Important Announcement
PubHTML5 Scheduled Server Maintenance on (GMT) Sunday, June 26th, 2:00 am - 8:00 am.
PubHTML5 site will be inoperative during the times indicated!

Home Explore CHUYÊN ĐỀ SÓNG -HIỀN

CHUYÊN ĐỀ SÓNG -HIỀN

Published by Nguyễn Thị Vân Trường THPT Hiệp Hòa 1, 2021-10-31 15:50:37

Description: CHUYÊN ĐỀ SÓNG -HIỀN

Search

Read the Text Version

CHUYÊN ĐỀ SÓNG Xuân Quỳnh Họ và tên: Nguyễn Thị Hiền Lớp 12D1 1

I. Khái quát thời đại: 1. Hoàn cảnh lịch sử : - Với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và việc ký kết Hiệp định Giơ – ne - vơ năm 1954, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và bắt đầu chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa. Miền Nam còn bị đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai thống trị nên nhân dân ta phải tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Miền Bắc được coi là hậu phương lớn và miền Nam được coi là tiền tuyến lớn. Ngày 22 – 7 - 1954, trong lời kêu gọi sau khi hội nghị Genévơ kết thúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở nhân dân cả nước: “Đấu tranh để củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ cũng là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ”. - Ngày 5 tháng 8 năm 1964, không quân Mỹ bắt đầu đánh phá một số tỉnh vùng duyên hải rồi leo thang dần ra phía Bắc, đồng thời rải thuỷ lôi phong toả hải phận nước ta. Các cuộc oanh kích của địch tiến dần đến các vùng xung quanh Hà Nội: Phú Thượng, Nhật Tân, rồi đến các nhà ga Văn Điển, Gia Lâm, Yên Viên,... và cuối cùng chúng đánh thẳng vào trung tâm Thủ đô Hà Nội với ý đồ đánh vào đầu não, huỷ diệt tận gốc, biến miền Bắc Việt Nam “trở lại thời kỳ đồ đá” (Trận Điện Biên Phủ trên không mở đầu vào đêm 18-12-1972). - Trước âm mưu xâm lược của đế quốc Mỹ, toàn dân, toàn quân ta, một lần nữa lại nêu cao quyết tâm: “khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. - Từ năm 1964 đến đầu năm 1965, cuộc đấu tranh cách mạng của đồng bào, chiến sĩ ở miền Nam phát triển nhanh chóng, thu được những thắng lợi ngày càng to lớn, khiến cho chiến lược \"Chiến tranh đặc biệt\" của đế quốc Mỹ bị thất bại nghiêm trọng. Trước tình hình ấy, đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược \"Chiến tranh cục bộ\", ồ ạt đưa quân Mỹ và chư hầu vào miền Nam; đồng thời, mở rộng hoạt động không quân và hải quân, ném bom bắn phá miền Bắc để gây áp lực hòng làm giảm sự chi viện về sức người, sức của từ hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam. 2

- Ở miền Bắc, cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mỹ từng bước được mở rộng về quy mô, gia tăng về cường độ và gắn bó chặt chẽ với nhịp độ chiến tranh trên bộ ở miền Nam. 2. Văn học thời kì chống Mỹ: - Cuộc kháng chiến chống Mỹ bước vào giai đoạn ác liệt nhất, nhưng cũng từ thời điểm này đến ngày toàn thắng 30 - 4 - 1975, văn học Việt Nam đã xuất hiện một \"thế hệ vàng\" với những tác phẩm xuất sắc: Thời kỳ chống Mỹ cứu nước, nền văn học cách mạng trở nên bề thế hơn cả về số lượng tác phẩm và đội ngũ tác giả- nhà văn. Các nhà văn đã làm rạng danh nền văn học thời kỳ chống Pháp như Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Thạch Lam, Nguyên Hồng, Nguyễn Bính, Kim Lân, Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài... đều đã quá quen thuộc với nhiều thế hệ công chúng cả nước. Trong số họ nhiều người là lính trực tiếp chiến đấu trên các chiến trường hoặc tham gia kháng chiến bằng văn chương. Chỉ tiếc là số người chọn văn chương để lập nghiệp như các anh ấy còn ít, số lượng tác phẩm họ viết ra chưa thật nhiều. Đến thời kỳ chống Mỹ, những cây bút từ thời kỳ chống Pháp dần bước vào độ chín, viết nên nhiều tác phẩm có giá trị cả về tư tưởng lẫn nghệ thuật, góp phần tích cực vào cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Một điều nữa không thể không nói tới là, giai đoạn chống Mỹ, lực lượng các nhà văn trẻ được bổ sung đáng kể, chẳng hạn như: Nguyên Ngọc, Phan Tứ, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Lê Lựu, Ma Văn Kháng, Lê Minh Khuê, Nguyễn Trí Huân, Trung Trung Đỉnh, Khuất Quang Thụy, Hữu Thỉnh, Phạm Tiến Duật, Đỗ Chu... Đội ngũ các nhà văn mặc áo lính trở nên hùng hậu hơn và tác chiến trên nhiều “binh chủng” khác nhau như: tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ... + Tiểu thuyết được coi là những “cỗ trọng pháo” của một thời kỳ, giai đoạn hay nền văn chương hiện đại. Thời kỳ chống Mỹ cứu nước đã sản sinh ra nhiều tiểu thuyết có giá trị như: Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu; Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi; Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành (bút danh khác của Nguyễn Văn Báu- Nguyên Ngọc); Hòn Đất của Anh Đức; Con đường xuyên rừng của Lê Văn Thảo... Đặc biệt bộ tiểu thuyết Đường thời đại của nhà văn Đặng Đình Loan gồm 17 tập dày 8.046 trang. Đây là một trong những bộ tiểu thuyết tư liệu lịch sử viết về đề tài chiến tranh nhân dân mang đậm chất sử thi hoành tráng nhất của văn học Việt Nam viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Tác giả Đặng Đình Loan từng là một 3

người lính trực tiếp tham gia chiến đấu trên chiến trường miền Nam. Với cái nhìn của người trong cuộc, thông qua các sự kiện lịch sử, tác giả đã tái hiện lại một cách đầy đủ và chi tiết nhất về cuộc kháng chiến ấy cũng như về số phận những con người đã từng đi tới và bước ra từ cuộc chiến ấy quả thật không dễ dàng chút nào. + Thể loại trường ca ở thời kỳ văn học chống Mỹ cứu nước đã gặt hái được nhiều thành công. Trường ca Bài ca chim Chơ Rao của nhà thơ Thu Bồn mang đậm chất sử thi hùng tráng của núi rừng Tây Nguyên, cái nôi của những trường ca cổ đại như: Đam San, Xing Nhã, Đam- ti- ông... đã được cả thế giới biết đến. Trường ca Đường tới thành phố của nhà thơ Hữu Thỉnh; Những người đi tới biển của nhà thơ Thanh Thảo; Sông núi trên vai của nhà thơ Anh Ngọc; Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây. Đúng như nhà thơ Hữu Thỉnh từng viết trong Đường tới thành phố: “Không có sách chúng tôi làm ra sách Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình.” Còn nhà thơ Thanh Thảo thì: “Chúng con đi từng trận gió rừng Cả thế hệ xoay trần đánh giặc” (Những người đi tới biển). Lê Thị Mây trong Lửa mùa hong áo lại viết: “Xin các chị cho em nén giữ trong lòng Làn hương sả bắt đầu từ ký ức Mười sáu tuổi, mười bảy tuổi ai không náo nức Mong được rời nách áo mẹ ra đi Tiếng núi sông thăm thẳm rầm rì Phía mặt trận trai làng hành quân lũ lượt Mười sáu tuổi cởi khăn quàng mơ ước Mũ tai bèo đỏng đảnh bím đuôi sam.” 3. Vị trí của nhà thơ Xuân Quỳnh: - Thi sĩ Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mỹ. Bà được ví như một cành hoa tươi mọc tươi tốt trong cánh rừng bom đạn. Trong khi các nhà thơ khác đang mải mê sáng tác về tinh thần yêu nước và ngợi ca tinh thần chiến đấu anh hùng của dân tộc thì bà lại tìm cho mình một cảm hứng mới đó là 4

nỗi niềm của sóng. Thơ Xuân Quỳnh giàu cảm xúc với nhiều cung bậc khác nhau, khi hạnh phúc đắm say, có lúc lại đau khổ, suy tư... II. Tác giả: nhà thơ Xuân Quỳnh 1.Thân thế : - Bà tên đầy đủ là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh ngày 6 tháng 10 năm 1942 tại xã Văn Khê, thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây (nay là phường La Khê, quận Hà Đông, Hà Nội). Xuất thân trong một gia đình công chức, mẹ mất sớm, bố thường xuyên công tác xa gia đình, Xuân Quỳnh được bà nội nuôi dạy từ nhỏ đến khi trưởng thành. 2. Cuộc đời và sự nghiệp: - Tháng 2 năm 1955, Xuân Quỳnh được tuyển vào Đoàn Văn công nhân dân Trung ương và được đào tạo thành diễn viên múa. Bà đã nhiều lần đi biểu diễn ở nước ngoài và dự Đại hội thanh niên sinh viên thế giới năm 1959 tại Vienna (Áo). - Từ năm 1963 – 1964, Xuân Quỳnh bắt đầu tham gia vào sự nghiệp văn thơ của mình, bà được học tại trường bồi dưỡng những người viết văn trẻ khóa 1 của hội nhà văn Việt Nam. Sau khi học xong bà về làm việc tại Báo Văn Nghệ và báo phụ nữ Việt Nam. - Năm 1967, bà được kết nạp và trở thành ủy viên Ban chấp hành của hội nhà văn Việt Nam khóa III. - Năm 1973, nhà thơ Xuân Quỳnh kết hôn với nhà viết kịch Lưu Quang Vũ. Trước đó, bà đã kết hôn lần đầu với một nhạc công của Đoàn văn công Nhân Dân Trung Ương và đã ly hôn. - Từ năm 1978 cho đến khi qua đời, bà đã làm biên tập viên cho NXB Tác phẩm mới. - Nhà thơ Xuân Quỳnh mất 29/08/1988 trong một vụ tai nạn giao thông tại Hải Dương cùng với người chồng là Lưu Quang Vũ và con trai là Lưu Quang Thơ khi đó mới 13 tuổi. - Năm 2001, Xuân Quỳnh được nhà nước phong tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. 5

- Năm 2017, Chủ tịch nước ký quyết định truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật cho cố nhà thờ Xuân Quỳnh với 2 tập thơ đó là Lời Ru mặt đất và Bầu trời trong quả trứng. - Xuân Quỳnh mất ngày 29 tháng 8 năm 1988 trong một vụ tai nạn giao thông tại đầu cầu Phú Lương, thị xã Hải Dương (nay là thành phố), tỉnh Hải Dương, cùng với chồng Lưu Quang Vũ và con trai Lưu Quỳnh Thơ mới 13 tuổi. - Bà được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001. - Ngày 30 tháng 3 năm 2017, Chủ tịch nước Trần Đại Quang ký Quyết định số 602 chính thức truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật cho cố nhà thơ Xuân Quỳnh với hai tập thơ là “Lời ru trên mặt đất” và “Bầu trời trong quả trứng” 3. Các tác phẩm chính: - Tơ tằm – Chồi biếc (thơ, in chung phần Chồi biếc, Nhà xuất bản Văn học, 1963), 18 bài thơ - Hoa dọc chiến hào (thơ, in chung, 1968), 28 bài thơ - Gió Lào, cát trắng (thơ, 1974) - Lời ru trên mặt đất (thơ, 1978), 34 bài thơ - Cây trong phố – Chờ trăng (thơ, in chung phần Chờ trăng, 1981) - Sân ga chiều em đi (thơ, 1984) - Tự hát (thơ, 1984) - Hoa cỏ may (thơ, 1989), 18 bài thơ - Thơ Xuân Quỳnh (1992, 1994) - Thơ tình Xuân Quỳnh – Lưu Quang Vũ (1994) - Không bao giờ là cuối (thơ, 2011), 21 bài thơ 6

Các tác phẩm viết cho thiếu nhi: - Mùa xuân trên cánh đồng (truyện thiếu nhi, 1981) - Bầu trời trong quả trứng (thơ văn thiếu nhi, 1982), 32 thơ + 16 văn - Truyện Lưu Nguyễn (truyện thơ, 1985) - Bến tàu trong thành phố (truyện thiếu nhi, 1984) - Vẫn có ông trăng khác (truyện thiếu nhi, 1986) - Tuyển tập truyện thiếu nhi (1995) - Chú gấu trong vòng đu quay (tập truyện) Các bài thơ được phổ nhạc: - Sóng (nhóm sinh viên Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch (TP HCM) trong năm 4/2017) - Thơ tình cuối mùa thu (Phan Huỳnh Điểu) - Thuyền và biển (Phan Huỳnh Điểu phổ nhạc 12 câu cuối trong những năm 80) - Mẹ của anh (Trịnh Vĩnh Thành) 4. Thành tựu nghệ thuật: - Thơ Xuân Quỳnh giàu cảm xúc với những cung bậc khác nhau như chính tính cách luôn hết mình của Xuân Quỳnh. Những bài thơ khi hạnh phúc đắm say, lúc đau khổ, suy tư của nhà thơ luôn gần gũi vì được viết với sự đằm thắm của một người phụ nữ vừa làm thơ vừa làm vợ, làm mẹ. Nhiều bài thơ của Xuân Quỳnh đã trở nên nổi tiếng như “Thuyền và biển”, “Sóng” (viết năm 1967, in trong tập “Hoa dọc chiến hào” (năm 1968), “Hoa cỏ may”, “Tự hát”, “Nói cùng anh”,... Các bài thơ “Sóng”, “Chuyện cổ tích về loài người” (Lời ru trên mặt đất, Nhà xuất bản Tác phẩm mới, 1978) được đưa vào sách giáo khoa phổ thông của Việt nam. Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu đã phổ nhạc rất 7

thành công các bài thơ: “Thuyền và biển” (4/1963), “Thơ tình cuối mùa thu” của Xuân Quỳnh. 5. Gia đình: - Bà từng kết hôn hai lần. Bà kết hôn lần đầu với nhạc công chơi đàn violon Lưu Tuấn. Xuân Quỳnh và Lưu Tuấn có một con trai tên là Lưu Tuấn Anh. Sau khi li hôn chồng, bà vẫn ở chung một tòa nhà với chồng con ở phố Huế, Hà Nội. - Lần thứ hai bà kết hôn với Lưu Quang Vũ (1948–1988) vào năm 1973. Lưu Quang Vũ kém Xuân Quỳnh 6 tuổi, đã li dị vợ là nghệ sĩ ưu tú Tố Uyên (1948-) vào năm 1972 và có một con trai riêng với Tố Uyên tên là Lưu Minh Vũ. Tháng 2 năm 1975, Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh có với nhau một con trai đặt tên là Lưu Quỳnh Thơ (tên ở nhà là Mí). Lưu Quỳnh Thơ sau đó mất lúc 13 tuổi cùng với cha mẹ trong vụ tai nạn năm 1988. 6.Vinh danh: - Ngày 6 tháng 10 năm 2019, nhân dịp kỉ niệm 77 năm ngày sinh của nhà thơ Xuân Quỳnh, Google đã chính thức thay đổi ảnh đại diện logo trên trang chủ của mình thành bức hoạ cách điệu mang dáng hình nhà thơ Xuân Quỳnh cùng với hình ảnh con thuyền lướt trên sóng và đàn chim trên bầu trời. Hình ảnh này nằm trong bộ sưu tập các Doodle của Google được lập ra nhằm tôn vinh những nhân vật, sự kiện nổi tiếng và đáng nhớ có ảnh hưởng lớn trên thế giới. Như vậy, sau cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và cố họa sĩ Bùi Xuân Phái vừa được Google vinh danh trên trang chủ, Xuân Quỳnh là danh nhân Việt Nam thứ 3 và là người phụ nữ Việt đầu tiên được Google vinh danh. - Tại Sài Gòn, có một con đường nội khu của một khu đô thị mang tên Xuân Quỳnh. 7. Phong cách sáng tác: - Khi bàn về thơ, Xuân Quỳnh từng tâm sự: “ Người ta làm thơ đầu tiên là để tự thể hiện, là một hành động khẳng định, rồi là một hành động khai sinh, đáp ứng yêu cầu sáng tạo, nhu cầu nối liền mình với đồng loại, với các sự vật vũ trụ, với thế giới”. Nét nổi bật của hồn thơ Xuân Quỳnh là sự dung dị, hồn nhiên, tươi tắn, nồng nhiệt và chân thành, vừa giàu trực cảm vừa lắng sâu suy tư. 8

- Riêng thơ tình yêu - mảng đặc sắc của hồn thơ Xuân Quỳnh - tình điệu của thơ bao giờ cũng sôi nổi, mãnh liệt mà tự nhiên, chân thành, đằm thắm của một trái tim phụ nữ trong tình yêu. Tình yêu với nhà thơ là cái đẹp, cái cao quý. Tình yêu tượng trưng cho sự khao khát tự hoàn thiện mình. Với Xuân Quỳnh thơ với tình yêu cùng ra đời, cùng sống và cùng “yên nghỉ”: “Ơi trời xanh xin trả cho vô tận Trời không xanh trong đáy mắt em xanh Và trong em không thể còn anh Nếu ngày mai em không làm thơ nữa”. - Cái tôi yêu của nhà thơ, người phụ nữ có sự trải nghiệm rất chân thành: “Không sĩ diện đâu nếu tôi yêu được một người Tôi sẽ yêu anh ta hơn anh ta yêu tôi nhiều lắm Tôi sẽ yêu anh dẫu vạn lần cay đắng”. Đó phải chăng là phẩm chất của tình yêu và cũng là phẩm chất thi ca? Xuân Quỳnh được xem là người viết thơ tình hay nhất trong nền thơ ca hiện đại Việt từ sau 1945. - Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn thiết tha gắn bó với cuộc đời, với con người, khao khát tình yêu, trân trọng hạnh phúc bình dị đời thường. Khát vọng sống và khát vọng yêu mãnh liệt gắn liền với những dự cảm về sự bất trắc của tình yêu và cuộc đời. Nên Xuân Quỳnh lấy tình yêu làm mái ấm chở che, làm cứu cánh : “ Đó là tình yêu em muốn nói cùng khát vọng Nguồn gốc của muôn vàn khát vọng Lòng cốt để duy trì sự sống Cho con người thực sự người hơn” - Nhưng đời đâu lặng tờ mà đầy sóng đầy gió. Tình yêu chốn nương thân của tâm hồn cũng chỉ là “ Những cánh chuồn mỏng manh ’’, nên hồn thơ Xuân Quỳnh mãi hoài khắc khoải âu lo : “Em âu lo trước xa tắp đường tình Trái tim đập những điều không thể nói”. - Cũng vì thế mà Xuân Quỳnh luôn trân trọng niềm hạnh phúc có thật trong đời, và nghĩ “ Chỉ có sóng và em ” thôi : “Chỉ riêng điều được sống cùng nhau 9

Niềm sung sướng với em là lớn nhất Trái tim nhỏ nằm trong lồng ngực Giây phút nào tim chẳng đập vì anh”. Thơ tình Xuân Quỳnh mang gương mặt đời thường mà có sự thăng hoa lớn lao là thế chăng? - Một điểm đáng trân trọng nữa đối với con người và thơ Xuân Quỳnh đấy là vẻ đẹp nữ tính, thiên nhiên nữ tính. Không phải ngẫu nhiên mà luôn đi - về trong thơ Xuân Quỳnh là hình ảnh những người vợ, người mẹ với một tâm hồn mẫn cảm, hồn hậu nhân ái và chịu thương chịu khó . Mẹ trong thơ Xuân Quỳnh là những hình ảnh hoài niệm, lồng trong hình ảnh quê hương qua tình cảm tinh khôi sâu lắng : “Tháng xuân này mẹ có về không Con thắp nén hương thơm ngát Bờ đê cỏ ướt Lá tre xào xạc đường làng Sông Nhuệ đò sang Hoa xoan tím ngõ Cánh cò trắng xóa Như lời ru của mẹ bay về.” - Với bà, Xuân Quỳnh nhìn bằng con mắt trẻ thơ hồn nhiên, nhưng xiết bao yêu kính : “Nắng ở xung quanh bình tích Ủ nước chè tươi cho bà Bà mhấp một ngụm rồi khà Nắng trong nước chè chan chát.” - Với chồng, tiếng thơ Xuân Quỳnh ân cần, nhỏ nhẹ và đằm thắm : “Sao không cài khuy áo lại anh Trời lạnh đấy, hôm nay trời rét” => Và bao nhiêu tình cảm khác cũng thấm tràn chất nữ tính ấy của Xuân Quỳnh. Ta hiểu vì sao Xuân Quỳnh lại có những tác phẩm viết cho thiếu nhi thật đáng yêu như thế. 10

8. Quan điểm sáng tác: * Xuân Quỳnh và quan niệm sáng tác thơ cho thiếu nhi: Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thơ ca chống Mỹ, người đọc biết đến chị là một hồn thơ dung dị, đời thường, nữ tính. Ngoài mảng thơ viết về tình yêu đặc sắc, người đọc còn thấy trong lượng sáng tác của chị có chỗ đáng kể cho thơ thiếu nhi, đối tượng chị quan tâm đặc biệt. Cũng giống các mảng thơ khác, mảng thơ cho thiếu nhi chị cũng có những quan niệm riêng. Xuân Quỳnh đến với thiếu nhi, trong cuộc hành trình dài một đời thơ, không phải như một phút dừng chân của một khách lãng du, chị đến với đối tượng này bằng một tình yêu đích thực, một tâm nguyện trở thành nhà thơ của các em. 1. Thơ - “món quà bạn nhỏ ngày xưa tặng bạn nhỏ bây giờ” Chu Văn Sơn trong “Mấy suy nghĩ về thế giới nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh” khẳng định: “Trở thành thi sĩ của tình yêu là một tất yếu, Xuân Quỳnh cũng tất yếu thành nhà thơ viết cho con trẻ”. Chiếc cầu nối chị đến với các em thiếu nhi chính là các con mình. Xuân Quỳnh đã để lại một gia tài thơ cho các em thật dồi dào, thật ngộ nghĩnh và dễ thương. Các sáng tác của chị là “món quà của một bạn nhỏ ngày xưa tặng bạn nhỏ bây giờ”. “Bạn nhỏ ngày xưa” là chị - người đang nhìn ngày hôm qua bằng con mắt rất đỗi nhớ thương và đang dang rộng vòng tay ấp ủ bé thơ và “bạn nhỏ bây giờ” là bao bé thơ - người đang sở hữu một tuổi thơ thánh thiện. Nhiều bài thơ của chị được các em yêu thích bởi tính hóm hỉnh, vui tươi và phù hợp với tâm lí tuổi thơ, mang lại cho các em bao điều thú vị: “ Thế mà nắng cũng sợ rét Nắng chui vào chăn cùng em Các bạn để ý mà xem Trong chăn bao nhiêu là nắng Mà nắng cũng hay làm nũng 11

Ở trong lòng mẹ rất nhiều Mỗi lần ôm em, mẹ yêu Em thấy ấm ơi là ấm.” (Mùa đông nắng ở đâu?) Xuân Quỳnh từng tâm sự trong một bài viết rằng : “Viết cho các em, tôi có hai niềm vui lớn: đem cho và nhận được. Đem cho các em những điều bổ ích, lý thú, những tình cảm trong sáng, chân thật và ngược lại nhận được ở các em sự hồn nhiên, tươi mát, làm giàu có thêm tình cảm của mình”. Chị quan niệm rất rõ ràng: “Viết cho các em để phục vụ các em và đồng thời nuôi dưỡng cho mình tâm hồn của các em”.Đề tài chị viết cho trẻ thơ rất phong phú nhưng tất cả đều xoay quanh cái trục chính là đời sống của các em. Chị nhận ra rằng : “Sự không cảm thông được của người lớn đối với trẻ em là do người lớn nhìn con trẻ bằng cái nhìn của người lớn, từ đó mà mọi quan niệm đúng, tốt, xấu thường nhầm lẫn cả”. Sáng tác cho trẻ em phải được \"nhìn bằng đôi mắt trẻ thơ”, phải xuất phát từ cảm xúc hồn nhiên, trong trẻo, tự nhiên như trẻ thơ mới có thể làm cho các em yêu thích. Mỗi lần sáng tác cho các em là một lần người viết “được sống lại tuổi thơ của mình và hoà đồng tâm hồn với tuổi thơ hôm nay, miền xanh thẳm của văn chương và cội nguồn trong trẻo của đời người”. Chính vì tự đặt mình vào vị trí của các em để nhìn, để cảm nhận, để suy nghĩ và viết mà thế giới trong thơ Xuân Quỳnh hiện lên thật trong trẻo, ngộ nghĩnh, đáng yêu. Chị không chỉ viết bằng tấm lòng của một người mẹ mà còn bằng chính tuổi thơ của mình. Chị tâm sự: “Là một người làm thơ cho các em, qua những đau khổ và khao khát thuở nhỏ, qua những lầm lỗi của tôi khi cư xử với các con tôi, tôi luôn tự nhủ: “Muốn viết cho các em, điều đầu tiên là sự cảm thông với các em chứ không phải là sự áp đặt. Đừng bắt các em sống và nghĩ theo cách của mình. Nếu muốn giáo dục các em thì phải nhìn bằng con mắt của các em mà nhận xét, đánh giá mọi việc. Cách giải quyết bắt đầu từ đây”. Có một điều lạ là những câu thơ được viết ra từ những ẩn ức của một đứa trẻ côi cút, sớm xa cha mất mẹ lại mang đậm chất trữ tình, trong sáng và hết sức ngọt ngào. 12

2. Thơ - nơi gởi lại tình yêu thương con trẻ Trong gia tài thơ mà Xuân Quỳnh để lại cho bạn đọc thiếu nhi, chúng ta thấy ẩn hiện hình dáng của mẹ, của chị, của một người bạn. Chính vì thiếu tình thương từ tấm bé, như để bù đắp lại cho tuổi thơ các em nhỏ, thơ chị tràn ngập một tình yêu thương nồnghậu, tha thiết. Thế giới trong thơ Xuân Quỳnh được tái hiện qua lăng kính của tình mẹ convàđược gạn lọc qua lớp màn của một trái tim tràn đầy tình thương yêu dành cho các em. Không như những nhà thơ viết cho thiếu nhi khác, chiếc cầu nối để Xuân Quỳnh đến với các em chính là các con của chị: “Con làm bằng yêu thương Của ba và của mẹ Của bà và của ông Của má nữa biết không ? Con làm bằng tất cả” (Cắt nghĩa) Nhưng không phải chỉ dành tình yêu cho chính những đứa con của mình, tâm hồn nhân hậu, giàu yêu thương của chị hướng đến tất cả những đứa trẻ trên đời. Chính tấm lòng người mẹ tha thiết yêu con khiến chị có thể đi sâu vào thế giới trẻ thơ, nhìn thế giới bằng con mắt của chính các em, làm thế giới ấy trở nên trong trẻo, thánh thiện. Và mỗi bài thơ như một nốt nhạc tình yêu cất lên từ trái tim dịu dàng của mẹ, có yêu thương và ẩn chứa nhiều nỗi lo âu: “Lời mẹ ru không chỉ ngọt ngào “Cái bống ngủ ngon cánh cò bay mãi…” Bởi khi bay có cánh cò đã gãy 13

Trong lúc ngủ say cái bống vẫn giật mình.” (Khi con ra đời) Năm 1983, tập thơ “Bầu trời trong quả trứng” đã được tặng Giải A, một giải thưởng văn học hằng năm của Hội Nhà văn Việt Nam. Đó là một ghi nhận hoàn toàn xứng đáng vì thành quả lao động nghệ thuật của chị. Song, món quà lớn nhất dành cho chị chính là từ bao năm nay, thơ chị vẫn được các em, và cả người lớn thuộc và yêu thích. III. Tìm hiểu về tác phẩm: 1. Hoàn cảnh sáng tác: - Hoàn cảnh ra đời bài thơ “Sóng” là vào năm 1967. Đó là những năm tháng dân tộc đang bước vào cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ và tay sai, là khi thanh niên trai gái ào ào ra trận, cho nên đặt bài thơ trong hoàn cảnh ấy mới thấy rõ được nỗi khát khao của người con gái trong tình yêu. “Sóng” được viết trong chuyến đi công tác vùng biển Diêm Điền. Trước khi “Sóng” ra đời, Xuân Quỳnh đã phải nếm trải những đổ vỡ trong tình yêu. Đây là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách thơ Xuân Quỳnh. Tác phẩm được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”. - Qua hình tượng “sóng”, trên cơ sở khám phá sự tương đồng hòa hợp giữa “sóng” và “em”, bài thơ diễn tả tình yêu của người phụ nữ tha thiết, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Từ đó ta thấy được tình yêu là một tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người. 2. Xuất xứ: - Bài thơ được in trong tập thơ “Hoa dọc chiến hào” - Về tập thơ: + Nhắc đến tập thơ “Hoa dọc chiến hào”, chúng ta nhắc đến sự gắn bó của Xuân Quỳnh với đời sống tinh thần những năm tháng chống Mỹ. Những ghi chép rất chân thực, sống động mà đầy ý vị của nhà thơ viết trong những ngày đầu của cuộc chiến đấu chống lại 14

chiến tranh phá hoại đã được đưa vào tập thơ xuất bản và đến với bạn đọc lần đầu vào năm 1968. +Tập thơ gồm 28 bài. Trong số đó, chủ yếu là các bài thơ gợi nhớ đến không khí chiến tranh là chủ yếu (khoảng 20 bài) như: “Giữ lửa”, “Hậu phương”, “Chiến hào”, “Vết đạn trên tường”... Đó là những bài thơ nói thẳng, nói thật, trực tiếp vào không khí chiến tranh, con người trong chiến đấu với nhà thơ ấy cũng là cuộc sống đời thường. Tuy vậy cũng có nhiều bài mang những nét tâm tư riêng của tác giả như “Tiếng gà trưa”, “Mây”, “Bay cao”, “Gốc cây ngày bé”,... Bên cạnh đó, các bài thơ liên quan đến tình cảm mẹ con lại mang dấu ấn đậm đà của một người phụ nữ: “Đưa con ra đời”, “Đưa con đi sơ tán”. Bài nào cũng thấm thía nỗi buồn xót xa, yêu thương con vô hạn. 3. Nội dung tác phẩm: “Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể Ôi con sóng ngày xưa Và ngày sau vẫn thế Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ Trước muôn trùng sóng bể Em nghĩ về anh, em Em nghĩ về biển lớn Từ nơi nào sóng lên? 15

Sóng bắt đầu từ gió Gió bắt đầu từ đâu? Em cũng không biết nữa Khi nào ta yêu nhau Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức Dẫu xuôi về phương bắc Dẫu ngược về phương nam Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh - một phương Ở ngoài kia đại dương Trăm nghìn con sóng đó Con nào chẳng tới bờ Dù muôn vời cách trở Cuộc đời tuy dài thế Năm tháng vẫn đi qua Như biển kia dẫu rộng Mây vẫn bay về xa 16

Làm sao được tan ra Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ.” a. Ý nghĩa nhan đề “Sóng”: “Sóng” là hình ảnh ẩn dụ của tâm trạng người con gái đang yêu, là sự hóa thân, phân thân của nhân vật trữ tình. - “Sóng” là hình tượng trung tâm của bài thơ, gửi gắm tư tưởng, tình cảm của tác giả. - “Sóng” và “em” tuy hai mà một, có lúc tách đôi ra để soi chiếu cho nhau, có lúc lại hòa nhập vào nhau để tạo ra sự cộng hưởng. - Xuân Quỳnh đã mượn hình ảnh “sóng” để thể hiện cảm xúc, cung bậc tình cảm của trái tim người con gái trong tình yêu với những bản tính vốn có. => Qua nhan đề, tác giả đã cho thấy hình tượng trung tâm của tác phẩm cùng với những ý nghĩa được gửi gắm trong đó. b. Đặc sắc về nội dung: * Luận điểm 1 (Khổ 1 và 2): Trong hai khổ thơ đầu, nhà thơ Xuân Quỳnh đã thể hiện bản chất và quy luật của “sóng” và “em”: “Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể Ôi con sóng ngày xưa 17

Và ngày sau vẫn thế Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ” - Khổ 1: + Trong hai câu thơ mở đầu tác giả đã sử dụng tới hai cặp tính từ trái nghĩa để miêu tả đặc điểm của sóng biển: “dữ dội – dịu êm”, “ồn ào - lặng lẽ”. Thông thường đứng giữa những cặp tính từ trái nghĩa là quan hệ từ biểu đạt sự tương phản “tuy - nhưng”, thế nhưng ở đây nhà thơ Xuân Quỳnh lại sử dụng quan hệ từ “và” vốn biểu đạt quan hệ cộng hưởng, cộng thêm, nối tiếp. Như vậy những đặc điểm tưởng như đối lập lại thống nhất với nhau và luôn tồn tại trong một chỉnh thể là sóng. Trong cái dữ dội có cái dịu êm, trong sự ồn ào lại chứa đựng sự lặng lẽ.Những trạng thái đối lập của sóng cũng chính là những trạng thái đối lập trong tâm hồn người phụ nữ khi yêu. Trong tình yêu, tâm hồn người phụ nữ không hề bình lặng mà đầy biến động: có khi sôi nổi cuồng nhiệt, cũng có khi e lệ, kín đáo, có lúc đằm thắm, lúc hờn ghen… => Bản chất người con gái khi yêu là vậy, luôn mâu thuẫn, đối lập với chính mình Hai câu thơ là lời tự thú táo bạo mà êm đềm của Xuân Quỳnh khi phát hiện trong trạng thái phong phú, phức tạp đầy biến động trong trái tim người phụ nữ đang yêu. + “Hiểu nổi mình” là khát vọng muôn đời của con người, để hiểu được mình thì cần đặt bản thân trong phạm vi rộng lớn của cuộc đời. + Những hình ảnh “sông”, “sóng”, “bể” miêu tả hành trình, quy luật của sóng đi từ sông ra biển cả. + Biện pháp nhân hóa “sông không hiểu” và “sóng tìm ra” cho thấy sóng khát khao mạnh mẽ được vẫy vùng trong một không gian dào dạt, mênh mông. “Sông” tượng trưng cho sự bé nhỏ, chật chội, “bể” là hình ảnh của sự rộng lớn, không cùng. “Sông” dẫu dài, rộng đến đâu cũng chưa thể là nơi để “sóng” thỏa sức vẫy vùng. Với đặc tính “dữ dội”, “ồn ào” và “dịu êm”, “lặng lẽ” thì “sóng” chỉ có “tìm ra tận bể” bao la để hiểu rõ mình hơn. Như sóng, người con gái không dễ dàng chấp nhận tình yêu trong giới hạn của sự bình 18

thường hay tầm thường mà khao khát vươn tới những cái rộng lớn bao la để tự khám phá và nhận thức. Trái tim của người con gái khi yêu luôn mong muốn có được một điểm tựa vững chắc, hứa hẹn sẽ làm , đích đến đúng nghĩa chứ không phải những lời hoa mỹ tầm thường rồi để đó. Xuân Quỳnh cho thấy nét hiện đại trong suy nghĩ và viết thơ của mình, một quan điểm táo bạo, hướng ngoại mới mẻ về người phụ nữ hiện đại luôn mãnh liệt chủ động, sống hết mình, vượt qua tất cả để có được tình yêu cho mình. Khác với quan niệm cổ hủ trong xã hội phong kiến, với những định kiến của Nho giáo như “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, cùng với đạo tam tòng: “Tại gia tòng phụ Xuất giá tòng phu Phu tử tòng tử” mà phụ nữ phải cất lên lời than thân trách phận cho cuộc đời mình: “Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”. (Ca dao). Nhưng Xuân Quỳnh đã đại diện cho tiếng nói của người phụ nữ hiện đại. Người con gái trong tình yêu không còn cam chịu, nhẫn nhục nữa mà đã minh bạch, quyết liệt rời xa tình yêu vị kỷ, bé nhỏ để đến với tình yêu cao thượng, vị tha, bao dung. Pascal năm xưa và Xuân Quỳnh ngày nay đều cảm nhận: “Tình yêu nâng cao con người thoát khỏi sự tầm thường”. - Khổ 2: + “Sóng” vốn là hiện tượng tự nhiên muôn thuở nơi đại dương mênh mông. Nó là biểu tượng cho sức sống vĩnh hằng, kỳ diệu, biểu tượng cho sự trường tồn bất biến trong dòng chảy thời gian. + Xây dựng hình ảnh \"sóng ngày xưa\" và \"ngày sau\" cùng việc sử dụng tính từ cảm thán \"ôi\", tình thái từ chỉ trạng thái \"vẫn thế\", Xuân Quỳnh đã khéo léo diễn tả khát vọng vô 19

cùng đẹp đẽ. Đó như một lời khẳng định dù là hàng triệu năm trước hay hàng ngàn năm sau thì những con sóng vẫn cứ ngày đêm dạt dào trên mặt biển. “Sóng” là “em”, soi chiếu cho “em”, cũng chính vì thế những con sóng tự nhiên hay chính là con sóng lòng. Tình yêu lúc nào cũng dạt dào, cuộn trào trong trái tim nhiệt thành của người phụ nữ. Ngày xưa thế và ngày sau vẫn thế. Tình yêu là vĩnh hằng và vô tận. + “Sóng” ở đây là sóng lòng, sóng chính là \"em\". “Sóng” của biển vĩnh hằng cùng tự nhiên cũng như tình yêu là chuyện muôn đời của đôi lứa, là \"khát vọng\" muôn thuở của trai gái từ xưa đến nay. + Bên cạnh \"ngày xưa\" - \"ngày nay\", Xuân Quỳnh khéo léo đặt vào khổ thơ chữ \"trẻ\" ở cuối câu thơ, nhấn mạnh sức sống mãnh liệt của tình yêu. Biển tựa như lồng ngực lớn lao đất trời. Nhịp đập của sóng giống như hơi thở cồn cào của biển. Còn biển, còn sóng và còn con người thì sẽ mãi còn yêu thương bất diệt. Chữ “trẻ” được khéo léo đặt cuối dòng thơ như muốn nhấn mạnh tình yêu là sức sống, là nhịp đập của tuổi trẻ, tình yêu mang đến sự tươi tắn, viết lên thanh xuân có ý nghĩa cho cuộc đời mỗi người phụ nữ. Xét đi xét lại thì xét cho cùng không chỉ riêng nhà thơ mà bất cứ ai cũng đều khát khao cháy bỏng một tình yêu vĩnh hằng, trường tồn với không gian, thời gian. * Luận điểm 2 (khổ 3 và 4): Xuân Quỳnh bộc lộ những suy nghĩ trăn trở về cội nguồn của tình yêu: “Trước muôn trùng sóng bể Em nghĩ về anh em Em nghĩ về biển lớn Từ khi nào sóng lên?” Sóng bắt đầu từ gió Gió bắt đầu từ đâu? Em cũng không biết nữa Khi nào ta yêu nhau” 20

- Khổ 3: + Hình tượng \"sóng\" trong những vần thơ ngọt ngào thiết tha đầy gợi cảm mang tính nhân văn. \"Trước muôn trùng sóng bể\" của đại dương mênh mông, lớp lớp sóng vô tận, người phụ nữ \"bồi hồi\" nghĩ về quy luật của sự sống, về sự trường tồn của đại dương, về nguyên nhân kì diệu nào mà có \"sóng lên\". Rồi bâng khuâng nghĩ về mối nhân duyên của mình, về tình yêu của \"em\" và \"anh\".Đứng trước một nơi mênh mông như biển cả, “em” có cơ hội được nhìn nhận về anh, về chính mình và về tình yêu. Đối diện trước biển lớn là đối diện trước cõi vô tận, vô cùng của một môi trường sống mới khác hẳn dòng sông nhỏ hẹp khi xưa nên niềm khát khao cũng nảy sinh một cách tự nhiên và tất yếu. Lẽ thường ở khổ thơ này, nhà thơ phải viết “sóng nghĩ về” nhưng nhà thơ lại viết “em nghĩ về” nhằm tạo nên sự đồng nhất giữa sóng và em. Hành trình của sóng cũng là hành trình của em. + Điệp ngữ “Em nghĩ về” kết hợp với điệp cấu trúc câu thể hiện niềm khát khao tìm kiếm thật sự, ước ao cháy bỏng được lí giải cặn kẽ nơi khởi sinh của tình yêu. “Từ nơi nào sóng lên?” – câu hỏi như nói hộ nỗi tâm tư của bao chàng trai cô gái xưa nay. Ai cũng mong muốn có được câu trả lời: tình yêu ở đâu mà có, tình yêu từ đâu mà sinh ra? Nhưng tuyệt nhiên chưa ai có thể lí giải được. - Khổ 4: + Câu hỏi dồn dập như những con sóng nối tiếp đến vô cùng, miên man không dứt, đưa con người tới những suy ngẫm vô tận. Trả lời cho câu hỏi: “Từ nơi nào sóng lên?”, lời đáp thật dễ dàng, chóng vánh: “Sóng bắt đầu từ gió”. Câu hỏi thứ hai ráo riết hơn, lí trí muốn đẩy những băn khoăn đến tột cùng: “Gió bắt đầu từ đâu?”. Những câu hỏi tu từ lúc ẩn dưới chân sóng, lúc lại trào lên đầu ngọn sóng như những trăn trở. Nhân vật trữ tình không cảm nhận về “sóng” mà nghĩ về “sóng”. Nương theo những con sóng, nhà thơ bắt đầu hành trình tìm kiếm nơi khởi nguồn tình yêu và phân tích, lí giải bản chất của tình yêu. Đó cũng là mong muốn muôn đời của biết bao đôi lứa. 21

+ Đó là những câu hỏi từng khiến bao lứa đôi băn khoăn và cũng chẳng ai có thể trả lời được một các rõ ràng, rành mạch được. Càng say mê bao nhiêu, càng thấy tình yêu huyền bí bất nhiêu. Người ta thường thiêng liêng hóa tình yêu của kiếp này biết đâu lại là sự hẹn hò của kiếp sau. Nữ sĩ Xuân Quỳnh cũng không ngoại lệ, cũng băn khoăn, thắc mắc, chăn chở đi tìm lời giải đáp. Nhưng cuối cùng Xuân Quỳnh cũng phải thú nhận bằng cái gật đầu dễ thương: “Em cũng không biết nữa Khi nào ta yêu nhau ?” Điều thú vị là ẩn sau cái lắc đầu dễ thương rất con gái ấy, người đọc, khám phá ra những định nghĩa mơ hồ mà thú vị, tình yêu của nữ sĩ Xuân Quỳnh. Trước muôn trùng sóng bể, trước biển lớn, tại sao nữ sĩ lại nghĩ về “anh”, “em”, tức là tình yêu của đôi mình? Có phải chăng tình yêu đôi ta cũng mênh mông, thăm thẳm như biển lớn, đại dương. “Sóng”, “biển”, “gió” trời từ nơi nào mà có? “Em cũng không biết nữa” và tình yêu cũng vậy. Nào có ai biết điểm đầu, điểm cuối, nào ai biết nơi khởi phát và điểm kết thức của tình yêu. Tình yêu muôn đời vẫn khó hiểu như chính thế giới tự nhiên vậy. Tình yêu đến và đi có khi chỉ như một cơn gió thoảng như để lại rung động ngọt ngào. Thú nhận về sự bất lực trên hành trình tìm kiếm nguồn cội tình yêu nhưng lại là sự thức nhận sâu sắc: tình yêu là điều huyền diệu, con người chỉ có thể cảm nhận chứ không thể truy tìm cội nguồn, cũng không thể cắt nghĩa rõ ràng, tách bạch. Chẳng phải thể mà Xuân Diệu cũng chia sẻ: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu Có khó gì đâu một buổi chiều Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu” Xuân Diệu hỏi để lí giải còn Xuân Quỳnh nghiêng về tiếng nói tình cảm. Hỏi chỉ để cảm nhận được sự hiện của tình yêu. 22

=> Như vậy, qua hình tượng “sóng”, Xuân Quỳnh đã thể hiện được những chiêm nghiệm, suy ngẫm về cội nguồn của tình yêu cũng như cung bậc của người phụ nữ đang yêu. Sự song hành hình tượng “sóng” và “em” đã khắc họa vẻ đẹp vừa dịu dàng, tinh tế, vừa chủ động mãnh liệt, vừa truyền thống vừa hiện đại của một tình yêu chân thành, tha thiết. * Luận điểm 3: Qua hai khổ thơ 5 và 6, nữ sĩ Xuân Quỳnh đã thể hiện đậm nét nỗi nhớ và lòng thủy chung của người con gái trong trong tình yêu: “Con sóng dưới dòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức Dẫu xuôi về phương Bắc Dẫu ngược về phương Nam Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh - một phương” -Khổ 5: + Bằng việc lặp lại hai lần từ “con sóng” và đi kèm với nó là những vị trí khác nhau. “Sóng trên mặt nước” là con sóng ở bề nổi bên trên mà người ta có thể dễ dàng thấy được còn sóng dưới lòng sâu là những con sống ngầm dưới mặt nước ta khó lòng có thể biết được. Như ta đã biết sóng là biểu trưng cho tình yêu, cho nỗi nhớ. Trong tình yêu, khi người ta xa cách nhau thường đem lại sự nhớ nhung tha thiết. Có những người đem nỗi nhớ nhung đó giấu trong lòng, không thổ lộ với ai và cũng có những người họ bày tỏ, biểu hiện nỗi nhớ đó ra bên ngoài. Chúng ta có thể dễ dàng thấy được sóng là một hình ảnh hàm súc, gợi tả, gợi cảm và cũng là nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của Xuân Quỳnh. 23

+ Hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng “Ôi con sóng nhớ bờ”: “Sóng” là hình ảnh biểu trưng trạng thái bất ổn định của tình yêu, “sóng” còn là biểu tượng cho người con gái trong tình yêu khi nhớ về người con trai đó là “bờ”. “Sóng” và “bờ” là hai hình ảnh sóng đôi nhau ngoài đời thực, con “sóng” dù có đi xa tới mấy cũng trở về với “bờ”. Khi rời xa nhau thì sự nhớ nhung lại trỗi dậy mạnh mẽ đến nỗi “Ngày đêm không ngủ được”. Nỗi nhớ thường trực biến thành sự thao thức đến nỗi không ngủ. Đến đây ta có thể thấy được sự quen thuộc mà những ai đã và đang yêu đều từng trải qua. + Xuân Quỳnh bộc lộ trực tiếp nỗi nhớ ấy: “Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức”. Từ “sóng” với “bờ” đã chuyển sang thành “anh” với “em”. Anh với em giống với con sóng và bờ kia, cũng chứa đựng những cung bậc cảm xúc như vậy đó là nỗi nhớ trong em cũng không thua kém gì với sóng. Nếu như “sóng” ngày đêm không ngủ, thao thức thì em ở một cấp độ cao hơn đó là thức ở chính trong giấc mơ của mình. Ý nói rằng dù thức hay ngủ thì nỗi nhớ vẫn xâm chiếm. Nỗi nhớ ấy không được ngoại hiện, nhưng lại nhấn chìm thời gian vượt mọi không gian, xâm chiếm cả trong tiềm thức ý thức, vô thức, để đạt đến đường biên của khả giải, bất khả giải. Tưởng chừng như trái tim yêu tha thiết mà cũng mãnh liệt đấy đang tự hát lên điệu hồn mình, đang mang nỗi nhớ lấp đầy pháp trường trắng cô đơn cô độc ấy. Nỗi nhớ một lần nữa xuất hiện, và đến Xuân Quỳnh thực sự đã mang một sắc thái biểu đạt mới. - Khổ 6: + Các điệp ngữ: \"dẫu xuôi về”, “dẫu ngược về\", \"phương\" (phương Bắc, phương Nam, một phương) đã liên kết với các từ ngữ: \"Em cũng nghĩ\", \"hướng về anh\" làm cho niềm tin đợi chờ trong tình yêu được khẳng định môt cách mạnh mẽ. Dưới hình thức nói ngược, những câu thơ trên như thoáng qua một chút thách thức. Trong Tiếng Việt, thông thường người ta nói “ngược về phương Bắc, xuôi về phương Nam”, Xuân Quỳnh nói ngược lại với hàm ý sâu xa: Dù cuộc đời có đảo điên, dù vật đổi sao rời, dù xuôi hóa ngược, dù cho ở đâu, em như kim chỉ nam, em luôn hướng về anh - “một phương”. Xuân 24

Quỳnh rất hiếm khi quyết liệt trong thơ. Đây có lẽ là lần nhà thơ tỏ ra quyết liệt nhất là để bảo vệ tình yêu chung thủy. Nữ sĩ luôn biết vun đắp chắt chiu để bảo vệ hạnh phúc đời thường. Nhà thơ chưa bao giờ kiêu sa để triết lý về tình yêu. Có thể nói dù ở bất cứ đâu, dù có muôn vàn những khó khăn, cách trở thì người con gái ấy vẫn thủy chung, son sắt một lòng với người mình yêu thương. * Luận điểm 4 (Khổ 7, 8 và 9): \"Ở ngoài kia đại dương con sóng đó Trăm ngàn tới bờ chẳng Con nào Dù muôn ngàn cách trở Cuộc đời tuy dài thế vẫn trôi qua Năm tháng kia dẫu rộng Như biển Mây vẫn trôi về xa Làm sao được tan ra con sóng nhỏ Thành trăm lớn tình yêu Giữa biển Để ngàn năm còn vỗ” - Khổ 7: + Để đến được bến bờ hạnh phúc của tình yêu luôn không hề dễ dàng, con người luôn phải vượt qua muôn ngàn khó khăn, cách trở. Sẽ có những hành trình tình yêu sẽ đến được trái ngọt nhưng cũng có những hành trình tình yêu phải kết thúc dang dở, lỡ mối nhân duyên. Và chính sức mạnh của niềm tin sẽ giúp các cặp đôi đến được bến bờ hạnh phúc dù cho thử thách ra sao. Và chỉ khi đến được bến bờ con sóng mới thôi thao thức. Tình yêu đích thực luôn tin vào bến bờ hạnh phúc và luôn khao khát được đặt chân đến miền đất đó. 25

+Tự như một lời trách móc nhẹ nhàng “Trăm ngàn con sóng - Con nào chẳng tới bờ\" còn anh thì sao ? Trong tình yêu, một chút nhớ, một chút thương, một chút dỗi hờn làm cho cuộc sống thêm phần thi vị. Xuân Quỳnh mượn hình ảnh sóng để nói lên tâm trạng mình, đây không chỉ là con sóng vô tri vô giác nữa, mà đã trở thành sóng tình, sóng trong lòng tác giả, sóng của người con gái đang yêu. Sóng và bờ giờ đây như có thể, nó được thổi hồn, mang ý nghĩa biểu tượng cho tình yêu. - Khổ 8: + Không dừng lại trong niềm tin vào tình yêu như một kết cục có hậu, trái tim nhạy cảm giàu suy tư của Xuân Quỳnh tiếp tục mở ra những trăn trở khi dòng suy ngẫm hiện hữu những hình ảnh của thời gian và không gian. • Thời gian và không gian được đặt trong hai bình diện đối lập: “cuộc đời” và “năm tháng”, “biển cả” và “mây trời”. “Cuộc đời” chỉ quỹ thời gian ngắn ngủi của mỗi kiếp như một kế ngẫm người, “năm tháng” là hoán dụ cho dòng thời gian vô thủy vô chung; “biển cả” là một không gian mênh mông nhưng vẫn chỉ là hữu hạn, còn “mây trời” lại gợi sự phiêu du trong vũ trụ vô cùng vô tận. • Cuộc đời tuy dài, biển cả tuy rộng nhưng năm tháng sẽ đi hết cuộc đời như mây kia sẽ bay qua biển rộng, sẽ đến với những không gian bao la trong vũ trụ không cùng. Khổ thơ thấm thía nỗi lo âu, buồn bã về sự trôi chảy của thời gian và cái hữu hạn của cuộc đời, nhất là của tình yêu, cảm giác hữu hạn này thường xuất hiện ở những con người từng trải, nhất là từng chịu sự đổ vỡ, mất mát, tổn thương, và vì thế, luôn khao khát sự bình yên, khao khát sự vĩnh hằng, vô hạn. Cũng có thể nhận ra thoáng buồn bã, tiếc nuối của nhà thơ khi tình yêu và khát vọng tình yêu của loài người tồn tại vĩnh hằng như biển cả, còn cuộc đời mỗi con người lại ngắn ngủi, mong manh như một áng mây phù du. • Cảm giác về sự hữu hạn thường khiến con người buồn bã, bất lực. Xuân Diệu từng sợ chính cái hữu hạn của lòng mình: “gấp đi em, anh rất sợ ngày mai - đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn”. Xuân Diệu cũng đã từng giục giã: “Mau với chứ, vội vàng lên mấy chứ - em, em ơi, tình non sắp già rồi”. Và khi không thể “tắt 26

nắng” hay “buộc gió” để níu kéo năm tháng, để gìn giữ hương sắc cuộc đời, để nới dài hơn quỹ thời gian cho tình yêu và hạnh phúc, Xuân Diệu tìm đến một giải pháp mãnh liệt đầy nam tính, đó là vội vàng tận hưởng cuộc đời một cách say sưa, ham hố khi còn có thể, từ “ôm cả sự sống” đến say đắm “riết, thâu, hôn, cắn… từ “mây đưa gió lượn” đến “non nước, cỏ cây”… - Khổ 9: + Những trải nghiệm cay đắng khiến Xuân Quỳnh sớm nhận ra và thấm thía sự hữu hạn của cuộc đời, của lòng người, nhưng khác với người đàn ông trong Xuân Diệu luôn khát khao chiếm lĩnh và tận hưởng, trái tim người phụ nữ trong Xuân Quỳnh lại có một mong ước đầy nữ tính. + Câu thơ “Làm sao được tan ra…” mang cấu trúc nghi vấn - cầu khiến cho thấy cả nỗi trăn trở và niềm mong ước của người phụ nữ thật da diết và thành thực. “Tan ra” là hy sinh, là dâng hiến, là mong được hóa thân thành “trăm con sóng nhỏ giữa biển lớn tình yêu”; mong ước được hi sinh và dâng hiến cũng là mong được sống hết mình, sống mãnh liệt trong tình yêu. Khao khát cháy bỏng trong tình yêu đã được nhà thơ bày tỏ chân thành, táo bạo và cũng thật nhân hậu, vị tha. Hai câu cuối mở ra cảm giác mênh mang của không gian “biển lớn” cùng sự vĩnh hằng của thời gian “ngàn năm”. Khi sống hết mình, yêu hết mình, để tình yêu lớn lao tới mức tan hòa trong cái vô biên của trời đất thì lúc ấy tình yêu cũng đồng thời được nhập vào dòng thời gian vĩnh hằng, tình yêu sẽ trường tồn cùng năm tháng, cùng đất trời, vũ trụ. Vậy là, con người sẽ làm được điều kì diệu, sẽ chiến thắng được cái hữu hạn của cả thời gian và không gian, sẽ vĩnh viễn hóa tình yêu ngay trong cái ngắn ngủi, thoáng chốc của cuộc đời nếu họ dâng hiến và hy sinh trọn vẹn cho tình yêu. Đó cũng là tâm nguyện cao đẹp thường xuất hiện trong thơ Xuân Quỳnh: “Em trở về đúng nghĩa trái tim em Là máu thịt, đời thường ai chẳng có Vẫn ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi” 27

(Tự hát) + Kết thúc bài thơ mà lời thơ còn vang mãi, khổ thơ năm chữ với tiết tấu nhanh, mạnh hơn càng thể hiện ý chí mãnh liệt, thôi thúc được yêu của tác giả. Dù bể lớn cuộc đời có muôn ngàn khó khăn, thì tình yêu sẽ còn sống mãi. “Sóng” của biển cũng là hình ảnh của những cơn sóng gió cuộc đời, sẽ có lúc mưa lặng gió ngừng để tình yêu lan tỏa. 4. Nghệ thuật: - Xuân Quỳnh đã triệt để khai thác lợi thế của thể thơ ngũ ngôn liên hoàn. Chỉ cần tính riêng khổ thơ thứ nhất, nữ sĩ Xuân Quỳnh đã nảy nhịp khá linh hoạt. Nếu hai câu thơ đầu tác giả nảy nhịp theo thể 2 - 3: “Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ” Ở hai câu thơ sau, nhịp thơ hoàn toàn thay đổi. Nó có thể là 1 - 4, có thể là 3 - 2: “Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể” Chính cách ngắt nhịp đột ngột này đã tạo nên âm điệu rất đẹp cho bài thơ. Thế là hình tượng sóng dần dần lộ mình ra, ló mình ra qua âm thanh của tiếng sóng. - Xuyên suốt bài thơ “Sóng” gồm 9 khổ thơ với tổng số 38 câu, giá trị nghệ thuật đầu tiên mà người yêu thơ không thể bỏ qua được đó là bài thơ có một âm điệu rất đặc biệt. Nó chính là âm thanh của tiếng sóng. Như ta đã biết, mỗi một bài thơ hay thường tác động đầu tiên đến với độc giả bạn đọc là nhờ âm điệu. Khi nội dung ta còn chưa biết rõ, âm điệu của bài thơ đã xâm nhập hồn ta tự bao giờ. “Sóng” của Xuân Quỳnh có một âm điệu rất đẹp: khi trầm khi bổng, khi thăng khi giáng, lúc thì dồn dập khi thì mênh mang. Có được âm điệu đặc biệt này bởi Xuân Quỳnh sử dụng rất thành công thể thơ ngũ ngôn liên hoàn. Đây là một thể thơ giàu nhạc điệu, giàu vần điệu nhưng rất khó sử dụng. Nếu khéo biến hóa, biến tấu, người nghệ sĩ rất dễ dàng nảy nhịp cho bài thơ bởi đã có câu “thi trung hữu nhạc”. - Xuân Quỳnh đã tỏ chức ngôn ngữ của bài thơ theo nghệ thuật tương xứng. Ta bắt gặp những vế câu tương xứng với nhau: “Dữ dội” tương xứng với “dịu êm”, “Ồn ào” tương xứng với “lặng lẽ”. Đó còn là sự tương xứng giữa các cặp câu: “Con sóng dưới lòng sâu” 28

tương xứng với “con sóng trên mặt nước”, “Dẫu xuôi về phương Bắc” tương xứng với “Dẫu ngược về phương Nam”, “Ôi con sóng ngày xưa” tương xứng với “Và ngày sau vẫn thế”. Nghệ thuật tương xứng ấy đã tạo ra sự hô ứng, nhấn nhá, luyến láy, đuổi bắt. Nó mang lại cho ta cảm giác đến với “Sóng” như đang đứng trước đại dương mênh mông. Mỗi một khổ thơ là một đợt sóng. Trong mỗi đợt sóng có trăm ngàn con sóng nhỏ gối lên nhau, đuổi bắt nhưng đều có chung một khát vọng đó là hướng về “bờ anh”. - Khi nói đến thành công về nghệ thuật trong bài thơ này, ta không thể bỏ qua được nghệ thuật ẩn dụ. Ở hai khổ thơ đầu hình tượng “Em” đã giấu mình qua hình tượng “Sóng”. Nhưng đến cuối khổ 2, đầu khổ 3, Xuân Quỳnh đã không thể giấu được tình yêu của người con gái và thế là hình ảnh “Em” dần dần lộ ra. Khi hình ảnh “Em” lộ ra thì đó cũng là lúc Xuân Quỳnh đã sử dụng rất thành công nghệ thuật nhân hóa: mượn hình tượng “sóng” để thể hiện tiếng lòng của người con gái đang yêu. Và thế là cả bài thơ này có hai hình ảnh đó là “Sóng” và “Em” sóng đôi nhau chạy dọc bài thơ, tuy hai mà là một, tuy một mà là hai. “Sóng” và “em” khi nhập vào với nhau để tôn vinh, để bổ sung cho nhau, khi tách ra để soi tỏ. Như vậy, sóng hiện ra ở bất cứ khía cạnh nào cũng đều là biểu hiện tình yêu của người con gái. Cần phải khẳng định hình ảnh “sóng” rất nữ tính. Có thể đó là tấm lòng thủy chung của người con gái luôn hướng về anh một phương. Có thể đó là khát vọng lớn của con sóng với một tình yêu vô cùng dữ dội: “Con nào chẳng tới bờ Dẫu muôn vời cách trở” Có thể đó là nỗi nhớ khi nằm trong tâm trí của người con gái đang yêu: “Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức” - Các cặp quan hệ từ: tuy - vẫn; dẫu - vẫn biểu thị một thực tế mà con người không thể phủ nhận: ngoại cảnh và thời gian dễ làm tình yêu phai mờ. - Những sáng tạo nghệ thuật đã làm nên thành công của Xuân Quỳnh trong bài thơ viết về một tình yêu lớn. Xuân Quỳnh thực sự đã có sự chiếm lĩnh tuyệt đối hình tượng và đã khai thác khả năng biểu hiện của nó một cách tối ưu. Nhà thơ đã truyền cho hình tượng 29

trong bài thơ một hơi thở, một sức sống tự thân. Thể thơ, nhịp thơ và âm điệu của tác phẩm cho Xuân Quỳnh bộc bạch được những khát khao hết sức đời thường mà vô cùng lớn lao, lí tưởng. Bài thơ đã \"hiện thực hóa\" một cách trọn vẹn nỗi lòng của người phụ nữ ấy. => Dù viết về những đề tài lớn hay trở về với những tình cảm riêng tư thì Xuân Quỳnh bao giờ cũng là tiếng nói của một tâm hồn phụ nữ thông minh, sắc sảo, giàu yêu thương. Thơ Xuân Quỳnh là đời sống của chính tác giả, là tình cảm, tâm trạng buồn lo của cuộc sống và trong hành trình kiếm tìm hạnh phúc, chắt chiu hạnh phúc cho cuộc đời. Bài thơ Sóng không chỉ làm rung động người đọc bởi vẻ đẹp nội dung của nó chính là sức sống và vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu mà còn là sự ghi nhận một thành công trong sáng tạo nghệ thuật của Xuân Quỳnh. Thành công ấy được thể hiện một cách hết sức tự nhiên và gần gũi với lối viết tưởng như rất thoải mái, dễ dàng. Khép lại trong thơ, hãy để mỗi lời như những lời \"tự hát\" của nhà thơ êm dịu, nồng nàn vang ngân mãi trong tâm hồn người đọc. 5. Một số nhận định về tác giả, tác phẩm: * “Xuân Quỳnh viết bài này “bợm” thật!”. (Nhà thơ Vũ Cao, Chủ nhiệm tạp chí Văn nghệ quân đội) * “Đó là cuộc hành trình khởi đầu là sự từ bỏ cái chật chội, nhỏ hẹp để tìm đến một tình yêu bao la rộng lớn, cuối cùng là khát vọng được sống hết mình trong tình yêu, muốn hóa thân vĩnh viễn thành tình yêu muôn thuở”. (GS.TS Trần Đăng Suyền) * “Ở mỗi tập thơ của Xuân Quỳnh, những bài viết của tình yêu thường để lại nhiều ấn tượng hơn cả. Với giọng điệu hết sức thơ, hết sức tự nhiên, bài “Sóng” thể hiện một tình yêu sâu sắc, bồi hồi, thao thức đến cả trong giấc mơ. Dù có những gian truân cách trở, nhưng tình yêu bao giờ cũng đẹp, cũng đến được tận cùng hạnh phúc, như con sóng nhỏ đến với bờ ”. (Nhà thơ Việt Nam hiện đại, GS. Phong Lê chủ biên) * “Thơ Xuân Quỳnh là thơ của một cánh chuồn chuồn bay tìm chỗ nương thân trong nắng nôi dông bão của cuộc đời… Thế giới thơ ca Xuân Quỳnh là sự tương tranh không ngừng giữa khắc nghiệt và yên lành với những biểu hiện sống động và biến hóa khôn 30

cùng của chúng. Ở đó trái tim thơ Xuân Quỳnh là cánh chuồn chuồn báo bão cứ chao đi chao về, mệt nhoài giữa biến động và yên định, bão tố và bình yên, chiến tranh và hòa bình, thác lũ và êm trôi, tình yêu và cách trở, ra đi và trở lại, chảy trôi phiêu bạt và trụ vững kiên gan, tổ ấm và dòng đời, sóng và bờ, thuyền và biển, nhà ga và con tàu, trời xanh và bom đạn, gió Lào và cát trắng, cỏ dại và nắng lửa, thủy chung và trắc trở, xuân sắc và tàn phai, ngọn lửa cô đơn và đại ngàn tối sẫm…” (Chu Văn Sơn) * “Điều đáng quý nhất ở Xuân Quỳnh và thơ Xuân Quỳnh là sự thành thật rất thành thật, thành thật trong quan hệ bạn bè, với xã hội và cả tình yêu. Chị không quanh co không giấu diếm một điều gì. Mỗi dòng thơ, mỗi trang thơ đều phơi bày một tình cảm, một suy nghĩ của chị. Chỉ cần qua thơ ta biết khá kĩ đời tư của chị. Thành thật, đây là cốt lõi thơ Xuân Quỳnh.\" * “Sóng là bài thơ đặc sắc viết về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách của Xuân Quỳnh. Qua hình tượng sóng, trên cơ sở sự tương đồng, hòa hợp giữa “sóng” và “em”, bài thơ diễn tả tình yêu của người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Bài thơ cho thấy tình yêu là một thứ tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người.” (SGK Ngữ văn 12-Chương trình Chuẩn) * “Đọc thơ xuân Quỳnh, người ta không có cảm giác như tác giả cố ý làm thơ, mà thơ chị tự nhiên, nhẹ nhàng, là tiếng nói chân thật từ sâu trong tâm hồn chứ không cố gắng gượng ép bản thân phải sáng tác về những triết lý khô khăn. vì vậy, giọng thơ của chị thủ thỉ tâm tình, dạt dào những đợt sóng tình cảm, lúc thì nhẹ nhàng vỗ về, lúc lại cuồn cuộn dâng trào” (Nhà phê bình văn học Lưu Khánh Thơ) * “Sóng không chỉ là tên một thi phẩm đã gây xốn xang cho nhiều thế hệ bạn đọc. Sóng không chỉ là biểu trưng cho một hồn yêu chưa từng nguội yên. Sóng còn là một nguồn sống, nguồn năng lượng mà nữ thi sĩ ấy đã truyền lại cho thế hệ sau qua mỗi tiếng thơ của mình. Và, lâu nay, lòng thơ của chúng ta, người mờ người tỏ, người đang yêu, người đã yêu, đều từng thầm thu thầm phát thứ sóng đặc biệt ấy: Đó chính là Sóng Xuân Quỳnh.” (T.S Chu Văn Sơn) 31

“Sóng là một bài thơ tình yêu rất tiêu biểu cho tư tưởng và phong cách thơ Xuân Quỳnh ở giai đoạn đầu. Một bài thơ vừa xinh xắn, duyên dáng; vừa mãnh liệt, sôi nổi; vừa hồn nhiên, trong sáng; vừa ý nhị, sâu xa. Sau này, khi nếm trải nhiều, giọng thơ Xuân Quỳnh không còn phơi phới bốc men say nữa, nhưng cái khát vọng tình yêu vẫn mãi tồn tại trong trái tim giàu có yêu thương của chị.” (GS Nguyễn Đăng Mạnh & PTS Trần Đăng Xuyền, Những bài văn hay) IV. Một số đề có liên quan đến tác phẩm: Đề 1: Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh. Anh ( chị ) cảm nhận được gì về vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu qua hình tượng này. Gợi ý - Giới thiệu tác giả, tác phẩm: + Xuân Quỳnh ( 1942 - 1988 ) là một nhà thơ nữ xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Trong thơ Xuân Quỳnh thể hiện một trái tim phụ nữ hồn hậu, chân thành, khao khát tình yêu, biết nâng niu hạnh phúc đời thường bình dị. + “Sóng” in trong tập “Hoa dọc chiến hào” được sáng tác năm 1967, tiêu biểu về nhiều mặt cho hồn thơ Xuân Quỳnh. - Phân tích hình tượng “sóng”: + “Sóng” là hình tượng trung tâm của bài thơ và là một hình tượng ẩn dụ. Cùng với hình tượng “em” ( hai hình tượng này song hành suốt tác phẩm ), “sóng” thể hiện những trạng thái, quy luật riêng của tình yêu cùng vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ rất truyền thống mà rất hiện đại. + “Sóng” có nhiều đối cực như tình yêu có nhiều cung bậc, trạng thái và như tâm hồn người phụ nữ có những mặt mâu thuẫn mà thống nhất ( phân tích hai câu đầu với kết cấu đối lập - song hành và với việc đặt các từ dịu êm, lặng lẽ ở cuối câu tạo điểm nhấn ). + Hành trình của “sóng” tìm tới biển khơi như hành trình của tình yêu hướng về cái vô biên, tuyệt đính, như tâm hồn người phụ nữ không chịu chấp nhận sự chật hẹp, tù túng ( phân tích hai câu sau của khổ 1 với kiểu nói nhấn mạnh như không hiểu nổi, tìm ra tận,... ). 32

+ Điểm khởi đầu bí ẩn của “sóng” giống điểm khởi đầu và sự mầu nhiệm, khó nắm bắt của tình yêu ( phân tích các khổ 3, 4 của bài thơ với điệp từ nghĩ và sự xuất hiện của nhiều câu hỏi,... ). + “Sóng” luôn vận động như tình yêu gắn liền với những khát khao, trăn trở không yên, như người phụ nữ khi yêu luôn da diết nhớ nhung, cồn cào ước vọng về một tình yêu vững bền, chung thủy ( phân tích các khổ 5, 6, 7, 8 của bài thơ với lối sử dụng điệp từ, điệp ngữ, điệp cú pháp; với hiệu quả của hình thức đối lập trên - dưới, thức - ngủ, bắc - nam, xuôi - ngược,...; với kiểu giãi bày tình cảm bộc trực như “Lòng em nhớ đến anh - Cả trong mơ còn thức” ). + “Sóng” là hiện tượng thiên nhiên vĩnh cửu như tình yêu là khát vọng muôn đời của con người, trước hết là người phụ nữ ( nhân vật trữ tình ) muốn dâng hiến cả cuộc đời cho một tình yêu đích thực ( phân tích khổ cuối của bài thơ với ý nghĩa và cách nói rất táo bạo của một người con gái hiện đại: Làm sao được tan ra... - Nêu cảm nhận về vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu qua hình tượng “sóng”: + Trước hết, hình tượng “sóng” cho ta thấy được những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ trong tình yêu: thật đằm thắm, dịu dàng, thật đôn hậu dễ thương, thật thủy chung. + Hình tượng “sóng” cũng thể hiện được nét đẹp hiện đại của người phụ nữ trong tình yêu: táo bạo, mãnh liệt, dám vượt qua mọi trở ngại để giữ gìn hạnh phúc, dù có phấp phỏng trước cái vô tận của thời gian nhưng vững tin vào sức mạnh của tình yêu. - Kết luận: + “Sóng” là bài thơ tình thuộc loại hay nhất của Xuân Quỳnh nói riêng và thơ Việt Nam hiện đại nói chung. + Riêng việc sử dụng hình tượng “sóng” làm ẩn dụ thì không mới nhưng những tâm sự về tình yêu cùng cách khai thác sức chứa của ẩn dụ này lại có những nét thực sự mới mẻ. Xuân Quỳnh quả đã tìm được một hình tượng thơ đẹp để giãi bày tình yêu dịu dàng mà mãnh liệt, gần gũi, riêng tư mà rộng mở, phóng khoáng của người phụ nữ. Đề 2: Phân tích vẻ đẹp tình yêu truyền thống và hiện đại trong bài thơ Sóng – Xuân Quỳnh Gợi ý 1. Giới thiệu vấn đề: 33

- “Sóng” thể hiện được tình yêu mang nét đẹp truyền thống. - Khi yêu “em” cũng mang trong mình nỗi nhớ da diết, nỗi bồi hồi khắc khoải đối với người mình yêu. - Ta có thể gặp quan niệm của Xuân Quỳnh về nỗi nhớ có điểm gặp gỡ với nỗi nhớ trong những bài ca dao, dân ca xưa.Nỗi nhớ trong thơ Xuân Quỳnh lại da diết, khắc khoải đến mức vượt qua mọi giới hạn về không gian gian, thời gian, trong thế giới của thức ý và cả sự vô thức. - Trong tình yêu, “em” cũng luôn giữ gìn được tấm lòng thủy chung son sắc. 2. Vẻ đẹp hiện đại: - “Sóng” là tiếng nói của một cái tôi trong tình yêu đầy tính mới mẻ, hiện đại. - Tác giả Xuân Quỳnh đã diễn tả đầy sinh động những trạng thái tình cảm mang tính đối lập, mâu thuẫn trong tâm hồn người con gái. - Mượn hình ảnh của sóng, nữ sĩ đã gợi ra những trạng thái đối cực trong tâm trạng người con gái. - Sóng ngoài đại dương có lúc ồn ào, dữ dội khi phong ba bão táp nhưng cũng có lúc dịu êm, lặng lẽ khi trời yên biển lặng thì tâm trạng người con gái khi yêu cũng vậy, sẽ có những lúc nồng nhiệt đắm say nhưng cũng có khi trầm lắng, dịu dàng. - Cái mới mẻ, hiện đại trong hồn thơ Xuân Quỳnh được thể hiện trong bài thơ đó chính là cái táo bạo, khát vọng hướng đến tình yêu, chủ động tìm kiếm tình yêu của cuộc đời mình. - “Em” trong “sóng” thể hiện một tâm hồn đầy sôi nổi, có sự chủ động và khát vọng sống hết mình cho tình yêu. - Mong muốn được hòa nhập trọn vẹn tình yêu nhỏ của bản thân để tạo nên tình yêu bất diệt, vĩnh cửu của cuộc đời. - Nữ sĩ đã có niềm tin bất diệt vào tình yêu, từ đó bày tỏ khát vọng thành thực của bản thân là được dâng hiến, sống hết mình cho tình yêu. Đề 3: Viết về cảm xúc trong thơ, nhà phê bình Hoài Thanh từng có ý kiến: “Dòng cảm xúc quá chừng sôi nổi khiến cho câu chữ không thể đi theo những đường viền có sẵn, ý thơ xô đẩy làm cho khuôn khổ câu thơ cũng phải lung lay.” 34

Bằng việc cảm nhận bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh, anh (chị) hãy bình luận ý kiến trên. Gợi ý 1. Giải thích ý kiến của Hoài Thanh: + “Cảm xúc” là những rung động, là tình cảm- đây là yếu tố quan trọng nhất của thơ. Khởi nguồn của thơ là tiếng nói của tình cảm, cảm xúc. “Sôi nổi” chỉ mức độ của cảm xúc: nồng nàn, cháy bỏng, mãnh liệt dâng trào. “Ý thơ” chỉ tư tưởng, tình cảm. + “Những đường viền có sẵn”, “khuôn khổ câu thơ”: Những quy định có sẵn từ trước, những hình thức có tính chất khuôn mẫu, ổn định. “Xô đẩy”, “không đi theo”, “lung lay” đều chỉ sự bứt phá, vượt ra khỏi những quy định. => Khi cảm xúc, tình cảm trong thơ đến mức mãnh liệt nó sẽ phá vỡ những khuôn mẫu, những hình thức có tính chất ổn định. Từ đó cho thấy trong mối quan hệ giữa nội dung cảm xúc và hình thức nghệ thuật của thơ thì nội dung cảm xúc đóng vai trò chi phối. 2. Cảm nhận bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh - “Sóng” là dòng cảm xúc “quá chừng sôi nổi”, là tiếng nói tình cảm mãnh liệt của một trái tim phụ nữ yêu chân thành, da diết. Cái “tôi” trữ tình khi thì hóa thân vào “em”, khi thì soi mình vào “sóng”. “Sóng” và “em” cùng song song tồn tại để bộc lộ những cảm xúc của nhân vật trữ tình. - Những trạng thái cảm xúc phong phú, phức tạp có lúc tưởng mâu thuẫn mà lại thống nhất trong tâm hồn người con gái đang yêu. + Khát vọng tự nhận thức, khát vọng tình yêu + Nỗi nhớ cháy bỏng, da diết trong tình yêu. + Tình cảm thủy chung khăng khít + Những dự cảm âu lo và niềm tin vào tình yêu chân chính + Khát vọng bất tử hóa tình yêu. - Ở “Sóng” có sự phá vỡ những hình thức, khuôn mẫu có tính chất ổn định (“câu chữ không đi theo đường viền có sẵn, khuôn khổ câu thơ bị lung lay”) + Âm điệu của bài thơ: Bài thơ có âm điệu của “sóng”. Sóng biển hay cũng chính là sóng lòng của người con gái đang yêu. Âm điệu đó được tạo nên do thể thơ (thể thơ năm chữ, gieo vần, ngắt nhịp, hài thanh linh hoạt); phương thức tổ chức ngôn từ và hình ảnh. 35

+ Kết cấu của bài thơ độc đáo thể hiện “dòng cảm xúc quá chừng sôi nổi”: Cả bài thơ có 9 khổ. Bốn khổ đầu và bốn khổ cuối mỗi khổ đều có 4 câu, riêng khổ giữa (khổ 5) có 6 câu. Kết cấu đó khiến người ta liên tưởng tới hai chân sóng và đỉnh sóng. + Hình tượng thơ: Có hai hình tượng song song tồn tại: “Sóng” và “em”, lúc thì phân thân soi chiếu vào nhau, lúc lại hòa với nhau làm một. Sóng biển và sóng lòng hòa quyện trong nhau. + Các biện pháp tu từ: Ẩn dụ, so sánh, nhân hóa được sử dụng linh hoạt nhằm diễn tả những cảm xúc trong tâm hồn người con gái đang yêu. + Ngôn ngữ thơ giản dị, tự nhiên như tiếng lòng chân thành của người phụ nữ, không màu mè, kiểu cách. 3. Bình luận ý kiến của Hoài Thanh: - Nội dung cảm xúc và hình thức nghệ thuật trong thơ phải có sự hài hòa, phù hợp với nhau. Tuy nhiên, trong mối tương quan giữa nội dung và hình thức thì nội dung là cái có trước và bao giờ cũng đóng vai trò chủ đạo. Thông qua ý thức năng động và tích cực chủ quan của người nghệ sĩ, nội dung cố gắng đi tìm một hình thức thể hiện phù hợp với nó, để bộc lộ một cách đầy đủ nhất, hấp dẫn nhất bản chất của nó. Khi tiếng nói cảm xúc, tình cảm trong thơ nồng nhiệt đến độ cao trào thì nó sẽ vượt ra khỏi khuôn khổ hình thức bình thường để rồi lại đi tìm một cách thể hiện khác phù hợp với nó. Đó chính là sự “phá vỡ những đường viền có sẵn”. - Khi cảm xúc phá vỡ những giới hạn, những hình thức cũ thì sẽ có một hình thức mới ra đời. Đây cũng chính là hành trình đi tìm sự sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ. Nghệ thuật cũng vì thế mà luôn sáng tạo, luôn mới mẻ, hấp dẫn. + Ý kiến của nhà phê bình Hoài Thanh là ý kiến xác đáng, đúng đắn, đầy biện chứng về mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trong thơ. Tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng: Không phải cứ có cảm xúc mãnh liệt thì sẽ có sự phá cách và tạo nên cái mới trong nghệ thuật thơ ca. Việc sáng tạo nên những hình thức mới mẻ còn phải phụ thuộc vào cái tài của người nghệ sĩ. Cảm xúc chỉ là phần “xương thịt”, là yếu tố khơi nguồn và thúc đẩy. Hơn nữa, không chỉ thơ mà đối với loại hình nghệ thuật nào cũng vậy nội dung cảm xúc, tư tưởng luôn đóng vai trò chủ đạo, quyết định đối với hình thức thể hiện.huật cũng vì thế mà luôn sáng tạo, luôn mới mẻ, hấp dẫn. 36

Đề 4: Có nhận định rằng: “Văn chương không có gì riêng sẽ không là gì cả”. Anh/chị hiểu như thế nào về ý kiến trên? Hãy phân tích bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh để làm sáng tỏ ý kiến đó. Gợi ý 1. Giải thích nhận định: - Văn chương là lĩnh vực của cái độc đáo. Mỗi tác phẩm văn chương phải có nét riêng, nét mới ở ý tưởng nghệ thuật cũng như ở hình thức biểu hiện. Mỗi nhà văn phải có một thế giới nghệ thuật riêng, một “chân trời” riêng, một “biên cương” riêng. Nhà văn có phong cách thì mới được người đọc chấp nhận và yêu mến. Phong cách càng độc đáo thì sức hấp dẫn càng lớn. - Mới mẻ, độc đáo là điều kiện tồn tại của tác phẩm văn chương. Tác phẩm chương không có gì mới sẽ không được người đọc tiếp nhận. Nhà văn có phong cách nghệ thuật mờ nhạt sẽ bị người đọc quên lãng; lặp lại mình hoặc lặp lại người khác đều là điều tối kị trong hoạt động sáng tác của nhà văn. - Biểu hiện của cái riêng trong văn chương: + Giọng điệu riêng biệt của tác phẩm. + Cách nhìn, cách cảm của nhà văn có tính chất khám phá. + Yếu tố mới trong nội dung tác phẩm. + Sử dụng các thủ pháp nghệ thuật mang dấu ấn riêng 2. Phân tích bài thơ để làm rõ vấn đề nghị luận: * Giới thiệu chung về tác giả tác phẩm *Phân tích: - Giọng điệu chung của bài thơ: dào dạt, da diết, khát khao, âu lo, day dứt… Mỗi câu thơ như một con sóng vỗ vào bờ, gợi tả tinh tế nhịp điệu tâm hồn của người phụ nữ đang yêu. - Cách nhìn, cách cảm mới mẻ về tình yêu: Qua hình tượng “sóng” và “em”, tình yêu được thể hiện ở nhiều cung bậc, sắc độ: + Những biến động khác thường, nghịch lí trong lòng người phụ nữ đang yêu. (Dữ dội và dịu êm / Ồn ào và lặng lẽ). + Khát vọng vươn xa, thoát khỏi sự chật chội, tầm thường ; tìm sự đồng điệu. Yêu là đưa lòng ra biển lớn (Sông không hiểu nổi mình / Sóng tìm ra tận bể). 37

+ Tình yêu là nỗi khát vọng muôn đời. Yêu là hiện tượng vĩnh hằng (Ôi con sóng ngày xưa / Và ngày sau vẫn thế). + Nhu cầu lí giải sự khởi nguồn, khởi điểm của tình yêu. (Em nghĩ về anh em / Em nghĩ về biển lớn / Từ nơi nào sóng lên ?...Khi nào ta yêu nhau). + Nỗi nhớ nhung da diết, mãnh liệt. Nó chiếm cả bề rộng và tầng sâu ; khắc khoải trong mọi thời gian, cả trong ý thức và vô thức, khắc khoải trong mọi không gian. (Con sóng dưới lòng sâu / Con sóng trên mặt nước / Ôi con sóng nhớ bờ/Ngày đêm không ngủ được / Lòng em nhớ đến anh / Cả trong mơ còn thức / Dẫu xuôi về phương bắc / Dẫu ngược về phương nam / Nơi nào em cũng nghĩ / Hướng về anh một phương). + Niềm tin về một tình yêu dù cách trở vẫn đến được bến bờ hạnh phúc. (Ở ngoài kia đại dương / Trăm ngàn con sóng đó / Con nào chẳng tới bờ / Dù muôn vời cách trở). + Nỗi trăn trở về sự hữu hạn của cuộc đời, niềm mong mỏi về sự vô hạn trong tình yêu. (Cuộc đời tuy dài thế / Năm tháng vẫn đi qua / Như biển kia dẫu rộng / Mây vẫn bay về xa). - Nét mới trong nội dung: + Tình yêu nồng cháy, mãnh liệt, bí ẩn nhưng giàu nữ tính, đòi hỏi sự thủy chung trong một tình yêu đúng nghĩa, hướng đến cuộc sống chung. + Khát vọng tình yêu như một nhu cầu tự nhận thức, khám phá cái tôi bản thể. - Hình thức, kĩ thuật biểu hiện mang đậm dấu ấn riêng: + Cách biểu hiện vừa mới mẻ vừa truyền thống, đặc biệt là cách sử dụng hình tượng sóng: mỗi trạng thái tâm hồn của người phụ nữ đang yêu đều có thể tìm thấy sự tương đồng với một khía cạnh, một đặc tính của sóng. +Thể thơ 5 chữ, các câu nối tiếp gợi liên tưởng từng đợt sóng vào bờ. 3. Đánh giá chung: - Nội dung: Tình yêu trong bài thơ là tình yêu hạnh phúc, gắn liền với cuộc sống chung (không phải tình yêu đau khổ, không phải tình đầu non nớt, vụng dại), với nhiều đam mê khao khát, đòi hỏi chiều sâu trong tình cảm. - Nghệ thuật: Bài thơ hội tụ nhiều nét tiêu biểu trong phong cách nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh. => “Sóng” là một đóng góp đặc biệt của Xuân Quỳnh cho thơ ca viết về tình yêu của văn học dân tộc. 38

Đề 5: Bàn về ngôn ngữ trong thơ, Nguyễn Đình Thi viết: “Điều kì diệu của thơ là mỗi tiếng, mỗi chữ, ngoài cái nghĩa của nó, ngoài công dụng gọi tên sự vật, bỗng tự phá tung mở rộng ra, gọi đến xung quanh nó những cảm xúc, những hình ảnh không ngờ, tỏa ra xung quanh nó một vùng ánh sáng động đậy. Sức mạnh nhất của câu thơ là ở sức gợi ấy.” (Mấy ý nghĩ về thơ, Ngữ văn 12 Nâng cao, tập 1, tr. 52, NXBGD, 2008). Qua bài thơ “Sóng” (Xuân Quỳnh) và Đàn ghi ta của Lor-ca (Thanh Thảo), anh/chị hãy làm sáng tỏ nhận xét trên. Gợi ý 1. Giới thiệu vấn đề: - Giới thiệu bài thơ “Sóng” và thi sĩ Xuân Quỳnh - Giới thiệu bài thơ “Đàn ghi ta của Lor- ca” và nhà thơ Thanh Thảo - Giới thiệu ý kiến của Nguyễn Đình Thi : “Điều kì diệu của thơ là mỗi tiếng, mỗi chữ, ngoài cái nghĩa của nó, ngoài công dụng gọi tên sự vật, bỗng tự phá tung mở rộng ra, gọi đến xung quanh nó những cảm xúc, những hình ảnh không ngờ, tỏa ra xung quanh nó một vùng ánh sáng động đậy. Sức mạnh nhất của câu thơ là ở sức gợi ấy.” - Nêu vấn đề cần nghị luận : Sức mạnh của thơ. 2. Giải thích ý kiến của Nguyễn Đình Thi: - Ngôn ngữ thơ (chữ và nghĩa trong thơ) vừa có nghĩa do bản thân câu chữ mang lại (nghĩa của nó, nghĩa gọi tên) vừa có nghĩa do câu chữ gợi ra (cảm xúc, hình ảnh, vùng ánh sáng lay động, sức gợi). - Khẳng định: Sức mạnh nhất của thơ là sức gợi ấy. => Bằng cách diễn đạt hình ảnh rất cụ thể và sinh động, Nguyễn Đình Thi đã nhấn mạnh và làm nổi bật một đặc trưng bản chất của thơ ca: ngôn ngữ trong thơ, vấn đề chữ và nghĩa. Tác giả vừa khẳng định vừa cắt nghĩa, lí giải sức mạnh của thơ nằm ở sức gợi. 3. Chứng minh nhận định a. Bài thơ Sóng: * Ý khái quát : Giới thiệu sơ lược về tác giả tác phẩm và nội dung bài thơ: Xuân Quỳnh là nhà thơ của hạnh phúc đời thường: tiếng thơ khao khát tình yêu, hạnh phúc đời thường bình dị. 39

- Cái tôi độc đáo: giàu vẻ đẹp nữ tính, thành thật, giàu đức hi sinh và lòng vị tha, khát vọng yêu chân thành, mãnh liệt gắn với cảm thức lo âu về sự phai tàn, đổ vỡ, cùng những dự cảm bất trắc. - Tác phẩm: 1967, nhân chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), in trong tập thơ Hoa dọc chiến hào, là bài thơ tình nổi tiếng của Xuân Quỳnh, góp phần tạo nên vị trí “nữ hoàng thơ tình Việt Nam”. * Phân tích : - Về chữ: ngôn ngữ dung dị mà chọn lọc tinh tế, gợi cảm, hàm súc, giàu tính ẩn dụ. - Về nghĩa: + Nghĩa câu chữ: con sóng thực và các đặc tính của nó (dữ dội, dịu êm, trên mặt nước, dưới lòng sâu…) + Nghĩa mà sóng gợi ra (hình ảnh, cảm xúc…): những cung bậc tâm trạng người con gái trong tình yêu, những khát vọng hạnh phúc đời thường và khao khát tự hoàn thiện bản thân. => Ngôn ngữ thơ Xuân Quỳnh dung dị mà có sức gợi sâu xa từ hình ảnh thực mà liên tưởng đến tâm trạng người con gái trong tình yêu, khát vọng bất tử hóa, tự hoàn thiện bản thân để hướng tới những giá trị đích thực của cuộc sống. Chính sức gợi này đã tạo nên sức sống cho bài thơ. b. Đàn ghi ta của Lor-ca: * Ý khái quát : - Giới thiệu sơ lược về tác giả tác phẩm và nội dung bài thơ: Cùng với Xuân Quỳnh, Thanh Thảo cùng thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ nhưng trang thơ Thanh Thảo lại có dấu ấn rất riêng. Ông là người đi đầu trong phong trào cách tân thơ Việt, con đường mà ông lựa chọn để cách tân thơ Việt là việc đào sâu cái tôi nội cảm, tìm kiếm những cách biểu đạt mới qua hình thức những câu thơ tự do, phá bỏ mọi ràng buộc, khuôn sáo. Thanh Thảo đi theo trường phái thơ tượng trưng siêu thực có nguồn gốc từ phương Tây mà Lor-ca là một đại biểu đi đầu trong trường phái thơ đó. Bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” được rút ra từ tập “Khối vuông ru bích”, bài thơ đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Lor-ca. * Phân tích: 40

- Về chữ: lối thơ tự do, ngôn từ thơ giàu màu sắc tượng trưng siêu thực, giàu nhạc tính, mô hình mở giải phóng cảm xúc và tưởng tượng… - Về nghĩa: + Hình tượng Lor-ca và những giai điệu, cung bậc của tiếng đàn ghi ta. + Nỗi đau xót trước cái chết đầy bi phẫn của Lor-ca, niềm trân trọng, đồng cảm của Thanh Thảo trước nhân cách cao thượng và vẻ đẹp tâm hồn Lor-ca… => Ngôn ngữ thơ có nhiều đổi mới, giàu tượng trưng thiên về gợi, không coi trọng tả thực, mỗi từ ngữ, hình ảnh, câu thơ đều có độ mở cho phép tiếp nhận dân chủ, sáng tạo. Sức gợi của ngôn ngữ thơ tạo ra mạch ngầm đa nghĩa cho tác phẩm. 4. Đánh giá chung - Về ý nghĩa của vấn đề: ý kiến của Nguyễn Đình Thi về một trong những đặc trưng bản chất của thơ không chỉ có tác dụng nhất thời mà ngày nay vẫn còn nguyên giá trị bởi ý nghĩa thời sự, tính chất khoa học đúng đắn. + Đối với người sáng tác: định hướng cho sự sáng tạo, làm thơ phải biết lựa chọn ngôn ngữ hàm súc, giàu sức gợi, có sức hấp dẫn, lôi cuốn… + Đối với người thưởng thức: định hướng tiếp nhận, đọc thơ không chỉ hiểu nghĩa câu chữ mà phải dựng dậy lớp nghĩa được gợi ra từ câu chữ. 5. Kết thúc vấn đề: Khẳng định ý nghĩa của câu nói. Đánh giá chung về bài thơ “Sóng” và “Đàn ghita của Lor-ca”. V. Một số mở bài từ trực tiếp đến gián tiếp: * Mở bài 1: Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ tiêu biểu nhất của thơ ca Việt Nam hiện đại. Người yêu thơ mệnh danh chị là “Nữ hoàng của thi ca tình yêu”. Thơ của chị là tiếng nói nhân hậu, thủy chung, giàu trực cảm và da diết khát vọng hạnh phúc đời thường. “Sóng” là bài thơ được làm năm 1967 nhân chuyến đi thực tế ở biển Diêm Điền. Bài thơ sau đó được in trong tập Hoa dọc chiến hào. “Sóng” là bài thơ tiêu biểu nhất cho phong cách thơ tình yêu của Xuân Quỳnh. * Mở bài 2: Xuân Quỳnh là một nhà thơ nữ nổi tiếng của nền văn học hiện đại nước ta. Tuy bà hưởng thọ không nhiều do tai nạn quá đột ngột nhưng những tác phẩm bà để lại vẫn để lại những tiếng vang lớn, có sức lay động lòng người. Trong thơ Xuân Quỳnh đề tài tình yêu 41

luôn chiếm đa số. Tình yêu trong thơ của thi sĩ Xuân Quỳnh mang nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, khi thì dịu dàng, e ấp, nhưng có lúc lại vô cùng mãnh liệt, dữ dội. Khi thì thật gần nhưng nhiều lúc cũng thật xa xôi, mang tới cho người đọc nhiều tâm trạng bồi hồi xao xuyến khác nhau. Bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh là một bài thơ vô cùng độc đáo thể hiện tâm trạng của một người con gái đang yêu. Những hờn giận vu vơ, tủi hờn, ghen tuông rất phụ nữ, được tác giả Xuân Quỳnh gửi hồn trong thơ khiến khiến người đọc, người nghe thổn thức theo từng câu thơ của bà. * Mở bài 3: Ta từng biết đến những vần thơ yêu đương vội vàng, hối hả của ông hoàng thơ tình Xuân Diệu: “Đã hôn rồi hôn lại/ Cho đến mãi muôn đời/ Đến tan cả đất trời/ Anh mới thôi dào dạt”. Nhưng cũng không thể không nhắc đến một Xuân Quỳnh với tình yêu dịu dàng, nhưng đậm sâu, khắc khoải, điển tình của người con gái. Tình yêu ấy đã được thể hiện đầy đủ và trọn vẹn nhất trong bài: “Sóng”. * Mở bài 4: Nhắc đến thơ tình, người ta không chỉ nghĩ ngay tới nhà thơ Xuân Diệu với biệt danh “Ông hoàng của thơ tình” mà còn nhớ đến nữ sĩ Xuân Quỳnh với hồn thơ giản dị, nhẹ nhàng mà đằm thắm. Dù cuộc đời của bag khá ngắn ngủi nhưng trong khoảng thời gian ấy, bà đã sáng tác và để lại cho đời những tác phẩm có giá trị và có chỗ đúng vững chãi trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Trong số đó, chúng ta phải kể đến thi phẩm “Sóng” được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Bài thơ thể hiện tình yêu của người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, thủy chung, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người. * Mở bài 5: Trong bài “Bài thơ tuổi nhỏ”, Xuân Diệu đã khẳng định rằng: “Làm sao sống được mà không yêu Không nhớ không thương một kẻ nào ?” Đó cũng là lý do tình yêu được đưa rất nhiều vào trong thơ ca và nghệ thuật, trở thành nguồn cảm hứng bất tận với nhiều thi nhân. Có rất nhiều những nhà thơ, nhà văn từng viết về tình yêu trong đó không thể không kể đến cây bút thơ tình xuất sắc của nền 42

văn học Việt Nam - Xuân Quỳnh - nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ đã thể hiện tình cảm người con gái khi yêu qua bài thơ “Sóng”. * Mở bài 6: Tình yêu là một thứ tình cảm thiêng liêng cao cả và huyền diệu nhất của con người. Các nhà thơ hay sử dụng những hình ảnh kì vĩ lớn lao như sóng biển, núi non để thể hiện tình yêu đôi lứa. Phải chăng là vì sự tương đồng giữa cái lớn lao vĩnh hằng của thiên nhiên với tình yêu muôn thuở của con người. Xuân Quỳnh lại chọn cho mình nét độc đáo riêng biệt khi sáng tạo hình ảnh sóng đôi. Nữ thi sĩ của một tâm hồn giàu lòng trắc ẩn nhưng cũng rất mong manh của một tấm lòng yêu. Có lúc Xuân Quỳnh “tự hát” bài ca bất tử về tình yêu “Em trở về đúng nghĩa trái tim em/Là máu thịt đời thường ai chả có/Vẫn ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa/ Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”. Song có lúc đầy băn khoăn lo lắng về sự vững bền của tình cảm ấy “Lời yêu mỏng manh như màu khói/ Ai biết lòng anh có đổi thay”. “Sóng” sẽ đưa ta lạc vào thế giới của một tâm hồn như thế. * Mở bài 7: Tình yêu là đề tài muôn thuở của văn học, nghệ thuật; là nguồn cảm hứng bất tận của người nghệ sĩ thiết tha với đời, với người. Có thể nói rằng từ khi có con người thì đã có tình yêu và con người còn tồn tại thì tình yêu còn bất diệt. Lịch sử thơ ca nhân loại từ xưa đến nay đã có biết bao bài thơ tình nổi tiếng khắp Đông, Tây ca ngợi tình yêu của con người và đã từng làm xúc động biết bao trái tim của nhiều thế hệ. Ở Việt Nam chúng ta, những năm tháng chống Mỹ cứu nước, tuy phạm vi thơ ca chủ yếu mở rộng về phía tình cảm lớn như tình yêu Tổ quốc, đất nước, nhân dân, cách mạng nhưng thơ ca vẫn dành một khoảng nhất định cho tình cảm riêng tư. Nhiều bài thơ ca ngợi tình yêu nam nữ ra đời trong thời kỳ này còn mãi làm xúc động trái tin bao thế hệ sau này. “Sóng” của Xuân Quỳnh – một nhà thơ nữ tài hoa – là một bài thơ như thế. * Mở bài 8: Không biết từ bao giờ những con sóng ào ạt từ sông, từ biển đã tròn lăn chạm vào trái tim của người nghệ sĩ. Nếu Nguyễn Khuyến thổi vào “gợn sóng biếc” hơi thở của một mùa thu trong veo, Huy Cận vẽ “sóng Tràng Giang” bằng những dòng thơ hiu hắt của một kẻ sĩ bất lực trước thời cuộc thì nữ sĩ Xuân Quỳnh đã khoác lên những con sóng bạc đầu tấm áo tình yêu nồng nàn, vĩnh cửu bằng một hồn thơ đắm say, cháy bỏng. Giữa lúc 43

cuộc kháng chiến chống Mỹ đang nước sôi lửa bỏng, vẻ đẹp dịu dàng, chung thủy trong tình yêu của người con gái được Xuân Quỳnh thể hiện trong bài thơ “Sóng” ngời sáng như một hòn ngọc báu của văn chương. 44

45


Like this book? You can publish your book online for free in a few minutes!
Create your own flipbook