Important Announcement
PubHTML5 Scheduled Server Maintenance on (GMT) Sunday, June 26th, 2:00 am - 8:00 am.
PubHTML5 site will be inoperative during the times indicated!

Home Explore TÀI LIỆU THAM KHẢO TÂY TIẾN

TÀI LIỆU THAM KHẢO TÂY TIẾN

Published by Nguyễn Thị Vân Trường THPT Hiệp Hòa 1, 2021-07-24 08:35:52

Description: TÀI LIỆU THAM KHẢO TÂY TIẾN

Search

Read the Text Version

TÂY TIẾN (Quang Dũng) ĐỀ 1: Bút pháp lãng mạn và cảm hứng bi tráng trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. Cuộc kháng chiến chống Pháp đã đi vào lịch sử như một vệt sáng sao băng. Sự hồi sinh của đất nước, sự giải phóng dân tộc trở thành nguồn cảm hứng mạnh mẽ cho thi ca. Tác phẩm tuy không nhiều nhưng đã nhanh chóng trở thành cổ điển. Chúng ta đã có Nhớ của Hồng Nguyên, Đồng chí của Chính Hữu, Cá nước của Tố Hữu,... và chúng ta lại có thêm Tây Tiến của Quang Dũng. Bài thơ đã tạc khắc thành công vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn của những người lính Tây Tiến, sự hùng vĩ, dữ dội, thơ mộng của núi rừng Tây Bắc. Bao trùm và chi phối các yếu tố nghệ thuật trong bài thơ đó là bút pháp lãng mạn và tinh thần bi tráng. Tây Tiến là một đơn vị bộ đội thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt - Lào và đánh tiêu hao sinh lực địch. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến rất rộng từ Châu Mai, Châu Mộc, Sầm Nứa rồi về phía tây của tỉnh Thanh Hóa. Lính Tây Tiến phần đông là thanh niên, sinh viên của thủ đô Hà Nội. Họ chiến đấu trong điều kiện thiếu thốn, khó khăn, bệnh sốt rét hoành hành, thế nhưng những người lính Tây Tiến vẫn sống rất lạc quan, yêu đời. Quang Dũng làm đại đội trưởng ở đó một năm rồi chuyển đơn vị khác. Ngồi ở Phù Lưu Chanh nhớ đơn vị cũ Quang Dũng đã viết bài thơ Tây Tiến, bài thơ là nỗi nhớ về đoàn quân Tây Tiến về những miền đất mà đoàn quân ấy đã đi qua. Nỗi nhớ chi phối các yếu tố nghệ thuật trong bài thơ, cách sử dụng ngôn từ của tác giả. Đọc Tây Tiến chúng ta có thể bắt gặp cách sử dụng bút pháp nghệ thuật đa dạng, linh hoạt của nhà thơ như bút pháp hiện thực, bút pháp lãng mạn và tinh thần bi tráng. Tuy nhiên, đặc sắc hơn cả vẫn là bút pháp lãng mạn và tinh thần bi tráng. Trong bài thơ Tây Tiến ngòi bút lãng mạn của Quang Dững thể hiện ở cái tôi tràn đầy tình cảm, cảm xúc trên cơ sở phát huy cao độ trí tưởng tượng của người nghệ sĩ: sử dụng rộng rãi các yếu tố cường điệu và phóng đại để tạo nên ấn tượng về cái hùng vĩ, cái phi thường. Thiên nhiên Tây Bắc dưới ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng được cảm nhận với vẻ đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ, thơ mộng và hoang sơ mà ấm áp. Đây là cái dữ dội, thơ mộng của núi rừng Tây Bắc: Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi. Hai câu thơ tạo thành hình thức đối ngẫu tương phản. Mảnh đất Sài Khao quanh năm mây mù che phủ nhưng Mường Lát lại tựa thảm hoa ấm áp, gần gụi. Hai chữ \"sương lấp\" gợi sự dữ dội, khắc nghiệt của thiên nhiên Tây Bắc. Thế nhưng sự dữ dội của núi rừng Tây Bắc lại được nâng đỡ bằng một hình ảnh rất lãng mạn: \"Mường Lát hoa về trong đêm hơi\". \"Hoa về\" là hoa của thiên nhiên hay con người? \"Đêm hơi\" là đêm mờ hơi sương hay hơi thở thơm tho? Ý thơ không xác định rõ, chỉ biết rằng câu thơ có 6/7 tiếng là thanh bằng tạo nên âm hưởng rất nhẹ nhàng, êm ái. Cảm hứng lãng mạn thôi thúc người nghệ sĩ đi tìm cái đẹp trong những cái khác lạ, độc đáo của núi rừng Tây Bắc. Một Tây Bắc dữ dội, hùng vĩ được Quang Dũng đặc tả bằng lối diễn đạt khoa trương, phóng đại, ngôn ngữ giàu tính biểu cảm: Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi. Núi rừng Tây Bắc khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút. Nhà thơ đã khai thác triệt , để các từ láy tạo hình để miêu tả cái dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc. Hai chữ \"khúc khuỷu\" diễn tả những dốc núi quanh co, gập ghềnh, mấp mô, uốn lượn. Hai chữ \"thăm thẳm\" gợi, độ sâu của những con đường nhiều vực. Còn hai chữ \"heo hút\" như vẽ ra những ngọn núi, những đỉnh đèo cao ngất. Câu thơ giúp cho người đọc hình dung người lính Tây Tiến đang ở một đỉnh đèo nào đó rất cao, nhìn lên mây nổi thành từng cồn heo hút, có cảm giác như mũi súng chạm tới trời, nhìn cao chót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. Câu thơ thứ ba đặc tả dốc núi Tây Bắc, nhịp thơ bị bẻ gãy làm đôi: \"Ngàn thước lên cao/ ngàn thước xuống\" diễn tả những dốc núi vút lên rồi lại đổ xuống \"ngàn thước xuống\". Ba câu thơ có sự phối hợp của nhiều thanh trắc đọc lên nghe trúc trắc, nặng nề tựa như những bước chân cực nhọc của người lính Tây Tiến. Nhưng đến câu thơ thứ tư lại hết sức nhẹ nhàng êm ái: \"Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi\". Câu thơ có sự kết hợp của 7/7 tiếng là thanh bằng. Lối phối thanh trong bốn câu thơ giống như nghệ thuật phối màu trong hội họa. Bên cạnh những gam màu nóng người nghệ sĩ điểm xuyết những gam màu lạnh xoa dịu và làm mát cả khổ thơ. Đọc câu thơ này, ta có thể hình dung được người lính Tây Tiến trong cuộc hành quân đang dừng lại ở lưng chừng đèo nào đó, phóng tầm mắt ra xa thấy nhà ai đó đang hiện giữa \"xa khơi\". 1

Ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng tiếp tục khai thác cái dữ dội của núi rừng Tây Bắc theo chiều dài của thời gian \"chiều chiều\" \"đêm đêm\", theo chiều rộng của không gian \"Mường Hịch\" giúp cho người đọc hình dung cụ thể về Tây Bắc không chỉ có núi cao đèo sâu, vực thẳm mà thiên nhiên Tây Bắc còn là thác gầm, cọp dữ. Những thác nước, cọp dữ vốn là mối nguy hiểm của con người nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng thác gầm tạo nên vẻ đẹp hùng vĩ, còn cọp dữ không ăn thịt người mà chỉ trêu người: Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người. Nếu như ở khổ thơ thứ nhất Quang Dũng vẽ ra bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội của núi rừng Tây Bắc thì khổ thơ thứ hai, ngòi bút tài hoa, lãng mạn, Quang Dũng đã đẩy lùi sự dữ dội của núi rừng Tây Bắc lại phía sau và mở ra trước mắt người đọc một thế giới Tây Bắc thơ mộng, lãn mạn. Bức tranh thơ mộng của núi rừng Tây Bắc được nhà thơ tái hiện qua hai nét vẽ: bức tranh đêm liên hoan văn nghệ và bức trang sông nước trong buổi chiều sương. Khi màn đêm buông xuống cũng là lúc đêm liên hoan văn nghệ bắt đầu: Doang trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo từ bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ Chữ bừng đặt ở giữa dòng thơ tỏa sáng giữa không gian, tạo sự ấm áp. Đuốc hoa là ngọn đuốc thắp sáng trong đêm văn nghệ. Hai chữ đuốc hoa còn thể hiện sự tinh nghịch của người lính Tây Tiến (chỉ ngọn đuốc hoa trong đêm tân hôn). Linh hồn của đêm văn nghệ chính là hình ảnh của em – cô gái Thái rất dịu dàng, duyên dáng trong vũ điệu dân tộc man điệu, trong trang phục dân tộc xiêm áo. Dường như em đã chờ đợi giây phút của đêm văn nghệ từ lâu rồi tự bao giờ. Sự xuất hiện của em đã làm cho các chàng trai Tây Tiến ngạc nhiên đến ngỡ ngàng. Hai chữ “kìa em” biểu lộ sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên ấy. Đêm liên hoan văn nghệ khép lại, cảnh thiên nhiên, sông nước lại mở xa. Không gian của buổi chiều giăng mắc bởi màn sương, bờ sông tĩnh lặng, hoang dại như một bờ tiền sử. Trên dòng nước lũ hiện diện hình ảnh của một bông hoa rừng đong đưa: “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. “Đong đưa” là một từ láy gợi hình. Bông hoa rừng không đung đưa mà đong đưa như cố tình làm duyên với dòng nước lũ. Khổ thơ này này, nhà thơ không tả mà chỉ gợi, nhưng Quang Dũng đã gợi được cái hồn của sự vật. Trên dòng sông ấy là hình ảnh của người đi: Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Người đi Châu Mộc chiều sương ấy là ai? Ý thơ không xác định rõ! Có thể người đi là chàng trai Tây Tiến khỏe khoắn, hùng dũng trên con thuyền độc mộc. Cũng có thể hiểu người đi là cô gái Thái dịu dàng, duyên dáng trên con thuyền độc mộc. Ý thơ có vẻ như trái ngược nhau nhưng kì thực lại có sự thống nhất trong cách miêu tả. Đó là sự hòa quyện giữa cảnh với người. Ngòi bút lãng mạn, tài hoa của Quang Dũng thể hiện rõ ở đoạn thơ này. Câu thơ nhạc hòa lẫn trên nền của bức tranh thiên nhiên thơ mộng, lãng mạn. Bút pháp lãng mạn của Quang Dũng không chỉ gợi ra vẻ đẹp thơ mộng, lãng mạn của núi rừng Tây Bắc mà còn tô đậm cái bình thường để tạo nên cái phi thường, sự độc đáo trong bức chân dung của những người lính Tây Tiến: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Người lính Tây Tiến chiến đấu trong điều kiện gian khổ, thiếu thốn trăm bề; thời tiết khắc nghiệt, bệnh sốt rét hoành hành làm cho những mái tóc xanh rụng hết thành thành những mái đầu \"không mọc tóc\" và màu da xanh xao - sản phẩm của căn bệnh sốt rét rừng. Thế nhưng dưới ngòi, bút của Quang Dũng, người lính Tây Tiến lại có vẻ đẹp oai hùng, dằn dữ của con hổ nơi rừng thiêng. Đáng chú ý là vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến. Người lính Tây Tiến không phải là những người khổng lồ không có trái tim mà trái lại họ có một tâm hồn thơ mộng lãng mạn: Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà, Nội dáng kiều thơm: Đi chiến đấu nhưng người lính Tây Tiên vẫn nhớ về thủ đô Hà Nội, nhớ hình bóng của những người đẹp \"dáng Kiều thơm\". Là những thanh niên, sinh viên của thủ đô Hà Nội giã từ gia đình đi chiến đấu nhưng người lính Tây Tiến vẫn mang trong mình một chút hào hoa, lãng mạn của một thời cắp sách tới trường. Cho nên nỗi nhớ của người lính Tây Tiến khác với nỗi nhớ của những người lính xuất thân từ nông dân. Nếu như người lính trong bài Nhớ của Hồng Nguyên nhớ về Luống cày đất đỏ/ Ít nhiều người vợ trẻ/Mòn chân bên cối gạo canh khuya\", người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu nhớ về giếng nước, gốc đa thì người lính Tây Tiến nhớ về dáng kiều thơm. Cũng là nỗi nhớ nhưng đối tượng, cách miêu 2

tả nỗi nhớ của mỗi nhà thơ lại không giống nhau. Hồng Nguyên, Chính Hữu nghiêng về bút pháp hiện thực; Quang Dũng nghiêng về bút pháp lãng mạn. Sự khác biệt đó tạo nên tính độc đáo cho bài thơ Tây Tiến. Nếu bút pháp lãng mạn biểu hiện ở những vẻ đẹp độc đáo, khác lạ, những hình ảnh đối lập gay gắt, những cảm xúc tràn đầy thì cảm hứng bi tráng lại bộc lộ rõ nhất khi tác giả trực tiếp miêu tả sự hi sinh của người lính Tây Tiến. Viết về người lính Tây Tiến, Quang Dũng không hề che giấu cái bi tức là cái đau buồn. Nhưng cái bi được tô đậm bằng giọng điệu hào hùng, được nâng đỡ bằng đôi cánh lãng mạn tạo nên một cảm hứng bi tráng. Vì thế, đọc Tây Tiến người ta không thấy bi lụy, yếu đuối trái lại thi phẩm vẫn toát lên một âm hưởng hùng tráng. Cảm hứng bi tráng được nhà thơ khắc họa từ những khổ thơ đầu tiên của bài thơ: Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Người lính Tây Tiến hành quân qua những chặng đường gian nan, vất vả, khí hậu khắc nghiệt làm sao tránh khỏi sự mỏi mệt? Quang Dững không che giấu điều đó thậm chí cả sự hi sinh: Anh bạn dãi dẫu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời! Những người lính Tây Tiến coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Ý thơ có một chút gì đó xem thường cái chết \"bỏ quên đời\". Đó là một sự hi sinh rất nhẹ nhàng, thanh thản. Sự hi sinh của những người lính Tây Tiến còn được tác giả khắc họa rõ hơn ở khổ thơ thứ ba Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Những nấm mồ rải rác nơi biên cương là dấu hiệu sự hi sinh của những người lính Tây Tiến nhưng cái đau thương ấy một lần nữa được Quang Dũng nâng đỡ bằng một cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng: \"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh\". \"Đời xanh\" là một hình ánh hoán dụ để chỉ tuổi trẻ. \"Chẳng tiếc\" nghĩa là không tiếc, không đắn đo, không do dự. Bốn chữ \"chẳng tiếc đời xanh\" cho ta thấy tinh thần xả thân vì độc lập tự do của những người lính Tây Tiến. Khi người lính Tây Tiến nằm xuống họ chỉ có manh chiếu quấn thân. Thế nhưng Quang Dũng đã khoác cho họ tấm áo bào sang trọng và khúc nhạc tiễn đưa các anh về với đất là âm thanh gầm réo của dòng sông Mã. Đọc đến đây, ta không thấy cái đau buồn bi lụy, trái lại là âm hưởng hào hùng là niềm tự hào trước lí tưởng cao đẹp của người lính Tây Tiến, là màu sắc tráng lệ của hình ảnh thơ. Quang Dũng nói đến cái bi mà không làm cho người ta bi lụy. Đó là tinh thần chung của bài thơ Tây Tiến. Như vậy bút pháp lãng mạn và bi tráng là hai yếu tố có sự kết hợp hài hòa trong bài thơ Tây Tiến. Bút pháp lãng mạn nâng đỡ tinh thần bi tráng và ngược lại tinh thần bi tráng làm nền cho cảm hứng lãng mạn thăng hoa. Từ bút pháp lãng mạn và tinh thần bi tráng, nhà thơ đã khắc họa thành công bức tượng đài bằng ngôn từ về đoàn quân Tây Tiến hào hoa, kiêu hùng, về thiên nhiên Tây Bẳc hùng vĩ, dữ dội, thơ mộng và trữ tình. Tài năng nghệ thuật của người nghệ sĩ thể hiện ở khả năng tái hiện bức tranh đời sống để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc về đoàn quân Tây Tiến về mảnh đất mà tác giả đã đi qua. Có thể nói bút pháp lãng mạn và tinh thần bi tráng đã tạo nên sự độc đáo cho bài thơ Tâv Tiến. Để rồi mỗi khi đọc lại bài thơ này, người đọc sẽ không quên được những cảm xúc lãng mạn cùng tinh thần bi tráng của bài thơ, đặc biệt là tình cảm của Quang Dũng đối với quê hương, đất nước, đối với người lính là anh bộ đội Cụ Hồ. ĐỀ BÀI: Cảm nhận của anh (chị) về vẻ đẹp của thiên nhiên miền tây Tổ quốc qua bài thơ Tây Tiến (Quang Dũng). Quang Dũng là một nghệ sĩ tài hoa, có thể sáng tác trong nhiều lĩnh vực: làm thơ, viết văn xuôi, sáng tác nhạc,... nhưng thành công nhất vẫn là thơ. Thơ Quang Dũng giàu cảm hứng lãng mạn, toát lên vẻ đẹp hào hoa, phóng khoáng ; ngôn từ giàu hình ảnh, hội tụ cả chất nhạc và chất hoạ. Tiêu biểu cho những nét đẹp riêng ấy phải nói đến bài thơ Tây Tiến. Ở đây, tác giả đã khám phá, khắc hoạ thành công hình tượng đoàn Quân Tây Tiến và thiên nhiên miền Tây đất nước. Trong đó, hình tượng thiên nhiên đã thể hiện khá rõ những nét tài hoa, độc đáo của ngòi bút Quang Dũng. Bài thơ Tây Tiến được khơi nguồn cảm hứng từ nỗi nhớ của Quang Dũng về đơn vị cũ. Nhà thơ từng là một thành viên của đoàn quân Tây Tiến - một đơn vị được thành lập năm 1947 với nhiệm vụ bảo vệ biên giới miền Tây của Tổ Quốc. Địa bàn chiến đấu của đoàn Quân Tây Tiến trải rộng từ Sơn La, Lai Châu, Hoà Bình… đến miền Tây Thanh Hoá và một số vùng bên kia biên giới Việt - Lào Do yêu cầu công tác, cuối năm 1948, Quang Dũng phải chuyển đơn vị. Khoảng cách không gian, thời gian đã chẳng thể làm 3

phai nhạt trong tâm hồn tác giả những tình cảm thiêng liêng, sâu nặng dành cho những vùng đất ấy. Trái lại, nhưng chỉ càng khiến cho nỗi nhớ thương thêm mãnh liệt. Nỗi nhớ bật lên thành tiến gọi da diết: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi ! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Dòng sông Mã là hình ảnh đầu tiên hiện về trong nỗi nhớ. Có lẽ vì nó trải dài suốt con đường vạn lí trường chinh của đoàn quân Tây Tiến. Nỗi nhớ chơi vơi trào dâng trong lòng người, lan toả, ôm trùm cả không gian của núi rừng. Nỗi nhớ làm sống dậy trong tâm tưởng khung cảnh thiên nhiên miền Tây hoang sợ, bí ẩn thơ mộng với dòng sông Mã, với bao vùng đất Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mai Châu Mường Hịch, Châu Mộc. Khung cảnh ấy cuốn hút tâm hồn người lính bằng cái chất thơ riêng của miền sơn cước. Dường như đặt chân đến nơi nào, họ cũng tìm thấy những vẻ đẹp nên thơ của núi rừng, sông suối, cỏ cây hoa lá (đây có những đêm sương huyền ảo Mường Lát hoa về trong đêm hơi. Câu thơ ví diễn tả cảm giác ngỡ ngàng của người lính Tây Tiến, đi giữa đêm sương nên đến thật gần mới chợt nhận ra sự hiện diện của một nhành hoa rừng, khiến thiên nhiên trở nên có sức sống, có linh hồn. Không gian miền Tây chứa đựng biết bao nhiêu vẻ đẹp bất ngờ, thú vị: Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa. Có thấy có nhớ là những câu hỏi dồn dập, thiết tha như muốn đánh thức trong tâm hồn mỗi người lính Tây Tiến từng kỉ niệm. Mỗi kỉ niệm đều được gìn giữ nâng niu trong trái tim những chàng trai đất Hà thành lãng mạn, mơ mộng. Với họ thiên nhiên miền Tây chứa đựng bao vẻ đẹp bất ngờ, thú vị. Một hoàng hôn Châu Mộc người đi trong chiều mà cũng đi trong màn sương hư ảo. Một triền sông hoang vắng, nguyên sơ không có bóng người, chỉ thấy ngàn lau phất phơ trong gió. Một dòng suối đẹp như tranh vẽ với dáng người thanh thoát, uyển chuyển trên con thuyền độc mộc và những đoá hoa rừng đong đưa như cũng biết làm duyên. Lối miêu tả tài hoa của Quang Dũng khiến thiên nhiên nơi này trở nên sống động, tình tứ lạ thường: hoa về, hồn lau nẻo bến bờ, hoa đong đưa. Nó phản chiếu thế giới tâm hồn tinh tế, lãng mạn và niềm yêu thương, gắn bó của người lính Tây Tiến với rừng núi nơi đây. Trong ấn tượng của những người lính ra đi từ ba mươi sáu phố phường Hà Nội, thiên nhiên miền Tây không chỉ thơ mộng, tình tứ mà còn cuốn hút tâm hồn họ bằng vẻ đẹp hùng vĩ, hiểm trở. Có lúc, họ mệt mỏi đi trong những màn sương dày đặc như vùi lấp cả đoàn người Sài Khao sương lấp đoàn Quân mỏi. Song họ vẫn luôn tìm thấy trên hành trình đầy gian truân niềm vui khi được tiếp xúc với một miền đất lạ. Cái nhìn của họ như ngỡ ngàng trước cảnh đèo dốc, núi non trập trùng, cao ngất: Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi. Điệp từ dốc lặp lại trong cùng một câu thơ khiến ta có cảm giác đi hết con dốc này đã lại gặp ngay con dốc khác. Chúng chồng chất lên nhau, biến độ cao thành chiều sâu hun hút. Những từ láy tượng hình khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút như vẽ nên những con đường quanh co, gập ghềnh. Hình ảnh súng ngửi : trời khắc sâu ấn tượng về những đỉnh đèo hoang vắng, cao tới mức khuất cả vào mây trời. Đứng trên đó, mũi súng của người lính Tây Tiến như chạm cả vào nền trời. Câu thơ được ngắt thành hai vế với những từ ngữ tương phản Ngàn thước lên cao / ngàn thước xuống như tạo thành một đường gấp khúc mang dáng núi. Ba câu thơ với nhiều thanh trắc diễn tả cái gập ghềnh, hiểm trở của đèo dốc, nỗi nhọc nhằn của người đi rồi lại đổ xuống câu toàn thanh bằng gợi vẻ êm đềm, trạng thái bình yên, thanh thản của tâm hồn Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi. Hình ảnh thơ độc đáo và giàu sức gợi: mưa giăng đầy biến thung lũng thành khơi xa và những ngôi nhà nơi xóm núi như cánh buồm thấp thoáng trên mặt biển. Những nét vẽ chắc khoẻ, gân guốc hoạ cùng nét mềm mại tạo nên vẻ hài hoà cho bức tranh thiên nhiên. Không gian được mở ra ở nhiều chiều: chiều cao đến hun hút của những dốc núi, chiều sâu của vực thẳm, bề rộng của những thung lũng đang trải ra sau màn mưa. Làm nên chất thơ của miền rừng núi hiểm trở, hùng vĩ ấy, còn là những khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, bí ẩn và dữ dội : Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người Những khoảng thời gian chiều chiều, đêm đêm làm tăng thêm cảm giác hoang vắng của chốn sơn làm bóng cả cây già. Những từ ngữ và hình ảnh nhân hoá được nhà thơ sử dụng để tô đậm ấn tượng về một vùng rừng núi hoang vu, dữ dội. Nơi đây, thiên nhiên hoang dã ngự trị và chiếm vai trò chúa tể. Địa 4

danh Mường Hịch càng làm tăng thêm cảm giác rờn rợn về một đêm rừng bí ẩn với tiếng chân thú dữ rình rập đâu đây. Đoạn thơ đã tái hiện một cách chân thực, sống động vẻ đẹp hùng vĩ, nên thơ của thiên nhiên miền Tây với bao đèo dốc quanh co, gập ghềnh, núi non trập trùng. Cảm hứng lãng mạn của một hồn thơ hào hoa khiến hình tượng thiên nhiên hiện lên với vẻ đẹp bí ẩn đầy sức cuốn hút. Chất nhạc và chất hoạ đan xen, hoà quyện mang lại sức gợi cho ngôn ngữ thơ. Ẩn trong mỗi câu thơ còn là tình cảm gắn bó sâu nặng của tác giả với quê hương xứ sở. Bằng cái tài, cái tình ấy, Quang Dũng đã sáng tạo nên một hình tượng nghệ thuật có sức rung cảm lớn. ĐỀ BÀI: Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến (Quang Dũng). Vẻ đẹp của người lính cách mạng đã trở thành nguồn đề tài, nguồn cảm hứng lớn cho văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975. Bởi lẽ, trong hai cuộc kháng chiến trường kì gian khổ, họ chính là những con người trực tiếp cầm súng chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc và nếm trải nhiều mất mát, hi sinh. Hình ảnh người lính đưọc tái hiện trong tác phẩm của nhiều thế hệ nhà văn, nhà thơ: kí của Trần Đăng truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Quang Sáng, thơ của Chính Hữu, Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Lê Anh Xuân, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Thanh Thảo,... Trong mạch đề tài và cảm hứng đó, không thể không nhắc tới đóng góp của Quang Dũng với bài thơ Tây Tiến. Nhà thơ đã mang đến cho nền thơ ca các mang hình tuơng nghệ thuật đạc sắc về người lính - đậm chất bi tráng và trấn đầy cảm hứng lãng mạn. Hình tượng người lính Tây Tiến được Quang Dũng khắc hoạ trên nền bối cảnh thiên nhiên vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, tình tứ của miền Tây đất nước. Con đường hành quân của bộ đội Tây Tiến trải theo những khoảng không gian rộng lớn những con đường trập trùng đèo dốc, núi non hiểm trở, những cánh rừng hoang sơ thưa vắng dấu vết của con người. Trên hành trình Tây Tiến ấy, họ đã phải vượt qua nhiều thiếu thốn, gian khổ, hiểm nguy. Chất bi tráng toát lên từ chính hiện thực chiến tranh gian khổ, khốc liệt đó với bao mất mát, hi sinh của đoàn Quân. Không ít chiến sĩ kiệt sức ngã xuống trên đường đi: Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục trên súng mũ bỏ quên đời. Nhà thơ đã miêu tả một cách chân thực những gian khó, hiểm nguy mà người lính Tây Tiến từng nếm trải. Trên con đường ấy, họ đã phải dãi dầu trong sương gió, trong khí hậu khắc nghiệt của miền rừng núi. Đói rét, bệnh tật hành hạ khiến cả đoàn Quân tiều tuỵ : Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Phải gánh chịu những cơn sốt rét rừng trong hoàn cảnh thuốc men thiếu thốn, những người lính Tây Tiến rụng cả tóc, màu da thiếu máu xanh xao như lá cây rừng. Sự thật khắc nghiệt này từng được nhà thơ Trần Lê Văn, một thành viên của Tây Tiến kể lại: lính Tây Tiến chết vì sốt rét nhiều hơn là vì súng đạn Quang Dũng đã không né tránh hiện thực nhiều đau thương, mất mát của cuộc đời người lính. Trái lại, nhà thơ không hề né tránh hiện thực. Từ hình ảnh người chiến sĩ gục ngã bỏ quên đời trên đường hành quân đến cảnh tượng những nấm mồ lẻ loi, lọt thỏm giữa không gian hoang lạnh của miền biên ải : Rải rác biên cương mồ viễn xứ. Nhưng bấy nhiêu mất mát, hi sinh đã không hề để lại trong tâm hồn người đọc cảm giác bi lụy. Trái lại, hiện thực gian khổ, khốc liệt đó càng làm nổi bật vẻ đẹp hùng tráng của đoàn quân Tây Tiến. Chất tráng toát lên từ phong thái, cốt cách anh hùng của người lính Tây Tiến. Họ trẻ trung, tinh nghịch, tràn đầy sức sống khi đối diện với thiên nhiên hùng vĩ, hiểm trở: Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Những dốc núi cao đến sâu hút, đỉnh đèo như khuất cả vào mây trời, những ngọn núi cả hai chiều lên - xuống đều thăm thẳm như không có giới hạn. Đấy là những chặng đường gian khó mà đoàn quân Tây Tiến đã vượt qua. Có lúc, cả đoàn người như bị vùi lấp dưới màn sương giá lạnh của núi rừng Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi, có lúc không khỏi rợn lòng trước vẻ hoang sơ, bí ẩn, dữ dội của chốn sơn lâm bóng cả cây già Chiều chiều oai linh thác gầm thét / Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người. Vậy mà ấn tượng đậm nét nhất về đoàn quân Tây Tiến vẫn là vẻ đẹp khoẻ khoắn, hiên ngang. Đối diện với thiên nhiên hùng vĩ, băng qua những đèo dốc gập ghềnh, khúc khuỷu, cái nhìn của họ vẫn hồn nhiên, hóm hỉnh : Heo hút cồn mây súng ngửi trời. Nếu viết súng chạm trời, nhà thơ sẽ chỉ tả được độ cao của đỉnh dốc mà khi đứng trên đó, mũi súng của người lính Tây Tiến như chạm cả vào nền trời. Còn ở đây, Quang Dũng đã 5

gợí được cái chất lính trẻ trung, vẻ tươi mới và sức sống dào dạt trong tâm hồn người. Ngay trong cuộc sống gian khổ, thiếu thốn, họ vẫn tìm thấy những niềm vui, hạnh phúc : Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi. Sau chặng đường dài vất vả, đoàn quân Tây Tiến dừng chân nơi xóm núi quây quần cùng nhau bên những nồi cơm thơm làn hương gạo mới. Vây quanh họ là cả một mùa em tươi tắn, trẻ trung, tình tứ. Bao mệt nhọc tan biến hết trong phút giây êm đềm, lãng mạn. Tình cảm quen thuộc của một thời kháng chiến đã được Quang Dũng thể hiện bằng cảm hứng lãng mạn và mang đậm bản sắc riêng tâm hồn người lính Tây Tiến. Vẻ đẹp hào hùng của đoàn quân Tây Tiến còn toát lên từ phong thái oai phong, lẫm liệt khi đối mặt với quân thù : Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Hai tiếng đoàn binh vang lên thật khoẻ khoắn, hùng tráng. Nó sợi hình ảnh đoàn quân tề chỉnh, uy nghi, hùng hậu. Cách nói không mọc tóc chuyển tải được cái chất lính ngang tàng, coi thường gian khổ. Đặc biệt hình ảnh Mắt trừng gửi mộng qua biên giới được nhà thơ sử dụng để tô đậm cái nội lực tinh thần tiềm ẩn trong tâm hồn người lính. Bất chấp hiện thực gian khổ, khác nghiệt, bất chấp hình hài tiều tụy, xanh xao, họ vẫn ngang tàng, kiêu dũng trước quân thù. Từ đoàn quân Tây Tiến toát lên khí thế hừng hực của lòng căm thù giặc và ý chí chiến đấu. Thậm chí, những người lính ấy hiên ngang, kiêu dũng đến ngay cả trong cái chết: Anh bạn dãi dầu không bước nữa, Gục lên súng mũ bỏ quên đời. Cách miêu tả của nhà thơ khiến ta có cảm giác người lính vừa gục ngã trên đường hành quân đã kiên cường đến tận hơi thở cuối cùng : Gục lên súng mũ. Những hình ảnh không bước nữa, bỏ quên đời gợi vẻ bướng bỉnh, bất cần trước cái chết. Ra đi với ước nguyện xả thân vì Tổ Quốc, người lính Tây Tiến quả thực đã coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Vì thế, họ ra đi trong tư thế hào hùng, sang trọng : Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Sự thật là cuộc sống của người lính thời chống Pháp vô cùng thiếu thốn, gian khổ. Người nằm xuống có khi không có cả tấm chiếu khâm liệm hình hài. Đồng đội chôn họ chỉ với tấm áo đã bạc màu vì sương gió. Nhưng qua ngòi bút của Quang Dũng, nó đã thành tấm chiến bào sang trọng bọc lấy thi thể người đã khuất. Bằng lối nói giảm anh về đất, nhà thơ cũng làm vợi nỗi đau thương và khẳng định sự bất tử của người lính đã hi sinh. Linh hồn họ về với đất mẹ và sẽ trường tồn cùng sông núi. Trên hành trình vào cõi bất tử, họ đi một mìnhg nhưng không lẻ loi, đơn độc. Đã có dòng sông Mã tấu lên khúc nhạc bi hùng đưa tiễn họ Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Cội nguồn làm nên sức mạnh kì diệu của đoàn quân Tây Tiến chính là tình yêu đất nước. Họ đã dấn bước trên con đường chiến đấu với lí tưởg cao cả, với lời thề chiến đấu thiêng liêng của người lính Tây Tiến : Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh... Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi. Tâm hồn của những người đang sống và cả linh hồn những người đã hi sinh đều thuộc về dải biên cương của Tổ Quốc. Họ sẽ không rời đội ngũ, không trở lại với gia đình, quê hương chừng nào đất nước chưa sạch bóng quân thù. Cuộc đời người lính đã hiến dâng trọn vẹn cho nhiệm vụ của đoàn quân. Quang Dũng đã tạo dựng thành công bức tượng đài bi tráng kỉ niệm những người con ưu tú của đất Thăng Long. Cùng với vẻ đẹp hào hùng, hình tượng người lính Tây Tiến còn được khám phá, khắc hoạ với vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn. Qua cái nhìn của người lính Tây Tiến, cảnh sắc nơi đầy thơ mộng, tình tứ, huyền ảo với những khoảng không gian nhiều sương khói Mường Lát hoa về trong đêm hơi; những đêm rừng hoang vu, bí ẩn Chiều chiều oai linh thác gầm thét / Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người ; những thung lũng êm đềm trải rộng sau màn mưa như mặt biển mênh mang : Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi. Từng kỉ niệm được gìn giữ, nâng niu trong nỗi nhớ, không chút phai mờ vì khoảng cách của thời gian, không gian : Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa Đọc bài thơ Tây Tiến, thấy rất nhiều địa danh của miền Tây đất nước. Chúng nhập vào từng câu thơ, đoạn thơ một cách tự nhiên và trở thành một yếu tố có sức gợi đặc biệt. Như có thể lần theo những Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Châu Mộc, Mường Hịch, Sầm Nứa,... để cùng đoàn Quân Tây Tiến 6

băng qua bao chặng đường hành quân gian khó nhưng cũng đầy những thú vị bất ngờ. Với những chàng trai đất Hà thành lãng mạn, mơ mộng thì thiên nhiên miền Tây chứa đựng biết bao nhiêu vẻ đẹp. Một hoàng hôn Châu Mộc, người đi trong chiều mà cũng đi trong màn sương hư ảo. Một triền sông hoang vắng, nguyên sơ không có bóng người, chỉ thấy ngàn lau phất phơ trong gió. Một dòng suối đẹp như tranh vẽ với dáng nguời thanh thoát, uyển chuyển trên con thuyền độc mộc và những đoá hoa rừng đong đưa như cũng biết làm duyên. Lối miêu tả tài hoa của Quang Dũng khiến thiên nhiên nơi này trở nên sống động, tình tứ lạ thường: hoa về, hồn lau nẻo bến bờ, hoa đong đưa. Nó phản chiếu thế giới tâm hồn tinh tế, lãng mạn và niềm yêu thương, gắn bó của người lính Tây Tiến với rừng núi nơi đây. Bất chấp mọi gian khổ, hi sinh, tâm hồn nhũng con người ấy vẫn trìu mến đón nhận vẻ đẹp của con người và cuộc sống nơi đây : Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ Chỉ là một đêm liên hoan văn nghệ của đoàn quân Tây Tiến với đồng bào địa phương, chắc chắn là rất đơn sơ trong hoàn cảnh thời chiến. Vậy mà qua cái nhìn trẻ trung, lãng mạn của họ, đã hoá thành buổi dạ tiệc tưng bừng, sang trọng. Nơi trú quân tạm thời thành doanh trại uy nghi, không gian núi rừng bừng sáng trong ánh lửa đuốc hoa. Trên nền khung cảnh lung linh ấy nổi bật hình ảnh người thiếu nữ miền Tây lộng lẫy trong áo xiêm ngày hội. Ánh mắt người lính Tây Tiến vừa ngỡ ngàng sung sướng vừa ngây ngất, đắm say khi quan sát vẻ tình tứ, quyến rũ mà kín đáo, duyên dáng của những nàng sơn nữ : Kìa em xiêm áo tự bao giờ. Tiếng nhạc, điệu vũ của miền sơn cước cuốn hút họ, chắp cánh cho tâm hồn họ bay lên. Những xúc cảm tinh tế, lãng mạn ấy chứng tỏ hiện thực gian khổ, khốc liệt của chiến tranh đã không thể chạm tới trái tim trẻ trung, tràn đầy tình yêu cuộc sống của người lính Tây Tiến. Họ gìn giữ trong sâu thẳm lòng mình giấc mơ tình yêu, hạnh phúc : Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm. Nhiều nhà thơ thời chống Pháp (Chính Hữu, Nguyễn Đình Thi, Bàn Tài Đoàn,...) cũng viết về sự trỗi dậy của tình yêu, nỗi nhớ riêng tư trong trái tim những chàng trai trên đường ra trận. Hình ảnh mà họ nhớ thương là những nguời phụ nữ lao động tần tảo, một nắng, hai sương với luống cày đất đỏ... mòn chân bên cối gạo canh khuya (Hồng Nguyên), nơi làng Quê nước mặn đồng chua, đất cày lên sỏi đá (Chính Hữu). Còn ở đây, hiện về trong nỗi nhớ của ngươi lính Tây Tiến không phải là những hình ảnh gần gũi, thân quen ấy mà lại là dáng kiều thơm yểu điệu, kiều diễm. Nhưng đó mới là nỗi nhớ in đậm dấu ấn tâm hồn của những người lính trí thức ra đi từ ba mựơi sáu phố phường Hà Nội. Họ mang theo trong trái tim hình ảnh thân thương nhất - những thiếu nữ Hà thành thướt tha, sang trọng. Điều đó cũng chứng tỏ rằng, bấy nhiêu gian khổ, mất mát, hi sinh đã lchông thể làm mất đi những cảm xúc mơ mộng, lãng mạn trong tâm hồn người lính Tây Tiến. Có thể nói, sự đan xen, hoà quyện của hai nét đẹp hào hùng và hào hoa đã làm nên dáng vóc riêng biệt, độc đáo cho hình tượng người lính Tây Tiến. Bút pháp lãng mạn và hiện thực được kết hợp hài hoà khi tái hiện cuộc sống và thế giới nội tâm của những chàng trai đất Hà thành. Nét hào hùng, kiêu dũng và hào hoa, mơ mộng ấy đã phản chiếu tâm hồn của người lính trí thức Hà Nội thời kháng chiến. Đây là đóng góp độc đáo của Quang Dũng cho để tài người lính nói riêng và cho thơ ca cách mạng nói chung. ĐỀ BÀI: Phân tích hình tượng người lính qua bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc. Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng cũng đã khắc tạc được một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp. Bài thơ có sức sống trong lòng bao nhiêu thế hệ bạn đọc bởi nó đã tái hiện được một cách chân thực hình ảnh người lính Tây Tiến, những người chiến sĩ vốn là nh ững học sinh sinh viên Hà Nội trẻ trung, thơ mộng, hào hoa. Bài thơ Tây Tiến được viết khi nhà thơ đang ở Phù Lưu Chanh (một làng thuộc tỉnh Hà Đông cũ), nhớ về đơn vị cũ, ông đã viết bài thơ. Hình tượng trung tâm của bài thơ là hình tượng người lính Tây Tiến với vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng. Những người lính Tây Tiến là những người lính miền xuôi, phần lớn là thanh nhiên, học sinh thuộc tầng lớp trí thức, tiểu tư sản Hà Nội tình nguyện tham gia chiến dịch Tây Bắc. Đây là những chàng lính trẻ đang rực cháy lí tướng “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Họ vào cuộc chiến mà hành trang mang theo có cả những mộng mơ, 7

lãng mạn của tuổi đôi mươi và của những kiến thức sách vở. Nét độc đáo này của hình tượng người lính Tây Tiến đã đem lại sức hấp dẫn riêng cho bài thơ. Hình tượng người lính Tây Tiến là hình tuợng trung tâm và xuyên suốt bài thơ. Người lính Tây Tiến qua ngòi bút tài hoa của Quang Dũng vừa mang trong mình những nét đẹp chung của người lính trong văn học thời chống Pháp vừa mang vẻ đẹp riêng rất dễ nhận ra. Ở khổ thơ thứ nhất, dù tác giả nghiêng nhiều về giãi bày nỗi nhớ Tây Tiến nhưng chân dung người lính đã được tái hiện qua hình ảnh thơ: đoàn quân mỏi. Đến khổ thơ thứ hai, hình tượng ngưồi lính Tây Tiến hiện lên sừng sững như bức tượng đài giữa núi cao vực sâu của núi rừng Tây Bắc : Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Bốn câu thơ tả thực không gian hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc : Núi cao hiểm trở, đèo dốc cheo leo, vực sâu thăm thẳm... trong đó cũng hàm chứa những hiểm nguy rình rập, đe doạ bước chân người. Nhưng nổi bật trên nền không gian ấy là hình ảnh người lính Tây Tiến luôn vững bước. Cách sử dụng từ ngữ, thanh điệu của Quang Dũng đã đem lại hiệu quả đặc hiệt cho đoạn thơ. Bức tượng đài người lính Tây Tiến trước hết được khắc hoạ lên từ những nét vẽ khoẻ khoắn nhằm tô đậm cuộc sống gian khổ của họ. Nếu như ở những đoạn thơ trước đó người lính mới chỉ hiện ra qua hình ảnh : Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi hay trong khung cảnh hết sức lãng mạn của đêm liên hoan, đêm lửa trại thắm tình quân dân cá nước thì đến khổ thơ tiếp lại là hình ảnh đoàn binh không mọc tóc và làn da xanh màu lá. Cảm hứng chân thực của Quang Dũng đã không né tránh việc mô tả cuộc sống gian khổ mà người lính phải chịu đựng. Những cơn sốt rét rừng làm tóc họ không thể mọc được (chứ không phải họ cố tình cạo trọc để đánh giáp lá cà cho dễ như nhiều người từng nói). Cũng vì sốt rét rừng mà da họ xanh như lá cây (chứ không phải họ xanh màu lá ngụy trang) và vì thế họ có vẻ ngoài dường như rất tiều tụy. Nhưng thế giới tinh thần của người lính lại cho thấy họ chính là những chiến binh anh hùng, họ còn chứa đựng cả một sức mạnh áp đáo quân thù, họ dũng mãnh như hổ báo, hùm beo. Cái giỏi của Quang Dũng là mô tả người lính với nhữn g nét khác khổ tiều tụy nhưng vần gợi ra dáng vẻ kiêu hãnh, hào hùng nhờ những thanh trắc rơi vào trọng âm đầu của câu thơ. Bên cạnh đó, từ Hán Việt “đoàn binh” cũng góp phần tạo ra sự liên tướng về một đội ngũ những người lính Tây Tiến nghiêm trang, hùng dũng. Và đặc biệt hai chữ Tây Tiến mở đầu câu thơ không chỉ còn là tên gọi của đoàn binh nữa, nó gợi ra hình ảnh một đoàn binh dù đầu không mọc tóc vẫn đang quả cảm tiến bước về phía Tây. Thủ pháp tương phản mà Quang Dũng sử dụng câu thơ : Quân xanh màu lá dữ oai hùng không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính mà còn thấm sâu màu sắc văn hoá của dân tộc. Hình ảnh dữ oai hùng không chỉ gợi ra sự liên tưởng, so sánh những người lính Tây Tiến với chúa sơn lâm mà còn gợi ra sức mạnh dữ dội của họ. Cách so sánh này gợi nhớ đến hình ảnh người anh hùng vệ quốc với hào kh í Đông A trong câu thơ của Phạm Ngũ Lão xưa : Hoành sóc giang kháp kỉ thu, Tam quân tì hổ khí thôn ngưu (Phạm Ngũ Lão, Thuật hoài) Hình tượng người lính Tây Tiến đến đoạn thơ nàv bỗng nhiên trở nên rất đẹp khi Quang Dũng bổ sung những phẩm chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ : Mắt trừmg gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm. Trước hết đó là vẻ đẹp của một tấm lòng luôn hướng về Tổ quốc, hướng về Thủ đô Hà Nội. Người lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi nhưng trong lòng lúc nào cũng hướng về Hà Nội, về kí ức tuổi thơ. Ta bỗng nhớ đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ : Từ thuở mang gươm đi mở nước Nghìn năm thươmg nhớ đất Thăng Long. Người lính Tây Tiến dẫu mắt trừmg gửi mộng qua biên giới mà niềm thương nỗi nhớ vẫn hướng về một dáng kiều thơm. Dáng kiều thơm là mượn lối nói mĩ lệ của văn học cổ, hàm ý chỉ nhữmg ngựời thiếu nữ Hà Thành xinh đẹp. Tác giả đặt chữ thơm ở cuối dòng thơ khiến cho câu thơ hé lộ ra tâm hồn đa tình, khoác thêm vẻ hào hoa, sang trọng cho những người lính Tây Tiến. Một thời, người ta phê phán cách nói, cách nghĩ của người lính ở hai câu thơ này có “thói tiểu tư sản”. Nhưng thực chất, đó là cách nghĩ, 8

cách nói rất bình dị của con người Việt Nam, của những người lính trẻ vốn là những học sinh, sinh viên vừa rời ghế nhà trường có tâm hồn trong sáng, mộng mơ. Câu thơ cho thấy nét đẹp riêng tư của tâm hồn những chàng trai Hà Thành, những người vì Tổ quốc mà trở thành những người lính Tây Tiến nếm trải đủ mùi gian nan, vất vả. Cách nghĩ ấy, ý tưởng trong sáng lãng mạn ấy giúp họ có thêm sức mạnh vượt qua mọi gian khổ. Quang Dũng đã tạo nên một nét tương phản hết sức đặc sắc - những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính là những con người có một đời sống tâm hồn tươi trẻ, phong phú. Người lính Tây Tiến, đối mặt với bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn nhưng trái tim vẫn trào dâng khát vọng yêu thương - nỗi nhớ niềm thương về một dáng kiều thơm, một vẻ đẹp của Hà Nội - Thăng Long truyền thống. Bức tượng đài người lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh sáng tương phản lẫn nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Từng đường nét đều như nổi bật và tạo được những ấn tượng mạnh mẽ. Đây cũng là đặc trưng của thơ Quang Dũng. Nếu như ở bốn câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một đoàn binh với những bước chân Tây Tiến vang dội khí thế hào hùng và một thế giới tâm hồn hết sức lãng mạn thì ở đây những câu thơ dưới, bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng những đường nét nổi bật về sự hi sinh của họ. Nếu chỉ đọc từng câu thơ, chỉ phân tích từng hình ảnh riêng rẽ độc lập, người ta dễ cảm nhận một cách bi lụy về cái chết của người lính mà thơ ca kháng chiến thuở ấy rất ít khi nói đến. Bởi thơ ca kháng chiến phần lớn chỉ quan tâm đến cái hùng mà không quan tâm đến cái bi. Nhưng nếu đặt các hình ảnh, các câu thơ vào trong chỉnh thể của nó, ta sẽ hiểu Quang Dũng đã mô tả một cách chân thực sự hi sinh của người lính bằng cảm hứng lãng mạn, hình tượng vì thế chẳng những không rơi vào bi lụy mà còn có sức bay bổng. Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Có thể thấy câu thơ : Rải rác biên cương mồ viễn xứ nếu tách riêng ra rất dễ gây cảm giác nặng nề bởi đó là câu thơ nói về cái chết, về những nấm mồ nơi viễn xứ xa xôi, hoang vắng. Từng chữ từng chữ dường như mỗi lúc một nhấn thêm nốt nhạc buồn của khúc hát hồn tử sĩ. Nói về những nấm mồ, lại là những nấm mồ rải rác dễ gợi sự hoang lạnh, lại là rải rác nơi viễn xứ, những nấm mồ ấy càng gợi sự cô đơn côi cút. Có lẽ, Quang Dũng muốn nói tới nơi yên nghỉ của những người đồng đội. Câu thơ gợi ra những ý thơ quen thuộc trong Chinh phụ ngâm, (nguyên tác Đặng Trần Côn, dịch thơ Đoàn Thị Điểm) : Hồn tử sĩ gió ù ù thổi Mặt chinh phu trăng rõi rõi soi Chinh phu tử sĩ mấy người Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn. Tuy nhiên cái bi lụy đã được vợi đi phần nào nhờ việc sử dụng những từ Hán Việt : biên cương, viễn xứ. Những từ ngữ sang trọng, cổ kính này đã biến những nấm mồ hoang nơi rừng núi xa xôi trở thành những nấm mồ tôn nghiêm, vĩnh hằng. Có lẽ đây là thứ nghi lễ ngôn từ, cũng là nén nhang thơm của Quang Dũng dành cho những đồng đội nằm xuống xứ lạ xa xôi. Cái bi thường còn được át hẳn đi bởi lí tưởng “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Cho nên sự ra đi của các anh thật nhẹ nhàng, thanh thản và tự nguyện. Vì vậy, câu thơ tiếp chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh đã làm cho những nấm mồ rải rác kia được nâng lên những tầng cao của đài tưởng niệm, của Tổ quốc đối với người lính đã vì tiếng gọi của chiến trường mà hiến dâng tuổi xanh của mình. Hồn thơ của Quang Dũng nhiều khi chìm trong đau thương lại được nâng lên nhờ đôi cánh của cảm hứng lãng mạn. Sự hi sinh của người lính còn được tráng lệ hoá : Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Bao nhiêu thương yêu của Quang Dũng gửi gắm trong một câu thơ như vậy về đồng đội của mình. Ai bảo Quang Dũng không xót thương những người đồng đội của mình ra đi trong cách tiễn đưa ấy, cảnh tiễn đưa với bao thiếu thốn, khó khăn, cái thuở những người lính Tây Tiến chết vì sốt rét nhiều hơn chết vì chiến trận. Trong cảnh kháng chiến còn rất khó khăn nên tiễn đưa đồng đội không có cá một chiếc quan tài. Hoàng Lộc trong Viếng bạn cũng đã viết về cảnh tiễn đưa như thế : Ở đây không mảnh ván Chôn anh bằng tấm chăn Của đồng bào Cửa Ngăn Tặng tôi ngày sơ tán. Chí có điều câu thơ của Quang Dũng không dừng lại ở mức tả thực mà đấy lên thành cảm hứng lãng mạn, coi chiếu là áo bào để cuộc tiễn đưa trở nên trang nghiêm, cổ kính. Cũng có người hiểu đến chiếc chiếu cũng không có, chỉ có chính tấm áo của người lính. Dù hiểu theo cách nào thì cũng phải thấy 9

Quang Dũng đã tráng lệ hoá cuộc tiễn đưa bi thương bàng hình ảnh chiếc áo bào và sự hi sinh của người lính đã được coi là sự trở về với đất nước, với núi sông. Cụm từ anh về đất nói về cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính. Cái chết chưa phải là đã hết mà là sự trở về với đất mẹ. Những người con sau khi hoàn thành nghĩa lớn đối với nước non đã trở về trong vòng tay âu yếm của người mẹ Tổ quốc. Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu thơ đầy tính chất tráng ca : Sông Mã gầm lêu khúc độc hành. Thiên nhiên như đang tấu lên khúc độc hành tiễn đưa các anh. Trong cái âm hưởng vừa dữ đội vừa hào hùng của thiên nhiên ấy, sự hi sinh của người lính Tây Tiến không bi lụy mà vẫn thấm đẫm tinh thần bi tráng. Từ sự kết họp một cách hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kì chống thực dân Pháp. Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình. Vì thế, từ bức tượng đài đã vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về những người con anh hùng ấy. ĐỀ BÀI: Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng. Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục trên súng mũ bỏ quên đời ! Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của Quang Dũng, cũng là thành tựu nổi bật của thơ ca kháng chiến chống Pháp, đồng thời là bài thơ tiêu biểu cho đề tài người lính. Bài thơ là nỗi nhớ kháng chiến nồng nàn, sâu sắc. Nỗi nhớ xoáy vào hai hình ảnh người lính Tây Tiến và núi rừng Tây Bắc. Hai nỗi nhớ hoà quyện vào nhau, trong đó núi rừng Tây Bắc là cái nền hoành tráng cho chân dung người lính toả sáng. Đoạn thơ : Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi ! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục trên súng mũ bỏ quên đời ! Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi thuộc phần đầu của bài thơ. Cảm xúc bao trùm là nỗi nhớ đơn vị Tây Tiến, nỗi nhớ thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ và hình tượng người lính với những chặng đường hành quân gian lao mà thấm đượm tình quân dân. Bài thơ lúc đầu có tên Nhớ Tây Tiến, sau đó tác giả bỏ đi chữ nhớ chỉ còn lại chữ Tây Tiến. Bỏ đi chữ nhớ để ý thơ đỡ lộ lại làm nổi bật nhan đề Tây Tiến bởi không cần nói nhớ cả bài thơ đã tràn ngập nỗi nhớ, nhớ thiên nhiên, nhớ con người. Bốn câu đầu bài thơ là là nỗi nhớ về không gian núi rừng nơi đơn vị Tây Tiến đóng quân: 10

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi ! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Câu thơ thứ nhất không có chữ nhớ nhưng lại ngập tràn nỗi nhớ vì nỗi nhớ trào dâng đã bật lên thành tiếng gọi thiết tha Tây Tiến ơi. Câu thơ thứ hai trực tiếp nói về nỗi nhớ rừng núi và trực tiếp miêu tả trạng thái của nỗi nhớ đó “nhớ chơi vơi”. Hai chữ chơi vơi diễn tả rất đã diễn tả rất cụ thể trạng thái nhớ nhung vừa mênh mông vừa sâu lắng. Đó là nỗi nhớ trong hoài niệm. Hai câu tiếp theo gợi vào những nỗi nhớ cụ thể gắn với những địa danh, những không gian, những hình ảnh con người cụ thể. Tuy nhiên, những địa danh sông Mã, Sài Khao, Mường Lát không chỉ là một cái tên mà nó đã trở thành địa chỉ của những hoài niệm thương nhớ, có phần nào thấp thoáng, mơ hồ bởi những từ ngữ bổ sung ý nghĩa phía sau: xa rồi, ơi, sương lấp, hoa về trong đêm hơi. Nỗi nhớ đã đánh thức kí ức về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hiểm trở, hùng vĩ mà thơ mộng. Bốn câu thơ tiếp là bức phác họa tài tình về không gian Tây Tiến, nơi bước chân những người lính từng in dấu: Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Tổng quan chung là một không gian núi rừng với những vách núi cao, vực núi sâu mà hoang vắng, heo hút. Nhờ sự gợi tả của các từ láy khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút, Quang Dũng đã gợi ra hình ảnh sinh động,chân thực của những dãy núi Tây Bắc và con đường đi đầy dốc cao, vực sâu. Những thanh trắc trong câu thơ góp phần gợi tả sự gập ghềnh, cheo leo của những con dốc. Nửa câu thơ đầu là con dốc được nhìn từ dưới lên, quanh co, hiểm trở, nửa câu sau là con dốc được nhìn từ trên xuống, tựa như đang đổ xuống miệng vực sâu. Câu thơ như nét vẽ gân guốc gợi ra vẻ đẹp khỏe khoắn, hùng vĩ của thiên nhiên góp phần tạo cảm giác mạnh trong lòng người đọc. Đặc biệt với câu thơ: Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống được bẻ đôi một cách đột ngột tạo sự đối lập tương phản giữa hai sườn dốc: cao ngút ngàn – sâu thăm thẳm. Xen giữa những câu thơ toàn thanh trắc là những câu thơ toàn thanh bằng: Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi lại gợi ra một cảm giác về sự dừng lại. Câu thơ khiến ta liên tưởng tới hình ảnh người lính sau chăngj đường hành quân trèo đèo leo dốc gian lao, được nghỉ chân nơi lưng chừng dốc núi, phóng mắt nhìn ra những bản làng xa xôi vùng đất Pha Luông ẩn hiện trong màn mưa giăng mắc, bồng bềnh. Câu thơ tựa như cái nhìn ngang gợi cảm giác nhẹ nhàng thanh thản. Có lẽ trên bước đường hành quân khó nhọc, những ngôi nhà nơi bản làng xa xôi cúng gọi lên trong lòng người lính một chút ấm áp và làm vơi đi những mệt nhọc. Bốn câu thơ thể hiện rõ nét bút tài hoa, uyển chuyển của Quang Dũng. Ba câu thơ đầu với nét vẽ gân guốc, mạnh mẽ, đậm và sắc, câu câu cuối lại là nét vẽ mềm mại, uyển chuyển. Tất cả đều góp phần tái hiện được thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hiểm trở mà thơ mộng, dữ dội mà trữ tình. Có lẽ độc đáo nhất trong bốn câu thơ trên là hình ảnh nhân hóa súng ngửi trời. Hình ảnh này gợi lên hình ảnh những người lính Tây Bắc hành quân trên đỉnh núi cao, mũi súng như chạm tới đỉnh trời. Cách sử dụng hình ảnh thơ sinh động, tự nhiên, táo bạo của Quang Dũng đã đem lại cho câu thơ nhiều ý nghĩa. Câu thơ vừa gợi độ cao của đỉnh núi cheo leo vì phải cao tới mức nào mới có thể súng ngửi trời, vừa gợi không gian heo hút hoang vắng của những đỉnh đồi nơi người lính dừng chân, đặc biệt nó gợi lên vẻ tinh nghịch, hồn nhiên, yêu đời, khí phách ngang tàng cua người lính Tây Tiến. Như vậy, núi rừng hiểm trở, dữ dội không đè bẹp được bước chân người. Mà chân dung con người giữa núi rừng hùng vĩ lại trở nên hiên ngang, hùng tráng hơn. Sau này Tố Hữu cũng có những câu thơ rất hay về người lính vệ quốc đang vượt dốc : Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều Bóng dài trên đính dốc cheo leo Núi không đè nổi vai vươn tới Lá ngụy trang reo với gió đèo... (Lên Tây Bắc) Kí ức của Quang Dũng đang lật lại từng trang kỉ niệm. Nhớ về Tây Tiến nhà thơ còn nhớ tới hình ảnh của người lính Tây Tiến trong một trạng thái khác : Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục trên súng mũ bỏ quên đời Đó là một trạng thái thực sau những ngày hành quân dãi dầu mưa gió. Các cụm từ : dãi dầu, không hước nữa, gục trên súng mũ, bỏ quên đời đem lại hai cách hiểu về ý thơ : Người lính sau chặng đường hành quân quá mệt mỏi, hoặc là đừng lại nghỉ ngơi, hoặc là họ đang từ từ chìm vào giấc ngủ ngàn thu. Nhưng dù là một giây phút nghỉ chân giữa chặng đường hành quân mệt mỏi, hay giấc ngủ ngàn thu vĩnh viễn thì người lính vẫn ở trạng thái thanh thản, vẫn trong tư thế sẵn sàng, hiên ngang đánh giặc. Hai chữ dãi dầu trĩu nặng các câu thơ, vừa tái hiện sự gian nan vất vả mà người lính Tây Tiến phải chịu đựng, vừa có gì như thương mến, xót xa. Và dù có hiểu bỏ quên đời chỉ cái 11

chết, sự hi sinh nhưng với cách diễn đạt này cái bi lụy được nâng đỡ bằng đôi cánh lãng mạn. Gợi cảm giác nhẹ nhàng, thanh thản đầy kiêu hãnh và cái chết lại trở thành “không đáng kể”. Hai câu thơ tiếp: Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người. gợi ra sự dữ dội, huyền bí của thiên nhiên Tây Bác ở cả chiều không gian và cả chiều thời gian. Thời gian được nói tới ở nhiều thời điểm : chiều chiều, đêm đêm gợi ra sự bí ẩn đầy rãy, liên tục đe doạ con người. Những hình ảnh thác gào thét, cọp trêu người gợi một không gian hiểm nguy đang đe doạ con người. Đó là thử thách mà người lính phải trải qua, đó là thước đo đo bản lĩnh anh hùng của người lính Tây Tiến. Trong câu thơ có địa danh Mường Hịch, cùng với các địa danh Tây Tiến, Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông đã xuất hiện ở những câu thơ trên, góp phần gợi ra địa bàn hoạt động của người lính Tây Tiến. Nhưng ở phương diện khác, sự trúc trắc trong phát âm tên địa danh Mường Hịch lại có một hiệu ứng nghệ thuật khác khiến người đọc liên tưởng đến những hiểm nguy đang đợi chờ, rình rập người lính Tây Tiến. Đoạn thơ khép lại bằng nỗi nhớ Tây Tiến với tình quân dân thắm thiết : Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi. Câu thơ tái hiện một sự thật : Sau những chặng đường vất vả hành quân, người lính dừng lại ở những bản làng, sống trong tình quân dân ấm áp. Cảm hứng lãng mạn đã biến những câu thơ mang ý nghĩa tả thực thành những câu thơ thơ mộng, trữ tình. Đọc câu thơ nghe như thấy tiếng xuýt xoa, cảm động của người lính Tây Tiến, như nhìn thấy cả làn khói bốc lên từ giỏ cơm nếp thơm hương quanh những cái đầu từng dãi dầu mưa nắng. Nỗi nhớ trào dâng, bật lên thành hai chữ nhớ ôi tha thiết. Nhớ sao những bản làng đã từng in dấu chân người, nhớ sao mùi thơm cơm nếp, nhớ sao dáng hình em trẻ trung, xinh đẹp. Hai câu thơ gợi cảm giác êm ái, ấm áp xoá tan đi những mệt mỏi, khó khăn mà nguời lính đã phải trải qua. Đoạn thơ khép lại mà hình ảnh thiên nhiên, con người Tây Bắc vẫn đọng lại trong lòng người đọc. Với nghệ thuật sử dụng thanh điệu, nhịp điệu, từ ngữ, hình ảnh, Quang Dũng đã viết nên một đoạn thơ vào loại hay nhất trong đờí thơ của mình. ĐỀ BÀI: Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng: Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lan nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa Tây Tiến của Quang Dũng được viết vào một ngày cuối năm 1948. Nhớ về đơn vị cũ, Quang Dũng đã viết bài thơ này khi đang ở Phù Lưu Chanh - một làng thuộc tỉnh Hà Đông cũ. Bài thơ nồng nàn nỗi nhớ thiên nhiên, nhớ đoàn binh Tây Tiến, nhớ con người Tây Bắc. Đoạn thơ : Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa tập trung thể hiện những kỉ niệm thơ mộng, trữ tình nhất trong cuộc đời chiến đấu của người lính Tây Tiến. Đây là đoạn thứ hai của bài thơ. Khung cảnh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội ở đoạn một đã lùi dần và khuất hẳn để bất ngờ hiện ra trước mắt người đọc vẻ đẹp khác của núi rừng Tây Bắc - vẻ đẹp thơ mộng, mĩ lệ. Những nét vẽ táo bạo, gân guốc ở đoạn một nhường chỗ cho nét vẽ mềm mai tinh tế, tài hoa ở đoạn hai. Ở đoạn thơ này, Quang Dũng tập trung khắc hoạ hai 12

khung cảnh đặc sắc: Cảnh đêm liên hoan của những người lính với đồng bào Tây Bắc và cảnh sông nước Tây Bắc. Cảnh đêm liên hoan lửa trại hiện lên vừa chân thực vừa thơ mộng. Nó được tái hiện bằng những hình ảnh vừa thực vừa ảo : Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điện nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ. Những câu thơ trên gợi nhiều cách hiểu bởi những từ ngữ kìa em xiêm áo, nàng e ấp. Có người cho rằng đó là hình ảnh những thiếu nữ Tây Bắc đến góp vui trong đêm liên hoàn. Nhưng cũng có người lại cho rằng ở đó làm gì có phụ nữ những người lính Tây Tiến đã đóng giả thiếu nữ để đêm liên hoan thêm phần vui vẻ, giúp họ vơi đi những gian khổ thường ngày. Nhưng dù hiểu theo cách nào, bốn câu thơ vẫn gợi lên vẻ đẹp lãng mạn, lung linh của đêm hội và tâm hồn thơ mộng của người lính Tây Tiến. Đó là đêm hội đuốc hoa đầy náo nhiệt, tưng bừng. Khi đêm liên hoan văn nghệ bắt đầu, cả doanh trại sáng bừng lên dưới ánh đuốc, ánh đèn rực rỡ. Hai chữ bừng lên vừa tả thực không gian núi rừng sáng bừng trong đêm lửa trại, vừa tả được không khí sôi nổi, tưng bừng, náo nhiệt của đêm liên hoan, vừa tả được niềm vui hân hoan, háo hức của lòng người. Vì vậv, hai chữ bừng lên trở thành nhãn tự của câu thơ. Và hình ảnh đêm lửa trại trở thành điểm sáng trong lòng nhà thơ. Xen giữa không khí tưng bừng đó là âm thanh của tiếng khèn trong điệu nhạc hoang dã man điệu. Nhà thơ đã diễn tả âm thanh tiếng khèn bằng hai chữ man điệu thật chính xác và đắt giá, góp phần gợi tả đúng cái thần, cái độc đáo của âm nhạc vùng cao : hoang dã, bí ẩn mà đầy quyến rũ. Câu thơ với sáu thanh bằng như thể lột tả được dòng trôi của tiếng hát, tiếng khèn, và nhất là tiếng lòng của những con người trong đèn liên hoan.“Con người ngây ngất, nghiêng ngả trong âm thanh của tiếng khèn, tiếng hát. Cảnh đêm lửa trại dường như quyến rũ, thơ mộng hơn nhờ sự xuất hiện của con người em xiêm áo tự bao giờ. Em xuất hiện với vẻ đẹp duvên dáng, hấp dẫn của xứ lạ xa xôi, xiêm áo lộng lẫy, với dáng điệu e thẹn, tình tứ trong vũ điệu man điệu đã hút hồn những chàng lính Tây Tiến vốn trẻ trung lãng mạn. Hai chữ kìa em đã điểm đúng bản chất đa tình của người lính Tây Tiến. Trước vẻ hấp dẫn, quyến rũ của em, những chàng trai trẻ ngạc nhiên đến sững sờ, ngỡ ngàng đến say mê. Cho nên, em chính là linh hồn của đêm lửa trại, cuốn hút bao chàng trai đa tình. Đêm lửa trại vì thế đã trở thành kỉ niệm khó phai mờ trong tâm hồn mỗi người lính Tây Tiến. Bốn câu thơ khắc hoạ vẻ đẹp của đêm hội hoa đăng thắp sáng tình quân dân gắn bó, đậm đà và khắc hoạ vẻ đẹp lãng mạn trong tâm hồn người lính trẻ. Vẻ đẹp ấy càng ngời lên lần nữa khi nó được đặt vào bối cảnh cuộc chiến tranh khốc liệt. Bốn câu thơ dưới của đoạn thơ vẽ bức tranh mây trời, sông nước Tây Bắc thơ mộng, huyền ảo : Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa. Cảnh thiên nhiên được gợi tả qua niềm kí ức với thời gian buổi chiều tĩnh lặng, với không gian đôi bờ phơ phất ngàn lau. Khung cảnh tự nó đã thể hiện vẻ hoang sơ huyền ảo, tựa như mộ t bức tranh thuỷ mặc. Tài năng của Quang Dũng là ở chỗ chỉ bằng vài nét vẽ mà ông đã gọi ra được cái hồn của cỏ cây sông núi. Hình ảnh hồn lau thật hư ảo. Tác giả không tả cây lau, cỏ lau mà nắm lấy cái hồn lau tức là đã nắm lấy hồn vía, thần thái của cảnh vật. Cảnh thiên nhiên qua ngòi hút của Quang Dũng như có hồn, phảng phất trong gió trong cây. Những câu thơ không chỉ vẽ ra trước mắt người đọc vẻ đẹp thiên nhiên mà còn gợi lên cái phần thiêng liêng của cảnh vật. Thiên nhiên quyến rũ, thơ mộng đến lạ kì qua hình ảnh hoa đong đưa. Nếu viết hoa đung đưa vẫn diễn tả được cái lay động của cảnh vật nhưng viết hoa đong đưa thể hiện được cái mềm mại, cánh hoa như đang làm duyên với dòng nước. Vì thế, từ đong đưa tinh tế, lãng mạn hơn. Trên dòng sông Tây Bắc lặng tờ, hoang dại như chảy trôi giữa đôi bờ tiền sử, như nỗi niềm cổ tích ngày xưa, nối bật lên dáng hình người con gái Thái mềm mại, uyển chuyển trên chiếc thuyền độc mộc. Bóng dáng con người hiện lên không rõ ràng, mờ nhoà, bảng lảng trong chiều sương qua cách diễn đạt : người đi, chiều sương ấy. Đây là màn sương của núi rừng, màn sương của nỗi nhớ, của kỉ niệm giăng mắc. Dáng hình người thiếu nữ đẹp như những bông hoa 13

của núi rừng sẽ mãi là những kỉ niệm, là hành trang tinh thần để người lính Tây Tiến mang theo suốt cuộc đời. Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Quang Dũng: tài hoa, lãng mạn. Cảm xúc đắm say trước thiên nhiên, con người Tây Bắc của nhà thơ đã tạo hình, tạo nhạc cho câu thơ. Tám câu thơ, hai khung cảnh. Bốn câu thơ trên là cảnh đêm hội đuốc hoa rực rỡ, say mê trong tiếng nhạc ngân nga. Bốn câu thơ sau là cảnh sông nước vùng Tây Bắc thơ mộng trong màn sương mờ ảo. Câu thơ nào cũng có nhạc, có hoạ, câu thơ nào cũng có cái đắm say của lòng người. ĐỀ BÀI: Bình giảng bốn câu thơ sau đây trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng: Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành Chúng ta có thể lầm trong hai năm chứ lầm luôn trong bảy tám năm hay lâu hơn nữa, là chuyện thảng hoặc mới có ( Thi nhân Việt Nam – Hoài Thanh). Chuyện thảng hoặc không may mắn ấy đã xảy ra với Quang Dũng. Bao tình cảm dành cho đơn vị cũ – đoàn quân Tây Tiến với những chàng trai Hà Nội mặc áo lính, rời đô thành tới chiến đấu ở miền Tây Bắc xa xôi của Tổ quốc và nước bạn Lào, Quang Dũng gửi gắm vào bài thơ Tây Tiến viết tại Phù Lưu Chanh năm 1948. Vậy mà bao năm trời, đóa hoa thơ của thi nhân tài hoa ấy bị loại khỏi khu vườn thi ca dân tộc. Điều kỳ lạ là chính Hoài Thanh lại là người đi đầu trong sự lầm lẫn ấy. Nhưng cũng chính tác giả Thi nhân Việt Nam đã khẳng định: “ Tôi tin rằng linh hồn chung của cả một lớp người đủ phức tạp để cảm thông với hầu hết thơ văn có giá trị”. Người ta có thể nhầm trong năm bảy năm hoặc lâu hơn nhưng rồi người ta cũng nhận ra giá trị đích thực của Tây Tiến. Những dòng thơ xưa bị coi là bi lụy giờ được đánh giá lại dưới cái tên đúng hơn, bi tráng. Và đoạn thơ dưới đây là một trong những minh chứng rõ ràng nhất. Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Trong suốt dọc dài kháng chiến, Tây Tiến cũng như bao đoàn quân khác của dân tộc phải chịu những hy sinh và tổn thất nặng nề. Những hy sinh tổn thất ấy là gấp bội trong ngày đầu kháng chiến. Nhưng thơ văn một thời nhìn chung đã tránh nói đến mất mát đau thương. Đó phải chăng là điều cần thiết mà cũng hạn chế của thời đại. Quang Dũng đã vượt qua hạn chế ấy và phải chăng bởi vậy mà có lúc con người ấy không được hiểu. Trong tám câu thơ khắc họa hình ảnh đoàn quân Tây Tiến, nhà thơ đã dành đến một nửa để nói về một Tây Tiến trong sự hy sinh ngay sau những dòng thơ thật hay về người lính trong chiến đấu. Nhưng khổ thơ không phải là bài ca rên xiết, buồn đau làm mềm lòng người, đó là khúc tưởng niệm, bản hùng ca bi tráng về những người chiến sĩ bỏ mình vì đất nước. Sự hy sinh của họ đã được tác giả họa hình tạo nên một ấn tượng mạnh mẽ: Rải rác biên cương mồ viễn xứ Nếu rải rác gợi lên những nấm mộ trải dọc suốt đường hành quân, cái chết luôn rình rập bất cứ lúc nào thì ba chữ “ mồ viễn xứ” càng gây thêm cảm giác xót đau, mất mát. “ Lá rụng về cội…” Theo quan niệm Á Đông con người sống có thể như cánh gió lang thanh phiêu bạt bất cứ nơi đâu, nhưng lúc chết phải được chon ở quê nhà. Chính vì vậy, không gì gây cảm giác đau thương bằng cái chết xa nhà. Thêm vào đó, người lính Tây Tiến lúc sống có nhau, đồng đội cùng nhau vượt qua gian khổ, vậy mà khi ngã xuống, họ phải xa nhau. Những nấm mộ nằm dọc đường hành quân lẻ loi, chơ vơ nơi xứ lạ, không một nén nhang, không người thân chăm sóc. Nhưng Quang Dũng đã khéo léo đi vững trên đường mong manh ngăn cách đôi bờ bi tráng và bi lụy. Cảm giác mất mát gắn liền với không khí trang trọng lúc tưởng niệm. Nó không cho phép con người ta ngã gục. Bốn thanh trắc trong bốn chữ “ rải rác” “ viễn xứ” bao lấy đầu và cuối câu thơ khiến giọng thơ trở nên cứng cỏi. Hai từ Hán Việt “ biên cương” và “ viễn xứ” liên tiếp trong câu thơ bảy chữ khiến cho câu thơ đau thương mà vẫn trang trọng. Cảm xúc ấy càng được tô đậm hơn ở câu thơ liền sau. Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Ta dường như bắt gặp ở đây chất giọng Kinh Kha về tráng chí một đi không trở lại. Tráng sĩ một đi chẳng trở về hay chí làm trao không hiếm trong thơ cổ nước ta: Chí làm trai dặm nghìn da ngựa Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao 14

( Chinh phụ ngâm). Tìm một điểm nương vào thơ cổ, Quang Dũng đã tạo ra một vẻ đẹp cổ điển và bi tráng cho câu thơ. Ta tưởng như nghe lại lời thề dưới trăng của bao tráng sĩ từ ngàn xưa đồng vọng. Hiện tại và quá khứ đan xen nhau vấn vít vào nhau. Câu thơ thứ hai đỡ câu thơ đầu trong khổ thơ làm cho ý thơ không lả xuống. Cũng nhờ đó, sự hy sinh mất mát ở câu thơ trên không gây cảm giác bi lụy. Những người lính ấy hiểu rõ hơn ai hết những gì có thể chờ đợi họ nhưng sẵn sàng tự nguyện hiến dâng tất cả tuổi thanh xuân cho Tổ quốc, họ ý thức rõ hành động của mình. Làm sao có thể gọi đó là “ buồn rớt”? Không ta chỉ thấy ở đây một tình yêu Tổ quốc thiết tha, dũng khí lớn lao của đoàn quân Tây Tiến. Quang Dũng không dùng những vần thơ nồng nàn tha thiết như Chế Lan Viên: Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt Như mẹ cha ta, như vợ như chồng Ôi Tổ quốc, nếu cần ta chết Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông. Mà tấm lòng ấy cứ lồ lộ ra sau câu thơ đầy hùng tráng tâm chí và vẻ ngang tàng của tuổi trẻ. Nếu hai câu thơ trước thiên về tình cảm của những người con với đất mẹ thì ở hai câu thơ sau, ta nhận ra nhiều hơn tình cảm đồng đội của những người đang sống dành cho người đã ra đi. Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Người chiến sĩ ngã xuống nơi xứ lạ heo hút, không một nét nhang, không quan tài và ngay đến cả manh chiếu bó thân cũng không có. Họ ra đi với những kỉ vật đã gắn bó với mình suốt dọc đường hành quân, với tấm áo bạc màu đã cùng họ dầm sương dãi nắng. Những con người ấy khi sống đã phải chịu vô vàng gian khổ, lúc mất đi vẫn trong cảnh cực kỳ thiếu thốn. Nhưng Quang Dũng nói đến sự thiếu thốn mà không để lại cho ta ấn tượng nhiều về sự thiếu thốn khi tác giả nói “ áo bào” rồi “ anh về đất”. Manh áo của người lính không được diễn tả thuần hiện thực như Chính Hữu, mà với bút pháp lãng mạn Quang Dũng đã nâng tấm áo mang đầy mưa nắng ấy thầy “ áo bào”. Hình ảnh “ áo bào” gợi cho ta nhớ những câu thơ cổ đến “ bức chiến bào”. Sự thiến thốn nhòa đi nhường chỗ nhiều hơn cho không khí trang trọng cổ xưa, sự hy sinh của người lính Tây Tiến đã gặp sự hy sinh của bao tráng sĩ thuở nào. Chính vì vậy, có gì gợi tới “ Cái chết nhẹ tựa lông hồng”. Đặc biệt với ba chữ “ anh về đất”, tác giả đã hình tượng hóa cái chết như sự trở về với đất mẹ như đứa con trở về lòng mẹ sau bao năm xa cách. Nhờ thế, dù lần thứ hai liên tiếp trong bốn câu thơ, tác giả đã nói đến sự hy sinh mà vẫn không để lại ấn tượng nặng nề về tổn thất, những ấn tượng có thể bóp chết ý chí chiến đấu. Mất mát càng tăng lên bao nhiêu thì sự hùng tráng của khổ thơ cũng tăng lên bấy nhiêu. Đến tiếng gầm của dòng sông Mã thì bản hùng ca bi tráng khép lại trong những âm thanh cao nhất, dữ dội nhất mà cũng âm vang nhất. Thiếu những nghi thức về vật chất, Quang Dũng đã bù lại bắng những nghi thức về tinh thần. Niềm đau của lòng người đã lan tỏa ra thấm đẫm vào sông núi, trời đất. Cảm giác mất mát nào phải chỉ có trong lòng những người đồng đội mà còn có trong cả lòng sông Mã, con sông đã cùng Tây Tiến đi suốt dọc dài đường hành quân, con sông bỗng cảm thấy mình lẻ bạn. Nhưng sông Mã không than thở không rên xiết mà nó gầm lên với tất cả sức mạnh của núi rừng linh thiêng. Nội lực câu thơ dồn vào chữ “ gầm”. Tiếng gầm ấy là khúc ai điếu dữ dội của núi rừng, của đất nước tưởng niệm những người lính ngã xuống. Và như thế, Quang Dũng với tất cả hiệu lực của ngòi bút lãng mạn tô đậm cái phi thường đã nâng sự hy sinh của người lính Tây Tiến lên ngang tầm non sông như một sự an ủi cho hương hồn những người liệt sĩ. Ta bắt gặp ở đây chút không khí của sử thi, cái thời mà oai linh rừng núi cũng tấu lên khúc trường ca dữ dội trước cái chết của những người anh hùng. Nằm trong phần thơ dựng lại hình tượng người chiến sĩ Tây Tiến, bốn câu thơ này nói về sự hy sinh và ý chí của đồng đội đã ra đi, đã ngã xuống. Đoạn thơ thấm chất bi nhưng cũng đậm chất tráng. Bi tráng là nét đặc sắc của ngòi bút Quang Dũng đã chứng minh một chân lý không dễ nhận ra: đó là con người ta có thể nhìn vào và nói lên mất mát, chỉ cần ta biết làm chủ cảm xúc của mình, mất mát không bao giờ là tuyệt vọng. Và phải chăng, Quang Dũng còn muốn ngầm hứa với những người chiến sĩ rằng còn dòng sông Mã, còn núi rừng Tây Bắc còn đất Việt Nam thì mãi còn các anh – những con người đã chẳng tiếc đời xanh vì Tổ quốc. THAM KHẢO: Hiểu đúng chữ \"hoa\" trong bài thơ \"Tây Tiến\" “Tây Tiến” là bài thơ nổi tiếng của nhà thơ xứ Đoài Quang Dũng. Nói đến Tây Tiến, người ta nói đến một thứ ngôn ngữ thơ tài hoa, đậm màu sắc bi tráng và lãng mạn. Bài thơ có nhiều hình ảnh đẹp, nhiều câu chữ xuất thần. Chữ “Hoa” xuất hiện ba lần trong toàn bài, đạt tới sự thăng hoa của cảm xúc nhưng nhiều người chưa hiểu thật đúng và sâu sắc ý thơ. 15

Chữ “Hoa” thứ nhất xuất hiện trong dòng thứ 4, khổ 1 của bài thơ gợi ra nhiều cách hiểu khác nhau: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát Hoa về trong đêm hơi” Chữ “Hoa” trong hình ảnh “Hoa về trong đêm hơi” ở câu thơ trên có nhiều người ( nhất là học sinh) hiểu theo nghĩa: Đoàn quân Tây Tiến về Mường Lát trong đêm mang theo cả hương hoa rừng. Cách hiểu thứ hai nghiêng về nghĩa vốn có của từ “Hoa” nghĩa là bông hoa rừng. Khi phân tích , bình giảng cũng có người hiểu theo nghĩa “Hoa” chính là hình ảnh ẩn dụ chỉ các chiến sĩ Tây tiến. Đôi khi người ta cũng cho rằng đó chỉ là một thủ pháp lạ hóa ngôn từ của Quang Dũng mà thôi. Sách giáo khoa không có phần chú thích chữ này,và thực tế cho thấy, khi tìm hiểu bài thơ, ít có nhà nghiên cứu, hay người viết nào luận bàn thật sâu sắc từ này, vì chưa hiểu rõ nên người ta thường bỏ qua vẻ đẹp của nó. Nhìn lại một số các hiểu từ “hoa” như trên, tôi cho rằng chưa thỏa đáng. Cách hiểu thứ nhất là cách hiểu suy diễn, vì ở đây không hề xuất hiện từ “hương”, do đó không thể hiểu là “Hương hoa”. Theo cách hiểu thứ hai, đặt trong văn cảnh bài thơ, đoàn quân Tây tiến về Mường Lát trong đêm, chữ “Hoa” với nghĩa là “Hoa rừng” tỏ ra không phù hợp vì trong đêm tối, nhất là đêm hơi, đêm sương nhà thơ dù tinh tế đến đâu cũng không thể nhìn thấy vẻ đẹp của hoa. Cách hiểu thứ ba, mới nhìn có vẻ hợp lý hơn hai cách trước, tuy nhiên, trong văn học, người ta thường lấy hoa làm biểu tượng cho vẻ đẹp của người phụ nữ, chứ không thấy “Hoa” là biểu tượng cho người lính bao giờ. Vì thế, cũng không nên hiểu theo cách đó. Còn nếu nói, đó chỉ là thủ pháp lạ hóa về ngôn từ của nhà thơ, thì chỉ đúng phần nào, vì dụ lạ hóa đến mức nào, ngôn từ cũng phải mang trong nó một ý nghĩa, một hàm ý nào đó. Theo “Từ điển tiếng việt” chữ “Hoa” đứng một mình mang tới 7 nghĩa, nhưng áp vào trường hợp trên, tôi thấy không có từ nào phù hợp. Chữ “Hoa” trong từ ghép có tới 51 từ, trong đó chỉ có 2 từ là “Hoa đăng”,”Hoa đèn” hay “Hoa chúc” ( Từ điển Hán Việt- Đào Duy Anh) mang tính chất phù hợp hơn cả. Nhưng ta nên lý giải như thế nào để đúng với bài thơ ? Đi tìm một cách luận giải hợp lý, tôi cho rằng để hiểu chữ “Hoa” thứ nhất ta nên bàn thêm về chữ “Hoa” thứ hai trong khổ thơ tiếp theo: “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ” Chữ hoa ở đây đặt trong từ “đuốc hoa” (hoa chúc), nghĩa là những ngọn đuốc trong đêm liên hoan của các chiến sĩ Tây Tiến với đồng bào dân tộc miền Tây. Ngọn đuốc đối với những người lính hành quân trong rừng đêm vừa là phương tiện soi đường, vừa là một thứ vũ khí đối phó với thú dữ. Trong bài “ Việt Bắc”, Tố Hữu cũng viết : “ Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay” Trở lại với chữ “Hoa” thứ nhất trong khổ thơ đầu của bài thơ Tây Tiến, chúng ta cần hiểu theo nghĩa “Đuốc Hoa”. Đây là cách hiểu chính xác hơn cả. Chữ “Hoa” đạt tới sự thăng hoa trong cảm xúc Quang Dũng. Nhìn từ xa đoàn quân Tây Tiến hành quân về Mường Lát mang theo những ngọn đuốc giống như một dòng sông hoa lung linh, ẩn hiện trong đêm sương. Cách hiểu hiểu này cũng phù hợp với nỗi nhớ mênh mang, chơi vơi của nhà thơ ở những dòng thơ đầu. Sự lạ hóa trong ngôn từ của Quang Dũng thật tài hoa, mang đầy chất lãng mạn. Chính sự lạ hóa này làm cho hình ảnh đoàn quân Tây Tiến đẹp hơn, thơ hơn rất nhiều. Trong bài thơ Tây Tiến, chữ “Hoa” cũng xuất hiện trong đoạn thơ miêu tả vẻ đẹp thơ mộng của sông nước miền Tây: “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” Chữ “Hoa” đã thể hiện cảm nhận tinh tế của nhà thơ về thiên nhiên. Hình ảnh những bông hoa rừng đong đưa như làm duyên trên dòng nước lũ làm khổ thơ đẹp hơn rất nhiều, Ba chữ “Hoa đong đưa” gợi một cảm xúc rất tình tứ và duyên dáng. Viết về vẻ đẹp của hoa rừng, ít nhà thơ nào viết được như vậy. Cả ba chữ “Hoa” trong bài thơ Tây Tiến đều đẹp, hoa(1) đẹp vẻ huyền ảo, hoa (2) đẹp lung linh, và hoa (3) đầy duyên dáng. Tóm lại, tuy chữ : hoa” chỉ là một chữ nhỏ trong bài thơ Tây Tiến, song chỉ một chữ thôi, Quang Dũng đã thể hiện những cảm nhận thật tinh tế và sự thăng hoa tuyệt vời trong cảm xúc. Nếu hiểu thật đúng và sâu sắc ý thơ, chúng ta sẽ thấy bài thơ hay và đẹp hơn rất nhiều. 16


Like this book? You can publish your book online for free in a few minutes!
Create your own flipbook