2.1. Xuất thân Những người nghĩa sĩ đánh giặc ấy, họ sinh ra đâu phải là chàng Gióng Phù Đổng, Lê Lợi, Quang Trung... Họ vốn chỉ là những con người quanh năm khoác trên mình màu áo nâu của đất, bình dị và lam lũ, chỉ có con trâu là đầu cơ nghiệp. Cuộc sống của họ là từ sáng đến tối bán mặt cho đất, bán lưng cho trời quen với việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy và chật vật với những lo toan nghèo khó. Chỉ với một câu văn “Nhớ linh xưa: Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó”, cụ Đồ Chiểu đã vẽ nên vòng đời luẩn quẩn không lối thoát của người dân Việt. Người \"dân ấp dân lân\" Nam Bộ, cui cút, vật lộn làm ăn để cuối cùng vẫn là nghèo khó. Là nông dân của một đất nước nghèo nàn, lạc hậu nên cả đời họ chỉ biết con trâu thửa ruộng mà chưa bao giờ ra khỏi lũy tre làng “chỉ biết con trâu ở trong làng bộ”. Cho nên, họ đâu quen những việc “tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ\", chưa quen chuyện “cung ngựa\", \"trường nhung\". Nhìn chung, trước khi giặc ngoại xâm đến họ vốn chỉ là những người nông dân vô cùng thuần phác sống âm thầm, bình lặng. 2.2. Là người nông dân yêu nước, căm thù giặc Nhưng âm thanh của tiếng súng đã phá tan cuộc sống bình thường của họ. Nguyễn Đình Chiểu đã vẽ ra bối cảnh thời đại với nhiều biến cố, bão táp. Câu “Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ” câu tứ tự hai vế tuy ngắn gọn nhưng khái quát được hoàn cảnh, tình thế của đất nước lúc bấy giờ. “Súng giặc đất rền” chỉ sự tàn phá nặng nề, giặc xâm lược và gây bao tội ác bằng vũ khí tối tân, hiện đại. Tình cảnh ấy cũng từng được Nguyễn Đình Chiểu thể hiện trong bài “Chạy giặc”: “Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây Một bàn cờ thế phút sa tay Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy Mất ổ bầy chim dáo dác bay Bến Nghé cửa tiền tan bọt nước Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”. Hoàn cảnh ấy đã thử thách và bộc lộ tấm lòng của con người đối với đất nước. Khi quê hương ruột thịt bị xâm chiếm và giày xéo, người nông dân yêu nước đã có sự chuyển biến lớn về nhận thức và tình cảm. Họ đã nghe ngóng phong thanh “tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng” và biết tin giặc đến. Không chỉ nghe, họ còn ngửi thấy cả mùi hôi tanh của chúng“Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm” và khi chứng kiến tội ác của bọn giặc, biết rõ đất nước bị rơi vào tay giặc, họ căm ghét bọn giặc xâm lược “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”. Đây là phép so sánh rất độc đáo, thể hiện sự căm ghét bọn giặc xâm lược một cách tự nhiên, phù hợp tâm lí và suy nghĩ của người nông dân. Lòng căm thù giặc của họ còn được thể hiện rõ hơn khi “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp”, “Ngày xem ống khói chạy đen sì” mà “muốn tới ăn gan”, “muốn ra cắn cổ”. Lòng căm thù giặc của người nông dân Nam Bộ cuối thế kỉ XIX như thế không khác nào lòng căm thù giặc ngút trời mà Trần Quốc Tuấn thể hiện trong Hịch tướng sĩ “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, muốn xẻ thịt, lột da, moi găn, uống máu quân thù”. Sự nhức nhối đến tận cùng, sự căm thù đến tột độ phải đến hai câu sau mới lên đến đỉnh cao: Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu 51
Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó. Tuy vậy, ban đầu họ vẫn đặt niềm tin và trông chờ vào triều đình, trông chờ tin quan “như trời hạn trông mưa”. Nhưng trước bối cảnh nguy kịch mà triều đình lại bạc nhược nên họ nhận ra không thể chờ đợi được nữa. Họ không thể để bọn giặc xâm lăng cướp đi máu thịt của mình, phá vỡ sự bình yên của quê hương. Họ nhận thức rõ ràng về nền độc lập và danh dự của tổ quốc, họ thấy rõ tội ác của kẻ thù và họ cũng nhận thấy trách nhiệm của bản thân với đất nước. Cho nên, họ chủ động đánh giặc, không đợi ai đòi, ai bắt mà tự nguyện chiến đấu: “Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình, chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”. Lòng căm thù giặc, uất hận trước những tội ác của chúng gây ra đã biến những người nông dân hiền lành, vốn chỉ biết cui cút làm ăn trở thành những người nghĩa sĩ nông dân dám xả thân vì đất nước. Họ không nề hà chuyện sống chết, đem thân mình chiến đấu chống lại kẻ thù, sẵn sàng hy sinh vì quê hương và để làm sáng tỏ chân lí của thời đại: Chết vinh còn hơn sống nhục. 2.3. Điều kiện chiến đấu và tinh thần chiến đấu - Điều kiện chiến đấu: Trong quá trình chiến đấu, những người nghĩa sĩ nông dân gặp nhiều khó khăn, thử thách. Cuộc đối đầu giữa họ với kẻ thù là cuộc đối đầu không cân sức. Họ vốn không phải quân cơ, quân vệ theo dòng, chưa từng biết đến mười tám ban võ nghệ, chín chục trận binh thư. Trước trận đánh Tây họ không được trang bị binh pháp, chưa một ngày được rèn luyện võ nghệ. Họ chỉ là những người nông dân vì mến nghĩa mà làm quân chiêu mộ nên trang bị cũng hết sức thô sơ. Trang phục cũng như vũ khí chiến đấu chỉ là những vật dụng trong sinh hoạt và lao động hàng ngày: “Ngoài cật có một manh áo vải”, “trong tay cầm một ngọn tầm vông”, “hỏa mai đánh bằng rơm con cúi”,… Chiếc áo họ mặc ra trận là manh áo vải của người nông dân, vũ khí của họ là gậy tre, đánh hỏa mai bằng rơm bện lại. Ngược lại, địch rất mạnh, được rèn luyện vô cùng tinh nhuệ, được trang bị vũ khí tối tân với “đạn nhỏ, đạn to” “tàu sắt tàu đồng súng nổ”. - Tinh thần chiến đấu: Tuy nhiên, tinh thần yêu nước, lòng căm thù giặc đã khiến những con người nhỏ bé tầm thường vụt lớn lên thành những chàng Gióng khổng lồ trong cổ tích. Khi Tổ quốc lầm than, họ không ngần ngại chung vai góp sức và tinh thần chiến đấu của họ rất cao. Trong những cuộc chiến tranh phong kiến phi nghĩa trước đây, người nông dân khi phải ra đi làm lính thú để bảo vệ cương thổ của nhà vua được miêu tả với tâm trạng: “Thùng thùng trống đánh ngũ liên Bước chân xuống thuyền, nước mắt như mưa” Nhưng người nghĩa sĩ nông dân trong tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu lại hoàn toàn khác. Họ tự giác, tự nguyện và tự khắc phục khó khăn để chiến đấu và điều đó đã thể hiện vẻ đẹp cao cả nhất của người nông dân - nghĩa sĩ Cần Giuộc. Dù tương quan lực lượng hai bên đã thấy rõ, nhưng người nghĩa sĩ nông dân vẫn không hề sợ hãi. Họ bất chấp sự hiểm nguy, bất chấp sự chênh lệch, sự đối lập của hoàn cảnh chiến đấu, vẫn quyết chiến và quyết thắng. Họ lấy tinh thần xả thân vì nghĩa để bù đắp lại sự thiếu hụt, chênh lệch của mình với kẻ thù: 52
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng bằng lười dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ. Chi nhọc quan quản going trống kì trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có. Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ”. Bằng việc sử dụng liên tiếp các động từ mạnh như “đạp rào lướt tới”, “xô cửa xông vào”, “đâm ngang chém ngược”, “hè trước ó sau”, nhịp điệu nhanh, gấp gáp tác giả đã vẽ lên khung cảnh chiến trường ác liệt, đồng thời cũng làm nổi bật vẻ đẹp của người nông dân nghĩa sĩ: hiên ngang, kiên cường, dũng cảm, bất khuất. Với tinh thần chiến đấu cao như vậy nên họ đã lập được những chiến công như chém rớt đầu quan hai, đốt xong nhà dạy đạo và làm cho bọn giặc phải khiếp sợ… Chân dung hình tượng người nghĩa sĩ nông dân ở đây hiện lên vừa mộc mạc, giản dị nhưng đồng thời cũng vô cùng anh dũng kiên cường. Và bằng sự ngoan cường, lòng yêu nước nồng nàn, họ đã làm nên được những điều phi thường, làm vang dậy bản anh hùng ca về lòng yêu nước. 2.5. Sự hi sinh đầy bi tráng của những người nghĩa sĩ nông dân - Sự hi sinh của người nghĩa sĩ nông dân: Những người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc sẵn sàng chiến đấu, hi sinh cho từng tấc đất ngọn rau của tổ quốc, cho bát cơm manh áo ở đời. Họ xả thân vì đất nước quê hương để giữ câu địch khái, thà chết đi theo tổ phụ mà giữ được chữ vinh còn hơn phải chịu cảnh đầu hàng Tây nhục nhã. Họ chỉ có một tên gọi chung là nghĩa sĩ Cần Giuộc, còn mỗi người nghĩa sĩ đó đều vô danh. Họ đã sống những cuộc đời của quần chúng vô danh và chết cái chết của quần chúng vô danh, họ không đợi hi sinh để được gươm hùm treo mộ. Ở chốn sa trường những mong may mắn để họ không bị rơi vào cảnh da ngựa bọc thây nhưng vì tương quan giữa ta và địch quá chênh lệch nên nhiều nghĩa sĩ đã hi sinh, đã “phận bạc trôi theo dòng nước đổ” và “tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm”. - Sự hi sinh ấy trước hết gợi bao nhiêu sự thương tiếc: + Sự thật bi thương, phũ phàng ấy phô bày ra trước mắt thật xót đau biết mấy. Năm xưa trong kiệt tác Truyện Kiều, đại thi hào dân tộc Nguyễn Du đã đúc kết: Thiện căn ở tại lòng ta Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. Lâm Ngũ Đường nhà văn Trung Quốc cũng khẳng định “Văn chương bất hủ cổ kim đều viết bằng huyết lệ”. “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu có lẽ được kết tinh bằng cái tài, nhưng hơn cả nó được tạo thành từ những dòng huyết lệ thể hiện cái tâm trong sáng của Đồ Chiểu. + Niềm thương tiếc của nhà thơ dành cho những người nghĩa sĩ đã khuất được thể hiện qua các thán từ xuất hiện liên tiếp như cụm từ mở đầu “Khá thương thay!” và thán từ “Ôi thôi thôi!” ở phần Ai vãn, thán từ “Ôi!” ở đoạn kết. Giọng điệu bi ai trùng xuống đến thống thiết đau buồn thể hiện lòng xót thương vô hạn. Tác phẩm là một tiếng khóc đầy ai oán, tiếng khóc đến quặn lòng, tiếng khóc để tiễn biệt những người con Cần Giuộc mãi mãi nằm lại trên mảnh đất quê hương. 53
+ Họ ngã xuống nơi chiến trường khói lửa để lại giữa trần gian những mẹ già, vợ yếu, con thơ. Tiếng khóc của người mẹ già, nỗi đau đớn của người vợ trẻ được nói đến vô cùng xúc động: Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ. Với người mẹ con dù lớn đến đâu cũng là con trẻ, mẹ có trẻ mấy mà mất con cũng thành mẹ già, những người vợ mất chồng thì dù khỏe mấy cũng là vợ yếu vì họ đã mất đi nơi nương tựa. Vì vậy, hình ảnh người mẹ già ngồi khóc trẻ, như ngọn đèn khuya leo lét trong lều và hình ảnh người vợ chạy tìm chồng trong con bóng xế dật dờ trước ngõ là những hình ảnh đầy bi thương, tội nghiệp. + Tác phẩm không chỉ thể hiện sự thương xót, bi thương của tác giả, của người thân mà còn là nỗi thương tiếc của nhân dân Cần Giuộc từ già đến trẻ. Sự bi thương ấy lan tỏa cả ra đất trời, cây cỏ, thiên nhiên Cần Giuộc và trở thành tiếng khóc của cả non sông, dân tộc: \"Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng luỵ nhỏ\". - Sự hi sinh của những người nghĩa sĩ nông dân cũng rất hào hùng, cao cả: Người nông dân mười năm làm ruộng không đem lại tiếng tăm gì, chỉ một trận đánh Tây mà gây tiếng vang, để lại tiếng thơm muôn đời. Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ. Họ hi sinh nhưng trả được nợ nước non, khiến cho kẻ thù hiểu ra đạo lí rằng hành động xâm lược của chúng sẽ không được dung thứ. Họ đã sống anh dũng và hi sinh rất vẻ vang và trở thành tấm gương sáng, để lại danh thơm khắp chốn, được nhân dân lập đình miếu để thờ, đền ơn họ bằng một chữ ấm. : Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; Thác mà ưng đền miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ. Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia; Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó. Họ để lại bài học quý báu là thà chết vinh còn hơn sống nhục. Và câu văn cuối cùng đã thể hiện sự tiếc thương, cảm phục và khẳng định những nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc đã trở thành bất tử: “Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ”. Câu văn dù có bi thương, xót xa nhưng không phải là bi lụy, yếu đuối, trái lại gợi sự hào hùng, cao cả. Bởi vậy, hình tượng người nghĩa sĩ nông dân mang vẻ đẹp đầy bi tráng. Đúng như thủ tướng Phạm Văn Đồng nhận định, những nghĩa sĩ nông dân là “những anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang”. Họ trở thành bức tượng đài sừng sững tạc vào không gian lẫn thời gian để nói với muôn đời về lòng yêu nước. III. KẾT LUẬN 54
Bài văn tế được viết theo thể phú Đường luật có vần, có độc vận. Từ ngữ biểu cảm trực tiếp, gọi tên các trạng thái đa dạng như buồn thương, sầu tủi khi thì tự hào. Hệ thống các từ láy gợi hình gợi cảm được dùng linh hoạt: Cui cút, leo lét, não nùng, dật dờ. Ngôn ngữ bình dị, đậm màu sắc thôn dã của vùng đất Nam Bộ kết hợp tài tình những điển tích điển cố, ước lệ tượng trưng như: Tiếng phong hạc, mùi tinh chiên, mối xa thư, chém rắn đuổi hươu… Nghệ thuật tiểu đối đặc trưng của thể loại văn tế được thể hiện rõ nét qua các câu văn cùng với kết cấu ngôn ngữ phủ định trùng điệp: “Nào đợi/ chẳng thèm/ nào phải/ chẳng qua/chẳng đợi/không chờ...”, nghệ thuật tương phản hai cấp độ được sử dụng thành công là “Hỏa mai...gươm đeo.../ Chi nhọc quan quản chẳng sợ thằng Tây.../ Kẻ đâm ngang bọn hè trước...súng nổ.” Giọng điệu linh hoạt lúc thì hùng oai, sục sôi khi diễn tả cái hiên ngang, lúc thì bi ai, thống thiết khi nói về sự mất mát, đau buồn. Cảm xúc chủ đạo của bài văn tế là cảm xúc bi tráng. Tất cả hợp thành một âm hưởng chiến trận hào hùng của một thiên anh hùng ca tuyệt diệu. Bài văn tế như một bức tượng đài bằng ngôn từ, tạc khắc nên bức tượng đài bi tráng, bất tử về người nghĩa sĩ nông dân yêu nước, căm thù giặc. Bức tượng đài ấy là dấu mốc thể hiện cả một bi kịch lớn của dân tộc - bi kịch mất nước, và báo hiệu một thời kì lịch sử đen tối của dân tộc ta là gần một trăm năm Pháp thuộc. Nhưng cũng thật hào hùng, bởi trong cái bi kịch lớn ấy, vẫn ngời sáng tinh thần bất khuất và lí tưởng cao đẹp của nhân dân Nam Bộ nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung. Đề bài số 2: Nhận xét về bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu có ý kiến cho rằng:\"Bài văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là bức tượng đài bi tráng về hình tượng người nông dân nghĩa sĩ tuy thất thế nhưng vẫn hiên ngang\", có ý kiến khác cho rằng:\"Bài văn tế là tiếng khóc bi tráng cho một thời kỳ lịch sử đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc\",. Bằng hiểu biết của mình về bài văn anh/chị hãy làm sáng tỏ. I. MỞ BÀI - Vài nét về tác giả, tác phẩm. - Dẫn dắt vào hai nhận định. II. THÂN BÀI 1. Giải thích 1.1. Ý kiến 1:\"Bài văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là bức tượng đài bi tráng về hình tượng người nông dân nghĩa sĩ tuy thất thế nhưng vẫn hiên ngang\" - Bi là buồn, là bi thương, là gợi cái buồn đau, mất mát, đau thương. - tráng: gợi sự hào hùng, hùng tráng - Bi tráng: Nói đến cái buồn đau, mất mát, bi thương nhưng không gợi ra sự buy lụy, yếu đuối mà trái lại gợi sự hào hùng, hùng tráng. - thất thế: chỉ sự thất bại, hi sinh, mất mát - hiên ngang: phẩm chất của người anh hùng kiên cường, bất khuất 55
=> Bài văn tế viết về người nghĩa sĩ nông dân và tạc nên bức tượng đài về lòng yêu nước, tinh thần xả thân chiến đấu khi tổ quốc lâm nguy. Viết về sự hi sinh, mất mát, thất bại nhưng không hề bi lụy, nói về cái chết mà vẫn hào hùng lẫm liệt, khảng định cái chết ấy là đi vào cõi bất tử. Cái bi còn được biểu hiện ở giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ hào hùng 1.1. Ý kiến 2: Bài văn tế là tiếng khóc bi tráng cho một thời kỳ lịch sử đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc - Bài văn viết theo thể văn tế là thể loại văn học thể hiện sự bi thương, tang tóc, thường để khóc người chết. Thông qua tiếng khóc cho người nghĩa sĩ nông dân yêu nước đã hi sinh, tác phẩm còn là tiếng khóc bi thương nhưng hào hùng cho một thời kì lịch sử của dân tộc vừa đau thương mất mát nhưng vừa rất lớn lao, vĩ đại. Đất nước bị giặc xâm lược giày xéo và gây bao nhiêu tội ác nhưng nhân dân vẫn phát huy truyền thống kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm. => Hai ý kiến là hai nhìn nhận khác nhau nhưng có liên quan đến nhau trong việc đánh giá về tác phẩm. 2. Phân tích, chứng minh 2.1. Ý kiến 1: Tác phẩm đã tạc nên hình tượng về người nghĩa sĩ nông dân yêu nước, thất thế mà vẫn hiên ngang (TK mục 2. Đề số 1) - Xuất thân - Là người nông dân yêu nước, căm thù giặc - Điều kiện chiến đấu và tinh thần chiến đấu - Sự hi sinh đầy bi tráng của những người nghĩa sĩ nông dân + Sự hi sinh của người nghĩa sĩ nông dân: + Sự hi sinh ấy trước hết gợi bao nhiêu sự thương tiếc: + Sự hi sinh của những người nghĩa sĩ nông dân cũng rất hào hùng, cao cả 2.2. Ý kiến 2: Là tiếng khóc bi tráng cho một thời kỳ lịch sử đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc - Hoàn cảnh ra đời và cảnh tình đất nước trong bài văn tế: + Hoàn cảnh ra đời: Tk mục 1. đề 1 + Tình thế căng thẳng: Súng giặc đất rền >< Lòng dân trời tỏ + Bọn giặc gây bao tội ác quăng vùa hương, xô bàn độc... Những người nghĩa sĩ hi sinh để lại gia đình nhéo nhóc với mẹ già, vợ yếu, con thơ, khiến nhân già trẻ đều hai hàng lụy nhỏ… => Tái hiện một thời kì lịch sử đầy đau thương của đất nước - Qua hình tượng người nghĩa sĩ nông dân xả thân, chấp nhận hi sinh quyết chiến đấu để bảo vệ non sông, đất nước ta thấy cả một thời kì lịch sử hào hùng, vĩ đại của dân tộc. “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của cụ Đồ Chiểu người đọc hiểu hơn về một thời đại đau thương mà vĩ đại của dân tộc. Khi đất nước trở thành thuộc địa của thực dân xâm lược, dân tộc ta bước vào một thời kì lịch sử đau thương với máu và nước mắt của bao người đã ngã xuống. Kiêu hãnh biết bao, tự hào biết bao trong bối cảnh ngoại bang giày xéo, ngọn lửa của lòng yêu nước nhân dân lại bùng lên. “Đất nghèo nuôi những anh hùng”, người 56
nông dân nơi lũy tre làng hai sương một nắng đã thắp lên ngọn lửa yêu nước để tỏa sáng đến muôn đời. 3. Đánh giá hai nhận định: - Hai nhận định đều đúng bổ sung cho nhau để thể hiện cái nhìn sâu sắc và toàn diện về tác phẩm. - Đánh giá về nội dung và nghệ thuật. III. KẾT LUẬN: Suy nghĩ chung của bản thân về vấn đề đã nêu. MR: Con người là sản phẩm của hoàn cảnh, nhưng nhân cách của con người không chỉ là sản phẩm thụ động của hoàn cảnh. Ngày xưa cụ Nguyễn Du từng cho rằng: “Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”. Nhân cách của Nguyễn Đình Chiểu là một minh chứng sống động về tính năng động của con người. Cuộc đời dù nghiệt ngã, nhưng sự nghiệp của con người ấy không vì thế mà buông xuôi theo số phận.Vượt qua số phận để đứng vững trước sóng gió của cuộc đời, chính là thái độ sống có văn hóa, là nhân cách cao đẹp của Nguyễn Đình Chiểu. LUYỆN ĐỀ Đề bài 1: Giá trị hiện thực của đoạn trích ”Vào phủ chúa Trịnh” trích ”Thượng Kinh kí sự” của Lê Hữu Trác. I. MỞ BÀI - Giới thiệu về tác giả Lê Hữu Trác và đoạn trích tiêu biểu Vào phủ chúa Trịnh: Không chỉ là một danh y mà còn là một nhà văn, nhà thơ. \"Vào phủ chúa Trịnh\" là một đoạn trích tiêu biểu trong Thượng kinh kí sự. - Khái quát giá trị hiện thực đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh: Đoạn trích mang giá trị hiện thực sâu sắc. II. THÂN BÀI 1. Giá trị hiện thực là gì? - Hiện thực: Sự thật đời sống - Giá trị hiện thực trong tác phẩm văn học: sự phản ánh hiện thực đời sống một cách chân thực, rõ nét, tạo nên ý nghĩa cho tác phẩm. - Hoàn cảnh ra đời: TK - Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh là đoạn trích mang giá trị hiện thực rõ nét bởi Thượng kinh kí sự được viết theo thể kí với đặc điểm ghi chép câu chuyện, sự kiện có thật tương đối hoàn chỉnh mà tác giả trực tiếp chứng kiến. 2. Giá trị hiện thực được biểu hiện trong đoạn trích 2.1. Phản ánh bức tranh hiện thực về quang cảnh nơi phủ chúa - Vào phủ phải trải qua nhiều cửa gác, những dãy hành lang quanh co nối tiếp nhau + Vườn hoa: “cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương” 57
+ Khuôn viên: có điếm “Hậu mã quân túc trực” để chúa sai phái đi truyền lệnh - Trong phủ: + Những nhà: “Đại đường”, “Quyền bổng”, “Gác tía” với kiệu son võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng và những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy. + Đồ dùng tiếp khách ăn uống toàn là mâm vàng, chén bạc. - Nội cung thế tử: + Phải qua năm sáu lần trướng gấm + Trong phòng thắp nến, có sập thếp vàng, ghế rồng sơn son thếp vàng, trên ghế bày nệm gấm, màn là che ngang sân, “xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt” ⇒ Quang cảnh nơi phủ chúa vô cùng sa hoa, giàu sang và thâm nghiêm, đây là quang cảnh thường thấy trong lịch sử bởi vua chúa là những người đứng đầu cai trị đất nước 2.2. Phản ánh hiện thực cuộc sống sinh hoạt nơi phủ chúa Cuộc sống sinh hoạt nơi phủ chúa với rất nhiều những nhiều lễ nghi, khuôn phép, đầy quyền uy, xa hoa nhưng thiếu sinh khí cũng được tác giả phản ánh chân thực: - Phủ chúa là nơi xa hoa, thâm nghiêm và cũng là nơi đầy uy quyền: Tiếng quát tháo, truyền lệnh, quy tắc lễ nghi được thực hiện nghiêm ngặt: + Khi tác giả được cáng vào phủ: “tên đầy tớ chạy đàng trước hét đường và cáng chạy như ngựa lồng”, “người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như mắc cửi” + Khi xem bệnh không được thấy mặt thế tử, chỉ làm theo mệnh lệnh do quan chánh đường truyền tới, trước khi vào xem bệnh cho thế tử phải lạy bốn lạy, muốn xem thân hình của thế tử phải có viên quan nội thần đến xin phép + Lắm kẻ hầu người hạ: Chúa Trịnh luôn có phi tần hầu chầu chực xung quanh, thế tử bị bệnh có đến 7, 8 thầy thuốc phục dịch và lúc nào cũng có mấy người đứng hầu hai bên. - Phủ chúa là nơi thiếu sinh khí: + Sự thâm nghiêm kiểu mê cung làm tăng ám khí, lối sống cung cấm khiến con người: Tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi, gân thòi xanh, chân tay gầy gò…”, “Thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi” + Phản ánh sự thật vị chúa nhỏ Trịnh Cán sống trong sự xa hoa nhưng điều cơ bản nhất lại thiếu, đó là sức sống ⇒ Cuộc sống sinh hoạt nơi phủ chúa được tác giả khắc họa chân thực phù hợp với cung cách sinh hoạt của vua chúa thời kì bấy giờ, đồng thời cho thấy được uy quyền và sự lộng hành của chúa Trịnh lấn át cả cung vua. ⇒ Phản ánh sự lộng hành của chúa Trịnh. III. KẾT LUẬN 1. Nét nghệ thuật thể hiện thành công giá trị hiện thực của đoạn trích - Thể kí: ghi chép sự thật - Ghi chép tỉ mỉ, chi tiết, chân thực sự việc 58
- Kết hợp ghi chép sự việc một cách chính xác với bộc lộ suy nghĩ, cảm xúc 2. Nội dung - Khẳng định giá trị hiện thực tiêu biểu của đoạn trích - Nhận định vai trò và tầm quan trọng của giá trị hiện thực đối với thành công của đoạn trích và toàn bộ tác phẩm: Góp một phần không nhỏ làm nên thành công, đưa tác phẩm Thượng kinh kí sự trở thành tác phẩm kí nghệ thuật đích thực đầu tiên ở Việt Nam. Đề bài 2: Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác trong đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” I. MỞ BÀI - Giới thiệu những nét tiêu biểu nhất về tác giả Lê Hữu Trác và đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh: Một con người toàn tài với quan niệm: “ngoài việc luyện câu văn cho hay, mài lưỡi gươm cho sắc, còn phải đem hết tâm lực chữa bệnh cho người”, đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh là một trong những đoạn trích tiêu biểu trong tác phẩm Thượng kinh kí sự của ông - Đoạn trích đã thể hiện rõ nét vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác II. THÂN BÀI 1. Giới thiệu: Tác phẩm được viết trong bối cảnh xã hội thối nát, những vị quan thanh liêm đều tìm cách lui về ở ẩn với nhân dân, giúp đỡ nhân dân để giữ được tâm hồn, lối sống thanh cao. Lê Hữu Trác cũng vậy, vốn bản thân không màng công danh, ông đã chọn nơi rừng núi yên tĩnh để sống cuộc sống ẩn dật, lấy chim muông làm bầu bạn, hoa cỏ làm niềm vui. Bởi thế mà ông dường như xa lạ trước cuộc sống cung đình và người ta thường biết đến ông là một người lười làm quan, biếng danh lợi với cái tên là Hải Thượng Lãn Ông. Đoạn trích ”Vào phủ chúa Trịnh” là những trang kí sự giàu cảm xúc của Lê Hữu Trác về cảnh giàu sang nơi phủ chúa và bệnh tình của thế tử. Bên cạnh những dòng hiện thực ấy, người đọc vẫn thấy toát lên trên tất cả là tài năng, tâm hồn, nhân cách cao đẹp của Ông già lười. 2. Là con người coi thường danh lợi - Ban đầu, khi đứng trước khung cảnh xa hoa, lộng lẫy của phủ chúa: + Cảm thán: “Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn với người thường!” + Vịnh một bài thơ tả hết cái sang trọng vương giả trong phủ với “gác vẽ, rèm châu, hiên ngọc, vườn ngọc” có hoa thơm, chim biết nói… - Tuy nhiên, đằng sau đó, tác giả cũng gián tiếp phê phán cuộc sống sa hoa nhưng thiếu sinh khí trong phủ chúa thông qua: + Sự miêu tả tỉ mỉ sự sa hoa giàu sang + Khi được mời dùng cơm: “Mâm vàng chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ, tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia” ⇒ giọng điệu mỉa mai + Cảm nhận về con đường vào nội cung của thế tử: Ở trong tối om, không thấy cửa ngõ gì cả, “Vì thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên 59
tạng phủ yếu đi” ⇒ Không đồng tình với cuộc sống quá no đủ, tiện nghi nhưng thiếu khí trời và tự do + Ẩn chứa trong bài thơ là giọng điệu mỉa mai phê phán: “Cả trời Nam sáng nhất là đây!” (phơi bày hiện thực về sự sa hoa của chúa Trịnh) 3. Là một thầy thuốc tài năng, có lương tâm và đức độ - Tài năng: Y học + Văn học: Tk - Tâm trạng của Lê Hữu Trác khi kê đơn cho thế tử có sự mâu thuẫn, giằng co: + Hiểu căn bệnh, biết cách chữa trị nhưng sợ chữa có hiệu quả ngay sẽ được chúa tin dùng, bị công danh trói buộc, không được về với núi rừng ẩn dật + Muốn chữa cầm chừng nhưng lại sợ trái với lương tâm, y đức, sợ phụ lòng cha ông. - Cuối cùng phẩm chất, lương tâm của người thầy thuốc đã chiến thắng. Ông chữa bệnh tận tình bằng tài năng của mình, thẳng thắn đưa ra những cách chữa bệnh hợp lí. ⇒ Cách lí giải và chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán cho thấy Lê Hữu Trác là một thầy thuốc có tài năng, lương tâm và đức độ 4. Là con người có tâm hồn, cốt cách thanh cao - Tâm hồn bay bổng, phong phú - Luôn coi việc nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình làm tôn chỉ để hành động đúng đắn - Xem thường danh lợi, yêu thích tự do, mong muốn được sống thanh đạm nơi quê mùa: Suy nghĩ của Lê Hữu Trác khi ông chữa bệnh cho thế tử ⇒Sự coi thường danh lợi của Lê Hữu Trác, mong muốn sống cuộc đời tự do, chữa bệnh cứu người của ông cho thấy một cốt cách thanh cao của một danh y. III. KẾT LUẬN - Khẳng định lại những nét đẹp tâm hồn và nhân cách của tác giả Lê Hữu Trác thể hiện qua đoạn trích và nêu những nét nghệ thuật thể hiện thành công điều đó - Bày tỏ quan điểm cá nhân về vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác và liên hệ bản thân. Đề bài 3: Có ý kiến cho rằng: Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” là bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa, quyền quí của chúa Trịnh. Ý kiến khác lại khẳng định: Đoạn trích thể hiện nhân cách cao đẹp của nhân vật xưng “tôi”. Bằng cảm nhận về trích đoạn “Vào phủ chúa Trịnh” (trích “Thượng kinh kí sự” - Lê Hữu Trác), anh/chị hãy trình bày suy nghĩ về các ý kiến trên. (HS tự làm bài) Gồm các ý chính: 1. Giải thích: Là hai khía cạnh ý nghĩa của đoạn trích 2. Phân tích và chứng minh từng ý kiến - Ý kiến 1: Mục (2.) của bài phân tích 60
- Ý kiến 2: Mục (4.) của bài phân tích 3. Bình luận - Hai ý kiến tuy khác nhau nhưng bổ sung cho nhau thể hiện đầy đủ ý nghĩa của đoạn trích. 61
Search