MMUCJ 1
MỤC LỤC Danh mục Trang Phần I: Giới thiệu chung 3 - Xứ Đoài trong văn hoá Việt Nam 3 - Di tích lịch sử- văn hoá trên đất thị xã Sơn Tây 4 - Ẩm thực Sơn Tây 8 - Lễ hội truyền thống Sơn Tây 14 Phần III. Thành cổ Sơn Tây 16 - Thành cổ Sơn Tây xứng danh di tích quốc gia đặc biệt 18 - Thành cổ đá ong Sơn Tây trong hệ thống thành quách Triều Nguyễn 28 - Vọng cung di tích lịch sử văn hoá của Thành cổ Sơn Tây 32 - Kỳ đài (cột cờ) ở di tích Thành cổ Sơn Tây 36 - Thành cổ Sơn Tây bằng đá ong quý hiếm ở Việt Nam 39 - Phát triển du lịch Thành cổ Sơn Tây bền vững 43 Phần II. Di tích làng cổ ở Đường Lâm 49 - Chùa Mía 54 - Chùa Ón 59 - Đền Phùng Hưng 61 - Đền và lăng Ngô Quyền 64 - Đình Mông Phụ 67 - Nhà thờ Thám hoa Giang Văn Minh 70 - Nét độc đáo kiến trúc nhà cổ ở Đường Lâm 73 - Giếng cổ đá ong ở Đường Lâm 76 - Tìm hiểu nét đẹp trong trang phục của người nông dân xưa ở di tích 79 làng cổ Đường Lâm - Vài nét về văn hoá ẩm thực ở làng cổ Đường Lâm 83 Phần IV. Đền Và 88 - Đền Và không gian cổ tích 89 - Truyền thuyết về Tam vị Đức Thánh Tản Viên Sơn 92 - Đền Và di sản văn hoá của vùng Xứ Đoài 95 - Rừng Lim cây di sản Đền Và 104 - Lễ hội thắng Giêng Đền Và 107 - Lễ hội Đả ngư và Tiệc cá Đền Và rằm tháng chín 113 Tài liệu tham khảo 116 2
XỨ ĐOÀI TRONG VĂN HOÁ VIỆT NAM Xứ Đoài là một vùng đất rộng lớn bao bọc trung tâm châu thổ sông Hồng ở phía Tây, Tây bắc và phía Bắc. Nơi đây được định vị bởi sông Đà ở phía trên và sông Nhị Hà ở phía dưới, tả ngạn có ngọn núi Tam Đảo và hữu ngạn có ngọn núi Tản Viên hùng vĩ. Xứ Đoài còn có ngã ba Bạch Hạc, là nơi hợp thành của ba sông, đó là sông Đà, sông Thao và sông Lô. Mùa xuân về thăm xứ Đoài, tìm hiểu những nét văn hóa đặc trưng nơi đây, chúng ta sẽ cảm nhận được vẻ đẹp truyền thống của một vùng quê sơn thuỷ hữu tình, với những phong tục tập quán mang đậm bản sắc của người Việt cổ. Hơn thế, chúng ta còn được trải nghiệm \"một không gian văn hoá vật thể và phi vật thể\" hết sức độc đáo, đa dạng và hấp dẫn. Xứ Đoài vốn có truyền thống lịch sử, văn hiến lâu đời với cảnh vật hữu tình. Ao Vua, Thác Đa, hồ Ngải Sơn, Đồng Mô, Suối Hai, vườn quốc gia Ba Vì, núi Tản Viên, Thành cổ Sơn Tây, ấp xưa Đường Lâm, dãy núi Ba Vì âm vang giàn cồng chiêng, sông sâu dồn tiếng mái chèo khua nước… Xứ Đoài còn trầm tích một vùng văn hóa tâm linh Lạc Việt. Đền Và, chùa Mía, chùa Tây Phương, chùa Thầy, đình Tây Đằng, những truyền thuyết, huyền thoại Sơn Tinh Thủy Tinh, sự tích thần Tản Viên - một trong tứ vị thần bất tử Việt Nam, Bà Man Thiện - người mẹ anh hùng của Hai Bà Trưng, Bố Cái Đại Vương - vua lớn Phùng Hưng… với những bài văn tế thần, lễ nghi cúng bái, lễ hội đền chùa, các lễ hội về Thánh Tản: rước bài vị Thánh qua sông Hồng, mở tiệc cá gỏi làm bằng cá lăng, cá quất dâng lên Sơn Tinh, rước Thánh Tản về tế Đền Hùng… tràn khí thiêng địa linh, nhân kiệt. Khi tìm hiểu về người dân xứ Đoài, người ta thấy tính cách của người dân Xứ Đoài khá bộc trực và ngay thẳng, sống khẳng khái, khoan dung, nhường nhịn, ít háo danh. Người dân Xứ Đoài nổi tiếng hay làm và cũng rất khéo tay. Con trai xứ Đoài có tiếng là tài hoa, gan dạ và đôi chút thông minh. Con gái xứ Đoài chịu thương chịu khó, giỏi cách làm ăn, chiều chồng và khéo nuôi con. Người dân Xứ Đoài cư xử với tất cả mọi người không phân biệt 3
địa phương, bất cứ người ở đâu cũng đều được quan tâm giúp đỡ theo phương châm \"tứ hải giai huynh đệ\". Nói tới Xứ Đoài, người ta không chỉ nhắc tới quê hương của nhiều làng nghề nổi tiếng như gấm và lụa vân Vạn Phúc; lụa, the, lĩnh La Khê; tiện gỗ Nhị Khê; thợ nề thợ mộc làng Chàng; thợ đá ở Hoàng Xá... mà còn nhắc tới đất của những điệu dân ca, nghi lễ dân gian như hát Dô (Quốc Oai), chèo Tàu (Đan Phượng), múa sênh tiền (Phú Xuyên), trống quân (Thường Tín), phường rối Tế Tiêu, Thạch Xá, Chàng Sơn. Sôi nổi hơn nữa là hội hát Chèo Tàu ở bốn thôn của xã Tân Hội, huyện Đan Phượng, gắn với tục thờ cúng Hai Bà Trưng, Triệu Quang Phục, Lý Phật Tử... Nhiều đời nay, xứ Đoài với vùng lõi thị xã Sơn Tây còn là một vùng văn hóa đặc trưng với hệ thống di sản văn hóa vật thể, phi vật thể, lề lối sinh hoạt, ứng xử văn hóa mang nét riêng, rất độc đáo. Đó là hệ thống di tích nổi tiếng mà tên gọi đã gắn liền với tên đất và con người Sơn Tây như làng cổ Đường Lâm, đền Và, thành cổ Sơn Tây; chùa Mía - ngôi chùa có nhiều tượng phật cổ nhất miền Bắc, đền Phùng Hưng, đình Mông Phụ, rặng duối 1000 năm tuổi, hơn 200 ngôi nhà cổ bằng đá ong có niên đại từ 100 đến 400 năm…. Đặc biệt, Sơn Tây còn một số giếng cổ mang màu sắc huyền thoại xứ Đoài mà ngày nay nhân dân vẫn lấy nước để sinh hoạt như giếng Chân Voi (phường Quang Trung), giếng Ngõ Bắc, Ngọc Kiên (xã Cổ Đông), giếng Đà Hang (xã Thanh Mỹ), giếng xóm Chim, xóm Sải, xóm Hè, giếng sữa Chuông Sa (xã Đường Lâm). Có thể nói xứ Đoài là bức tranh thu nhỏ của văn hoá Việt Nam, nhưng lại chứa đựng những nét đặc sắc riêng có không thấy ở bất cứ nơi đâu. Mỗi khi nhắc tới Xứ Đoài người ta cảm thấy bịn rịn với những nét xưa, để mỗi người thêm yêu và có trách nhiệm nhiều hơn với văn hóa của vùng đất mà mình đã và đang sống. Chính điều này làm cho văn hoá Xứ Đoài thêm đậm đà bản sắc và tồn tại mãi với thời gian. DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HOÁ TRÊN ĐẤT THỊ XÃ SƠN TÂY Sơn Tây là một trong “tứ trấn” của Thăng Long - Hà Nội xưa: Bắc (trấn Kinh Bắc), Nam (trấn Sơn Nam- Sơn Nam Thượng), Đông (trấn Hải Dương), Đoài (trấn Sơn Tây). Theo những ghi chép đầu thế kỷ XIX, thì trấn Sơn Tây là vùng đất rộng lớn, với 5 phủ, 24 huyện, 195 tổng, 1269 xã, thôn, trang, phố, giáp, phường, vạn, sách, sở, châui. Tên Sơn Tây có từ rất sớm, năm Quang 4
Thuận thứ 10 đời vua Lê Thánh Tông (1469), định bản đồ cả nước, lập 12 đạo thừa tuyên, trong đó có thừa tuyên Sơn Tây. Tên ấy, đất ấy duy trì mãi, với tư cách đơn vị hành chính “trực thuộc trung ương”, từ đạo sang trấn, rồi từ năm 1831 là tỉnh, cho đến khi tỉnh Hà Tây được thành lập vào năm 1965, thì tên Sơn Tây thành tên đơn vị hành chính cấp huyện “thuộc tỉnh”, tức thị xã Sơn Tây. Sau một thời gian ngắn ngủi là thành phố Sơn Tây thuộc tỉnh Hà Tây (năm 2007), rồi lại trở lại là thị xã Sơn Tây khi tỉnh Hà Tây sáp nhập vào Hà Nội (năm 2008). Thế là “xứ Đoài” - Sơn Tây về mặt địa danh, tên gọi này nay gói gọn ở một đơn vị hành chính cấp huyện. Nhưng “xứ Đoài” - Sơn Tây về văn hoá thì vẫn còn, dù cũng đã biến đổi nhiều. Ấy là khi một phần lớn từng bước “hội nhập” vào Hà Nội, vào với “văn hoá Thăng Long”, thành một “lớp” trong các không gian lịch sử - văn hoá Thăng Long - Hà Nội. Thị xã Sơn Tây thuộc thành phố Hà Nội ngày nay, với diện tích hơn 11.742 ha, dân số 114.600 người (2016), bao gồm 15 đơn vị hành chính cấp xã (9 phường, 6 xã). Nhưng Thị xã Sơn Tây là thế nào trong văn hoá xứ Đoài? Vùng đất Sơn Tây xưa hay Thị xã Sơn Tây ngày nay “chính là nơi cốt lõi, là địa bàn chính của xứ Đoài, và chính hòn non Tản và dòng Đà Giang ấy đã tạo nên một xứ Đoài đặc trưng cho văn hoá Việt Nam nói chung và văn hoá tứ trấn của Hà Nội hôm nay nói riêng”. Theo kiểm kê của Sở Văn hoá và Thể thao Hà Nội, tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2015, toàn thành phố có 5.922 di tích, trong đó có 2.435 di tích được xếp hạng (1 di tích Di sản văn hoá thế giới, 11 Di tích cấp Quốc gia đặc biệt, 1.182 di tích cấp Quốc gia, 1.202 di tích cấp Thành phố). Các con số này cho thấy một trữ lượng văn hoá vật thể hàng đầu cả nước của Hà Nội. Những huyện có nhiều di tích: Thường Tín (440 di tích), Ứng Hoà (433 di tích), Ba Vì (394 di tích), Chương Mỹ (374 di tích), Phú Xuyên (345 di tích), Sóc Sơn (341 di tích) … Những quân huyện có ít di tích hơn: Thanh Xuân (29 di tích), Ba Đình (47 di tích), Cầu Giấy (49 di tích), Hà Bà Trưng (51 di tích), Hoà Kiếm (66 di tích). Thị xã Sơn Tây có có 244 di tích, trong đó có 69 di tích được xếp hạng (15 di tích cấp Quốc gia, 54 di tích cấp Thành phố), 175 di tích chưa xếp hạng (đến thời điểm hiện tại, số di tích cấp Quốc gia tăng lên 16 và di tích cấp Thành phố tăng lên 59). Về số lượng, thị xã Sơn Tây thuộc nhóm trung bình, nhưng tính bình quân trên đơn vị phường, xã thì lại thuộc nhóm cao, đặc biệt, đây lại là thị xã, có mức độ đô thị hoá khá cao, nhiều phường nay trước kia vốn chỉ là một xã. Với 244 di tích, trung bình mỗi xã/phường của thị xã Sơn Tây có hơn 16,27 di tích. Con số này cao hơn so với chính các quận huyện có số lượng di tích nhiều 5
nhất. Cụ thể, huyện Thường Tín: 15,17 di tích/đơn vị, huyện Ứng Hoà: 14,93 di tích/đơn vị, huyện Sóc Sơn: 13,11 di tích/đơn vị… So với các huyện “xứ Đoài”, mật độ di tích cao của thị xã Sơn Tây cũng thấy rất rõ: huyện Ba Vì: 10,61 di tích/đơn vị, huyện Chương Mỹ: 12,34 di tích/đơn vị, huyện Phú Xuyên: 12,32 đơn vị… Có thể thấy, thị xã Sơn Tây nổi bật của xứ Đoài nói riêng và của cả Hà Nội nói chung. Trong số các di tích được xếp hạng, thị xã Sơn Tây có nhiều di tích được xếp hạng cấp Quốc gia. Đặc biệt, trong số đó có những di tích được xếp hạng từ rất sớm. Chùa Mía (Đường Lâm), đền Phùng Hưng (Đường Lâm), đền là lăng Ngô Quyền (Đường Lâm), Đền Và (Trung Hưng) được xếp hạng cấp Quốc gia ngay từ năm 1964… Di tích xếp hạng trên địa bàn thị xã Sơn Tây (số liệu năm 2015) TT Di tích Địa điểm Xếp hạng Ghi chú 1 Đình Cổ Liễn Cổ Đông Cấp Thành phố 2 Đình Ngõ Bắc Cổ Đông Cấp Thành phố 3 Đình Thiên Mã Cổ Đông Cấp Thành phố 4 Đình Trong Cổ Đông Cấp Thành phố 5 Đình Ngoài Cổ Đông Cấp Thành phố 6 Đình Ngọc Kiên Cổ Đông Cấp Thành phố 7 Đền Măng Sơn Cổ Đông Cấp Thành phố 8 Đình La Gián Cổ Đông Cấp Thành phố 9 Chùa Ngọc Kiên Cổ Đông Cấp Thành phố 10 Chùa Cổ Liễn Cổ Đông Cấp Thành phố 11 Chùa La Gián Cổ Đông Cấp Thành phố 12 Chùa Ngõ Bắc Cổ Đông Cấp Thành phố 15 Đình Mông Phụ Đường Lâm Cấp Quốc gia 16 Đình Đoài Giáp Đường Lâm Cấp Quốc gia 13 Đền Phùng Hưng Đường Lâm Cấp Quốc gia 14 Đền và lăng Ngô Quyền Đường Lâm Cấp Quốc gia 17 Chùa Mía Đường Lâm Cấp Quốc gia 18 Nhà thờ Giang Văn Minh Đường Lâm Cấp Quốc gia 19 Làng cổ Đường Lâm Đường Lâm Cấp Quốc gia 20 Đình Cam Thịnh Đường Lâm Cấp Thành phố 21 Văn miếu Sơn Tây Đường Lâm Cấp Thành phố 22 Nhà cổ Đường Lâm Đường Lâm Cấp Thành phố 10 ngôi nhà 23 Cổng làng Mông Phụ Đường Lâm Cấp Thành phố 24 Đình Kim Đái Kim Sơn Cấp Thành phố 25 Chùa Kim Đái Kim Sơn Cấp Thành phố 6
26 Thành cổ Sơn Tây Lê Lợi Cấp Quốc gia 27 Chùa Phúc Hưng Ngô Quyền Cấp Thành phố 28 Đình Phú Nhi Phú Thịnh Cấp Thành phố 30 Đình Yên Thịnh Phú Thịnh Cấp Thành phố 21 Đình Hồng Hậu Phú Thịnh Cấp Thành phố 29 Đền Phú Nhi Phú Thịnh Cấp Thành phố 32 Chùa Phú Nhi Phú Thịnh Cấp Thành phố 33 Đình Thuần Nghệ Quang Trung Cấp Thành phố 34 Đình Tiền Túc Quang Trung Cấp Thành phố 35 Trường Võ bị Trần Quốc Quang Trung Cấp Thành phố Toản 36 Đình Sơn Trung Sơn Đông Cấp Thành phố 37 Đình Sơn Đông Sơn Đông Cấp Thành phố 38 Đình Thanh Vị Thanh Mỹ Cấp Quốc gia 39 Đình Thủ Trung Thanh Mỹ Cấp Thành phố 40 Đình Vị Thuỷ Thanh Mỹ Cấp Thành phố 41 Đền Khánh Sơn Thanh Mỹ Cấp Thành phố 42 Chùa Khánh Sơn Thanh Mỹ Cấp Thành phố 43 Chùa Đổ Thanh Mỹ Cấp Thành phố 44 Đền Và Trung Hưng Cấp Quốc gia 45 Chùa Trì Trung Hưng Cấp Quốc gia 46 Đình Văn Gia Trung Hưng Cấp Thành phố 47 Miếu Vân Gia Trung Hưng Cấp Thành phố 48 Đình Thanh Trì Trung Hưng Cấp Thành phố 49 Chùa Vân Gia Trung Hưng Cấp Thành phố 50 Chùa Mai Trai Trung Hưng Cấp Thành phố 51 Đình Trung Hậu Trung Sơn Trầm Cấp Thành phố 52 Đình Phù Sa Viên Sơn Cấp Quốc gia 53 Đình Tiền Huân Viên Sơn Cấp Thành phố 54 Miếu Tiền Huân Viên Sơn Cấp Thành phố 55 Đình Văn Khê Xuân Sơn Cấp Quốc gia 56 Đình Lễ Khê Xuân Sơn Cấp Thành phố 57 Đình Nhân Lý Xuân Sơn Cấp Thành phố Một đặc điểm là thị xã Sơn Tây sở hữu một số di tích - là những di sản văn hoá rất nổi bật của xứ Đoài xưa, Hà Nội nay nói riêng và cả nước nói chung, được biết đến không phải chỉ ở địa phương mà trong cả nước và quốc tế. 7
ẨM THỰC SƠN TÂY Nói đến Sơn Tây, người ta sẽ nghĩ ngay đến mảnh đất nổi tiếng với những di tích lịch sử văn hóa, kiến trúc nghệ thuật và danh lam thắng cảnh đẹp đến nao lòng. Sơn Tây còn là một điểm hẹn du lịch thú vị về văn hóa, nơi lưu giữ nhiều nét văn hóa đặc sắc của một vùng quê xứ Đoài mây trắng, trong đó phải kể đến văn hóa ẩm thực mang đậm truyền thống thôn quê. Ở vùng đất cổ xứ Đoài này, người ta có thể dễ dàng tìm thấy rất nhiều món quà gợi đến một thời xưa cũ. Đó là những món quà bình dị, nhưng mang trong nó cả những câu chuyện thú vị về tình yêu lứa đôi, tình yêu quê hương đất nước. Từ những nguyên liệu quen thuộc, dân dã, người nông dân đã làm nên những món ăn đậm đà hương vị, mang cả hồn quê thanh bình, khiến người đi xa không nguôi nỗi nhớ. Đến làng cổ ở Đường Lâm, người ta được nghe kể câu chuyện về nàng công chúa Mị Ê, người đã tìm ra cây mía và hướng dẫn người dân kéo mật, hộn đường. Từ đây, nhiều thức quà quê thú vị ra đời, nào là kẹo lạc, kẹo vừng; rồi thì kẹo bột, kẹo dồi, chè kho; lại còn chè lam, bánh gai, bánh mật... Nguyên liệu làm ra những thức quà ấy không quá cầu kỳ, chỉ chủ yếu gồm mạch nha, đường, bột nếp, thêm chút lạc, vừng, đỗ xanh, lá gai…, toàn những thứ sẵn có từ ruộng, vườn nhà. Thế mà ăn vào, bao nhiêu kỳ niệm ùa về, ta nhớ làm sao dáng mẹ những buổi chợ về, ta nhớ làm sao những giọt mồ hôi của cha rơi trên thửa ruộng. Mỗi chiếc kẹo như mang cả tuổi thơ ngọt ngào và dáng hình quê hương yêu dấu. Đến thăm quan di tích làng cổ ở Đường Lâm, du khách không chỉ được đắm mình trong không gian của một ngôi làng cổ yên bình với giếng nước, gốc đa, những ngôi đình cổ kính; mà còn được thưởng thức bữa cơm quê dân dã bên trong những ngôi nhà cổ hàng trăm năm tuổi. Ngon nhất ở đây là gà Mía, đây từng là sản vật tiến vua một thời. Gà Mía được miêu tả có vẻ đẹp phảng phất như con công, có “đầu công, mình cốc, cánh trai, ngắn quản, dài đùi, diều vịt, mã lĩnh”. Khi luộc chín, thịt gà Mía có màu trắng, mỡ vàng,da rất giòn, vị thịt ngọt đậm và chắc. Cơm quê còn có thịt quay đòn, món ăn được chế biến rất công phu, thường thì phải 5 – 6 tiếng mới xong. Mâm cơm còn có cá kho riềng thơm phức, củ cải khô xào lòng gà giòn sần sật, bát canh cải xanh mướt nấu cá rô đồng, và không thể không kể đến đĩa rau muống, bát cà dầm tương quê, đã ăn rồi, khi đi xa còn nhớ mãi. Ăn xong, uống bát nước chè xanh Cam Lâm, mới thấy như cả hồn quê đọng lại. 8
Còn đến với làng nghề bánh tẻ Phú Nhi (phường phú Thịnh), người ta lại được nghe một câu chuyện cảm động về tình yêu đôi lứa. Tình yêu ấy không đơm hoa kết trái, nhưng để lại cho đời một món ăn giản dị mà rất thơm ngon, đó là bánh tẻ. Bánh được làm bằng như gạo tẻ, có nhân là thịt lợn ba chỉ xào với mộc nhĩ, hành khô; được gói bên ngoài bởi lá dong, lá chuối. Thưởng thức chiếc bánh tẻ trắng tinh, nóng hổi trong một buổi sớm mai, mới hiểu sao thứ bánh chân quê ấy góp mặt vào danh sách những thức quà ngon nổi tiếng của vùng đất xứ Đoài. Giờ đây, đến với Sơn Tây, chúng ta còn phải nhắc đến mật ong, sản vật tinh túy của thiên nhiên giờ đây đã được người nông dân biến thành hàng hóa. Mật ong Kim Sơn, Thanh Mỹ ngọt thanh, có màu vàng óng, cho chất lượng tốt, ngày càng có uy tín trên thị trường. Ở các vùng trung du của Sơn Tây còn có một loại quả ngon nổi tiếng, ấy là mít. Ở Sơn Đông, Thanh Mỹ, Kim Sơn, hầu như gia đình nào cũng trồng một vài cây mít trong vườn nhà. Cái nắng gay gắt đặc trưng, cái khô cằn của vùng đất đá ong đã cho ra cho đời những trái mít thơm ngon, múi to đều, màu vàng ươm, ăn giòn ngọt mà ít nơi nào có được. Như mảnh đất này, như con người nơi đây, ẩm thực của Sơn Tây mộc mạc, dung dị mà giàu hương vị, đằm thắm, lắng sâu. Đó là phong vị làng quê; là tình yêu với những gì thân thuộc. Nó nhắc mỗi người nghĩ về miền quê nghèo của mình, nơi mình sinh ra và lớn lên với những nỗi nhớ với đầy! Nói đến Sơn Tây ta có thể nghĩ đến làng Việt cổ Đường Lâm với một quần thể di tích lịch sử văn hóa, kiến trúc nghệ thuật, vùng đất đá ong với những ngôi nhà cổ hàng trăm năm tuổi. Nhưng Sơn Tây còn là vùng đất nổi tiếng với nhiều đặc sản ẩm thực truyền thống mà mỗi khi có dịp qua đây, du khách nào cũng muốn được thưởng thức hoặc mua về làm quà cho người thân, bạn bè. Đó chính là bánh tẻ Phú Nhi (phường phú Thịnh), gà Mía, tương Đường Lâm, Thịt quay đòn, các loại kẹo lạc, kẹo dồi, chè lam, chè kho, bánh gai Đường Lâm (xã Đường Lâm), Mít ( xã Sơn Đông)… Bánh tẻ Phú Nhi (phường Phú Thịnh) Phú Nhi xưa còn gọi là Bần Nhi, một thôn cổ có từ cuối thế kỷ 19, nay thuộc phường Phú Thịnh, thị xã Sơn Tây, Hà Nội là làng nghề truyền thống bánh tẻ nổi tiếng trong vùng. Nguyên liệu làm bánh là những nguyên liệu gần gũi với cuộc sống người nông dân như gạo tẻ, thịt lợn, mộc nhĩ, hành… và lá dong, lá chuối để gói bánh. Để bánh trắng, thơm ngon người làng chọn thứ gạo ngon chứ không phải gạo thường. Trước hết, gạo đem ngâm nước cho nở, xay thành bột rồi đem ngâm nước khoảng 3-4 ngày vào mùa hè, 4-5 ngày vào mùa 9
đông. Trong thời gian ngâm phải thay nước hàng ngày, gạn bỏ nước cũ thay bằng nước mới, mỗi khi thay nước phải khuấy đều bột để bột không bị chua và nhão. Sau đó cho bột lên bếp quấy đều tay cho bột mềm, mịn, tránh vón cục, công đoạn này người ta gọi là \"ráo bột.\" Khâu ráo bột cực kỳ quan trọng trong quá trình làm bánh, bánh có ngon hay không là nhờ vào chất lượng bột được ráo. Phú Nhi có bí quyết riêng trong khâu ráo bột nên bánh tẻ ở đây có hương vị độc đáo. Tiếp đến là công đoạn làm nhân bánh. Nhân bánh tẻ làm đơn giản nhưng không thể làm qua loa, vì nhân là linh hồn của bánh. Thịt ba chỉ ngon băm nhỏ, hành khô bóc vỏ băm nhỏ, mộc nhĩ ngâm cho nở, thái chỉ. Tất cả trộn đều ướp gia vị vừa đủ, thêm chút hạt tiêu cho thơm. Sau khi hỗn hợp đã ngấm gia vị cho lên bếp xào chín. Khi công đoạn làm nhân bánh và ráo bột đã xong, tiến hành gói bánh. Người Phú Nhi thường dùng lá dong và lá chuối để gói. Lấy một lượng vừa phải thứ bột cô đặc đó đặt lên một hoặc hai tờ lá dong công đoạn này gọi là \"ra bột.\" Lấy hỗn hợp thịt đặt lên lớp bột và ấn sâu xuống để bột phủ lên thịt, thường là theo hình thuôn dài, cuốn lá dong ngoài bánh, lớp lá ngoài cùng là lớp lá chuối. Bánh được buộc lại bằng lạt hoặc dây chuối khô, sau đó đem hấp khoảng 30 phút là chín. Bánh ăn ngon nhất là khi vừa mới vớt ra. Bóc vỏ lá xanh, chiếc bánh trắng ngần hiển hiện, mùi thơm nhân thịt tỏa ra như chào mời thực khách. Bánh ăn nóng chấm với nước mắn ngon, thêm chút tiêu thì càng ngon hơn. Bánh tẻ là thứ quà quê chân chất mộc mạc, thứ bánh mà ai cũng có thể thưởng thức. Khi ăn, dùng con dao nhỏ cắt bánh thành từng miếng, xếp lên đĩa. Ăn một miếng để cảm nhận kết tinh của trời đất, độ giòn của vỏ bánh, vị đậm, béo của nhân, thơm mùi tiêu, hành. Bánh có thể thay bữa sáng, ăn chơi, ăn nhiều mà không bị ngán. Ngày nay, bánh tẻ Phú Nhi được phổ biến rộng rãi đến các xã, huyện khác, thậm chí trong nội thành Hà Nội cũng có thể dễ dàng mua được món quà quê dân dã này. Dù ít người biết đến sự tích của bánh và câu chuyện tình yêu buồn của chàng Phú và nàng Nhi nhưng bánh tẻ Phú Nhi thì ngày càng gần gũi và trở nên thân thiết với thực khách. Cơm quê làng cổ Đến thăm quan di tích làng cổ Đường Lâm du khách không chỉ được đắm mình trong không gian cảnh quan của một ngôi làng cổ truyền thống với những di tích lịch sử cổ kính, những lễ hội làng truyền thống, được nghe giai thoại về các vị anh hùng, danh nhân nổi tiếng nơi đây mà còn được thưởng thức những bữa cơm quê làng cổ thắm đượm nghĩa tình. Với những món ăn dân dã, những sản vật địa phương gắn liền với mảnh đất nơi đây như: Gà Mía, thịt quy đòn, tương Đường Lâm, cá kho riềng, củ cải khô xào lòng gà, ốc hấp lá gừng, chè 10
kho, bánh gai, rượu quê; được thưởng thức những chén chè xanh thơm mát với những thức quà quê dân dã cho chính người dân nơi đây làm ra. Tương Đường Lâm Đến Đường Lâm, bước vào những ngôi nhà cổ kính có độ tuổi hàng trăm năm chúng ta sẽ thấy ở hầu hết các gia đình đều có những chum tương nằm ngay ngắn ở một góc sân nhà. Dù chưa cần thưởng thức, chỉ nghe người dân làng cổ nói về thứ nước chấm tuyệt vời này là du khách sẽ khó có thể cầm lòng quay đi. Vào khoảng tháng Sáu, khi cái nắng chói chang của mùa hạ lên đến đỉnh điểm là thời điểm người làm tương ở Đường Lâm sẽ cho gạo vào xay, giã, sàng sẩy cho thật bóng bẩy. Sau đó, gạo nếp cái hoa vàng sẽ được ngâm kỹ, đãi sạch và đồ thành xôi. Xôi để nguội mới đem đi ủ mốc cho có màu tựa như màu vàng của hoa cải là màu “chuẩn” nhất của mốc tương. Đỗ tương cũng được người làm tương đem rang vàng thơm, xay cho vỡ hạt rồi sảy cho hết vỏ, bỏ vào nồi nấu kỹ và ngâm trong nước. Để có nước tương ngon, người làng Đường Lâm có bí quyết dùng nước giếng Giang (giếng nước đá ong ở gần nhà thờ Thám hoa Giang Văn Minh), bởi nước từ giếng ấy thường trong vắt và ngọt lừ. Có nước đỗ ngâm từ đậu tương rồi, người làm tương Đường Lâm sẽ cho dấm mốc vào trong chum, phơi giữa sân dưới nắng Hè tháng sáu cho thật nhuyễn. Đến một thời điểm hợp lý thì hòa nước đỗ vào để có được chum tương nơi góc sân, làm nên nét đặc trưng của ngôi làng cổ thuần Việt này. “Đặc sản tiến vua” gà Mía Đường Lâm xưa kia còn có tên là kẻ Mía, nên giống gà quý được nuôi ở đây thường được gọi theo tên làng là gà Mía. Gà Mía, một giống gà quý được người Đường Lâm dày công chăm bẵm và bảo tồn. Xưa kia gà Mía từng là sản vật tiến vua một thời. Đó là những chú gà được miêu tả có vẻ đẹp phảng phất như con công, thường được tả là ”đầu công, mình cốc, cánh trai, ngắn quản, dài đùi, diều vịt, mã lĩnh”… Gà Mía có đặc điểm là chân nhỏ, lông vàng. Khi luộc chín, thịt gà Mía có màu trắng, mỡ vàng,da rất giòn, vị thịt ngọt đậm và chắc nên được người tiêu dùng rất ưa chuộng. Để gà Mía cho chất lượng thịt thơm ngon, người dân Đường Lâm thường cho gà ăn chủ yếu là ngô, thóc và các loại rau củ. Với gà mái, người nuôi gà ở Đường Lâm thường cho ăn bổ sung thêm thóc ngâm để chất lượng trứng gà được thơm ngon. Còn đối với gà trống, ngay từ khi nở, người nuôi gà đã chọn những con có dáng đẹp nhất, trông khỏe nhất để nuôi riêng. Khoảng vài tháng sau, gà sẽ được đem thiến, nuôi đến Tết để làm đồ tế, lễ vật cúng giỗ. Trước đây, gà Mía là sản vật quý, thể hiện cho sự ăn nên làm ra, sung túc và đủ đầy trong mỗi gia đình, chỉ vào dịp Tết đến xuân về hay dịp hội làng, lễ lạt 11
gà mới được giết thịt, dâng lên tổ tiên. Giờ đây, gà Mía dù không còn hiếm như xưa nhưng vẫn là một trong những sản phẩm nông nghiệp cao cấp, được thị truờng ưa chuộng và được người dân làng cổ bảo tồn nguồn gen, phát triển đàn gà với số lượng lớn để đáp ứng nhu cầu thị trường. Thịt quay đòn Không phải tự nhiên mà món thịt quay đòn lại trở nên nổi tiếng và trở thành đặc sản nơi đây. Bởi khâu chế biến công phu của nó đã phần nào cho thấy được “giá trị” của món ăn. Chỉ với khoảng 1kg thịt heo ba chỉ nhưng phải mất gần 6 tiếng mới có được thành phẩm thơm ngon. Thịt quay đòn làm nức long thực khách bởi hương vị thơm ngon đậm đà không lẫn vào đâu được. Thịt quay chin khi bì heo phồng lên, giòn, dung xiên tre đâm vào thấy nổ lốp bốp là được, thịt heo mềm không ngấy. Khi ăn thịt quay đòn được thái lát vừa ăn, kèm với nước tương hoặc nước mắm chanh đều tuyệt vời. Các loại kẹo lạc, kẹo dồi, chè lam, chè kho, bánh gai Đường Lâm Kẹo dồi –thức quà quê dân dã này từ lâu đã vắng bóng trên các sạp hàng nơi phố thị. Tuy nhiên kẹo dồi, kẹo lạc, kẹo vừng… vẫn được người dân làng cổ Đường lâm nuôi dưỡng trở thành món quà thú vị mà mỗi du khách từng ăn đều lưu luyến. Nguyên liệu làm kẹo không quá cầu kỳ, chỉ gồm mạch nha, đường và lạc, vừng. Tuy nhiên khâu làm kẹo mới quan trọng và đòi hỏi người làm phải có sức khỏe tốt để \"đánh\" kẹo. Mạch nha và đường được đun trên bếp lửa cho đến khi có độ keo nhất định. Người chế biến sẽ dùng tay quật vào một chiếc cột cho đến khi dẻo quẹo để có thể nặn thành khối hình trụ và có màu trắng đục. Vỏ kẹo được dàn mỏng, cho lớp nhân gồm lạc đã nhào đường vào sau đó cuộn tròn, giống như miếng dồi. Công đoạn làm kẹo đòi hỏi ít nhất 2 người. Trong đó, một người kéo vỏ kẹo, người kia sẽ nhanh tay cắt thành từng đoạn khoảng 3 cm. Nếu không nhanh, kẹo nguội sẽ bị giòn và vỡ. Kẹo sau khi chế biến xong sẽ được lăn qua lớp bột nếp trắng tạo thành một lớp phủ mịn màng. Khi ăn bạn sẽ cảm nhận vị bùi, ngậy và thơm. Mít Sơn Đông Đến với xã Sơn Đông (thị xã Sơn Tây), chúng ta sẽ được thưởng thức những đặc sản từ nông nghiệp của vùng đất nơi đây như Mít, rau Sắn, dứa… Trong đó không thể không nhắc đến mít. Ở vùng quê này, hầu như gia đình nào cũng trồng một vài cây mít trong vườn nhà. Loại quả này được mỗi nhà chọn để cúng gia tiên và dâng lên Thành hoàng làng. Với cái nắng gay gắt đặc trưng của mảnh đất Sơn Tây, cái khô cằn của vùng đất đá ong đã cho ra cho đời những trái mít thơm ngon, múi to đều, màu vàng óng, ăn giòn ngọt mà ít nơi nào có được. Vì vậy trong những năm vừa qua, mít Sơn Đông đã khiến nhiều thương lái từ 12
các nơi về đây thu mua mang đi bán ở khắp mọi miền đất nước. Tháng 8/2018 vừa qua, lần đầu tiên xã Sơn Đông tổ chức hội thi “Mít ngon, an toàn”, thu hút hàng trăm gia đình của địa phương mang mít đến dự thi và trở thành hoạt động mang nhiều ý nghĩa, tạo không khí vui tươi phấn khởi trong nhân dân và tạo ra những cơ hội mới cho thương hiệu mít Sơn Đông. Ngoài ra đến với Sơn Tây chúng ta còn được thưởng thức nhiều loại đặc sản của nơi đây như kẹo lạc, kẹo vừng, kẹo bột, chè kho, bánh gai, chè lam (Đường Lâm), mật ong Kim Sơn.… 13
LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG SƠN TÂY Trải qua lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước dân tộc ta đã sáng tạo ra những giá trị di sản văn hóa đặc sắc mà đến nay vẫn còn được bảo tồn, gìn giữ trong cộng đồng. Đó là những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể Gắn liền với các di tích lịch sử văn hóa đó là những lễ hội lưu dấu các giá trị truyền thống, phong tục tập quán tín ngưỡng của quê hương. Mỗi một địa phương có lễ hội riêng, với nghi lễ, tập tục riêng mà khi nhắc đến tên lễ hội ấy thì chúng ta hẳn cũng phần nào đoán được là lễ hội tưởng nhớ ai. Hàng năm, cứ vào dịp tết đến xuân về. Trong không khí tưng bừng, phấn khởi của một năm mới mỗi người dân Việt nói chung và người dân Sơn Tây nói riêng lại nô nức đi chảy hội. Khách hành hương từ ở khắp mọi nơi nườm nượp đổ về vừa để cầu mong một năm mới tốt lành, vừa để được đắm mình trong không khí linh thiêng của lễ hội. Ở thị xã Sơn Tây cũng vậy. Là vùng đất giàu truyền thống văn hóa, Sơn Tây hiện còn bảo tồn 65 lễ hội truyền thống. Các lễ hội được tổ chức là để tưởng nhớ đến thành hoàng làng đã có công với dân, với nước. Thời gian lễ hội diễn ra lễ hội bắt đầu từ tháng giêng đến tháng 12 âm lịch hàng năm, song tháng giêng là tháng có mật độ diễn ra lễ hội nhiều và thu hút đông người đến dự hội nhất. Trong số đó tiêu biểu nhất là lễ hội đền Và. Đền Và hay còn gọi là “Đông Cung” thuộc thôn Vân Gia, phường Trung Hưng, thị xã Sơn Tây là một trong tứ cung thờ Đức Thánh Tản, vị thần đứng đầu trong hàng “tứ bất tử” của Việt Nam. Theo phong tục cổ truyền, cứ xuân, thu nhị kỳ vào 15 tháng giêng và 15/9 âm lịch hàng năm. Cứ 03 năm một lần, vào những năm Tý - Ngọ - Mão - Dậu, đền Và mở hội chính có nghi lễ rước Đức Thánh Tản qua sông Hồng sang đền Ngự Dội làm lễ mộc dục. Dân gian có câu “Lễ quanh năm không bằng rằm tháng giêng”, lễ hội đền Và diễn ra từ ngày 14 đến ngày 17 tháng giêng, lễ hội có liên quan đến 2 tỉnh thành Hà Nội và Vĩnh Phúc với mật độ người trẩy hội lớn. Nơi đây cũng đã và đang trở thành một điểm tham quan thu hút đông đảo du khách, nằm trong tuyến tham quan du lịch trọng điểm của thị xã Sơn Tây. Cách đền Và không xã là di tích Làng cổ ở Đường Lâm. Nơi hàng năm vào ngày 8 tháng giêng và 14 tháng 8 âm lịch diễn ra lễ giỗ vua Phùng Hưng Và Vua Ngô Quyền. Đã từ lâu lễ giỗ hai Vua đã trở thành ngày hội không chỉ của 14
người dân Đường Lâm quê hương Ngài mà là ngày hội của cả vùng. Xuân, thu nhị kỳ cứ đến ngày giỗ của hai vua là bà con lại nô nức đến với đền thờ ngài để làm lễ tế, tham dự những trò chơi dân gian truyền thống, nhìn ngắm rặng duối cổ thụ đã được công nhận là cây di sản Việt Nam mà sự tích đã gắn liền với hai Vua và được thưởng thức những đặc sản truyền thống đặc trưng nơi đây mà không đâu có được. Xa hơn nữa là đền Măng Sơn, hay còn gọi là Nam cung điện thuộc xã Sơn Đông thị xã Sơn Tây. Ngôi đền được dân làng lập nên để tưởng nhớ Đức Thánh Tản Viên Sơn khi đi qua vùng đất này đã dừng lại dạy dân nghề săn bắt. Hàng năm cứ đến ngày mùng 7 tháng giêng nhân dân trong vùng lại rủ nhau đi trẩy hội đền Măng. Trong lễ hội có nghi lễ nhân dân hai làng Sơn Đông và Sơn Trung rước kiệu của làng mình từ đình làng lên đền Măng làm lễ tế thánh. Ngoài ra đến với thị xã Sơn Tây, du khách còn được tham dự lễ hội đấu vật chùa Ón hay còn gọi là Ón vật. Ngôi chùa không sư, không tượng, có tiếng linh thiêng thờ thần Nông nghiệp. Ngôi chùa được xây dựng giữa một cánh đồng bằng phẳng, nằm cạnh con đường dẫn vào làng Mông Phụ, xã Đường Lâm. Hàng năm cứ vào ngày 3/3 âm lịch hàng năm sau khi làm lễ tế thổ thần, tại sân Chùa Ón lại diễn ra hội đấu vật thu hút đông đảo nhân dân trong vùng và du khách thập phương tham gia, cổ vũ. Có thể nói lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hoá cộng đồng đã có từ rất lâu đời và có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Đó là loại hình văn hoá mang tính chất tổng hợp phản ánh nhiều mặt của đời sống văn hoá vật chất và tinh thần. Với sự tham gia đóng góp của nhiều tầng lớp nhân dân, lễ hội còn là môi trường sản sinh, lưu truyền và bảo tồn nhiều giá trị văn hoá truyền thống của nhiều thời kỳ lịch sử để lại cho ngày nay và mai sau. Đến với lễ hội không chỉ là để vui chơi giải trí mà nó còn là để cho nhân dân ta thể hiện mong ước hay nhớ ơn tổ tiên ông bà ta, thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”, ý thức tự hào dân tộc được khơi dậy, khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố, tự do tín ngưỡng của nhân dân được đảm bảo. 15
Sơn Tây xưa là một trong “tứ trấn” nằm phía Tây Kinh đô Thăng Long, gọi là trấn Đoài, là vùng “Địa linh nhân kiệt”, có bề dày truyền thống lịch sử văn hóa đặc sắc, giàu truyền thống yêu nước và cách mạng, chứa đựng nhiều dấu tích phản ánh tinh thần đấu tranh bất khuất, trung dũng, kiên cường của nhân dân trong lịch sử chống giặc ngoại xâm. Do địa bàn sinh tụ, nên suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, Sơn Tây luôn có vị trí chiến lược quan trọng về quân sự, là một trong những lũy thép bảo vệ Kinh thành Thăng Long xưa cũng như Thủ đô Hà Nội ngày nay. Di tích quốc gia Thành cổ Sơn Tây cùng với hệ thống di tích khá dày đặc của vùng đất cổ Sơn Tây đã tạo nên những giá trị đặc sắc của mảnh đất xứ Đoài. 16
Thành được xây dựng vào năm 1822 dưới thời vua Minh Mạng triều Nguyễn, là tòa thành quân sự bằng đá ong độc đáo nhất Việt Nam. Trải qua 200 năm, đến nay Thành cổ Sơn Tây vẫn được bảo tồn và lưu giữ nhiều giá trị di sản văn hóa, lịch sử, kiến trúc, quân sự, khoa học… là nguồn \"tài nguyên\" vô giá cho sự phát triển và đặc trưng của vùng đất cổ Sơn Tây, là một trong những điểm đến quen thuộc với du khách. Vọng Lâu Thành cổ Sơn Tây hội tụ đủ các giá trị di tích quốc gia đặc biệt; Thành cổ đá ong Sơn Tây trong hệ thống trấn thành triều Nguyễn; Vọng cung Thành cổ Sơn Tây; Kỳ đài ở di tích Thành cổ Sơn Tây; Thành cổ Sơn Tây xứng đáng với danh hiệu Di tích Quốc gia đặc biệt; Thành cổ đá ong Sơn Tây- giá trị kiến trúc tiêu biểu trong hệ thống thành cổ Việt Nam. 17
Toàn cảnh Thành cổ Thị xã Sơn Tây xưa được mệnh danh là trung tâm của vùng xứ Đoài. Vị trí “trung tâm” thường được chính quyền phong kiến đương thời lựa chọn để xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng, bổ nhiệm bộ máy quan lại các cấp thuộc các lĩnh vực để thay mặt triều đình cai quản và điều hành hoạt động của cả vùng. Triều đình nhà Nguyễn ở Huế đã cho xây dựng tòa thành quân sự bằng đá ong rất kiên cố, vững chãi, từ việc xây đắp thành đến việc đặt trụ sở cai trị làm việc của bộ máy chính quyền phong kiến đến quá trình xâm lược, tấn công hạ thành, đặt ách cai trị của thực dân Pháp tại vùng này thì Thành cổ Sơn Tây đã khẳng định vị trí trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế của vùng, thuận lợi về giao thông thủy bộ, giao thương, trao đổi buôn bán giữa Sơn Tây xứ Đoài với các vùng, tỉnh miền xuôi, miền ngược. Tòa thành đá ong độc đáo này đã tồn tại được gần 2 thế kỷ thông qua những sử liệu, hay tận mắt chứng kiến các dấu tích kiến trúc còn lại, cùng những cây cổ thụ già tuổi, thân nới rộng mấy người ôm cùng hàng ngàn sinh vật gồm cả động thực vật. Thực vật từ nhỏ tới lớn hiện hữu cùng hiện vật 18
liên quan đã được các nhà nghiên cứu khảo cổ tìm thấy. Điều này đã khẳng định Thành cổ Sơn Tây là nơi hội tụ, ẩn chứa rất nhiều giá trị văn hóa, lịch sử, kiến trúc niên đại, môi trường sinh thái quý báu suốt thời gian dài lịch sử. Sự tồn tại bền vững của tòa thành có hình tứ giác rộng lớn nằm ở giữa trung tâm của thị xã này có sự quan tâm đầu tư lớn của Nhà nước sự ủng hộ chung sức của nhân dân. Giá trị về vị trí, địa điểm Có thể khẳng định rằng việc triều đình nhà Nguyễn cho chọn vị trí để xây dựng Thành Sơn Tây thời bấy giờ là quá trình bàn bạc xem xét kỹ lưỡng dựa trên các yếu tố như: vị trí trung tâm của vùng, thuận lợi về giao thông, phòng thủ, quá trình di chuyển, có vai trò tiềm năng để phát triển văn hóa, là trung tâm kinh tế, 19 Sơn Tây về đêm
chính trị, hậu cần lớn, có nhiều yếu tố phong thủy phù hợp… Trước đó, triều đình đã cho đắp thành nhưng ở các vị trí không thích hợp cho việc xây dựng vai trò trung tâm cai trị (lần 1 ở La Phẩm - Ba Vì), lần 2 ở Mông Phụ (Đường Lâm). Chính vị trí ở đất Minh Nghĩa (Mai Trai – Thuần Nghệ) thời đó đã được lựa chọn và công cuộc đắp thành diễn ra thành công... Giá trị về niên đại Với gần 200 năm tồn tại, nơi đây chứng kiến những biến động lớn của vùng, gắn với sự phát triển của vùng trung tâm của xứ Đoài – nơi có tiềm năng lớn về phát triển kinh tế, phòng thủ quân sự, giao thương buôn bán giữa các vùng miền. 20
Dựa vào niên đại ở Thành cổ, các nhà nghiên cứu và du khách có thể nghiên cứu, hồi tưởng về sự đa dạng, phong phú của nền văn hóa xứ Đoài, vai trò trung tâm của thị xã Sơn Tây xưa. Từ đây có thể đặt ra nhiều căn cứ và đưa ra nhiều giả thuyết, suy đoán logic để từng bước khẳng định: Sơn Tây là vùng đất địa linh nhân kiệt, tâm linh tín ngưỡng, trục giao thông thủy bộ thuận lợi, vị trí án ngữ phòng thủ quan trọng phía Tây thành Thăng Long (có thể kể ra hệ thống giá trị văn hóa vật thể, tâm linh tín ngưỡng trên địa bàn như; Đông Cung (Đền Và), Làng cổ Đường Lâm với chùa Mía (Sùng Nghiêm Tự), ấp hai vua: ”Cam Lâm”; Nhà thờ Thám hoa Giang Văn Minh; Văn Miếu Sơn Tây, các danh nhân khoa bảng, bậc hiền tài nho học khác. Cũng dựa vào niên đại gần 2 thế kỷ này của tòa thành đá ong độc đáo này, chúng ta có cơ sở để tôn vinh tên Sơn Tây – xứ Đoài. Người Sơn Tây trải qua bao thế hệ rất tự hào rằng ngoài việc được khoác trên mình truyền thống văn hiến hào hùng, vẻ vang gắn với lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta nói chung còn có cuộc sống lao động, sản xuất gắn với những món quà tặng hữu hình vô giá mà thiên nhiên, tạo hóa đã ban tặng như vùng đất gò đồi bán sơn địa, sông Hồng, sông Tích, hồ Đồng Mô, những sản vật, văn hóa phi vật thể truyền thống. Chính vì thế, Thánh Tản được tôn thờ ở nhiều nơi vùng phía Tây kinh thành Thăng Long rộng lớn như Đông Cung (Đền Và) – là một Cung lớn nhất trong tứ Cung, đã được tôn thờ và tồn tại hàng ngàn năm nay, luôn có sức sống lan tỏa và ý nghĩa to lớn trong tín ngưỡng tâm linh của người Việt Nam nói chung, Sơn Tây xứ Đoài nói riêng. Xung quanh gắn với sự phát triển kinh tế, giao thông, trao đổi hàng hóa. Theo một số tư liệu đã có 16 khu phố được xây dựng, mỗi phố gắn với việc sản xuất một vài mặt hàng thủ công, ẩm thực, mỹ nghệ như: phố Hữu Mỹ, phố Hàng Đàn (phố Đinh Tiên Hoàng ngày nay), phố Hàng Nón (nay là phố Phùng Hưng), Hàng Sáo (phố Phạm Hồng Thái) ... 21
Giá trị môi trường sinh thái Với diện tích mặt đất = 16 ha, mặt nước hào có chiều dài 1795m = 4 ha, Thành cổ Sơn Tây nhìn từ trên cao có hình tứ giác với 4 cổng quay ra 4 hướng: Đông – Tây – Nam – Bắc, hai cổng vòm bắc qua hào. Trải qua quá trình tồn tại gần 2 thế kỷ, đến nay, ngoài việc là di sản văn hóa (đã được Nhà nước xếp hạng là di tích Quốc gia vào năm 1994) thì Thành cổ Sơn Tây còn có vai trò như một “lá phổi xanh khổng lồ” nằm giữa lòng đô thị, một chiếc ô rộng lớn bốn mùa xanh tươi. Những tán lá cung cấp một lượng oxy vô cùng to lớn, một chiếc máy điều hòa cân bằng không khí ở giữa bốn bề phố xá nhộn nhịp và cuộc sống của các khu dân cư. Ngoài ra, lúc hạ thành, thực dân Pháp đã khoan thăm dò và tìm ra một mạch nước đá ong rất trong và có trữ lượng lớn trong Thành cổ. Người Pháp đã cho xây dựng trạm bơm nước tại đây để cấp nước sinh hoạt cho các khu dân cư xung quanh. Nguồn nước đạt độ tinh khiết cao. Giá trị về kiến trúc thông qua một số tư liệu, thông tin còn lưu giữ Hầu hết các hạng mục công trình đã từng được triều đình cho xây dựng và sử dụng vào các mục đích khác nhau trong Thành cổ đã tồn tại một thời gian dài, chúng đã bị phá hủy bởi các cuộc chiến tranh như: Vọng Cung, Đoan Môn, Kỳ đài, kho hậu cần, trại giam, nhà đốc học, đề ngữ, quân y, các bức tường thành, chòi canh gác. Hiện nay, chỉ còn 2 cổng ở Cổng tam quan thành (Đoan môn) phía Tây và phía Nam trên trán cổng vẫn còn bia đá khắc chữ Hán Nôm. Các công trình trong Thành cổ hiện tại đã được phục dựng, tôn tạo lại theo từng giai đoạn khác nhau như: khuôn viên nhà Vọng Cung, tòa Vọng Cung chồng diềm 8 mái, Đoan môn, Kỳ đài, bức tường thành dài hơn 100m, cao hơn 3m, bức tường bằng đá ong được xếp quanh thành, bức tường đá bao quanh hào bên ngoài, cổng phía bắc, dự án chống đỡ 2 cổng cũ (Tây môn, Nam môn). Qua nghiên cứu các tư liệu cổ còn lưu giữ ở các nơi thì các công trình đã tồn tại trong Thành cổ Sơn Tây hội tụ những yếu tố kiến trúc quý giá (Tòa Vọng Cung đã được toàn quyền Đông Dương xếp hạng là di tích vào năm 1924). Xưa kia, các công trình đó đa phần được sử dụng những loại vật liệu truyền thống, 22
đặc trưng của vùng và của khu vực Bắc Bộ như: đá ong, các loại gỗ quý, xây dựng thi công đa phần bằng thủ công, kết cấu liên hoàn, thuận tiện trong việc sử dụng, phục vụ tốt cho các điều kiện làm việc, điều hành, thực hiện các công việc của triều đình giao cho các vị quan lại tỉnh tại thành Sơn Tây này, cũng như cất giữ tài liệu, vật chất. Lúc xây đắp thành, triều đình đã cho áp dụng lối xây thành theo mẫu thiết kế thành ở Châu Âu gọi là kiến trúc Vauban. Giá trị về tính nguyên vẹn bảo đảm không gian, cảnh quan Có thể khẳng định rằng hiếm có một tòa thành nào trên đất nước ta còn tồn tại mà bảo đảm được tính nguyện vẹn về không gian tuyệt đối như Thành cổ Sơn Tây (không có bất cứ sự tồn tại sinh sống của dân cư, công trình phúc lợi công cộng, công trình quân sự, quốc phòng an ninh, bảo mật). Trải qua quãng thời gian dài gần 2 thế kỷ (1822- 2022), Thành cổ vẫn bảo toàn được tất cả không gian, diện tích của mình, đó là một tiêu chí rất thuận lợi, cơ bản để lãnh đạo chính quyền tiến hành các giai đoạn tu bổ, tôn tạo. Hiện tại, Thành có các hướng tiếp giáp với sự quản lý về hành chính dân cư của 3 phường nội thị thị xã là: phía Bắc giáp phường Lê Lợi, phía Đông Nam giáp phường Quang Trung, phía Tây giáp phường Ngô Quyền. Đối với các di sản nói chung trên đất nước ta, nếu địa điểm ấy có diện tích rộng và may mắn còn được tồn tại đến ngày nay thì tính toàn vẹn của nó thường không được tuyệt đối, bị chi phối, tác động bởi các khu dân sinh hay các công trình phúc lợi. 23
Cầu cửa Bắc ngày nay Thành cổ là địa điểm quý giá để xây dựng thành một điểm du lịch thu hút đông đảo du khách tham quan Thành cổ là một điểm du lịch quan trọng trong tuyến du lịch trọng điểm của ngành du lịch thị xã, nơi tổ chức các hoạt động, sự kiện chính trị, kinh tế, văn hóa. Du khách đến thăm Thành cổ thường sử dụng hai hướng bộ hành. Hướng thứ nhất đi từ cổng phía Bắc sang cổng phía Nam, hướng thứ hai đi từ cổng phía Nam (còn gọi là cửa Tiền) sang phía Bắc. Từ Bắc đến Nam, du khách sẽ được tham quan các địa điểm như: khu trưng bày một số tài liệu, hiện vật, cổng phía Bắc thành đã được tu bổ, khu trưng bày 3 chiếc máy bay quân sự được khánh thành vào năm 2014, tòa nhà Vọng Cung (đi từ phía sau vòng ra phía trước), Đoan môn, Kỳ đài, giếng ngọc, cổng phía Nam (cửa Tiền). Hướng thứ hai đi từ cửa Tiền (cửa phía Nam) đến cửa Hậu (cửa phía Bắc), du khách được tham quan cửa Tiền cổ kính được bao bọc bởi cụm cây đề xanh tốt bốn mùa, 2 giếng ngọc, sân cột cờ, khuôn viên, đoan môn, Vọng Cung rồi di chuyển 24
dần ra cửa Bắc tham quan khu nhà trưng bày một số tài liệu, hiện vật liên quan đến Thành cổ, khu trưng bày máy bay quân sự… Ngoài trụ chính từ của tiên (nam môn) hứng tư của tiền (Nam môn) sang cửa hậu (Bắc môn), hệ thống đường xung quanh bờ Thành dẫn du khách được hòa mình vào một không gian tươi mát, không khí vô cùng dễ chịu của hàng ngàn loài sinh vật, cỏ cây, hoa lá… như đang vẫy chào, mở rộng tấm lòng hiếu khách. Khai thác, phát triển du lịch ở Thành cổ Sơn Tây đã luôn được thị xã quan tâm đầu tư, xúc tiến du lịch ở Thành cổ đã đạt được một số kết quả. Tuy nhiên để khai thác một cách có hiệu quả chiều sâu và bền vững hơn, rất cần những giải pháp chuyên nghiệp, trọng tâm hơn nữa, kể cả huy động sự tham gia của nguồn vốn xã hội hóa. Thành cổ địa điểm rất lý tưởng, thích hợp để tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao, kinh tế, chính trị của thị xã tại đây mỗi khi tổ chức luôn nhận được sự tham gia ủng hộ của đông đảo nhân dân xa gần như: triển lãm sinh vật cảnh, hội thi câu cá, chim cảnh, lễ phát động Tết trồng Một thoáng thơ mộng bên Thành cổ cây, lễ hưởng ứng ngày môi trường thế giới, bảo vệ nguồn nước sạch, hội đua thuyền. Ở vòng bên ngoài, mỗi dịp Tết đến xuân về, nhân dân ở trong và ngoài thị xã thường tập hợp về đây để dựng, bày bán các gian hàng trưng bày hoa, cây cảnh, gian hàng bày bán sản 25Thành cổ rực rỡ trong đêm pháo hoa
phẩm phục vụ nhu cầu mua sắm ngày Tết âm lịch. Đây là nét văn hóa đặc trưng của vùng Sơn Tây mà hiếm nơi nào có được, không gian xung quanh Thành cổ được tận dụng hết, mặt hàng đa dạng, tấp nập người thăm quan, mua bán, kéo dài đến 2 tuần lễ, gần cuối ngày 30 tết mới tan. Rồi phiên chợ cây cảnh và các mặt hàng khác diễn ra vào ngày chủ nhật đều đặn hàng tuần diễn ra ở khu quảng trường sân vận động thị xã và các cuộc triển lãm ảnh lưu động, hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao khác với quy mô cấp vùng, cấp quốc gia, hay trận địa bắn pháo hoa đêm giao thừa. Các giá trị văn hóa phi vật thể khác Thành cổ Sơn Tây với các giá trị văn hóa, lịch sử kiến trúc, môi trường sinh thái, niên đại, hội tụ kể trên cùng với sự quan tâm đầu tư của lãnh đạo các cấp và sự ủng hộ, hợp tác của Nhân dân. Với những giá trị hữu hình và vô hình thì tòa thành rộng 20 ha này được ví như một đề tài sống động, phong phú, luôn tạo cảm hứng sáng tạo cho mỗi tâm hồn cung bậc của người nghệ sỹ (có thể là chuyên nghiệp hay nghiệp dư, không phân biệt độ tuổi, đối tượng). Mỗi người yêu nghệ thuật, di sản, môi trường cảnh quan đều cảm nhận và tiếp cận được cái đẹp, giá trị quý báu khác nhau tiềm ẩn trong di tích Thành cổ độc đáo này. Chúng ta đã được chiêm ngưỡng nhiều tác phẩm: thi, ca, nhạc, họa, thư pháp, nhiếp ảnh khác nhau của nhiều nghệ sỹ và người yêu nghệ thuật ở Sơn Tây và muôn về hội tụ. Mỗi khoảnh khắc mà thiên nhiên và di Thơ mộng Thành cổ sản ở Thành cổ được họ ghi lại và gửi gắm trong những đứa con tinh thần của 26
mình làm cho mỗi người xem thêm yêu cảnh đẹp, yêu di sản khơi dậy niềm tự hào về quê hương: như các tác phẩm hội họa, nhiếp ảnh, các bài thơ, tác phẩm âm nhạc, nhiều nhiếp ảnh gia đã ghi lại các khoảnh khắc đáng nhớ ở Thành cổ như: đêm pháo hoa, những sắc hoa lung linh soi bóng xuống hào nước, màn sương sớm long lanh, hòa quyện ánh bình minh dịp cuối thu chớm mùa đông khi trời se lạnh… Thành cổ Sơn Tây cũng là một đề tài để các đạo diễn lựa chọn làm cảnh để xây dựng các clip ca nhạc, phim tài liệu, phóng sự, phim truyện truyền hình… Với những giá trịhội tụ snhư trên, di tích Thành cổ hoàn toàn có đủ cơ sở để nâng cấp xếp hạng di tích Quốc gia đặc biệt Đây cũng là nền tảng quan trọng để Thị xã Sơn Tây cùng nhân dân thực hiện tốt công tác bảo tồn, giữ gìn và phát huy có hiệu quả các giá trị của di tích. 27
Thành nhà Hồ ở Vĩnh Lộc (Thanh Hóa) được xây dựng hồi đầu thế kỷ XV với kiến trúc độc đáo bằng đá là chủ yếu. Ngược dòng lịch sử từ thời Lý Trần, các công trình thành quách ở Thăng Long cũng đều được xây đắp bằng gạch nung thủ công là chủ yếu, kết hợp với một số vật liệu khác như: đá, đất, tre, gạch, xỉ vôi. Những năm sau khi thống nhất đất nước, lật đổ được triều đại Tây Sơn, triều Nguyễn đã cho xây dựng, củng cố chính quyền bộ máy hoàn chỉnh ở các địa phương bằng cách hạt lệnh cho các quan lại lựa chọn vị trí đất thiêng, yên ổn để xây dựng lỵ sở, lấy nơi đó làm địa điểm đặt đại bản doanh của bộ máy cai trị điều hành các công việc do Triều đình chiếu dụ xuống. Thời đầu Minh Mạng những năm 1822 trở đi, hàng loạt các thành hào ở Bắc Hà lần lượt ra đời nằm ở các khu vực thuộc tứ trấn, lấy Thành Hà Nội làm trục trung tâm như: thành Nam Định, Hải Dương, Lạng Sơn, Sơn Tây, Bắc Ninh. Sách Đại Nam nhất thống chỉ có ghi lại: Thành Sơn Tây có chu vi là 1304.8m, cao 4 m, có 4 cửa, hảo dài 1792m, rộng 26 8m, sâu 4m. Diện tích thành nằm ở địa phận 2 xã Thuần Nghệ và Mal Trai, huyện Tùng Thiện (nay là thị xã Sơn Tây). 28
Triều đình đã phải điều thêm 2000 quân dưới sự chỉ huy của thống đốc Thập Cơ Vũ Văn Thuận, kết hợp với phụ dân và quân lính sở tại hợp sức xây đắp thành. Theo một số nguồn sử liệu thủ thành Sơn Tây được triều Nguyễn sử dụng kiểu kiến trúc vô - băng (vauban), dạng kiến trúc thành phòng thủ quân sự ở Châu Âu. Tưởng được xây bằng đá ong (đến đời Tự Đức 1849 thì bờ hảo cũng được kề bằng đá ong). Ở giữa tường được đắp đất, mặt tưởng thành rộng 3m, đắp đất hơi chếch về phía trong mặt phẳng rộng như vậy nên quân lính có thể di chuyển được, chân thành rộng 6m, trên mặt thành có các chòi canh với 4 cửa chính là: Đông - Tây - Nam - Bắc, sau cho mở thêm 2 cửa phụ là cửa Tiền (trông ra phố Quang Trung - ngày nay) và cửa Hậu (trông ra phố Lê Lợi). Chính quyền phong kiến cho xây cầu qua hảo để tiện đi lại. Dựa vào các nguồn tư liệu ghi chép về các Thành được xây dưới triều Nguyễn, đánh giá công năng, vai trò, vị trí và quy mô, đặc điểm của mỗi thành, cụ thể là từ đời Vua Gia Long thứ 3 (1804) đến đời Vua Tự Đức năm thứ 12 Một góc tường thành bằng đá ong (1859) thỉ thành Sơn Tây với vật liệu xây dựng chủ yếu bằng đá ong nổi lên như sau: 1. Gọi là Thành tỉnh nhưng trong thực tế, phần lớn các thành được đắp trong khi vẫn còn đơn vị hành chính là trấn, tức là trước cuộc cải cách hành chính chia đặt các tỉnh - thành hai năm 1831- 1832 dưới triều Minh Mệnh. Trong 30 thành tỉnh của cả nước thời đó thì có 4 thành được đắp sớm nhất, đó là: Nghệ An, Nam Định, Hải Dương, Thanh Hóa vào năm 1804. Thành Bình Thuận được đắp muộn nhất (vào năm 1859), còn phần lớn các thành đều được đắp từ khoảng nửa cuối đời Minh Mệnh (1820- 1840) đầu thời Thiệu Trị (1841 -1847). Với năm ra đời 1822 (Minh Mệnh thứ 3) thì thành Sơn Tây cũng ra đời khá sớm. Đó cũng là căn cứ để nói lên tầm quan trọng về mặt phòng thủ quân sự của thành Sơn Tây nói riêng và tỉnh Sơn Tây nói chúng trong việc che chắn, phòng thủ cho mảnh đất Bắc thành, Bắc Kỳ mà triều Nguyễn đã vừa thống nhất giành lại từ triều Tây Sơn vào đầu thế kỷ XIX. 29
Vào năm 1831, triều đình Minh Mệnh chia đặt 18 tỉnh kể từ Quảng Trị trở ra thì 3 tỉnh là Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang được coi như một liên tỉnh, gọi tắt là Tam Tuyên, giao cho một viên Tổng đốc đứng đầu để cai trị. Theo quy định của Minh Mệnh thì viên Tổng đốc “chuyên hạt” tỉnh quan trọng nhất đó là Sơn Tây và “kiêm hạt” hai tỉnh Hưng Hóa, Tuyên Quang. Do vậy, trong thành Sơn Tây xưa còn có dinh thự của viên Tổng đốc Tam Tuyên này. 2. Thành Sơn Tây có chu vi 1304.8m, diện tích đứng thứ 19/30 thành, nhưng tỉnh Sơn Tây vẫn được triều đình Minh Mệnh xếp vào hàng tỉnh lớn (trong số 10 tỉnh từ Bắc chí Nam). Chính vì Sơn Tây mang danh tỉnh lớn so với hai tỉnh nhỏ là Hưng Hóa và Tuyên Quang trong liên tỉnh Sơn - Hưng - Tuyên (Tam Tuyên) nên chỉ riêng Sơn Tây mới có chức Tổng đốc, còn hai tỉnh Hưng Hóa, Tuyên Quang chỉ đặt chức Tuần phủ. Các chức vụ quan trọng như: Tổng đốc, Bố chánh, Án sát đều đóng ở thành Sơn Tây. 3. Hệ thống hào nước rộng vòng quanh thành cổ là một đặc điểm nổi bật, diện tích và chu vi của hào thành Sơn Tây là một trong số 8 thành có bề mặt hào lớn vào thời bấy giờ. Thành Gia Định có bề mặt hào rộng nhất (bằng 45.6m), hào của thành Cao Bằng rộng 8m, còn độ sâu thì thành Sơn Tây và Quảng Ngãi có độ sâu bằng nhau (4m) thị xã. Theo một số nhà nghiên cứu sâu về các thành và các ý kiến đánh giấ của nhiều du khách thì thành cổ Sơn Tây là một ngôi thành đẹp nhất của của xứ Bắc Kỳ. Nó đẹp không phải vì quy mô to, rộng mà chủ yếu vì tòa thành này được kết cấu bằng vật liệu đặc biệt đá ong rất bền vững (các thành khác xây bangef gạch nung). Đá ong để xây thành Sơn Tây được khai thác ở các vùng quanh thị xã. Teho các nhà địa chất, thì các vỉa đá ong nằm dọc chiều dài hàng ngàn km từ miền trung du Bắc Bộ đến cuối miền Trung (Phú Thọ đến tận Bình Định). Nhưng đá ong khai thác ở vùng Sơn Tây – Ba Vì có chất lượng tốt nhất (càng để lâu càng tạo độ cứng, bền chắc). Qua các cuộc khai quật ở thanh Sơn Tây, các nhà khoa học đã tìm thấy những viên gạch đá ong khá lớn, bằng và góc cạnh. Tưởng thành trước đây được xây “để mộc”, không trát, lâu ngày đã ong oxy hóa, chuyển màu đỏ cánh gián 30
trông rất đẹp. Dân gian có câu: “gạch kín, đã hở” là vậy. Vẻ đẹp của thành còn được nâng lên với hệ thống hào bốn mùa đầy nước, thành được phủ bóng xanh mát bởi các loài thực vật, trong đó có nhiều cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi. Nhìn từ trên cao, tòa thành nổi lên bên một dòng sông thơ mộng. gắn bó mật thiết, hài hòa với thiên nhiên. 4. Các bộ phận giúp việc cho Tổng đốc thực hiện các nhiệm vụ cụ thể đều có nhà làm việc như: Bố chính, Án sát, Lãnh binh, Kho tiền, Kho thuốc súng, xưởng súng, Đề đốc, Trại giam, nơi ở của binh lính, gia đình; đặc biệt là tòa dinh thự của Tổng đốc. Theo mô tả của sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ đời Minh Mạng năm thứ 13 (1832) ghi lại rằng: Sảnh đường Tổng đốc thì 1 tòa 3 gian 2 chái, nhà bếp 1 sổ 2 gian 2 chái; nhà Bố chánh, Án sát đều 1 tòa 3 gian 2 chái; nhà bếp 1 gian 2 chái, cao và rộng y cách thức dinh Tham tri sáu bộ; phòng ty phiên niết là gộp phòng làm việc của 2 ty gồm Bố chánh ty và Án sát ty. Nhà làm việc này thì có 2 tòa đều 5 gian. Trải qua 61 năm tồn tại (trước khi thất thủ, rơi vào tay quân Pháp), dưới sự điều hành của nhiều vị quan tổng trấn và bộ máy quan lại, Thành cổ đá ong Sơn Tây luôn giữ vai trò là vị trí thủ phủ đầu não về chính trị, kinh tế của cả một vùng dân cư hành chính rộng lớn (5 phủ, 24 huyện). Các nguồn sử liệu còn lưu giữ, cho thấy: triều đại phong kiến đã tận dụng được địa thế sẵn có để xây thành như: các sông bao quanh (sông Hồng ở phía Bắc và sông Tích ở phía Tây) để tạo thành các hào phòng thủ tự nhiên, lợi hại ngăn địch sang từ phương Bắc. 31
Theo các sử liệu đã được nghiên cứu thì Vọng Cung nằm trong Thành cổ Sơn Tây, được xây dựng với quy mô bề thế ngay tại trung tâm thành, sát với đường trục Đông – Tây, nhìn về hướng Nam (Kinh đô Huế), là nơi nghỉ của Vua mỗi khi đi tuần thú ra Bắc Hà (Bắc Kỳ) và là nơi mỗi năm hai lần vào (xuân thu nhị kỳ), các quan trong tuần và các phủ, huyện đến đây làm lễ “tế trời, đất” (thiên địa, thiên nông, thần mưa, thần gió, sấm sét) hoặc làm lễ bái vọng về Kinh đô khi nhận chiếu chỉ Vua ban, hoặc thực hiện các nghi lễ đột xuất khác do Triều đình chiếu dụ. Theo các tư liệu cũ thì Vọng Cung được xây theo kiểu cung đình, trên một khu đất cao, giữa thành. Trước cửa là một sân rộng lát gạch Bát Tràng, xung 32
quanh có tường bao thấp, phía trước sân có bức bình phong xây bằng gạch đắp nổi phù điêu bằng vôi vữa hình “long vân khánh hội” – rồng mây gặp hội. Trước Đoan môn có 3 cửa ra vào nhìn thẳng ra Kỳ đài (cột cờ) hay vọng lâu trông ra phía cửa chính Nam (cửa Tiền). Nền điện xây cao, ở giữa phía trước có 9 bậc thềm để lên xuống, xây bằng những phiến đá xanh to, hai bên có 2 con rồng ở tư thế lộn đầu xuống thấp, bằng gạch và vôi vữa. Hình rồng mắt lồi, mũi to, các chân đều có móng vuốt nhọn, đầu vươn lên cao, ngực ưỡn ra. Vây rồng là những mảnh bát gắn vào. Đuôi rồng xoắn lại, uốn cong lên tận nền nhà, trong như ở tư thế đang rình mồi và sẵn sàng chồm lên phía trước. Tòa Vọng Cung được kiến trúc theo kiểu chồng diêm, trên lợp bằng ngói ống lưu ly, có tráng men màu xanh cẩm thạch, gồm 2 tầng mái được xây kín, có những ô đen trang trí bằng hình tứ quý, phía ngoài đắp hình đầu rồng nổi. Trên hai tầng mái có đắp bờ nóc hoa chanh và gắn những con rồng uốn khúc, đều ngoảnh ra phía ngoài trông thật hài hòa, thanh thoát và đẹp mắt. 33
Trong điện có 2 hàng cột tròn (mỗi bên 6 cột), có đường kính 0.5m bằng gỗ lim, sơn màu cánh gián, ngăn làm 5 gian, phía ngoài xây tường gạch kín 3 phía. Ở hai gian cạnh có 2 cửa sổ tròn hình chữ “thọ”, còn 3 gian giữa cung là một hệ thống cửa gỗ bức bàn, cũng sơn màu cánh gián làm lối ra vào. Ở gian chính có bày một bộ bát bửu bằng đồng bạch, có cán dài bằng gỗ quý cắm trên một giá gỗ có chân, phía ngoài là một nhang án sập gỗ kiểu “chân quỳ dạ cá”, chạm nổi mặt “hổ phù” sơn son thiếp vàng, hai bên là hai giá gỗ cắm tàn và lọng màu vàng, là nơi Vua ngồi ngự mỗi khi đến nghỉ tại đây, trông thật trang nghiêm, lộng lẫy. Toàn bộ Vọng Cung là một công trình kiến trúc cổ, có quy mô bề thế và đẹp nhất trong khu thành cổ mà trước đây người Pháp đã phải ca ngợi “là một công trình kiệt tác của nền kiến trúc An Nam” và đã được Toàn quyền Đông Dương ra nghị định xếp vào hàng cổ tích – kỷ vật của vùng đất xứ Đoài cần được bảo tồn (tháng 5/1924). Vào một đêm cuối tháng 12/1946, ngay sau khi cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp bùng nổ, Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã họp bàn và ra quyết định những vấn đề bức thiết, quan trọng trong giai đoạn đầu tiên của cuộc kháng chiến, thực hiện chủ trương “tiêu thổ kháng chiến”. Vọng Cung đã bị dỡ bỏ, chỉ còn lại dấu tích trên thực địa nền móng cũ và một số di vật. Rõ ràng, Vọng Cung là một công trình kiến trúc cổ vào cuối thế kỷ XIX thời Nguyễn. Đây là một di tích lịch sử văn hóa độc đáo và quý hiếm. Thành cổ Sơn Tây đã được Nhà nước xếp hạng là Di tích cấp Quốc gia vào ngày 15/10/1994. Dự án tu bổ, tôn tạo và phát huy giá trị di tích Thành cổ đã được Nhà nước phê duyệt vào năm 2004 và được chia làm nhiều giai đoạn thực hiện. Đến nay, cùng với các hạng mục như: một đoạn tường thành, hai giếng nước, kỳ đài, việc tu bổ, phục dựng lại tòa Vọng Cung đã hoàn tất vào tháng 8/2007. Lúc chuẩn bị thi công, các nhà khoa học, sử học, thiết kế đã nghiên cứu, xem xét rất kỹ các yếu tố như: vị trí cũ, tư liệu ghi chép về tòa nhà này khi tồn tại, kết cấu kiến trúc không gian 34
bên trong, các loại vật liệu cổ, màu sắc, các bức trạm khắc mỹ thuật ở bên trong và bên ngoài. Đến nay nhiều hạng mục khác ở trong và ngoài thành cổ cũng được Nhà nước đầu tư tôn tạo cơ bản. Đó là một việc làm cấp thiết, kịp thời, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của các cấp, ngành Trung ương, địa phương nhằm bảo vệ những giá trị văn hóa lịch sử quý báu của quần thể di tích, đáp ứng lòng mong đợi của đông đảo nhân dân và du khách. Thành cổ Sơn Tây đang được xác định là điểm đến trong tour tham quan liên hoàn của khách khi về thăm thị xã Sơn Tây, cùng với di tích Đền Và, quần thể di tích Làng cổ ở Đường Lâm và nhiều di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh nằm trên địa bàn. 35
Kỳ đài là một hạng mục quan trọng trong nhiều hạng mục được triều Nguyễn cho xây dựng tại Thành Sơn Tây. Cột cờ luôn luôn là một hạng mục chính và tiêu biểu không thể thiếu được trong bất cứ một tòa thành nào thuộc các cấp từ Hoàng thành đến cấp tỉnh, phủ, huyện. Lá cờ được cắm trên đỉnh chóp của Kỳ đài mang ý nghĩa to lớn. Nó thể hiện sự nghiêm trang, quyền lực, độc lập của một triều đình, của chế độ, thể hiện sự tồn tại hay thất thủ của địa phương hay quốc gia – nơi tồn tại của Thành. Kỳ đài ở Thành cổ Sơn Tây cùng với kỳ đài ở Thành Hà Nội và cố đô Huế là một trong ba công trình kiến trúc tiêu biểu thời Nguyễn.Theo tư liệu cũ thì cột cờ ở 36
Thành Sơn Tây nằm ở vị trí chính giữa Thành, lúc mới xây dựng có chiều cao 18m, bên trong có 50 bậc đá hình xoáy ốc. Phần đỉnh cột cờ xưa người Pháp cho đặt hệ thống thông tin điện đàm, thu phát tín hiệu để liên hệ với trung tâm Thành Hà Nội, theo tư liệu để lại vào năm 1940, chính quyền tỉnh Sơn Tây cho đặt hệ thống 6 loa tỏa ra xung quanh phát âm thanh ra các khu dân cư gần Thành để báo giờ. Cùng với nhiều hạng mục đã được tu bổ, tôn tạo trong thành giai đoạn 2004 – 2010 như Vọng Cung, Đoan Môn, tường thành, cổng Tây – Nam thì cột cờ cũng được phục dựng bằng nguyên mẫu lúc ra đời như xây cất 2 cấp bằng đá ong trông giống như một chóp cụt vuông nhỏ chồng lên chóp cụt vuông lớn: chính giữa 2 cạnh đối nhau Đông và Tây của cấp đế trên có trổ hai cửa nhỏ để ra vào. Phần thân cột cờ xưa đã bị phá hủy hoàn toàn trong các cuộc chiến tranh. Cũng theo tài liệu còn để lại được các nhà thiết kế, sử học, khoa học và lãnh đạo địa phương tham khảo lúc tôn tạo thì: thân cột cờ được xây giống hình tháp có 8 cạnh thượng thu hạ thách (trên nhỏ dưới to), có chiều cao bằng 18m, trổ nhiều cửa sổ tròn trên các mặt cạnh của tháp để đón ánh sáng mặt trời chiếu rọi vào. Bên trong thân tháp có một cầu thang cũng làm lại 50 bậc đá tảng kiểu xoáy ốc để mọi người có thể lên quan sát xung quanh thành, hiện tại nhìn vào ta thấy rõ kỳ đài soi bóng xuống giếng ngọc. Sân trước tạo nên một không gian uy nghi bề thế. Kỳ đài hiện tại đã trải qua gần 20 năm sau khi tu bổ trông giống dáng dấp cột cờ ở Hà Nội, Huế, đã ngả màu toát lên vẻ cổ kính. Từ việc sử dụng các loại vật liệu cổ truyền kết hợp với một số chất liệu mới tạo cho các vết mạch đảm bảo độ keo kết dính bền vững, trong đó có đá ong, gạch bát, đá xanh. Các hoa văn cách điệu hài hòa giữ yếu tố tâm linh tín ngưỡng của người Việt, di chuyển lên chóp đỉnh cột cờ, chúng ta có thể quan sát toàn cảnh tòa thành, và các khu phố, trung tâm thương mại, cơ quan hành chính bao quanh vòng ngoài của 37
thành. Hiện tại, cùng với các công trình đã được tu bổ, tôn tạo xong thì kỳ đài Thành cổ Sơn Tây cũng là một công trình quan trọng được du khách tham quan quan tâm tìm hiểu, quy mô bề thế, màu sắc cổ kính đã gợi lại trong tâm trí du khách một quá khứ hào hùng, khâm phục sư lao động, thiết kế, xây dựng của thế hệ đi trước cũng như cảm nhận được tinh thần chiến đấu oanh liệt để bảo vệ thành của quân và dân vùng xứ Đoài trước sự tấn công của thực dân Pháp. 38
Vào những năm 1469, trấn Sơn Tây hay Sơn Tây Thừa Tuyên đóng ở làng La Phẩm của huyện Tiên Phong nay là xã Tản Hồng, huyện Ba Vì của Thủ đô Hà Nội. Đến thời vua Lê Hiển Tông (1740-1786), trấn sở vẫn nằm trong địa phận phủ Quảng Oai nhưng được dời từ làng La Phẩm về xã Mông Phụ, huyện Phú Lộc tức là xã Đường Lâm, thuộc thị xã Sơn Tây ngày nay. Thành cổ Sơn Tây được vua Minh Mạng cho xây dựng vào năm 1822 trên phần đất của hai làng cổ là làng Thuần Nghệ và Mai Trai (ngày nay thuộc phường Quang Trung, Ngô Quyền và phường Lê Lợi). Đây là thành trì duy nhất được xây bằng nguyên liệu đá tổ ong và từng là thủ phủ của vùng Tam tuyên thời nhà Nguyễn bao gồm ba tỉnh: Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang. Dưới sự lãnh đạo của nhiều nhân vật như Hoàng Kế Viêm, Lưu Vĩnh Phúc... Thành cổ Sơn Tây trở thành trung tâm phòng bị của nhà Nguyễn vào khoảng thập kỷ 70-80 của thế kỷ 19. Cho đến năm 1883, thành thất thủ và được quản lý bởi người Pháp. Ngày 16/5/1924, Thành cổ Sơn Tây được Toàn quyền Đông Dương ra nghị định xếp hạng di tích sau đó giao cho trường Viễn Đông Bác Cổ quản lý. Không chỉ là thành trì của triều đại phong kiến còn tồn tại, Thành cổ Sơn Tây mang trong mình những giá trị lịch sử to lớn của dân tộc Việt Nam cùng sự đặc biệt về lối kiến trúc. Do đó ngày 15/10/1994, Bộ Văn hóa và Thông tin (nay là 39
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) Việt Nam đã ra quyết định công nhận Thành cổ Sơn Tây là Di tích lịch sử và kiến trúc quốc gia. Người xưa coi trọng bốn vùng đất ở bốn phía làm lá chắn che chở cho kinh thành Thăng Long (Hà Nội ngày nay). Những vị trí này được gọi là bốn trấn bao gồm Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Nam. Đến thời kỳ nhà Nguyễn (1802-1945), Sơn Tây vẫn là một trong bốn trấn của Bắc Thành (tính từ địa phận Ninh Bình lên phía Bắc). Nhà Nguyễn đặt Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên (là vùng rộng lớn gồm 5 phủ và 24 huyện gồm cả tỉnh Vĩnh Phúc, huyện Sơn Dương, tỉnh Phú Thọ và nửa tỉnh Hà Tây hiện nay) đóng ở Thành cổ Sơn Tây với mục đích che chở cho Thăng Long ở phía trong đồng thời làm bàn đạp ở bên ngoài, làm căn cứ để triều đình nhà Nguyễn có thể bảo vệ được vùng biên cương ở thượng lưu của ba con sông: sông Đà, sông Hồng, sông Lô. Không chỉ vậy, Sơn Tây còn là vùng đất mà người dân Việt đã sinh sống đông đúc, lập ấp, làng xã từ khi lập nước. Thuộc vùng ngoại ô của Hà Nội, Thành cổ Sơn Tây mang trong mình nét đẹp của thời gian, của một công trình cổ với quy mô lớn cùng lối kiến trúc thành trì hết sức độc đáo và tinh tế. Trải qua những biến động thăng trầm của lịch sử đất nước, Thành cổ Sơn Tây giờ đây không còn nguyên vẹn như trước, đã đổ nát và hư hỏng khá nhiều. Trước đây bốn cửa đều có cầu làm bằng gạch bắc ngang qua hào nước dẫn vào cổng thành, nay chỉ còn hai cửa chính là Cửa Tiền và Cửa Hậu. Hiện nay thành cổ Sơn Tây chỉ còn giữ lại được 3 cổng thành, một số đoạn tường thành, những công trình còn tồn tại phía trong thành gồm: hai khẩu súng thần công, vọng lâu cao 18m, vọng cung và nền điện Kính Thiên, hai giếng nước ở phía trước khu nghi lễ. Trên mỗi bức tường thành đều có hình họa tiết bán nguyệt với đường kính 30m có những lỗ châu mai được xây dựng tinh xảo. Trên mỗi cổng thành đều có 40
lầu canh gác được dẫn lên bằng bậc thang, trước các cổng đều có hai khẩu súng thần công để bảo vệ thành và hiện nay sung chỉ còn ở cổng phía Bắc. Năm 1883, khi Pháp tấn công thành Sơn Tây, Cửa Hậu bị hư hại nặng nhưng vẫn lưu giữ được nét nguyên thủy. Trước năm 1945, nơi đây còn có một cây đa khổng lồ được cho là đẹp nhất khu thành cổ. Tuy nhiên sau này để xây cổng thành mới, cây đa đó đã bị đốn hạ. Cửa Hữu cũng bị phá hủy trong thời Pháp thuộc. Sau khi đã chiếm được thành, người Pháp cho xây lực cửa để ngăn cản đội quân của nhà Nguyễn tấn công trở lại. Năm 1884 khi thành cổ Sơn Tây thất thủ, người Pháp đã cho mở một cửa mới ngay phía trước cầu, tuy nhiên Cửa Tiền ở cổng Nam vẫn được lưu giữ cho đến ngày nay. Bên trong thành cổ Sơn Tây được xây dựng theo kiến trúc đối xứng trên trục trung tâm Nam - Bắc. Ở chính giữa của thành là \"Vọng cung nữ\" - nơi vua nghỉ chân trong lúc đi tuần thú và đây cũng là địa điểm cho các quan trong trấn đến tế lễ, bái vọng mỗi khi có chiếu chỉ ban xuống. Các công trình trong thành mục gồm: cột cờ, Cửa Hành Cung, Hành Cung, hai giếng vuông, khu nghi lễ (có Hành Cung, sân, điện). Cột cờ hùng vĩ được xây dựng trên nền móng bệ đá tổ ong cực kỳ vững chãi cao đến 18m, xung quanh bệ có rào chắn bảo vệ. Thân cột cờ được điêu khắc nhiều lỗ có họa tiết hoa tiết và dải quạt để ánh sáng có thể chiếu vào bên trong cột cờ. Bên trong cột cờ được xây dựng một cầu thang xoắn để du khách có thể lên đỉnh cờ, nhìn ngắm toàn bộ khu thành cổ Sơn Tây tuyệt đẹp. Nằm thẳng với cột cờ chính là Đoan môn gồm 3 cửa, cửa chính nằm ngay vị trí trung tâm và hai cửa nhỏ ở hai bên. Qua khỏi Đoan môn là một khoảng sân 41
rộng được lát gạch dẫn đến điện Kính Thiên. Điện Kính Thiên là một tòa nhà 5 gian hai chái, tám mái chồng diêm mang đậm kiến trúc truyền thống nằm ngay vị trí trung tâm của thành Sơn Tây. Xưa kia, đây là nơi nghị sự của nhà vua và quan lại trong triều đình. Từ Vọng cung nhing về hướng Đông chính là khu trại giam và nhà kho lương thực của Thành cổ Sơn Tây dành cho người nhà của binh lính, quân sĩ. Nhìn về hướng Tây là nơi ghi danh tên tuổi của những người đã hi sinh để bảo vệ thành lũy. Sát bên cạnh là dinh thự, nơi sinh sống của các quan lại đầu tỉnh thời trước. Với quy mô rộng lớn cùng địa thế quan trọng, thành cổ Sơn Tây được đánh giá là công trình kiến trúc độc đáo, tráng lệ, là thành trì vững chắc để phòng thủ. Thành cổ Sơn Tây trải qua hàng trăm năm được bao phủ bởi màu của rêu phong. Du khách đến với thành không chỉ được khám phá lịch sử, kiến trúc mà còn tận hưởng được bầu không khí cổ xưa, bình yên ở vùng đất Sơn Tây. Đến với thành cổ Sơn Tây vào những ngày khí trời se lạnh đầu mùa xuân, du khách được hòa mình vào thiên nhiên, chiêm ngưỡng một thành cổ được bao bọc bởi cây xanh đâm chồi nảy lộc đầy sức sống. Những cây cổ thụ đã tồn tại ở đây hàng trăm năm bao bọc lấy thành cổ Sơn Tây càng tăng thêm nét cổ kính cho thành lũy nơi đây. Vừa dạo quanh thành, vừa hít thở bầu không khí trong thành, cùng nhau trò chuyện về những câu chuyện của lịch sử thật thú vị biết bao. Tồn tại qua gần 200 năm lịch sử, thành cổ Sơn Tây giờ đây dù không còn nguyên vẹn như thuở đầu nhưng không hề đánh mất đi giá trị của nó. Thành lũy này vẫn đứng hiên ngang sừng sững với vẻ đẹp cổ kính cùng lối kiến trúc độc 42
đáo níu chân du khách. Thành cổ không chỉ là niềm tự hào kiêu hãnh của nhân dân Sơn Tây mà còn với nhân dân Thủ đô và của cả nước. Giống như các loại hình di sản trong dạnh mục quy định của Nhà nước Thành cổ Sơn Tây rất nhiều nhà khoa học, chuyên gia thuộc các lĩnh vực quan tâm. Di tích là một thành quân sự có vị trí, vai trò quan trọng trong việc án ngữ phòng thủ cho phía Tây thành Hà Nội. Địa thế trung tâm chính trị - văn hóa – kinh tế của vùng xứ Đoài xưa. Với các nhà sinh thái môi trường thì đây cũng là đề tài, địa điểm để nghiên cứu sự sinh trưởng, phát triển cho hàng ngàn loài cây cỏ từ nhỏ đến lớn đã tồn tại gần 2 thế kỷ về tầng địa chất, chất đất. Di sản quý nằm giữa lòng đô thị còn được ví như lá phổi xanh của thị xã, cân bằng môi trường sống. Người ta vẫn hay gọi Những con đường bình yên dưới bóng cây đây là “khu rừng giữa lòng thành phố”. Cùng với nhiều di sản văn hóa danh thắng trên địa bàn điểm di tích Thành cổ Sơn Tây được khách du lịch khám phá chọn là điểm đến tiêu biểu không thể bỏ qua trong những chuyến hành trình về với miền đất bán sơn địa giàu truyền thống văn hóa xứ Đoài cổ kính. 43
Vì vậy, trong những năm qua, thành cổ Sơn Tây được quan tâm, đầu tư để khai thác và phát huy các giá trị của di tích đạt được những kết quả lớn. Trong tương lai gần, để di sản văn hóa Thành cổ Sơn Tây sẽ ngày càng thu hút đông đảo du khách, phát huy được hết những giá trị văn hóa, tiềm năng, xứng đáng với tên gọi địa chỉ đỏ của vùng văn hóa xứ Đoài, là điểm tựa phát triển kinh tế du lịch Sơn Tây bền vững, hiệu quả. Nhiều chủ trương, giải pháp khai thác, phát huy các giá trị của di tích Thành cổ Sơn Tây: Hiện đại hóa công tác bảo Vọng lâu trước cổng thành có bậc thang đi lên tồn, quản lý di tích; sắp xếp lại thứ tự ưu tiên; đào tạo, củng cố đội ngũ quản lý, hướng dẫn; nghiên cứu, sưu tầm tài liệu, hiện vật; bảo vệ, duy trì môi trường sinh thái; tu bổ, tôn tạo các di tích; sưu tầm các tài liệu, hiện vật liên quan đến di tích Thành cổ Sơn Tây. Đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ hướng dẫn viên tại di tích Để truyền đạt một cách dễ hiểu những thông tin đến cho các đối tượng, trên cơ sở những nguồn tư liệu về lịch sử, kiến trúc Vẻ đẹp thơ mộng trên con đường quanh thành cổ và các giá trị khác của di tích, cần xây dựng những bài thuyết minh có chiều sâu, dễ hiểu, toát lên được những giá trị tiêu biểu về di tích. Ngoài thành cổ Sơn Tây thì cần mở rộng sang những di tích khác trên địa bàn, các mối liên hệ giữa Thành cổ Sơn Tây với hệ thống thành trì tại các địa phương khác cùng thời. Vai trò, vị trí quan trọng của Thành 44
cổ trong chỗ đứng là trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của vùng xứ Đoài xưa, mỗi cán bộ làm công tác thuyết minh cũng cần học tập và tự trang bị thêm cho mình vốn ngoại ngữ để sẵn sàng phục vụ các đoàn khách nước ngoài; luôn có tinh thần hợp tác, trao đổi, tiếp thu các ý kiến đóng góp của du khách về các góc độ khác nhau như: nguồn kiến thức, thông tin cần bổ sung vào bài thuyết minh, những chỗ cần chỉnh sửa cho hợp lý các kỹ năng hướng dẫn. Tất cả sự đóng góp đó đều có tác dụng tốt cho những người quản lý và hướng dẫn viên, mỗi hướng dẫn viên không chỉ đọc hiểu kỹ các kiến thức về lịch sử, lý lịch của di tích mà cần dành thêm thời gian để mở mang, học hỏi thêm nhiều nguồn thông tin, kiến thức khác liên quan đến địa chỉ đỏ quý giá của quê hương mình như: địa lý, sinh thái môi trường, văn hóa vùng miền bán sơn địa, lịch sử của vùng đất Sơn Tây nói riêng và xứ Đoài nói chung trong tiến trình lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc. Ngoài ra, mỗi người cũng cần phát huy, thể hiện tốt các môn năng khiếu nghệ thuật của mình như: thơ, nhạc để giao lưu, trò chuyện với du khách xa gần, trong đó, chú trọng các tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu, hay về Thành cổ Sơn Tây, về thị xã và vùng xứ Đoài… 45
Cần tranh thủ kêu gọi, vận động ủng hộ của nhân dân địa phương, du khách xa gần tiếp nhận các hiện vật khác nhau liên quan đến Thành cổ bằng các loại chất liệu khác nhau như: hiện vật bằng kim loại, đồ gỗ, giấy, tranh ảnh, hiện vật phản ánh các sự kiện diễn ra tại Thành cổ qua các thời kỳ. Các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tài liệu liên quan đến bộ máy quan lại làm việc điều hành các công việc của triều đình giao trong các giai đoạn, cuộc sống, nghề nghiệp của nhân dân bên khu vực bên ngoài Thành…. Trên cơ sở đó, Ban Quản lý di tích sẽ thống kê xây dựng các chuyên đề triểm lãm để phục vụ nhu cầu thăm xem, nghiên cứu của đông đảo du khách. Tổ chức các hoạt động, sự kiện bên trong và bên ngoài phù hợp với không gian, cảnh quan di tích Bên trong: Ngoài các hạng mục công trình kiến trúc cổ và các công trình đã được tu bổ, tôn tạo luôn là điểm thu hút khách du lịch, thì cũng cần chú ý tận dụng không gian xanh, rộng rãi, môi trường phù hợp để xây dựng các địa điểm như: xây dựng khu trưng bày Sinh vật cảnh với các bộ sưu tập các loài hoa, cây cảnh quý. Cùng với cây cảnh là các tác phẩm phụ trợ kỹ xảo khác như: gỗ, đá cảnh và trưng bày các loài chim quý. Tại đây cũng lắp đặt hệ thống loa phát thanh giới thiệu từng chủ đề, giá trị quý báu của Thành cổ nói riêng và các địa điểm du lịch di sản văn hóa tiêu biểu của thị xã Sơn Tây. Các nét văn hóa, tiềm năng vùng đất cổ kính văn hiến và con người hiếu khách của vùng đất Sơn Tây – xứ Đoài. Hoạt động này mở cửa các buổi tối (2 ngày cuối tuần) hoặc các dịp ngày lễ, tết, các sự kiện lớn; có thể mở thêm gian thư pháp; tổ chức một số buổi tuyên truyền nói chuyện về di sản và văn hóa tại Thành cổ (mời các nhà nghiên cứu, học giả); tổ chức các hoạt động thể thao, giải trí khác như: đua thuyền rồng, câu cá cờ, cờ người. Bên ngoài là các khu vực vỉa hè: tổ chức các cuộc trưng bày triển lãm ảnh nghệ thuật lưu động các cấp, xây dựng và đưa vào hoạt động phố đi bộ đêm dành 46
cho khách du lịch và nhân dân sở tại (thị xã đang xây dựng đề án), kết hợp mở rộng ra một số địa điểm khu phố xung quanh gắn với các di tích khác như: chùa Linh Sơn, đình Đệ Nhị, khu Trung tâm Văn hóa và Thể thao mới của thị xã; xây dựng quầy thông tin du lịch Thành cổ và các di tích, danh thắng trên địa bàn thị xã. Bảo vệ môi trường, tiếp tục duy trì, chăm sóc, phát triển các loại sinh vật tại di tích Đến thăm di tích Thành cổ Sơn Tây, du khách sẽ cảm nhận được một không gian xanh hài hòa, gắn sự trường tồn của di tích trong sự bao bọc, phủ bóng của những màu xanh. Ngoài diện tích cây xanh lớn, Thành cổ Sơn Tây còn được sở hữu bao quanh bởi 1795m hào nước. Hào nước và diện tích cây xanh lớn tạo nên sự cân bằng cho môi trường của di tích. Chính vì thế, môi trường cây xanh trong di tích Thành cổ đã góp phần to lớn để nâng cao giá trị của di tích. Trong thời gian vừa qua, công tác bảo vệ môi trường, giữ gìn vệ sinh, chăm sóc, duy trì sự sinh trưởng của các loài cây, hoa trong di tích, giữ gìn nguồn nước hào luôn được Nhà nước quan tâm đầu tư và đã đạt được nhiều kết quả, nhận được sự đánh giá tích cực của nhân dân địa phương và khách du lịch. Nghiên cứu, bảo vệ môi trường, chăm sóc cho hệ thống cay xanh, gữ sạch nguồn nước, nghiên cứu, đánh giá các chỉ số tích sự, những yếu tố tạp chất gây hại trong nước hào để tạo điều kiện cho sự phát triển của một số loài thủy sản, động vật dưới nước, tích cực tuyên truyền cho nhân dân du khách nâng cao ý thức bảo vệ môi trường. Thực hiện các dự án tu bổ, tôn tạo các hạng mục theo từng giai đoạn khác nhau Các công trình cần đươc xem xét kỹ, phù hợp với cảnh quan di tích và phải được các cấp có thẩm quyền cho phép, như hệ thống điện chiếu sáng, làm sạch hào nước; kè bờ sạt lở các điểm xung quanh hào, nạo vét định kỳ. Tiếp nhận sự tham gia liên kết hợp tác để khai thác phát triển du lịch tại Thành cổ từ các tổ chức, cá nhân dựa trên các biện pháp, ý tưởng phù hợp có sức thu hút du khách, tạo ý nghĩa, kết quả tốt. Nghiêm túc thực hiện theo các quy định của pháp luật như: luật Di sản văn hóa, luật Du lịch… Với vị trí rất lý tưởng, thuận tiện, lại luôn nhận được sự ủng hộ, niềm tự hào của nhân dân, sự đầu tư của Nhà nước, di tích Thành cổ Sơn Tây luôn là điểm đến lý tưởng để thu hút du khách xa gần. Trong thời gian vừa qua, công tác khai thác phát huy các giá trị của di tích đã đạt được những kết quả tốt. Các hình ảnh, giá trị, tiềm năng của tòa thành cổ đá ong độc đáo này đã được cập nhật 47
thường xuyên trên các loại hình thông tin và một số ngôn ngữ như: Anh, Pháp. Hy vọng trong những năm tiếp theo, bằng sự quan tâm đầu tư của Nhà nước, sự ủng hộ của nhân dân trong và ngoài thị xã, điểm di tích lịch sử văn hóa này sẽ ngày càng được tôn tạo, bảo vệ, giữ gìn tốt, qua đó, sẽ trở thành điểm du lịch thu hút đông đảo du khách hơn nữa, xứng tầm với tên gọi và các giá trị của tòa thành cổ đá ong quý giá này. 48
Tiêu biểu như Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia - Làng cổ ở Đường Lâm, được Nhà nước công nhận năm 2005. Đây là ngôi làng duy nhất còn lưu giữ được nguyên vẹn cấu trúc và nếp sinh hoạt, phong tục, tập quán điển hình của một làng Việt cổ thuộc vùng trung du Bắc Bộ, là một “Bảo tàng sống” của nền văn minh nông nghiệp lúa nước vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, có giá trị tiêu biểu đặc sắc trải qua hàng nghìn năm. Làng cổ nằm cách trung tâm Thủ đô Hà Nội 47 km về phía Tây, cách trung tâm hành chính thị xã Sơn Tây 5 km. Đây là quần thể hợp nhất vị trí dân cư và diện tích của 5 thôn thuộc xã Đường Lâm với tổng diện tích là 164 ha, bao gồm: thôn Mông Phụ, Cam Thịnh, Đông Sàng, Đoài Giáp và Cam Lâm. Trong đó, thôn Mông Phụ được xác định là vùng bảo vệ khu vực 1 của di tích. Đến với ngôi làng cổ này, du khách sẽ được hòa mình và chiêm ngưỡng những giá trị văn hóa lịch sử, kiến trúc tiêu biểu, đặc sắc của một làng quê Bắc Bộ Việt Nam, gắn liền với cuộc sống nông thôn, nông nghiệp từ mấy thế kỷ nay của biết bao thế hệ người nông dân vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Làng cổ ở Đường Lâm còn là nơi lưu giữ, bảo tồn một kho tàng văn hóa quý báu. Đó là bằng chứng khẳng định chắc chắn rằng Sơn Tây là một vùng đất cổ “địa linh nhân kiệt” trung tâm đầu não của vùng xứ Đoài xưa. 49
Quần thể di tích Làng cổ ở Đường Lâm được hình thành, phát triển trong sự gắn kết khăng khít hữu cơ với cuộc sống thường nhật của những người nông dân. Kho tàng văn hóa quý báu ấy là thành quả, trí tuệ, sự sáng tạo không ngừng trong đó có cả sự trao đổi, giao lưu, lựa chọn kỹ lưỡng của mỗi một con người, một gia đình, một dòng họ và cả một cộng đồng cư dân làng xã. Mỗi một loại hình di tích lịch sử văn hóa, kiến trúc nghệ thuật, mỗi một lễ hội, những ngôi nhà cổ hay cảnh quan thiên nhiên môi trường và những anh hùng hào kiệt, danh nhân khoa bảng ở đất cổ Đường Lâm luôn toát lên những hồn cốt, kết tinh tinh hoa của dân tộc Việt Nam. Các giá trị văn hóa vật thể hiện hữu ở khắp làng, đa dạng, phong phú ở nhiều loại hình như: cổng làng, đình, đền, chùa, quán, điếm, lăng mộ, giếng, nhà thờ, nhà thờ họ. Trong đó có những Đình nức tiếng xứ Đoài về cả bố cục, không gian, kiến trúc, nơi tọa lạc, như: đình Mông Phụ. Ngoài ra còn có đình Đoài Giáp, đình Phùng Hưng, đình Tổng, đình Đông Sàng, đình Cam Thịnh, đền Phủ, đền Mẫu, đền và lăng Ngô Quyền, chùa Mía, chùa Ón. Mỗi điểm lại gắn liền với công trạng to lớn của một con người hay một nhân vật kiệt xuất của làng, của nước như: Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng, Ngô Vương Quyền, Bà Chúa Mía, Sứ thần Thám hoa Giang Văn Minh, Khâm sai Đại thần Phan Kế Toại, cố Bộ trưởng Bộ Thủy lợi Hà Kế Tấn… 50
Search
Read the Text Version
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 7
- 8
- 9
- 10
- 11
- 12
- 13
- 14
- 15
- 16
- 17
- 18
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23
- 24
- 25
- 26
- 27
- 28
- 29
- 30
- 31
- 32
- 33
- 34
- 35
- 36
- 37
- 38
- 39
- 40
- 41
- 42
- 43
- 44
- 45
- 46
- 47
- 48
- 49
- 50
- 51
- 52
- 53
- 54
- 55
- 56
- 57
- 58
- 59
- 60
- 61
- 62
- 63
- 64
- 65
- 66
- 67
- 68
- 69
- 70
- 71
- 72
- 73
- 74
- 75
- 76
- 77
- 78
- 79
- 80
- 81
- 82
- 83
- 84
- 85
- 86
- 87
- 88
- 89
- 90
- 91
- 92
- 93
- 94
- 95
- 96
- 97
- 98
- 99
- 100
- 101
- 102
- 103
- 104
- 105
- 106
- 107
- 108
- 109
- 110
- 111
- 112
- 113
- 114
- 115
- 116