâm toạc chân mây đã mấy hòn”. Thiên nhiên bằng nỗi niềm phẫn uất của con người, những sinh vật nhỏ bé hèn mọn hơn cả “cỏ nội hoa kèn” như đám rêu kia mà cũng không chịu mềm yếu, nó phải mọc xuyên mà là xiên ngang mặt đất. Đá đã bám chắc lại phải rắn chắc hơn, lại phải nhọn hoắt nên để đâm toạc chân mây. Đó là sự phẫn uất của thân phận đất đá, đồng thời cũng là thân phận của tâm trạng phản kháng, thể hiện một sức sống mãnh liệt ngay cả trong tình huống bi thảm nhất. Thế nhưng bi kịch của Hồ Xuân Hương là ở chỗ “bà không mảy may có cảm giác thua cuộc, nhưng kết quả là Hồ Xuân Hương đã thua cuộc. Bài “Tự Tình 2” kết lại bằng tâm trạng đau đớn, buồn tủi. “Ngán nổi Xuân đi xuân lại lại Mảnh tình san sẻ tí con con”. Ngán là chán ngán, ngán ngẩm Hồ Xuân Hương ngán lắm rồi. Thói đời éo le bạc bẽo. Xuân đi rồi Xuân lại, tạo hóa chơi một vòng tròn luẩn quẩn. Từ “xuân” mang hai nghĩa vừa là mùa xuân và là tuổi xuân. Mùa xuân đi rồi mùa xuân trở lại với thiên nhiên với muôn nghìn hoa lá cỏ cây, chỉ có con người thêm một lần xuân lại là một nỗi buồn lớn hơn. “Nói làm chi rằng Xuân văn tuần hoàn Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”. Hai từ lại trong cụm từ “Xuân đi xuân lại lại” từ lại thứ nhất là thêm lần nữa, từ lại thứ hai nghĩa là trở lại. Sự trở lại của mùa xuân đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân, nghịch cảnh éo le hơn với câu thơ cuối. “Mảnh tình san sẻ tí con con”. Ở đây không phải khối tình còn mãi với non sông, mà là mảnh tình. Mảnh tình đã bé lại còn san sẻ thành ra ít ỏi. Tuy nhiên cái tầm khái quát của nó lại lớn hơn một hoàn cảnh 14

lấy chồng chung. Nó cũng là nỗi lòng của người phụ nữ trong xã hội xưa khi với họ hạnh phúc luôn là chiếc chăn quá hẹp. Qua bài thơ “Tự Tình 2” của Hồ Xuân Hương ta thấy ý kiến của I. Michel Manlpose là một ý kiến đúng đắn, khao khát chính là một dòng cảm xúc mới mẻ, mãnh liệt nhất của thi sĩ. Đó là nỗi niềm thăng hoa để cho ra đời những đứa con tinh thần, độc đáo. Thi sĩ phải là con người giàu rung cảm, sống sâu sắc, trọn vẹn với từng khoảnh khắc cuộc đời để có những khao khát mãnh liệt, dồi dào trên nỗi trang thơ. Độc giả tìm đến với thơ ca trước hết cần lắng lòng mình để cảm nhận trọn vẹn nỗi niềm, tâm sự của người nghệ sĩ gửi vào trong trang viết. “Thơ là tiếng lòng” (Diệp Tiến). Phải chăng vì thế bấy lâu nay trong văn học nói chung và thơ ca nói riêng tình cảm, khát vọng của thi sĩ luôn được đề cao. “Thơ là tự truyện của khát vọng” đó là lời khẳng định đúng đắn và “Tự Tình 2” đã chứng minh điều đó. Với một sự khao khát, một tâm trạng hết sức nhạy cảm và phong phú Hồ Xuân Hương đã viết nên những dòng thơ này đặc sắc, mà đến ngày hôm nay nó vẫn còn giữ nguyên giá trị./. THƯƠNG VỢ - Trần Tế Xương- I. MỞ BÀI Ông nghè ông thám vô mây khói Đứng lại văn chương một tú tài (Xuân Diệu) “Văn học nằm ngoài những quy luật của băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”. Thơ văn Tú Xương là một trường hợp như vậy. Thể xác của ông hơn 100 năm nay đã hòa tan làm một cùng với đất mẹ nhưng sự nghiệp văn chương của con người tài hoa ấy chưa bao giờ ngừng sống và làm lay chuyển lòng người, bất chấp mọi thử thách của thời gian. Tú Xương được biết đến trước hết là một nhà thơ trào phúng. Chế Lan Viên từng viết: “Tú Xương cười như mảnh vỡ thủy tinh”. Nhưng thơ ông không chỉ châm biếm, mỉa mai, đả kích dữ dội mà còn rất trữ tình, có sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng và trữ tình, trong đó trữ tình là gốc. Nói như Nguyễn Tuân thì thơ trào phúng chỉ là “chân trái”, còn “chân phải” của ông là thơ trữ tình. Tú Xương có cả một mảng thơ viết về vợ. Ông viết về bà Tú với những tình cảm yêu thương, trân trọng đặc biệt. Trong số các bài thơ viết về vợ của ông, bài thơ “Thương vợ” được đánh giá là bài thơ hay nhất. Quanh năm buôn bán ở mom sông, Nuôi đủ năm con với một chồng. Lặn lội thân cò khi quãng vắng, Eo sèo mặt nước buổi đò đông. Một duyên hai nợ âu đành phận, Năm nắng mười mưa dám quản công Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không. II. THÂN BÀI 15

1. Khái quát 1.1. Đề tài: Mặc dù hình ảnh của người phụ nữ luôn là đề tài muôn thuở của văn chương kim cổ Đông Tây. Tuy nhiên ở Việt Nam thời trung đại, thơ văn viết về người vợ rất ít, viết về người vợ đang sống lại còn hiếm hoi hơn. Các thi nhân thường chỉ làm thơ khi người bạn trăm năm đã qua đời, những người vợ thường phải đi vào cõi thiên thu mới được bước vào địa hạt thi ca. Thế kỉ XIX, chỉ có hai nhà thơ cùng người thành Nam là Nguyễn Khuyến và Tú Xương có thơ viết về vợ, không ngần ngại nói lên tình cảm thương yêu của mình đối với vợ ngay khi các bà vẫn còn ở chốn nhân gian. Thương vợ của Tú Xương là bài thơ nổi tiếng hơn cả. Trong bài thơ là hình ảnh hai con người: một người vợ tần tảo giàu đức hi sinh và một người chồng biết cảm thông chia sẻ, thương yêu và quý trọng vợ rất mực. Bà Tú có thể đã phải chịu nhiều gánh nặng, sự nghiệt ngã của cuộc đời nhưng bà lại có niềm hạnh phúc mà bao phụ nữ không có được là được đi vào thơ với tất cả niềm thương yêu, trân trọng của chồng. 1.2. Hoàn cảnh ra đời: Tú Xương là bút danh của Trần Tế Xương. Tú Xương thông minh nức tiếng nhưng lận đận mãi trên con đường khoa cử: \"Tám khoa chửa khỏi phạm trường quy\", đi thi tám lần mà chỉ đỗ đến tú tài. Ông chỉ sống 37 năm, nhưng sự nghiệp thơ ca của ông thì bất tử. Tú Xương thuộc lớp nhà Nho cuối mùa, sống giữa buổi giao thời, trong lúc thời đại phong kiến suy tàn, những giá trị của quá khứ đang dần mất đi nhưng cái mới chưa kịp hình thành, những nét đẹp truyền thống đang dần rạn vỡ. Bởi vậy thơ ông đầy tiếng u uất, chua chát. Tú Xương lấy vợ năm ông 16 tuổi, vợ ông là bà Phạm Thị Mẫn. Cuộc đời của Tú Xương là cuộc đời của một nghệ sĩ nhưng trước hết ông là một nhà trí thức phong kiến, thuộc loại nhà Nho “dài lưng tốn vải” phải sống nhờ vào người vợ của mình. Mọi việc trong gia đình đều do một tay bà Tú lo liệu. Cũng vì thế ông có nhiều bài thơ viết về vợ đầy thương mến, hóm hỉnh: “Tiền bạc phó cho con mụ kiếm”, “Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ”. Hoặc: “Có một cô lái, nuôi một thầy đồ Quần áo rách rưới , ăn uống xô bồ” Bài thơ Thương vợ cũng được ra đời trong hoàn cảnh như vậy. 1.3. Nhan đề: Nhan đề Thương vợ chưa nói hết sự sâu sắc trong tình cảm của Tú Xương đối với vợ cũng như chưa thể hiện được đầy đủ vẻ đẹp nhân bản của hồn thơ Tú Xương. Ở bài thơ này, tác giả không chỉ thương vợ mà còn biết ơn vợ, không chỉ lên án “thói đời” mà còn tự trách, tự nhận khuyết điểm và càng thấy mình khiếm khuyết càng thương yêu, quý trọng vợ hơn. Tình thương yêu, quý trọng vợ là cảm xúc có phần mới mẻ so với những cảm xúc quen thuộc trong văn học trung đại. Cảm xúc mới mẻ đó lại được diễn tả bằng hình ảnh và ngôn ngữ quen thuộc của văn học dân gian, chứng tỏ hồn thơ Tú Xương dù mới lạ, độc đáo vẫn rất gần gũi với mọi người, vẫn có gốc rễ sâu xa trong tâm thức dân tộc. 2. Hai câu đề: Công việc và gánh nặng gia đình của bà Tú 16

Nếu bà vợ của Nguyễn Khuyến là một phụ nữ “hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, tất tả chân nam đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc” (câu đối của Nguyễn Khuyến) thì bà Tú lại là một người phụ nữ: Quanh năm buôn bán ở mom sông, Nuôi đủ năm con với một chồng. Hai câu thơ đã giới thiệu về nghề nghiệp cũng như trách nhiệm nặng nề của bà Tú. Ở phía Bắc Nam Định hồi ấy, bên bờ sông có cảnh trên bến dưới thuyền, người từ các nơi đổ về làm ăn, buôn bán và cảnh làm ăn buôn bán của bà Tú cũng diễn ra ở đó. Bà Tú buôn bán chẳng có cửa hàng, cửa hiệu, quán xá gì và càng không phải buôn to bán lớn. Bởi vì, hai chữ “mom sông” đã gợi lên hình ảnh một khoảnh đất nhô ra ở bờ sông, có thể nước xuống thì còn, nước lên thì mất, có thuyền qua thì thành chợ không thì thôi, cũng có thể chợ họp một lát vào buổi sáng hoặc buổi chiều. Lèo tèo đôi ba gánh hàng, chỗ dành cho người buôn thúng bán bưng, lưng vốn ít ỏi, lấy công làm lãi, chắc chắn thu nhập chẳng đáng là bao, lại đầy nguy hiểm và bất trắc. Thế mà công việc khó nhọc ấy, bà Tú không chỉ chịu đựng một hai buổi mà phải theo đuổi “quanh năm”. Chữ “quanh năm” gợi một thời gian đằng đẵng, là 12 tháng, từ tháng giêng đến tháng chạp, cũng có nghĩa là hết năm này đến năm khác. Cái công việc nặng nề ấy chẳng làm cho bà khá hơn lên để có việc khác nhàn nhạ hơn mà quanh năm suốt đời mãi chỉ có thế. Công việc thì nhọc nhằn, thu nhập thì ít ỏi, nhưng bà Tú lại phải lo lắng cho cả một gia đình sáu miệng ăn. Từ “nuôi” vốn có nghĩa là chăm sóc hoàn toàn, nghĩa là một mình bà Tú phải vất vả làm lụng, buôn bán để đủ kế sinh nhai, chăm sóc đầy đủ cho cả sáu người. Chính xác hơn thì không phải là sáu mà là “năm con với một chồng”, “Năm con” là số nhiều, nhưng dù sao cũng dễ lo hơn vì nuôi chúng chỉ cần bát cơm, manh áo. Còn ông chồng là “một”, nhưng có khi phải tiêu phí bằng hoặc hơn cả năm đứa con kia cộng lại. Dù gì cũng mang danh ông Tú nên cái ăn cái mặc không thể xoàng xĩnh, bình thường mà mỗi bước ra ngoài phải có áo dài, khăn xếp, phải có đồng chè đồng rượu... Mỗi khi ông lều chõng đi thi, tiền lưng gạo bị lại đổ lên đầu vợ. Đấy là chưa nói đến việc, ông Tú quen sống nhờ vợ nên thậm chí còn sinh ra mải vui chơi, hưởng lạc và “hư hỏng”, lên phố đến cao lâu, đi hát cũng tiền vợ nốt: “Biết thuốc lá, biết chè tàu Cao lâu biết vị hồng lâu biết mùi”. (Hỏi ông trời) Hay: “Hôm qua anh đến chơi đây, Giày “giôn” anh dận, “ô Tây” anh cầm”. (Đi hát mất ô) Nhiều người phải nuôi, nhiều thứ phải lo như thế nhưng lúc nào bà cũng lo “đủ”. Từ “đủ” nhấn mạnh mức độ của việc chăm sóc, nuôi nấng ấy nghĩa là không chỉ đủ về số lượng mà còn đủ về chất lượng. Như thế mới biết bà Tú thật là đảm đang tháo vát biết chừng nào. Việc ông Tú kể về công việc và gánh nặng của bà Tú cho thấy ông Tú đã hiểu biết rất rõ và ghi nhận công lao của vợ, thể hiện lòng biết ơn sâu sắc của ông với vợ. Đúng 17

như ai đó đã nói “Mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện là một lần thế giới được tạo lập”. Dù xuất thân từ cửa Khổng sân Trình nhưng Tú Xương không hề nhìn nhận người phụ nữ theo tiêu chuẩn của xã hội phong kiến như trọng nam khinh nữ, tam tòng tứ đức. Qua con mắt của Tú Xương, bà Tú chính là trụ cột của gia đình, là người mà ông biết ơn, trân trọng. Đây là cách nhìn nhận về người vợ mà nhiều người đàn ông thời nay cũng chưa chắc đã có được. 3. Hai câu thực: Tả thực về công việc làm ăn, buôn bán của bà Tú Để được cái tiếng thơm nuôi đủ năm con một chồng ấy, bà Tú phải đổi bằng biết bao công sức: Lặn lội thân cò khi quăng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông. Hai câu thơ đã miêu tả một cách chân thực về công việc làm ăn, buôn bán của bà Tú, lặn lội ngược xuôi, một mình đường xa, quãng vắng, cãi vã giành giật ngay trên sông, trên những chuyến đò đông khách. Trong đó: + Cụm từ “Lặn lội thân cò” đã sử dụng sáng tạo hình ảnh dân gian, trước hết gợi hình ảnh con cò trong những câu ca dao quen thuộc: ... Con cò lặn lội bờ sông Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non ... Con cò mà đi ăn đêm Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao Hình ảnh “Con cò lặn lội” chăm chỉ kiếm ăn nơi ruộng đồng, bãi sông trong văn học dân gian vốn đã cho thấy sự tảo tần, lam lũ, vất vả của người phụ nữ nói riêng và của người lao động nói chung. Nhưng Tú Xương ở đây không sử dụng hình ảnh “con cò” mà lại sử dụng hình ảnh “thân cò”, không chỉ là con vật cụ thể nữa mà còn là hình ảnh con người, số phận nên càng gợi sự đáng thương, tội nghiệp. “Thân cò” gợi dáng dấp nhỏ bé, chịu đựng, bơ vơ, côi cút một mình và số phận, cuộc đời đầy vất vả, tảo tần của bà Tú. Ca dao xưa và nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng đã từng thở than, ngậm ngùi khi dùng một chữ “thân” bạc mệnh như thế: Thân em như hạt mưa sa Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày (Ca dao) “Thân em vừa trắng lại vừa tròn, Bảy nổi ba chìm với nước non.” (Bánh trôi nước) + Tú Xương kết hợp lại hình ảnh, ngôn từ của ca dao, sử dụng nghệ thuật đảo ngữ để biến hình ảnh ca dao từ “Con cò lặn lội” thành “Lặn lội thân cò” một cách sáng tạo. Câu chữ cứ như những nét vẽ, gam màu nối tiếp nhau, bổ trợ và gia tăng. Đã “lặn lội” lại “thân cò”, rồi lại còn “khi quãng vắng”. Cụm từ “khi quãng vắng” đã gợi thêm cái không gian làm ăn buôn bán của bà Tú, là không gian rợn ngợp cảm giác đơn lẻ, không biết nương dựa 18

vào đâu, đầy nguy hiểm rình rập nơi bờ sông heo hút, giá lạnh. Tất cả đều để nhấn mạnh, khắc sâu hơn nữa nỗi nhọc nhằn, gian lao của bà Tú trong cuộc mưu sinh, đem đến cho người đọc bao liên tưởng cảm động về bà Tú, về thân phận của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ. + Câu thực thứ hai gợi thêm cảnh làm ăn đầy nguy hiểm bà Tú. “Eo sèo” là từ láy tượng thanh, gợi tả cảnh tranh mua tranh bán, cảnh cãi vã, lời qua tiếng lại, cướp giật. Cảnh làm ăn buôn bán ấy lại diễn ra trên mặt nước vào buổi đò đông. “Buổi đò đông” ở đây có hai cách hiểu, có thể chỉ con đò chở đầy người, chen chúc, chật chội; cũng có thể chỉ cảnh trên bến dưới thuyền đông đúc. Cảnh làm ăn, buôn bán kiểu chen lấn, xô đẩy trong hoàn cảnh đông đúc trên sông nước chứa đầy những sự nguy hiểm càng nhấn mạnh thêm sự khó nhọc, gian nan của bà Tú. Chỗ đông người thì vã mồ hôi, nơi quãng vắng thì trào nước mắt. Nghệ thuật đối lập đã nhấn mạnh bát cơm, manh áo mà bà Tú kiếm được “nuôi đủ năm con với một chồng’” là do phải “lặn lội” trong mưa nắng, phải giành giật “eo sèo”, phải trả giá bao mồ hôi, nước mắt. Chắc hẳn bà Tú cũng không quên lời dặn của cổ nhân “Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua” nhưng vì miếng cơm manh áo gia đình mà phải liều lĩnh đối mặt với chốn hiểm nguy. Ông Tú cũng phải thấu hiểu nỗi cay cực và trân trọng vợ đến nhường nào mới có thể viết ra những câu thơ cảm động về người vợ như thế. 4. Hai câu luận Nếu như ở bốn câu thơ đầu ông Tú đứng ở vị trí, vai trò là người chồng để viết về vợ thì bốn câu thơ sau ông nhập thân vào trong tâm tư, nỗi niềm của bà Tú để có thể đồng cảm, thấu hiểu vợ và hơn nữa để nhìn nhận bản thân cũng như về duyên nợ vợ chồng. Trong hai câu luận, ông Tú bàn về duyên phận của mình với bà Tú, than thở và nói hộ lòng vợ: “Một duyên hai nợ âu đành phận Năm nắng mười mưa dám quản công” Chữ “duyên” theo quan niệm của Phật giáo là việc trời định cho con người gặp gỡ, yêu thương gắn bó với nhau và trở thành vợ chồng. Chữ duyên và chữ nợ thường được dân gian gắn với nhau bởi vì người ta thường quan niệm duyên gặp gỡ là do nợ từ kiếp trước. Vậy nên có thể hiểu “duyên” là duyên số, duyên phận, còn “nợ” là cái nợ đời phải trả. Duyên nợ của bà Tú với ông Tú thì duyên chỉ có một mà nợ thì có những hai, hạnh phúc thì ít ỏi mà vất vả, cực nhọc lại rất nhiều. “Nắng”, “mưa” tượng trưng cho những vất vả, khổ cực mà bà Tú phải chịu đựng. Các số từ theo thứ tự: một, hai, năm, mười được sắp xếp theo sự tăng tiến cho thấy khó khăn chồng chất khó khăn trên đôi vai của bà Tú. Nhưng vì đã là duyên nợ nên bà Tú dẫu có vất vả cực nhọc đến đâu cũng “âu đành phận”. Mà đã cam chịu, chấp nhận nên “năm nắng mười mưa dám quản công”. Các cụm từ “âu đành phận” và “dám quản công” được đặt ở cuối các câu thơ cho thấy sự nhẫn nhục, chịu đựng tất cả vì chồng con của bà Tú. Bà Tú cũng đâu có than thân bao giờ, bà chấp nhận tất cả, giấu kín lòng mình với bao nỗi xót xa tủi cực. Nhưng ông Tú vì thấy rõ sự thiệt thòi, vất vả tảo tần, đức hi sinh cao thượng và lòng vị tha của người bạn đời, hơn nữa vì tấm lòng thương vợ nên đã cất lên lời nói thay cho vợ. 5. Hai câu kết 19

Tú Xương không chỉ là một nhà thơ trữ tình mà còn nổi tiếng là nhà thơ trào phúng. Thơ ông không chỉ là tiếng chửi xã hội phong kiến, bọn quan lại dốt nát mà còn là những vần thơ tự trào bản thân. Bài thơ cũng mang tính trào lộng rõ nét khi kết lại bằng một tiếng chửi. Xuất phát từ lòng thương vợ, ông chửi tất cả những gì khiến vợ ông phải khổ. Ông chửi rủa cái cõi đời bạc bẽo và chửi cả cái vô tích sự của bản thân: Cha mẹ thói đời ăn ở bạc Có chồng hờ hững cũng như không. Ông Tú cũng chẳng dè dặt gì với chữ nghĩa mà dùng luôn cách chửi dân gian “Cha mẹ thói đời”. Ông không nói đích danh về mình mà khái quát về cái thói đời bạc bẽo và chửi cha chửi mẹ cái thói đời bạc bẽo ấy. Thói đời đen bạc tượng trưng cho bản chất của xã hội kim tiền dưới thời thực dân phong kiến và ở thành thị nó càng trở nên xấu xa, tệ hại. Cái thói đời xấu xa ấy từng được ông thể hiện trong thơ: “Nhà kia lỗi phép con khinh bố Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng Keo cú người đâu như cứt sắt Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng”. (Đất Vị Hoàng) Hoá ra ông là đệ tử của thánh hiền mà cũng bị nhiễm cái thói đời xấu xa của thói đời. Vì thế mà ông Tú xót xa, tự trách. Ông tự phê phán mình là ăn ở bạc bẽo, hờ hững với vợ khiến bà Tú vốn là “Con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ”, vốn “Mặt nhẵn nhụi, chân tay trắng trẻo, ai dám chê rằng béo rằng lùn? Người ung dung, tính hạnh khoan hoà” mà bây giờ trở nên vất vả, tảo tần, gian nan, cam phận. Ông chửi chính bản thân mình là một người chồng bạc bẽo, hờ hững, vô tích sự đã không gánh đỡ gì được cho vợ lại còn làm nặng trĩu thêm cái gánh nợ đời trên vai, khiến bà Tú không vui được với duyên. Duyên nợ của bà Tú với ông cũng đắng chát có khác nào sự cay đắng trong tình duyên của Hồ Xuân Hương thể hiện trong bài “Làm lẽ”: Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm Cầm bằng làm mướn mướn không công. Thân này ví biết đường này nhẽ Thà trước thôi đành ở vậy xong. Tuy nhiên, có lẽ ông Tú đã nói oan cho mình vì thực lòng ông đâu có bạc bẽo như thói đời. Chỉ là bởi ông sinh nhầm thời thế, có thực tài nhưng công danh dở dang, thi cử lận đận. Sống giữa một xã hội dở Tây dở Ta, chữ nho mạt vận, lúc mà “Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co”, mà ông không chịu xu thời nịnh thế để vinh thân phì gia cho nên mới đành phải nhờ vào vợ. Hơn nữa, nếu ông bạc bẽo, hờ hững với vợ thì đã không có bài Thương vợ thấm thía và cảm động đến như vậy. Vì vậy, hai câu kết là cả một nỗi niềm thế sự đầy buồn thương, là tiếng nói của một trí thức giàu nhân cách, nặng tình đời, thương vợ con nhưng phải chịu cảnh thất thế. III. KẾT LUẬN Bài thơ “Thương vợ” được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú, hình tượng thơ hàm súc, gợi cảm, ngôn ngữ thơ giản dị, mang đậm chất ca dao; có sự kết hợp tài tình giữa ngôn 20

ngữ dân gian với ngôn ngữ bác học, hình ảnh gợi trường liên tưởng khá rộng như hình ảnh “thân cò”; các từ láy, các số từ, phép đối, thành ngữ; cách ngắt nhịp truyền thống trong thơ Đường luật là 4/3 và 2/2/3 làm cho bài thơ trở nên mềm mại, uyển chuyển. “Thương vợ”của Trần Tế Xương là một bài thơ trữ tình đặc sắc. Bài thơ trước hết làm hiện lên hình ảnh bà Tú, một người phụ nữ Việt Nam truyền thống rất gần gũi với những người mẹ, người chị trong mỗi gia đình Việt Nam vất vả, tảo tần chịu thương chịu khó, thương chồng thương con, giàu đức hi sinh và lòng vị tha cao thượng. Qua đó, thể hiện được ân tình sâu nặng và tình cảm chân thành của Tú Xương đối với hiền phụ của mình. Trước Tú Xương hiếm có thi nhân nào mà có những bài thơ viết về vợ hay và lắng đọng, sâu sắc như ông. Thương vợ, ghét thói đời, bất lực ông đã mài mực bằng giọt lệ của lòng biết ơn để dành tặng những lời thơ thấm thía là tình cảm chân thành nhất cho người vợ thân yêu. LUYỆN ĐỀ Đề bài 1: Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương. I. MỞ BÀI - Trình bày khái quát về hình tượng người phụ nữ trong thơ ca trung đại: Được nhiều tác giả nhắc đến với tấm lòng trân trọng và niềm cảm thương sâu sắc cho số phận như Nguyễn Dữ, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du… - Thương vợ của Trần Tế Xương là một trong những bài thơ tiêu biểu viết về hình tượng người phụ nữ. Bài thơ đã thể hiện thành công hình tượng bà Tú. II. THÂN BÀI 1. Hình ảnh bà Tú - một người phụ nữ vất vả lam lũ - Hoàn cảnh và công việc bà Tú: + Mang gánh nặng gia đình, quanh năm buôn bán lặn lội “mom sông” + Thời gian “quanh năm”: làm việc liên tục, không trừ ngày nào, hết năm này qua năm khác + Địa điểm “mom sông”: phần đất nhô ra phía lòng sông không ổn định. => Công việc và hoàn cảnh làm ăn vất vả, ngược xuôi, không vững vàng, ổn định, bà không những phải nuôi con mà phải nuôi chồng. - Sự vất vả, lam lũ, bươn chải khi làm việc: +\"Lặn lội”: Sự lam lũ, cực nhọc, nỗi gian truân, lo lắng + Hình ảnh “thân cò”: gợi nỗi vất vả, đơn chiếc khi làm ăn ⇒ gợi tả nỗi đau thân phận và mang tình khái quát + “khi quãng vắng”: thời gian, không gian heo hút rợn ngợp, chứa đầy những nguy hiểm lo âu => Sự vất vả gian truân của bà Tú càng được nhấn mạnh thông qua nghệ thuật ẩn dụ + Eo sèo… buổi đò đông: gợi cảnh chen lấn, xô đẩy, giành giật ẩn chứa sự bất trắc 21

+ Buổi đò đông: Sự chen lấn, xô đẩy trong hoàn cảnh đông đúc cũng chứa đầy những sự nguy hiểm, lo âu Nghệ thuật đảo ngữ, phép đối, hoán dụ, ẩn dụ, sáng tạo từ hình ảnh dân gian nhấn mạnh sự lao động khổ cực của bà Tú. Thực cảnh mưu sinh của bà Tú: Không gian, thời gian rợn ngợp, nguy hiểm đồng thời thể hiện lòng xót thương da diết của ông Tú. - Bà Tú lấy ông Tú là một duyên hai nợ: + Duyên ít nợ nhiều, hạnh phúc thì ít mà vất vả, gian nan thì không kể hết + Bà Tú chấp nhận, cam chịu nên dẫu có vất vả “năm nắng mười mưa” cũng không quản nhọc nhằn. => Sự vất vả lam lũ, cực nhọc của Bà Tú. 2. Hình tượng bà Tú với những phẩm chất đáng quý, đáng trọng - Tuy hoàn cảnh éo le vất vả, nhưng bà Tú vẫn tảo tần, đảm đang, tháo vát, chịu thương, chịu khó, chu đáo với chồng con: + “nuôi”: chăm sóc hoàn toàn + “đủ năm con với một chồng”: một mình bà Tú phải nuôi cả gia đình, không thiếu - Phẩm chất tốt đẹp của Bà Tú còn được thể hiện ở đức hi sinh và lòng vị tha: + “Một duyên hai nợ”: ý thức được việc lấy chồng là duyên nợ nên “âu đành phận”, không than vãn. + “dám quản công”: Đức hy sinh thầm lặng cao quý vì chồng con, ở bà hội tụ cả sự tần tảo, đảm đang, nhẫn nại. ⇒ Cuộc sống vất vả gian truân nhưng càng làm nổi bật phẩm chất cao đẹp của bà Tú. Đó cũng là vẻ đẹp chung cho người phụ nữ việt Nam nói chung. III. KẾT BÀI - Nghệ thuật thể hiện thành công hình tượng bà Tú: Từ ngữ giản dị, giàu sức biểu cảm; vận dụng sáng tạo hình ảnh, ngôn ngữ của văn học dân gian; hình tượng nghệ thuật độc đáo; Việt hóa thơ Đường. - Khẳng định lại những phẩm chất tốt đẹp của bà Tú và trình bày suy nghĩ bản thân. Đề bài 2: Có ý kiến cho rằng \"Thương vợ là bài thơ trữ tình đặc sắc của Trần tế Xương”. Ý kiến khác khẳng định \"Thương vợ là bài thơ thể hiện rõ tiếng cười trào phúng của tác giả”. Em hãy viết một bài văn nghị luận làm sáng tỏ các ý kiến trên. I. MỞ BÀI - Giới thiệu tác giả, tác phẩm - Dẫn ý kiến II. THÂN BÀI 1. Giải thích - Tú Xương được biết đến trước hết là một nhà thơ trào phúng. Chế Lan Viên từng viết: “Tú Xương cười như mảnh vỡ thủy tinh”. Nhưng thơ ông không chỉ châm biếm, mỉa 22

mai, đả kích dữ dội mà còn rất trữ tình, có sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng và trữ tình, trong đó trữ tình là gốc. Nói như Nguyễn Tuân thì thơ trào phúng chỉ là “chân trái”, còn “chân phải” của ông là thơ trữ tình. - Đánh giá về bài thơ “Thương vợ” của Tú Xương đã có hai ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau: + Ý kiến 1: Khẳng định tính chất trữ tình của bài thơ. Thơ trữ tình là thơ để bày tỏ, nói lên tình cảm, cảm xúc, tư tưởng của tác giả, từ đó để phản ánh đời sống. + Ý kiến 2: Khẳng định tính chất trào phúng của bài thơ. Thơ trào phúng là thơ dùng tiếng cười để châm biếm, mỉa mai, vạch mặt và chống lại cái xấu xa, lạc hậu, thoái hóa, rởm đời. Thơ trào phúng có thể để châm biếm mỉa mai xã hội hoặc một đối tượng nào đó nhưng cúng có thể hài hước, hóm hỉnh tự châm biếm, phê phán chính mình (tự trào). => Vậy đâu là ý kiến, nhận xét đúng về bài thơ? 2. Phân tích, chứng minh 2.1. Ý kiến 1: “Thương vợ là bài thơ trữ tình đặc sắc của Trần Tế Xương” Bài thơ là tình cảm chân thành, lòng biết ơn sâu sắc của ông Tú với vợ (Phân tích 6 câu thơ đầu như bài phân tích ở trên) 2.2. Ý kiến 2: “Thương vợ là bài thơ thể hiện sự trào phúng của tác giả” - Tú Xương nhập thân vào bà Tú để chửi, phê phán thói đời bạc bẽo, trách cứ sự vô tích sự của mình (Phân tích hai câu thơ cuối như bài phân tích ở trên). 3. Bình luận - Hai ý kiến tuy khác nhau, thậm chí trái ngược nhau nhưng đều là những nhận xét đúng đắn, bổ sung cho nhau để có đánh giá đầy đủ về ý nghĩa của bài thơ. Tuy nhiên trong bài thơ này yếu tố trữ tình là cái gốc. - Khẳng định hai nét đặc sắc trong thơ Tú Xương: trào phúng và trữ tình. Từ đó thấy được tài năng và phẩm chất của nhà thơ. III. KẾT BÀI - Đánh giá chung về nội dung và nghệ thuật bài thơ. - Khẳng định hai ý kiến đúng đắn vè nêu cảm nghĩ của bản thân CÂU CÁ MÙA THU - Nguyễn Khuyến- I. MỞ BÀI Nguyễn Khuyến là một trong những đại diện lớn nhất và cuối cùng của văn học trung đại Việt Nam ở giai đoạn cuối thế kỉ XIX. Sáng tác của Nguyễn Khuyến được viết bằng cả chữ Hán, chữ Nôm và ở nhiều thể loại khác nhau, nhưng ông được biết đến chủ 23

yếu qua thơ. Thơ Nguyễn Khuyến thể hiện tình yêu sâu sắc với quê hương, đất nước, gia đình, bạn bè. Ông thường mang vào trang thơ của mình những cảnh sắc đẹp đẽ, bình dị của làng quê yên bình. Thơ Nguyễn Khuyến nức danh nhất là chùm thơ thu gồm ba bài: Thu vịnh, Thu ẩm và Thu điếu. Ba bài thơ này bài nào cũng hay, cũng đẹp cho thấy một tình quê dào dạt. Riêng bài \"Thu điếu\", nhà thơ Xuân Diệu đã khẳng định là \"điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam\". Ao thu lạnh lẽo nước trong veo, Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Sóng biếc theo làn hơi gợn tí, Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo. Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt. Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được, Cá đâu đớp động dưới chân bèo. II. THÂN BÀI 1. Khái quát 1.1. Đề tài: Ở nhiều nơi trên thế giới vào mùa thu lá trổ màu vàng, đỏ, cam, nâu rất đẹp. Buổi sáng mùa thu thường có nhiều sương mù, cảnh vật mờ ảo. Buổi trưa có nắng vàng hanh và gió heo may rơi rụng lá vàng. Những buổi chiều thê lương, cây cối khẳng khiu bên hè phố vắng, mùi hương nào nồng nàn trong gió thoảng qua … thật thơ mộng, làm xao xuyến hồn ta. Nhưng cái đẹp, cái diễm ảo mùa thu không phải chỉ ở thiên nhiên, cảnh vật, ở lá vàng rực rỡ và rơi theo gió, mà còn ở tình thu. Lạc vào thế giới huyền diệu của cảnh đẹp mùa thu, người ta thường có những rung cảm, bâng khuâng, mơ hồ, một nỗi buồn man mác, gợi nhớ hay nuối tiếc về một cái gì đó xa xôi, đầy bí ẩn. Và đôi khi, thu gợi nỗi buồn của chia li, của những mối tình dang dở. Nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn đã đầy cảm xúc về mùa thu như thế: \"Nhìn những mùa thu đi Em nghe sầu lên trong nắng Và lá rụng ngoài song Nghe tên mình vào quên lãng Nghe tháng ngày chết trong thu vàng…”. Dường như không ai có thể vô tình trước vẻ đẹp của cảnh thu, tình thu, nhờ thế mà mùa thu là một đề tài rất phong phú trong thi ca, âm nhạc trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Nguyễn Khuyến, một nhà thơ trung đại cũng hoài cảm về mùa thu ở vùng đồng bằng chiêm trũng Bắc bộ quê hương mình mà sáng tác chùm thơ thu nổi tiếng, làm say đắm lòng biết bao nhiêu thế hệ. 1.2. Nhan đề: Nhan đề của bài thơ là “Câu cá mùa thu” nhưng nhân vật trữ tình lại chẳng mấy bận tâm đến chuyện câu cá, nói chuyện “câu cá” thực ra là để đón nhận bức tranh cảnh mùa thu và gửi gắm tâm sự. Khi Nguyễn Khuyến viết bài thơ này, gót giày quân xâm lược Pháp đã đặt lên nhiều nơi trên đất nước, xã hội thuộc địa đã được lập nên ở vài 24

đô thị. Nhưng làng quê ông vẫn giữ được vẻ đẹp thanh sơ, giản dị, duyên dáng như cô gái chân quê xứ Bắc với “cái áo tứ thân, cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen”. Nguyễn Khuyến đi câu cá là để tắm mình trong vẻ đẹp nguyên sơ ấy của mùa thu quê hương cho khuây khỏa nỗi thương đau trong lòng. 1.3. Điểm nhìn: Bức tranh toàn cảnh mùa thu trong bài thơ được cảm nhận qua một điểm nhìn cụ thể. Từ vị trí ngồi câu trên chiếc thuyền ở cái ao thu mà nhà thơ quan sát bức tranh cảnh vật mùa thu gần đến xa, từ thấp lên caọ, từ hẹp đến rộng... Dưới nhiều góc độ như vậy, cảnh sắc mùa thu được mở ra thật sinh động và gợi cảm. Từ ao thu đến trời thu, rồi đến đường làng ngõ xóm..., cảnh vật xiết bao quen thuộc, thấm đượm nỗi buồn man mác và mang đậm phong vị mùa thu của làng quê Bắc Bộ. 2. Hai câu đề: Không gian mùa thu không được mở ra khoáng đạt như trong bài “Thu vịnh” với “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao” mà cảnh sắc mùa thu đồng quê được thu lại trong một cái ao nhỏ: Ao thu lạnh lẽo nước trong veo, Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Trước mắt người đọc là cái ao vùng chiêm trũng đất Bắc. Người đi câu cá không ngồi trên bờ ao để buông câu mà ngồi trên chiếc thuyền câu để mở rộng góc nhìn không gian, cảnh vật mùa thu. Từ vị trí của người đi câu, có thể nhìn thấy rất rõ ao mùa thu nước “trong veo”, vì mùa thu gió chỉ hiu hiu nên sóng nhỏ và bùn lắng xuống, nước trong đến mức có thể nhìn được rong rêu tận đáy. Mùa thu còn là khi cái nắng chói chang của mùa hè đã lắng dịu, trong gió thu đã chớm mang một chút lạnh, chút rét mướt. Các thi sĩ là người nhạy cảm trước sự đổi thay của tạo vật nên dễ nắm lấy khoảnh khắc xao động của mùa. Xuân Diệu đã từng cảm nhận về cái chớm lạnh của mùa thu: Đã nghe rét mướt luồn trong gió Đã vắng người sang những chuyến đò. (Đây mùa thu tới) Nhà thơ Nguyễn Đình Thi sau này cũng nhận ra chút lạnh ấy trong buổi sáng mùa thu ở phố phường Hà Nội: Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội Những phố dài xao xác hơi may (Đất nước) Mùa thu trong thơ Nguyễn Khuyến cũng có chút lạnh như thế. Khí thu lành lạnh, nhìn xuống đáy ao nước trong vắt, trong đến mức người ta cứ muốn nhìn mãi xuống đáy rồi cảm thấy cả cái lạnh lẽo của nước ao thu. Trên mặt ao là một chiếc thuyền câu rất bé nhỏ \"bé tẻo teo\". Cái ao và chiếc thuyền câu trở thành trung tâm của bài thơ, cũng là hình ảnh bình dị, thân thuộc, đáng yêu của làng quê Việt Nam. Xuân Diệu cho biết ở vùng đồng chiêm trũng Bình Lục, Hà Nam quê hương của Nguyễn Khuyến có cơ man nào là ao, nhiều ao cho nên ao nhỏ, ao nhỏ thì thuyền câu cũng theo đó mà nhỏ theo. Và ở đây, Nguyễn Khuyến đã rất tài tình khi gieo vần “eo” và sử dụng các tính từ “trong veo”, “lạnh lẽo”, “bé 25

tẻo teo” để nhấn mạnh độ trong của làn nước ao, cái bé nhỏ của con thuyền, khiến không gian cảnh vật mùa thu trở nên lành lạnh và nhuốm một chút buồn heo hắt. 3. Hai câu thực Ngồi trên chiếc thuyền giữa ao thu nên vẻ đẹp của mùa dễ được thu vào trong tầm nhìn của thi sĩ. Ở hai câu thực cảnh sắc mùa thu hiện lên sống động hơn: Sóng biếc theo làn hơi gợn tí, Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo. Vẻ đẹp thanh sơ, dịu nhẹ của mùa thu đã được thể hiện thông qua những gam màu nhẹ nhàng với màu \"biếc\" của sóng hoà hợp với sắc \"vàng\" của lá vẽ nên bức tranh quê đơn sơ mà lộng lẫy. Nhà thơ Xuân Diệu đã nhận xét về cách phối hợp màu sắc trong bài thơ: “Cái thú vị của bài Thu Điếu ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi...”. Người ta vẫn thường nói mùa thu là mùa thay lá, mùa lá vàng và rụng xuống. “Lá vàng” thường gợi sự tàn phai, tiêu điều, vốn là biểu tượng cho mùa thu xứ Bắc. Bởi thế mà lá vàng đã từng bước vào rất nhiều trang thơ thu. Trong thơ về mùa thu, Lưu Trọng Lư có viết: Con nai vàng ngơ ngác Đạp trên lá vàng khô (Tiếng thu) Nhà thơ Bích Khê cũng gây ám ảnh với màu vàng ấy: Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông. (Tỳ bà) Tinh tế hơn nữa là thi sĩ còn cảm nhận được những chuyển động của vạn vật mùa thu, mặc dù sự lay động ấy chỉ nhẹ nhàng, khe khẽ. Hai từ “hơi gợn” và “khẽ” thể hiện sự chuyển động rất nhẹ nhàng của sóng và lá. Gió thổi nhẹ vừa đủ làm sóng lăn tăn, gờn gợn phối cảnh với hình ảnh chiếc lá rơi nghiêng, có tốc độ bay chậm chỉ xoay xoay, khẽ đưa trong gió tạo ra âm thanh rất nhỏ giữa không gian tĩnh lặng. Hai câu thơ của thần đồng thi ca Trần Đăng Khoa sau này cũng miêu tả một chiếc lá rơi như thế: “Ngoài thềm rơi chiếc lá đa Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng”. Đây chính là khoảnh khắc đầy chất thơ của tạo vật mà phải thật lắng nghe thì mới thấy và cũng chỉ có những tâm hồn thật nhạy cảm mới có thể nắm bắt được. Nhưng không chỉ cảm xúc mà ngòi bút Nguyễn Khuyến cũng rất tinh tế. Hai câu thực đối rất chỉnh “sóng biếc\" đối với “lá vàng”, đều là màu sắc đặc trưng của mùa thu. “Hơi gợn tí” đối với “khẽ đưa vèo”, vận động của chiều dọc tương xứng với vận động của chiều ngang thật tài tình khiến bức tranh thiên nhiên bỗng trở nên hài hòa, xứng hợp, xinh xắn đến lạ kì. Hơn nữa, có cả chữ “vèo” là một nhãn tự mà sau này thi sĩ Tản Đà vừa khâm phục, vừa tâm đắc. Ông thổ lộ một đời thơ mới có được một câu vừa ý: “Vèo trông lá rụng đầy sân” (Cảm thu, tiễn thu). 4. Hai câu luận 26

Đến hai câu luận, không gian đột ngột được mở rộng lên cao và hướng trước mắt. Trước hết là mở rộng lên cao với bầu trời thu “xanh ngắt” với tầng mây “lơ lửng”. Từ “xanh ngắt” gợi một bầu trời mùa thu trong xanh thật đẹp và cao vời vợi. Trong chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến, bầu trời vẫn luôn xanh ngắt như thế: \"Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao\" (Thu vịnh) \"Da Trời ai nhuộm mà xanh ngắt\" (Thụ ẩm) \"Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt\" (Thu điếu) Từ “lơ lửng” trong câu thơ lại gợi cho ta một cảm giác về một chuyển động mà ngỡ như là đứng yên. Gió thổi nhè nhẹ, nên những áng mây không trôi mà lơ lửng, bồng bềnh trên bầu trời. Cảnh vật sau đó được mở ra theo chiều rộng. Từ vị trí ngồi câu, nhà thơ quan sát thấy trước mặt là đường làng ngõ xóm quanh co, vắng vẻ và hai bên đường là những rặng tre, rặng trúc tỏa bóng mát rượi. Ở quê tác giả, trên đường làng người ta thường trồng tre nhưng bao giờ trong thơ Nguyễn Khuyến cũng nói đến trúc: “Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu” (Thu vịnh) “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo” (Thu điếu) “Dặm thế, ngõ đâu từng trúc ấy Thuyền ai khách đợi bến đâu đây?” (Nhớ núi Đọi) Có vẻ như Nguyễn Khuyến cảm loài cây có chí khí của người quân tử “Trúc dầu cháy đốt ngay vẫn thẳng” ấy. Những nét trúc thẳng đốì lập với những nét quanh co, ngoằn ngoèo của đường làng thật là gợi cảm. Trên con đường quanh co, hun hút lại không có một bóng người qua lại khiến cảnh vật mùa thu trở nên đẹp, buồn và tĩnh lặng. “Vắng teo” nghĩa là vô cùng vắng lặng không một tiếng động nhỏ nào, cũng gợi tả cả sự cô đơn, trống vắng. Trong bối cảnh ấy, người câu cá như đang lặng ngắm cảnh vật và mơ màng chìm trong một giấc mộng mùa thu. Tất cả cảnh vật từ mặt nước \"ao thu lạnh lẽo\" đến \"chiếc thuyền câu bé tẻo teo\", từ \"sóng biếc\" đến \"lá vàng\", từ \"tầng mây lơ lửng\" đến \"ngõ trúc quanh co\" hiện lên với đường nét, màu sắc, âm thanh, ... đều thoáng một chút buồn bâng khuâng, man mác, nhưng rất gần gũi và phảng phất cái hồn quê đất Bắc. 5. Hai câu kết Đến hai câu kết thì chủ thể trữ tình mới xuất hiện và xuất hiện trong tư thế của người ngồi câu. Đi câu là một cái thú thanh tao của các bậc trí giả. Có người đi câu chỉ để hưởng thú nhàn tản, hòa hợp với thiên nhiên, thư giãn tinh thần. Nhưng cũng có người lại mượn việc đi câu mà nghĩ đến chuyện năm châu bốn biển, nghĩ đến thế sự đảo điên. Lại có người như Khương Tử Nha, một bậc hiền nhân có tài, bất đắc chí đoán biết nhà Thương sắp mạt vận nên dùng lưỡi câu thẳng ngồi câu cá bên sông Vị chờ thời. Ngồi câu mà “Cá ăn đứt nhợ vểnh râu ngồi bờ”. 27

Chủ thể trữ tình trong bài thơ câu cá với tư thế ngồi bất động “tựa gối ôm cần”, co lại, thu nhỏ mình để tránh cái” lạnh lẽo” giữa ao thu. Tựa đầu vào gối để ngồi cho lâu, cho khỏi phải thay đổi tư thế mà làm mất đi cái tĩnh lặng trong cõi lòng. Nhà thơ Xuân Diệu cũng từng lo sợ những chuyển động nhỏ của mình sẽ làm “đứt dây tơ”như thế: “ Không gian như có dây tơ Bước đi sẽ dứt, động hờ sẽ tiêu” ( Chiều) Nhưng sự tĩnh lặng trong cõi lòng của Nguyễn Khuyến là gì thì phải đặt bài thơ vào hoàn cảnh sáng tác, người đọc mới có thể hiểu. Chế độ phong kiến Việt Nam cuối thế kỉ XIX đã phơi bày ra tất cả mặt tiêu cực của nó. Hệ tư tưởng Nho giáo mà nhà thơ từng tôn thờ đã trở nên lạc hậu, lỗi thời. Nguyễn Khuyến ý thức sâu sắc sự bất lực của bản thân, bởi vậy ông cáo quan về quê ở ẩn, giữ gìn tiết tháo nhân cách, quên đi việc đời. Nhưng muốn quên mà chẳng thể quên được. Ở chốn quê nhà, ông vẫn luôn nặng tình với đất nước, với quê hương, với nhân tình thế thái. Cũng giống như Nguyễn Trãi năm xưa về Côn Sơn ở ẩn, Nguyễn Khuyến nhàn thân nhưng không nhàn tâm. Người ngồi câu mà như hóa thạch giữa không gian, thời gian, đi câu mà cái chí lại không đặt ở việc câu cá nên thảng thốt khi tiếng cá “ đớp động dưới chân bèo”. Chữ “đâu” được dùng thật thần tình, nó như cái giật mình thảng thốt, lại như cái ngơ ngác kiếm tìm của người mất phương hướng. Ba phụ âm đầu hữu thanh trong ba từ “ đâu đớp động” làm rung động câu thơ, rung động cả tâm hồn người đang mải suy tư. Chỉ tiếng cá đớp mồi dưới chân bèo cũng đủ là thi sĩ giật mình, đó chính là một nét thi pháp quen thuộc của thi pháp trung đại lấy động tả tĩnh. Trong không gian tĩnh lặng, tiếng cá đớp động dưới chân bèo rất nhỏ cũng đủ khiến thi sĩ đang đắm chìm trong giấc mộng mùa thu chợt tỉnh giấc mà trở về thực tại. III. KẾT LUẬN \"Thu điếu\" là một bài thơ tả cảnh ngụ tình rất đặc sắc của Nguyễn Khuyến. Bài thơ được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, ngôn ngữ tinh tế, hình tượng và biểu cảm, nghệ thuật gieo vần rất độc đáo. Bức tranh mùa thu được miêu tả bằng những hòa sắc tinh tế, những đường nét gợi cảm và đầy nhạc điệu. Theo Xuân Diệu, cả bài thơ không lép chữ nào. Dưới ngòi bút tài tình của Nguyễn Khuyến, cảnh vật của làng quê Việt Nam thanh sơ, giản dị mà xinh đẹp, tuyệt vời biết bao. Cái tình của nhà thơ cũng theo kịp cái tài, là tình yêu đối với quê hương, với non sông đất nước làm xúc động hết thảy mỗi tâm hồn Việt Nam. Thơ là sự cách điệu tâm hồn. Mỗi thi sĩ làm thơ, trước hết là phải thổi được cái hồn mình vào đó, phải biết biến hóa những con chữ thô cứng ngập tràn thi vị và “nhảy múa” trong cảm xúc. “Đọc một câu thơ hay tức là ta gặp gỡ một tâm hồn con người” (A- tô-ni Phơ-răng). Qua “Thu điếu”, ta thấy được ở Nguyễn Khuyến một tâm hồn gắn bó với thiên nhiên, một tấm lòng yêu nước thuần hậu, thầm kín. Thơ Nguyễn Khuyến khiến chúng ta thêm yêu mùa thu của quê hương, xứ sở và thêm yêu đất nước mình. LUYỆN ĐỀ 28

Đề bài 1: “Thu điếu” là bức tranh tuyệt đẹp về mùa thu làng cảnh Việt Nam. Ý kiến khác lại khẳng định “Bài thơ chất chứa nỗi niềm tâm sự của Nguyễn Khuyến”. Bằng cảm nhận về tác phẩm “Thu điếu” (Câu cá mùa thu), anh/chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về các ý kiến trên. I. MỞ BÀI - Vài nét về tác giả, tác phẩm. - Dẫn dắt vào hai nhận định. II. THÂN BÀI 1. Giải thích - Ý kiến 1: Khẳng định bài thơ là những cảm nhận của Nguyễn Khuyến về mùa thu ở làng quê Việt Nam. Trong bài thơ, vẽ lên bức tranh cảnh vật mùa thu thanh sơ, giản dị mà xinh đẹp, đáng yêu. - Ý kiến 2: Khẳng định bài thơ thể hiện nỗi niềm tâm sự của nhà thơ. Nỗi niềm ấy chính là tâm sự thầm kín về thời thế, là tấm lòng của tác giả đối với quê hương, xứ sở. => Hai ý kiến là hai nhìn nhận khác nhau về ý nghĩa của bài thơ. 2. Phân tích, chứng minh 2.1. Ý kiến 1: “Thu điếu” là bức tranh tuyệt đẹp về mùa thu làng cảnh Việt Nam. (Phân tích 6 câu thơ đầu) 2.2. Ý kiến 2: “Bài thơ chất chứa nỗi niềm tâm sự của Nguyễn Khuyến”. Nỗi niềm thầm sự ấy là: - Tình yêu quê hương đất nước: Thấm đượm trong từng câu từng chữ của bài thơ là tình yêu quê hương, đất nước. Thể hiện một tâm hồn gắn bó với thiên nhiên, một tấm lòng yêu nước thiết tha, thầm kín. - Tâm sự trước thời thế: Phân tích hai câu thơ sau (TK bài đã phân tich) 3. Đánh giá hai nhận định: - Hai nhận định đều đúng những chưa đủ. Hai nhận định cần phải bổ sung cho nhau mới có thể thể hiện cái nhìn sâu sắc và toàn diện về bài thơ. - Đánh giá về nội dung và nghệ thuật. III. KẾT LUẬN: Suy nghĩ chung của bản thân về vấn đề đã nêu. BÀI CA NGẤT NGƯỞNG - Nguyễn Công Trứ- I. MỞ BÀI \"Đã mang tiếng ở trong trời đất, Phải có danh gì với núi sông\". Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) là nhà thơ lớn của dân tộc ta trong nửa đầu thế kỉ XIX. Ông là người có tài văn chương, kinh bang tế thế, được lưu danh sử sách. Cuộc đời 29

ông, vinh nhục đều đã từng, thăng trầm đều đã trải nhưng lúc nào ông cũng hăm hở chí nam nhi, nợ tang bồng. Sự nghiệp văn chương rạng rỡ của Nguyễn Công Trứ cho thấy một con người hơn đời hơn người, một cá tính sáng tạo rất độc đáo. Ông có công lớn trong việc nâng thể hát nói thành thể thi ca có khả năng biểu hiện những tình cảm phong phú và tinh tế. \"Bài ca ngất ngưởng\" là một trong những kiệt tác trong thể loại hát nói và thơ ca dân tộc. II. THÂN BÀI 1. Khái quát 1.1. Hoàn cảnh ra đời: Nguyễn Công Trứ về hưu năm 1848 sau gần 30 năm làm quan với triều Nguyễn. Bài thơ \"Bài ca ngất ngưởng\" được ông viết sau khi về trí sĩ tại quê nhà. 1.2.Thể loại: Hát nói là một điệu hát ca trù (tức hát ả đào hay hát cô đầu) đặc biệt thịnh hành vào thế kỷ XIX, cũng là một thể thơ dân tộc, có bố cục rõ ràng, chất thơ và chất nhạc kết hợp rất hài hòa, hấp dẫn. Thơ hát nói là “thể thơ của con người cá nhân và tự do”. Số tiếng không cố định trong câu thơ và số câu không hạn định chặt chẽ trong bài thơ cho phép tác giả phô diễn một cách linh hoạt nguồn cảm hứng dồi dào của mình. Nếu như thể “ngâm khúc thể hiện một con người cô đơn, đau xót đi tìm những giá trị của mình bị mất mát” thì hát nói “một thể thông dụng trong ca trù thể hiện một con người tài tử thoát vòng cương tỏa, thoát sáo, thoát tục lụy, danh lợi, nắm lấy phút vui hiện tại”. 1.3. Nhan đề: Nhan đề đã khái quát được ý nghĩa của bài thơ. Trong đó, từ bài ca rất quen thuộc trong các sáng tác cùng thời như “Bài ca ngắn đi trên bãi cát”, “bài ca cái roi song” của Cao Bá Quát…Vậy nên ý nghĩa nhan đề hầu như nằm cả ở từ “ngất ngưởng”. Theo cách hiểu thông dụng,“ngất ngưởng\" nghĩa là không vững vàng, cheo leo, dễ đổ, dễ rơi (Từ điển tiếng Việt). Tuy nhiên, ngất ngưởng ở đây nên được hiểu theo nghĩa chỉ một lối sống, một phong cách sống, một quan điểm sống vượt lên trên mọi phép tắc, chuẩn mực, vượt lên trên thế tục của một người đi giữa cuộc đời mà không thấy ai, đi giữa mọi người mà chỉ thấy có một mình mình. Theo Nguyễn Đình Chú đó là “nhằm để diễn tả một tư thế, một thái độ, một tinh thần, một con người vươn lên trên thế tục, sống giữa mọi người mà dường như không nhìn thấy ai, đi giữa cuộc đời mà dường như chỉ biết có mình, một con người khác đời và bất chấp mọi người”. Nhưng đó không phải là sự cô đơn, đối lập với xung quanh mà xuất phát từ sự ý thức cao độ về bản thân, thể hiện cái tôi cá nhân đậm nét. Bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” được coi như một lời tự thuật bộc lộ rõ tâm hồn, tư tưởng, nhân cách và lối sống của Nguyễn Công Trứ. 2. Sáu câu thơ đầu: Lối sống ngất ngưởng khi còn làm quan - Mở đầu bài thơ là một câu thơ bằng chữ Hán khẳng định quan niệm sống của một đấng nam nhi:“Vũ trụ nội mạc phi phận sự” nghĩa là mọi việc trong khoảng trời đất này đều là phận sự của ta. Câu thơ đã bộc lộ một thái độ đầy tự tin, kiêu hãnh, một ý thức trách nhiệm lớn lao của kẻ làm trai với cuộc đời, khẳng định bản lĩnh, tài năng và tâm thế của một nhà nho chân chính. Ý thơ này cũng được Nguyễn Công Trứ thể hiện nhiều lần trong nhiều bài thơ khác nhau như: \"Vũ trụ giai ngô phận sự\" (Những việc trong vũ trụ đều thuộc 30

phận sự của ta) trong bài thơ Nợ tang bồng và \"Vũ trụ chức phận nội\" (Việc trong vũ trụ là chức phận của ta) trong bài thơ Gánh trung hiếu. Qua những câu thơ này, có thể thấy Nguyễn Công Trứ chịu ảnh hưởng sâu sắc của chí làm trai trong Nho giáo, đã kế thừa và phát huy tinh thần của các bậc tiền nhân như Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm…Bởi thế, ông còn có những câu thơ nổi tiếng như: Chí làm trai nam bắc tây đông, Cho phí sức vẫy vùng trong bốn bể. - Có cái tâm thế ấy, chính vì “Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”. Hi Văn là tên hiệu của Nguyễn Công Trứ và ở đây ông tự gọi mình là ông Hi Văn. Tự gọi tên mình trong tác phẩm là điều rất hiếm có trong văn học trung đại. Giữa thời đại mà con người cá nhân bị lu mờ, triệt tiêu thì những người dám xưng tên tuổi của mình trở thành hiện tượng, giống như trường hợp của Hồ Xuân Hương trong bài thơ Mời trầu: Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi Này của Xuân Hương đã quệt rồi Tác giả Truyện Kiều cũng đã từng xưng tên hiệu trong một câu thơ ai oán của Độc Tiểu Thanh kí: Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa Thiên hạ ai người khóc Tố Như. Nhưng quả thật chưa ai xưng danh rồi sau đó lại dám khẳng định luôn mình là người có tài năng như Nguyễn Công Trứ. Có điều, tác giả nói về cái tài của mình tựa như nói về người khác, nói một cách vô tư, hồn nhiên. Ông tự nhận mình là người có tài năng xuất chúng, vì chữ \"tài bộ\" có nghĩa là tài năng lớn, nhiều tài năng. Chữ \"vào lồng\" trong câu thơ có thể hiểu \"Vào lồng là vào khuôn phép vua chúa cái nơi chật hẹp, tù túng trái với cái tài đội trời đạp đất của ông\" (Lê Trí Viễn), đã “vào lồng” tức ông coi việc làm quan trong triều là bị giam hãm trong lồng gò bó, mất tự do. Tuy nhiên, người ta thiên về cách hiểu: \"lồng” là trời đất, vũ trụ\", trong quan niệm của người xưa thì đất có hình vuông và trời có hình tròn. Nguyễn Công Trứ vào lồng của trời đất, vũ trụ thì mới có dịp thi thố, khẳng định mình với đời. Như ông từng viết: Đã mang tiếng ở trong trời đất Phải có danh gì với núi sông Dù vậy, đều có thể khẳng định trong câu thơ tác giả đã rất tự tin khi thể hiện cá tính, tài năng, con người cá nhân của mình. Nhà thơ hẳn phải là con người phóng khoáng, có chí tung hoành, không hám danh hám lợi nên mới tự tin bộc lộ bản thân như thế. - Sau khi đã xưng danh, tự khẳng tài năng, thể hiện chí nam nhi mang tầm vóc vũ trụ, tác giả đã kể ra những học vị, chức vụ mà mình đã đạt được và từng đảm nhiệm là thủ khoa, tham tán, tổng đốc Đông, khi bình Tây cờ đại tướng, khi về làm quan đầu tỉnh Thừa thiên.... Tiểu sử Nguyễn Công Trứ quả đã có ghi: Vào năm 1819, ông đã đỗ thủ khoa kì thi Hương; 7 năm sau, Nguyễn Công Trứ làm tham tán công vụ, đến năm 1831 ông làm Tổng 31

đốc tỉnh Đông (Hải An). Lúc 62 tuổi, ông được cử đi đánh thành Trấn Tây…Tuy là một người xuất thân quan văn, nhưng Nguyễn Công Trứ đã từng chỉ huy đánh tiễu phỉ ở biên giới phía Bắc, đánh giặc ở biên giới Tây Nam... Tác giả tự hào, khẳng định mình là một con người, một kẻ sĩ có tài kinh bang tế thế. Thời loạn thì xông pha trận mạc, giữ trọng trách trước ba quân \"bình Tây cờ Đại tướng\". Thời bình thì giúp nước giúp vua, làm \"Phủ doãn Thừa Thiên\". Ông Hi Văn đúng là một người có thực tài và thực danh. Ngay từ lúc đứng trên đỉnh cao danh vọng với văn võ toàn tài, có tài \"thao lược\", ông Hi Văn đã trở thành \"tay ngất ngưởng\", thành một con người cao hơn đời và hơn thiên hạ. Hai câu thơ với cách ngắt nhịp (3/3/4 và 3/3/2), ba lần điệp lại chữ \"khi\" đã tạo nên một giọng điệu hào hùng, thể hiện một cốt cách phi thường, một chí khí mạnh mẽ: Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông, Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng. Nhìn chung, sáu câu thơ đầu cho ta thấy lối sống ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ khi còn đương chức và ngất ngưởng cao hơn đời là bởi ý thức sâu sắc về tài năng và danh vị. 3. Mười câu tiếp theo: Lối sống ngất ngưởng lúc về hưu Sau 30 năm làm quan, Nguyễn Công Trứ về chí sĩ ở quê nhà khi ông vừa tròn 70 tuổi. Thoát khỏi lồng, không còn gì phải vướng bận, trói buộc, ông có thể vui chơi, đàn hát, uống rượu và một cuộc sống tự do, tự tại hơn bao giờ hết, tận hưởng trọn vẹn cuộc sống theo cách \"ngất ngưởng\" nhất. 3.1. Khác người khác đời: cưỡi bò Trở lại đời thường, cụ thượng Trứ đã hành động một cách ngược đời, hình như để giễu đời với tất cả sự ngất ngưởng. Ông đã làm một việc rất khác đời khác người: \"Đô môn giải tổ chi niên, Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng\". Vị đại quan thuở nào \"ngựa ngựa xe xe\" sang trọng nay ngất ngưởng cưỡi bò vàng, đã thế lại là bò cái và ngược đời hơn nữa ông còn đeo đạc ngựa làm trang sức cho bò. Ông lại lấy mo cau che ở phần trên của đuôi bò với tuyên bố đầy ngạo ngược là để che miệng thế gian và đề bốn câu thơ lên mo cau: \"Xuống ngựa, lên xe, nọ tưởng nhàn. Lợm mùi giáng chức với thăng quan. Điền viên dạo chiếc xe bò cái, Sẵn tấm mo che miệng thế gian\". 3.2. Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi, đi chùa mang theo nàng hầu khiến bụt phải nực cười ông ngất ngưởng - Nguyễn Công Trứ về hưu là về quê ở vùng Đại Nại núi xanh mây trắng và tìm đến chốn non Tiên, cảnh Phật. Những đám mây trắng phau phau trên đỉnh núi rất thanh, rất cao, nhẹ tênh và gợi sự mong manh, vô thường. Áng phù vân kia dễ hóa thành hư vô, có thể hợp tan, tan hợp không thể biết trước như người ta từng nói “Bạch vân thương cẩu” (Mây trắng hóa chó xanh). Có lẽ trước sự đời vô thường ấy mà tay kiếm cung bỗng nên dạng từ bi. Xưa kia ông là một vị đại thần, từng là một danh tướng xông pha trận mạc, một “Tay kiếm cung” thế mà nay sống cuộc đời hiền lành, bình dị \"nên dạng từ bi\" hướng Phật. 32

\"Kìa núi nọ phau phau mây trắng, Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi. Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì. Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng...\" Nhưng cái kiểu từ bi của Nguyễn Công Trứ cũng ngược đời. Đi vãn cảnh chùa, đi thăm thú những danh lam thắng cảnh của quê nhà mà ông lại mang theo \"một đôi dì\" là những nàng hầu xinh đẹp với \"gót tiên đủng đỉnh\"... Nguyễn Công Trứ là một nhà nho, mà hệ tư tưởng Nho giáo đòi hỏi ở mỗi con người trách nhiệm đối với cộng đồng, nhưng lại phủ nhận con người cá nhân, áp đặt lên con người một cuộc sống khắc nghiệt, phi nhân tính. Còn Phật và nhà chùa thì hướng con người đến con đường thoát tục và giải thích việc đáp ứng những nhu cầu cuộc sống con người là nguyên nhân của sự đau khổ. Về hưu muốn thoát khỏi vòng cương tỏa, thoát khỏi nhiều mối ràng buộc của Nho giáo và cũng không phải là người của cõi Phật, chỉ muốn vươn đến một cuộc sống đích thực của con người nên Nguyễn Công Trứ đến chốn non Tiên, cảnh Phật cố ý chỉ nhập vai từ bi một cách khôi hài, nửa vời, không triệt để. Tuy nhiên, cụ thượng Trứ mang theo nàng hầu lên chùa cũng không phải để hưởng lạc vì ông đã khẳng định điều đó ở câu thơ “Không Phật, không Tiên, không vướng tục”. Ông không phải là Phật, không phải là Tiên nhưng cũng không vướng vào sự phàm tục, mang theo nàng hầu xinh đẹp lên chùa chỉ là một để thể hiện lối sống phóng túng, khác người, muốn hướng tới sự thảnh thơi, vui vẻ. Chính vì thế trước việc làm ngược đời của ông ngất ngưởng, Bụt cũng phải bật cười, một cái cười chấp nhận, khoan dung. 3.3. Coi thường sự được- mất, khen - chê Lối sống ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ còn được thể hiện ở quan niệm về sự được mất, khen chê. Với ông, chuyện được mất, khen chê vốn là lẽ đời, giống như tích \"Tái ông thất mã\" mà thôi. Ở đời, đôi khi được mất là như nhau, trong cái rủi nhiều khi có cái may mà nhiều khi trong may mắn lại có mầm tai họa. Vậy nên được mất, khen chê cũng chẳng đáng bận tâm làm gì. Thực tế, trong ngót ba mươi năm ở chốn quan trường, có lúc Nguyễn Công Trứ làm đại tướng, có khi bị giáng xuống chỉ còn là một anh lính thú ở chốn biên ải. Tuy thế, lúc nào ông cũng bình thản như ngọn gió xuân, mặc cho thiên hạ khen hay chê: Được mất dương dương người tái thượng, Khen chê phơi phới ngọn đông phong. Ông đã từng nói: \"Lúc làm Đại tướng, ta chẳng lấy thế làm vinh, lúc làm lính thú, ta cũng chẳng lấy thế làm nhục\". Chuyện được hay mất, khen hay chê của thiên hạ ông bỏ ngoài tai, như ngọn gió đông (gió mùa xuân) phơi phới thổi qua. Nguyễn Công Trứ phải có bản lĩnh, có sự tự tin về bản thân mình mới có thái độ phủ định, vượt lên trên mọi thế tục để sống lạc quan, bình thản, phóng túng, thảnh thơi và đầy vui thú như thế. Và nguyên nhân cốt lõi của thái độ sống này, của cái ngất ngưởng này chính là sự ý thức đầy đủ về cái tôi cá nhân, cá thể của mình, cũng như ý thức về tài năng và phẩm hạnh của mình. 3.4. Khẳng định lối sống ngất ngưởng mà trong sạch, thanh cao 33

Tuy ngất ngưởng mà Nguyễn Công Trứ vẫn giữ được sự trong sạch, thanh cao. Điều đó được thể hiện trong hai câu thơ tuyệt hay: Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng, Không Phật, không Tiên, không vướng tục. Cách ngắt nhịp 2/2/2/2; 2/2/3, nghệ thuật hòa thanh bằng, trắc, lối nhấn, lối diễn tả trùng điệp “Khi... không…” với bốn từ “khi”, ba từ “không”đã tạo cho câu thơ sự phong phú về nhạc điệu, biểu lộ một phong thái ung dung, yêu đời, ham sống, thanh cao chẳng vướng chút bụi trần. Ông cũng tùng cắc, hát ả đào với cô đầu nhưng cũng không ham hố lạc thú trần ai. Chất nhạc, chất thơ hoà quyện càng cho thấy Nguyễn Công Trứ đang tiêu dao tận hưởng những ngày tháng của một kẻ sĩ phong lưu, tài tử: “Ngoài vòng cương tỏa chân cao thấp Trong thú yên hà mặt tỉnh say” 4. Ba câu cuối: Khẳng định lối sống và nghĩa vua tôi trước sau như một Cuối cùng nhà thơ đúc kết lại toàn bộ cuộc đời mình bằng ba câu thơ với sự khẳng định chắc nịch về tài năng và phẩm chất của bản thân: Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung. Trong triều ai ngất ngưởng như ông. Nguyễn Công Trứ tự xếp mình ngang hàng với các vị danh tướng lỗi lạc của đời Hán, đời Tống bên Trung Hoa như Trái Tuân, Nhạc Phi, Hàn Kì, Phú Bật. Ông tự định vị, tự ý thức được tài đức của mình, rong chơi cho thỏa chí nhưng vẫn vẹn đạo vua tôi, đúng như nhận xét của Trần Đình Sử về ông “Nhập thế tục mà không vướng tục, rong chơi mà vẫn trọn nghĩa vua tôi”. Dù sống ngất ngưởng với một bản lĩnh hơn người, bất chấp tất cả, khinh thị và không để lụy thói thường nhưng trên hết cả Nguyễn Công Trứ vẫn là một nhà Nho, lí tưởng sống mà ông suốt đời theo đuổi vẫn là lòng trung quân và ý thức giúp nước giúp đời. Nhìn lại cuộc đời mình từ sơ đến chung, ông tự hào khẳng định mình là một công thần thuỷ chung, trọn vẹn chữ trung hiếu, nghĩa vua tôi. Ông cũng viết như thế trong bài \"Nợ tang bồng\": \"Chí tang bồng hẹn với giang san, Đường trung hiếu, chữ quân thân là gánh vác\". Kết thúc bài thơ, Nguyễn Công Trứ nhấn mạnh thêm một lần nữa cảm hứng ngất ngưởng bằng câu: \"Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”. Câu thơ là sự phô diễn cực độ cái bản ngã phi thường, tự tin xưng mình bằng một tiếng “ông”, khẳng định trên đời này không ai độc đáo, ngạo nghễ, ngất ngưởng bằng mình. Tóm lại, với Nguyễn Công Trứ phải thực tài, thực danh, tài tử phong lưu mà không ô trọc, không vướng tục, cũng không thoát li, phải vẹn đạo vua tôi mới có thể trở thành \"tay ngất ngưởng\", \"ông ngất ngưởng\". Ngất ngưởng mà vẫn biết điểm dừng, giới hạn mới thật đáng trọng. III. KẾT LUẬN Trong nền thi ca cổ điển Việt Nam, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Dương Khuê, Nguyễn Khuyến, Tản Đà là những nhà thơ để lại một số bài hát nói tuyệt tác.Thơ hát nói 34

của Nguyễn Công Trứ đạt đến đỉnh cao nghệ thuật. Các câu thơ chữ Hán đem lại sự bề thế, uyên bác. Chất thơ, chất nhạc phối hợp hài hòa, lôi cuốn, hấp dẫn. Giọng điệu mạnh mẽ, hào hùng, chất tài tử hòa nhập với chí nam nhi, nợ tang bồng tạo nên phong cách nghệ thuật, cốt cách, bản sắc riêng của Nguyễn Công Trứ. Ai đó đã từng nói “Văn là người”. Điều đó rất đúng bởi nhà thơ, nhà văn với con người trong văn chương, con người ngoài đời thực thường có sự thống nhất. Qua bài thơ ta thấy con người của Nguyễn Công Trứ, thấy được chân dung tự họa về chính ông. Đặt trong chế độ phong kiến, Bài ca ngất ngưởng có ý nghĩa báo hiệu sự thức tỉnh của ý thức cá nhân, của cái cá thể, cá tính và ghi nhận một bước tiến đáng kể trong lịch sử dân tộc theo hướng dân chủ hóa. Ngày nay, bài thơ vẫn còn có ý nghĩa trong việc khích lệ chúng ta không chấp nhận một cuộc sống tẻ nhạt, vô nghĩa mà phải sống mạnh mẽ, sống có ích để cuộc đời mình ngày một tươi đẹp hơn. LUYỆN ĐỀ Đề bài 1: Phân tích cái tôi ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ qua bài thơ Bài ca ngất ngưởng. I. MỞ BÀI - Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Công Trứ (đặc điểm sáng tác, các sáng tác chính,...). - Giới thiệu khái quát về bài thơ Bài ca ngất ngưởng (xuất xứ, hoàn cảnh ra đời, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật,...) - Giới thiệu về cái tôi ngất ngưởng trong bài thơ. II. THÂN BÀI 35

1. Khái niệm cái tôi ngất ngưởng - Cái tôi: là cái cá nhân, cá thể vốn bị triệt tiêu ở thời phong kiến. Tuy nhiên, ở các tác giả lớn, những nhà thơ nhà văn tài năng thực sự họ không sợ hãi mà dám bày tỏ cá tính của mình. Nguyễn Công Trứ là một trường hợp như thế. - Ngất ngưởng: Tk mục 1.3 của bài phân tích 2. Cái tôi ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ thể hiện ở cách ông tự khoe tài, khoe danh vị của mình - Ngất ngưởng trước hết thể hiện ở quan niệm sống của một đấng nam nhi:“Vũ trụ nội mạc phi phận sự” bộc lộ một thái độ đầy tự tin, kiêu hãnh, một ý thức trách nhiệm lớn lao của kẻ làm trai với cuộc đời, khẳng định bản lĩnh, tài năng và tâm thế của một nhà nho chân chính. - Nguyễn Công Trứ đã khoe hết, phô diễn hết những cái danh vị của bản thân mình, khoe hết cả cái tài văn võ song toàn của bản thân với một thái độ đầy tự hào của một con người ý thức rõ tài năng, danh vị của mình. Những cái tài mà ông khoe ra với mọi người mang một nội hàm ý nghĩa khá rộng, xét đến cùng nó gắn với chuyện kinh bang tế thế: \"Hi Văn tài bộ\" rồi \"Thủ khoa\", \"Tham tán\", \"Tổng Đốc đông\",... → Việc ông thị tài khoe tài không chỉ là cách ông thể hiện cái ngông, cái ngất ngưởng của mình mà hơn thế nữa đấy còn là cách thị tài, khoe tài của một con người tự ý thức một cách rõ nét về tài năng và những cống hiến, nỗ lực của bản thân mình. 3. Cái tôi ngất ngưởng thể hiện qua phong cách sống khác đời, khác người - Khi về hưu, ông có dịp bộc lộ cái tôi khác người qua việc cưỡi bò, đeo đạc ngựa cho bò, đeo mo cau vào phần trên đuôi bò nói là để che miệng thế gian. - Nguyễn Công Trứ lại lựa chọn sống cuộc đời bình dị, thậm chí là \"nên dạng từ bi\". Dù đi vãn cảnh chùa, đi thăm thú những danh lam thắng cảnh mà ông vẫn đã mang theo \"một đôi dì\" - những nàng hầu xinh đẹp với \"gót tiên đủng đỉnh\" - một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, một việc làm khác người khiến đến ngay cả ông bụt cũng phải \"nực cười ông ngất ngưởng\". 4. Cái tôi ngất ngưởng thể hiện qua việc không quan tâm tới việc được mất, khen chê Dẫu ông có một phong cách sống, một lối sống khác người, khác đời nhưng ông chưa một lần quan tâm, để ý tới việc người đời sẽ khen chê mình như thế nào và mình có thể dành được hay mất đi những gì. 5. Ngất ngưởng mà vẫn trung hiếu, trọn đạo vua tôi Dù sống ngất ngưởng với một bản lĩnh hơn người, bất chấp tất cả, khinh thị và không để lụy thói thường nhưng trên hết cả Nguyễn Công Trứ vẫn là một nhà Nho, lí tưởng sống mà ông suốt đời theo đuổi vẫn là lòng trung quân và ý thức giúp nước giúp đời. Nhìn lại cuộc đời mình từ sơ đến chung, ông tự hào khẳng định mình là một công thần thuỷ chung, trọn vẹn chữ trung hiếu, nghĩa vua tôi. Vì thế mà ông khẳng định: Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú, Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung. III. KẾT BÀI - Khái quát nội dung, nghệ thuật và về cái tôi ngất ngưởng trong bài thơ. 36

- Nêu cảm nghĩ của bản thân. Đề bài 2: Phân tích bức chân dung tự họa của Nguyễn Công Trứ qua bài thơ “Bài ca ngất ngưởng”. I. MỞ BÀI - Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Công Trứ - Giới thiệu khái quát về bài thơ - Bài thơ là bức chân dung tự họa của Nguyễn Công Trứ. II. THÂN BÀI 1. Khái niệm chân dung tự họa - Chân dung: thể hiện đúng diện mạo, thần sắc, hình dáng một người nào đó. Trong hội họa, nhiếp ảnh thì đó là một bức vẽ hoặc bức ảnh tái hiện đúng vẻ ngoài, hình dáng, thần sắc của một người cụ thể. Trong văn học, nhiều tác phẩm có thể tái hiện cả bức chân dung tinh thần của con người. - tự họa: tự vẽ, tự thể hiện => Trong bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” Nguyễn Công Trứ đã tự vẽ, tự thể hiện được đúng diện mạo tinh thần của chính mình. 2. Bức chân dung tinh thần tự họa của Nguyễn Công Trứ thể hiện trong bài thơ 2.1. Là người có phong cách, lối sống ngất ngưởng: Tk mục 1.3.trong bài phân tích 2.2. Là con người có chí khí, chí nam nhi - Thể hiện ở quan niệm sống của một đấng nam nhi:“Vũ trụ nội mạc phi phận sự” bộc lộ một thái độ đầy tự tin, kiêu hãnh, một ý thức trách nhiệm lớn lao của kẻ làm trai với cuộc đời, khẳng định bản lĩnh, tài năng và tâm thế của một nhà nho chân chính. 2.3. Con người có tài năng, sự nghiệp - Nguyễn Công Trứ đã khoe hết, phô diễn hết những cái danh vị của bản thân mình, khoe hết cả cái tài văn võ song toàn của bản thân với một thái độ đầy tự hào của một con người ý thức rõ tài năng, danh vị của mình. Những cái tài mà ông khoe ra với mọi người mang một nội hàm ý nghĩa khá rộng, xét đến cùng nó gắn với chuyện kinh bang tế thế: \"Hi Văn tài bộ\" rồi \"Thủ khoa\", \"Tham tán\", \"Tổng Đốc đông\",... → Việc ông thị tài khoe tài không chỉ là cách ông thể hiện cái ngông, cái ngất ngưởng của mình mà hơn thế nữa đấy còn là cách thị tài, khoe tài của một con người tự ý thức một cách rõ nét về tài năng và những cống hiến, nỗ lực của bản thân mình. 2.4. Ngất ngưởng, khác đời, hơn người nhưng có nhân cách, phẩm giá * Khác người và hơn người: - Khi về hưu, ông có dịp bộc lộ cái tôi khác người qua việc cưỡi bò, đeo đạc ngựa cho bò, đeo mo cau vào phần trên đuôi bò nói là để che miệng thế gian. - Nguyễn Công Trứ lựa chọn sống cuộc đời bình dị, thậm chí là \"nên dạng từ bi\". Dù đi vãn cảnh chùa, đi thăm thú những danh lam thắng cảnh mà ông vẫn đã mang theo \"một đôi dì\" - những nàng hầu xinh đẹp với \"gót tiên đủng đỉnh\" - một cảnh tượng xưa nay chưa 37

từng có, một việc làm khác người khiến đến ngay cả ông bụt cũng phải \"nực cười ông ngất ngưởng\". - Ông không quan tâm tới việc được mất, khen chê. Dẫu ông có một phong cách sống, một lối sống khác người, khác đời nhưng ông chưa một lần quan tâm, để ý tới việc người đời sẽ khen chê mình như thế nào và mình có thể dành được hay mất đi những gì. * Ngất ngưởng mà vẫn trong sạch, thanh cao, trọn đạo vua tôi: - Ngất ngưởng mà trong sạch, thanh cao: Điều đó được thể hiện ở việc ông đi chùa mang theo nàng hầu xinh đẹp nhưng không phải để hưởng lạc mà để thể hiện lối sống phóng túng, khác người, muốn hướng tới sự thảnh thơi, vui vẻ, cũng tùng cắc, hát ả đào với cô đầu nhưng cũng không ham hố lạc thú trần ai. - Ngất ngưởng mà vẫn trung hiếu, trọn đạo vua tôi: Dù sống ngất ngưởng với một bản lĩnh hơn người, bất chấp tất cả, khinh thị và không để lụy thói thường nhưng trên hết cả Nguyễn Công Trứ vẫn là một nhà Nho, lí tưởng sống mà ông suốt đời theo đuổi vẫn là lòng trung quân và ý thức giúp nước giúp đời. Nhìn lại cuộc đời mình từ sơ đến chung, ông tự hào khẳng định mình là một công thần thuỷ chung, trọn vẹn chữ trung hiếu, nghĩa vua tôi. III. KẾT BÀI - Khái quát nội dung, nghệ thuật và khẳng định chân dung tự họa về Nguyễn Công Trứ: nhà nho tài tử, nhà nho chân chính. Trong đó, nhà nho tài tử là nhà nho có chất nghệ sĩ, thiên trọng về về sự vui sống cầu kỳ, hành lạc. Họ sống cho họ, sống vì nghệ thuật, sống vì cái đẹp. Cái ý vị của cuộc sống theo quan niệm của họ là hưởng thụ, thể hiện ở việc uống rượu, làm thơ, gẩy đàn, đánh cờ, ở giăng gió, sông núi… Còn nhà nho chân chính là nhà nho dấn thân vào học hành thi cử để hành đạo, kinh bang tế thế. Ý nghĩa cuộc đời họ là phụng sự, nghĩa là phải trung hiếu, giúp nước, giúp đời. Ở Nguyễn Công Trứ ta thấy có cả hai kiểu nhà nho này. - Nêu cảm nghĩ của bản thân. Đề bài 2: Nhân cách nhà nho chân chính trong “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ I. MỞ BÀI - Giới thiệu những nét tiêu biểu về Nguyễn Công Trứ - Giới thiệu vấn đề nghị luận: Bài ca ngất ngưởng là một trong số những bài hát nói tiêu biểu thể hiện tài năng, chí khí và ý thức cá nhân của Nguyễn Công Trứ - đó chính là nhân cách nhà nho chân chính II. THÂN BÀI 1. Giải thích - Nhân cách: phẩm cách, phẩm đức, phẩm hạnh con người - Nhà nho chân chính: 38

+ Nhà nho sống với những nguyên tắc, chuẩn mực của Nho giáo. + Là người dám thể hiện bản lĩnh, đem tài năng cống hiến chốn quan trường, dấn thân vào học hành thi cử để hành đạo, kinh bang tế thế. Ý nghĩa cuộc đời họ là phụng sự, nghĩa là phải trung hiếu, giúp nước, giúp đời. => Trong bài thơ, Nguyễn Công Trứ đã thể hiện mình là người có nhân cách nhà nho chân chính. 2. Phân tích, chứng minh 2.1. Tài năng, bản lĩnh và thái độ phụng sự, hành đạo để giúp nước giúp đời + “ Vũ trụ nội mạc phi phận sự”: thái độ tự tin khẳng định mọi việc trong trời đất đều là phận sự của tác giả ⇒ Tuyên ngôn về chí làm trai của nhà thơ. + “Ông Hi Văn…vào lồng”: Coi nhập thế là việc làm trói buộc nhưng đó cũng là điều kiện để bộc lộ tài năng của nhà nho chân chính - Tác giả điểm lại việc mình đã làm ở chốn quan trường và tài năng của mình ⇒ Những việc làm mà nhà nho chân chính nên làm, cần làm + Tài năng: Giỏi văn chương (khi thủ khoa), Tài dùng binh (thao lược) ⇒ Tài năng lỗi lạc xuất chúng + Khoe danh vị, xã hội hơn người: Tham tán, Tổng đốc, Đại tướng (bình định Trấn Tây), Phủ doãn Thừa Thiên => Khẳng định tài năng và lí tưởng phóng khoáng của một nhà nho với tài năng xuất chúng 2.2. Nhà nho chân chính còn là người có phong cách lối sống tự nhiên, ung dung tự tại - Nhà nho chân chính theo Nguyễn Công Trứ có cách sống theo ý chí và sở thích cá nhân + Cưỡi bò đeo đạc ngựa. + Đi chùa có gót tiên theo sau. + Bụt cũng nực cười: thể hiện hành động của tác giả là những hành động khác thường (lưu ý nhân cách nhà nho chân chính ở đây được chứng minh theo quan điểm nhà nho của Nguyễn Công Trứ) => Cá tính người nghệ sĩ mong muốn sống theo cách riêng - Nhà nho với triết lí tự nhiên , ung dung tự tại, lấy tận hưởng lạc thú làm lẽ tồn tại + “ Được mất ... ngọn đông phong”: Tự tin đặt mình sánh với “thái thượng”, tức sống ung dung tự tại, không quan tâm đến chuyện khen chê được mất của thế gian + “Khi ca… khi tùng” : tạo cảm giác cuộc sống phong phú, thú vị, từ “khi” lặp đi lặp lại tạo cảm giác vui vẻ triền miên . + “ Không …tục”: Khẳng định lối sống riêng độc nhất của bản thân mình => Nhà nho chân chính theo Nguyễn Công Trứ là con người thoát mình khỏi những tư tưởng phong kiến siêu hình, bảo thủ 2.3. Nhà nho chân chính phải mang đạo lí trung quân + “ Chẳng trái Nhạc.. Nghĩa vua tôi cho trọn đạo sơ chung”: Sử dụng điển cố , ví mình sánh ngang với những người nổi tiếng có sự nghiệp hiển hách như Trái Tuân, Hàn Kì, Phú Bật… => Khẳng định bản lĩnh, khẳng định tài năng sánh ngang bậc danh tướng. Tự khẳng định mình là bề tôi trung thành. 39

+ “Trong triều ai ngất ngưởng như ông”: vừa hỏi vừa khẳng định vị trí đầu triều về cách sống “ngất ngưởng” => Nhà nho chân chính không phải là người khuôn mình vào những quy tắc, nguyên tắc bảo thủ lạc hậu mà là sống chân chính với tài năng và quan niệm của mình III. KẾT BÀI - Khái quát và mở rộng vấn đề BÀI CA NGẮN ĐI TRÊN BÃI CÁT - Cao Bá Quát- I. MỞ BÀI Cao Bá Quát tự là Chu Thần là người nổi tiếng học rộng, tài cao và viết chữ Hán rất đẹp. Ông được người đời tôn vinh là thánh “Thần Siêu, thánh Quát”, ca ngợi văn chương của ông “Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán”. Có người cho rằng hình tượng nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân có nguyên mẫu là Cao Bá Quát. Tài năng, khí phách, bản lĩnh và hoài bão lớn lao nhưng con đường công danh của ông lại rất lận đận. Trong bối cảnh chính quyền phong kiến hà khắc, hủ bại, ông thể hiện rõ sự bất mãn, thái độ phê phán và phản ánh nhu cầu đổi mới xã hội. Bài thơ “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” chỉ là một trong nhiều bài thơ thể hiện rõ những tâm tư, tình cảm ấy của ông. II. THÂN BÀI 1. Khái quát 1.1. Thể loại: Bài thơ “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” của Cao Bá Quát được viết theo thể hành còn gọi là ca hành. Đây là một thể thơ cổ, có tính chất tự do, phóng khoáng, không gò bó về số câu, độ dài của câu, niêm luật, bằng trắc, vần điệu. Có lẽ chính vì thế mà nó đã giúp nhà thơ bộc lộ hết được những suy tư, trăn trở trước thời cuộc và chính cuộc đời mình. 1.2. Hoàn cảnh ra đời: - Cao Bá Quát sống ở giai đoạn nửa đầu thế kỉ XIX, khi nhà Nguyễn đã tiêu diệt Tây Sơn, thiết lập một chính quyền phong kiến chuyên chế hà khắc, sưu cao thuế nặng, không coi trọng tầng lớp trí thức Bắc Hà. Đây là thời kì có nhiều cuộc nổi dậy của nông dân nổ ra, mà sau này chính ông cũng tham gia khởi nghĩa Mĩ Lương chống lại triều đình nhà Nguyễn rồi bị khép vào tội chết. - Năm 1831, Cao Bá Quát đỗ cử nhân tại trường thi Hà Nội. Sau đó nhiều lần ông vào kinh đô Huế đi thi nhưng không đỗ. “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” có thể được hình thành trong những lần Cao Bá Quát đi thi hội qua các tỉnh miền Trung đầy cát trắng như Quảng Bình, Quảng Trị. 1.3. Nội dung chính: Hình ảnh những bãi cát trắng chạy dọc các tỉnh miền Trung khiến tác giả liên tưởng và hình dung ra con đường danh lợi nhọc nhằn đáng ghét mà ông buộc phải theo đuổi. Từ đó, bài thơ phản ánh tình cảnh tù túng, không lối thoát của tầng lớp trí thức trong thời kì 40

khủng hoảng của chế độ phong kiến. Đồng thời thể hiện niềm bi phẫn trước thực trạng xã hội, thái độ khinh bỉ phường danh lợi và khát khao của những kẻ sĩ chân chính muốn sống một cuộc sống thực sự có ý nghĩa. 2. Bốn câu đầu 2.1. Hình ảnh con đường cát Bài thơ được mở ra bằng hình ảnh một bãi cát dài, trắng mênh mông, vô tận: Bãi cát dài lại bãi cát dài, Đi một bước như lùi một bước. Hình ảnh bãi cát dài là hình ảnh độc đáo, mang tính sáng tạo bởi nó được lấy từ hiện thực là những cồn cát trắng hoang vu, rợn ngợp mà tác giả đã từng vượt qua nhiều lần trên con đường vào kinh ứng thí chứ không phải được vay mượn từ văn học Trung Quốc như nhiều hình tượng thơ khác. Dải đất miền Trung, đặc biệt là hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị bề ngang rất hẹp, phía Tây là dãy Trường Sơn, phía Đông là biển. Trước mắt người đi đường chỉ thấy cát, núi và sóng biển. Và hình ảnh in đậm nhất trong tâm trí Cao Bá Quát là hình ảnh những con đường cát. Cụm từ \"bãi cát\" được lặp lại hai lần cũng cách diễn đạt \"lại bãi cát dài\" làm hiện lên trước mắt người đọc là những bãi cát trắng nối tiếp nhau ngút ngàn tầm mắt mà không biết điểm kết thúc, không có một phương hướng hay chỉ đường. Những bãi cát không chỉ nối tiếp dài dằng dặc mà còn là con đường đi đầy khó nhọc, đi một bước như lùi một bước. Hình ảnh con đường cát ở đây trở thành biểu tượng cho con đường đời, con đường công danh, con đường hành đạo mịt mù, xa tít mà những trí thức đương thời vẫn theo đuổi. Con đường này khiến những người muốn tìm thấy chân lí đích thực của cuộc đời phải trải qua biết bao gian nan, cực khổ mà vẫn khó tìm thấy đích. 2.2. Hình ảnh người đi trên cát Giữa mênh mông biển cát, có một người lữ khách đang mải miết bước đi. Lữ khách bước đi đầy khó nhọc và đi mãi mà chưa thấy điểm dừng chân. Mặt trời đã về núi, vậy mà người người khách đường xa kia vẫn chưa thể dừng bước, bởi vì trước mắt vẫn là những bãi cát dài vô tận. Hình ảnh người đi đường thật cô đơn, nhỏ bé giữa không gian bao la, rộng lớn, như lạc lõng không xác định được hướng đi giữa miền cát sa mạc. Không biết bao giờ mới đến đích, không thể rời bỏ, cũng không có chỗ nghỉ chân đêm nay cho nên người lữ khách kia chỉ biết rơi nước mắt, đau khổ khôn cùng \"nước mắt lã chã rơi\": Mặt trời đã lặn chưa dừng được, Lữ khách trên đường nước mắt rơi. Hình ảnh lữ khách bước đi trên cát cũng chính là Cao Bá Quát cùng nhiều chí sĩ đương thời trên con đường công danh, hành đạo đầy mệt nhọc. Đối với các nho sĩ ngày xưa con đường học hành, thi cử để đỗ đạt làm quan là con đường đầy khó khăn vất vả và hầu như cũng là con đường duy nhất để họ thể hiện chí làm trai, lập công, lập danh. Bản thân Cao Bá Quát cũng nếm đủ mùi cay đắng trên con đường ấy. Ông đi thi từ năm 13 tuổi (1822), đến lần thứ tư (1831) mới đậu cử nhân, lại bị đánh tụt xuống tận chót bảng. Sau đó ông còn lận đận thêm ba lần thi Hội nữa mà vẫn không đỗ. Ông đã phải cô đơn, đau khổ, 41

chán ghét, lạc lõng, vô phương hướng, mệt mỏi tới cùng cực trên con đường tìm kiếm công danh phù phiếm. Không phải vì ông không đủ phẩm chất mà vì một người tài năng, ngay thẳng như ông không phù hợp với môi trường xã hội phong kiến hủ bại. 3. Hai câu thơ 5,6 Không học được tiên ông phép ngủ Trèo non, lội suối, giận khôn vơi! Người đi trên bãi cát ở đây lòng đầy ai oán vì con đường công danh của mình mãi chưa tới đích. Ai oán là thế, nhưng người lữ khách Cao Bá Quát lại không thể rời bỏ con đường mưu cầu danh lợi mà mình chán ghét được. Bởi vậy, trên hành trình đầy gian nan phải trèo non, lội suối cực nhọc ông khao khát muốn được như tiên ngủ Hạ Hầu Ấn có thể vừa ngủ vừa đi, vừa nhắm mắt ngủ say mà vẫn bước đi đều đặn, ước ao tai không nghe, mắt không thấy những điều xấu xa, phi lý trong xã hội đương thời. Tuy nhiên không có phép màu nào, không có lối thoát nào để nhanh chóng vượt qua con đường ấy, để có thể nhắm mắt làm ngơ trước sự đời, cho nên trên con đường ấy lữ khách thể hiện thái độ chán ghét “giận khôn vơi!”. 4. Bốn câu thơ (từ 7-11) Những câu thơ tiếp theo phần nào giải thích lí do vì sao người ta dù khó nhọc, chán ghét mà cứ phải trèo non, lội suối: Xưa nay, phường danh lợi, Tất tả trên đường đời. Đầu gió hơi men thơm quán rượu, Người say vô số, tỉnh bao người? Đó chính là do cái bả công danh cám dỗ, vì công danh mà phải cố bước. Bởi công danh như hơi men rượu, lôi cuốn, hấp dẫn, mê hoặc người ta, đủ làm người ta say sưa trong mê muội. Vô số người không thể cưỡng được hương thơm của rượu ngon nơi \"đầu gió\", bị rượu hấp dẫn mà tìm đến rượu rồi say trong đó không biết lối ra. Tương tự như vậy, những kẻ ham danh lợi xưa nay thấy mùi lợi lộc đều lao vào như con thiêu thân, đều \"tất tả\", vội vã, bon chen, chạy ngược chạy xuôi để tìm kiếm danh lợi. Trên đời, có mấy ai tỉnh táo để thoát khỏi sự cám dỗ của rượu, thoát khỏi sự mê hoặc của bả công danh. Cách nói “phường danh lợi” cho thấy Cao Bá Quát tỏ rõ thái độ khinh rẻ những kẻ chỉ biết say sưa với bả vinh hoa phú quý và cũng cho thấy ông đã bắt đầu nhận ra sự vô nghĩa, phù phiếm của con đựờng khoa cử, khi mà người tài lại chẳng được trọng dụng, chẳng thể giúp đổi mới cho một xã hội bảo thủ, trì trệ. Câu hỏi \"Người say vô số, tỉnh bao người?\" còn như là lời tự hỏi chính bản thân mình của Cao Bá Quát. Liệu ông có phải là người \"tỉnh\" trong \"quán rượu\" ngon kia chăng? Hay ông cũng chỉ là một trong vô số những người đang say trong hương rượu nồng? Câu hỏi cũng như lời tự than bất lực của ông trước vòng xoáy danh lợi ông đang theo đuổi, bất lực trước cả thời cuộc, xã hội nữa. 5. Ba câu thơ tiếp theo (từ 12-14) Những câu thơ tiếp theo cho thấy cái nhìn của Cao Bá Quát về thực trạng xã hội về sự mệt mỏi, chán chường của ông trước cuộc đời như thế nào. Dù đã nhận ra sự vô nghĩa, 42

phù phiếm của con đường khoa cử nhưng ông vẫn không thôi băn khoăn, day dứt khi phải lựa chọn: Bãi cát dài, bãi cát dài ơi! Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít? Hình ảnh \"bãi cát dài\" lại một lần nữa được nhắc tới và lặp lại hai lần trong một câu thơ. Vẫn là tiếng thở dài đầy ngao ngán trước cuộc đời, trước con đường mình đã chọn đang mờ mịt không có lối ra. Người lữ khách loay hoay, cô độc và tự hỏi chính mình \"tính sao đây?\", phải tính sao trước con đường đầy khó khăn, chán chường, bế tắc này? Đường đi \"bằng\" phẳng thì \"mờ mịt\", không thấy hướng, còn những con đường gập ghềnh \"ghê sợ\" thì cũng \"đâu ít\". Đường công danh là thế, biết bao chông gai, cạm bẫy luôn rình rập. Ở đây chính là Cao Bá Quát đang tự hỏi mình, phải \"tính sao\" trước thời cuộc này, trước sự bế tắc của xã hội này. 6. Bốn câu thơ cuối (15-18) Nhưng câu hỏi “tính sao đây?” là một câu hỏi khó trả lời nên một cảm giác tuyệt vọng, bất lực trào dâng trong lòng người khách độc hành. Lữ khách chỉ còn biết cất lên khúc hát “đường cùng” để bày tỏ tâm trạng: Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng”, Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng, Phía nam trời Nam, sóng dào dạt. Khúc hát đường cùng là khúc ca đầy bi phẫn về sự chán chường, mệt mỏi và tuyệt vọng khi đột nhiên nhìn lại và nhận ra mình đã dành cả một đời để theo đuổi con đường công danh đáng chán ghét, ghê sợ. Người lữ khách Cao Bá Quát đứng giữa bãi cát mênh mông nhìn ra xung quanh bốn phía. Trước mắt là một khung cảnh thiên nhiên đẹp và hùng vĩ nhưng lại nguy hiểm, trắc trở vô cùng. Phía Bắc là núi non trùng trùng điệp điệp, phía Nam là sóng cao biển sâu, chẳng hướng nào có thể vượt qua được. Hình ảnh “núi muôn trùng” và “sóng dào dạt” tượng trưng cho những khó khăn, chông gai phía trước. Vậy nên đi tiếp hay dừng lại? Người lữ khách chơi vơi giữa bãi cát mênh mông ấy chẳng thể tiến, chẳng thể lùi, chẳng biết nên đi về hướng nào. Đi tiếp cũng không được mà từ bỏ cũng không được vậy nên lữ khách chỉ còn biết đứng như trời trồng trên bãi cát và tự hỏi một câu đầy đau đớn, nhức nhối “Anh còn đứng làm chi trên bãi cát?”. Rốt cuộc, ông đứng đây để làm chi, để chờ đợi điều gì? Câu hỏi ấy không chỉ thể hiện sự bi phẫn, tuyệt vọng mà còn là dự báo cho sự thay đổi, dứt khoát lựa chọn rời khỏi đường công danh, để lựa chọn một con đường, một lí tưởng cho riêng mình. Một đời Cao Bá Quát đã muốn cống hiến tài năng của mình cho đất nước nhưng rồi ông đã nhận ra rằng con đường học hành, thi cử làm quan để hành đạo giúp đời như các nhà nho xưa, trong bối cảnh xã hội đương thời là không điều hề dễ dàng và tốt đẹp như ông tưởng. Ông dường như nhìn đã thấy nhu cầu đổi mới của xã hội và hình thành tư tưởng khai sáng. Về điều này, GS. Thanh Lãng nhận xét: “Tư tưởng độc lập của Cao Bá Quát khác với cái chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ. Ông Trứ lập nghiệp là để giúp vua, để chu toàn quân thần; còn ông Quát mang cái mộng thay đổi thời cuộc và chuyển vần số mệnh”. 43

Chính vì vậy mà cuối cùng người chí sĩ yêu nước ấy chọn cho mình con đường từ bỏ cái lạc hậu, lỗi thời để đi theo tư tưởng khai sáng, canh tân đất nước. Sau này ông cùng với các sĩ phu yêu nước tổ chức cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương ở vùng Sơn Tây chống lại triều đình và đã hi sinh. Và như vậy, Cao Bá Quát và tư tưởng đổi mới của ông ở Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX khiến ta liên tưởng đến hình ảnh người dẫn đường như “những con chim ưng”, “con chim báo bão” hay “Trái tim Đan-kô” trong sáng tác của M. Goocki, khiến người đời sau mãi mãi phải khâm phục. III. KẾT LUẬN Về nghệ thuật, bài thơ được viết theo thể hành, khá tự do, phóng khoáng, tự do về kết cấu, vần, nhịp điệu; có sử dụng những hình ảnh có tính biểu tượng; nhiều câu thơ có ngữ điệu cảm thán, ngữ điệu hỏi, sử dụng các điển tích, điển cố để diễn giải ý một cách tinh tế… Tất cả nhằm thể hiện hình ảnh con đường gập ghềnh, khó nhọc và phù hợp với việc thể hiện tâm trạng chán chường, bế tắc. Bài thơ \"Bài ca ngắn đi trên bãi cát\" như là lợi tự bạch đầy chán ghét, tuyệt vọng của Cao Bá Quát trước con đường danh lợi tầm thường mà ông buộc phải theo đuổi, xen lẫn trong đó là sự bất lực, là khao khát được thay đổi cuộc sống trong bối cảnh xã hội phong kiến triều Nguyễn bảo thủ, trì trệ, ngột ngạt, tù túng không lối thoát. 44

LUYỆN ĐỀ Đề bài 1: Nhân cách nhà nho chân chính trong bài thơ “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” của Cao Bá Quát I. MỞ BÀI - Giới thiệu đôi nét về tác giả Cao Bá Quát và tác phẩm \"Bài ca ngắn trên bãi cát\". - Tác phẩm cho ta thấy được nhân cách cao đẹp của nhà Nho xưa. II. THÂN BÀI 1. Giải thích - Nhân cách: là tư cách, phẩm chất của con người. - Nhà nho: là những người tri thức thời xưa, theo Nho học. Nhà nho là người đã học sách thánh hiền được thiên hạ cần để dạy bảo người đời ăn ở hợp luân thường, đạo lí ….Nhìn chung “Nhà nho” là một danh hiệu chỉ người có học thức, biết lễ nghĩa, biết “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. - Nhân cách nhà nho chân chính: Trước hết nhân cách nhà nho chân chính là phải biết “tu thân”. Trong tu thân, sự học là rất quan trọng. Mà học là để đỗ đạt trong thi cử. Sau đó “trị quốc”, ra làm quan để kính bang tế thế, giúp nước giúp đời mà không màng danh lợi, vinh hoa phú quý. 2. Phân tích, chứng minh 2.1. Khái quát - Thể loại: Tk bài phân tích - Hoàn cảnh ra đời: Tk bài phân tích - Nội dung chính của bài thơ: Tk bài phân tích 2.2. Nhân cách nhà Nho qua tác phẩm \"Bài ca ngắn trên bãi cát\" - Vốn có quyết tâm thi cử và đỗ đạt để cống hiến cho đất nước: Bản thân Cao Bá Quát cũng nhiều lần đi thi. Ông đi thi từ năm 13 tuổi (1822), đến lần thứ tư (1831) mới đậu cử nhân, lại bị đánh tụt xuống tận chót bảng. Sau đó ông còn lận đận thêm ba lần thi Hội nữa mà vẫn không đỗ. Không phải vì ông không đủ phẩm chất mà vì một người tài năng, ngay thẳng như ông không phù hợp với môi trường xã hội phong kiến hủ bại. - Nhận thức ra rằng trong bối cảnh xã hội hiện tại, con đường khoa cử là vô nghĩa, chỉ là chạy theo danh lợi tầm thường. Ông đã phải cô đơn, đau khổ, chán ghét, lạc lõng, vô phương hướng, mệt mỏi tới cùng cực trên con đường tìm kiếm công danh phù phiếm: 45

(Phân tích bài thơ ở 14 câu thơ đầu) - Cao Bá Quát ý thức cần phải thoát khỏi con đường thi cử vô nghĩa và bối cảnh xã hội bế tắc không lối thoát, khao khát được thay đổi xã hội, tìm con đường mới: ( Phân tích trọng tâm ở 4 câu thơ cuối) 3. Bình luận - Đánh giá: Cao Bá Quát tuy vượt lên phép tắc của Nho giáo (chống lại triều đình nhà Nguyễn) nhưng vẫn là mẫu hình nhà nho chân chính, nhà nho dấn thân, đầy trách nhiệm trước cuộc đời. - Mở rộng: Một đời Cao Bá Quát đã muốn cống hiến tài năng của mình cho đất nước nhưng rồi ông đã nhận ra rằng con đường học hành, thi cử làm quan để hành đạo giúp đời như các nhà nho xưa, trong bối cảnh xã hội đương thời là không điều hề dễ dàng và tốt đẹp như ông tưởng. Ông dường như nhìn đã thấy nhu cầu đổi mới của xã hội và hình thành tư tưởng khai sáng. Về điều này, GS. Thanh Lãng nhận xét: “Tư tưởng độc lập của Cao Bá Quát khác với cái chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ. Ông Trứ lập nghiệp là để giúp vua, để chu toàn quân thần; còn ông Quát mang cái mộng thay đổi thời cuộc và chuyển vần số mệnh”. Chính vì vậy mà cuối cùng người chí sĩ yêu nước ấy chọn cho mình con đường từ bỏ cái lạc hậu, lỗi thời để đi theo tư tưởng khai sáng, canh tân đất nước. Sau này ông cùng với các sĩ phu yêu nước tổ chức cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương ở vùng Sơn Tây chống lại triều đình và đã hi sinh. => Và như vậy, Cao Bá Quát và tư tưởng đổi mới của ông ở Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX khiến ta liên tưởng đến hình ảnh người dẫn đường như “những con chim ưng”, “con chim báo bão” hay “Trái tim Đan-kô” trong sáng tác của M. Goocki, khiến người đời sau mãi mãi phải khâm phục. III. KẾT BÀI - Khái lược một số nét đặc sắc trên phương diện nghệ thuật thể hiện thành công nhân cách nhà nho chân chính trong bài thơ. - Suy nghĩ bản thân về nhân cách nhà nho chân chính. VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC - Nguyễn Đình Chiểu- DÀN Ý: Phân tích tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu. I. MỞ BÀI - Giới thiệu về Nguyễn Đình Chiểu: Là đại biểu tiêu biểu nhất của văn học yêu nước cuối thế kỉ XIX. Trước Nguyền Đình Chiểu, có lẽ chưa có một nhà thơ nào sáng tác với một ý thức rõ rệt như ông: Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà. Cái đạo của ông không là gì khác ngoài đạo yêu nước thương dân. Đó là nguồn gốc khiến thơ văn ông có sức rung cảm lớn, nguồn gốc đưa tên tuổi Nguyễn Đình Chiểu đứng vào vị trí vẻ vang trong nền văn học nước nhà. Ông xứng đáng là một “ngôi sao sáng trên 46

bầu trời văn học dân tộc” và là ngôi sao có ánh sáng khác thường, “càng nhìn càng thấy sáng” (Phạm Văn Đồng). - Giới thiệu về Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc: Bài văn tế là tiếng khóc bi tráng cho một thời kì lịch sử đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc và làm nổi bật bức tượng đài sừng sững về người nông dân yêu nước. II. THÂN BÀI 1. Khái quát 1.1.Thể loại: Văn tế là một loại văn gắn với phong tục tang lễ, thường dùng để tế cúng nhằm bày tỏ sự thương tiếc đối với người đã mất. Văn tế thường có hai nội dung cơ bản là kể về cuộc đời, công đức, phẩm hạnh của người đã khuất và bày tỏ nỗi đau thương của người sống trong giờ phút âm dương vĩnh biệt. Vì vậy, âm hưởng chung của các bài văn tế là rất bi thương. Bài văn tế thường có bốn phần: Lung khởi là luận chung về lẽ sống chết, Thích thực là hồi tưởng về người chết, Ai vãn than tiếc người chết và phần kết bày tỏ lòng tiếc thương và cầu nguyện của người cúng tế. Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc viết theo thể phú Đường luật và cũng có đủ bốn phần như vậy. 1.2. Hoàn cảnh ra đời: Năm 1859 giặc Pháp tràn vào sông Bến Nghé chiếm thành Gia Định, ông phải vào quê vợ ở Thanh Ba, Cần Giuộc lánh tạm. Về phía thực dân Pháp sau khi chiếm được thành Gia Định chúng bắt đầu thực hiện quá trình mở rộng cuộc tấn công ra các vùng lân cận. Cần Giuộc chẳng mấy chốc đã bị giặc Pháp tràn đến. Những người nông dân áo vải, chân lấm, tay bùn đã đứng dậy đấu tranh. Họ gia nhập nghĩa binh, sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn. Trong số họ nhiều nghĩa sĩ đã hi sinh oanh liệt. Những tấm gương hi sinh đó đã gây nên niềm cảm kích lớn trong nhân dân. Đỗ Quang, tuần phủ Gia Định giao cho Nguyễn Đình Chiểu làm bài văn tế đọc tại buổi truy điệu hơn hai mươi nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đêm ngày 16-12-1861. Với lòng cảm phục và tình cảm xót thương vô hạn, Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. 1.3. Nội dung chính: Bài văn tế không những thể hiện được tình cảm xót thương vô hạn của tác giả và của nhân dân đối với các nghĩa sĩ cần Giuộc mà còn khắc họa lên vẻ đẹp chân thực, bi tráng mà rất đỗi hào hùng của những người nông dân yêu nước đánh Tây. 1.4. Bố cục: Bài văn tế gồm bốn phần: Lung khởi, thích thực, ai vãn và kết. + Lung khởi: Tiếng khóc ban đầu mang ý nghĩa khái quát cả bài + Thích thực: Hồi tưởng về người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc + Ai vãn: Than khóc, tiếc thương và cảm phục trước sự hi sinh của người nghĩa sĩ + Phần kết: Ca ngợi công đức của người nghĩa sĩ và nêu rõ trách nhiệm của người còn sống 2. Lung khởi: Tiếng khóc ban đầu mang ý nghĩa khái quát cả bài - “Hỡi ôi!”: Câu cảm thán thể hiện niềm tiếc thương chân thành, thiết tha, thương tiếc. Đây là cách mở đầu quen thuộc trong các bài văn tế (Hỡi ôi, than ôi). Tiếng than vang lên mà nghe sao đau thương đến thế. Tiếng than ấy là để dẫn vào một cảnh tang thương chết chóc là cảnh chiến tranh tàn khốc với những người đã bị tử trận trên chiến trường. - Khái quát bối cảnh thời đại đầy biến động, bão táp: Tình thế vô cùng căng thẳng: + “ Súng giặc đất rền”: sự tàn phá nặng nề, giặc xâm lược bằng vũ khí tối tân 47

+ “Lòng dân trời tỏ”: Lòng dân cháy rực chí căm thù. Người nghĩa sĩ đánh giặc bằng tấm lòng yêu quê hương đất nước ⇒ Trời chứng giám + NT đối lập nhằm thể hiện khung cảnh bão táp, biến cố lơn lao của thời đại. - Bàn luận về lẽ sống chết: Lời khẳng định tuy thất bại, những người nghĩa sĩ hi sinh nhưng tiếng thơm còn lưu truyền mãi. Nghệ thuật tiểu đối được sử dụng rất thành công đối rất chỉnh, rất chuẩn: Mười năm với một trận, công (vật chất) với nghĩa (tinh thần), chưa ắt còn danh nổi như phao với tuy là mất tiếng vang như mõ đã khẳng định tinh thần quyết tâm đánh giặc, khẳng định người nông dân mười năm làm ruộng không đem lại tiếng tăm gì, chỉ một trận đánh Tây gây tiếng vang, để lại tiếng thơm muôn đời. 2. Thích thực: Hồi tưởng về người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc - Bắt đầu sự hồi tưởng bằng cụm từ “Nhớ linh xưa” 2.1. Nguồn gốc xuất thân - Từ nông dân nghèo khổ, những dân ấp, dân lân (những người bỏ quê đến khai khẩn đất mới để kiếm sống) + “cui cút làm ăn ”: hoàn cảnh sống cô đơn, thiếu người nương tựa - NT tương phản “chưa quen >< chỉ biết, vốn quen >< chưa biết. ⇒ Tác giả nhấn mạnh việc quen và chưa quen của người nông dân để tạo ra sự đối lập về tầm vóc của người anh hùng 2.2. Lòng yêu nước nồng nàn - Khi TD Pháp xâm lược người nông dân cảm thấy: Ban đầu lo sợ ⇒ trông chờ tin quan ⇒ ghét ⇒ căm thù ⇒ đứng lên chống lại. ⇒ Diễn biến tâm trạng người nông dân, sự chuyển hóa phi thường trong thái độ - Thái độ đối với giặc: căm ghét, căm thù đến tột độ - Nhận thức về bọn xâm lược: Họ không dung tha những kẻ thù lừa dối, bịp bợm ⇒ họ chiến đấu một cách tự nguyện: “nào đợi đòi ai bắt…” 2.3. Điều kiện chiến đấu - Vốn không phải lính diễn binh, không phải quân cơ quân vệ, không có mười tám ban võ nghệ, chín chục trận binh thư, chỉ là dân ấp dân lân mà “mến nghĩa làm quân chiêu mộ”. - Quân trang, vũ khí chiến đấu rất thô sơ: một manh áo vải, ngọn tầm vông, lưỡi dao phay, rơm con cúi… đã đi vào lịch sử. 2.4. Tinh thần chiến đấu hi sinh của người nông dân - Lập được những chiến công đáng tự hào: “đốt xong nhà dạy đạo”, “chém rớt đầu quan hai nọ” - Tinh thần chiến đấu tuyệt vời, khí thế chiến đấu mạnh mẽ: “đạp rào”, “xô cửa”, “liều mình”, “đâm ngang”, “chém ngược”…: động từ mạnh chỉ hành động mạnh mẽ với mật độ cao nhịp độ khẩn trương sôi nổi làm mã tà, ma nó hồn kinh. => Tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân nghĩa sĩ đánh giặc cứu nước. 3. Ai vãn: Than khóc, tiếc thương và cảm phục trước sự hi sinh của người nghĩa sĩ - Niềm thương tiếc của nhà thơ dành cho những người nghĩa sĩ đã khuất được thể hiện bằng cụm từ mở đầu “Khá thương thay!” và sau đó là thán từ “Ôi thôi thôi!”. 48

- Đánh giá về sự hi sinh của những người nghĩa sĩ nông dân: + Họ không chịu đựng được cảnh bọn giặc quăng vùa hương, xô bàn độc. Họ thà chết về với tổ phụ để giữ tinh thần chiến đấu còn hơn phải chấp nhận đầu hàng Tây, ở với bọn man di. + Tương quan với giặc ta yếu, địch mạnh bởi vậy mà họ đã ngã xuống. Họ hi sinh vì tấc đất ngọn rau, của nước nhà, vì bát cơm manh áo ở đời. Họ xả thân mà da ngựa bọc thây mà nào đợi gươm hùm treo mộ. Được nói đến một cách hình ảnh với niềm tiếc thương chân thành. - Sự đau đớn tiếc thương được biểu hiện: + Hình ảnh gia đình tang tóc, cô đơn, chia lìa, gợi không khí đau thương, buồn bã thể hiện qua hình ảnh mẹ già, vợ trẻ + Sự hi sinh của những người nông dân nghĩa sĩ để lại xót thương đau đớn cho tác giả, nhân dân Nam Bộ, nhân dân cả nước và lan tỏa ra cả thiên nhiên tạo vật “Đoái sông Cần Giuộc…”. ⇒ Tiếng khóc lớn, tiếng khóc mang tầm vóc lịch sử ⇒ Bút pháp trữ tình, nhịp câu trầm lắng, gợi không khí lạnh lẽo, hiu hắt sau cái chết của nghĩa quân. 4. Phần kết: Ca ngợi công đức của người nghĩa sĩ và nêu rõ trách nhiệm của người còn sống - Sang đoạn kết từ “Ôi” xuất hiện bày tỏ lòng xót thương và lời cầu nguyện của người đứng tế. Giọng điệu bi ai trùng xuống đến thống thiết đau buồn. - Tác giả khẳng định: “Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ: Danh tiếng nghìn năm còn lưu mãi, nêu cao tinh thần chiến đấu, xả thân vì nghĩa lớn của nghĩa quân. - Đây là cái tang chung của mọi người, của cả thời đại, là khúc bi tráng về người anh hùng thất thế. - Trách nhiệm của người còn sống: một chữ ấm - Tiếp tục khóc: Nước mắt anh hùng… ⇒ khẳng định sự bất tử của những người nghĩa sĩ. III. KẾT LUẬN - Khái quát những nét đặc sắc tiêu biểu về nghệ thuật làm nên thành công về nội dung của tác phẩm - Trình bày suy nghĩ bản thân LUYỆN ĐỀ Đề bài 1: Phân tích hình tượng người nghĩa sĩ nông dân trong “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu. I. MỞ BÀI “Sự đời thà khuất đôi tròng thịt 49

Lòng đạo xin tròn một tấm gương” Đó là hai câu thơ của nhà thơ mù có cuộc đời đầy bất hạnh, nhưng kiên cường vượt qua số phận để lại cho đời sau một tấm gương về nhân cách sống trong sáng đến tuyệt vời. Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là nhà thơ, nhà giáo, thầy thuốc, người công dân, người chiến sĩ yêu nước và dù trong tư cách nào ông cũng làm tròn bổn phận và thiên chức của mình. Ông là đại biểu tiêu biểu nhất của văn học yêu nước Việt Nam cuối thế kỉ XIX. Thơ văn của ông thấm nhuần lý tưởng đạo đức cao đẹp với những con người sống cao đẹp nhân hậu, thủy chung, biết giữ gìn nhân cách ngay thẳng cao cả, dám đấu tranh và có đủ sức mạnh để chiến thắng những thế lực bạo tàn để cứu nhân độ thế. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhận xét về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu như sau “Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường, nhưng con mắt của chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy và càng nhìn thì càng thấy sáng”. “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc\" là tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của ông. Bài văn là tiếng khóc bi tráng cho một thời kì lịch sử đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc, là bức tượng đài sừng sững, hùng tráng về những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước. II. THÂN BÀI 1. Khái quát 1.1.Thể loại: Văn tế là một loại văn gắn với phong tục tang lễ, thường dùng để tế cúng nhằm bày tỏ sự thương tiếc đối với người đã mất. Văn tế thường có hai nội dung cơ bản là kể về cuộc đời, công đức, phẩm hạnh của người đã khuất và bày tỏ nỗi đau thương của người sống trong giờ phút âm dương vĩnh biệt. Vì vậy, âm hưởng chung của các bài văn tế là rất bi thương. Bài văn tế thường có bốn phần: Lung khởi là luận chung về lẽ sống chết, Thích thực là hồi tưởng về người chết, Ai vãn than tiếc người chết và phần Kết bày tỏ lòng tiếc thương và cầu nguyện của người cúng tế. Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc viết theo thể phú Đường luật và cũng có đủ bốn phần như vậy. 1.2. Hoàn cảnh ra đời: Năm 1859 giặc Pháp tràn vào sông Bến Nghé chiếm thành Gia Định, ông phải vào quê vợ ở Thanh Ba, Cần Giuộc lánh tạm. Về phía thực dân Pháp sau khi chiếm được thành Gia Định chúng bắt đầu thực hiện quá trình mở rộng cuộc tấn công ra các vùng lân cận. Cần Giuộc chẳng mấy chốc đã bị giặc Pháp tràn đến. Những người nông dân áo vải, chân lấm, tay bùn đã đứng dậy đấu tranh. Họ gia nhập nghĩa binh, sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn. Trong số họ nhiều nghĩa sĩ đã hi sinh oanh liệt. Những tấm gương hi sinh đó đã gây nên niềm cảm kích lớn trong nhân dân. Đỗ Quang, tuần phủ Gia Định giao cho Nguyễn Đình Chiểu làm bài văn tế đọc tại buổi truy điệu hơn hai mươi nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đêm ngày 16-12-1861. Với lòng cảm phục và tình cảm xót thương vô hạn, Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. 2. Hình tượng người nghĩa sĩ nông dân Hình tượng người nghĩa sĩ nông dân trước đó đã ít nhiều xuất hiện trong văn chương như trong “Hịch tướng sĩ” của Trần Hưng Đạo, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi… nhưng phải đến “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu thì lần đầu tiên người nghĩa sĩ nông dân đi vào trong tác phẩm văn học với đầy đủ từ dáng vóc, tính cách, suy nghĩ, cảm xúc và hành động chân thực đến thế. 50


Like this book? You can publish your book online for free in a few minutes!
Create your own flipbook