Hình 6. Con trùm-đực của hội nhà thờ Kitô tự kiềm chế quan hệ tình dục và không chăm nuôi con cái, dẫu không có lý do di truyền hoặc sinh thái khiến ông ta làm như vậy. Một thí dụ khác đến từ Nam Pacific. Những đoàn Sapiens sống trên đảo New Ireland, phía bắc của New Guinea, sử dụng một loại thuỷ tinh lấy từ núi lửa gọi là obsidian để sản xuất những dụng cụ đặc biệt cứng chắc và sắc bén. New Ireland, tuy nhiên, không có trầm tích tự nhiên của obsidian. Những thử nghiệm trong phòng thí nghiệm cho thấy rằng obsidian họ đã sử dụng được mang đến từ những trầm tích trên New Britain, một hòn đảo cách xa 400 km. Một số cư dân ở những hòn đảo này đã phải là những người đi biển lành nghề, những người đã buôn bán trao đổi từ đảo này sang đảo khác trên những khoảng cách dài. Thương mại có thể dường như là một hoạt động rất thực tiễn, một hoạt động vốn không cần có cơ sở của sự bịa đặt của tưởng tượng. Tuy thế, thực tế là không có động vật nào khác ngoài Sapiens đã tham dự vào thương mại, và tất cả những mạng lưới thương mại Sapiens về chúng mà chúng ta có bằng chứng chi tiết đều đã được dựa trên những bịa đặt tưởng tượng. Thương mại không thể hiện hữu mà không có tin cậy, và là điều rất khó khăn để tin cậy người lạ. Mạng lưới thương mại trên toàn thế giới của ngày hôm nay là dựa trên sự tin tưởng của chúng ta vào những thực thể độc lập đến từ sự tưởng tượng bịa đặt, như đồng đôla, như Nhà băng Dự trữ Liên bang, và những nhãn hiệu cầu chứng mang những tôtem biểu tượng của những
tập đoàn. Khi hai người xa lạ trong một xã hội bộ lạc muốn đổi chác buôn bán, thường thường họ sẽ thiết lập sự tin cậy bằng cách gọi đến một gót, tổ tiên thần thoại, hay tôtem động vật, vốn cả hai có chung. Nếu những Sapiens cổ sơ tin vào những bịa đặt tưởng tượng đã đổi chác buôn bán những vỏ sò và thuỷ tinh obsidian, điều đứng vững được để lý luận rằng họ cũng có thể có thông tin thương mại, thế nên tạo ra một mạng lưới kiến thức dày đặc hơn và rộng lớn hơn, so với của những gì đã phục vụ những người Neanderthal và những người cổ sơ khác. Những thuật săn bắn cung cấp một minh họa khác của những khác biệt này. Neanderthal thường đi săn một mình, hoặc từng nhóm nhỏ. Sapiens, mặt khác, phát triển kỹ thuật dựa trên sự hợp tác giữa hàng chục những cá nhân đông đảo, và có lẽ ngay cả giữa những đoàn khác nhau. Một phương pháp đặc biệt hiệu quả là bao vây trọn một bầy thú, như bầy ngựa hoang, sau đó đuổi chúng vào một hẻm núi hẹp, nơi sẽ dễ dàng giết chúng hàng loạt. Nếu tất cả diễn ra theo đúng như toan tính, đoàn người có thể thu hoạch hàng tấn thịt, mỡ và da động vật, trong chỉ một buổi chiều của nỗ lực tập thể, và có thể tiêu thụ thức ăn phong phú này một trong hai cách: nấu ăn chung vui trong một tiệc potlatch lớn, hoặc phơi khô, hun khói, hay (ở vùng Artic) đông lạnh chúng, để ăn dần về sau. Những nhà khảo cổ đã tìm ra ra những địa điểm trong đó toàn thể những bầy thú đã bị giết lấy thịt hàng năm theo những cách như vậy. Ngay cả cũng có những địa điểm ở đó có những hàng rào và những chướng ngại, dựng lên để tạo những bẫy nhân tạo và những vùng đất giết thú. Chúng ta có thể cho rằng người Neanderthal đã không hài lòng khi thấy những vùng đất săn bắn truyền thống của họ biến thành những lò giết thú do Sapiens kiểm soát. Tuy nhiên, nếu bạo lực nổ ra giữa hai loài, người Neanderthal không khá hơn nhiều so với những con ngựa hoang. Năm mươi Neanderthal hợp tác trong mô hình tĩnh theo truyền thống và đã không thể đọ sức với 500 Sapiens linh hoạt và sáng tạo. Và ngay cả nếu Sapiens bị thua vòng đầu tiên, họ có thể nhanh chóng phát minh những mưu chước mới cho phép họ sẽ thắng trong vòng sau. Những gì đã xảy ra trong cuộc Cách mạng Nhận thức?
Lịch sử và Sinh học Sự đa dạng bao la không bờ bến của những thực tại được tưởng tượng vốn Sapiens đã phát minh, và sự đa dạng kết quả của những mô hình hành vi ứng xử, là những thành phần chính của những gì chúng ta gọi là những “văn hóa”. Một khi đã xuất hiện những văn hóa, chúng không bao giờ ngừng thay đổi và phát triển, và những sửa đổi không thể ngăn cản được này là những gì chúng ta gọi là “lịch sử”. Cuộc Cách mạng Nhận thức theo đó là điểm khi lịch sử đã tuyên bố sự độc lập của nó với sinh học. Cho đến khi có cuộc Cách mạng Nhận thức, những hoạt động của tất cả những loài người thuộc về lĩnh vực của sinh học, hoặc, nếu bạn thích thế, thời tiền sử (tôi có khuynh hướng tránh dùng từ ngữ ‘thời tiền sử’, vì nó ngụ ý sai lầm rằng ngay cả trước khi xảy ra cuộc Cách mạng
Nhận thức, con người đã ở trong một phạm trù của của riêng họ). Từ cuộc Cách mạng Nhận thức trở đi, những diễn kể lịch sử thay thế những lý thuyết sinh học như những phương tiện chính yếu của chúng ta trong việc giải thích sự phát triển của Homo Sapiens. Để hiểu được sự nổi lên của đạo Kitô, hay Cách mạng Pháp, điều là không đủ để hiểu sự tác động hỗ tương giữa những gene, hormone và những cơ cấu sinh vật. Điều là cần thiết để đưa vào trong giải thích cũng cả sự tác động hỗ tương của những ý tưởng, những hình ảnh và những hoang tưởng. Điều này không có nghĩa là Homo Sapiens và văn hóa của con người đã trở thành được miễn trừ khỏi những luật sinh học. Chúng ta vẫn là những con vật, và khả năng thể chất, tình cảm và nhận thức của chúng ta vẫn còn được định hình bởi DNA của chúng ta. Những xã hội của chúng ta được xây dựng từ những khối xây dựng giống như của những xã hội của người Neanderthal hoặc của chimpanzee, và chúng ta càng xem xét những khối xây dựng này – cảm giác, xúc động, quan hệ gia đình – càng thấy sự khác biệt giữa chúng ta và những loài (vượn, khỉ không đuôi) khác trong họ ape càng ít hơn. Tuy nhiên, đó là một sai lầm để tìm kiếm những khác biệt ở mức độ cá nhân hoặc gia đình. Một với một, ngay cả mười với mười, chúng ta tương tự với những chimpanzee một cách hổ thẹn. Những khác biệt đáng kể bắt đầu xuất hiện chỉ khi chúng ta vượt qua ngưỡng cửa của 150 cá nhân, và khi chúng ta đạt đến 1,000-2,000 cá nhân, sự khác biệt thì kinh ngạc. Nếu bạn cố gắng tụm lại với nhau hàng ngàn chimpanzee vào công trường Tiananmen, đường
Wall, toà nhà Vatican, hoặc trụ sở của Liên Hiệp Quốc, kết quả sẽ là cảnh tượng hỗn độn và náo động. Ngược lại, hàng ngàn những Sapiens thường xuyên tụ hợp ở những nơi như vậy. Cùng nhau, họ tạo ra những mô hình có trật tự – chẳng hạn như những mạng lưới thương mại, lễ bí tích thánh thể, hay những tổ chức chính trị – mà họ không bao giờ có thể tạo ra trong sự đơn độc. Sự khác biệt thực sự giữa chúng ta và những chimpanzee là chất keo huyền thoại vốn nó gắn kết vào cùng với nhau những số lớn gồm những cá nhân, gia đình và những nhóm. Chất keo này đã làm chúng ta thành những chủ nhân của sự sáng tạo. Dĩ nhiên, chúng ta cũng cần những kỹ năng khác, chẳng hạn như khả năng để làm và dùng những dụng cụ. Thế nhưng, làm được dụng cụ thì ít có hệ quả quan trọng, trừ khi nó được ghép cặp với khả năng để hợp tác với nhiều những người khác. Làm thế nào mà bây giờ chúng ta có tên lửa liên lục địa với đầu đạn nguyên tử, trong khi 30.000 năm trước, chúng ta chỉ có những gậy xiên với đầu nhọn bằng đá mài? Về phương diện sinh lý, không có cải thiện đáng kể nào trong khả năng làm dụng cụ của chúng ta trong 30.000 năm qua. Albert Einstein đã kém khéo léo với đôi tay của mình hơn một người săn bắt hái lượm thời cổ. Tuy nhiên, khả năng của chúng ta để hợp tác với một số lượng lớn những người xa lạ đã cải thiện nổi bật đến mức gây ấn tượng sâu sắc. Những mũi nhọn bằng đá mài thời cổ đã được chế tạo, cặm cụi từng li từng tí, bởi một người duy nhất, là người đã dựa trên cố vấn và giúp đỡ của một vài người bạn thân thiết. Việc sản xuất một đầu đạn nguyên tử hiện đại đòi hỏi sự hợp tác của hàng triệu người lạ khắp nơi trên thế giới – từ những người thợ mỏ khai thác quặng uranium ở sâu dưới lòng đất, đến những nhà vật lý lý thuyết, những người viết những công thức toán học dài từ trang sách này sang trang khác, để mô tả những phản ứng của những sub-atom. Để tóm tắt quan hệ giữa sinh học và lịch sử sau cuộc Cách mạng Nhận thức: a. Sinh học lập những tham số cơ bản cho những hành vi ứng xử và năng lực của người Homo Sapiens. Toàn bộ lịch sử diễn ra bên trong những giới hạn của diễn trường hoạt động sinh học này. b. Tuy nhiên, diễn trường hoạt động này thì vô cùng lớn rộng; cho phép Sapiens dấn mình vào một đa dạng đáng kinh ngạc gồm những sinh hoạt. Nhờ vào khả năng của họ để phát minh truyện bịa đặt tưởng
tượng,Sapiens tạo ra những sinh hoạt ngày càng phức tạp hơn, trong đó mỗi thế hệ lại phát triển và trau chuốt chúng thêm hơn nữa. c. Hệ quả là ngõ hầu để hiểu được Sapiens cư xử thế nào, chúng ta phải mô tả sự tiến hoá lịch sử của những hành vi của họ. Nếu chỉ dẫn chứng đến những giới hạn sinh học của chúng ta, sẽ cũng giống như một ký giả truyền thanh thể thao; người đang trực tiếp tường thuật trận tranh giải vô địch bóng bầu dục thế giới, nhưng chỉ cung cấp cho những người nghe radio của mình một mô tả chi tiết về sân chơi bóng, chứ không phải là một giải thích về những cầu thủ, ai và ai đang làm những gì trên sân chơi lúc ấy. Những trò chơi, những sinh hoạt nào đã tổ tiên thời Đồ Đá của chúng ta chơi, hoạt động trong diễn trường của lịch sử? Theo như chúng ta biết, những người khắc người-sư tử Stadel khoảng 30.000 năm trước đây đã có cùng những khả năng thể chất, tình cảm và trí tuệ như chúng ta đang có. Họ đã làm gì vào buổi sáng khi họ thức dậy? Họ đã ăn gì trong bữa ăn sáng – và bữa ăn trưa? Những tổ chức xã hội của họ đã giống như thế nào? Họ có quan hệ một vợ một chồng? và gia đình là đơn vị xã hội hay không? Có phải họ đã có những lễ hội, những luật lệ đạo đức, những cuộc thi thể thao và những nghi thức tôn giáo? Có phải họ đã có những chiến tranh? Chương tiếp theo hãy đảo mắt một cái nhìn vội vàng phía sau tấm màn của những thời đại, xem xét cuộc sống đã giống những gì trong hàng nghìn năm phân cách cuộc Cách mạng Nhận thức với cuộc Cách mạng Nông nghiệp.
3 Một ngày trong Đời sống của người Nam và Nữ đầu tiên Để hiểu bản chất, lịch sử và tâm lý của chúng ta, chúng ta phải vào được bên trong những bộ óc của những tổ tiên săn bắn hái lượm của chúng ta. Đối với gần như toàn bộ lịch sử của loài người chúng ta, Sapiens đã sinh sống như những người săn bắn hái lượm. Trong 200 năm vừa qua, liên tục tăng lên số lượng nhữngSapiens đã sinh sống, kiếm được thức ăn hàng ngày của họ, như những người lao động thành thị và những nhân viên văn phòng, và trong thời gian 10,000 năm trước đó, hầu hết những Sapiens đã sinh sống như những người trồng trọt và chăn nuôi, nhưng tất cả là chớp mắt ngắn ngủi đem so với hàng chục nghìn năm trong đó tổ tiên chúng ta đã săn bắn và hái lượm. Trường phái tâm lý học tiến hóa đang hưng thịnh, thuyết phục rằng nhiều những đặc tính xã hội và tâm lý trong thời hiện đại của chúng ta đã được định hình trong suốt thời kỳ tiền-canh nông lâu dài này. Thậm chí ngày nay, những học giả trong lĩnh vực này, khẳng định rằng bộ óc và não thức của chúng ta đã thích ứng với một đời sống của săn bắn và hái lượm. Thói quen ăn uống của chúng ta, những xung đột của chúng ta và khuynh hướng tình dục của chúng ta, đều tất cả là kết quả của đường lối não thức săn bắn hái lượm của chúng ta tác động qua lại với môi trường hậu-kỹ nghệ hiện tại của nó, với những thành phố lớn hàng triệu dân, những máy bay, những điện thoại và những computer của nó. Môi trường này cho chúng ta nhiều tài nguyên vật chất hơn và sống đời lâu hơn, so với những gì của bất kỳ thế hệ nào trước đó đã được hưởng, nhưng nó thường làm cho chúng ta cảm thấy lạc lõng xa lạ, chán nản, và bị áp lực căng thẳng. Để hiểu lý do tại sao, những nhà tâm lý học tiến hóa cho rằng chúng ta cần phải đào bới sâu vào trong thế giới săn bắn hái lượm vốn đã định hình chúng ta, thế giới vốn chúng ta vẫn đang cư ngụ trong tiềm thức. Tại sao, lấy thí dụ, người ta tọng vào mồm thức ăn nhiều calori vốn đem lại cho cơ thể họ rất ít bổ béo tốt lành? Ngày nay, những xã hội giàu có đang trong một hiểm ngèo đau ốm của chứng béo phì, như một bệnh dịch nhanh chóng lan rộng sang những nước đang phát triển. Đã là một câu đố, tại sao chúng ta ngấu nghiến, ăn lấy ăn để, thực phẩm nhiều chất đường ngọt ngào nhất và chất béo mỡ màng nhất mà chúng ta có thể tìm thấy, cho đến khi
chúng ta xem xét những thói quen ăn uống của những tổ tiên chúng ta thời còn lục lọi kiếm ăn. Trong những cánh đồng cỏ và những khu rừng họ đã cư ngụ, những chất ngọt nhiều calori là cực kỳ hiếm hoi, và thực phẩm nói chung là không đủ thoả mãn nhu cầu. Một người đi kiếm ăn điển hình 30.000 năm trước đây, với điều kiện chỉ có được một loại thức ăn chứa nhiều chất ngọt – những quả chín. Nếu một người phụ nữ, kỷ Đồ Đá, đi qua một cây quằn đầy những quả sung chín, điều hợp lý nhất để làm đã là hái ăn thoả thích cho đến mức hết có thể ăn nổi nữa, ngay tại chỗ, trước khi bầy đoàn baboon địa phương đến lọc hết quả chỉ còn cây trơ. Bản năng để ngấu nghiến, ăn lấy ăn để thực phẩm nhiều calorie đã được “gài dây bắt mạch điện” vào trong những gene của chúng ta. Ngày nay chúng ta có thể đang sống trong những bin-đinh nhiều tầng cao, với những tủ lạnh chật kín thức ăn, nhưng DNA của chúng ta vẫn nghĩ chúng ta đang ở trong cánh đồng cỏ. Đó là điều khiến chúng ta không ngừng vục thìa xuống, vơi sạch cả một thùng con đầy cà rem, yogurt, hay sorbet của hiệu Ben & Jerry, khi chúng ta tìm thấy một thùng như thế trong tủ lạnh, và nuốt nó trơn tru trôi xuống cổ họng với một chai nước ngọt Coke to tướng. Thuyết “gene ăn tọng nuốt chửng” này thì được chấp nhận rộng rãi. Những thuyết khác vẫn chưa ngã ngũ, còn nhiều tranh luận. Lấy thí dụ, một số nhà tâm lý học tiến hóa cho rằng bầy đoàn tìm kiếm thức ăn thời thời cổ này đã không tạo nên từ những gia đình cơ bản [1], tập trung vào những cặp một vợ một chồng. Thay vào đó, đã sinh sống trong những công xã không có sở hữu cá nhân, không có quan hệ một vợ một chồng, và ngay cả không có sự làm cha. Trong một bầy đoàn như vậy, một người nữ có thể có quan hệ tình dục và thành hình những ràng buộc chăn gối với nhiều người nam (và nữ) cùng một lúc, và tất cả những người lớn của bầy đoàn cùng hợp tác trong việc nuôi dạy những con trẻ của nó. Vì không có người nam nào biết đích xác đứa trẻ nào là con của riêng mình, những người nam cho thấy sự quan tâm bình đẳng với tất cả những trẻ con. Một cấu trúc xã hội như vậy không phải là một không tưởng Aquarius [2]. Nó đã được ghi chép tài liệu rất đầy đủ giữa những loài động vật, đặc biệt là những họ hàng gần nhất của chúng ta, loài chimpanzee và bonobo. Ngay cả ngày nay vẫn có một số văn hóa con người, trong đó thực hành sự làm cha tập thể, lấy thí dụ như những người Barí, thổ dân ở châu Mỹ [3]. Theo những sự tin tưởng của những xã hội loại như thế, một đứa trẻ thì không
được sinh ra từ tinh trùng của một người nam duy nhất, nhưng từ sự tích tụ của tinh trùng trong tử cung của một người nữ. Một người mẹ tốt sẽ luôn luôn thực hiện một điều thiết yếu và quan trọng là có quan hệ tình dục với nhiều những người nam khác biệt, đặc biệt là khi nàng đang mang thai, do đó con của nàng sẽ được thụ hưởng những phẩm chất (và sự chăm sóc của người cha) không chỉ đơn thuần của người thợ săn tốt nhất, mà còn của người kể chuyện hay nhất, người lính trận mạnh nhất và người tình suy nghĩ chu đáo nhất. Nếu điều này nghe ngớ ngẩn dại dột, hãy nhớ rằng trước khi có sự phát triển của ngành nghiên cứu phôi thai hiện đại, người ta không có bằng chứng vững chắc rằng những trẻ sơ sinh luôn luôn được sinh ra bởi một người cha đẻ duy nhất, hơn là bởi nhiều người. Những người ủng hộ thuyết “công xã thời cổ” này tranh luận rằng sự phản bội thường xuyên đặc trưng cho những hôn nhân hiện đại, và tỉ lệ ly dị cao, chưa kể đến sự thừa thãi đầy ối của những mặc cảm tâm lý mà cả trẻ em lẫn người lớn đều chịu đựng đau khổ, tất cả kết quả từ sự bắt buộc con người phải sống trong chế độ gia đình cơ bản và những quan hệ một vợ một chồng, vốn không phù hợp với software sinh học của chúng ta [4]. Nhiều học giả đã cực lực bác bỏ lý thuyết này, nhấn mạnh rằng cả hai, chế độ một chồng một vợ và sự thành hình của những gia đình cơ bản, là cốt lõi của những hành vi ứng xử của con người. Dẫu xã hội săn bắn hái lượm thời cổ nghiêng nhiều về công xã hơn và bình đẳng hơn so với những xã hội hiện đại, những nhà nghiên cứu cho rằng, chúng vẫn gồm những “tế bào” riêng biệt, mỗi tế bào chứa một cặp vợ chồng ghen tuông và những đứa trẻ họ đã có và giữ chung. Đây là lý do tại sao ngày nay những quan hệ một vợ một chồng và gia đình cơ bản là định khuôn thông thường trong phần lớn những nền văn hóa, tại sao những đàn ông và phụ nữ có khuynh hướng muốn nắm giữ chặt chẽ vợ hay chồng và con cái của họ, và tại sao ngay cả ở những quốc gia hiện đại như Bắc Korea và Syria thẩm quyền chính trị được truyền từ cha xuống con. Để giải quyết cuộc tranh luận này và hiểu được xã hội, chính trị và khuynh hướng tình dục của chúng ta, chúng ta cần phải tìm hiểu một gì đó về những điều kiện sinh sống của tổ tiên chúng ta, để xem xét nhữngSapiens đã sống giữa cuộc Cách mạng Nhận thức của 70.000 năm trước đây và bắt đầu của cuộc Cách mạng Nông nghiệp về 12.000 năm trước đây.
Thật không may, có rất ít những điều chắc chắn liên quan đến cuộc sống của tổ tiên thời lang thang kiếm ăn của chúng ta. Cuộc tranh luận giữa những trường phái “công xã sơ khai” và “một vợ một chồng vĩnh viễn” đều dựa trên những bằng chứng mỏng manh. Chúng ta rõ ràng là không những tài liệu ghi chép từ thời đại của hái lượm kiếm ăn, và những bằng chứng khảo cổ bao gồm chủ yếu là những xương hóa thạch và những dụng cụ bằng đá. Những vật tạo tác bằng những vật liệu dễ hỏng – như gỗ, tre hoặc da – chỉ tồn tại được trong điều kiện đặc biệt. Ấn tượng phổ biến rằng con người trước-canh nông đã sống trong một thời đại của đồ dùng bằng đá là một quan niệm sai lầm dựa trên thiên kiến khảo cổ này. Kỷ Đồ Đá nên chính xác hơn được gọi là Thời Đồ Gỗ, vì hầu hết những dụng cụ được những người thợ săn sơ khai sử dụng làm bằng gỗ. Bất kỳ sự tái dựng nào về đời sống của người săn bắn hái lượm thời cổ từ những cổ vật còn tồn tại đến nay là chứa đựng rất nhiều những vấn đề khó khăn. Một trong những sự khác biệt rõ ràng nhất, giữa những người kiếm ăn hái lượm sơ khai và những con cháu sinh sống bằng canh nông và kỹ nghệ của họ, trước tiên là những người kiếm ăn có rất ít những đồ vật do con người làm ra, và những đồ vật nhân tạo này đóng một vai trò tương đối khiêm tốn trong sinh hoạt của họ. Trong suốt cuộc đời của mình, một thành viên điển hình của một xã hội giàu có hiện đại, nam hay nữ, sẽ sở hữu một số hàng triệu những đồ vật nhân tạo – từ xe cộ và nhà cửa, đến khăn ăn, đĩa giấy và những hộp sữa bằng các tông, đều dùng một lần rồi vứt đi. Hầu như không có một hoạt động, một tin tưởng, hoặc ngay cả một cảm xúc mà không có những đối tượng của sự chế đặt ra của chúng ta chen vào, đứng làm trung gian. Thói quen ăn uống của chúng ta được trung gian bởi một tập hợp tràn ngập đến choáng váng của những hạng mục đó, từ thìa và ly đến những phòng thí nghiệm (chế biến thức ăn theo) kỹ thuật di truyền, và những tàu biển (như những nhà hàng nổi) khổng lồ. Trong chơi đùa, chúng ta dùng một lượng thừa thãi quá đáng những đồ chơi, từ những quân bài bằng nhựa đến những sân vận động 100.000 chỗ ngồi. Những quan hệ tình cảm lãng mạn và tình dục của chúng ta được trang bị bởi những nhẫn, những giường, những quần áo đẹp, những đồ lót sexy, những condom, những hiệu ăn hợp thời trang, những nhà trọ đỗ xe bên đường giá rẻ, những phòng ăn uống khi tạm nghỉ ở những sân bay, những toà nhà lớn rộng cho đám cưới và những công ty chuyên cung cấp thức ăn cho những đám tiệc.
Tôn giáo mang sự linh thiêng vào đời sống của chúng ta với những nhà thờ kiểu Gothic, những mosque đạo Islam, những ashram Hindu, những cuộn giấy da (chép luật) Torah, những vòng bánh xe cầu nguyện của người Tibet, áo dài cassock của nhà chăn chiên, nến, nhang, cây Noel, bánh mì matzah của người Jews, những bia mộ và những biểu tượng. Chúng ta hiếm khi ghi nhận những vật dụng của chúng ta thì đâu cũng có, nhan nhản khắp nơi như thế nào, đến khi chúng ta phải di chuyển chúng đến một ngôi nhà mới. Những người hái lượm kiếm ăn chuyển nhà hàng tháng, hàng tuần, và đôi khi ngay cả mỗi ngày, bất cứ gì họ có họ tải trên lưng họ. Không có những công ty di chuyển chuyên nghiệp, xe wagông, hoặc ngay cả những thú vật thồ hàng để chia sẻ gánh nặng. Họ do đó buộc phải sinh hoạt với chỉ những vật dụng sở hữu thiết yếu nhất. Điều là hợp lý để giả định, khi đó, là một phần lớn của đời sống tinh thần, tôn giáo và tình cảm của họ đã được tiến hành với không có những vật dụng nhân tạo giúp đỡ. Một nhà khảo cổ học, làm việc 100.000 năm sau, có thể ghép những mảnh vụn vào nhau thành một bức tranh hợp lý về sự tin tưởng và thực hành của người Muslim từ vô số những vật dụng mà ông khai quật được tại một mosque Islam đã bị hư hoại. Nhưng chúng ta phần lớn là hoang mang, phân vân trong việc cố gắng để hiểu được tin tưởng và nghi lễ của những người săn bán hái lượm thời cổ. Đó rất giống cùng một đilemma mà một sử gia tương lai sẽ phải đối mặt, nếu ông phải mô tả thế giới xã hội của những trẻ tuổi teen của thế kỷ 21, chỉ trên cơ sở của những thư từ gửi qua bưu điện còn sót lại của họ – vì không có hồ sơ nào của những nói chuyện phone, email, blog và tin nhắn các loại của họ sẽ còn. Việc phụ thuộc vào những đồ tạo tác như vậy khiến một giải thích về cuộc sống săn bắn hái lượm thời cổ sẽ bị thiên lệch. Một cách để khắc phục điều này là nhìn vào những xã hội hái lượm kiếm ăn hiện đại. Những xã hội này có thể được nghiên cứu trực tiếp, bằng sự quan sát trong ngành nhân loại học. Nhưng có những lý do chân thực để phải rất cẩn thận trong việc suy diễn từ những xã hội hái lượm hiện đại mở rộng về những xã hội hái lượm kiếm ăn thời cổ. Thứ nhất, tất cả những xã hội hái lượm kiếm ăn sống sót còn tồn tại vào trong kỷ nguyên hiện đại đã bị ảnh hưởng bởi những xã hội canh nông và kỹ nghệ lân cận. Do đó, điều là liều lĩnh để cho rằng những gì là đúng thực với
họ là cũng đã đúng thực hàng chục nghìn năm trước đây. Thứ nhì, những xã hội hái lượm kiếm ăn trong thời hiện đại đã sống sót chủ yếu ở những vùng có điều kiện khí hậu khắc nghiệt và địa hình khó khăn, không thích hợp cho canh nông. Những xã hội đã thích nghi với những điều kiện cực đoan của những nơi như sa mạc Kalahari ở miền nam châu Phi cũng có thể cung cấp một mô hình rất lừa dối cho sự tìm hiểu những xã hội thời cổ ở những khu vực phì nhiêu, chẳng hạn như thung lũng sông Yangtze. Đặc biệt, mật độ dân số trong khu vực như sa mạc Kalahari thì thấp hơn rất nhiều, so với vùng bao quanh sông Yangtze thời cổ, và điều này có những diễn dịch ý nghĩa sâu xa cho những câu hỏi quan trọng về kích thước và cấu trúc của những bầy đoàn con người và những quan hệ giữa chúng. Thứ ba, đặc điểm đáng chú ý nhất của những xã hội săn bắn hái lượm, giữa xã hội này với một xã hội khác, là chúng khác biệt như thế nào. Chúng khác biệt không chỉ từ một vùng này của thế giới với một vùng khác, nhưng ngay cả trong cùng khu vực. Một thí dụ điển hình là sự đa dạng lớn lao những người châu Âu định cư đầu tiên đã tìm thấy giữa những thổ dân của Australia. Ngay trước khi có cuộc chinh phục của người Anh, có khoảng từ 300.000 đến 700.000 những thổ dân săn bắn hái lượm sống trên lục địa này, trong khoảng 200 đến 600 bộ lạc, mỗi trong số đó đã lại được phân thành nhiều bầy đoàn [5]. Mỗi bộ lạc có ngôn ngữ, tín ngưỡng, khuôn thức và tập quán riêng của họ. Sinh sống quanh vùng bây giờ là Adelaide, ở miền nam Australia, đã có nhiều gia tộc theo chế độ phụ hệ vốn nhìn nhận dòng dõi từ bên người cha. Những gia tộc này liên kết với nhau thành những bộ lạc hoàn toàn trên cơ sở lãnh thổ. Ngược lại, có một số bộ lạc ở miền bắc Australia đã cho dòng dõi bên mẹ là quan trọng hơn, và danh tính bộ lạc của một người tuỳ thuộc vào tôtem của người ấy hơn là lãnh thổ của người ấy. Xem dường hợp lý rằng sự đa dạng về dân tộc và văn hóa giữa người săn bắn hái lượm thời cổ cũng gây ấn tượng sâu sắc không kém, và rằng 5 triệu đến 8 triệu những người kiếm ăn cư ngụ trên thế giới, vào đêm trước của cuộc Cách mạng Nông nghiệp, được chia thành hàng ngàn bộ lạc riêng, với hàng ngàn ngôn ngữ và văn hoá khác biệt [6]. Sự kiện này, sau cùng tất cả, là một trong những di sản chính của cuộc Cách mạng Nhận thức. Nhờ sự xuất hiện của truyện bịa đặt, ngay cả những người có cùng cấu tạo gene di truyền, là người sống trong những điều kiện sinh thái tương tự, đã có thể
tạo ra những thực tại tưởng tượng rất khác biệt, trong đó thể hiện rõ trong những khuôn thức và những giá trị khác biệt. Lấy thí dụ, có mọi lý do để tin rằng, nếu có một bầy đoàn kiếm ăn sống khoảng 30.000 năm trước đây tại nơi hiện nay là đại học Oxford, hẳn đã nói một ngôn ngữ khác biệt với một bầy đoàn khác, khi ấy đang sống ở nơi trường Cambridge hiện nay toạ lạc. Một bầy đoàn có thể là hiếu chiến và bầy đoàn kia thì chuộng hòa bình. Có lẽ bầy đoàn tại địa điểm Cambridge theo tổ chức công xã, trong khi bầy đoàn tại Oxford dựa trên những gia đình cơ bản. Những người ở Cambridge có thể đã dành nhiều thì giờ vào việc khắc những tượng gỗ những thần linh giám hộ của họ, trong khi những người ở Oxford thể đã thể hiện sự thờ phụng qua hình thức nhảy múa. Những người kể trước có lẽ tin vào sự tái sinh, trong khi những người kể sau, họ nghĩ rằng điều này là vô nghĩa. Trong một xã hội này, những quan hệ đồng tính có thể được chấp nhận, trong khi ở một xã hội kia, chúng là những tabu. Nói cách khác, trong khi những quan sát nhân loại học về những người hái lượm kiếm ăn của thời hiện đại có thể giúp chúng ta hiểu được một vài những điều có thể xảy ra với những người kiếm ăn thời cổ, chân trời của những điều có thể xảy ra thời xa xưa đã rộng rãi hơn nhiều, và nó hầu hết bị che dấu khỏi tầm nhìn của chúng ta [7]. Những tranh luận sôi nổi về “cách sinh sống tự nhiên” của Homo Sapiens đã bỏ hụt mất điểm chính. Kể từ cuộc Cách mạng Nhận thức, đã chưa bao giờ từng có một cách sinh sống tự nhiên duy nhất cho những Sapiens. Chỉ có những lựa chọn văn hóa, từ một bảng đầy những màu sắc, phức tạp đến lúng túng, rắc rối đến hoang mang, của những những điều đã có thể xảy ra. Xã hội Giàu có Nguyên thủy Dù sao đi nữa, những khái quát gì chúng ta có thể nói được về đời sống trong thế giới ở thời trước-canh nông? Điều xem dường an toàn để nói rằng đại đa số dân chúng đã sống trong những bầy đoàn nhỏ đếm được trong số nhiều vài tá, hoặc nhiều nhất vài trăm cá nhân, và rằng tất cả những cá nhân này là những con người. Điểm sau này là quan trọng để lưu ý, vì nó khá ngược với những gì vẫn xem là hiển nhiên. Hầu hết những thành viên của những xã hội canh nông và kỹ nghệ là những động vật đã được thuần hóa.
Dĩ nhiên, chúng và những chủ nhân của chúng không ngang bằng, nhưng chúng tất cả như nhau đều là những thành viên. Ngày nay, xã hội gọi là New Zealand gồm 4,5 triệu Sapiens và 50 triệu con cừu. Chỉ có một ngoại lệ với luật tổng quát này: con chó. Con chó là con vật đầu tiên đã được Homo Sapiensthuần hóa bởi và điều này đã xảy ra trước cuộc Cách mạng Nông nghiệp. những nhà chuyên môn không đồng ý về năm tháng chính xác, nhưng chúng ta có bằng chứng không thể phủ nhận của loài chó đã thuần hoá khoảng từ 15.000 năm trước đây. Chúng có thể đã nhập vào những bầy người hàng ngàn năm trước đó. Chó đã dùng để đi săn và chiến đấu, và như một hệ thống báo động chống lại thú dữ và kẻ lạ đột nhập. Trải qua nhiều thế hệ, hai loài này đã cùng tiến hóa để truyền thông tốt với nhau. Những con chó nào đã chăm chú nhất với những nhu cầu và cảm xúc của con người đồng bạn của chúng, nhận thêm được chăm sóc và thức ăn hơn, và chắc đã có nhiều cơ hội để sống còn. Đồng thời, giống chó học gây được ảnh hưởng vào con người cho những nhu cầu riêng của chúng. Một gắn bó chặt chẽ 15.000 năm đã mang lại một hiểu biết và tình cảm sâu xa giữa loài người và loài chó, hơn giữa loài người và bất kỳ loài vật nào khác [8]. Trong một vài trường hợp, những con chó chết đã được chôn theo nghi lễ, rất giống như con người. Những thành viên của một bầy đoàn hiểu biết lẫn nhau rất riêng tư chi tiết, và có bạn bè và người thân bao bọc quanh họ suốt cuộc đời. Sự cô đơn và sự riêng tư là rất hiếm hoi. Những bầy đoàn láng giềng có thể tranh dành những nguồn tài nguyên, và ngay cả đã chiến đấu với nhau, nhưng họ cũng có những tiếp xúc thân thiện. Họ trao đổi những thành viên, cùng đi săn với nhau, trao đổi những vật dụng xa xỉ hiếm lạ, thắt chặt liên minh chính trị và ăn mừng những lễ hội tín ngưỡng. Sự hợp tác như thế đã là một trong những nhãn hiệu quan trọng của Homo Sapiens, và đem cho nó một sự lấn lướt sắc bén chủ yếu trên những loài khác của con người. Đôi khi liên hệ với những bầy đoàn lân cận đã đủ chặt chẽ khiến họ đã cùng nhau tạo thành một bộ lạc duy nhất, chia sẻ một ngôn ngữ chung, những huyền thoại phổ biến, và những chuẩn mực và giá trị chung. Tuy nhiên, chúng ta không nên đoán định quá mức về sự quan trọng của những liên hệ mặt ngoài như vậy. Ngay cả trong những thời khủng hoảng, những bầy đoàn láng giềng đã xích lại gần nhau hơn, và ngay cả nếu họ thỉnh
thoảng tụ tập để săn bắn hoặc ăn uống chung với nhau, họ vẫn dành phần lớn thời giờ của họ trong cô lập hoàn toàn và độc lập. Đổi chác buôn bán hầu hết giới hạn trong những mặt hàng được xem trọng như những vỏ sò, hổ phách và những bột màu. Không có bằng chứng cho thấy người ta trao đổi thức ăn hàng ngày như trái cây và thịt, hay sự hiện hữu của một bầy đoàn phụ thuộc vào việc nhập cảng hàng hóa từ bầy đoàn khác. Quan hệ chính trị xã hội cũng vậy, có khuynh hướng lẻ tẻ bất định. Bộ lạc đã không được dùng trong khả năng như một khuôn khổ chính trị thường trực, và ngay cả nếu nó có những địa điểm hội họp theo mùa, không thường xuyên, đã không có những thị trấn hoặc những tổ chức cố định. Con người trung bình sống trong nhiều tháng mà không nhìn thấy, hoặc nghe một con người nào khác từ bên ngoài bầy đoàn riêng của mình, và trong suốt cuộc đời của mình, người ấy gặp không quá một vài trăm người. Dân chúng Sapiens đã trải mỏng rộng ra trên những lãnh thổ rộng lớn. Trước Cách mạng Nông nghiệp, dân số của cả hành tinh đã nhỏ hơn so với của thành phố Cairo ngày nay. Hình 7. Thú cưng đầu tiên? Một ngôi mộ 12.000 năm được tìm thấy ở miền bắc Israel. Nó chứa bộ xương của một người phụ nữ năm mươi tuổi, bên cạnh đó có bộ xương của một con chó con (góc dưới cùng bên trái). Con chó con đã được chôn gần đầu của người phụ nữ. Tay trái của bà được đặt nằm trên con chó trong một cách mà có thể chỉ định một liên hệ tình cảm. Dĩ nhiên, có thể có những cách giải thích khác. Lấy thí dụ, có lẽ con chó là một
món quà cho người gác cổng của thế giới bên kia. Hầu hết những bầy đoàn Sapiens sống trên đường, lang thang nơi này đến nơi khác để tìm thức ăn. Những chuyển dịch của họ đã chịu ảnh hưởng của sự thay đổi mùa màng, những di cư hàng năm của những loài động vật và những chu kỳ sinh trưởng của những thực vật. Họ thường đi lại tới lui xuyên ngang trên cùng một lãnh thổ quê nhà, có diện tích từ hàng chục đến hàng trăm cây số vuông. Thỉnh thoảng, những bầy đoàn lang thang ra ngoài đồng cỏ của họ và thám hiểm những đất mới, dù nguyên nhân là thiên tai, xung đột bạo động, áp lực dân số hay sự khởi đầu của một người thủ lãnh có sức lôi cuốn. Những lang thang này đã là động cơ của sự mở rộng trên toàn thế giới của con người. Nếu một bầy đoàn kiếm ăn phân đôi một lần mỗi khoảng bốn mươi năm, và nhóm phân ly của nó di cư đến một lãnh thổ mới một trăm cây số về phía đông, khoảng cách từ Đông Phi sang Tàu sẽ đi được trong khoảng 10.000 năm. Trong một vài những trường hợp ngoại lệ, khi có những nguồn thức ăn đặc biệt phong phú, những bầy đoàn đã ở lại liên tục một chỗ, theo mùa trong năm, và ngay cả vĩnh viễn. Kỹ thuật phơi khô, hun khói và đông lạnh thực phẩm cũng làm nó có thể ở yên trong những thời gian lâu dài hơn. Quan trọng nhất, dọc theo những vùng biển và những con sông giàu thuỷ sản và những loài chim nước, con người lập làng đánh cá vĩnh viễn – những khu định cư lâu dài đầu tiên trong lịch sử, trước khi có cuộc Cách mạng Nông nghiệp từ lâu. Những làng đánh cá có thể đã xuất hiện trên những bờ biển của quần đảo Indonesia, sớm cũng khoảng 45.000 năm trước đây. Đây có thể là căn cứ để từ đó Homo Sapiens đã bắt đầu công trình vượt đại dương đầu tiên của mình: sự xâm lăng châu Australia. Trong hầu hết những môi trường sống, những bầy đoàn Sapiens tự cung tự cấp thức ăn trong một kiểu thức co dãn và cơ hội. Họ lùng kiếm những loài mối, hái quả chín, đào đất tìm củ, đuổi theo thỏ và săn bò bison và voi mammoth. Mặc dù hình ảnh phổ biến là “con người thợ săn”, nhưng hái lượm là hoạt động chính của Sapiens, và nó cung cấp cho họ hầu hết những calorie, cũng như những vật liệu thô như đá lửa, gỗ và tre. Sapiens đã lùng kiếm không chỉ thức ăn và vật liệu. Họ cũng tìm kiếm kiến
thức nữa. Để tồn tại, họ cần biết nằm lòng một bản đồ chi tiết lãnh thổ của họ trong đầu óc họ. Để có hiệu quả nhiều nhất sự tìm kiếm hàng ngày của họ với thức ăn, họ đòi hỏi thông tin về những mô hình phát triển của mỗi thực vật và những thói quen của mỗi động vật. Họ cần phải biết những loại thực phẩm nào đã nuôi dưỡng, đã gây bệnh, và dùng những thức ăn uống khác để chữa trị như thế nào. Họ cần biết sự tiến triển của mùa màng và những dấu hiệu nào báo trước một cơn bão, hoặc một mùa khô. Họ đã học hỏi tất cả mỗi dòng nước, mỗi cây walnut, mỗi hang có gấu, và mỗi mạch ngầm đá flint, trong vùng xung quanh họ. Mỗi cá nhân phải biết làm một con dao bằng đá flint như thế nào, vá một chiếc áo choàng bị rách như thế nào, đặt một cái bẫy thỏ như thế nào, và đối phó với nạn tuyết lở, rắn cắn hoặc sư tử đói mồi như thế nào. Thành thạo mỗi một của những kỹ năng này đòi hỏi nhiều năm học nghề và thực hành. Một người kiếm ăn trung bình thời cổ, đã có thể biến đá lửa vào thành một mũi giáo nhọn trong vòng vài phút. Khi chúng ta cố gắng bắt chước kỳ công này, chúng ta thường thất bại thảm hại. Hầu hết chúng ta thiếu kiến thức về những thuộc tính của đá flint, và đá bazan, và những kỹ năng vận động cần thiết để làm việc chính xác với chúng. Nói cách khác, người thu lượm kiếm ăn trung bình có kiến thức sâu hơn, rộng hơn, và đa dạng hơn về môi trường trực tiếp xung quanh, so với hầu hết những hậu duệ hiện đại của mình. Ngày nay, hầu hết mọi người trong những xã hội kỹ nghệ không cần biết nhiều về thế giới tự nhiên để có thể sống còn. Những gì bạn thực sự cần biết ngõ hầu vượt qua khó khăn, thành công được như một kỹ sư computer, một đại diện bán bảo hiểm, một thày giáo dạy lịch sử, hay một công nhân nhà máy? Bạn cần phải biết thật nhiều về lĩnh vực chuyên môn nhỏ nhoi của mình, còn đối với phần lớn những nhu cầu cần thiết của đời sống, bạn mù loà, dựa vào sự giúp đỡ của những nhà chuyên môn khác, vốn có hiểu biết riêng chỉ giới hạn trong một lĩnh vực nhỏ cũng của chuyên môn. Tập thể con người ngày nay hiểu biết hơn rất nhiều so với những bầy đoàn cổ đã hiểu biết. Nhưng ở mức độ cá nhân, những người kiếm ăn hái lượm ngày xưa đã là những người am hiểu nhất, và khéo léo nhất trong lịch sử. Có một vài bằng chứng cho thấy kích thước bộ óc Sapiens trung bình thực sự đã giảm nhỏ đi từ thời hái lượm [9]. Sống còn trong thời đại đó đòi hỏi tất cả mọi người phải có những khả năng não thức trác tuyệt. Chuyển sang thời canh nông và kỹ nghệ, con người ngày càng có thể dựa vào những kỹ năng
của người khác để sống còn, và đã mở ra “những hang ẩn náu mới cho những đần độn”. Bạn có thể sống còn và truyền những gene tầm thường của mình cho thế hệ sau bằng cách làm việc như một người gánh nước hoặc một công nhân làm việc trong hệ thống dây chuyền-lắp ráp. Những người hái lượm kiếm ăn đã không chỉ thành thạo tinh thông về thế giới xung quanh của những động vật, thực vật và những vật dụng, nhưng cũng cả về thế giới bên trong cơ thể và những giác quan của họ. Họ lắng nghe động tĩnh nhỏ nhất trong đám cỏ để tìm xem liệu một con rắn có thể rình mò ở đó hay không. Họ cẩn thận quan sát những vòm lá nhằm tìm ra những trái cây, tổ ong và tổ chim. Họ di chuyển với tối thiểu sức lực và tiếng động, và biết cách thế nào để ngồi, để đi bộ và chạy một cách nhanh nhẹn và hiệu quả nhất. Liên tục sử dụng cơ thể trong nhiều cách khác biệt khiến họ sung sức mạnh khoẻ cũng như những lực sĩ điền kinh marathon. Họ có sự khéo léo tay chân mà con người ngày nay không thể đạt được, ngay cả sau nhiều năm tập luyện yôga hoặc tài chí. Cách sinh hoạt của người săn bắn hái lượm khác biệt đáng kể từ vùng này sang vùng khác, từ mùa trước sang mùa sau, nhưng trên toàn bộ, những người kiếm ăn bằng săn bắn hái lượm dường như đã vui hưởng một phong cách sống dễ chịu thoải mái hơn và thoả mãn đáng làm hơn so với của hầu hết những người nông dân, người chăn cừu, những người lao động và nhân viên văn phòng, là những người tiếp bước theo chân họ. Trong khi mọi người trong xã hội giàu có ngày nay làm việc trung bình 40-45 giờ một tuần, và mọi người trong thế giới đang phát triển làm việc 60, ngay cả 80 giờ một tuần, những người săn bắn hái lượm ngày nay sống trong những môi trường sống khắc nghiệt nhất – chẳng hạn như những người ở sa mạc Kalahari làm việc trung bình chỉ 35-45 giờ một tuần. Họ đi săn chỉ một trong ba ngày, và hái lượm chỉ chiếm 3-6 giờ mỗi ngày. Trong bình thường, thế này là đủ để nuôi bầy đoàn. Điều cũng rất có thể là những người săn bắn hái lượm thời cổ, sống trong một vùng màu mỡ hơn Kalahari, đã dành thời gian ngay cả còn ít hơn để có được thức ăn và vật liệu thô sống. Thêm vào đó, những người hái lượm kiếm ăn vui hưởng một gánh gồm những công việc bếp núc gia đình nhẹ hơn. Họ không có đĩa ăn để phải rửa, không có thảm để phải hút bụi, không có sàn nhà để phải đánh bóng, không có tã lót trẻ con để phải thay, và không có những hóa đơn để phải thanh toán.
Nền kinh tế hái lượm kiếm ăn đã cung cấp cho hầu hết con người với đời sống thú vị hơn, so với của canh nông hay kỹ nghệ. Ngày nay, một thợ máy người Tàu ra khỏi nhà khoảng 7 giờ sáng, đi đến xưởng lao động loại tất bật mồ hôi vất vả của mình, qua những đường phố bị ô nhiễm, và ở đó, điều khiển cùng một thiết bị máy móc, theo cùng một cách, ngày này sang ngày kia, đằng đẵng suốt 10 tiếng đồng hồ đầu óc ê ẩm, khoảng 7 giờ tối trở về nhà lại làm việc, để rửa chén bát và giặt ủi, chẳng hạn. Ba mươi nghìn năm trước đây, một người kiếm ăn Tàu có thể rời khỏi trại định cư với bạn của cô, tạm nói, khoảng 8 giờ sáng. Họ đi lang thang trong những khu rừng lân cận và những đồng cỏ, nhặt nấm, đào rễ, bắt ếch và đôi khi chạy trốn những con hổ. Đến sớm chiều, họ đã trở lại trại định cư để làm bữa ăn trưa. Điều đó cho họ rất nhiều thời gian để buôn chuyện rỗi hơi, kể chuyện, chơi với trẻ em, và chỉ rong chơi, chẳng phải làm gì. Dĩ nhiên đôi khi những con hổ vồ họ, hay một con rắn cắn họ, nhưng mặt khác, họ không phải đối phó với những tai nạn ô tô, và sự ô nhiễm kỹ nghệ. Ở hầu hết mọi nơi và trong hầu hết thời gian, đi tìm kiếm hái lượm thức ăn đem cho sự dinh dưỡng lý tưởng. Điều đó hầu như không có gì phải ngạc nhiên – đây đã từng là tập hợp những thức ăn uóng thông thường của con người trong hàng trăm nghìn năm, và cơ thể con người cũng đã giỏi thích nghi với nó. Bằng chứng từ những bộ xương hóa thạch chỉ ra rằng những người hái lượm kiếm ăn sơ khai ít có khả năng bị chết đói hoặc thiếu dinh dưỡng, và nhìn chung, họ cao hơn và khỏe mạnh hơn những con cháu trồng trọt làm ruộng của họ. Tuổi thọ trung bình là dường như chỉ khoảng bốn mươi năm, nhưng điều này phần lớn do tỉ lệ tử vong cao của trẻ em. Trẻ em nào vượt qua được những năm tháng nguy hiểm đầu tiên, có một cơ hội may mắn hơn để sống cho đến những năm sáu mươi, và một số ngay cả còn đến những năm tám mươi của họ. Trong số những người hái lượm kiếm ăn hiện đại, phụ nữ đã 45 tuổi hy vọng có thể sống thêm 20 năm, và khoảng 5-8 phần trăm dân số trên 60. [10] Bí mật của sự thành công của những người hái lượm kiếm ăn, vốn bảo vệ họ khỏi chết đói và thiếu dinh dưỡng, là tập hợp những thức ăn uóng thông thường đa dạng của họ. Những nông dân có khuynh hướng ăn một tập hợp những thức ăn uống thông thường rất hạn chế và không cân bằng. Đặc biệt trong thời tiền hiện đại, hầu hết những calori bồi dưỡng một dân số canh nông đến từ một cây trồng duy nhất – chẳng hạn như bột mì, khoai tây, hay
gạo – thiếu một số vitamin, khoáng chất và nguyên liệu dinh dưỡng khác vốn con người cần. Người nông dân điển hình trong truyền thống Tàu, bữa ăn sáng ăn cơm, bữa trưa ăn cơm và bữa tối ăn cơm. Nếu cô ấy thật may mắn, cô có thể mong đợi ngày hôm sau lại được ăn cơm. Ngược lại, những người hái lượm kiếm ăn thời cổ thường xuyên ăn hàng chục thực phẩm khác biệt. Tổ tiên của những người trồng trọt canh tác sơ khai, những người hái lượm kiếm ăn, có thể ăn những quả berries, và nấm cho bữa sáng; trái cây, ốc và rùa cho bữa trưa; và thịt thỏ với hành tây mọc hoang cho bữa tối. Thực đơn ngày mai có thể là khác biệt hoàn toàn. Sự đa dạng này bảo đảm rằng những người chuyên hái lượm kiếm ăn thời cổ, nhận được tất cả những chất dinh dưỡng cần thiết. Hơn nữa, do không bị lệ thuộc vào bất kỳ một loại thực phẩm duy nhất nào, họ ít phải chịu khổ khi một nguồn thực phẩm đặc biệt nào nó bị hư hỏng. Xã hội canh nông bị nạn đói tàn phá khi hạn hán, hỏa hoạn, hay động đất, chúng tàn phá một vụ lúa hoặc khoai tây toàn năm. Xã hội kiếm ăn hiếm mà hoàn toàn được miễn nhiễm với những thảm họa thiên nhiên, và với những thời kỳ phải chịu thiếu thốn và đói khát, nhưng họ thường có khả năng đối phó với thiên tai thuộc những loại như thế dễ dàng nhiều hơn. Nếu họ bị mất một số những gì ăn được hàng ngày, những nguồn thức ăn chính của họ, họ có thể hái lượm hoặc săn bắt những loài khác, hoặc chuyển tới một khu vực bị ảnh hưởng ít hơn. Những người hái lượm kiếm ăn thời cổ cũng ít phải khổ vì những bệnh truyền nhiễm. Hầu hết những bệnh truyền nhiễm từng khiến những xã hội canh nông và kỹ nghệ (như bệnh đậu mùa, bệnh sởi và bệnh lao) có nguồn gốc từ những động vật được thuần hóa và được truyền sang con người chỉ sau cuộc Cách mạng Nông nghiệp. Những người hái lượm kiếm ăn thời cổ, đã thuần hoá chỉ một mình loài chó, họ đã không bị buộc vào với những tai họa này. Hơn nữa, hầu hết mọi người trong xã hội canh nông và kỹ nghệ sống trong những khu định cư lâu dài đông đảo, dày đặc, thiếu vệ sinh – những hang ổ lý tưởng cho bệnh tật. Những người hái lượm, trong những bầy đoàn nhỏ, đã rong ruổi đây đó kiếm ăn, khiến không thể duy trì những dịch bệnh. Tập hợp những thức ăn uóng thông thường lành mạnh và đa dạng, tuần làm việc tương đối ngắn, và sự hiếm có của những bệnh truyền nhiễm đã khiến
nhiều nhà chuyên môn định nghĩa xã hội kiếm ăn trước-canh nông là ‘xã hội giàu có nguyên thuỷ’. Sẽ là một điều sai lầm, tuy nhiên, để lý tưởng hoá cuộc sống của những người cổ xưa này. Dẫu họ có một cuộc sống tốt hơn so với hầu hết mọi người trong xã hội canh nông và kỹ nghệ, thế giới của họ vẫn có thể là khắc nghiệt, hiềm thù và và không khoan dung. những giai đoạn của thiếu thốn và khó khăn không phải là không phổ thông, tỉ lệ tử vong trẻ em đã cao, và một tai nạn nào đó sẽ là nhỏ trong thời nay có thể dễ dàng trở thành một bản án tử hình. Hầu hết mọi người có thể được hưởng sự thân mật gần gũi của những bầy đoàn di chuyển lang thang, nhưng những người không may đó, người đã gây nên sự thù địch hay nhạo báng của những thành viên của bầy đoàn mình có thể cực kỳ đau khổ. Những người hái lượm kiếm ăn hiện đại đôi khi bỏ rơi, và ngay cả giết chết, những người già hoặc người tàn tật, khi họ không thể còn theo kịp với bầy đoàn. Những trẻ sơ sinh không mong muốn và trẻ em có thể bị giết, và ngay cả có những trường hợp hy sinh con người đã hứng khởi từ tôn giáo. Dân tộc Aché, những người săn bắn hái lượm, họ sống trong những khu rừng già ở Paraguay cho đến tận những năm 1960, thoáng cho chúng ta một cái nhìn vào phía mặt tối của xã hội kiếm ăn bằng săn bắn hái lượm. Khi một thành viên được trọng vọng của bầy đoàn qua đời, những người Aché theo tập tục, đã giết một em bé gái và chôn chung. Những nhà nhân loại học đã hỏi chuyện những người Aché đã ghi lại một trường hợp trong đó một bầy đoàn bỏ rơi một người tuổi trung niên đã bị ốm và không thể theo kịp sinh hoạt với những người khác. Ông đã bị lại dưới một gốc cây. Kền kền lượn sẵn bên trên, chờ đợi một bữa ăn thịnh soạn. Nhưng con người này hồi phục, và, bước đi nhanh nhảu, ông ta đã xoay sở để tái nhập với bầy đoàn. Mình mẩy ông đầy những phân chim rơi, do đó, từ đó có biệt danh “Đống phân rơi Kên kên”. Khi một phụ nữ Aché già đã trở thành một gánh nặng cho phần còn lại của bầy đoàn, một trong những người nam trẻ tuổi sẽ lẩn ra đằng sau bà, và giết bà bằng một cái rìu bổ vào đầu. Một người nam Aché nói với những nhà nhà nhân loại học tò mò hỏi chuyện về những năm tươi trẻ của mình trong khu rừng nhiệt đới. “Tôi đã theo tập tục giết những phụ nữ già. Tôi đã thường giết những cô dì của tôi ... Những người phụ nữ sợ tôi ... Bây giờ, ở đây với những người da trắng, tôi đã trở nên yếu đuối”. Những trẻ em sinh ra không có tóc, người được coi là chậm phát triển, đã bị giết chết ngay lập tức. Một
người phụ nữ kể lại rằng đứa con gái đầu tiên của bà đã bị giết vì những người trong bầy đoàn đã không muốn một bé gái khác. Trong một dịp khác, một người đã giết một bé trai nhỏ vì ông đã đang ‘trong một tâm trạng xấu và đứa trẻ đang khóc’. Một đứa trẻ khác đã bị chôn sống vì “nó trông buồn cười và những trẻ em khác cười nhạo nó”.[11] Tuy nhiên, chúng ta nên cẩn thận, đừng phán đoán những người Aché quá vội vàng. Những nhà nhân loại học, những người đã sống với họ trong nhiều năm, tường thuật rằng bạo lực giữa những người trưởng thành là rất hiếm. Cả đàn bà và đàn ông đều tự do thay đổi những bạn tình ăn nằm theo ý muốn. Họ không ngừng cười mỉm và cười lớn tiếng, không có hệ thống cấp bậc lãnh đạo, và thường xa lánh những người hay sai bảo ra lệnh. Họ hết sức hào phóng với một ít của cải của họ, và đã không bị ám ảnh với sự thành công hay sự giàu có. Những điều họ cho là có giá trị nhất trong đời sống là những tương quan tốt đẹp trong xã hội và tình bạn có phẩm chất cao. Họ xem việc giết trẻ em, người bệnh và người già như nhiều người ngày nay xem việc phá thai và giết tránh đau [12]. Cũng nên lưu ý rằng người Aché đã bị những nông dân Paraguay săn đuổi và giết không thương tiếc. Sự cần thiết phải né tránh kẻ thù của họ có thể là nguyên nhân khiến người Aché chấp nhận một thái độ khắc nghiệt khác thường với bất cứ ai là người có thể trở thành một gánh nặng cho cả bầy đoàn. Sự thật là xã hội Aché, như mọi xã hội loài người, là rất phức tạp. Chúng ta nên cẩn thận với sự bôi đen xấu ác hoặc tô hồng lý tưởng nó trên cơ sở của một sự quen biết hời hợt. Những người Aché không phải là những thiên thần hay quái vật – họ là con người. Như thế, cũng vậy đã là những người săn bắn hái lượm thời cổ. Nói chuyện Hồn ma Bóng Quế Chúng ta có thể nói được những gì về đời sống tâm linh và tinh thần của những người săn bắn hái lượm thời cổ? Những cơ bản của nền kinh tế hái lượm kiếm ăn có thể được tái tạo với một vài tự tin dựa trên những yếu tố định lượng và khách quan. Lấy thí dụ, chúng ta có thể tính toán một người cần bao nhiêu calori mỗi ngày để sống còn, thu được bao nhiêu calori từ một kilogram những hạt walnut, và bao nhiêu hạt walnut có thể thu thập được từ diện tích đất rừng một cây số vuông. Với dữ liệu này, chúng ta có thể làm một phỏng đoán dựa trên hiểu biết về tầm quan trọng tương đối
của hạt walnut trong tập hợp những thức ăn uóng thông thường của họ. Nhưng có phải họ đã xem hạt walnut là một món ăn chán ngắt hay khoái khẩu? Có phải họ đã tin rằng có những thần linh trú ngụ trên những cây walnut? Có phải họ đã đã thấy lá cây walnut đẹp? Nếu một chàng trai săn bắn hái lượm muốn đưa một cô gái săn bắn hái lượm đến một địa điểm thơ mộng, có phải bóng mát của một cây walnut là đủ lãng mạn? Thế giới của tư tưởng, tín ngưỡng và cảm xúc là theo định nghĩa rất nhiều khó khăn để giải đoán chúng. Hầu hết những học giả đều đồng ý rằng những tin tưởng mang nội dung vật có hồn [13] đã là phổ thông giữa những người săn bắn hái lượm thời cổ. Thuyết vật có hồn (từ ‘anima” “linh hồn” hay “tinh thần” trong tiếng Latin) [14] là tin tưởng rằng hầu hết mỗi nơi chốn, mỗi động vật, mỗi thực vật và mỗi hiện tượng tự nhiên đều có nhận thức và cảm xúc, và có thể truyền thông trực tiếp với con người. Thế nên, những người theo thuyết vật có hồn có thể tin tưởng rằng tảng đá lớn ở trên đỉnh đồi có những ham muốn và những đòi hỏi. Tảng đá có thể tức giận về một gì đó mà người ta đã làm và mừng rỡ về một vài hành động khác. Tảng đá có thể khiển trách con người hoặc đòi hỏi những đối xử đặc biệt. Con người, về phần mình, có thể nói chuyện với tảng đá, hoặc để xoa dịu hoặc đe dọa nó. Không chỉ tảng đá, nhưng cũng cả cây sồi dưới chân đồi là một hữu thể sống động, và cũng thế là dòng nước chảy dưới ngọn đồi, là con suối trong khoảng rừng trống, là những bụi cây mọc quanh nó, là con đường dẫn đến khoảng rừng trống, và là những con chuột đồng, những con chó sói và những con quạ vốn chúng uống nước ở đó. Trong thế giới của những người theo thuyết vật có hồn, đối tượng và những sự vật việc không chỉ là sinh vật sống động. Ngoài ra còn có những thực thể phi vật chất – những thần linh của người chết, và những hữu thể thân thiện và ác độc, những loại mà ngày nay chúng ta gọi là những quỷ thần, tiên thần và thiên thần [15]. Những người theo thuyết vật có hồn tin rằng không có rào cản giữa con người và những sinh vật khác. Họ tất cả có thể truyền đạt thông tin trực tiếp qua lời nói, bài hát, vũ điệu và nghi lễ. Một người thợ săn có thể nói chuyện với một đàn hươu và yêu cầu rằng một trong số chúng tự hy sinh. Nếu chuyến đi săn thành công, người thợ săn có thể đòi hỏi con vật đã chết hãy
tha thứ cho mình. Khi có người ốm đau, một thày mo có thể liên hệ với thần linh gây bệnh và cố gắng để trấn an nó hay làm nó sợ phải bỏ đi. Nếu cần, thày mo có thể hỏi những thần linh khác trợ giúp. Những gì đặc trưng cho tất cả những hành vi truyền đạt thông tin này là những thực thể được giải quyết là những hữu thể địa phương. Họ không phải là những gót phổ quát, nhưng đúng hơn, là một con nai cụ thể, một cái cây cụ thể, một dòng nước cụ thể, một bóng ma cụ thể. Đúng như không có rào cản giữa con người và những sinh vật khác, cũng không có một hệ thống đẳng cấp nghiêm ngặt. Những thực thể không-người không hiện hữu chỉ để cung ứng cho những nhu cầu của con người. Họ cũng chẳng là những vị gót toàn năng điều hành thế giới theo như ý họ muốn. Thế giới không xoay quanh con người, hoặc quanh bất kỳ nhóm những sinh vật đặc biệt nào khác. Thuyết vật có hồn không phải là một tôn giáo xác định rõ ràng được. Nó là một tên gọi chung cho hàng ngàn những tôn giáo, những giáo phái và những tin tưởng, tất cả đều rất khác biệt. Những gì làm tất cả chúng có tính “tin vật có hồn”, tin cây cỏ, đất đá và những hiện tượng thiên nhiên đều có hồn, là cách tiếp cận có chung này với thế giới và vị trí của con người trong thế giới đó. Khi nói rằng có lẽ những người kiếm ăn hái lượm thời cổ đã là những người tin vật có hồn, thì giống như nói rằng những người canh nông thời trước-hiện đại chủ yếu là những người tin có gót. Thuyết tin có gót (từ ‘theos’, ‘gót’ trong tiếng Greek) [16] là quan điểm rằng trật tự vũ trụ dựa trên một mối quan hệ theo thứ bậc giữa con người và một nhóm nhỏ những đối tượng siêu trần gọi là những gót. Điều chắc chắn là đúng khi nói rằng những người canh nông thời trước hiện đại có khuynh hướng tin có gót, nhưng nó không dạy cho chúng ta biết nhiều về những tính chất đặc thù. Đề mục chung những người “tin có gót” bao gồm những rápbai Jew từ thế kỷ XVIII ở Poland, Những tín đồ Puritans thiêu sống phù thủy trong thế kỷ XVII ở Massachusetts, những giáo sĩ Aztec thế kỷ XV Mexico, những tín đồ thần bí Sufi thế kỷ XII của Iran, Những chiến binh Viking thế kỷ X, những lính lê dương Roma thế kỷ II, và những quan lại nước Tàu thế kỷ thứ nhất. Những khác biệt giữa những tin tưởng và những thực hành của những nhóm tin “vật có hồn” chuyên kiếm ăn bằng săn bắn hái lượm có lẽ cũng lớn như thế. Những kinh nghiệm tôn giáo của họ có thể đã từng là rối loạn chao đảo, và đầy những cạnh tranh bất hoà, những cải cách và những cách mạng.
Nhưng những khái quát hoá dụt dè này là cũng đã xa đến như mức độ chúng ta có thể đến được. Bất kỳ cố gắng nào để mô tả những chi tiết cụ thể về tâm linh con người thời cổ là phỏng đoán rất nhiều, vì bằng chứng nếu có để đi theo là hầu như cạnh sự không có gì; và ít ỏi bằng chứng chúng ta có – một nắm tay những vật dụng tạo tác và những tranh vẽ trong những hang động – chúng có thể giải thích được theo vô số cách. Những lý thuyết của những học giả là người tuyên bố hiểu biết những người chuyên hái lượm kiếm ăn cảm nhận gì, chiếu sáng về những thành kiến của những tác giả của chúng, hơn là về những tôn giáo của kỷ Đồ Đá. Thay vì vi dựng lên những núi lý thuyết trên một đụn đất của những di tích mộ địa, những tranh hang động và những tượng nhỏ bằng xương, điều tốt hơn là thẳng thắn và thú nhận rằng chúng ta chỉ có những khái niệm lờ mờ nhất về những tôn giáo của những người săn bắn, hái lượm, kiếm ăn thời cổ. Chúng ta giả định rằng họ là những người theo thuyết vật có hồn, nhưng đó không phải là thông tin rất nhiều hữu ích. Chúng ta không biết họ cầu nguyện với những thần linh nào, họ tổ chức ăn mừng những lễ hội nào, hoặc họ tuân giữ những tabu gì. Quan trọng nhất, chúng ta không biết họ kể cho nhau những những câu chuyện gì. Đó là một trong những lỗ hổng lớn nhất trong sự hiểu biết của chúng ta về lịch sử loài người. Thế giới chính trị xã hội của những những người chuyên kiếm ăn bằng săn bắn, hái lượm là một lĩnh vực khác mà mà chúng không biết gì về nó. Như đã giải thích ở trên, những học giả ngay cả không thể đồng ý về những điều cơ bản, chẳng hạn như sự hiện hữu của sở hữu cá nhân, cơ bản gia đình nòng cốt và những quan hệ một vợ một chồng. Có nhiều phần xảy ra rằng những bầy đoàn khác biệt đã có những cấu trúc khác biệt. Một số có thể đã là theo định chế thứ bậc, căng thẳng và bạo lực như những nhóm chimpanzee xấu tính nhất, trong khi những đoàn khác đã là nhàn nhã dễ dãi, yên bình và dâm dật như một bầy những bonobo.
Hình 8. Một bức họa trong hang Lascaux, khoảng 15,000-20,000 năm trước. Chính xác chúng ta nhìn thấy gì, và ý nghĩa của bức tranh là gì? Một số người cho rằng chúng ta nhìn thấy một con người với cái đầu của một con chim và một dương vật cương cứng, bị giết bởi một con bò rừng. Bên dưới con người là một con chim mà có thể tượng trưng cho hồn người, thoát ra từ cơ thể vào lúc chết. Nếu vậy, hình ảnh mô tả không phải là một tai nạn săn bắn tầm thường, mà là sự chuyển dịch từ thế giới này sang thế giới tiếp theo. Nhưng chúng ta không có cách nào để biết liệu những suy đoán này là đúng sự thật. Đó là một thử nghiệm Rorschach mà tiết lộ nhiều về những định kiến của những học giả hiện đại, và ít về tin tưởng của những người săn bắn hái lượm thời cổ. Tại địa điểm Sungir, Russia, những nhà khảo cổ tìm ra vào năm 1955, một nơi chôn cất có tuổi khoảng 30.000 năm, thuộc một nền văn hóa săn loài mammoth. Trong một ngôi mộ, họ tìm thấy bộ xương của một người 50 tuổi, được bao phủ với chuỗi hạt bằng ngà voi mammoth, có một tổng số khoảng 3.000 hạt. Trên đầu của người chết là một chiếc mũ trang trí với răng chồn, và trên cổ tay ông, có 25 lăm vòng đeo tay bằng ngà voi. Những ngôi mộ khác từ cùng một địa điểm lại có chứa rất ít những đồ vật như thế. Những học giả suy luận rằng những người Sungir săn voi mammoth đã sống trong một xã hội phân đẳng cấp, và rằng người chết đó có lẽ là người thủ lĩnh của một bầy đoàn, hay của một bộ lạc gồm toàn bộ một số bầy đoàn. Điều không chắc rằng nếu chỉ một vài chục thành viên của một bầy đoàn duy nhất đã tự họ có thể sản xuất được những đồ vật tìm thấy nhiều đến như thế chôn theo trong mộ.
Hình 9. Những người săn bắn hái lượm đã làm những dấu tay này, khoảng 9.000 năm trước đây trong “Hang những bàn tay - Hands Cave”, ở Argentina. Có vẻ như những bàn tay đã chết từ lâu này, từ bên trong tảng đá, đang vươn ra về phía chúng ta. Đây là một trong những di tích cảm động nhất của thế giới kiếm ăn thời cổ – nhưng không ai biết nó có nghĩa gì. Các nhà khảo cổ sau đó, tìm ra một ngôi mộ lại còn thú vị hơn. Nó chứa hai bộ xương, chôn nối đầu vào nhau. Một bộ xương thuộc về một đứa bé trai ở tuổi khoảng 12 hay 13, và bộ xương kia là của đứa bé gái khoảng 9 hoặc 10 tuổi. Cậu bé được phủ với 5.000 hạt ngà. Em đội một chiếc mũ răng chồn và một dây lưng với 250 răng chồn (phải nhổ răng của ít nhất là 60 con chồn để có được số đó). Em bé gái được trang trí với 5.250 hạt ngà voi. Cả hai em được bao quanh bởi những tượng nhỏ và những vật thể khác biệt đều bằng ngà. Một thợ thủ công lành nghề (nam hay nữ) có lẽ cần khoảng 45 phút để chuẩn bị một hạt ngà duy nhất. Nói cách khác, làm thành trang điểm 10.000 hạt ngà bao phủ hai trẻ em, chưa kể đến những vật thể khác, đòi hỏi một số 7.500 giờ làm việc cần mẫn tỉ mỉ, hơn 3 năm lao động của một nghệ nhân nhiều kinh nghiệm! Có rất nhiều phần không chắc rằng ở một tuổi còn trẻ như vậy, những em bé Sungir đã chứng tỏ mình là những lãnh tụ, hay đã là những thợ săn voi mammoth. Chỉ có những tin tưởng văn hóa mới có thể giải thích tại sao họ nhận được một chôn cất lộng lẫy quá mức hoang phí như vậy. Một giả thuyết cho rằng họ có được như thế nhờ vào thứ hạng với cha mẹ của họ. Có lẽ họ là con cái của những lãnh tụ, trong một nền văn hóa mà tin tưởng hoặc vào uy tín gia đình hoặc vào những quy luật kế thừa nghiêm ngặt. Theo một giả thuyết thứ hai, những em bé đã được xác định khi sinh ra là hiện thân của một số hồn người đã chết từ lâu. Một giả thuyết thứ ba cho rằng
cách chôn cất những trẻ em phản ảnh cách họ chết hơn là thân thế của họ trong đời sống. Họ đã bị giết theo nghi lễ hiến sinh – có lẽ là phần của những nghi lễ chôn cất của người lãnh tụ – và sau đó được chôn với nghi lễ đầy huy hoàng và quan trọng hoá.[17] Dù câu trả lời nào là đúng đi nữa, những trẻ em Sungir là một trong những mảnh tốt nhất của những bằng chứng rằng 30.000 năm trước Sapiens đã có thể phát minh ra những qui định chính trị xã hội, vượt xa những mệnh lệnh của DNA của chúng ta, và mô hình những hành vi ứng xử của những loài người và động vật khác. Hòa bình hay chiến tranh? Cuối cùng, có câu hỏi gai góc về vai trò của chiến tranh trong những xã hội kiếm ăn bằng săn bắn hái lượm. Một số học giả tưởng tượng xã hội săn bắn hái lượm xưa như là những thiên đường hòa bình, và cho rằng chiến tranh và bạo lực khởi đầu chỉ với Cách mạng Nông nghiệp, khi người ta bắt đầu tích lũy tài sản cá nhân. Những học giả khác khẳng định rằng thế giới của những người chuyên kiếm ăn bằng săn bắn hái lượm thời cổ đã là đặc biệt tàn nhẫn và bạo động. Cả hai trường phái tư tưởng đều là những lâu đài xây trên không, nối với mặt đất bởi những sợi dây mỏng dính của những di vật khảo cổ ít ỏi và những quan sát nhân loại học trên những người kiếm ăn bằng săn bắn hái lượm còn sống ngày nay. Các bằng chứng nhân loại học thì hấp dẫn nhưng kèm theo rất nhiều câu hỏi khó khăn. Những người kiếm ăn bằng săn bắn hái lượm ngày nay sống chủ yếu ở những khu vực bị cô lập và khắc nghiệt như Bắc Cực hay Kalahari, nơi mật độ dân số rất thấp và những cơ hội để đánh nhau với những người khác thì hạn hẹp ít ỏi. Hơn nữa, trong những thế hệ gần đây, những săn bắn hái lượm ngày càng thành đối tượng thuộc thẩm quyền của những nhà nước hiện đại, vốn ngăn chặn những bùng nổ của những xung đột với quy mô lớn. Những học giả châu Âu đã chỉ có hai cơ hội để quan sát những người săn bắn hái lượm độc lập trong những quần thể lớn và tương đối tập trung đông đảo: ở Tây Bắc châu Mỹ trong thế kỷ XIX, và ở miền bắc Australia trong thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Cả hai nền văn hóa của thổ dân Australia và Amerindian đều chứng kiến những cuộc xung đột vũ trang thường xuyên. Điều gây tranh luận, tuy nhiên, là không biết sự việc này biểu hiện cho một
tình trạng “phi thời gian”, hoặc nó là tác động từ chủ nghĩa thực dân của những đế quốc châu Âu. Những kết quả tìm được trong khảo cổ học đều hiếm hoi và không rõ ràng. Những manh mối thuật kể nào có thể may còn lại được về những chiến tranh diễn ra đã hàng chục nghìn năm trước? Thời đó chưa có những hào luỹ và những tường thành, không có vỏ đạn hoặc ngay cả gươm và khiên. Một mũi giáo nhọn thời cổ có thể đã được dùng trong chiến tranh, nhưng nó cũng rất có thể đã dùng trong một cuộc đi săn. Những xương người hóa thạch đều không kém khó khăn để giải thích. Một vết nứt có thể chỉ ra một vết thương chiến tranh hay một tai nạn. Cũng không phải sự vắng mặt của những vết vỡ nứt và những vết cắt trên một bộ xương cổ là bằng chứng kết luận rằng người có bộ xương đó đã không chết một cái chết hung bạo đau đớn. Cái chết có thể được gây ra bởi chấn thương vào những mô mềm của cơ thể mà không để lại dấu vết trên xương. Quan trọng hơn nữa, trong thời tiền kỹ nghệ, hơn 90 phần trăm những cái chết do chiến tranh đã bị giết chết bởi đói, lạnh và bệnh chứ không bằng vũ khí. Hãy tưởng tượng rằng 30.000 năm trước đây, một bộ tộc đã đánh bại hàng xóm của mình và đuổi nó ra khỏi địa bàn thức ăn thèm muốn. Trong trận chiến quyết định, chỉ 10 thành viên của bộ tộc bị bại đã bị giết. Trong năm sau, 100 thành viên của bộ tộc bại trận này bị chết vì đói, lạnh và bệnh tật. Những nhà khảo cổ đào và gặp 110 bộ xương này, có thể quá dễ dàng đi đến kết luận rằng hầu hết đã là những nạn nhân của một vài thiên tai tự nhiên. Làm thế nào chúng ta có thể nói rằng tất cả họ đều là nạn nhân của một cuộc chiến tranh tàn nhẫn? Đã báo trước theo thông lệ như thế, bây giờ chúng ta có thể quay sang những tìm kiếm khảo cổ học. Ở Portugal, đã thực hiện một cuộc khảo sát 400 bộ xương của thời kỳ ngay trước khi có Cách mạng Nông nghiệp. Chỉ có hai bộ xương cho thấy những dấu hiệu rõ ràng về bạo lực. Một khảo sát tương tự, trên 400 bộ xương của cùng thời kỳ, ở Israel, đã tìm ra một vết nứt duy nhất trong một xương sọ duy nhất vốn có thể được quy cho bạo lực của con người. Một cuộc khảo sát thứ ba, trên 400 bộ xương thuộc thời kỳ tiền-canh nông ở khác biệt, ở những địa điểm trong vùng thung lũng Danube, đã tìm thấy bằng chứng của bạo lực trong 18 bộ xương. Mười tám bộ xương trong tổng số 400, xem có vẻ không nhiều, nhưng nó thực sự là một tỉ lệ rất cao. Nếu tất cả 18 người này thực sự chết đều vì bạo động, nó có nghĩa là khoảng 4,5 phần trăm những tử vong ở thung lũng Danube thời
cổ, đã do bạo lực của con người gây ra. Ngày nay, tỉ lệ này trên toàn cầu trung bình chỉ là 1,5 phần trăm, gộp chung cả chiến tranh và những tội ác với nhau. Trong thế kỷ XX, chỉ có 5 phần trăm những trường hợp tử vong của con người là kết quả của bạo lực con người – và đây là trong một thế kỷ đã chứng kiến những chiến tranh đẫm máu nhất và nạn diệt chủng lớn nhất của lịch sử. Nếu sự vén lên cho thấy này là điển hình, hung bạo, bạo động của thung lũng Danube thời cổ đã cũng khốc liệt như của thế kỷ XX. [18] Những khám phá nản lòng đáng buồn từ thung lũng Danube được hỗ trợ bằng một chuỗi những khám phá cũng đều nản lòng đáng buồn từ những khu vực khác. Tại Jabl Sahaba ở Sudan, một nghĩa trang cổ khoảng 12.000 năm, tìm thấy được 59 bộ xương. Đầu mũi tên và mũi giáo đã được tìm thấy gắn trong, hoặc nằm gần xương của 24 bộ xương, 40 phần trăm của tổng số tìm thấy. Một bộ xương của một người nữ cho thấy 12 vết thương. Trong hang Ofnet ở Bavaria, những nhà khảo cổ đã tìm ra ra di tích của 38 người kiếm ăn bằng săn bán hái lượm, chủ yếu là phụ nữ và trẻ em, những người đã bị ném vào hai hố chôn. Một nửa những bộ xương, bao gồm cả những trẻ em và trẻ sơ sinh, mang dấu hiệu rõ ràng về thương tích từ vũ khí của con người như những gậy và dao. Một vài bộ xương thuộc về nam giới trưởng thành mang những dâu hiệu tồi tệ nhất của bạo lực. Tất cả, với xác xuất phỏng đoán cao, bầy đoàn kiếm ăn bằng săn bán hái lượm tại Ofnet, tất cả đã bị tàn sát. Sự việc nào đại diện tốt hơn cho thế giới của những người kiếm ăn sơ khai: những bộ xương yên bình từ Israel và Portugal, hay những lò giết mổ, tàn sát của Jabl Sahaba và Ofnet? Trả lời không là sự việc nào. Cũng đúng như những người kiếm ăn bằng săn bắn hái lượm đã trưng bày một mảng rộng của những tôn giáo và những cấu trúc xã hội, cũng như thế, họ có lẽ đã cho thấy rõ một loạt những mức độ khác biệt về bạo động. Trong khi một số khu vực, và thời kỳ của thời gian có thể được hưởng hòa bình và yên tĩnh, những khu vực, thời kỳ khác đã bị xé nát bởi những xung đột hung bạo. [19] Bức màn của Im lặng Nếu hình ảnh rộng lớn hơn của đời sống kiếm ăn săn bắn hái lượm xa xưa là khó để tái tạo, những sự kiện đặc biệt đều phần lớn là vĩnh viễn không thể phục hồi. Khi một bầy đoàn Sapiens đầu tiên đi vào một thung lũng đã có người Neanderthal sinh sống, những năm tiếp sau đó có thể đã chứng kiến
một vở kịch lịch sử nín thở ngoạn mục. Thật không may, không gì đã có thể tồn tại từ một cuộc gặp gỡ loại như vậy, trừ ra tốt nhất, một vài xương hóa thạch và một số ít những dụng cụ bằng đá vốn vẫn câm lặng dưới những tra khảo mãnh liệt nhất của những học giả. Chúng ta có thể rút ra từ chúng thông tin về cơ thể con người, kỹ thuật của con người, tập hợp những thức ăn uóng thông thường của con người, và có lẽ ngay cả cấu trúc xã hội con người. Nhưng chúng không tiết lộ gì về những liên minh chính trị giả dối giữa những đoàn Sapiensláng giềng, về thần linh của người chết đã ban phúc cho liên minh này, hoặc về những hạt ngà voi đã bí mật trao cho những thày mo thông thái địa phương để bảo đảm những phước lành của những thần linh. Bức màn của sự im lặng này trùm trên hàng chục nghìn năm lịch sử. Những nghìn năm dài này cũng rất có thể đã chứng kiến những chiến tranh và những cách mạng, những phong trào tôn giáo xuất thần ngây ngất, những lý thuyết triết học sâu xa, những kiệt tác nghệ thuật vô song. Những người chuyên kiếm ăn bằng săn bắn hái lượm có thể đã có những Napoleon-chinh phục-tất cả, người cai trị những đế quốc có kích thước bằng một nửa của Luxembourg; có những Beethoven thiên tài, người thiếu dàn nhạc symphony, nhưng làm người ta rơi nước mắt bằng âm thanh của những sáo tre của họ; và những tiên tri lôi cuốn đám đông, những người đã vén màn lên cho thấy, đã tiết lộ những lời thiêng của một cây sồi tại địa phương hơn là của một đấng sáng tạo phổ quát. Nhưng đó là tất cả chỉ những phỏng đoán. Bức màn của im lặng thì quá dày đến nỗi chúng ta ngay cả không thể chắc chắn những điều thế đó đã có xảy ra hay không – chứ đừng nói chi đến việc mô tả chúng trong chi tiết. Những học giả có khuynh hướng đặt chỉ những câu hỏi mà họ có thể thuận lý mong đợi để trả lời được. Nếu không có sự khám phá của những dụng cụ khảo cứu vẫn còn chưa có sẵn, chúng ta có lẽ sẽ không bao giờ biết những người kiếm ăn sơ khai đã tin tưởng gì, hoặc những vơ kịch chính trị nào mà họ có kinh nghiệm. Thế nhưng, điều là quan trọng để đặt những câu hỏi mà những trả lời là vẫn chưa sẵn sàng, nếu không chúng ta có thể bị cám dỗ để gạt bỏ 60.000 đến 70.000 năm của lịch sử loài người với lý do là “những người sống vào thời đó đã không làm gì quan trọng”. Sự thật là họ đã làm được rất nhiều điều quan trọng. Đặc biệt, họ đã định hình dạng thế giới xung quanh chúng ta đến một mức độ lớn hơn nhiều so
với hầu hết mọi người nhận ra. Những người đi bộ dường trường đến thăm đồng cỏ hàn đới (tundra) Siberia, những sa mạc ở trung tâm Australia, và những khu rừng nhiệt đới Amazon, đã tin rằng họ đã đến những cảnh quan nguyên sơ, hầu như bàn tay con người chưa chạm đến. Nhưng đó là một ảo tưởng. Những người chuyên kiếm ăn bằng săn bắn hái lượm đã ở đó trước chúng ta, và họ đã đem đến những thay đổi đột ngột mạnh mẽ, ngay cả trong những khu rừng sâu dày nhất và vùng hoang dã vắng vẻ nhất. Chương tiếp theo giải thích những người chuyên kiếm ăn bằng săn bắn hái lượm đã hoàn toàn thay đổi lại hình dạng hệ sinh thái của hành tinh của chúng ta rất lâu, trước khi những làng canh nông đầu tiên được xây dựng. Những bầy đoàn lang thang của những Sapiens biết kể chuyện là động lực quan trọng nhất và huỷ diệt tàn khốc nhất vốn thế giới động vật đã từng sản xuất được.
4 Trận Lụt Lớn Trước cuộc Cách mạng Nhận thức, tất cả con người của tất cả mọi loài đều hoàn toàn sống trên những vùng đất rộng của hai châu Á-Phi. Đúng thế, họ đã định cư trên một vài hòn đảo bằng cách bơi qua những quãng nước ngắn, hoặc vượt qua chúng trên những bè ứng biến tự chế. Đảo Flores, lấy thí dụ, đã bị chiếm làm thuộc địa đã từ lâu, khoảng 850.000 năm trước đây. Tuy nhiên, họ không có khả năng mạo hiểm ra biển khơi, và chưa ai đã từng đến châu Mỹ, Australia, hay những đảo biển xa xôi như Madagascar, New Zealand và Hawaii. Rào cản của biển đã ngăn chặn không chỉ con người nhưng cũng cả nhiều loài động vật và thực vật Á-Phi khác đều không đến được ‘Thế giới Ngoài” này. Kết quả là, những sinh vật của vùng đất xa xôi như Australia và Madagascar đã tiến hóa trong sự cô lập trong hàng triệu triệu năm, tiếp nhận những hình dạng và tính chất rất khác biệt với của những họ hàng xa của chúng ở châu Á-Phi. Hành tinh Đất đã được phân thành nhiều những hệ sinh thái khác biệt, mỗi hệ gồm một kết tập đặc biệt của động vật và thực vật. Homo Sapiens đã đang sắp sửa đưa đến một chấm dứt cho sự thịnh vượng sinh học này. Tiếp theo sau cuộc Cách mạng Nhận thức, Sapiens thu nhận kỹ thuật, kỹ năng tổ chức, và có lẽ ngay cả tầm nhìn cần thiết để thoát ra khỏi Á-Phi và định cư ở Thế giới Ngoài. Thành tích đầu tiên của họ là thuộc địa Australia khoảng 45.000 năm trước đây. Những nhà chuyên môn đã bị thúc ép để giải thích kỳ công này. Để đến được Australia, con người đã phải vượt qua một số eo biển, một vài rộng hơn một trăm cây số, và khi đến nơi họ phải thích ứng gần như qua đêm với một hệ sinh thái hoàn toàn mới. Lý thuyết hợp lý nhất nêu rằng, khoảng 45.000 năm trước đây, những Sapiens sống ở quần đảo Indonesia (một nhóm những đảo biệt lập với đất liền châu Á và tách biệt nhau bởi những eo biển hẹp) đã phát triển những cộng đồng đi biển đầu tiên. Họ đã học được cách để đóng và điều động thuyền đi biển và trở thành những người đánh cá biển khơi, những người buôn bán, và những người thám hiểm. Điều này đã gây nên một sự chuyển biến chưa từng có về những khả năng và những lối sống của con người. Mỗi loài động vật lớp có vú khác mà trở nên đi biển được – hải cẩu, bò biển, cá heo – đã phải tiến hóa hàng aeon để phát triển những cơ quan
chuyên biệt và một cơ thể theo thủy động lực học. Những Sapiens ở Indonesia, hậu duệ của những apes sống trên đồng cỏ châu Phi, đã trở thành những người đi biển Pacific mà không phải phát triển chân chèo, không cần phải chờ đợi cho mũi của mình chuyển lên đến đỉnh đầu của họ như loài cá voi đã làm. Thay vào đó, họ đã đóng thuyền và học cách chèo lái chúng. Và những kỹ năng này cho phép họ đến được và định cư ở Australia. Đúng, những nhà khảo cổ chưa khai quật được những bè mảng, những mái chèo hay những làng chài có niên đại xa đến 45.000 năm về trước (rất khó để họ sẽ tìm được, vì mực nước biển đã dâng cao, chôn bờ biển Indonesia thời cổ dưới sâu một trăm mét của đại dương). Tuy nhiên, có bằng chứng gián tiếp mạnh mẽ ủng hộ lý thuyết này, đặc biệt sự kiện là trong hàng nghìn năm sau khi định cư ở Australia, Sapiens đã thành lập thuộc địa, trên một số lượng lớn những đảo nhỏ và biệt lập ở hướng Bắc của Australia. Một số, chẳng hạn như Buka và Manus, tách biệt với đất gần 200 km nước biển sâu. Thật khó để tin rằng bất cứ ai có thể đến được và dựng thuộc địa ở Manus nếu không có những thuyền đi biển tinh xảo, và kỹ năng dùng buồm. Như đã đề cập trước đó, cũng có bằng chứng vững chắc về thương mại trên biển, thường xuyên giữa một số những hòn đảo này, chẳng hạn như New Ireland và New Britain[1] Cuộc hành trình của những người đầu tiên đến Australia là một trong những sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử, ít nhất cũng quan trọng như cuộc hành trình Columbus đến châu Mỹ, hay cuộc thám hiểm của Apollo II lên mặt trăng. Đó đã là lần đầu tiên bất cứ con người nào đã xoay sở để rời hệ thống sinh thái Á-Phi – thực sự, lần đầu tiên của bất kỳ động vật lớn nào thuộc lớp có vú sống trên cạn đã tìm cách vượt đất liền Á-Phi đến Australia. Thậm chí quan trọng hơn là những gì những con người tiên phong đã làm trong thế giới mới này. Thời điểm những người săn bắn hái lượm đầu tiên đặt chân trên một bãi biển của Australia là thời điểm mà Homo Sapiens đã leo lên nấc thang đỉnh trong chuỗi thức ăn trên một vùng đất bao la đặc biệt, và từ đó về sau đã trở thành loài cực kỳ nguy hiểm nhất trong lịch sử của hành tinh Trái đất. Cho đến khi đó, con người đã trưng bày một số thích nghi và hành vi ứng xử sáng tạo, nhưng ảnh hưởng của chúng với môi trường của họ đã là không đáng kể. Họ đã chứng minh thành công đáng kể trong việc di chuyển vào
trong, và điều chỉnh với những môi trường sống khác biệt, nhưng họ đã làm như vậy với không có thay đổi đáng kể vào những môi trường sống đó. Những người định cư ở Australia, hay chính xác hơn, những người chinh phục nó, đã không chỉ thích ứng, họ chuyển đổi hệ sinh thái Australia vượt quá mức còn có thể còn nhận ra được. Dấu chân của con người đầu tiên trên một bờ biển cát Australia bị những sóng biển cuốn đi ngay lập tức. Tuy nhiên, khi những kẻ xâm lược tiến vào đất liền, họ đã để lại một dấu chân khác biệt, một dấu chân sẽ không bao giờ bị xoá sạch. Khi họ lấn vào, họ đã gặp phải một vũ trụ kỳ lạ của những sinh vật không từng biết, trong đó có một kangaroo nặng 200 kg, dài hai mét, và một con sư tử có túi, cũng lớn như một con hổ thời nay, đó là loài động vật ăn thịt lớn nhất lục địa. Koalas quá lớn để âu yếm được và sột soạt dễ thương trong bụi cây, và những loài chim không bay được có kích thước gấp hai của đà điểu chạy nhanh trên những đồng bằng. Thằn lằn hình-giống-rồng và rắn dài năm mét trườn dưới đất ngầm. Loài thú có túiDiprotodon khổng lồ, loài gấu wombat hai-tấn-rưỡi, lang thang trong rừng. Ngoại trừ những loài chim và những loài bò sát, tất cả những loài động vật này là những loài thú có túi – giống như loài kangaroo, chúng đã sinh ra con bé tí, bất lực, những con trẻ như thai nhi mà sau đó chúng được nuôi dưỡng bằng sữa trong những túi bụng. Động vật lớp có vú và có túi hầu như chưa được biết ở châu Phi và châu Á, nhưng ở Australia chúng đã trị vì từ trên cao nhất. Trong vòng một vài nghìn năm, hầu như tất cả những sinh vật khổng lồ này đều đã biến mất. Trong số hai mươi bốn loài động vật Australia nặng 50 kilôgam trở lên, 23 loài đã trở thành tuyệt giống. [2] Một số lượng lớn những loài nhỏ hơn cũng biến mất. Chuỗi thức ăn trong suốt toàn bộ hệ sinh thái của Australia đã bị phá vỡ và sắp xếp lại. Đó là sự chuyển đổi quan trọng nhất của hệ sinh thái Australia trong hàng triệu năm. Có phải tất cả đã là lỗi của Homo Sapiens? Phạm tội như đã bị Lên án Một số học giả cố gắng để giải tội cho loài người chúng ta, gán trách nhiệm vào những thay đổi bất thường của khí hậu (vật tế thần bình thường trong những trường hợp như thế). Tuy nhiên, thật khó để tin rằngHomo Sapiens là hoàn toàn vô tội. Có ba mẩu bằng chứng làm suy yếu khí hậu như chứng cớ vắng mặt, và cho thấy tổ tiên chúng ta có can dự vào sự tuyệt chủng của
những động vật to lớn của Australia. Thứ nhất, dẫu khí hậu của Australia đã thay đổi khoảng 45.000 năm trước đây, nó không phải là một biến động rất đáng chú ý. Thật khó để xem mô hình thời tiết mới đã như thế nào lại có thể gây ra sự tuyệt chủng lớn lao như vậy. Ngày nay là thông thường để giải thích bất cứ điều gì và tất cả mọi thứ như là kết quả của sự thay đổi khí hậu, nhưng sự thật là khí hậu của trái đất không bao giờ yên nghỉ. Nó là dòng chảy liên tục. Mỗi sự kiện trong lịch sử xảy ra trong bối cảnh của một vài sự biến đổi của khí hậu. Đặc biệt, hành tinh của chúng ta đã trải qua nhiều chu kỳ của lạnh đi và ấm lên. Trong triệu năm vừa qua, trung bình cứ mỗi 100.000 năm đã có một kỳ [3] băng giá. Kỳ băng giá cuối cùng kéo dài khoảng từ 75.000 đến 15.000 năm trước đây. Không phải là bất thường nghiêm trọng cho một kỳ băng giá, nó có hai đỉnh cao, đỉnh thứ nhất khoảng 70.000 năm trước đây, và đỉnh thứ hai vào khoảng 20.000 năm trước đây. Loài Diprotodon khổng lồ xuất hiện ở Australia hơn 1,5 triệu năm trước và đã trải qua thành công ít nhất là mười kỳ băng giá trước đó. Nó cũng đã tiếp tục sống qua đỉnh đầu tiên của kỳ băng giá cuối cùng, khoảng 70.000 năm trước đây. Tại sao, sau đó nó đã biến mất, khoảng 45.000 năm trước đây? Dĩ nhiên, nếu diprotodon là loài động vật to lớn duy nhất đã biến mất vào thời điểm này, điều đó có thể đã chỉ là một không may ngẫu nhiên. Nhưng hơn 90 phần trăm của những động vật to lớn lớp có vú sống cùng một vùng[4] của Australia đã biến mất cùng với diprotodon. Bằng chứng thì gián tiếp, nhưng thật khó để tưởng tượng rằng Sapiens, chỉ do trùng hợp ngẫu nhiên, đã đến Australia vào đúng thời điểm mà tất cả những loài động vật này đều ngã lăn ra chết vì giá lạnh [5]. Thứ nhì, khi sự biến đổi khí hậu gây ra sự tuyệt chủng hàng loạt, những loài sinh vật sống dưới biển cũng chịu nạn nặng nề như những loài sống trên đất liền. Thế nhưng, không có bằng chứng nào về sự mất tích đáng kể của những động vật to lớn lớp có vú sống cùng một vùng dưới biển khoảng 45.000 năm trước đây. Sự tham dự của con người có thể dễ dàng giải thích tại sao làn sóng tuyệt chủng đã xoá sạch những loài động vật to lớn lớp có vú sống cùng một vùng trên đất liền của Australia, trong khi chừa ra những động vật to lớn lớp có vú sống cùng một vùng dưới biển lớn gần đó. Dẫu đang phát triển khả năng đi biển của mình,Homo Sapiens vẫn là một đe dọa ưu thắng và áp đảo trên mặt đất.
Thứ ba, sự tuyệt chủng hàng loạt có tính chất tương tự với sự sát hại có điển hình nguyên mẫu ở Australia đã xảy ra lập đi lập lại trong những nghìn năm tiếp theo – bất cứ khi nào có con người định cư ở một phần khác của Thế giới Ngoài. Trong những trường hợp này, tội lỗi của Sapiens thì không thể chối cãi. Lấy thí dụ, những loài động vật to lớn lớp có vú sống cùng một vùng của New Zealand – vốn đã vượt qua được sự ‘biến đổi khí hậu’ bị cáo buộc – của khoảng 45,000 năm trước mà không bị một vết trầy xước nào – đã bị đánh bạt ngay lập tức tàn hoại sau khi con người đầu tiên đặt chân lên quần đảo. Những người Maoris, những Sapiens thực dân đầu tiên của New Zealand, đã đến quần đảo khoảng 800 năm trước đây. Trong vòng một vài thế kỷ, phần lớn những động vật to lớn lớp có vú sống cùng một vùng tại địa phương này đã tuyệt chủng, cùng với 60 phần trăm của tất cả những loài chim. Một số phận tương tự đã chụp xuống với loài mammoth sống trên đảo Wrangel ở Biển Arctic (200 km về phía bắc của bờ biển Siberia). Loài voi khổng lồ mammoth đã phát triển thịnh vượng trong hàng triệu năm ở hầu hết vùng phía bắc của Bắc bán cầu, nhưng khi Homo Sapiens lan đến – đầu tiên trên lục địa Á-Âu, và sau đó là Bắc Mỹ – loài voi mammoth đã rút lui. Đến 10.000 năm trước đây, đã không tìm thấy được dù chỉ một con mammoth trên toàn thế giới, ngoại trừ ở một vài hòn đảo xa xôi Bắc Cực, dễ thấy nhất là ở đảo Wrangel [6]. Loài mammoth ở Wrangel tiếp tục thịnh vượng thêm một vài nghìn năm nữa, sau đó đột nhiên biến mất khoảng 4.000 năm trước đây, đúng khi những con người đầu tiên đến được đảo này. Nếu sự tuyệt chủng của Australia đã là duy nhất, chúng ta có thể ban con người tiện ích của sự còn ngờ[7]. Nhưng những ghi chép lịch sử làm cho Homo Sapiens trông giống như một kẻ giết nhiều người tương tự thành chuỗi của môi trường sinh thái [8]. Những người định cư ở Australia, tất cả họ có trong tay đã chỉ là kỹ thuật của kỷ Đồ Đá. Làm thế nào họ có thể gây ra một thảm họa sinh thái như thế? Có ba giải thích đan lưới vào nhau khá gọn ghẽ. Những loài động vật lớn – những nạn nhân chính của sự tuyệt chủng của Australia – gây giống chậm. Mang thai thì lâu, con cái mỗi kỳ mang thai thì rất ít, và có những quãng nghỉ dài giữa nhũng kỳ thai nghén. Do đó, nếu con
người bắt hạ một diprotodon để giết, dẫu chỉ vài tháng một lần, điều đó sẽ là đủ để gây ra số diprotodon bị chết đi đông hơn số sinh thêm. Trong vòng một vài nghìn năm, con diprotodon cuối cùng sống sót, sẽ chết trong đơn độc, và cùng với nó toàn thể loài của nó. [9] Trong thực tại, với tất cả kích thước đồ sộ của chúng, loài diprotodon và những loài thú khổng lồ khác của Australia có lẽ sẽ không có gì là quá khó để bị săn lùng, vì chúng sẽ hoàn toàn bất ngờ khi bị những kẻ tấn công chúng đi trên hai chân tìm bắt. Những loài người khác nhau đã rình mò kiếm mồi, và tiến hoá trong khu vực châu Á-Phi trong 2 triệu năm. Họ dần dần mài dũa kỹ năng săn bắn của họ, và bắt đầu đi săn những động vật lớn khoảng 400.000 năm trước đây. Những con thú lớn của châu Phi và châu Á đã học được để tránh con người, vì vậy khi động vật khủng săn mồi mới [10] – Homo Sapiens – xuất hiện trên sân khấu Á-Phi, những loài động vật lớn đã biết để giữ khoảng cách với những sinh vật trông giống như nó. Ngược lại, những loài thú khổng lồ của Australia không có thời gian để học được rằng phải bỏ chạy. Con người khi gặp bất ngờ, thấy không có gì đặc biệt nguy hiểm. Họ không có răng dài, hay sắc nhọn hoặc không có cơ thể với bắp thịt uốn cuộn uyển chuyển. Vì vậy, khi một con diprotodon, loài thú có túi [11]lớn nhất từng bước đi trên mặt đất, lần đầu tiên đặt mắt nhìn vào con ape yếu đuối này, đã một lần cho con thú này một cái nhìn, sau đó lại tiếp tục quay về nhai lá cây. Những loài động vật này phải tiến hóa để có một sự sợ hãi con người, nhưng trước khi chúng có thể làm như vậy, chúng đã bị con người làm mất sạch. Giải thích thứ nhì là thời gian khi Sapiens đến Australia, họ đã làm chủ kỹ thuật đốt rừng làm rẫy, đốt lửa khai hoang canh tác. Đối mặt với một môi trường xa lạ và đe dọa, họ cố tình đốt cháy những khu vực rộng lớn của những rừng rậm, dày đặc không thể đi qua, để mở ra những đồng cỏ, vốn thu hút những loài thú với họ đi săn mồi dễ dàng hơn, và phù hợp hơn với nhu cầu của họ. Qua đó, họ hoàn toàn thay đổi hệ sinh thái của những khu vực rộng lớn của Australia trong vòng ngắn ngủi vài nghìn năm. Một phần chính của những bằng chứng hỗ trợ quan điểm này là ghi chép về những thực vật hóa thạch. Cây loài Eucalyptus rất hiếm ở Australia 45.000 năm trước đây. Nhưng sự xuất hiện của Homo Sapiens đã mở đầu một thời hoàng kim cho những cây thuộc loài này. Vì loài eucalyptuses đặc biệt chống
được lửa nóng, chúng lan xa và rộng, trong khi những loài cây mọc đơn và loài cây mọc bụi khác đều dần biến mất. Những thay đổi này trong thảm màu thực vật đã ảnh hưởng đến những loài động vật ăn thực vật và những loài ăn thịt ăn những loài không ăn thịt nhưng ăn chỉ những lá rễ cây. Koalas, vốn sinh sống hoàn toàn nhờ vào lá eucalyptuse, vui vẻ ôm cây này gậm nhấm, mở đường của chúng vào những vùng lãnh thổ mới. Hầu hết những loài động vật khác phải chịu khổ luỵ rất nhiều. Nhiều chuỗi thức ăn của Australia bị sụp đổ, đẩy những mắt xích nối kết yếu nhất vào tuyệt chủng. [12] Giải thích thứ ba đồng ý rằng săn bắn và hoả canh đóng một vai trò quan trọng trong sự tuyệt chủng, nhưng nhấn mạnh rằng chúng ta không thể hoàn toàn bỏ qua vai trò của khí hậu. Những thay đổi khí hậu khấy động Australia khoảng 45.000 năm trước đây đã làm hệ sinh thái mất ổn định và khiến nó đặc biệt dễ bị tổn thương. Trong những trường hợp bình thường hệ thống sẽ có thể đã hồi phục, như đã từng xảy ra nhiều lần trước đây. Tuy nhiên, con người xuất hiện trên sân khấu đúng vào thời điểm quan trọng này, và đã đẩy hệ sinh thái vốn đã dễ tan dễ vỡ này xuống vực thẳm. Sự kết hợp của sự thay đổi khí hậu và sự săn bắn của con người là đặc biệt nghiêm trọng đối với những loài động vật lớn, vì nó tấn công chúng từ nhiều góc độ khác biệt. Thật khó để tìm một chiến lược sinh tồn tốt để sẽ làm việc cùng lúc với nhiều mối đe dọa. Nếu không có thêm bằng chứng nào nữa, sẽ không có cách để chọn lựa quyết định nào giữa ba màn kịch. Nhưng chắc chắn có những lý do vững để tin rằng nếu Homo Sapiens đã chưa bao giờ từng đi xuống Vùng Dưới, nó vẫn sẽ là nơi trú ngụ của loài sư tử có túi, loài diprotodons và loài kangaroo khổng lồ.
Tận cùng của loài Sloth Sự tuyệt chủng của megafauna (những động vật to lớn lớp có vú sống cùng một vùng) của Australia có lẽ là dấu hiệu có ý nghĩa quan trọng đầu tiên Homo Sapiens đã để lại trên hành tinh của chúng ta. Có theo sau nó là một thảm họa sinh thái lớn hơn, lần này ở châu Mỹ. Homo Sapiens là loài người đầu tiên và duy nhất đã đến được vùng đất rộng của tây bán cầu, khoảng 16.000 năm trước, đó là trong hoặc xung quanh năm 14.000 TCN. Những người châu Mỹ đầu tiên đã đến nơi bằng chân, vốn họ có thể làm được, vì vào thời điểm đó, mực nước biển thấp đủ khiến đất nổi đã bắc “cầu” nối đông bắc Siberia với tây bắc Alaska. Điều đó đã không phải là dễ dàng – là một hành trình rất khó khăn, có lẽ khó khăn hơn so với đường biển đến Australia. Để qua được thành công, trước tiên Sapiens phải học cách chịu được những điều kiện khí hậu khắc nghiệt của Bắc Cực vùng tây bắc Siberia, nơi mặt trời không chiếu sáng suốt mùa đông, và nơi nhiệt độ có thể giảm xuống đến trừ 50 độ Celsius. Không có loài người nào trước đó đã cố gắng thâm nhập được vào những nơi như vùng Bắc Siberia. Ngay cả những người Neanderthal đã thích nghi với khí hậu lạnh, nhưng chính họ chỉ tự giới hạn vào những khu vực tương đối ấm hơn, xa hơn về phía nam. Nhưng Homo Sapiens, dù có cơ thể đã thích nghi với đời sống ở đồng cỏ châu Phi hơn là với những vùng đất của tuyết và băng, đã nghĩ ra những giải pháp tài tình. Khi những đoàn Sapiens đi lang thang đó đây kiếm ăn bằng săn bắn hái lượm di cư vào những vùng khí hậu lạnh hơn, họ đã học được cách làm những loại giày đi tuyết và quần áo giữ ấm hiệu quả, gồm nhiều lớp lông và da thú, khâu vào
nhau chặt chẽ với tiện dụng của kim khâu. Họ đã phát triển vũ khí mới và kỹ thuật săn thú phức tạp cho họ khả năng theo dõi và giết loài mammoth và những con thú mồi lớn khác của miền cực Bắc. Khi quần áo giữ ấm và kỹ thuật săn thú của họ đã cải thiện, Sapiens dám mạo hiểm, liên tục lặn lội càng sâu hơn vào những vùng đóng băng. Và khi họ di chuyển dần về phía bắc, quần áo, chiến lược săn thú và những kỹ năng sống khác của họ đều tiếp tục được cải thiện. Nhưng tại sao họ đã gánh lấy nhọc nhằn? Tại sao lựa chọn lưu đày chính mình đến Siberia? Có lẽ một số bầy đoàn đã bị đẩy về phương Bắc do chiến tranh, áp lực dân số hay những thiên tai thiên nhiên. Những bầy đoàn khác có thể đã bị lôi cuốn về phương Bắc bởi những lý do tích cực hơn, chẳng hạn như protein động vật. Những vùng đất Bắc Cực đã đầy những động vật lớn thịt nhiều tươi ngon như loài reindeer và loài mammoth. Mỗi con mammoth là một nguồn của một số lượng lớn thịt (vốn, trong điều kiện nhiệt độ băng giá có sẵn, lại còn có thể đông lạnh để dành ăn sau), mỡ béo, lông ấm và ngà có giá trị. Như những phát hiện ở Sungir minh chứng, những người săn mammoth đã không chỉ tồn tại ở phương bắc đông giá – họ đã phát triển mạnh. Với thời gian trôi, những bầy đoàn lan xa và toả rộng, săn đuổi theo loài mammoth, loài mastodons, loài tê giác và reindeer. Khoảng 14.000 TCN, sự săn đuổi đã đem một vài trong số họ từ phía đông bắc Siberia đến Alaska. Dĩ nhiên, họ không biết họ đã khám phá ra một thế giới mới. Đối với mammoth cũng như loài người, Alaska chỉ là một phần mở rộng của Siberia. Lúc đầu, những khối băng lớn đã chặn đường từ Alaska đến những phần còn lại của châu Mỹ, có lẽ cho phép không quá một vài người tiên phong cô lập để thăm dò vùng đất xa hơn về phía nam. Tuy nhiên, khoảng 12.000 TCN, hiện tượng quả đất ấm lên [13] làm tan băng và đã mở một lối đi thông dễ dàng hơn. Đem hành lang mới vào sử dụng, con người di chuyển về phương nam đông đảo theo đoàn, lan rộng khắp lục địa. Dẫu nguyên thuỷ đã thích nghi với việc săn thú lớn ở Bắc Cực, họ nhanh chóng điều chỉnh với những hệ sinh thái và khí hậu nhiều loại khác nhau đến ngạc nhiên không thể ngờ. Những hậu duệ dòng dõi của những người trước ở Siberia nay định cư ở những khu rừng rậm của miền đông nước Mỹ, những đầm lầy của vùng đồng bằng sông Mississippi, những sa mạc ở Mexico, và những rừng rậm nhiệt đới oi bức Trung Mỹ. Một số làm nhà của họ trong thế giới sông ngòi của lưu vực Amazon, những người khác gây rễ trong những thung lũng núi
Andes hoặc đồng cỏ pampas [14] của Argentina. Và tất cả điều này xảy ra chỉ vỏn vẹn trong một hoặc hai nghìn năm! Đến khoảng 10.000 năm TCN, loài người đã có cư trú ở điểm xa nhất về phương nam châu Mỹ, đảo Tierra del Fuego, ở mũi cực nam của lục địa này. Cuộc di chuyển thần tốc của con người xuyên châu Mỹ đã chứng minh cho sự khéo léo không thể so sánh và khả năng thích ứng vượt trội của Homo Sapiens. Không động vật nào khác đã từng di chuyển vào trong một loạt rất lớn khác biệt gồm những môi trường sống hoàn toàn cơ bản khác nhau một cách nhanh chóng như thế, khắp mọi nơi hầu như sử dụng vẫn cùng một bộ gene. [15] Sự định cư ở châu Mỹ đã khó mà không đổ máu. Nó để lại sau lưng một lối dài ghi dấu những nạn nhân. Cách đây 14.000 năm, fauna [16] ở châu Mỹ đã phong phú hơn nhiều so với hiện nay. Khi những người châu Mỹ đầu tiên, từ Alaska đi về phía nam, vào những đồng bằng của Canada và miền Tây US, họ đã gặp phải loài mammnoth và mastodon, những động vật thuộc bộ gặm nhấm có kích thước của những con gấu, những bầy ngựa và lạc đà, loài sư tử to lớn quá khổ, và hàng tá những loài to lớn giống như vậy, vốn ngày nay chúng ta hoàn toàn không biết, trong số chúng có loài mèo răng-sắc-như kiếm đáng sợ và loài sloth đất khổng lồ nặng đến 8 tấn và đứng cao 6 mét. Nam châu Mỹ đã qui tụ một tập hợp thú hoang như để triển lãm lại còn kỳ lạ hơn gồm những động vật yo lớn lớp có vú, lớp bò sát và những loài chim. Châu Mỹ đã là một phòng thí nghiệm vĩ đại để thực nghiệm thuyết tiến hóa, một nơi mà những động vật và thực vật chưa từng biết ở châu Phi và châu Á đã tiến hoá và sung mãn. Nhưng không còn nữa. Trong vòng 2.000 năm của Sapiens đến đây, hầu hết những loài vật độc đáo này đã ra đi. Theo ước tính hiện nay, trong khoảng thời gian ngắn đó, Bắc Mỹ bị mất 34 trong số 47 chi [17] của những động vật to lớn thuộc lớp có vú. Nam Mỹ mất 50 trong số 60. Giống mèo răng-sắc- như kiếm, sau khi hưng thịnh trong hơn 30 triệu năm, đã biến mất, và cũng đã như thế là loài sloth đất khổng lồ, loài sư tử to lớn quá khổ, loài ngựa bản địa châu Mỹ, loài lạc đà bản địa Mỹ, những giống thú khổng lồ thuộc bộ gặm nhấm và loài voi mammnoth. Hàng ngàn những loài động vật nhỏ hơn lớp có vú, những loài thuộc lớp bò sát, những loài chim, và ngay cả cả những loài côn trùng và ký sinh trùng cũng bị tuyệt chủng (khi những con mammnoth khổng lồ này chết, tất cả những loài bọ ticks nhỏ bé sống cộng sinh với mammnoth, cũng phải đi theo vào quên lãng).
Trong hàng chục năm, những nhà cổ sinh vật học [18] và di tích động vật khảo cổ học [19] – những người tìm kiếm và nghiên cứu trên những di tích động vật – đã từng phải rà xoát không chừa mảnh đất nào của những vùng đồng bằng và miền núi phía châu Mỹ trong sự tìm kiếm những xương hóa thạch của những con lạc đà thời cổ, và những đống phân khô thành khối đá nặng không động đậy nổi của loài sloth đấtkhổng lồ. Khi họ gặp được những gì họ tìm, những kho báu này được đóng gói cẩn thận, và gửi đến những phòng thí nghiệm, nơi mỗi mảnh xương và mỗi coprolite (tên kỹ thuật cho “cứt” hóa thạch) được nghiên cứu thật tỉ mỉ và xác định năm tháng. Lần lữa, và nhiều lần lập lại, những phân tích này đều mang lại cùng một kết quả tương tự: những đống phân mới nhất và những xương lạc đà gần đây nhất được định niên đại vào thời kỳ mà loài người tràn ngập châu Mỹ, đó là, khoảng giữa 12.000 và 9000 TCN. Chỉ trong một khu vực có những nhà khoa học tìm ra những đống phân mới hơn: trên một số hòn đảo vùng Caribbean, đặc biệt là ở đảo Cuba và đảo Hispaniola, họ đã tìm thấy phân hoá thạch của sloth đất khoảng 5000 TCN. Đây chính là thời điểm những con người đầu tiên đã vượt biển Caribbean và định cư trên hai đảo lớn này . Một lần nữa, một số học giả cố gắng để chữa chay tội lỗi cho Homo Sapiens và đổ lỗi cho sự biến đổi khí hậu (vốn đòi hỏi họ phải thừa nhận rằng, vì một lý do bí ẩn nào đó, khí hậu ở quânf đảo Caribbean vẫn tĩnh trong suốt 7.000 năm, trong khi phần còn lại của Tây bán cầu đã ấm lên). Nhưng ở châu Mỹ, không thể né tránh được những đống phân tròn. Chúng ta là thủ phạm. Không có cách nào trốn quanh sự thật đó. Ngay cả nế sự biến đổi khí hậu đã có tiếp tay chúng ta, sự đóng góp của con người là quyết định.[20] Thuyền lánh nạn của Noah Nếu chúng ta kết hợp những tuyệt chủng hàng loạt ở Australia và châu Mỹ, và thêm những tuyệt chủng với quy mô nhỏ hơn đã xảy ra khi Homo Sapiens lan rộng trên đất liền Á-Phi – chẳng hạn như những tuyệt chủng của những loài khác của con người – và những sự tuyệt chủng đã xảy ra khi những người kiếm ăn hái lượm thời cổ định cư trên những đảo biển hẻo lánh như Cuba, kết luận không thể tránh được là làn sóng thuộc địa đầu tiên của Sapiens đã là một trong những thảm họa sinh thái lớn nhất và thần tốc nhất đã giáng xuống cho vương quốc động vật. Ảnh hưởng nặng nhất là
những sinh vật lớn có lông. Trong thời của Cách mạng Nhận thức, hành tinh đã là nhà ở của khoảng 200 chi của những động vật lớn nặng hơn năm mươi kg, thuộc lớp có vú sống trên cạn, Trong thời của Cách mạng Nông nghiệp, chỉ còn lại khoảng một trăm. Homo Sapiens đẩy đến tuyệt chủng khoảng một nửa những loài thú lớn của hành tinh, rất lâu trước khi con người phát minh ra bánh xe, chữ viết ghi chép, hoặc những khí cụ bằng sắt. Bi kịch sinh thái này đã được dựng lại trong thu nhỏ hàng vô số lần sau cuộc Cách mạng Nông nghiệp. Chứng tích khảo cổ của đảo này sang đảo khác, tất cả đều kể lại cùng một câu chuyện buồn như thế. Bi kịch mở đầu với một màn đầu mở ra cho thấy một cộng đồng sinh vật giàu có và đa dạng gồm những loài động vật lớn, mà không có bất kỳ dấu vết nào của con người. Trong màn hai, Sapiens xuất hiện, chứng tích là một xương người, một ngọn giáo, hoặc có lẽ một mảnh sành vỡ. Màn ba nhanh chóng tiếp sau, trong đó những con người, nam và nữ, chiếm vị trí trung tâm sân khấu, và hầu hết những loài động vật to lớn, cùng với rất nhiều những loài nhỏ hơn, đã mất sạch. Hòn đảo lớn Madagascar, khoảng 400 km về phía đông của lục địa châu Phi, đem cho một lấy thí dụ nổi tiếng. Qua hàng triệu năm cô lập, một sưu tập độc đáo gồm của những loài động vật đã tiến hóa ở đó. Chúng gồm những loài chim voi, một sinh vật không biết bay cao 3 mét và nặng gần nửa tấn – loài chim lớn nhất thế giới – và loài lemur khổng lồ, loài linh trưởng lớn nhất trên địa cầu. Loài chim voi và loàilemur khổng lồ, cùng với hầu hết những loài động vật lớn khác của Madagascar, đột nhiên biến mất 1.500 năm trước đây – đúng khi những con người đầu tiên đặt chân lên hòn đảo này.
Hình 10. Những hình vẽ dựng lại của hai con sloth đất khổng lồ (Megatherium) và đằng sau chúng là hai con armadilloskhổng lồ (Glyptodon). Bây giờ đều tuyệt chủng, conarmadillos khổng lồ dài hơn 3 mét và nặng tới 2 tấn, trong khi con sloth đất khổng lồ đứng cao đến 6 mét, và nặng đến 8 tấn. Ở biển Pacific, làn sóng tuyệt chủng chính đã bắt đầu vào khoảng năm 1500 TCN, khi những nông dân Polynesian định cư trên quần đảo Solomon, Fiji và New Caledonia. Họ giết chết sạch, trực tiếp hoặc gián tiếp, hàng trăm loài chim, côn trùng, ốc sên và những sinh vật khác ở địa phương. Từ đó, làn sóng tuyệt chủng di chuyển dần về phía đông, phía nam và phía bắc, vào trung tâm của biển Pacific, phá hủy trên đường đi của nó những loài động vật độc đáo của Samoa và Tonga (1200 TCN); Quần đảo Marquis (Thế kỷ 1); Đảo Easter, quần đảo Cook và Hawaii (500 CN); và cuối cùng là New Zealand (1200 CN). Thảm họa sinh thái tương tự xảy ra trên hầu hết tất cả mỗi một trong số hàng nghìn hòn đảo mà rải rác như những hột tiêu trên những biển Atlantic, Biển India, Biển Arctic và biển Mediterranean. Những nhà khảo cổ đã tìm ra ra, ngay cả trên những đảo nhỏ nhất, bằng chứng về sự hiện hữu của những loài chim, côn trùng và ốc sên, chúng đã sống ở đó lâu dài hàng bao thế hệ, nhưng chỉ biến mất khi những con người trồng trọt đầu tiên đến nơi. Không nhiều nhưng chỉ hiếm hoi có một vài hòn đảo xa xôi và cực kỳ hẻo lánh đã thoát được sự ghi nhận của con người đến tận thời hiện đại, và những đảo này giữ được fauna của chúng nguyên vẹn. Quần đảo Galapagos, để cho một thí dụ nổi tiếng, vẫn là đảo hoang không người đến ở cho đến thế kỷ XIX, do đó giữ được bầy thú độc đáo của nó, gồm cả con rùa khổng lồ của nó, vốn giống như con diprotodons thời cổ, cho thấy không sợ hãi trước con người. Làn sóng tuyệt chủng thứ nhất, đã đi kèm với sự lan rộng của những người chuyên săn bắn hái lượm để kiếm ăn, tiếp theo là làn sóng tuyệt chủng thứ nhì, đi kèm với sự lan rộng của những người chuyên trồng trọt, nông dân, và cho chúng ta một cái nhìn xa trước quan trọng trên làn sóng tuyệt chủng thứ ba, trong đó hoạt động kỹ nghệ đang gây ra ngày hôm nay. Đừng tin những người chủ trương bảo vệ môi trường sinh thái cực đoan, cho rằng tổ tiên chúng ta sống trong hài hòa với thiên nhiên. Rất lâu trước khi có cuộc cách
mạng kỹ nghệ, Homo Sapiens đã chiếm kỷ lục trong số tất cả những sinh vật vì đã đẩy hầu hết tất cả những loài thực vật và động vật vào tuyệt chủng. Chúng ta có sự nổi tiếng mờ ám là loài giết hại nguy hiểm nhất trong lịch sử của sinh học. Có lẽ nếu có nhiều người hơn nữa biết về những làn sóng tuyệt chủng thứ nhất và thứ nhì, họ sẽ bớt không lãnh đạm với làn sóng thứ ba vốn chính họ là một phần của nó. Nếu chúng ta biết được biết bao nhiêu loài sinh vật chúng ta đã tận diệt, chúng ta có thể có thêm động lực để bảo vệ những sinh vật còn sống sót. Điều này đặc biệt có liên quan đến những loài động vật lớn của đại dương. Không giống như những tương ứng của chúng trên mặt đất, những loài động vật biển lớn chịu thiệt hại tương đối ít từ những cuộc Cách mạng Nhận thức và canh nông. Nhưng nhiều trong số chúng đang trên bờ tuyệt chủng giờ đây như kết quả của sự ô nhiễm do kỹ nghệ và sự kiện con người sử dụng quá mức những nguồn tài nguyên của đại dương. Nếu mọi sự vật việc cứ tiếp tục với tốc độ hiện nay, rất có thể xảy ra là những loài cá voi, cá mập, cá ngừ và cá heo sẽ theo chân những loài diprotodons, sloth đất và mammoth đi vào quá khứ lãng quên. Trong số tất cả những sinh vật lớn của thế giới, những sống sót duy nhất của lũ lụt do con người gây ra, sẽ chỉ có chính những con người mà thôi, và những con vật trong những trại chăn nuôi sẽ phục vụ như những nô lệ chèo thuyền trong con thuyền lánh nạn lụt, như đã kể trong huyền thoại, của Noah.
Phần Hai Cuộc Cách mạng Nông nghiệp Hình 11. Một bức tranh trên tường một ngôi mộ Egypt, có niên đại khoảng 3.500 năm trước đây, mô tả những cảnh canh nông điển hình.
5 Sự Lừa đảo lớn nhất của lịch sử Trong 2,5 triệu năm, loài người nuôi mình ăn bằng hái lượm những thực vật và săn bắt những động vật vốn chúng sinh sống và sinh sản không có sự can thiệp của họ. Homo erectus, Homo ergaster và ngườiNeanderthal đã hái những quả sung dại, và săn những con cừu hoang với không quyết định nơi nào sẽ trồng gốc cây sung, đồng cỏ nào nên thả một bầy cừu vào chăn trong đó, hoặc chọn con dê đực nào sẽ phối giống với con dê cái nào. Homo Sapiens vươn toả rộng từ Đông Phi sang Trung Đông, đến châu Âu và châu Á, và cuối cùng là châu Australia và châu Mỹ – nhưng ở mọi nơi họ đã đến, Sapiens cũng đã vẫn tiếp tục sống bằng hái lượm những thực vật mọc hoang và săn bắt những động vật sống hoang dã. Tại sao phải làm bất cứ gì khác khi lối sống của bạn nuôi bạn no đủ thừa thãi, và hỗ trợ một thế giới phong phú những cấu trúc xã hội, những tín ngưỡng tôn giáo và những động lực chính trị? Tất cả điều này đã thay đổi khoảng 10.000 năm trước đây, khi Sapiens bắt đầu dành hầu hết thời giờ và công sức của họ để thao túng sự sống của một số ít những loài động vật và thực vật. Từ lúc mặt trời mọc đến lúc mặt trời lặn, con người gieo hạt giống, tưới cây, nhổ cỏ dại trên mặt đất, và dắt cừu đến những đồng cỏ ngon. Công việc này, họ đã nghĩ rằng sẽ cung cấp trái cây, hạt cho bột ăn và thịt nhiều hơn cho họ. Đó đã là một cách mạng trong cách sinh sống của con người – cuộc Cách mạng Nông nghiệp. Chuyển sang sản xuất canh nông bắt đầu vào khoảng năm 9500-8500 TCN tại vùng đồi núi phía đông nam Turkey, phía tây Iran, và vùng bờ Đông Mediterranean. Nó bắt đầu chậm chạp, và trong một khu vực địa lý giới hạn. Lúa mì và loài dê được thuần hoá khoảng năm 9000 TCN; cây đậu peas và lentils khoảng 8000 TCN; cây ôliu khoảng 5000 TCN; loài ngựa khoảng năm 4000 TCN; và cây nho khoảng năm 3500 TCN. Một số loài động vật và thực vật, chẳng hạn như loài lạc đà và cây hạt cashew, đã được thuần hóa lại còn trễ hơn, nhưng đến khoảng năm 3500 TCN, làn sóng thuần hoá chính đã qua hết. Ngay cả ngày nay, với tất cả những kỹ thuật tiến bộ của chúng ta, hơn 90 phần trăm của những calori nuôi ăn loài người đều đến từ một số ít đếm đươc trên số ngón tay mà tổ tiên chúng ta đã thuần hoá những năm giữa 9500 và 3500 TCN – lúa mì, gạo, ngô (gọi là ‘corn’ ở nước Mỹ), khoai tây, kê và lúa mạch. Không có thực vật hoặc động vật đáng chú ý
nào đã được thuần hóa trong khoảng 2.000 năm qua. Nếu não thức của chúng ta là những người săn bắn hái lượm, những thức ăn nấu nướng của chúng ta là của những nông dân thời cổ. Những học giả từng tin rằng canh nông lan rộng từ một điểm xuất xứ duy nhất ở Trung Đông sang bốn góc của thế giới. Ngày nay, những học giả đồng ý rằng canh nông đã dấy lên ở nhiều nơi khác trên thế giới không phải do tác động của những nhà nông ở Trung Đông đã xuất khẩu cách mạng của họ, nhưng chúng hoàn toàn độc lập. Người dân ở Trung Mỹ thuần hoá bắp và đậu bean (thân đặc) mà không biết bất cứ gì về lúa mì và đậu pea (thân rỗng) trồng ở Trung Đông. Người Nam Mỹ từng học biết cách nuôi giống khoai tây và loài lạc đà không bướu llamas, không biết những gì đang xảy ra cả ở Mexico lẫn vùng bờ đông biển Mediterranean. Người ở vùng ngày nay là nước Tàu làm cách mạng đầu tiên thuần hoá gạo [1], hạt kê và giống lợn. Những người làm vườn đầu tiên của Bắc Mỹ là những người đã mệt mỏi với việc đào bới tìm quả bầu ăn được và quyết định trồng bí ngô. Những người ở New Guinea thuần hóa cây mía và chuối, trong khi nông dân Tây Phi đầu tiên thực hiện sự thuần hoá kê châu Phi, gạo châu Phi, lúa miến và lúa mì phù hợp với nhu cầu của họ. Từ những điểm tập trung ban đầu này, canh nông lan ra xa và rộng. Vào thế kỷ thứ nhất đại đa số dân chúng trên khắp thế giới là những người canh nông. Tại sao cuộc Cách mạng Nông nghiệp nổ ra ở Trung Đông, Tàu và Trung Mỹ, nhưng không ở Australia, Alaska hay Nam Phi? Lý do rất đơn giản: hầu hết những loài thực vật và động vật không thể thuần hóa được. Sapiens thể đào lên những nấm truffle thơm ngon và săn hạ voi mammoth nhiều lông; nhưng thuần hoá dù chỉ lấy một trong hai vừa nói, là không bao giờ nên việc. Nấm truffle là quá khó để tìm gặp, những con thú khổng lồ quá hung dữ để kềm giữ. Trong số hàng ngàn loài tổ tiên chúng ta đã săn bắn và hái lượm được, chỉ một số ít là những ứng viên thích hợp cho trồng trọt canh tác hay nuôi chăn như gia súc. Số loài ít ỏi đó sống trong những vùng đặc biệt, và trong những vùng đó đã diễn ra những cuộc Cách mạng Nông nghiệp. Những học giả từng tuyên bố rằng cuộc Cách mạng Nông nghiệp là một bước nhảy vọt vĩ đại cho loài người. Họ kể một câu chuyện tưởng tượng về sự tiến bộ thúc đẩy bởi sức mạnh của bộ óc con người. Tiến hoá dần dần
đào tạo loài người sẽ càng thông minh hơn. Cuối cùng, loài người đã rất thông minh khiến họ có thể tháo mở được những bí mật của thiên nhiên, cho phép họ thuần hoá loài cừu và trồng giống lúa mì. Ngay sau khi điều này xảy ra, họ vui vẻ buông bỏ đời sống vất vả, nguy hiểm, và thường thường là khắc khổ của sinh hoạt săn bắn hái lượm, an ổn định cư để vui hưởng đời sống thoải mái, mãn nguyện của người nông dân. Bản đồ 2. Địa điểm và niên đại của những cuộc Cách mạng Nông nghiệp. Những dữ liệu vẫn còn tranh cãi, và bản đồ liên tục được vẽ lại để kết hợp với những phát hiện khảo cổ mới nhất. Câu chuyện kể là một tưởng tượng phóng đại. Không có bằng chứng cho thấy với thời gian con người trở nên thông minh hơn. Những người kiếm ăn bằng săn bắn hái lượm đã biết những bí mật của thiên nhiên từ lâu trước cuộc Cách mạng Nông nghiệp, vì sự sống còn của họ phụ thuộc vào một kiến thức sâu xa về những động vật họ săn bắt và những thực vật họ thu lượm. Thay vì tưng bừng báo trước một kỷ nguyên mới của sinh sống dễ dàng, cuộc Cách mạng Nông nghiệp đã bỏ lại những nông dân với cuộc sống thông thường khó khăn hơn và ít thỏa mãn hơn là so với của những người săn bắn hái lượm. Những người chuyên săn bắn hái lượm đã dành thời gian của họ theo những cách đa dạng và sinh động thích thú hơn, và ít có nguy cơ phải chịu đói kém và bệnh tật. Cuộc Cách mạng Nông nghiệp chắc chắn nâng cao
Search
Read the Text Version
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 7
- 8
- 9
- 10
- 11
- 12
- 13
- 14
- 15
- 16
- 17
- 18
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23
- 24
- 25
- 26
- 27
- 28
- 29
- 30
- 31
- 32
- 33
- 34
- 35
- 36
- 37
- 38
- 39
- 40
- 41
- 42
- 43
- 44
- 45
- 46
- 47
- 48
- 49
- 50
- 51
- 52
- 53
- 54
- 55
- 56
- 57
- 58
- 59
- 60
- 61
- 62
- 63
- 64
- 65
- 66
- 67
- 68
- 69
- 70
- 71
- 72
- 73
- 74
- 75
- 76
- 77
- 78
- 79
- 80
- 81
- 82
- 83
- 84
- 85
- 86
- 87
- 88
- 89
- 90
- 91
- 92
- 93
- 94
- 95
- 96
- 97
- 98
- 99
- 100
- 101
- 102
- 103
- 104
- 105
- 106
- 107
- 108
- 109
- 110
- 111
- 112
- 113
- 114
- 115
- 116
- 117
- 118
- 119
- 120
- 121
- 122
- 123
- 124
- 125
- 126
- 127
- 128
- 129
- 130
- 131
- 132
- 133
- 134
- 135
- 136
- 137
- 138
- 139
- 140
- 141
- 142
- 143
- 144
- 145
- 146
- 147
- 148
- 149
- 150
- 151
- 152
- 153
- 154
- 155
- 156
- 157
- 158
- 159
- 160
- 161
- 162
- 163
- 164
- 165
- 166
- 167
- 168
- 169
- 170
- 171
- 172
- 173
- 174
- 175
- 176
- 177
- 178
- 179
- 180
- 181
- 182
- 183
- 184
- 185
- 186
- 187
- 188
- 189
- 190
- 191
- 192
- 193
- 194
- 195
- 196
- 197
- 198
- 199
- 200
- 201
- 202
- 203
- 204
- 205
- 206
- 207
- 208
- 209
- 210
- 211
- 212
- 213
- 214
- 215
- 216
- 217
- 218
- 219
- 220
- 221
- 222
- 223
- 224
- 225
- 226
- 227
- 228
- 229
- 230
- 231
- 232
- 233
- 234
- 235
- 236
- 237
- 238
- 239
- 240
- 241
- 242
- 243
- 244
- 245
- 246
- 247
- 248
- 249
- 250
- 251
- 252
- 253
- 254
- 255
- 256
- 257
- 258
- 259
- 260
- 261
- 262
- 263
- 264
- 265
- 266
- 267
- 268
- 269
- 270
- 271
- 272
- 273
- 274
- 275
- 276
- 277
- 278
- 279
- 280
- 281
- 282
- 283
- 284
- 285
- 286
- 287
- 288
- 289
- 290
- 291
- 292
- 293
- 294
- 295
- 296
- 297
- 298
- 299
- 300
- 301
- 302
- 303
- 304
- 305
- 306
- 307
- 308
- 309
- 310
- 311
- 312
- 313
- 314
- 315
- 316
- 317
- 318
- 319
- 320
- 321
- 322
- 323
- 324
- 325
- 326
- 327
- 328
- 329
- 330
- 331
- 332
- 333
- 334
- 335
- 336
- 337
- 338
- 339
- 340
- 341
- 342
- 343
- 344
- 345
- 346
- 347
- 348
- 349
- 350
- 351
- 352
- 353
- 354
- 355
- 356
- 357
- 358
- 359
- 360
- 361
- 362
- 363
- 364
- 365
- 366
- 367
- 368
- 369
- 370
- 371
- 372
- 373
- 374
- 375
- 376
- 377
- 378
- 379
- 380
- 381
- 382
- 383
- 384
- 385
- 386
- 387
- 388
- 389
- 390
- 391
- 392
- 393
- 394
- 395
- 396
- 397
- 398
- 399
- 400
- 401
- 402
- 403
- 404
- 405
- 406
- 407
- 408
- 409
- 410
- 411
- 412
- 413
- 414
- 415
- 416
- 417
- 418
- 419
- 420
- 421
- 422
- 423
- 424
- 425
- 426
- 427
- 428
- 429
- 430
- 431
- 432
- 433
- 434
- 435
- 436
- 437
- 438
- 439
- 440
- 441
- 442
- 443
- 444
- 445
- 446
- 447
- 448
- 449
- 450
- 451
- 452
- 453
- 454
- 455
- 456
- 457
- 458
- 459
- 460
- 461
- 462
- 463
- 464
- 465
- 466
- 467
- 468
- 469
- 470
- 471
- 472
- 473
- 474
- 475
- 476
- 477
- 478
- 479
- 480
- 481
- 1 - 50
- 51 - 100
- 101 - 150
- 151 - 200
- 201 - 250
- 251 - 300
- 301 - 350
- 351 - 400
- 401 - 450
- 451 - 481
Pages: