CHUYÊN ĐỀ: VỢ CHỒNG A PHỦ Trình bày: Nguyễn Mai Hồng Trang A. TÁC GIẢ TÔ HOÀI: I. Tiểu sử: - Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen sinh ngày 07 – 9 - 1920, sinh ra tại quê nội ở thôn Cát Động, Thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông cũ trong một gia đình thợ thủ công. Tuy nhiên, ông lớn lên ở quê ngoại là làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam). - Bút danh Tô Hoài của ông được đặt từ hai địa danh nổi tiếng gắn bó cả tuổi thơ và những năm trai trẻ của ông là Phủ Hoài Đức và sông Tô Lịch. Ngoài bút danh là Tô Hoài, ông còn dùng thêm nhiều bút danh khác như Vũ Đột Kích, Mai Trang, Mắt Biển, Thái Yên, Hồng Hoa và Phạm Hòa. - Thời niên thiếu của ông rất khó khăn cực khổ, nhưng với tính cần cù, chịu khó ông đã thử sức mình với rất nhiều nghề nghiệp khác nhau để sinh sống qua ngày từ dạy trẻ, bán hàng, thợ thủ công dệt lụa cho đến kế toán,... có cả những thời điểm ông thất nghiệp, không có việc làm. - Năm 1943, Tô Hoài gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc, bắt đầu tham gia vào các phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp . Từ đây, ông hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực báo chí, văn hoá văn nghệ và đạt rất nhiều thành tựu xuất sắc. - Sau năm 1945, Tô Hoài làm Chủ nhiệm báo “Cứu quốc” và là một trong số những nhà văn đầu tiên Nam tiến và tham dự một số chiến dịch ở mặt trận phía Nam. Năm 1946, ông được kết nạp vào Đảng. - Đến năm 1950, ông về công tác tại Hội Văn nghệ Việt Nam. Từ năm 1957 đến năm 1980, Tô Hoài được nắm giữ rất nhiều chức vụ khác nhau trong Hội Nhà văn như : ủy viên Đảng Đoàn, Phó Tổng thư kí, Chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội, Giám đốc Nhà xuất bản Thiếu nhi. - Từ năm 1954 trở đi, ông bắt đầu tập trung vào sự nghiệp sáng tác của mình, nhanh chóng gặt hái thành công và được nhiều người yêu mến.
II. Sự nghiệp văn học: 1) Những nét chính: Tô Hoài là một nghệ sĩ rất đa tài, trong suốt sự nghiệp văn chương của mình ông đã miệt mài sáng tác hàng trăm tác phẩm thuộc đủ thể loại như: tiểu thuyết, truyện vừa, bút ký, ký sự, truyện ngắn, hồi ký, tự truyện, tiểu luận phê bình, truyện viết cho thiếu nhi, cho đến cả các bài báo ngắn. - Trước cách mạng tháng 8, văn học của ông chủ yếu viết về các loài vật và những câu chuyện về người dân nông thôn sống trong cảnh nghèo khổ. Một số tác phẩm tiêu biểu trong giai đoạn này là: • Dế Mèn phiêu lưu kí (truyện, 1941) • Quê người (1941) • O chuột (1942) • Giăng thề (1943) • Nhà nghèo, Xóm giếng ngày xưa, Cỏ dại (1944) - Sau cách mạng tháng 8, ông có những chuyển biến mạnh mẽ về phong cách và tư tưởng sáng tác với những tác phẩm phản ánh cuộc sống cơ cực của nhân dân dưới ách thống trị tàn bạo của của giặc xâm lược và con đường đến với cách mạng giải phóng của họ. Những tác phẩm tiêu biểu trong giai đoạn này là: • Vợ chồng A Phủ • Núi cứu quốc (1948) • Truyện Tây Bắc (1953) • Mười năm (1957) • Miền Tây (1967) • Cát bụi chân ai (1992) • Ba người khác (2006) 2) Các đặc điểm trong sự nghiệp văn chương: →Suốt cả cuộc đời, Tô Hoài cần cù đi và viết để cống hiến hết mình cho văn chương cũng như tổ quốc. Trong hơn bảy mươi năm cầm bút, nhà văn đã để lại cho đời sau một kho báu khổng lồ, các tác phẩm của ông giống như dòng nước mát nuôi dưỡng tâm hồn bao thế hệ và đã để lại nhiều dấu ấn khó phai trong lòng độc giả. *Tô Hoài và vân chữ riêng trong văn chương:
- Nhà văn là một cây bút viết văn xuôi xuất sắc, người đọc biết đến ông không chỉ dừng lại ở những tác phẩm viết về miền núi Việt Bắc, Tây Bắc và những tập truyện dành cho thiếu nhi mà còn bắt gặp Tô Hoài ở các thể loại bút ký, tự truyện. - Tô Hoài nổi danh từ rất sớm với những tác phẩm đầu tay được đăng ở Hà Nội tân văn và Tiểu thuyết thứ 7 vào những năm ba mươi của thế XX, ngay từ khi còn trẻ, nhà văn đã có được một chỗ đứng vững chắc ở văn đàn Việt Nam thời bấy giờ. Truyện ngắn và hồi ký là những thể loại mà Tô Hoài thường xuyên sử dụng trong quá trình sáng tác, cả hai đều là điểm mạnh của nhà văn. - Ở truyện ngắn, ông tái hiện cho người đọc thấy về một miền núi thô sơ mộc mạc cùng những phong tục, tập quán mang đậm bản sắc dân tộc, đồng thời các truyện ngắn của nhà văn còn phác họa nên một bức tranh về đất nước trong thời kỳ khó khăn cùng những kiếp sống lầm than, chật vật nơi miền quê của ông. - Đến với hồi ký ta lại bắt gặp một màu sắc đầu độc đáo và mới mẻ của Tô Hoài, người đọc thấy được hình ảnh của chính bản thân ông cùng những gương mặt văn sỹ quen thuộc dưới đời sống xã hội của một thời kỳ đầy biến động. *Những hạt ngọc làm nên sự nghiệp văn học đồ sộ của nhà văn lớn: - Tô Hoài đã để lại cho đời sau một khối lượng khổng lồ những tác phẩm quý giá, điển hình là thiên truyện dài nổi danh “Dế mèn phiêu lưu ký”, cuốn hồi ký sâu lắng “Cát bụi chân ai” và truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. - Đến với “Dế mèn phiêu lưu ký”, một tác phẩm văn xuôi đặc sắc gắn liền với bao thế hệ thiếu nhi, người đọc dường như lạc vào thế giới động vật mới lạ và sinh động để phiêu lưu cùng chú dế mèn, mỗi cuộc phiêu lưu gắn liền với một bài học vô cùng quý giá được tác giả gửi gắm bên trong. - Trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, vợ chồng A Phủ là linh hồn của cả thiên truyện, đó là câu chuyện xoay quanh một cô gái dân tộc tên Mị và công cuộc giải cứu bản thân cùng người khác khỏi cường quyền, thần quyền và tiền quyền. - Ngoài những tác phẩm kể trên, Tô Hoài còn để lại cho đời rất nhiều hạt ngọc văn chương khác, mỗi hạt đều góp phần tô điểm hương sắc cho đời và giúp cho cái nhìn của mỗi độc giả ngày càng thêm phong phú hơn. *Tô Hoài là ngôi sao sáng trên bầu trời văn chương Việt Nam:
-Với những cống hiến to lớn cho nước nhà, Tô Hoài đã nhận được rất nhiều giải thưởng, đó có lẽ là một minh chứng chứng minh cho sự nghiệp đồ sộ của ông: • Giải nhất Tiểu thuyết của Hội Văn nghệ Việt Nam 1956 (Truyện Tây bắc) • Giải A Giải thưởng Hội Văn nghệ Hà Nội 1970 (tiểu thuyết Quê nhà) • Giải thưởng của Hội Nhà văn Á - Phi năm 1970 (tiểu thuyết Miền Tây) • Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật (đợt 1 - 1996) • Giải Bùi Xuân Phái - Vì tình yêu Hà Nội 2010 Hiện tại ông đã xuất bản 200 đầu sách thuộc nhiều thể loại khác nhau và vinh dự trở thành là một trong số ít nhà văn hiện đại Việt Nam có nhiều đầu sách nhất từ xưa đến nay trong sự nghiệp sáng tác của mình. Cuộc đời và sự nghiệp văn chương đồ sộ của Tô Hoài có rất ít tác giả nào sánh kịp. Ông đã để lại cho nền văn học nước nhà rất nhiều giá trị cao quý. III. Phong cách nghệ thuật: 1. Nhà văn của đời sống sinh hoạt, phong tục hằng ngày: - Theo ông: “Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thâtj thì không tầm thường, cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc.” - Với cảm quan hiện thực đời thường, Tô Hoài rất nhạy cảm với những cảnh sinh hoạt, những phong tục tập quán. Trong văn Tô hoài những sự việc, chi tiết “vụn vặt” thường xuất hiện đậm đặc. Với một nhãn quan phong tục đặc biệt, nhà văn có tài phát hiện những sự việc trong đời sống sinh hoạt hằng ngày mà không phải nhà văn nào cũng cảm thấy: tục cướp vợ, thổi khèn, trình ma, phạt vạ,… Những phong tục hội làng, giỗ tết, cưới xin,… - Cái hấp dẫn là từ những chi tiết “vụn vặt” Ấy, người đọc vẫn cảm nhận được cái lớn lao của lịch sử, sự chuyển động trong từng bước đi của cách mạng, của đời sống xã hội,… 2. Nghệ thuật kể chuyện và miêu tả - Nghệ thuật kể chuyện: +) Trong sáng tác của Tô Hoài , người kể chuyện được lựa chọn từ nhiều vị trí rất đa dạng. Khi thì người kể chuyện tự kể về mình, khi thì đảm nhiệm vai trò kể chuyện, dẫn chuyện. Dù ở bất kỳ vị trí nào người kể chuyện vẫn giữ một khoảng cách nhất định với đối tượng. Chính khoảng cách ấy khiến truyện Tô Hoài luôn được màu
sắc khách quan. Kể cả khi viết hồi ký, Tô Hoài cũng tạo ra khoảng cách cần và đủ để người kể chuyện dễ dàng chuyền tải mọi vui buồn, hay dở của con người và cuộc sống bên trang sách. Vì thế, Tô Hoài rất tỉnh táo. Tỉnh táo mà không lạnh lùng nghiệt ngã, vẫn gần gũi thân mật. Một trong những bí quyết làm nên sắc thái riêng ấy của Tô Hoài là nghệ thuật sử dụng giọng điệu. +) Khi kể chuyện, Tô Hoài sử dụng khá nhiều sắc thái giọng điệu, khi dí dỏm, suồng sã, khi xót xa, thương cảm. Ông còn rất chú ý đưa vào mạch kể những sự kiện, những chi tiết tươi nguyên sự sống. Nhà văn rất sắc sảo khi lựa chọn thời điểm bắt đầu cho câu chuyện kể. Ờ “Vợ chồng A Phủ” và “Dế Mèn phiêu lưu ký”, nhà văn bắt đầu bằng thời điểm có ý nghĩa trong cuộc đời nhân vật..., khi thì chuyện được kể theo dòng thời gian tuyến tính như “Cỏ dại”, “Tự truyện”... +) Khi kể chuyện Tô Hoài thường kể với nhịp điệu chậm như dòng chảy cuộc sống đời thường. Để tạo nhịp kể ấy, nhà văn đã đan xen những bức tranh miêu tả: miêu tả nhân vật, thiên nhiên và phong cảnh sinh hoạt,... -Nghệ thuật miêu tả: +) Miêu tả là thế mạnh của ngồi bút Tô Hoài. Phát huy sở trường ấy ông thường đan xen trong mạch cảm xúc những bức tranh miêu tả: miêu tả nhân vật, thiên nhiên và cảnh sinh hoạt, phong tục,... +) Khi miêu tả nhà văn chọn lựa những chi tiết hình ảnh đặc sắc, tiêu biểu từ sự quan sát tinh tế, tỉ mỉ trong cảm quan hiện thực đời thường. Những chi tiết, hình ảnh mà Tô Hoài lựa chọn được sống dậy trong bức tranh miêu tả nhờ một hệ thống các từ ngữ giàu sắc thái tạo hình và nghệ thuật, sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa. +) Miêu tả nhân vật, nhà văn đặc biệt có sở trường trong việc tả ngoại hình và hành động thể hiện cá tính, tính cách nhân vật. +) Nhờ tài lựa chọn chi tiết, hình ảnh đặc sắc lột tả được cái thần của đối tượng nên bức tranh miêu tả của Tô Hoài đậm đà bản sắc dân tộc. Có khi chỉ qua vài nét chấm phá mà hiện rõ nét “Hồng ngài năm ấy ăn tết…” -Ngôn ngữ và giọng điệu dầu tính khẩu ngữ +)Ngôn ngữ: . Trong sáng tác, Tô Hoài rất có ý thức sử dụng khéo léo lời ăn tiếng nói hằng ngày của quần chúng lao động. Chính nó mang đến sắc thái dung dị tự nhiên,
mang hơi thở cuộc sống bình dị. Hệ thống từ ngữ quần chúng xuất hiện đậm đặc. Tuy nhiên ngôn ngữ đời thường trong văn Tô Hoài là thứ ngôn ngữ được chắt lọc từ quần chúng và được nâng lên thành ngôn ngữ nghệ thuật. . Ngôn ngữ trong văn Tô Hoài nhờ tài dàn dựng của nhà văn mà có sức tạo hình đặc sắc. Những hình ảnh sống động giàu sức tạo hình của ngôn ngữ, chẳng hạn tiếng sáo gọi bạn như một tác nhân gây xúc động...; dòng nước mắt có sức mạnh kỳ diệu lay động tâm can thức tỉnh... +) Giọng điệu: trong sáng tác của Tô Hoài giọng chủ đạo làm nên diện mạo riêng là giọng tự nhiên suồng sã, giọng dí dỏm và giọng trữ tình mở (bằng bạc chất thơ của cuộc sống hiện thực). Ba sắc thái giọng điệu này là một trong những phương tiện để tác giả bày tỏ thái độ và truyền tải muôn chuyện đời thường lên trang sách. Kết luận: Tô Hoài là người viết văn xuôi vào loại nhiều nhất trong văn học Việt Nam hiện đại. Hơn nữa, ông lại là người sáng tạo không biết mệt mỏi. Nhưng trên hành trình dằng dặc ấy, Tô Hoài đã tìm cho mình một con đường riêng, một giọng điệu riêng, một phong cách riêng. 3. Phong cách nghệ thuật của Tô Hoài trong truyện “Vợ chồng A Phủ”: - Tô Hoài có thiên hướng với đời sống sinh hoạt hằng ngày. - Tô Hoài đã đi vào khai thác cuộc sống của người dân lao động miền núi cao Tây Bắc qua cuộc đời của một con người, cụ thể trong không gian sinh hoạt hằng ngày, gắn liền với những không gian ấy là những phong tục tập quán đậm tính truyền thống. “Vợ chồng A Phủ” miêu tả cuộc đời của Mị, một cô gái có số phận đau thương. Nhà văn đã đặt nhân vật vào không gian sinh hoạt hằng ngày của một cô dâu gạt nợ nhà Thống lý, gắn liền với những sự kiện trong cuộc đời Mị là những phong tục tập quán truyền thống như tục cướp vợ, tục cúng trình ma, cúng ma ngày tết, tục thổi sáo, gọi bạn và đi chơi xuân… Vì vậy đọc truyện, người đọc như được sống, được tự mình trải nghiệm tất cả những nét sinh hoạt văn hóa riêng của người dân vùng cao Tây Bắc. Từ những trải nghiệm ấy, Tô Hoài đã cho ta thấy rõ cái bước đi của lịch sử, của đời sống con người. - Về ngôi kể: cuộc đời các nhân vật có khi được kể bằng ngôi kể của nhà văn, người kể chuyện giấu mặt, lúc lại là nhân vật Mị. Đoạn văn kể về việc Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lý và tình cảm tình cảnh cô ở đó, Tô Hoài đã chọn người kể chuyện và di chuyển điểm nhìn hợp lý nhằm nổi bật cảnh tình, nông nổi và từng bước dẫn
người đọc nhập vào thế giới nội tâm của nhân vật. Ban đầu là điểm nhìn của người kể chuyện (kể về Mị), sau đó chuyển hẳn sang điểm nhìn của nhân vật Mị (hồi ức của Mị về quá khứ, cảm nhận hiện tại). Phối hợp các thủ pháp kể miêu tả, đối thoại một cách nhịp nhàng theo cái nhìn từ bên ngoài điểm nhìn người kể chuyện dấu mình hay kết hợp cái nhìn từ bên ngoài với cái nhìn từ bên trong điểm nhìn của nhân vật Mị. Ví dụ đoạn đầu “Ai ở xa về... Pá Tra” kết hợp với miêu tả, bình luận. Đoạn kể A Sử cướp Mị về kết hợp với đối thoại (theo cách nhìn người kể chuyện dấu mình). +) Cách trần thuật linh hoạt biến hóa như vậy có hai tác dụng: tạo sức hấp dẫn, lôi cuốn, kết hợp với giới thiệu nhân vật, bối cảnh, dẫn dắt mạch chuyện và khắc họa số phận, tâm lý nhân vật chính. +) Hơn nữa, việc kết hợp các điểm nhìn như vậy làm văn Tô Hoài rất tỉnh táo. Tỉnh táo mà không lạnh lùng nghiệt ngã, vẫn gần gũi, thân mật. -Nhờ tài lựa chọn chi tiết hình ảnh đặc sắc cùng với nghệ thuật tả cảnh: được sử dụng để làm nổi bật chất Tây Bắc. Chất Tây Bắc ấy được thể hiện là cảnh sắc thiên nhiên, cảnh sinh hoạt với những phong tục tập quán mang đậm bản sắc văn hóa vùng cao: +) Cảnh thiên nhiên: thiên nhiên Tây Bắc đẹp nhất là lúc tết đến xuân về, khi có sự bừng nở của thiên nhiên và tâm hồn người. Nhà văn kết hợp tả và gợi, cố gắng làm bật nổi sự hòa quyện giữa thiên nhiên và con người. +) Cảnh sinh hoạt, phong tục +) Cảnh ngày tết: cảnh được tái hiện bằng những chi tiết tiêu biểu nhất cho người dân lao động miền núi: uống rượu, nhảy động, sân chơi... +) Cảnh đêm tình mùa xuân, một nét sinh hoạt văn hóa độc đáo với những chi tiết về tiếng sáo, đi chơi, bài hát tình yêu. Tất cả làm bức tranh thấm đậm chất trữ tình. +) Cảnh xử kiện: biểu hiện đậm nét tục lệ dã man của chế độ phong kiến. -Nhận xét +) Nhà văn đã tỏ rõ tài năng khi tìm ra những chi tiết có ý nghĩa, khéo tổ chức chúng để làm nổi bật đặc điểm chính của cảnh, của vật, việc mà mình miêu tả. +) Giá trị của những trang văn này không chỉ là việc dựng lại một cảnh sinh hoạt, nếp sinh hoạt, phong tục vùng cao Tây Bắc mà còn tạo ra bức phông nền thích
hợp để bộc lộ nét bi thảm trong số phận nhân vật và vẻ đẹp sức sống tiềm tàng của con người trên vùng đất đó. -Ngôn ngữ, cách kể: +) Ngôn ngữ đậm chất miền núi, cách nói hồn nhiên mà vẫn đầy chất thơ. +) Cách kẻ lối trần thuật linh hoạt với sự dịch chuyển của điểm nhìn trần thuật. —-> Đặc sắc nghệ thuật góp phần làm nổi bật tư tưởng và tạo nên sức sống cho tác phẩm. B. TÁC PHẨM I. TẬP “TRUYỆN TÂY BẮC” *Khái quát: Trong văn học Việt Nam, nếu Nguyên Ngọc mở cánh cửa vào Tây Nguyên thì Tô Hoài mở cánh cửa vào Tây Bắc. Nghĩa là phải đến Tô hoài thì đất nước và con người miền Tây mới đi vào trang văn một cách cụ thể và sinh động, hấp dẫn. Với tập Truyện Tây Bắc, Tô Hoài đã khắc họa một cách chân thật, sinh động những nỗi đau thương, khổ nhục của người dân miền núi dưới ách áp bức nặng nề của thực dân phong kiến. Đồng thời từ đó, ông ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người dân tộc thiểu số miền núi, cũng như lý giải thành công về con đường tất yếu họ phải tìm đến để thoát khỏi cuộc sống bị đọa đày áp bức. - “Truyện Tây Bắc” gồm 3 truyện “Cứu đất cứu mường”, “Mường giơn”, \"Vợ chồng A Phủ\". - Hoàn cảnh sáng tác: cuối năm 1952, nhà văn Tô Hoài đi với bộ đội trong chiến dịch Tây Bắc. Sau khi tìm hiểu chung, Tô Hoài quyết định đi sâu vào những khu du kích của đồng bào các dân tộc thiểu số trên vùng núi cao. Chuyến đi kéo dài tám tháng đã để lại những ấn tượng sâu sắc và tình cảm tốt đẹp cho nhà văn. Tô Hoài kể lại: “Cái kết quả lớn nhất và trước nhất của chuyến đi tám tháng ấy là đất nước và con người miền Tây đã để thương, để nhớ cho tôi nhiều quá, tôi không thể bao giờ quên. Tôi không thể bao giờ quên được lúc vợ chồng A Phủ tiễn tôi lại dốc núi làng Tà Sùa rồi cùng vẫy tay gọi theo: “Chéo lù! Chéo lù!” (Trở lại! Trở lại!) Không bao giờ tôi quên được lúc vợ chồng Lý Nủ Chu tiễn chúng tôi dưới chân núi Cao Phạ cũng vẫy tay kêu: “Chéo lù! Chéo lù!” Hai tiếng: Trở lại! Trở lại! Chẳng những nhắc tới tôi có ngày trở lại, phải đem trở lại
cho những người thức ấy của tôi một kỷ niệm tấm lòng mình, một cái gì làm biểu hiện lại cả cuộc đời người Mèo (Mông) trung thực, chí tình, dù gian nan thế nào bao giờ cũng đợi cán bộ, đợi bộ đội, bao giờ cũng mong anh em trở lại”. Hình ảnh Tây Bắc đau thương lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tác giả. Đề tài này là một quyết định. Vì thế Tô Hoài viết “Truyện Tây Bắc” - Nội dung: Tô Hoài viết về Tây Bắc không chỉ bằng tài năng nghệ thuật, vốn sống phong phú, mà còn bằng cả tình yêu đằm thắm tha thiết như chính quê hương mình. Trong sách Truyện Tây Bắc, Tô Hoài đã tái hiện bức tranh miền núi đa dạng với đầy số phận đau thương, đặc biệt. Ở đó, ông lưu tâm sâu sắc đến số phận của những phụ nữ. Qua số phận của bà Ảng trong Cứu đất cứu mường, Mát trong Mường Giơn, và Mị trong Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài đã cho độc giả chứng kiến chân thật nỗi khổ của phụ nữ, gợi nên lòng xót thương, bi ai. Những phụ nữ trong xã hội vốn đã luôn thiệt thòi, sống ở miền núi, nơi nhiều tập tục bảo thủ, áp bức bất công, càng khắc nghiệt hơn. Những ngày chiến tranh ấy, phụ nữ tủi nhục, cam chịu phận làm người nhưng không được hưởng quyền lợi cơ bản nhất của con người. Họ bị tước đoạt tài sản, bóc lột sức lao động và xúc phạm nhân phẩm. Trong cảnh đau thương tột cùng đó, cách mạng đã đến với họ và họ đã thức tỉnh. - Chủ đề: “Truyện Tây Bắc” là một thành công của Tô Hoài trong việc nhận thức, khám phá hiện thực kháng chiến ở một địa bàn đặc biệt vùng cao phía Tây Bắc tổ quốc đặc biệt là những khám phá mới mẻ sâu sắc về số phận và tâm hồn người lao động nghèo miền núi Tây Bắc trên hành trình đến với cách mạng. Tác phẩm in rõ dấu ấn phong cách nghệ thuật đặc sắc của Tô Hoài: màu sắc dân tộc đậm đà, chất thơ, chất trữ tình thấm đựơm, ngôn ngữ và lời văn giàu tính tạo hình. - Tác phẩm được giải nhất về truyện, kí (đồng hạng với Đất Nước đứng lên của Nguyên Ngọc) giải thưởng của hội Văn Nghệ Việt Nam 1954-1955. Truyện kể về quá trình tự vươn lên đổi đời và sự thức tỉnh cách mạng của hai thanh niên người Mèo: Mị và A Phủ, thoát khỏi kiếp đời nô lệ trong tay cha con thống lí Pá Tra ở Hồng Ngài để tìm đến khu du kích mới ở Phiềng Xa trở thành những du kích dũng cảm chiến đấu giữ bản làng. II. TRUYỆN NGẮN “VỢ CHỒNG A PHỦ”
-Xuất xứ: \"Vợ chồng A Phủ\" là truyện ngắn xuất sắc của Tô Hoài viết về đề tài miền núi Tây Bắc được in trong tập “Truyện Tây Bắc”(1953) - Hoàn cản sáng tác: Chia sẻ về sự ra đời của Vợ chồng A Phủ, nhà văn Tô Hoài kể: “Câu chuyện hoàn toàn có thực, tức là nguyên mẫu ở ngoài đời sống. Đợt ấy, tôi đi công tác từ Tà Sùa sang Phù Yên (Sơn La). Ở Tà Sùa, tôi gặp cặp vợ chồng người Mèo vào đúng dịp Tết truyền thống của họ, tức khoảng tháng mười một âm lịch, trước tết Nguyên Đán của ta một tháng. Tết người Mèo kéo dài cả tháng. Tôi cùng đôi vợ chồng nhà kia đi ăn Tết từ bản này sang bản khác. Ăn Tết và uống rượu, rồi anh chồng kể chuyện. Anh kể về cuộc đời anh, cuộc đời chị vợ, về chuyện thống lý ở bản anh làm tay sai cho Pháp, rất tàn ác, cho nên anh phải đưa vợ chạy trốn đi nơi khác. Câu chuyện của đôi vợ chồng nọ cộng với vốn hiểu biết của tôi về đời sống người Mèo làm cho cốt truyện cứ sáng tỏ dần. Và tôi bắt tay vào viết”. - Chủ đề: Thông qua số phận của Mị và A Phủ, tác giả thể hiện tấm lòng yêu thương, cảm thông số phận người dân miền núi, trân trọng vẻ đẹp tiềm tàng của họ, ngợi ca ý nghĩa nhân đạo của sự nghiệp giải phóng con người thoát khỏi tối tăm và áp bức. - Nội dung: Truyện kể về quá trình tự vươn lên đổi đời và sự thức tỉnh cách mạng của hai thanh niên người Mèo: Mị và A Phủ, thoát khỏi kiếp đời nô lệ trong tay cha con thống lí Pá Tra ở Hồng Ngài để tìm đến khu du kích mới ở Phiềng Xa trở thành những du kích dũng cảm chiến đấu giữ bản làng. - Bố cục: 2 phần: Về 2 giai đoạn của cuộc đời Mị và A Phủ: +) Giai đoạn 1: ở Hồng Ngài, trong nhà thống lí Pá Tra +) Giai đoạn 2: ở Phiềng Sa: gặp gỡ cách mạng → Đoạn trích thuộc giai đoạn 1: từ cuộc sống nô lệ đến hành động tự giải phóng bản thân của Mị và A Phủ. III. PHÂN TÍCH CHI TIẾT: 1. Nhân vật Mị: *Khái quát về nhân vật Mị: Có thể nói cuộc đời của Mị trong câu chuyện cũng là cuộc đời và số phận tiêu biểu cho người phụ nữ vùng cao Tây Bắc suốt những năm kháng chiến chống Pháp. Tô Hoài muốn làm sáng tỏ quy luật tất yếu của con đường nhân dân đến với cách mạng để giải phóng chính mình. Cuộc đời Mị vừa là bi kịch của
số phận nhưng cũng là tất yếu của cách mạng. Điều đó đã làm nên thành công cho tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài cũng như hình tượng nhân vật Mị. → Cuộc đời Mị chia làm những chặng đường, mà mỗi chặng là một bước tiến quan trọng đưa nhân vật đến gần với ánh sáng của tự do hơn, cho dù có lúc Tô Hoài phải để nhân vật của mình đi qua bóng tối khổ đau. * Cách giới thiệu nhân vật của nhà văn. - Với thủ pháp nghệ thuật đòn bẩy và cách giới thiệu có vấn đề, nhà văn đã gây ấn tượng mạnh mẽ cho độc giả. Không đơn thuần là sự miêu tả hoàn cảnh và tính cách nhân vật như ta thường gặp mà có một điều gì như đặc biệt, như đổi mới ở đây. Khung cảnh đầu truyện cũng chính là khung nền mà Mị xuất hiện. Ai ở xa về có việc vào nhà thống lí Pá Tra cũng trông thấy một cô gái ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Không phải ngẫu nhiên mà Mị lại xuất hiện cạnh những vật vô tri, vô giác bởi chính cô cũng là một con người đang chết ngay khi còn sống: không cảm nhận, không buồn vui. Những chi tiết đắt giá làm nổi hình sắc nhân vật. Con người lẫn vào với những vật vô tri, thân phận trâu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải hay chẻ củi, cõng nước thì mặt cô cũng buồn rười rượi. Mâu thuẫn nảy sinh để ai cũng phải băn khoăn một câu hỏi: vì sao con gái một nhà giàu như nhà thống lí Pá Tra thì bao giờ biết đến cái khổ mà biết khổ, mà buồn. Chính vì vậy người đọc muốn đi tìm căn nguyên nỗi buồn khổ ấy của nhân vật, và nhà văn cũng có cái cớ để kể lại cuộc đời, số phận của nhân vật Mị. Đây là một cách mở truyện khá thành công, hấp dẫn của Tô Hoài. - Kết cấu đồng tâm, đi từ điểm nhấn trong cuộc đời nhân vật mà ra chứ không dựng theo trình tự thời gian. Cũng như Nam Cao lựa chọn giới thiệu nhân vật Chí Phèo khi nhân vật đã bị tha hóa, lưu manh hóa thì Mị cũng đến với bạn đọc khi cô về làm dâu nhà thống lí, khi sức sống của cô đã bị vùi dập. Vậy là giá trị tố cáo thông qua hình tượng nhân vật đã xuất hiện ngay trang văn đầu tiên của truyện. Từ đó tác giả bắt đầu làm một cuộc hành trình xuyên suốt cuộc đời nhân vật để làm sáng tỏ dụng ý nghệ thuật của mình. Người đọc ngược dòng thời gian tìm hiểu cuộc đời của Mị theo để thấy những mảng tối, sáng và những bước thăng trầm trong cuộc đời nhân vật. *Phân tích: a. Trước khi về làm dâu (những vẻ đẹp về phẩm chất và tâm hồn Mị):
- Mị được coi là một cô gái với nhiều đức tính tốt. Là một người con của núi rừng Tây bắc xinh đẹp, tài hoa, chăm chỉ, hiếu thảo và yêu tự do, cô có tình yêu đẹp và niềm tin vào cuộc sống tương lai tươi sáng. Nhưng Mị sớm phải gánh trên vai món nợ truyền kiếp của cha mẹ . - Có lẽ yêu Tây Bắc bao nhiêu thì Tô Hoài gửi gắm tình yêu vào Mị bấy nhiêu, ông đã mang bao yêu thương phủ lên đời Mị những ánh hào quang rực rỡ nhất của một người con gái. Mị xinh đẹp “những đêm tình mùa xuân đến, trai đứng nhẵn cả bức vách đầu buồng Mị”. Mị có tài thổi sáo khiến “bao người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị” …. Mị sống trong những tháng ngày tươi đẹp của tuổi thanh xuân, tràn trề cơ hội được hưởng thụ tình yêu và hạnh phúc. Bởi khao khát, Mị cũng đã có người yêu, một tình yêu đẹp với ngón tay đeo nhẫn và tín hiệu gõ vách hẹn hò. - Bên cạnh vẻ đẹp, tài năng thì bản chất của một người lao động không mất đi trong con người Mị – một cô gái của núi rừng. Mị biết cuốc nương, làm ngô và sẵn sàng làm nương ngô trả nợ cho bố mẹ: “bố đừng bán con cho nhà giàu con sẽ làm nương ngô trả nợ cho bố”. Mị hiếu thảo, sẵn sàng chịu vất vả, khổ cực vì cha, không ngại ngần mà làm nương trả nợ. Nhưng cũng chính là để bảo vệ mình, giữ cho mình một tình yêu tự do. Khao khát tình yêu tự do là hạt mầm đầu tiên gieo lên sức sống tiềm tàng đầy mãnh liệt ở Mị. - Xuất hiện với vẻ đẹp toàn diện của một cô gái không chỉ có ngoại hình xinh đẹp như bông hoa ban núi rừng Tây Bắc, mà Mị còn có nội tâm đẹp đẽ, trong sáng. Bên cạnh đó tài thổi sáo như điểm tô thêm vẻ đẹp cho nhân vật đạt đến độ toàn mĩ. Ấy vậy mà, cuộc đời Mị không theo ý muốn của cô, không thể tự quyết định cuộc đời của mình. Mị bị bắt về nhà Thống lý Pá Tra ép sống kiếp dâu con gạt nợ. Đó cũng là số phận chung của những người phụ nữ trong thời kì Pháp thuộc nơi miền núi Tây Bắc xa xôi ấy. b. Mới về làm dâu: vẻ đẹp về ý thức tự chủ mạnh mẽ của Mị: -Một cô gái trẻ đẹp với bao khát vọng về cuộc sống hạnh phúc tươi sáng ở tương lai, nhưng bàn tay vô hình của số phận đưa Mị đi làm dâu gạt nợ cho nhà giàu – Mị như chết đứng với số phận từ đây. Tô Hoài phải thật sự am hiểu về phong tục tập quán của người dân miền núi mới có thể miêu tả tỉ mỉ tục bắt vợ. Đêm mùa xuân ấy, cũng là đêm cuối cùng Mị còn tự do với tình yêu trong sáng, cháy bỏng của mình. Và cũng là đêm
bắt đầu cho những chuỗi ngày tăm tối như địa ngục trần gian của Mị tại nhà thống lí Pá Tra. Tác giả miêu tả rất tự nhiên vào một đêm khuya Mị nghe tiếng gõ vách. + Tiếng gõ vách hò hẹn của người yêu. Mị vừa hồi hộp lặng lẽ quơ tay lên để tìm bàn tay quen thuộc của người yêu. Khi nắm được vào bàn tay có đeo nhẫn ở đúng ngón tay mà người yêu Mị thường đeo thì tiếng gọi của tình yêu để cho Mị nhấc tấm vách gỗ bước ra với người yêu. Một hành động tưởng như viết ra thật đơn giản nhưng sao lại làm ta nhớ đến cái táo bạo trong tình yêu của cô Kiều trong trang thơ của Nguyễn Du xưa kia. Đang trong đêm mà “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” sang hẹn ước, thề nguyền với chàng Kim. + Cái tài của cả Nguyễn Du và Tô Hoài không chỉ là để cho nhân vật của mình thể hiện khao khát tự do yêu đương mà để thấy sức sống mãnh liệt khi họ dám bước qua bao lễ giáo, hủ tục để đến với tình yêu. Phải chăng điều này cũng là một dự báo ban đầu của sức sống tiềm tàng để về sau người đọc không ngỡ ngàng trước những hành động đầy bứt phá của Mị trên con đường tự giải phóng bản thân. Nhưng thật không may, tưởng rằng được đến với tình yêu và hạnh phúc của mình cũng là lúc Mị rơi vào vực thẳm của số phận với bi kịch về làm dâu gạt nợ cho nhà giàu. * Sự phản kháng của Mị khi mới về làm dâu. - Về nhà thống lý Pá Tra, Mị âm thầm chịu đựng nỗi đau “có đến mấy tháng liền đêm nào Mị cũng khóc”. Giọt nước mắt của nhân vật Mị chính là sự phản kháng đối với thực tại. Sự phản kháng ở cấp độ thấp nhưng cũng đủ để thấy Mị không thỏa hiệp, đầu hàng chấp nhận số phận. Bởi trong người con gái ấy khao khát tự do chưa thể lụi tàn. - Những tháng ngày sống trong nhà Pá Tra, Mị không thể thỏa hiệp với nó. Mị sẵn sàng quên hết đi tất cả để tìm đến cái chết khi ý thức được cuộc sống và tháng ngày sau này mình sẽ phải chịu đựng như thế nào, cuộc sống không đáng sống. Đây là cấp độ phản kháng cao hơn để khẳng định khao khát sống đang bùng cháy trong cô. Bởi khi còn muốn chết tức là con người ta còn ý thức được về một cuộc sống không đáng sống của mình, và còn khao khát được sống. Một điều tưởng chừng như phi lí nhưng lại nằm trong quy luật tâm lí tự nhiên của con người. Mị quyết định vào rừng hái nắm lá ngón, giấu vào trong tay áo và về qùy lạy bố để chết. Có lẽ để có đủ dũng cảm cầm nắm lá ngón trên tay Mị đã phải băn khoăn, trăn trở rất nhiều. Ai chẳng hiểu sự sống là đáng quý bởi cuộc đời ai sinh ra cũng chỉ được sống một lần, nên khao khát sống chính đáng
là điều ai cũng mong muốn. Mị đã dám từ bỏ cuộc đời khi đang xuân thì phải chăng cuộc đời Mị không còn ý nghĩa. Hành động này của Mị là một lời tố cáo đanh thép xã hội thực dân phong kiến miền núi, đã đè nén, áp bức đẩy con người ta đến bước đường cùng. Trong Mị thấp thoáng số phận của những chị Dậu, những anh Pha, những Chí Phèo – người nông trước cách mạng tháng Tám. - Tưởng dứt hết nợ duyên với đời để tìm đến cái chết nhưng vì một chữ hiếu mà Mị không đành lòng nhìn bố mình chịu khổ cực. Mị đành từ bỏ ý định, cô ném nắm lá ngón xuống đất như ném đi khát vọng cuối cùng của cuộc đời mình. Vậy ra, trong cô gái trẻ kia, mạng sống, tình yêu, và tự do không phải là thứ cô đặt lên hàng đầu. Bên tình và bên hiếu trong giờ phút quyết định khiến cô phải lựa chọn và tất nhiên cô cũng như bao người con gái khác sẵn sàng: “Để lời thệ hải minh sơn Làm con trước phải đền ơn sinh thành” Mị đã coi việc làm dâu trong nhà thống lý Pá Tra như làm kiếp trâu ngựa để trả nợ cho cha mẹ năm xưa, làm tròn chữ hiếu. Đây chính là phẩm chất đáng quý, đáng ngợi ca của nhân vật mà Tô Hoài đã tìm thấy nơi đáy sâu cùng cực của số phận. c. Khi làm dâu đã quen: Sự thấu hiểu và xót thương cho số phận của nhân vật hiện ra qua việc Tô Hoài miêu tả chân thực những biến đổi xót xa khi bị đày ải trong nhà thống lí, đồng thời vang ên tiếng tố cáo đanh thép đối với những thế lực phong kiến vùng cao: * Sự tê liệt trong tâm hồn Mị. - Ở địa ngục trần gian của nhà Pá Tra, bao vất vả, cực nhục đổ lên đầu Mị. Mấy năm sau khi bố Mị qua đời, Mị cũng không nghĩ đến cái chết nữa, bởi vì “Mị quen cái khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng như mình cũng là con trâu, con ngựa (…) chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Cách so sánh bằng đã cho thấy điều mà tác giả dự báo ở đầu tác phẩm khi để nhân vật hiện lên giữa những vật vô tri, vô giác được cụ thể hóa hơn. Mị có khác nào một công cụ lao động của nhà thống lí, không có chút quyền tự do nào. Mị chỉ còn ý niệm về công việc nối tiếp công việc, mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng cứ thế làm đi làm lại: tết xong thì hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, cuối mùa đi bẻ bắp…Còn nỗi đau nào của một kiếp người mà phải mang thân trâu ngựa: “con ngựa con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái
nhà này thì vùi vào việc cả đêm lẫn ngày”. Sự so sánh đòn bẩy cho thấy Mị còn không bằng cả kiếp trâu ngựa. Người đọc không chỉ ngậm ngùi, xót thương cho thân phận tủi cực của Mị mà cả những người phụ nữ miền núi trong xã hội xưa. - Thêm vào sự đọa đày thể xác ấy, còn là ách áp chế về tinh thần – thần quyền đã hỗ trợ đắc lực cho giai cấp thống trị. Nó thực sự là thứ “thuốc phiện tinh thần”. Bởi nó tạo thành một lối mòn trong suy nghĩ của Mị : đã bị bắt về nhà Pá Tra, đã cúng trình ma nhà nó rồi thì cả đời sống ở nhà này, và chết cũng là ma nhà này mà thôi. Mị đã không còn phản kháng để tìm lối thoát cho mình. Điều này xét về một góc độ nào đó, nếu nhìn về mặt đấu tranh giai cấp, thì nó còn nguy hại hơn là sự áp bức về thể xác. - Không chỉ dừng lại ở đó, ở tầng sâu hơn, ngòi bút Tô Hoài còn nêu lên một sự thực đau lòng: con người bị áp bức, nếu cứ nhẫn nhục chịu đựng, kéo dài đến một lúc nào đó, sẽ bị tê liệt cả tinh thần phản kháng. “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” thật không ở đâu, mạng sống, nhân cách con người bị coi rẻ đến thế! Cũng không ở đâu, con người lại tuyệt vọng như vậy. Mị cam chịu thân phận con rùa nuôi trong xó cửa, chỉ biết ngồi trong cái buồng kín mít, trông ra cửa sổ vuông mờ mờ trăng trắng, “đến bao giờ chết thì thôi”. Một chi tiết tưởng chừng như nhỏ nhặt trong tác phẩm nhưng nếu nhìn kĩ ta lại thấy sau đó những ẩn ý của nhà văn. Căn buồng của một người phụ nữ nói chung và người phụ nữ Mông nói riêng là nơi chia sẻ mọi buồn vui, giấu kín bao khát khao mơ ước, và là không gian theo bám suốt cuộc đời của họ. Khi còn trẻ đó là căn buồng kín đáo của một cô thiếu nữ, với bao niềm riêng tư. Khi đi lấy chồng đó là căn buồng đong đầy hạnh phúc lứa đôi. Xa hơn là căn buồng đếm từng ngày, từng tháng khi thai nghén chín tháng mười ngày, khi nuôi con bế bồng với bao tin yêu, hi vọng…Tưởng như đó là không gian thân thương, gần gũi và ấp áp nhưng với Mị thì không. Đó là một căn buồng kín mít, chỉ có một lỗ vuông cửa sổ chỉ nhỏ bằng bàn tay mà ngồi trong đó nhìn ra bên ngoài lúc nào cũng thấy “mờ mờ, trắng trắng không biết là sương hay là nắng”. Người đọc có thể liên tưởng ngay đến hình ảnh một ngục thất tinh thần, thiếu sinh khí, thiếu sự sống. Phải chăng chính điều này đã làm tê liệt hơn sức sống trong người con gái đầy xuân xanh?! - Khi một “nạn nhân” đau khổ, còn nghĩ đến cái chết để tìm sự giải thoát, thì phải chăng, trong họ vẫn còn khao khát sống. Với Mị cũng đã có một lần như thế nhưng giờ đây cô đã dường như phó mặc thân phận cho định mệnh, không còn ý thức về thời gian. Với
Mị, sự chuyển biến của thời khắc sớm tối, năm tháng qua đi cũng không còn ý nghĩa, không gợi cho cô cảm xúc gì, cuộc sống chỉ là một màn sương mờ đục, không hiện tại, quá khứ và tương lai. Một con người sống mà chỉ như tồn tại, không có một ý niệm nào về cuộc sống. Có lẽ đây là bản án đanh thép mà nhà văn đã gửi đến cho xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời – bóp nghẹt sức sống của con người. * Sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân. - Đau khổ kéo dài khiến cho lòng Mị tưởng chừng nguội lạnh. Dường như mọi cảm xúc, khát khao dã bị dập tắt từ lâu. Điều kì diệu là dẫu trong tột cùng đau thương thì mọi thế lực tội ác cũng không hủy diệt được con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã nhưng Mị vẫn sống âm thầm mà mãnh liệt. Từ trong sâu thẳm tâm hồn người con gái bị dày đọa kia vẫn âm ỉ, le lói một ngọn lửa khao khát sống khi mùa xuân về. Sức sống ấy như hòn than nhỏ đang bị vùi lấp trong cái vẻ ngoài lặng câm vô cảm. Vô tình cơn gió mùa xuân đã làm hồi sinh con người Mị, thức dậy cả một kí ức tươi đẹp và trỗi dậy một sức sống, lòng ham sống đến cuồng nhiệt nhưng cũng đầy bi kịch. – Những nhân tố tác động làm bùng lên sức sống của nhân vật. + Thiên nhiên đầy đột biến ở Hồng mùa Ngài xuân ấy như một dự báo. + NMùa xuân ở Hồng Ngài rộn rã âm thanh và màu sắc. Một năm với tiết xuân mới: các nương ngô, nương lúa đã thu hoạch xong. Trẻ con đi chăn trâu tinh nghịch đốt những mái lều canh nương để lửa khói sáng trắng trên nương. Đó là tiếng cười của trẻ con, màu vàng ửng của cỏ gianh và gió rét dữ dội, là màu đỏ của những chiếc váy hoa phơi trên những mỏm đá xòe ra như những con bướm sặc sỡ. Cái rét đến sớm và dữ dội, công việc cũng đã xong và năm ấy Hồng Ngài ăn tết sớm. Sự đột biến của thiên nhiên của mùa xuân năm ấy liệu có báo hiệu sự đột biến trong nhân vật Mị, con người vẫn đang trong tuổi xuân và đầy sức xuân trong mình ? + Rượu: Đêm tình mùa xuân, mọi người uống rượu, đi chơi và Mị cũng tìm đến rượu, nhưng không phải để tìm vui mà là để giải sầu “Mị uống ực từng bát rồi say”. Cách uống rượu của Mị như nuốt căm, nuốt hận vào lòng. Sự bất bình thường ấy đã nói lên tất cả. Sức chịu đựng có hạn, đã đến lúc cần bùng cháy. Rượu và tiếng sáo chính là chất men say đánh thức phần đời đã mất của Mị, giờ đây Mị không còn lặng câm nữa. Mị đã hồi sinh! Rượu chính là chất men xúc tác để nhân vật có đủ sức mạnh và can đảm làm những việc mà khi tỉnh táo Mị không thể bởi bao áp chế đè nặng. Vì thế mới có
những diễn biến đầy phức tạp trong tâm lí và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân. Có lẽ chúng ta không thể cảm nhận và phân tích những nét tâm lí ấy bằng lí trí của một người tỉnh táo mà phải là sự chuyếnh choáng trong hơi men nồng nàn của rượu, trong kí ức của tiếng sáo năm xưa. Cũng như tâm lí của nhân vật Chí Phèo đang chơi vơi giữa hai bờ say, tỉnh khi xách dao đến nhà Bá Kiến để đòi lương thiện. Tâm trạng lưỡng cực đầy tinh tế của nhân vật, “không phải người viết mà là thần viết”. + Tiếng sáo: Mùa xuân năm ấy với Mị không thể thiếu được “tiếng sáo gọi bạn yêu”. Chính thanh âm quen thuộc ấy như một cơn gió thổi tung đám tàn tro đang vây quanh cuộc đời Mị. Đặc biệt qua nghệ thuật trần thuật và miêu tả tiếng sáo đặc sắc, Tô Hoài đã mang đến cho người đọc một linh hồn đang cựa quậy hồi sinh đằng sau lớp xác giá băng. Chính tiếng sáo đã tác động đến Mị, góp phần thức tỉnh một tâm hồn nguội lạnh. Tiếng sáo như sợi dây vô hình nối Mị với quá khứ và hiện tại làm sống dậy trong Mị một kí ức đẹp tươi. Nói đúng hơn nó đánh thức cái tài hoa trong Mị ngày nào. Mị thổi sáo hay, thổi lá giỏi có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Quá khứ đẹp nhưng đối lập với hiện tại buồn mênh mang. Tác giả miêu tả tiếng sáo rất cụ thể: khi còn xa Mị cảm thấy ‘lấp ló” ngoài đầu núi. Nhưng rồi nó đến gần hơn, vọng lại rõ hơn để rồi nghe thấy “thiết tha bổi hổi” Mị nghe rõ và nhẩm được cả lời của bài hát. Mị ngồi nhẩm thầm lời của người đang thổi sáo: “Mày có con trai con gái rồi Mày đi làm nương Ta chưa có con trai con gái Ta đi tìm người yêu” Ngay sau đó là một câu văn ngắn gọn, chắc nịch : “Những đêm tình mùa xuân đã tới”. Mùa xuân mới, sự bùng trỗi dậy của sức sống, của những khao khát và đổi thay của đất trời, vạn vật. Phải chăng với Mị điều đó cũng đang đến gần. * Diễn biến tâm lí của Mị trong đêm tình mùa xuân: - Sự xuất hiện cũng như tác động đồng thời của cả ba tác nhân có thể ví như một làn gió đã thổi tan lớp tro tàn nguội lạnh trong tâm hồn Mị và khơi lên hơi ấm mà hòn than của sức sống vốn bị vùi chôn nơi sâu kín nhất trong tâm hồn. Để rồi dẫn đến hàng chuỗi các hành động cả vô thức lẫn ý thức nhưng chứa đựng đầy sức sống của nhân vật.
- Khi ngập mình trong hơi men nồng nàn, tha thiết, với tiếng sáo đang đang “văng vẳng gọi bạn đầu làng”, Mị đang sống về ngày trước và không gì có thể ngăn được niềm vui sướng ấy: “lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”. Còn gì hạnh phúc bằng khi mình tìm lại được chính mình? Tô Hoài đã thâm nhập vào mê cung tâm trạng của người phụ nữ này và bằng lòng cảm thông yêu thương sâu sắc, nhà văn đã làm người đọc thực sự xúc động trước những biến đổi về tâm lý của Mị. Con rùa nuôi trong xó cửa ấy đã không còn lùi lũi nữa. Nó đã phá vỡ cái bức tường vô cảm kia để khát khao tìm ra thiên đường mùa xuân của tuổi trẻ, của hạnh phúc. Mị nhận thức được chính mình, đó chính là ý thức về tuổi trẻ. Mị thấy mình còn trẻ “Mị trẻ lắm. Mị hãy còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Còn trẻ nghĩa là còn sức sống, còn khao khát, còn muốn yêu thương. Đúng là một cảm xúc bi kịch: nhận ra mình còn trẻ khi mà tuổi xuân bị tước đoạt rồi và sống trong hoàn cảnh hiện tại này của Mị thì đúng là bi kịch. Nhưng dù đó là bi kịch thì Mị vẫn vui sướng vì dù sao con tim ấy đã vui trở lại. - Nhưng đớn đau thay, cùng với cảm xúc tìm lại được chính mình là một nỗi tủi thân. Mị đã có chồng nhưng người chồng ấy không tình yêu, không hạnh phúc. A Sử – kẻ khốn nạn ấy đã giam hãm cuộc đời Mị và dẫu “không có lòng với nhau mà cũng phải ở với nhau”. Cảm xúc ấy như gáo nước lạnh dội vào mặt, làm tan biến đi tất cả niềm vui sướng mà nãy giờ Mị chắt chiu gom góp. Còn gì đau khổ bằng lấy một người mà mình không có tình yêu. Còn gì đau khổ bằng phải sống với một kẻ vũ phu chỉ xem mình là món đồ chơi và bị khinh rẻ như súc nô. Mị lại tưởng đến nắm lá ngón, Mị ước ao có nắm lá ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa, nhớ lại nước mắt chỉ ứa ra. Muốn chết để giải thoát nỗi đọa đày, muốn chết để thoát khỏi bi kịch, điều này dễ thông cảm nhưng hơn hết Tô Hoài đã mang đến cho người đọc sự lột xác của Mị. Muốn chết chính là biểu hiện của sức sống. Khi Mị đã hồi sinh, khó có thể nào chấp nhận được thực tại cay đắng này. Vậy là hơn một lần Mị tìm đến cái chết nhưng lần này thì sự hồi sinh trong con người tưởng như đã chết với tâm hồn, tư tưởng nhưng không phải. Sức sống ấy bỗng dưng ùa về, làm cô khao khát hơn bao giờ hết kiếp sống đáng sống, sống đúng với nghĩa của một con người. Đây phải chăng là tình yêu, lòng nhân đạo của tác giả đối với nhân vật. - Không có lá ngón trong tay, tâm trạng Mị chợt xoay sang hướng khác. Khi tiếng sáo gọi bạn yêu ngoài kia đang réo rắt, khi mà cả thiên đường hạnh phúc của mùa xuân phía
sau ô cửa nhỏ kia đang nồng nàn, thôi thúc trái tim Mị. Mị không thể ngồi yên được nữa. Mị phải đứng dậy! Mị hành động trong lặng lẽ. Lặng lẽ nhưng mãnh liệt. Mị đã thắp lên ngọn đèn trong căn phòng u ám, đặc cóng muộn phiền. Không phải bỗng dưng mà Tô Hoài chọn hành động thắp đèn làm hành động đầu tiên sau khi người con gái lặng câm ấy thức tỉnh, bởi trong hoàn cảnh này ngọn đèn như xua tan đi tất cả cái bóng tối u ám đang bao quanh cuộc đời Mị. Ngọn đèn thắp sáng tâm hồn Mị, đốt cháy cả nỗi khát khao vượt ra khỏi bức tường địa ngục để đến với thế giới ngoài kia đang dập dìu tiếng sáo. Nhà văn diễn tả thật sâu sắc khát vọng cháy bỏng của Mị bằng một đoạn văn ngắn nhưng giàu sự cảm thông. Câu văn ngắn, nhịp văn mạnh mẽ thể hiện sự trỗi dậy mãnh liệt của nhân vật “Mị quấn lại tóc. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”. Mị hành động thản nhiên, dù A Sử đang hiện diện trong căn buồng của Mị. Nhưng Mị không sợ, bóng ma thần quyền đã không thể làm gì Mị bởi sức sống trong con người ấy đang trỗi dậy mạnh mẽ. Nhưng đớn đau thay, sự độc ác tàn nhẫn của giai cấp thống trị miền núi đã dập tắt đi cái khát vọng và sự trỗi dậy đó của Mị, mà A Sử chính là kẻ đại diện. A Sử đã nhẫn tâm trói Mị bằng một thúng sợi đay, tóc Mị xõa xuống hắn cuốn luôn tóc Mị lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa. Sự đè nén, áp chế đến tàn nhẫn của bọn thống trị. - Nhưng lúc này đây, Mị đâu còn sống bằng thể xác nữa mà Mị đang thực sự đang sống với tâm hồn. A Sử trói được thể xác của Mị nhưng không thể nào trói được tâm hồn cô. Thậm chí sự áp bức về thể xác càng lớn thì sự trỗi dậy của tinh thần càng mạnh mẽ. Bởi tâm hồn Mị đã vượt ra khỏi cái lỗ vuông bằng bàn tay kia để sống cùng đêm tình mùa xuân. Thể xác Mị nằm đây, giữa bốn bức tường câm lặng nhưng hồn Mị đang “đi theo những cuộc chơi những đám chơi”, mị còn nhẩm thuộc lòng trong đầu lời bài hát của người thổi sáo mà có lẽ đó cũng là bài hát và khúc nhạc sáo mà Mị thổi năm nào: “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào ?”. Tâm hồn Mị ngập đầy tiếng sáo, ăm ắp những kỷ niệm đẹp tươi. Có lúc tiếng sáo nhập cả vào hồn Mị làm Mị bừng lên như ngọn lửa gặp cơn gió lớn “Mị vùng bước đi”. Hành động này cho thấy Mị không hề biết mình đang bị trói (hoặc có thể biết bị trói nhưng đã quên vì sức sống của tâm hồn lớn hơn nỗi đau thể xác). +) Nhưng rồi “tay chân đau không cựa được” lại đưa Mị về với hiện thực cay đắng “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”- hiện thực khắc nghiệt của thực
tại đè nặng làm cho Mị không thể sống với thế giới mộng tưởng của mình được. Nhưng sức sống ấy vẫn âm ỉ cháy dù đau đớn, tủi nhục. Suốt đêm, Mị lúc mê lúc tỉnh. Lúc mê thì sống trong “hơi rượu tỏa” cùng tiếng sáo mênh mang gọi bạn tình. Lúc tỉnh thì “nồng nàn tha thiết nhớ”. Rất tài tình thì nhà văn mới có thể miêu tả được tâm trạng của nhân vật lúc này bởi nhân vật không sống với cái xác mà sống với hồn cốt và sống với hoài niệm trong tâm trí của mình, một trạng thái chập chờn giữa cơn tỉnh, cơn mơ. +) Có một chi tiết lại xuất hiện như một dấu hiệu thức tỉnh của nhân vật. Đó là hình ảnh giọt nước mắt của Mị. Mị đã khóc ròng rã hàng tháng trời khi bị bắt về làm dâu nhà thống lí. Nhưng cũng đã bao ngày tháng Mị không khóc, cũng không còn buồn nữa. Và cho đến tận bây giờ giọt nước mắt ấy lại chảy ra, phải chăng đó là dấu hiệu một tâm hồn, một sức sống đã hồi sinh thực sự. Chi tiết này có lẽ Tô Hoài đã bắt gặp Nam Cao, bởi các nhân vật của Nam Cao cũng có những giọt nước mắt của sự bừng tỉnh : Hộ khóc, Chí Phèo khóc, Thứ khóc… Mị khóc, Mị đã hồi sinh để nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Mị khóc nhưng rồi “Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi”. Câu văn đồng thời đan xen cả hiện tại và quá khứ, giữa tỉnh và say, giữa thực và mơ. Cả đêm hôm đó Mị sống trong trạng thái khi tỉnh khi mê. Cho tận đến sáng, có lẽ đó là lúc hơi rượu đã nhạt, tiếng sáo đã ngừng và đêm tình mùa xuân cũng tàn thì Mị mới choàng tỉnh. - Có một chi tiết rất đắt khi nhà văn kết thúc diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân. Đó là chi tiết: Mị tỉnh dậy và nhớ lại câu chuyện người đàn bà bị chồng trói chết trong căn nhà này. Và Mị đã sợ, sợ chết “Mị cựa quậy xem thử mình còn sống hay đã chết”. Sợ chết là biểu hiện của lòng ham sống. Vậy là sức sống trong con người khốn khổ ấy đã không lụi tàn mà ngược lại vẫn mãnh liệt như những đợt sóng ngầm gầm gào trong lòng đại dương tưởng như không gì có thể dập tắt nổi. Nói như nhà văn Lỗ Tấn “Một tia lửa hôm nay báo hiệu một đám cháy ngày mai”. Chắc chắn đợt sóng ngầm ấy sẽ hứa hẹn trở thành bão táp của ngày mai. Đó là đêm cởi trói cho A Phủ một năm sau đó. - Sức sống tiềm tàng trong nhân vật Mị đã có cơ hội đánh thức sau bao ngày bị vùi chôn trong đọa đày. Nó đủ kéo Mị ra khỏi vỏ bọc của một con rùa rụt cổ, của một cái bóng vô hồn, của một vật vô tri vô giác trong nhà Pá Tra. Thậm chí là đủ để cho nhân vật có thể phản kháng với thực tại, cho dù sự phản kháng ấy còn yếu ớt. Nhưng nó là tín hiệu
dự báo sự đột phá của nhân vật trong cuộc vùng dậy cởi trói cho A Phủ và giải thoát chính bản thân, tìm sự sống cho mình. *Diễn biến tâm lí của Mị trong đêm giải cứu A Phủ: - A Phủ cũng là nạn nhân của việc cho vay nặng lãi, A Phủ trở thành trâu ngựa trong nhà Pá Tra. Hai số phận nhưng một cảnh ngộ. Họ là nô lệ, ăn đời ở kiếp cho lũ nhà giàu. Vì để hổ bắt mất một con bò, mạng sống của A Phủ bị treo lên giá chết. Án tử đang đợi A Phủ từng phút từng giây. - Đêm tình mùa xuân, như cơn gió thoảng qua đời Mị, cô lại tiếp tục quay về kiếp sống trâu ngựa tại nhà thống lí – vô hồn, vô cảm. Đó là những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Mị thức dậy và sống cùng ngọn lửa. Mị vẫn câm lặng trong nỗi cô đơn. Lửa cũng cô đơn. Hai kẻ cô đơn ấy sưởi ấm cho nhau. Nhìn thấy A Phủ bị trói đứng như thế, Mị cũng bình thản, bình thản một cách lạ lùng đến nhẫn tâm. Thậm chí nếu A Phủ là cái xác chết ở đó thì Mị vẫn như vậy mà thôi, vẫn dậy sưởi lửa mà như không hay. Phải chăng “Sống lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi” nên Mị không còn nhận ra nỗi khổ của người khác. Bởi khi con người ta không còn biết thương đến bản thân mình thì không thể yêu thương người khác được. - Đã mấy ngày A Phủ bị trói đứng ở cột: chịu đau, chịu đói, chịu rét nhưng không một tiếng kêu nài, van xin. Chỉ khi dòng nước mắt của A Phủ “bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”, dấu hiệu của thần chết đã xuất hiện trên khuôn mặt người nô lệ ấy, thì trái tim Mị mới bừng tỉnh, lòng thương người trong Mị mới trỗi dậy. Nhưng không phải nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ mà Mị đã cảm thương con người này, đó là cả một quá trình diễn biến tâm lý đầy phức tạp trong Mị mà Tô Hoài đã miêu tả thật tinh tế. - Chính “dòng nước mắt lấp lánh ấy” đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lúc này đây, Mị mới thấm thía được nỗi cùng cực của kiếp người: +) Khi nhìn thấy dòng nước mắt “lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”, Mị chợt nhớ ngay lại đêm năm trước A Sử cũng trói đứng Mị như vậy và cô thấy thương mình. Mị hình dung lại chuỗi ngày ê chề dài dằng dặc của cuộc đời mình. A Phủ sao mà giống Mị thế, Mị cũng từng bị A Sử trói đứng thế kia, có “nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được”. +) Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị căm phẫn khi nhớ lại người đàn bà bị trói chết
trong căn nhà này. Mị càng căm phẫn càng uất hận “chúng nó thật độc ác”. Mị nhận ra kẻ gieo rắc nỗi khổ. Chúng nó – cha con thống lí Pá Tra, những kẻ đại diện cho thế lực phong kiến miền núi chuyên bóc lột, áp bức nhân dân. Nhớ đến những chuyện ngày trước, Mị lại trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi”. - Khi không tìm được lối thoát cho mình nhưng trong Mị tình người đã trỗi dậy, bởi đồng cảnh ngộ nên Mị hiểu nỗi khổ mà A Phủ đang phải gánh chịu, thậm chí là đang đối mặt, cận kề với cái chết nên Mị không thể làm ngơ. Mị không có quyền bỏ mặc người khác. Lý trí mách bảo Mị rằng phải cứu A Phủ. Trái tim nhân ái đã thôi thúc Mị phải hành động. Nhưng Mị chợt chùn lại. Mị giằng xé dữ dội giữa mạng sống của mình và người đồng cảnh ngộ. Có thể Mị cứu được A Phủ nhưng chính Mị sẽ lại phải chết trên cái cọc ấy. Nhưng Mị nào đâu thấy sợ, bởi giờ đây, lòng thương người đã lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ hãi. - Khi lòng thương, tình yêu đủ lớn nó sẽ có sức mạnh để áp đảo mọi thế lực, thậm chí là đánh đổi cả mạng sống của mình cho người khác. Mị táo bạo, Mị quyết liệt, Mị nổi loạn. Chính hành động cắt dứt sợi dây trói đã phần nào cho thấy vẻ đẹp sức sống của Mị. Đó chính là sức sống của cô gái Mèo dám dứng lên đương đầu với lũ ác thú. Dù còn mang tính tự phát nhưng đó là dấu hiệu dự báo cho thấy được sự bừng tỉnh của những con người nô lệ đang đi theo tiếng gọi của cách mạng. Có ai ngờ được rằng Mị cắt đứt dây trói cho A Phủ cũng là vô tình cắt đi sợi dây oan nghiệt trói buộc cuộc đời mình. Mị đã làm một cuộc cách mạng tất yếu. - Giây phút đứng lặng trong bóng tối là Mị sống trong sự ngổn ngang trăm mối, rối bời: chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết? Khi đã cứu được người, A Phủ đã được tự do, được sống thì cũng là lúc tình thương người trong Mị hoàn thành bổn phận. Giờ đây chỉ còn lại mình Mị với số phận đã an bài và một cái chết đang chờ đón. Khi con người ta đang đứng giữa ranh giới mà sự sống và cái chết chỉ cận kề trong gang tấc thì bản năng sinh tồn của con người sẽ trỗi dậy. Mị hành động theo bản năng tất yếu. Cuối cùng tiếng gọi của tự do và sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Mị vụt chạy ra..Mị băng đi…như đi tìm sự sống và tự do cho chính mình. Những bước chân của hai con người khốn khổ ấy băng qua đêm tối như đạp đổ cường
quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn họ bao năm qua. Ta hãy nghe Mị nói sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi!… Ở đây thì chết mất”. Có lẽ chưa bao giờ niềm khao khát sống và khát khao tự do đến với Mị mãnh liệt như lúc này. Hành động cắt dây trói cho A Phủ nhưng cũng chính Mị tự tay cắt đứt bao sợi dây của cường quyền, thần quyền đã trói buộc mình. Tiếng gọi tự do đang vẫy chào họ phía trước, nơi họ đến là Phiềng Sa vùng đất hứa còn Hồng Ngài hôm nay còn chăng là những ngày buồn đau, tủi nhục trong quá vãng. *Ý nghĩa hành động Mị cắt dây trói cho A Phủ: - Đây không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo A Phủ. Mị giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho bản thân mình! Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái dám chống lại cả cường quyền và thần quyền. Hành động này đã được dự báo, dự đoán trong quá khứ khi Mị khóc lúc mới về làm dâu nhà Pá Tra, Mị định lấy lá ngón tự tử, khi Mị hừng hực sức sống trong mùa xuân năm trước để năm nay Mị đủ sức cầm con dao cắt dây trói cho A Phủ. Giải cứu A Phủ là Mị giải cứu chính mình. Sức sống mãnh liệt của người con gái ấy vượt lên trên cả cường quyền, thần quyền thậm chí là chấp nhận cả cái chết để đánh đổi một cuộc sống đáng sống, và được sống là chính mình. Hành động này là biểu hiện đầy đủ nhất, cao nhất của nhân vật Mị mà tác giả Tô Hoài đã dày công phân tích đầy lô gic và thyết phục. - Thành công của nhà văn khi miêu tả sự hồi sinh của nhân vật đó chính là nhờ vào nghệ thuật trần thuật hấp dẫn. Phân tích tâm lí nhân vật sắc sảo. Cách dựng cảnh sinh động. Cách lột tả nội tâm nhân vật nhiều bất ngờ thú vị. Ngôn ngữ mộc mạc giản dị. Tất cả đã tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm, góp phần mang đến cho người đọc sự xúc động mãnh liệt trước số phận của đồng bào miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn chủ nô và lũ Tây đồn. - Khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc luôn tiềm ẩn trong sâu thẳm tâm hồn nhân vật. Nó như ngọn lửa vẫn đang âm ỉ cháy dưới lớp tro tàn nguội lạnh và chỉ cần một làn gió mát lành thổi tới là có thể bùng cháy một cách mãnh liệt. Những tác động ngoại cảnh là yếu tố không nhỏ để khơi lên sức sống tiềm tàng của Mị. Đó cũng chính là tinh thần nhân văn của tác phẩm mà Tô Hoài gửi gắm. *Kết luận:
- Nội dung: Qua hình tượng nhân vật Mị, điều Tô Hoài muốn nhắn nhủ chính là sức sống mãnh liệt của người con gái ấy. Không một thế lực nào có thể dập tắt nó, thậm chí nếu càng đè nén, càng áp bức thì đến một lúc nào đó nó sẽ trỗi dậy mạnh mẽ hơn. Đồng thời nhà văn cũng ca ngợi vẻ đẹp của những cô gái dân tộc Mèo xinh đẹp, tài hoa và hiếu thảo. Vẻ đẹp chân chất, giản dị như những bông hoa ban nơi núi rừng Tây Bắc để lại thương nhớ nhiều không chỉ cho nhà văn mà còn để thương để nhớ cho bạn đọc mãi mãi về sau. - Nghệ thuật: +) Miêu tả tâm lí nhân vật Mị: Cô Mị hiện tại và cô Mị quá khứ hòa chung vào nhau. Hai con người ấy đan xen nhau, khi tách ra, khi hòa vào tạo thành một cô Mị hết sức sống động và mới lạ. Con người hiện tại đã chết thì đờ đẫn, mất hết cảm giác về xung quanh. Trái lại, con người của quá khứ thì sống dậy, tha thiết, bồi hồi, tai như nghe tiếng sáo năm nào. Cứ nhớ lại quá khứ thì cô đột nhiên sống lại, nhưng cứ nghe tới hiện tại thì cô muốn chết. +) Miêu tả quá trình chuyển hóa tâm lí: Nhà văn đã miêu tả một quá trình tiệm tiến và đột biến. Từ thương mình đến thương người, rồi tự cứu người đến cứu mình, một quá trình diễn biến tự nhiên, sinh động. 2. NHÂN VẬT A PHỦ: a. Cách giới thiệu nhân vật: - Trong tác phẩm tác giả không giới thiệu nhân vật A Phủ theo trình tự tuyến tính của thời gian mà để cho nhân vật xuất hiện đầy bất ngờ, đường đột trong một cuộc hỗn chiến với A Sử. - A Sử vốn là con quan, nên dù có vợ rồi, nó vẫn muốn đi bắt vài đứa con gái nữa về làm vợ. Chỉ cần nhìn thấy chiếc vòng bạc ở cổ rủ xuống những tua chỉ xanh đỏ là không ai dám động vào. Có lẽ vì thế mà A Sử tha hồ ngông ngược quậy phá. Nó vào làng trêu con gái, thậm chí còn đánh cả trai làng. Mâu thuẫn đã diễn ra từ đêm hôm trước, và được giải quyết vào sáng hôm sau. A Sử dẫn đầu nhóm đến để tìm trai làng, còn trai làng dẫn đầu là A Phủ. Chỉ cần nhìn thấy bọn A Sử trai làng đã xôn xao và cất tiếng gọi A Phủ: “A Phủ đâu? A Phủ đánh chết nó đi!” Không phải ngẫu nhiên mà A Phủ lại được gọi tên lên trong một nhóm các trai làng. Hẳn là vị trí của A Phủ không đơn giản
như những chàng trai kia. Điều này phần nào bộc lộ phẩm chất con người, bản tính của A Phủ. Cách để nhân vật xuất hiện với những câu hỏi bỏ ngỏ lại trong lòng người đọc khiến cho họ phải cuốn theo mạch truyện để tìm hiểu rõ ngọn nguồn về nhân vật. - A Phủ hiện lên rất chân thực, sống động và mạnh mẽ trong trận trả đũa A Sử. Thân hình là một chàng trai to lớn. Với hàng loạt những động từ mạnh mà tác giả sử dụng rất đắc địa trong những câu văn với các vế câu ngắn, nhanh, mạnh, ngắn gọn, gấp gáp: “A Phủ chạy vụt ra ném con quay rất to vào mặt A Sử. A Phủ xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp”. Với những hành động của A Phủ người đọc nhận thấy rất nhiều gợi ý về con người này. Không chỉ là một sức mạnh của một con người cường tráng. Mà đó còn là phẩm chất của một con người thấy chuyện bất bình không bỏ qua. Thậm chí khi biết đó là con quan nhưng cũng không sợ. Thậm chí A Phủ biết đánh con quan là mắc tội chết, nhưng vẫn làm vì bản tính của một con người ngay thẳng không chịu khuất phục trước cường quyền. Với những hành động mà A Phủ đánh A Sử còn cho thấy sức mạnh từ nội tâm bên trong một con người – một Lục Vân Tiên của thời hiện đại. Lần theo thời gian, tác giả đưa ta về với tuổi thơ đầy sóng gió của A Phủ. b. Lai lịch của A Phủ: - Đó là một chàng trai phải chịu đựng một tuổi thơ bơ vơ đau khổ. A Phủ quê ở Háng-bla, vừa mới lên mười tuổi đầu đã phải gánh chịu một tai họa khủng khiếp. Trận dịch đậu mùa tràn đến làm cho trẻ con, người lớn chết. Nhà A Phủ, cha mẹ, anh chị em cũng bị chết hết, chỉ con sót lại một mình A Phủ – một mầm sống khỏe. Làng chết nhiều quá, có người làng đói bụng đã bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. Là một thiếu niên có tính gan bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp, A Phủ đã trốn lên núi cao khác, lưu lạc đến Hồng Ngài. Đi làm cho nhà người khác để sống, lần nữa mùa này sang mùa khác, dù sống trong cảnh cực khổ, cô đơn, nhưng chẳng bao lâu A Phủ trưởng thành với biết bao những phẩm chất tốt đẹp của người lao động miền núi. A Phủ cứ thế lớn lên và trưởng thành với núi rừng Tây Bắc và mang đầy đủ, trọn vẹn những phẩm chất tốt đẹp của những con người nơi đây. c. Phẩm chất của A Phủ:
- A Phủ là một chàng trai người Mèo có nhiều phẩm chất tốt đẹp của người lao động. A Phủ sớm tự khẳng định tính cách gan góc, một mình kiếm sống, học hỏi đủ thứ nghề “biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc, lại cày giỏi và săn bắn bò tót rất bạo”. Khi lớn lên, A Phủ chẳng những hiền lành, lao động giỏi mà còn có sức khỏe hơn người: “công việc làm hay đi săn, cái gì cũng làm phăng phăng…”, “A Phủ chạy nhanh như ngựa”. Vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt, A Phủ vẫn sống một cuộc sống phóng khoáng, hồn nhiên, yêu đời, tự tin của tuổi trẻ. “Đang tuổi chơi, trong ngày Tết đến, dù chẳng có quần áo mới như trai khác, A Phủ chỉ có độc một chiếc vòng cổ, A Phủ cứ đi chơi cùng trai làng, đem sáo, khèn, con quay và cả quả pao đi tìm người yêu ở các làng trong rừng”. Bởi vậy được nhiều người con gái trong làng mê và trở thành niềm ao ước của biết bao cô gái. Họ kháo với nhau: “đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy chốc mà giàu”. Với tập tục, phép làng, lễ cưới xin khắc nghiệt của xã hội phong kiến miền núi đương thời, A Phủ, chàng trai không cha không mẹ, không ruộng nương, không tiền bạc ấy, làm sao có thể lấy nổi vợ, làm gì có gia đình, hạnh phúc? d. Con đường đẩy A Phủ vào kiếp nô lệ và số phận của A Phủ: - Đau khổ hơn nữa, A Phủ là đứa con của núi rừng, tự do mà vẫn không thoát khỏi kiếp sống nô lệ. Do tính tình phóng khoáng, bướng bỉnh và yêu lẽ phải, chính nghĩa nên A Phủ đã dám đánh lại con quan. Hành động dữ dội đó của A Phủ còn có nguyên cớ sâu xa từ một mối thù giai cấp gay gắt. Sau đó A Phủ bị cha con thống lí Pá Tra và bọn tay sai bắt và đánh đập vô cùng tàn bạo, dã man hơn cả thời trung cổ. *Cảnh xử kiện có một không hai: - Thành phần xử kiện: + Thông thường khi xử kiện thì có bên nguyên, bên bị, có người làm chứng, có quan phân xử. Ở cuộc xử kiện này có đầy đủ những thành phần đó nhưng sắp xếp đầy phi lí. Người kiện chính là A Sử, người xử kiện lại là thống lí Pá Tra đồng thời cũng là người cho vay tiền. Cán cân công lí đã xoay vần theo sức mạnh của quyền lực và tiền bạc. - Cảnh xử kiện.
+ Xử kiện thì phải diễn ra chốn công đường thâm nghiêm, minh bạch. Tất cả phải tỉnh táo về tinh thần. Ấy vậy mà cuộc xử kiện diễn ra ngay trong nhà Pá Tra. Và điều đặc biệt hơn nữa là ở đó lại chuẩn bị một tiệc cỗ và tiệc hút. Các quan chức, thống quán, xéo phải kéo đến ăn cỗ, hút thuốc phiện và đánh đập A Phủ suốt từ trưa đến hết đêm: “càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. Người bị xử, là trung tâm của buổi xử kiện thì không được nói một lời nào. Cứ mỗi lần bọn chức việc hút xong A Phủ lại quỳ trước nhà, lại bị người xô đến đánh. “Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. Hai đầu gối sưng bạnh ra như mặt hổ phù”. Người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Cứ liên tục quay vòng những hành động: Xong một lượt đánh, kể, chửi, lại hút. Và không chỉ diễn ra trong chốc lát cảnh tượng xử kiện hãi hùng này mà nó kéo dài suốt chiều, suốt đêm. Đúng là cảnh tượng xử kiện có một không hai trong lịch sử văn học. Sự bất công, độc ác trong cuộc xử kiện đã lột trần bộ mặt thật của bọn chúa đất phong kiến miền núi. → Như vậy dưới ách thống trị tàn bạo và khắc nghiệt của lũ chúa đất, cuộc sống của người dân nghèo miền núi thật thảm thương, họ bị đánh đập hành hạ như một con vật. Tuy vậy A Phủ không hề khóc lóc, van xin mà trái lại vẫn tỏ ra cứng rắn, gan dạ “A Phủ quỳ chịu đòn chỉ im lặng như tượng đá”. - Kết quả cuộc xử kiện. + Cuối cùng, với cách xử kiện quái gở, A Phủ đã bị phạt làm nô lệ suốt đời không công cho nhà thống lí. Đáng ra với tội đánh con quan thì A Phủ sẽ bị xử tội chết nhưng A Phủ được tha cho mạng sống để làm nô lệ để trả nợ cho Pá Tra “đời mày, đời con mày, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ trả hết nợ mới thôi”. Và số tiền mà A Phủ phải vay để thiết đãi các quan làng xử kiện là 100 đồng bạc trắng. Không có tiền phải vay nhà thống lí. Cảnh thống lí cho A Phủ vay tiền cũng nghịch lí không kém gì cảnh xử kiện. Pá Tra lấy tráp ở ngăn bàn ra, để mở trăm bạc trắng rồi đưa cho A Phủ sờ tay vào coi như đã nhận tiền rồi cúng trình ma nhận mặt con nợ. Vẫn là một lối mòn cũ, giống như đã làm với Mị: dùng cường quyền để ép A Phủ, sau đó dùng thần quyền để mê hoặc: cúng trình ma để con nợ không còn có ý định trốn thoát nữa. A Phủ trở thành tên nô lệ chung thân bị khinh rẻ, bị ngược đãi trong vòng kiểm soát của thống lí Pá Tra. - Cuộc sống của A Phủ ở nhà thống lí: Từ đây A Phủ sống cuộc đời của thân phận nô lệ, bị thống lí bòn rút sức lao động “đốt rừng, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò,
ngựa quanh năm một thân một mình, rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”. Quanh năm A Phủ bôn ba một thân một mình rong ruổi ngoài gò ngoài rừng. Với sức vóc của một chàng trai khỏe mạnh, lại biết công biết việc nên công việc làm hay đi săn cứ đi phăng phăng. Điều đặc biệt là chúng ta tự hỏi vì sao một chàng trai khao khát tự do, không chịu gò mình vào khuôn phép nào lại chấp nhận sống kiếp nô lệ cho nhà thống lí? Phải chăng cũng vì công việc mà A Phủ đang làm vẫn đảm bảo cho chàng trai này cuộc sống tự do như mong đợi, vẫn như ngày chưa đi ở cho nhà Pá Tra. Tự do giữa núi rừng với thiên nhiên, cây cỏ, muông thú. * Bi kịch tính mạng và số phận của A Phủ: - Nếu cuộc đời làm nô lệ của A Phủ cứ thế trôi đi êm đềm thì chắc chẳng bao giờ có thêm bước ngoặt nào trong cuộc đời chàng trai này. Nhưng cuộc đời là sóng gió, là phong ba, chỉ với một việc cỏn con mà tính mạng của A Phủ bị đe dọa… - Vào mùa năm đó, khi hổ, gấu đang đói, chúng kéo từng đàn ra phá nương, bắt bò ngựa, do mải mê bẫy nhím nên A Phủ đã để hổ vồ mất một con bò. Bi thảm và tuyệt vọng hơn nữa khi tính mạng của A Phủ sống hay chết lại được quyết định bởi bàn tay tàn bạo của thống lí Pá Tra. Thống lí quát thẳng vào mặt A Phủ “Quân ăn cướp làm mất bò tao…” rồi sai A Phủ lấy cái cọc, tự đóng cọc, và lấy dây mây để trói mình. Pá Tra bắt và cuộn dây mây cuốn từ chân lên vai trói đứng A Phủ. Nếu không bắt được hổ đem về thì cho A Phủ “đứng chết ở đấy”. Người đọc có lẽ cảm giác thấy đau đớn, xót xa bởi mạng sống của một con người mà không bằng một con bò – quá rẻ mạt. Con người không được làm chủ cuộc đời, không bảo vệ được sinh mạng của mình. Đó là lời tố cáo chế độ xã hội đương thời đã bóp nghẹt quyền sống của con người. A Phủ hay Mị đều một thân phận nô lệ như nhau. - Sau mấy ngày bị “trói đứng ở trong góc nhà”, “chỉ đứng nhắm mắt” và thần chết đã đặt tay lên hai hõm má xám lại vì tuyệt vọng và khổ đau của A Phủ. Cận kề bờ vực của cái chết: “Cơ chừng chỉ đêm mai là người kia chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Một câu văn với sự dự đoán nhưng như lời khẳng định chắc nịch theo các thành phần vị ngữ được ngắt ra dứt khoát: “chết đau, chết đói, chết rét, phải chết.” Còn nỗi đau nào lớn hơn khi con người ta ý thức được rằng mình sẽ chết, sắp chết, chứng kiến cái chết đang lan khắp cơ thể mà đành bất lực tuyệt vọng. Không có một con đường nào khác. Đó là bi kịch của số phận một con người.
→ Miêu tả cuộc sống khổ cực đau thương, tủi nhục của A Phủ, Tô Hoài một mặt đồng cảm xót thương với thân phận khổ đau của người lao động miền núi, một mặt khác vừa vạch trần bộ mặt tàn bạo, dã man của bọn chúa đất đã vùi dập không tiếc thương sự sống của họ. e. Sức sống mãnh liệt trỗi dậy khi cận kề cái chết: - Tuy vậy, với khát vọng sống mãnh liệt, với bản chất gan góc, bất khuất sẵn có đã tiềm ẩn trong dòng máu của mình, A Phủ không chịu tìm cái chết mà tìm mọi cách tự giải thoát. “Đến đêm, A Phủ cúi xuống nhay đứt hai vòng mây, nhích giãn dây trói một bên tay”. Nhưng nếu một mình, với chút sức lực yếu đuối của mình thì A Phủ không thể tìm được lối thoát trong thân phận của một người nô lệ. Và khi có sự trợ giúp của Mị, cả hai đã đứng lên tự giải phóng và tìm được đường đi cho mình, thoát khỏi kiếp sống nô lệ. - A Phủ đã bị trói đứng mấy ngày, không được ăn uống, lại chịu cái lạnh cắt da cắt thịt của vùng núi cao Mị tưởng A Phủ đã chết rồi nếu không thấy A Phủ mở mắt và nước mắt bò xuống hai hõm má. Lúc ấy, mị thấy A Phủ thở phè phè, không biết là mê hay tỉnh. Nhưng với quá trình đấu tranh tâm lí đầy giằng xé của mình, Mị đã quyết định tiến lại gần cầm dao cắt nút dây mây, cởi trói cho A Phủ. Bản thân Mị cũng hốt hoảng nhưng cuối cùng hành động đó cũng xảy ra. Dù Mị chỉ thì thào một tiếng “đi ngay”. Khi vừa cởi được dây trói thì “A Phủ khuỵu xuống, không bước nổi”. Ta cứ tưởng khi Mị cắt dây trói A Phủ sẽ gục ngã, nhưng không, khi đứng giữa ranh giới của sự sống và cái chết, thậm chí là cái chết đang cận kề thì bản năng sống của con người sẽ trỗi dậy, bùng lên mạnh mẽ mà không một thế lực nào cản trở nổi. “A Phủ đã quật sức vùng lên, chạy xuống dốc núi”. Với A Phủ lúc này chỉ có con đường chạy trốn mới tìm được lối thoát cho cuộc đời, mới giữ được tính mạng và giải phóng khỏi kiếp nô lệ. - A Phủ và Mị trốn khỏi Hồng Ngài, tới khu du kích Phiềng Sa, gặp cán bộ A Châu. A Phủ và Mị lần lượt trở thành chiến sĩ du kích, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh giải phóng hoàn toàn cuộc đời mình, bản làng quê hương mình. Từ đấu tranh tự phát A Phủ và Mị tiến dần đến cuộc đấu tranh tự giác. Nếu đứng lên đấu tranh đơn lẻ, một mình sẽ không bao giờ giành được thắng lợi, nhưng nếu biết đoàn kết hợp sức nhau lại thì thắng lợi sẽ nằm trong tầm tay. Minh chứng là cuộc sống đổi thay của nhân dân vùng núi Tây Bắc khi cách mạng về, tập hợp quần chúng nhân dân dưới lá cờ thống nhất của Đảng
lãnh đạo và đưa cuộc cách mạng đi hết thắng lợi này đến thắng lợi khác bằng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. *Kết luận: - Khắc họa nhân vật thông qua những hành động, A Phủ hiện lên trong tác phẩm như một nhân vật anh hùng cổ trang, kiệm lời mà sống động. Dù số phận của Mị và A Phủ có những điểm chung nhưng cách miêu tả và khắc họa chân dung hai con người thì không giống nhau. Nhưng đó là số phận tiêu biểu cho người dân vùng cao Tây Bắc. Từ bóng tối của cuộc đời đau khổ tủi nhục, họ đã vươn tới ánh sáng rực rỡ của nhân phẩm, của tự do và cách mạng. Đó cũng là giá trị nhân đạo mới mẻ, sâu sắc của tác phẩm giàu chất thơ này. 3. NHÂN VẬT A SỬ: a. Xuất thân: - Trước hết, nhân vật A Sử có xuất thân và tính cách tiêu biểu cho tầng lớp quý tộc quyền thế trong xã hội phong kiến cũ. A Sử – con trai của Thống Lý Pá Tra, lớn lên là một cậu ấm “ngậm thìa vàng”. Nhờ sự giàu có của gia đình, A Sử coi mình đứng trên người, trở thành một kẻ lộng hành coi khinh người khác, chuyên bức hiếp người nghèo khổ. Cậy con nhà giàu, con quan, A Sử cố tình phá cuộc chơi xuân của các bạn. Đó cũng là lý do mà dẫn tới việc A Phủ quá bất bình nên đã ra tay đánh A Sử trong đêm hội chơi xuân. b. Đặc điểm nhân vật: - A Sử còn tiêu biểu cho sự tàn độc của giai cấp thống trị trong xã hội miền núi cũ. Trong xã hội miền núi cũ, A Sử cũng như thống lí Pá Tra là hiện thân cho những tội ác của những tên chúa đất miền núi nắm giữ cả cường quyền và thần quyền. +) Về cường quyền, họ đã chế độ “lang đạo thổ”. Dựa theo chế độ này, cha con thống lí Pá Tra cho rằng mình có quyền bóc lột sức lao động, đánh đập, hành hạ, trói đứng thậm chí giết cả những người mà chúng coi đó là nô lệ. Trong cảnh A Sử trói đứng Mị, bản chất lang thú ấy được thể hiện. Biết Mị định đi chơi xuân, A Sử lạnh lùng hỏi “Mày muốn đi chơi à?” rồi bước tới trói đứng Mị vào cột. Hàng loạt những hành động lạnh lùng liên tiếp được thực hiện một cách thuần thục “bước lại”, “nắm Mị”, “trói hai tay Mị”, “trói đứng Mị vào cột”, “quấn luôn tóc lên cột”,… Hóa ra việc trói
đứng người ở nhà thống lý đã trở thành một thói quen không gớm tay. Tàn ác hơn, khi chói Mị xong, A Sử vẫn dửng dưng “thắt nốt cái thắt lưng xanh”, rồi “đi ra”, “khép cửa buồng lại”. Trói đứng người ta đến chết, công việc ấy ở nhà thống lí đã quá đỗi bình thường. Một chi tiết khác nữa, khi Mị được cởi trói để lấy thuốc chữa vết thương cho A Sử, Mị thiếp đi vì mệt quá. A Sử tỉnh dậy, thấy thế liền đạp một cái vào mặt Mị. Hành động của A Sử đã tố cáo bản chất tàn độc, dã man, lang thú vô nhân tính của giai cấp thống trị bấy giờ. +) Bên cạnh những tội ác về cường quyền còn có tội ác về thần quyền. Cha con thống lí đã mượn những tập tục cổ hủ lạc hậu để chà đạp, bức hiếp những con người yếu thế, đặc biệt là hủ tục cúng trình ma. Họ bắt Mị hay A Phủ đi cúng “trình ma” để dùng con ma vô hình trói buộc cuộc đời nô lệ, khiến người ta ăn sâu một suy nghĩ rằng bản thân chỉ là công cụ lao động. *Kết luận: - Tóm lại, nhân vật A Sử là đại diện cho lớp thế hệ thống trị mới còn tàn độc và dã man hơn cả lớp thế hệ giai cấp thống trị cũ là thống lí Pá Tra. Khi xây dựng nhân vật này, Tô Hoài vừa thể hiện bức tranh hiện thực xã hội vừa gay gắt tố cáo bản chất của chế độ cũ. A Sử – con trai thống lý Pá Tra trong “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài cũng sẽ chẳng khác nào Lý Cường – con trai hào phú Bá Kiến trong “Chí Phèo” của Nam Cao nếu như trật tự xã hội không được thay đổi. 4. NHÂN VẬT THỐNG LÍ PÁ TRA: a. Điểm đầu tiên mà Tô Hoài Khắc hoạ chính là một thống lí Pá Tra giàu có: - “Người ta thường nói: nhà Pá Tra làm thống lí, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng” - “Cả nhà thống lí Pá Tra vừa ăn xong bữa cơm Tết cúng ma, xung quanh chiêng đánh ầm ĩ, người ốp đồng vẫn còn nhảy lên nhảy xuống, run bần bật. Vừa hết bữa cơm lại tiếp ngay đến bữa rượu bên bếp lửa”. - Cách mở đầu giới thiệu câu chuyện mờ nhòe như cách mào đầu của cổ tích, sơ lược giới thiệu chân dung thống lí qua lời đồn. Tuy vậy phần nào khái quát được bản chất gian hùng của hắn: “ăn của dân nhiều” – một mặt hà hiếp, bóc lột người dân, “Tây lại
cho muối về bán, giàu lắm”, mặt khác lại làm tay sai cho thực dân, bán đứng dân tộc. Cho thấy Pá Tra là một kẻ độc ác, tàn nhẫn, tham lam. Việc khắc họa thống lí qua cảnh giàu sang của hắn càng góp phần bộc lỗ rõ bản chất xấu xa của hắn. Bởi một lẽ: của cải công sức đó làm ra toàn bằng xương máu, nước mắt nhân dân. Đã bao nhiêu người phải chết, đã bao nhiêu cuộc đời bị hủy hoại để làm nên đống gia sản ấy. b. Điểm nổi bậc thứ hai chính là một thống lý Pá Tra chìm đắm trong nghiện ngập, sa đọa: - Tô Hoài miêu tả “Trong nhà ông thống lí bày ra năm cái bàn đèn. Khối thuốc phiện tuôn ra các lỗ cửa sổ tun hút xanh như khói bếp”, “trên nhất là thống lí Pá Tra, thống lí Pá Tra hút xong một lượt năm điếu, đến người khác hút, lại người khác hút, cứ thế lần lượt xuống tới bọn đi gọi người về kiện”. Cho thấy lối sống truỵ lạc của một gia đình giàu có quyền lực nhất Hồng Ngài, được Tô Hoài khắc hoạ trong sự tương phản với cuộc sống cực khổ lam lũ của người dân Hồng Ngài. Sau khi “phiên xử” A Phủ kết thúc, trong nhà “thuốc phiện vẫn hút rào rào”. c. Nhưng điển hình nhất vẫn là tính cách độc ác, tàn nhẫn, bạo ngược: - Cha con thống lý Pá Tra đã bắt Mị về trả nợ thay cha, hành hạ đày đọa Mị. Lời A Sử nói với bố Mị: “ Tôi đã cướp con gái bố làm vợ, tôi đem về cúng trình ma nhà tôi rồi, bây giờ đến trình cho bố biết.Tiền bạc để cưới thì bố tôi bảo đã đưa cho bố cả rồi”. A Sử dùng Mị để gán nợ, và việc A Sử dùng từ “cướp” một cách ngang nhiên cho thấy quyền lực, và vị trí của hắn ở Hồng Ngài này như thế nào. Để từ đó hắn cho mình cái quyền chà đạp nhân phẩm con người, xem họ như một món hàng không hơn không kém, muốn bắt là bắt, muốn hành hạ thì hành hạ. - Suốt quá trình Mị ở nhà thống lí đã chịu sự giày vò cả về thể xác lẫn tâm hồn, trên danh nghĩa là con dâu nhà Pá Tra- Vợ của A sử nhưng Mị cũng như bao người phụ nữ trong ngôi nhà này, không hơn một kẻ nô lệ hạng bét, bị cha con Pá Tra đánh đập, sỉ vả, tước đi mọi quyền sống mà đáng ra nếu không vì món nợ của cha thì cô không vào cảnh này. Chính món nợ ấy đã khiến cô sống cũng không được mà chết cũng không xong, đã bao lần tính sử dụng lá ngón để tự vẫn nhưng vì cha “thế là Mị không đành lòng chết”. Tất cả chính là do bàn tay độc ác, bạo ngược của thống lí. *Thủ đoạn dùng thần quyền để giam hãm tâm hồn con người:
- Cha con Pá Tra ngang nhiên bắt Mị về nhà, không những thế hắn còn dùng cả thần quyền để giam Mị, giam giữ cái thể xác luôn gắn liền với một đức tin bao lâu nay của những người ở đây. Ngay sau khi Mị bị bắt về nhà thống lí thì “ngoài vách kia, tiếng nhạc sinh tiền cúng ma đương rập rờn nhảy múa”. - Giống như Mị, A Phủ cũng bị cái gọi là thần quyền “ghi nợ” với A Phủ: “A Phủ cúi sờ lên đồng bạc trên tráp, trong khi Pá Tra đốt hương, lầm rầm khấn gọi ma về nhận mặt người vay nợ”. - Đức tin về thần quyền là một nét đặc trưng về tín ngượng của người miền núi, có phần mê tín dị đoan, và chính đức tin này đã trở thành thứ công cụ để bọn địa chủ miền núi dùng để đàn áp tinh thần người dân và giam hãm họ như một thứ vũ khí ghê rợn, không tốn sức, thứ thủ đoạn tinh vi, độc ác, giày vò tinh thần con người. - Với những chi tiết miêu tả phong tục không khỏi khiến người đọc rùng mình: tiến nhạc sinh tiền, mùi hương khói, những buổi lễ âm u, những nghi thức cầu ma… đã thể hiện sự am hiểu về phong tục của tác giả, đồng thời cũng phác vào bức tranh thiên nhiên phong tục Tây Bắc nhiều màu sắc, một gam màu u ám, ma mị, đậm chất hiện thực. *Thống lí Pá tra lộ rõ sự tàn nhẫn, độc ác thể hiện trong “phiên tòa” xử A Phủ: - Đó là một “Phiên tòa” tàn nhẫn, vô nhân tính khi người bị xử chưa được tuyên án đã phải chịu tra tấn, đòn roi dã man.“Cứ mỗi đợt bọn chức việc hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải ra quỳ giữa nhà, lại bị người xô đến đánh.” “Xong một lượt đánh, chửi, kể, lại hút”. “Càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. A Phủ bị đánh tới mức “hai đầu gối bạnh lên như hai mặt hổ phù”, “chân đau bước tập tễnh”. Cái quyền lực trong tay cha con hắn, khiến hắn có thể làm mọi thứ mà hắn muốn. Ở Hồng Ngài cha con Pá Tra là vua, hắn muốn ai chết, thì người đó khó sống, bằng quyền lực hắn cũng biến A Phủ thành kẻ nô lệ không công của mình, mặc hắn sai khiến, trách phạt. Cụm từ “Chửi, đánh, hút” lặp đi lặp lại trong mối quan hệ tăng tiếng làm nổi bậc lên sự nghiện ngập sa đọa của bọn thống trị miền núi và sự tàn nhẫn dã man của chúng. Bên cạnh đó là giọng văn gọn, ngắn, câu văn khuyết chủ ngữ, nhịp cắt nhỏ; giọng điệu khách quan, lạnh lùng của ngòi bút hiện thực nhưng lại phảng phất đâu đó cái khinh thường, nhạo báng của nhà văn.
- “Phiên tòa” khôi hài, dị hợm khi hội đồng xét xử từ cao nhất là thống lí đến đứa thấp nhất là bọn chức việc đều là những con nghiện, ngập ngụa trong khói thuốc phiện. Những kẻ đứng đầu ở đây toàn là những con quỷ dữ, những kẻ cậy quyền, tàn ác, độc địa, sống trên những đồng tiền của Pá Tra, và bị Pá Tra biến thành một công cụ hữu hiệu để hắn thống trị Hồng Ngài một cách dễ dàng. Vì thế mà không ngạc nhiên khi bản án đưa ra bởi thống lý Pá Tra cũng rất vô lí: Đánh người làng thì phải “Nộp cho thống quán năm đồng, mỗi xéo phải hai đồng, mỗi người đi gọi các quan làng về năm hào. Mày phải mất tiền mời các quan hút thuốc từ hôm qua đến hôm nay” - Bản chất cường hào ác bá, bóc lột vơ vét của bọn địa chủ phong kiến và tay sai của chúng bộc lộ rõ nét. Càng nực cười hơn là A Phủ phải bỏ tiền “mời các quan hút thuốc” để các quan đánh đập, hành hạ mình. - Đánh con quan làng thì “phải xử tội chết, nhưng làng cho mày được sống mà nộp phạt”. Một bản án bất công khác mà A Sử mới chính là kẻ gây tội, mới là kẻ quấy rối, gây sự. Thật ra đây chính là phần mở đầu của thứ thủ đoạn tinh vi hơn: Dùng món nợ để nô lệ hóa con người, không chỉ một thế hệ, mà nhiều thế hệ. “Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”. Đây chính là thủ đoạn tinh vi để nô lệ hóa con người của thống lí. Bắt bớ một kẻ tội nghiệp, tra tấn đánh đập anh ta, kết tội anh ta, gán anh ta vào một món nợ, cho anh ta vay nợ và biến anh ta thành nô bộc để trả nợ dần. Thủ đoạn này làm ta nhớ đến một bá Kiến “đẩy nó xuống nước rồi lại cứu nó lên cho nó trả ơn”. Nó thâm độc ở chỗ một người như A Phủ làm lụng bao đời mới trả hết được món nợ ấy, một con số ngẫu nhiên người ta tuyên phạt vào anh? Và như vậy A Phủ trở thành nô lệ suốt đời cho thống lí mà không có cơ hội thoát. - Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn miêu tả chi tiết: A Phủ “nhặt bạc, nhưng nhặt xong lại để ngay xuống mặt tráp. Rồi Pá Tra lại trút cả vào trong tráp”. Chi tiết này đã tố cáo thủ đoạn thâm độc của Pá Tra, đồng thời bật lên tiếng cười mỉa mai của tác giả. Tiền trong tráp Pá Tra lại trở lại tráp Pá Tra, chỉ trong khoảng tích tắc ấy mà một con người tự do đã trở thành nô lệ. Quá trình vay tiền, đóng phạt diễn ra trong tích tắc, người thu tiền phạt cũng là Pá Tra, người cho vay cũng lại là Pá Tra, đầy mỉa mai, chua chát. Thủ đoạn này còn thâm độc hơn nữa khi không chỉ nô lệ một người, mà còn nô lệ nhiều thế hệ “đời mày, đời con, đời cháu mày cũng thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”. Đây cũng chính là cách Mị bị biến thành nô lệ nhà thống lí và phải chăng còn nhiều nữa
những nạn nhân của chúng? Của cải nhà thống lí có được đều từ xương máu của những người này mà ra, những nạn nhân của thứ thủ đoạn thâm độc của thống lí. - Cha con thống lý Pá Tra coi rẻ mạng sống con người, chà đạp nhân phẩm con người một cách không thương tiếc, cuộc sống trong gia đình Pá Tra không khác gì từ thời chiếm hữu nô lệ, thậm chí nó còn tệ hơn. Cha con Pá Tra tự trao cho mình cái quyền sinh sát khi trong tay mình là những con nợ hắn dùng thủ đoạn cướp về. A Sử đánh Mị không thương tiếc, A Phủ bị hành hạ dã man, và bao người đã đang và sẽ tiếp tục bị hành hạ như vậy. “Người đàn bà lấy chồng ở Hồng Ngài thì một đời con người chỉ biết đi theo đuôi ngựa của chồng.” “Mị chợt nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể: đời trước, ở nhà thống lí Pá Tra có một người trói vợ trong nhà ba ngày rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi”. “A phủ bị trói chờ chết”, Cái lo lắng của Mị: “Biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy”. Những chi tiết này đã cho thấy bản chất độc ác, tàn nhẫn coi rẻ mạng người của thống lí Pá Tra. Một mạng người trong tay thống lí có thể bị cướp đi bất kì lúc nào, cho thấy sự gian hùng, tàn nhẫn của giai cấp thống trị, sự độc ác vô nhân tính của chúng. *Kết luận: - Pá Tra là một nhân vật điển hình. Tính cách và bản chất của hắn tiêu biểu cho bọn tay sai, chúa đất phong kiến hoành hành thống trị miền núi Tây Bắc trước ngày giải phóng. Tô Hoài đã dùng bút pháp hiện thực, ngôn ngữ nhẹ nhàng mà đanh thép, gay gắt để vạch trần, tố cáo bộ mặt giả tạo, gian tà của thống lí Pá Tra. Giá trị hiện thực của câu chuyện nằm ở chỗ ấy. IV. GIÁ TRỊ CỦA TÁC PHẨM: 1. Giá trị nội dung: a) Giá trị hiện thực sâu sắc và rộng lớn: - Tác phẩm đã phản ánh chân thực bức tranh xã hội Tây Bắc trước giải phóng – điều này có ý nghĩa khai phá. Ở đây còn tồn tại chế độ phong kiến, chúa đất với những chức sắc thống lí, xéo phải… một kiểu phong kiến miền núi tàn bạo, khắc nghiệt hơn nhiều
so với chế độ phong kiến miền xuôi đã được các tác giả Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng mô tả trong các tác phẩm văn học hiện thực phê phán. - Bọn phong kiến thống trị ở đây đã dùng cường quyền (bắt người lao động phải làm việc như tù khổ sau, đày đọa và đối xử với họ không bằng con trâu, con ngựa, đánh người, trói người vô cùng dã man, tiến hành kiểu xử kiện rất quái gở, vô lí), thần quyền (lấy vợ về cũng trình con ma, cho vay nợ cũng đốt hương khấn vái lầm rầm, mời con ma về nhận mặt kẻ vay nợ), thủ tục phong kiến (chồng có quyền trói vợ hàng mấy ngày trong buồng tối, bắt người đàn bà đi theo đuôi con ngựa nhà chồng quanh năm suốt tháng), dùng hình thức cho vay nặng lãi cắt cổ… Tất cả những việc làm hà khắc đó vô hình chung biến người lao động nghèo khổ thành nô lệ không công suốt đời cho bọn thống trị, phong kiến chúa đất mà tiêu biểu là cha con thống lí Pá Tra. - Tác phẩm cũng đã tái hiện bức tranh chân thực về cuộc sống khổ đau, bi thảm của người lao động miền núi: Cuộc đời của Mị (con dâu gạt nợ) và A Phủ (đứa ở trừ nợ) là cuộc đời của những kẻ nô lệ mang thân phận khổ đau như con trâu, con ngựa, là những nạn nhân tiêu biểu cho chế độ tàn bạo, dã man nói trên. Những nhân chứng hùng hồn này đã làm cho độc giả chúng ta thấy được bộ mặt thật của bọn thống trị miền núi, từ đó đặt vấn đề phải gấp rút tiêu diệt, hủy bỏ nó. - “Vợ chồng A Phủ” cũng phản ánh được mặt hiện thực cơ bản lúc ấy: Đó là con đường đi từ tự phát đến tự giác của người lao động và sự vươn lên dưới ánh sáng tự do và nhân phẩm của họ. 2. Giá trị nhân đạo: - Giá trị nhân đạo của truyện ngắn này trước hết được toát lên từ niềm cảm thông sâu sắc của Tô Hoài đối với những số phận bất hạnh, bị mất quyền sống của người miền núi mà tiêu biểu là Mị và A Phủ. Hai sự sống trẻ trung bị đày đọa khủng khiếp trong tù ngục nhà thống lí Pá Tra đang bị chết dần, chết mòn vì khổ đau (kiếp người đầy bi kịch của Mị gần như bị tê liệt hết sức sống kể từ khi về làm con dâu gạt nợ dưới mấy tầng áp bức của cường quyền, thần quyền, lễ giáo, hủ tục phong kiến miền núi). Mị sống âm thầm vật vờ như chiếc bóng, cứ “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. A Phủ, một chàng trai khỏe mạnh, gan bướng, sống cuộc sống hồn nhiên, phóng khoáng của tuổi trẻ yêu đời, lao động giỏi không nợ nần gì nhà thống lí mà rốt cục cũng biến thành đứa trẻ trừ nợ suốt đời bị đánh đập, bị trói buộc một cách thảm khốc đến mức gần như tê liệt cả
sức phản kháng “chỉ im như cái tượng đá… không nói nữa, như con trâu đã đóng lên tròng… tự tay A Phủ đóng cái cọc gỗ xuống bên cột để cho tên Pá Tra trói đứng mình”. - Tư tưởng nhân đạo còn toát lên từ sự tố cáo gay gắt thế lực phong kiến miền núi tàn bạo (chúng đã lợi dụng thần quyền, dùng cường quyền, hủ tục và những thủ đoạn bóc lột tàn nhẫn như cho vay nặng lãi, cách xử kiện vô lí quái gở… biến người lao động thành nô lệ không công và bị đối xử như con vật). - Tác phẩm bày tỏ thái độ bênh vực quyền sống của con người và là bài ca ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của người lao động, đặc biệt là sức sống tiềm tàng và hành động tự giải phóng của nhân vật, đồng thời đặt niềm tin và sự trân trọng, nâng niu đối với khát vọng sống tốt đẹp của con người dù bị đày đọa đau khổ. - Nhà văn đã chỉ ra con đường giải phóng thực sự của người lao động là đi từ tự phát đến tự giác, từ tăm tối đau thương vươn lên ánh sáng của tự do và nhân phẩm nhờ sự dìu dắt của Đảng như là một tất yếu lịch sử. Qua đây, nhà văn muốn ca ngợi chính sách nhân đạo của Đảng là đã giải phóng hàng triệu người dân lao động khỏi ách áp bức, nô lệ của “thằng giặc tây, thằng chúa đất - đứa đè cổ, đứa lột da”. 3. Giá trị nghệ thuật: -Bên cạnh giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo, “Vợ chồng A Phủ” còn có những thành công đặc biệt về phương diện nghệ thuật: +) Nghệ thuật miêu tả tâm lí. +) Nghệ thuật miêu tả phong tục, tập quán, phong cảnh thiên nhiên +) Nghệ thuật kể truyện sinh động, tự nhiên, hấp dẫn. +) Ngôn ngữ tác phẩm rất tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi. V. CÁC NHẬN ĐỊNH VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM: 1. Nhìn lại toàn bộ cuộc đời văn học của nhà văn Tô Hoài, Giáo sư Phong Lê khẳng định: “Tô Hoài là một trong những tác gia lớn nhất của thế kỉ 20. Ông thuộc thế hệ 20, từ năm 1920 ngược về trước. Đó là thế hệ vàng của văn chương hiện đại, làm nên mùa gặt ngoạn mục nhất của văn họ thế kỉ 20 – làm nên mùa màng 1930-1945, cùng với Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Xuân Diệu, Huy Cận. Ông cũng là người hiếm hoi nhất còn lại của thế hệ ấy, cùng với nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh”.
2. “ [...] Hơi thở cuộc sống luôn đầy ắp và hiện rõ trên từng trang viết của nhà văn Tô Hoài, đưa ông cùng nhiều nhà văn, nhà thơ tên tuổi khác làm nên “mùa gặt ngoạn mục nhất của văn học Việt Nam thế kỉ 20”. Ông đã ra đi, nhưng trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ, “chú dề mèn” sẽ trẻ mãi với thời gian” – Trích bài viết “ Nhà văn Tô Hoài nặng lòng với những trang văn về Tây Bắc”, Báo Mới. 3. “Hơn cả một nhà văn, Tô Hoài đã, đang và sẽ luôn là người bạn đường thân thiết của độc giả thuộc mọi lứa tuổi, trên con đường đưa họ đến với thế giới động tưởng tượng thuở nhỏ, hay đến với những miền đất mới, đến với con người đời dài rộng khi đã trưởng thành” – Phan Anh Dũng 4. “Muốn viết văn, điều quan trọng nhất là chi tiết . Mà chi tiết thì không thể phịa ra được. Phải chịu khó quan sát, ghi chép, đọc và tiếp xúc càng nhiều càng tốt” – Nhà văn Tô Hoài 5. \"Đất nước và người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều, không thể bao giờ quên… Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi\". (Tô Hoài) 6. Đất nước và người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều, không thể bao giờ quên… Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi. (Tô Hoài) 7. \"Tô Hoài là một nhà văn lớn của Văn học Việt Nam hiện đại, người có 95 năm tuổi đời nhưng đã dành hơn 70 năm đóng góp cho văn học. Ông là nhà văn chuyên nghiệp, bền bỉ sáng tác và có khối lượng tác phẩm đồ sộ\". (Phạm Xuân Nguyên - Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội) 8. “ Có những nhà văn, nhà thơ làm vinh dự cho chữ Hán, làm vinh dự chữ Nôm. Anh Tô Hoài, cùng Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố,... làm vinh dự cho chữ quốc ngữ. Tôi được gần các thế hệ đi trước , càng hiểu giá trị của những giây phút sống bên cạnh họ, kể cả khi các anh im lặng” – Nhà thơ Hữu Thỉnh 9. \"Nhưng điều kì diệu là dẫu trong cùng cực đến thế mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng\" - Tô Hoài
10. “Thật khó để tìm được một nhà văn thứ hai vừa có thể miêu tả chân thật, tinh tế những cung bậc cảm xúc của cô Mị yêu sống nhưng bị giam cầm trong cảnh tù túng của “Vợ chồng A Phủ” -Phan anh dũng 11. Nói về Mị, nhà văn Tô Hoài tâm huyết rằng: “Số phận của cô là sự hồi sinh mãnh liệt của con người cô. Sự hồi sinh của một con người là vô cùng quý giá.” C. LUYỆN TẬP: Đề 1: phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo của Vợ chồng A Phủ: a) Mở bài - Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm: + Tô Hoài là một trong những cây đại thụ của nền văn học Việt Nam hiện đại với hơn 70 năm cầm bút với một gia tài văn học đồ sộ để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả nhiều thế hệ. + Vợ chồng A Phủ là kết quả của chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc năm 1952 kể về cuộc đời của đôi trai gái người Mèo là Mị và A Phủ. - Dẫn dắt vấn đề nghị luận: Thông qua cuộc đời, số phận của Mị và A Phủ, “Vợ chồng A Phủ” đã thể hiện những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc thể hiện góc nhìn tinh tế và nhạy bén, cũng như tấm lòng của nhà văn hướng về con người và cuộc đời. b) Thân bài * Luận điểm 1: Khái quát về giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo - Giá trị hiện thực là bức tranh đời sống hiện thực được nhà văn phản ánh trong tác phẩm của mình, tuỳ vào ý đồ sáng tạo mà hiện tượng đó có thể đồng nhất với thực tại cuộc sống hoặc có sự khúc xạ ở những mức độ khác nhau. - Giá trị nhân đạo là giá trị được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc của nhà văn với nỗi đau của những con người, những cảnh đời bất hạnh trong cuộc sống, thể hiện sự nâng niu, trân trọng với những nét đẹp trong tâm hồn và niềm tin khả năng vươn dậy của con người dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào của cuộc đời. * Luận điểm 2: Nêu và phân tích giá trị hiện thực của Vợ chồng A Phủ. - Bức tranh đời sống thống khổ, bị bóc lột của người nông dân miền núi trước cách mạng tháng Tám + Nhân vật Mị:
Trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra vì món nợ truyền đời truyền kiếp của cha mẹ Gọi là con dâu nhưng lại là kiếp con dâu gạt nợ, làm việc quần quật không được nghỉ ngơi Nơi ở chỉ là một căn buồng nhỏ kín mít, có duy nhất một “chiếc cửa sổ một lỗ vuông mờ mờ trăng trắng” Bị đày đọa về tinh thần, bị đối xử như con ở Bị đem đi cúng trình ma rồi nên không dám bỏ trốn => Cuộc sống không khác gì địa ngục, bị áp bức, bóc lột, bị tha hóa, thay đổi, trở thành nô lệ, tê liệt cảm xúc, như một cái xác không hồn. + Nhân vật A Phủ Trở thành con ở, bị đọa đày về thân xác, làm hết việc này đến việc khác, đều là những việc vô cùng nguy hiểm. Vì vô ý làm mất bò mà bị chửi là quân ăn cướp, bị trói, đào hố chôn cọc. -> Sự vô lí của giai cấp thống trị. - Chế độ phong kiến miền núi tàn bạo độc ác: + Đám cha con thống lí Pá Tra, A Sử và đám tay sai của chúng: Cho dân vay nặng lãi, cúng trình ma để hù dọa người dân, mỗi năm lãi càng thêm nhiều. Dẫu đánh A Sử có lí do chính đáng nhưng người sai vẫn là A Phủ, phải chịu hình phạt nặng nề và xử kiện một cách oan uổng. A Phủ bị nhà thống lí khiêng mang về, trói và ném giữa nhà không khác gì đối xử với một con vật. Hình ảnh phiên tòa: Suốt đêm chỉ nghe thấy tiếng mắng chửi, hình ảnh hút thuốc phiện, không được thanh minh giải thích, bị quy chụp cho cái mũ tội lỗi. cảnh hút thuốc phiện, hành hạ A Phủ, trói, đánh đập Mị... của bố con thống lí - Những phong tục tập quán, hủ tục của người miền núi vùng Tây Bắc: cúng trình ma,... * Luận điểm 3: Nêu và phân tích giá trị nhân đạo của Vợ chồng A Phủ. - Thấu hiểu và thông cảm sâu sắc tâm tư, tình cảm cũng như những ước mơ, nguyện vọng của những người bị chà đạp. + Mị - cô gái trẻ đẹp, mơn mởn như bông hoa rừng nhưng bị bắt cóc về làm con dâu gạt nợ nhà thống lý.
+ Mị sống âm thầm vật vờ như chiếc bóng, cứ “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, mọi quyền lợi bị tước đoạt + Mang tiếng là con dâu nhưng là con dâu gạt nợ, là con nợ hơn là con dâu. + Mị bị bóc lột sức lao động, bị tước đoạt tuổi xuân, hạnh phúc, bị thần quyền áp chế + Nơi Mị sống chỉ độc “một ô cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay trông ra ngoài không biết sương hay là nắng”. + A Phủ không nợ nần gì nhà thống lí mà rốt cục cũng biến thành kẻ trừ nợ suốt đời bị đánh đập, bị trói buộc một cách thảm khốc đến mức gần như tê liệt cả sức phản kháng. + Cảnh xử kiện tàn bạo như thời trung cổ được vẽ nên bằng một trang giấy mà ở đó sự tàn nhẫn, độc ác đã lên ngôi. => Phải thông cảm và thấu hiểu những số phận khốn khổ như Mị và A Phủ, nhà văn mới có thể miêu tả thành công tâm trạng phức tạp và phong phú của Mị và A Phủ trong quá trình tự giải phóng mình. - Tố cáo, vạch trần tội ác của những thế lực đã chà đạp lên quyền sống của con người. + Chúng đã lợi dụng chính sách cho vay nặng lãi để nô lệ hóa con người + Mị và A Phủ từ là những đóa ban rừng mơn mởn, yêu tự do, giàu tài năng nhưng vì món nợ mà họ đã trở thành những kẻ nô lệ suốt đời bị đối xử như con vật. + Nợ là sợi dây trói buộc thể xác, thần quyền là sợi dây oan nghiệt trói buộc tinh thần Mị và A Phủ vào nhà thống lý. + Họ đã bị thần quyền làm cho tê liệt về ý thức phản kháng, trở thành những con người cam chịu kiếp sống trâu ngựa. + Chúng dùng cường quyền, hủ tục và những thủ đoạn bóc lột tàn nhẫn để thỏa mãn sự độc ác. + A Phủ bị trói đứng vào cột chờ chết, thế mạng mình cho mạng của con bò. + Mị bị A Sử trói đứng vào cột trong đêm tình mùa xuân chỉ vì muốn đi chơi. - Phát hiện, ca ngợi vẻ đẹp cuộc sống và tâm hồn của con người Tây Bắc. + Mị là cô gái trẻ đẹp, giàu tài năng “thổi sáo hay, thổi lá cũng hay như thổi sáo”. + Có tấm lòng hiếu thảo với cha già. + Bị bắt về làm dâu gạt nợ, dù cuộc sống nhiều khổ cực như trâu như ngựa nhưng trong Mị luôn ẩn chứa sức sống tiềm tàng mãnh liệt, sức phản kháng mạnh mẽ. + Khát vọng tự do mãnh liệt trấn áp cả bóng ma thần quyền, cường quyền.
+ A Phủ - một chàng trai của núi rừng tự do, yêu lao động, giỏi lao động + Vượt lên trên hoàn cảnh khó khăn, A Phủ vẫn sống một đời sống tâm hồn phóng khoáng, hồn nhiên, yêu đời, yêu chính nghĩa, tự tin của tuổi trẻ. - Tin tưởng vào khả năng cách mạng của người dân miền núi trong cuộc đấu tranh giành tự do, đánh đổ chế độ thực dân, phong kiến. + Từ tăm tối đau thương, Mị và A Phủ đã vươn lên ánh sáng của tự do và nhân phẩm, cùng nhau đạp qua đêm tối, vươn đến ngày mai ở Phiềng Sa, nên vợ nên chồng. + Cả hai đã theo Cách mạng, theo Đảng, đánh giặc, bảo vệ quê hương và thay đổi số phận của mình. + Qua đó, tác giả bày tỏ thái độ bênh vực quyền sống của con người và ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của người lao động, đặc biệt là sức sống tiềm tàng và hành động tự giải phóng của nhân vật, đồng thời đặt niềm tin và sự trân trọng, nâng niu đối với khát vọng sống tốt đẹp của con người dù bị đày đọa đau khổ. c) Kết bài - Khái quát giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm. - Nêu cảm nhận *Đề 2: Ý nghĩa tiếng sáo trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài: a) Mở bài - Giới thiệu tác giả Tô Hoài, tác phẩm Vợ chồng A Phủ. - Dẫn dắt chi tiết tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân. b) Thân bài * Hình ảnh “Tiếng sáo đêm xuân” trong từng lần xuất hiện: - Lần đầu tiên: Tiếng sáo xuất hiện ở ngoài đầu núi “Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi” -> Ý nghĩa: Tiếng sáo đã đánh thức tâm hồn cô Mị bởi tiếng sáo “thiết tha bổi hổi” và cô đã “nhẩm thầm bài hát của người đang thổi” - Lần thứ 2: Tiếng sáo văng vẳng ở đầu làng “tai Mị nghe tiếng sáo văng vẳng đầu làng”. -> Ý nghĩa: Tâm hồn cô Mị như được hồi sinh. Mị nhớ lại ngày xưa “Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi
thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. - Lần thứ 3: Tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ bay ngoài đường: “Anh ném pao, em không bắt Em không yêu, quả pao rơi rồi”. -> Ý nghĩa: Tiếng sáo đã giục giã cô Mị hành động. Mị muốn đi chơi “Mị vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng rồi vẫn đi chơi ngày Tết huống chi Mị và A Sử không có lòng với nhau và vẫn phải ở với nhau”. Và cô Mị sửa soạn đi chơi “Mị quấn lại tóc, Mị với lấy cái váy hoa vắt ở trong vách”. - Lần thứ 4: Khi Mị bị trói, tiếng sáo vẫn vang vọng: “Em không yêu quả pao rơi rồi/ Em yêu người nào, em bắt pao nào” -> Ý nghĩa: Tiếng sáo vẫn thôi thúc tâm hồn Mị “đưa Mị theo những cuộc chơi, những đám chơi”. - Lần cuối cùng : “Tiếng sáo, tiếng chó sủa xa xa”. -> Ý nghĩa: Tiếng sáo như cũng đang lặng dần với tâm trạng khổ đau của cô gái Mèo đầy bất hạnh. * Đặc sắc ghệ thuật: - Xây dựng chi tiết đặc sắc - Miêu tả tâm lý nhân vật sắc sảo - Dẫn truyện tự nhiên, sinh động - Ngôn ngữ mộc mạc, bình dị, giàu chất thơ. c) Kết bài - Khái quát về ý nghĩa tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân. *Đề 3: phân tích sức mạnh của tình thương yêu con người trong “Vợ chồng A Phủ” và “Vợ nhặt”: a) Mở bài: Giới thiệu chung - Tô Hoài là cây đại thụ lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam. Ông đã để lại cho đời một sự nghiệp văn chương đạt kỉ lục về số lượng tác phẩm; phong phú, hấp dẫn về nội dung; đặc sắc về nghệ thuật. \"Vợ chồng A Phủ\" là một truyện ngắn xuất sắc trong đời văn Tô Hoài nói riêng và văn học hiện đại của ta nói chung.
- Kim Lân là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn xuôi hiện đại Việt Nam. Ông là một cây bút viết truyện ngắn tài hoa. Thế giới nghệ thuật của Kim Lân chủ yếu tập trung ở khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân. \"Vợ nhặt\" là một trong những tác phẩm xuất sắc của Kim Lân, in trong tập \"Con chó xấu xí\". b) Thân bài: Phân tích * Sức mạnh của tình thương yêu thể hiện trong đoạn Mị cứu A Phủ: Hành động Mị cắt dây trói giải thoát cho A Phủ là biểu hiện cao nhất của tình yêu thương con người. - Nguyên nhân: Mị trông thấy dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại\" của A Phủ. Nó khiến Mị từ cõi quên trở về cõi nhớ. Mị nhớ lại kí ức đau khổ - lần mình bị trói đứng, thật đau khổ! Từ thương mình mà đồng cảm, thương cho người. - Sự thức tỉnh ý thức: + Nhận ra dấu hiệu về cái chết, phán đoán \"chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết\" => càng thương hơn và so sánh \"người kia việc gì mà phải chết thế\" + Lần đầu tiên Mị nhìn rõ kẻ thù của mình cũng như những kiếp người đau khổ như mình: \"Chúng nó thật độc ác\" + Nghĩ đến tình huống cha con Pá Tra bảo là Mị cởi trói cho A Phủ, bắt Mị đứng trói thay đến chết trên cái cọc ấy nhưng Mị cũng không sợ => tình thương vượt lên sự sợ hãi, lấn át cả nỗi thương thân. - Cắt dây trói cho A Phủ => hành động tự phát, xuất phát từ tình thương nhưng cũng chính là Mị đang cắt dây trói cho chính mình, chiến thắng cường quyền, thần quyền. - Sau đó, Mị \"hốt hoảng\", \"vụt chạy\" đuổi theo A Phủ, nói \"A Phủ cho tôi đi!... Ở đây thì chết mất!\" => bắt đầu hành trình từ \"thung lũng đau thương\" đến \"cánh đồng vui\" ở mảnh đất Phiềng Sa. => Những hành động của Mị có ý nghĩa to lớn vì nó là sự hồi sinh, là biểu tượng của tinh thần phản kháng quyết liệt với cái ác, cái xấu. Sự hồi sinh đó xuất phát từ tình yêu thương con người sâu sắc. * Sức mạnh của tình thương yêu Tràng dành cho người \"vợ nhặt\" - Tràng sẵn sàng cho thị ăn và đưa thị về dù Tràng cũng đang trong cảnh đói. Liều lĩnh chấp nhận thị theo làm vợ: Không chỉ là khát khao hạnh phúc mà còn có cả tình thương
yêu con người. Đây cũng là vẻ đẹp trong tâm hồn người lao động: sẵn sàng cưu mang, đùm bọc lẫn nhau trong cảnh cơ hàn mà không tính toán, so đo. - Tình thương yêu đã giúp họ vơi bớt mọi lo toan, buồn khổ và bước đầu đã tìm thấy niềm vui, hạnh phúc, thể hiện qua cảnh dắt díu nhau về làng: + Tràng dường như quên hết cảnh sống ê chề tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát đang đe dọa. Trong lòng Tràng không gợn một chút coi thường thị, ngược lại anh cảm thấy vô cùng vui sướng, hạnh phúc. + Thị cũng không hề có chút mặc cảm nào về thân phận \"bị nhặt\", cô thay đổi tính cách theo hướng tích cực. Họ thực sự hướng về nhau, tìm thấy ở nhau những cảm xúc hạnh phúc như bất kì đôi tình nhân nào khác. + Ngay cả những người dân xóm ngụ cư, mặc dù có chút ngạc nhiên nhưng trên khuôn mặt u ám của họ bỗng rạng rỡ hẳn lên như có một luồng sinh khí mới hiện về. => Tình thương yêu đã làm đổi thay không khí cuộc sống gia đình bà cụ Tứ, đổi thay cả những con người này (không khí ấm cúng tràn đầy hạnh phúc trong gia đình, mọi người đều thay đổi theo hướng tốt đẹp). * So sánh, đánh giá chung sức mạnh của tình thương yêu con người trong hai tác phẩm - Giống nhau: + Sức mạnh của tình thương yêu giúp con người vượt qua tất cả. + Bằng cái nhìn nhân đạo, nhà văn đã ngợi ca vẻ đẹp của người lao động. - Khác nhau: + Hiện thực cuộc sống được phản ánh trong hai tác phẩm khác nhau: Vợ chồng A Phủ là bối cảnh sau cách mạng và trong kháng chiến ở miền núi Tây Bắc. Vợ nhặt lấy bối cảnh là nạn đói trước cách mạng và ở miền xuôi. + Số phận cụ thể của các nhân vật khác nhau: Mị là nạn nhân của chế độ chúa đất phong kiến ở miền núi. Vợ nhặt là nạn nhân của nạn đói do bọn phong kiến, thực dân, phát xít gây ra. + Phong cách nghệ thuật, bút pháp miêu tả của mỗi tác giả khác nhau: Kim Lân khai thác từ tình huống và tâm lí nhân vật. Tô Hoài có lối miêu tả nhân vật độc đáo. c) Kết bài: Nêu cảm nhận của em.
- Cả 2 tác phẩm Vợ chồng A Phủ và Vợ Nhặt đều thông qua nhân vật và tình huống truyện để phản ánh một mặt trận đen tối trong hiện thực xã hội, cùng số phận của người dân nghèo. Bên cạnh đó còn phát hiện vẻ đẹp tâm hồn của họ. - Niềm cảm thông sâu sắc với nỗi đau của con người, sự nâng niu nét đẹp tâm hồn mà hơn cả là sự hướng tới giải phóng cho con người. Đề bài 4: Trong bài Cảm nghĩ về truyện Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài viết: \"Nhưng điều kì diệu là dẫu trong cùng cực đến thế mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sự sống con người. Lay lắt đói khổ, nhục nhã Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt\". Phân tích nhân vật Mị (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài) để làm sáng tỏ nhận định trên và nhận xét về tư tưởng nhân đạo của nhà văn Tô Hoài. Lập dàn ý chi tiết a) Mở bài: - Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: Ý kiến bàn về Mị, nhân vật chính trong Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài với số phận bất hạnh nhưng có sức sống tiềm tàng, mãnh liệt. Qua nhân vật, nhà văn gửi tới bạn đọc tư tưởng nhân văn sâu sắc. - Giới thiệu về tác giả Tô Hoài, tác phẩm Vợ chồng A Phủ - Giới thiệu nhân vật Mị, trích dẫn lời tâm sự của Tô Hoài. b) Thân bài: * Giải thích ý kiến: - Ý kiến của Tô Hoài là lời tâm sự về nhân vật Mị - nhân vật chính trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của ông. Qua lời tâm sự của Tô Hoài, người đọc thấy nhà văn muốn khẳng định dẫu phải sống một cuộc đời “cùng cực” bị mọi thế lực của tội ác chà đạp, sống lay lắt, đói khổ, nhục nhã nhưng Mị vẫn có sức sống tiềm tàng, mãnh liệt không chịu đầu hàng số phận. Đó là một điều kì diệu. - Ở đây ta cần hiểu sức sống tiềm tàng là sức sống tiềm ẩn bên trong con người. Nó được biểu hiện ở khả năng phản kháng, chống lại hoàn cảnh bị vùi dập để đòi quyền sống, quyền tự do.
=> Nhận xét của tác giả Tô Hoài thể hiện được cuộc sống khổ cực của người dân miền núi đồng thời thể hiện thái độ trân trọng đối với những bản chất tốt đẹp, khẳng định sức sống bất diệt bên trong con người. * Phân tích, chứng minh: - Mị có cuộc sống cùng cực, lay lắt, đói khổ nhục nhã: + Mị vốn là một cô gái nhà nghèo, trẻ, đẹp và nhất là Mị rất giàu lòng yêu đời, ham sống, lại thêm tài thổi sáo nữa. + Một cô gái chăm làm (“Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm ngô trả nợ cho bố” - lời Mị nói với bố). + Mị cũng thật là một đứa con hiếu thảo (khi bị ép về nhà Pá Tra, Mị muốn quyên sinh, nhưng nghĩ đến bố sẽ khổ hơn, nên không đành lòng chết nữa). =>Tóm lại, đây là một cô gái rất xứng đáng để hưởng hạnh phúc và đang sống những ngày tươi đẹp của tuổi trăng tròn, dù trong cảnh nghèo khó + Vì món nợ truyền kiếp của cha mẹ, Mị phải làm dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. + Mị bị đày đoạ về thể xác + Bị đày đoạ về tinh thần quá nặng nề khiến Mị trở nên vô cảm. => Cuộc đời và số phận bất hạnh của Mị điển hình cho số phận ngục tù, tăm tối của người phụ nữ miền núi trong xã hội phong kiến thực dân trước CMT8 - 1945. - Mọi thế lực của tội ác cũng không thể giết được sức sống của con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt: + Phản ứng của Mị khi Pá Tra đến xin cô về làm dâu gạt nợ: Mị khước từ, cầu xin cha “... Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Câu nói cho thấy Mị là con người mạnh mẽ, biết trọng danh dự và cuộc sống của chính mình. + Mị phản kháng, không chấp nhận thân phận nô lệ khi bị A Sử bắt. Mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc rồi Mị trốn về nhà cầm nắm lá ngón từ biệt cha quyên sinh. Hành động của Mị mang tính tự phát nhưng đó là sự phản kháng mạnh mẽ. Mị không muốn sống cuộc đời vô nghĩa. + Sức sống tiềm tàng mãnh liệt của Mị thể hiện qua diễn biến tâm trạng trong đêm tình mùa xuân. + Mùa xuân về, thiên nhiên đất trời thay đổi, không khí đón tết náo nức (đối lập với không gian sống và tâm trạng của Mị) khiến sức sống trong Mị trỗi dậy.
+ Khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình: Tâm trạng: bồi hồi, xúc động, thức tỉnh (ý thức về thời gian, kỉ niệm sống dậy, tiếng sáo gợi nhớ, thấy mình còn trẻ, ý thức về thân phận...) và muốn đi chơi. Hành động khác thường (nhẩm theo lời bài hát, xắn mỡ bỏ thêm vào đĩa đèn, sửa soạn đi chơi...) thể hiện trạng thái phản kháng. + Khi bị trói: Tâm trạng đau khổ chập chờn giữa quá khứ và hiện tại (không biết mình bị trói, vẫn sống với tiếng sáo, bồi hồi tha thiết, lúc mê lúc tỉnh...). Hành động mạnh mẽ, vùng bước đi nhưng dây trói thít chặt. => Tàn bạo chỉ có thể giam hãm được thân xác Mị chứ không thể giam hãm được tuổi trẻ và khát vọng sống trong Mị. + Sức sống tiềm tàng mãnh liệt của Mị thể hiện qua diễn biến tâm trạng trong đêm mùa đông cởi trói cho A Phủ. Ngoại cảnh: đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, A Phủ bị trói đứng. Tâm trạng: Lúc đầu Mị vẫn thản nhiên ngồi sưởi lửa hơ tay. Khi nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ, Mị nhớ lại tình cảnh tương tự của mình. Từ thương thân, Mị thương A Phủ, căm phẫn gia đình thống lí Pá Tra. Hành động Mị cởi trói cho A Phủ chạy theo A Phủ chứng tỏ sức sống tiềm tàng đã giúp Mị bước qua hai ngục tù của số phận: cường quyền và thần quyền để tự giải phóng cuộc đời mình. * Nghệ thuật xây dựng nhân vật: - Bút pháp đối lập tương phản - Đặt nhân vật vào tình huống thử thách - Nghệ thuật miêu tả tâm lí, ngôn ngữ,... * Nhận xét về tư tưởng nhân đạo của Tô Hoài - Tô Hoài xót thương sâu sắc cho cuộc sống tù đọng, thân phận trâu ngựa, phải sống trong đói khổ, tàn bạo của người dân miền núi. - Lên án tội ác vô nhân đạo của bọn quan lại miền núi. - Tô Hoài trân trọng, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người miền núi, đặc biệt là sức sống tiềm tàng, mãnh liệt và khát vọng hướng đến hạnh phúc, tự do của họ. - Điểm mới trong tư tưởng nhân đạo của Tô Hoài là ông đã đưa ra con đường giải phóng, sự đổi đời cho người lao động bị áp bức.
c) Kết bài: - Kết thúc vấn đề: Với bút pháp hiện thực sắc sảo cùng tài năng phân tích tâm lí bậc thầy, tác giả Tô Hoài đã thể hiện sức sống tiềm tàng bên trong con người, đó là nguồn sức mạnh giúp con người giải phóng chính mình, hướng đến cuộc sống tự do. Đề 6: Cảm nhận của anh/chị về chi tiết \"Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá!\" mà nhân vật Chí Phèo cảm nhận được sau đêm gặp Thị Nở (Chí Phèo - Nam Cao, Ngữ văn 11) và chi tiết \"Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi\" mà nhân vật Mị nghe được trong đêm tình mùa xuân (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài, Ngữ văn 12). Dàn ý Cảm nhận âm thanh sự sống trong Chí Phèo và Vợ chồng A Phủ 1. Mở bài - Sơ lược về Chí Phèo và Vợ chồng A phủ. - Dẫn vào vấn đề cần cảm nhận: m thanh sự sống trong hai tác phẩm. 2. Thân bài a. Tiếng chim hót trong tác phẩm Chí Phèo: - Là âm thanh báo hiệu cuộc đời bước sang trang mới của hắn, khơi dậy cõi lòng tưởng đã chết của Chí những âm thanh sinh động của cuộc sống, khiến hắn bừng tỉnh. => Thấy đau đớn, xót xa cho cuộc đời mình . - Khởi đầu cho sự thức tỉnh của một con người vốn bị cho là quỷ dữ, bởi quỷ dữ thì làm gì biết buồn, chỉ có con người mới có những cảm xúc rung động với âm thanh rất đỗi bình dị như thế. - Sống dậy những ước mơ đã bị chôn vùi hơn hai mươi năm, ước mơ chồng cày cuốc vợ dệt vải, ước mơ về một mái ấm gia đình hạnh phúc, nuôi lợn, mua đất,... Rồi cũng từ chính tiếng chim vui vẻ ấy Chí Phèo mới nhận ra rằng mình đã bước sang đến bên kia con dốc của cuộc đời. - Hiển hiện nỗi sợ cô độc, biểu hiện rõ nét nhất của Chí Phèo về ước muốn trở lại làm người, khao khát được hòa nhập với cộng đồng của hắn. - Những âm thanh tuyệt vời bình dị như tiếng chim líu lo vui vầy đã đánh thức niềm khao khát mãnh liệt về cuộc sống được làm người lương thiện, cuộc sống giản đơn hạnh phúc, ấm êm.
→ Tiếng chim ấy như khúc nhạc thiên lương, đánh động tâm hồn của Chí phèo, xua tan đi những mây mù, những u ám vẫn chất đầy 20 năm trong lòng Chí, khiến hắn yêu cuộc đời này hơn, khao khát được sống đàng hoàng bên Thị Nở. b. Tiếng sáo thổi trong Vợ chồng A Phủ: - Sơ lược về cuộc đời Mị. - Tiếng sáo ai thổi gọi bạn văng vẳng bên tai làm Mị sống dậy những ký ức xa xăm về một thời con gái tươi đẹp, tiếng sáo đã từng là niềm tự hào của Mị vì Mị thổi sáo rất hay - Dẫn Mị về những ký ức thật tươi đẹp, khiến Mị ứa nước mắt, xót xa cho thân phận lầm lũi, khốn khổ của mình, nước mắt của Mị chính là minh chứng cho cái tâm hồn vốn tưởng đã chết hẳn nay lại sống dậy. - \"tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ bay ngoài đường\" đã đem đến trong tâm hồn Mị những biến đổi lớn. Nó đánh thức tâm hồn son trẻ, yêu đời, khát khao tự do, vui sống mãnh liệt của Mị như một liều thuốc tiên đến từ trời. - Và cũng như tiếng chim, tiếng sáo đối với Mị là liều thuốc tâm hồn, thức dậy lòng ham sống, sự phản kháng mạnh mẽ của Mị dẫn đến những hành động sau này của Mị để tự giải thoát cuộc đời mình, từ việc cứu A Phủ đến việc bỏ trốn, có lẽ cũng khởi nguồn từ tiếng sáo đêm tình mùa xuân ấy. 3. Kết bài - Nêu cảm nhận cá nhân. MỞ BÀI THAM KHẢO: 1. “Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường. Những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa đày đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời. Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực.” (Nguyễn Minh Châu). Với hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, nhà văn Tô Hoài đã thực hiện trọn vẹn sứ mệnh ấy khi mang đến cho người đọc một hình tượng nghệ thuật với biết bao vẻ đẹp – nhất là sức sống tiềm tàng mãnh liệt mà không thế lực nào có thể dập tắt được.
Search