LỜI MỞ ĐẦU Xác định tầm quan trọng và ý nghĩa việc tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo tinh thần Kết luận 01-KL/TW về tiếp tục thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trở thành một nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; chú trọng chỉnh đốn tác phong công tác của cán bộ, khắc phục, ngăn ngừa bệnh thành tích, hình thức, phô trương, xây dựng hình ảnh người cán bộ, đảng viên gần dân, sát dân, lắng nghe, đối thoại với nhân dân, giản dị, khiêm tốn, tận tụy, trung thực và liêm khiết; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Mục đích làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức sâu sắc những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thành công việc tự giác, thường xuyên của mỗi cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, trước hết là của người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên và hội viên. 1
Tiểu sử Chủ tịch Hồ Chí Minh Chủ tịch Hồ Chí Minh (tên lúc nhỏ là Nguyễn Sinh Cung, tên khi đi học là Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng trước đây lấy tên là Nguyễn Ái Quốc), sinh ngày 19/5/1890 ở làng Kim Liên, xã Nam Liên (nay là xã Kim Liên), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An; mất ngày 02/9/1969 tại Hà Nội. . 2
Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 02/9/1969) Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, lớn lên ở một địa phương có truyền thống anh dũng chống giặc ngoại xâm. Sống trong hoàn cảnh đất nước chìm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, thời niên thiếu và thanh niên của mình, Hồ Chí Minh đã chứng kiến nỗi khổ cực của đồng bào và những phong trào đấu tranh chống thực dân, Hồ Chí Minh sớm có chí đuổi thực dân, giành độc lập cho đất nước, đem lại tự do, hạnh phúc cho đồng bào. Với ý chí và quyết tâm đó, tháng 6/1911, Hồ Chí Minh đã rời Tổ quốc đi sang phương Tây để tìm con đường giải phóng dân tộc. Ngày 03/6/1911, Nguyễn Tất Thành nhận thẻ nhân viên lên con tàu Amiran Latusơ Tơrêvin với cái tên là Văn Ba. Hai ngày sau, 05/6/1911 con tàu rời cảng Nhà Rồng đến Pháp. Từ năm 1912 - 1917, dưới cái tên Nguyễn Tất Thành, Hồ Chí Minh đến nhiều nước ở châu Á, châu Âu, châu Mỹ, châu Phi, sống hoà mình với nhân dân lao động. Qua thực tiễn, Hồ Chí Minh cảm thông sâu sắc cuộc sống khổ cực của nhân dân lao động và các dân tộc thuộc địa cũng như nguyện vọng thiêng liêng của họ. Hồ Chí Minh sớm nhận thức được cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam là một bộ phận trong cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới và tích cực hoạt động nhằm đoàn kết nhân dân các dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do. 3
Cuối năm 1917, Hồ Chí Minh từ Anh trở lại Pháp, hoạt động trong phong trào Việt kiều và phong trào công nhân Pháp. Năm 1919, lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Hồ Chí Minh đã gửi tới Hội nghị Vécxây (Versailles) bản yêu sách đòi quyền tự do cho nhân dân Việt Nam và cũng là quyền tự do cho nhân dân các nước thuộc địa. Dưới ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp và bỏ phiếu tán thành Đảng gia nhập Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản), trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Từ một người yêu nước trở thành một người cộng sản, Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Năm 1921, cùng với một số người yêu nước của các thuộc địa Pháp, Nguyễn Ái Quốc tham gia sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa. Tháng 4/1922, Hội xuất bản báo “Người cùng khổ” (Le Paria) nhằm đoàn kết, tổ chức và hướng dẫn phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Nhiều bài báo của Nguyễn Ái Quốc đã được đưa vào tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”, xuất bản tại Paris năm 1925. Đây là một công trình nghiên cứu về bản chất của chủ nghĩa thực dân, góp phần thức tỉnh và cổ vũ nhân dân các nước thuộc địa đứng lên tự giải phóng. Tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc từ Pháp sang Liên Xô, làm việc tại Quốc tế Cộng sản. Tháng 10/1923, tại Hội nghị 4
Quốc tế Nông dân lần thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc được bầu vào Hội đồng Quốc tế Nông dân và là đại biểu duy nhất của nông dân thuộc địa được cử vào Đoàn Chủ tịch của Hội đồng. Tiếp đó tham dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V, Đại hội Quốc tế Thanh niên lần thứ IV, Đại hội Quốc tế Công hội đỏ. Tại các đại hội, Nguyễn Ái Quốc kiên trì bảo vệ và phát triển sáng tạo tư tưởng của V.I. Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, hướng sự quan tâm của Quốc tế Cộng sản tới phong trào giải phóng dân tộc. Tháng 11/1924, với tư cách là Uỷ viên Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản và Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc). Tại Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc làm việc trong đoàn cố vấn Bôrôđin của Chính phủ Liên Xô bên cạnh Chính phủ Tôn Dật Tiên. Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, trực tiếp mở lớp huấn luyện đào tạo cán bộ cách mạng, ra tuần báo “Thanh niên”, tờ báo cách mạng đầu tiên của Việt Nam nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, chuẩn bị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn luyện được tập hợp in thành sách “Đường Kách mệnh” - một văn kiện lý luận quan trọng đặt cơ sở tư tưởng cho đường lối cách mạng Việt Nam. Tháng 5/1927, Nguyễn Ái Quốc rời Quảng Châu đi Mátxcơva (Liên Xô), sau đó đi Béclin (Đức), đi Brúcxen (Bỉ), tham dự phiên họp mở rộng của Đại hội đồng Liên đoàn chống chiến tranh đế quốc, sau đó đi Ý và từ đây về châu Á. 5
Từ tháng 7/1928 đến tháng 11/1929, Nguyễn Ái Quốc hoạt động trong phong trào Việt kiều yêu nước ở Xiêm (Thái Lan), tiếp tục chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tháng 2/1930, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị thành lập Đảng họp tại Cửu Long, thuộc Hồng Kông (Trung Quốc). Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam. Tháng 6/1931, Nguyễn Ái Quốc bị chính quyền Anh bắt giam tại Hồng Kông. Đầu năm 1933, Nguyễn Ái Quốc được trả tự do. Từ năm 1934 đến năm 1938, Nguyễn Ái Quốc nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc thuộc địa tại Mátxcơva (Liên Xô). Kiên trì con đường đã xác định cho cách mạng Việt Nam, Người tiếp tục theo dõi, chỉ đạo phong trào cách mạng trong nước. Tháng 10/1938, Người rời Liên Xô sang Trung Quốc, bắt liên lạc với tổ chức Đảng chuẩn bị về nước. Ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc về nước sau hơn 30 năm xa Tổ quốc. Tháng 5/1941, Nguyễn Ái Quốc triệu tập Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương Đảng, quyết định đường lối cứu nước trong thời kỳ mới, thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh), tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang giải phóng, xây dựng căn cứ địa cách mạng. Tháng 8/1942, lấy tên là Hồ Chí Minh, Người đại diện cho Mặt trận Việt Minh và Phân hội Việt Nam thuộc Hiệp hội 6
Quốc tế chống xâm lược sang Trung Quốc tìm sự liên minh quốc tế, cùng phối hợp hành động chống phát xít trên chiến trường Thái Bình Dương. Người bị chính quyền địa phương của Tưởng Giới Thạch bắt giam trong các nhà lao của tỉnh Quảng Tây. Trong thời gian một năm 14 ngày bị tù, Người đã viết tập thơ “Nhật ký trong tù” với 133 bài thơ chữ Hán. Tháng 9/1943, Hồ Chí Minh được trả tự do. Tháng 9/1944, Hồ Chí Minh trở về căn cứ Cao Bằng. Tháng 12/1944, Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Tháng 5/1945, Hồ Chí Minh rời Cao Bằng về Tân Trào (Tuyên Quang). Tại đây theo đề nghị của Hồ Chí Minh, Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội Quốc dân đã họp quyết định Tổng khởi nghĩa. Đại hội Quốc dân đã bầu ra Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Tháng 8/1945, Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Hồ Chí Minh đọc “Tuyên ngôn độc lập”, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và ra mắt Chính phủ lâm thời do Người làm Chủ tịch kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao; tổ chức Tổng tuyển cử tự do trong cả nước, bầu Quốc hội và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Ngày 01/01/1946, Chính phủ liên hiệp lâm thời được thành lập do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. 7
Tháng 01/1946, Quốc hội khóa I đã bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 02/3/1946, Chính phủ liên hiệp kháng chiến được thành lập do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngày 3/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh được Quốc hội giao nhiệm vụ thành lập Chính phủ mới do Người làm Chủ tịch nước kiêm Thủ tướng Chính phủ (từ 11/1946 đến 9/1955) và kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao (từ 11/1946 đến 1947). Cùng với Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Việt Nam phá tan âm mưu của đế quốc, giữ vững và củng cố chính quyền cách mạng. Ngày 19/12/1946, người kêu gọi cả nước kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc, bảo vệ và phát triển những thành quả của Cách mạng Tháng Tám. Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (1951), Người được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược đã giành được thắng lợi to lớn, kết thúc bằng chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ (7/5/1954). Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng (1955) Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. 8
Tháng 10/1956, tại Hội nghị Trung ương mở rộng lần thứ X (khóa II), Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Đảng, kiêm làm Tổng Bí thư của Đảng. Tại Đại hội lần thứ III của Đảng (1960) đã nhất trí bầu lại Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Quốc hội khóa II, khóa III đã bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Năm 1964, đế quốc Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân đánh phá miền Bắc Việt Nam. Người động viên toàn thể nhân dân Việt Nam vượt mọi khó khăn gian khổ, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Người khẳng định: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quí hơn độc lập, tự do! Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”. Chủ tịch Hồ Chí Minh mất ngày 02/9/1969, tại Hà Nội. Trước khi qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho nhân dân Việt Nam bản Di chúc lịch sử, căn dặn những việc Đảng và nhân dân Việt Nam phải làm để xây dựng đất nước sau chiến tranh. Người viết: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. 9
Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân Việt Nam đã đoàn kết một lòng đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại bằng máy bay B52 của đế quốc Mỹ, buộc Chính phủ Mỹ phải ký Hiệp định Paris ngày 27/1/1973, chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân đội Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam. Mùa xuân năm 1975, với Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân Việt Nam đã hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, thực hiện mong ước thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, đề ra đường lối đúng đắn đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Người sáng lập ra Đảng Mácxít - Lêninnít ở Việt Nam, sáng lập ra Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, sáng lập ra các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam và sáng lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, góp phần tăng cường đoàn kết quốc tế. Người là tấm gương sáng của tinh thần tập thể, ý thức tổ chức và đạo đức cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, lãnh tụ kính yêu của giai cấp công nhân và của cả dân tộc Việt Nam, một chiến sĩ xuất sắc, một nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc Từ ngày 20/10 đến ngày 20/11/1987, trong khóa họp lần thứ 24 của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã thông qua Nghị quyết số 24C/18.6.5, lấy năm 1990 nhân dịp Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, để tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là \"Anh 10
hùng giải phóng dân tộc và Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam\", góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới. Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập với thế giới, tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam và dân tộc Việt Nam, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./. Nguồn: https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/ho-chi- minh/tieu-su-cuoc-doi-va-su-nghiep/tieu-su-chu-tich-ho-chi-minh-52 11
Tuyên ngôn độc lập bất hủ và sáng mãi tư tưởng nhân văn của dân tộc Việt Nam Ngày 19-8-1945, cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám tại Hà Nội đã giành thắng lợi. Từ khu giải phóng Việt Bắc, vào chiều ngày 25-8-1945, theo sự chỉ đạo của đồng chí Lê Văn Lương, bằng một xe bí mật đi cổng sau, Chủ tịch Ủy ban Dân tộc giải phóng Hồ Chí Minh đã về trú đóng tại ngôi nhà của nhà tư sản yêu nước Trịnh Văn Bô, tại số nhà 48, phố Hàng Ngang, Hà Nội. Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập. Sự ra đời và nội dung cao cả của bản Tuyên ngôn lịch sử Lúc đó, mặc dù còn mệt do bệnh chưa khỏi hẳn, nhưng ngay sáng 26-8-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập và 12
chủ trì cuộc họp của Thường vụ Trung ương Đảng. Trong cuộc họp này, ngoài việc bàn những vấn đề trọng yếu của quốc gia, Người cho biết sẽ chuẩn bị để biên soạn bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tại cuộc họp của Ủy ban Dân tộc giải phóng, ngày 27-8, Người được bầu làm Chủ tịch Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Liên tiếp trong hai ngày 28 và 29-8, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành phần lớn thời gian để soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập. Ngày 30-8, Người đã mời một số đồng chí ở Trung ương Đảng đến trao đổi, góp ý kiến thêm cho bản dự thảo Tuyên ngôn độc lập. Sau khi đọc bản thảo cho mọi người nghe và hỏi ý kiến, Người nói đại ý: Trong đời, Người đã viết nhiều nhưng đến bây giờ, mới viết được một văn bản cực kỳ quan trọng là bản Tuyên ngôn độc lập cho nước nhà vừa giành độc lập. Tiếp đó, ngày 31-8, vẫn tại ngôi nhà 48 Hàng Ngang, Hồ Chí Minh đã bổ sung một số điểm vào bản thảo bản Tuyên ngôn độc lập; đồng thời, hỏi Ban Tổ chức về tình hình cụ thể của việc chuẩn bị ngày Lễ Độc lập sẽ diễn ra tại quảng trường Ba Đình vào chiều ngày 2-9-1945, khi nước nhà vừa giành độc lập hơn 1 tuần lễ (Nam Bộ đến 25-8-1945 mới hoàn thành việc giành chính quyền). Đúng 13 giờ 30 phút ngày 2-9-1945, đoàn xe chở các thành viên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đi đến quảng trường Ba Đình. Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh và các vị Bộ trưởng vừa bước lên lễ đài thì cả rừng người vỗ tay hoan nghênh kéo dài. Giờ chào cờ đã đến. Đội kèn đồng của Vệ quốc quân vang lên bài Quốc ca “Tiến quân ca” hùng tráng. Tiếp đó, lá cờ đỏ sao vàng được hai chiến sĩ 13
giải phóng quân là Đàm Thị Loan và Lê Thi đã từ từ kéo lên đỉnh cao nhất của cột cờ quảng trường Ba Đình. Lúc này, một nỗi trang nghiêm đang chờ đón những thời khắc đáng nhớ nhất của dân tộc ta qua gần 100 năm kéo dài trong cảnh nô lệ, lầm than. Và đúng 14 giờ tại Quảng trường (nay gọi là quảng trường Ba Đình) Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ tối cao của dân tộc, đã trịnh trọng đứng trên lễ đài đọc Tuyên ngôn độc lập. Người trong bộ quần áo kaki giản dị, với giọng nói ấm áp, rõ ràng, mang âm hưởng chất giọng xứ Nghệ quê hương Người đã vang lên Quảng trường. Tại bản Tuyên ngôn độc lập, Người đã nêu lên quyền dân tộc cơ bản của các dân tộc trên thế giới, khẳng định quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của nhân dân ta là quyền độc lập, tự do; và đó cũng là quyền con người mà nhân dân ta đã anh dũng đấu tranh, giành lấy từ tay phát- xít Nhật, bởi lẽ không thể có được quyền con người khi quyền độc lập của dân tộc bị chà đạp; nói cách khác, dân tộc có được độc lập thì con người mới được hưởng quyền con người một cách đích thực, hữu hiệu. Đó là tư tưởng bất hủ của Hồ Chí Minh về sự gắn bó chặt chẽ giữa quyền dân tộc và quyền con người, khi Người nêu rõ: “Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do mưu cầu hạnh phúc. Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập; Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do, độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập”. Tư tưởng bất hủ đó là sự kết tinh hàng nghìn 14
năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, mà hơn ai hết Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấu hiểu rất rõ và sâu sắc về điều đó. Ý nghĩa mang tính thời đại to lớn của Tuyên ngôn độc lập 1. Tuyên ngôn độc lập là bản “Thiên cổ hùng văn” kết tinh truyền thống lịch sử kiên cường, bất khuất của cả dân tộc, là bản anh hùng ca mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập tự do cho các dân tộc trên thế giới, trong đó nước ta lần đầu tiên tại Đông Nam Á đã giành được quyền độc lập và quyền tự do. 2. Tuyên ngôn độc lập bất hủ ngay từ những khổ đầu đã lấy tư tưởng cao cả của Tuyên ngôn độc lập Mỹ và Pháp, tư tưởng “Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do mưu cầu hạnh phúc”. Đó là những ý tưởng cao cả của loài người tiến bộ trong cuộc đấu tranh giành lại sự sống ấm no đi tới tự do. Vận dụng những tư tưởng lớn của loài người từ hai quốc gia Mỹ và Pháp để nhận định những lý tưởng cao đẹp, sáng ngời của ý chí độc lập, tự do mà bất cứ quốc gia nào, dân tộc nào cũng đều có quyền dành cho con người được hưởng tự do và độc lập. 3. Tuyên ngôn đã chỉ ra một chính quyền cách mạng mới của nhân dân Việt Nam được xây dựng và trưởng thành theo đúng ý nguyện của mọi tầng lớp nhân dân và cả dân tộc. Tuyên ngôn khẳng định ý chí sắt đá không gì lay chuyển nổi và là triết lý nhân sinh vĩnh hằng của dân tộc Việt Nam đang phấn đấu, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. 15
4. Bản Tuyên ngôn là sản phẩm của sự kết hợp các giá trị của truyền thống anh hùng, bất khuất và ý chí kiên cường vì độc lập dân tộc của Việt Nam với sứ mệnh cao cả của giai cấp vô sản được đề cập trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản (năm 1848). Tuyên ngôn đã thể hiện rõ cách mạng Việt Nam là một bộ phận hữu cơ của cách mạng thế giới và giai cấp vô sản Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của giai cấp vô sản thế giới có sứ mệnh lịch sử cao cả và vĩ đại là giải phóng dân tộc và nhân loại. 5. Tuyên ngôn độc lập 1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp soạn thảo và công bố trước toàn thế giới cho thấy trí tuệ sắc sảo và lỗi lạc của Người. Đây là kết quả của một quá trình tư duy khoa học độc đáo và thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều đó càng khẳng định rõ ràng và nhất quán một chân lý hết sức giản dị nhưng có tầm khái quát cao là tư tưởng và tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cũng như trí tuệ sắc sảo của Người đã và vẫn mãi mãi soi sáng con đường dân tộc Việt Nam. Nguồn: https://www.xaydungdang.org.vn/ly-luan-thuc-tien/tuyen-ngon-doc-lap-bat- hu-va-sang-mai-tu-tuong-nhan-van-cua-dan-toc-viet-nam-17480 16
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi mãi sáng soi Sau 45 năm công bố, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn sáng rõ tầm nhìn thời đại và vẹn nguyên giá trị. Di chúc của Người vẫn là những chỉ dẫn quý báu, động lực tinh thần giúp chúng ta vượt qua khó khăn, tận dụng thời cơ, chấp nhận thách thức để tiến tới con đường phát triển bền vững. Vài nét về quá trình Bác viết Di chúc Nhân dịp sinh nhật lần thứ 75, sáng ngày 10-5-1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết những dòng đầu tiên của bản Di chúc. Đến ngày 15-5, bản Di chúc đầu tiên này hoàn thành, dài gần 3 trang, do chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh máy, có chữ ký của Người và chữ ký chứng kiến của đồng chí Lê Duẩn - lúc đó là Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Từ ngày 10-5-1965 đến lúc kết thúc viết Di chúc ngày 10-5-1969, 17
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung và viết lại. Năm 1966 và 1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh không có bản viết riêng, chỉ có hai bản bổ sung vào Di chúc năm 1965. Năm 1968, Người viết bổ sung một đoạn gồm 6 trang viết tay, ngày 10-5-1969 viết lại toàn bộ phần mở đầu Di chúc, gồm 1 trang viết tay. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh lần đầu tiên được công bố trong Lễ tang của Người tháng 9-1969, gồm 4 trang in khổ 14,5 cm x 22 cm. Ngày 19-8-1989, Bộ Chính trị ra Thông báo số 151-TB/TW Về một số vấn đề liên quan đến Di chúc và ngày qua đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định Di chúc công bố chính thức năm 1969 đảm bảo trung thành với bản gốc của Người. Nội dung chủ yếu dựa theo bản Bác viết năm 1965, trong đó đoạn mở đầu là của bản viết năm 1969, đoạn về việc riêng là của bản viết năm 1968. Lúc đầu, vì những lý do nhất định, nên một số vấn đề trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa được công bố, như: Việc căn dặn của Người về hoả táng thi hài; việc cần làm sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi; miễn giảm thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã nông nghiệp... Trong dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI) đã quyết định công bố toàn bộ các bản viết Di chúc của Người. Bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh được viết trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta ở vào giai đoạn ác liệt, song đang trên đà thắng lợi, đòi hỏi sự đoàn kết chặt chẽ, chiến đấu bền bỉ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hai miền Nam - Bắc với niềm tin vững chắc vào thắng lợi cuối cùng. Đế quốc Mỹ sau thất bại trong chiến lược \"Chiến tranh đặc biệt\", chúng tiến hành chiến lược \"Chiến 18
tranh cục bộ\" ở miền Nam, đồng thời leo thang \"Chiến tranh phá hoại\" miền Bắc lần thứ nhất; Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ướng Đảng khóa III tháng 3-1965 đã hạ quyết tâm chiến thắng giặc Mỹ xâm lược. Sau khi đánh bại cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, chúng ta mở cuộc Tổng tiến công, nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, buộc đế quốc Mỹ phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc, chấp nhận đàm phán với ta ở Hội nghị Pa-ri. Giá trị to lớn của Di chúc Di chúc là tâm nguyện, tình cảm, ý chí, niềm tin, trách nhiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Tổ quốc, nhân dân và sự nghiệp cách mạng. Di chúc thể hiện sự tự nhận thức sâu sắc về bản thân của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đón nhận quy luật cuộc sống bằng phong thái ung dung, tự tại, chuẩn bị việc ra đi của mình bằng những lời tâm huyết dặn lại. Tâm nguyện của Người: “Suốt đời tôi hết lòng phụng vụ Tổ quốc, phụng vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phụng vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Ý chí, niềm tin, tinh thần lạc quan cách mạng, trách nhiệm với nhân dân của Người thể hiện sâu sắc ở dự báo về thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ và ngày thống nhất đất nước, ở những chỉ dẫn về công việc của sự nghiệp cách mạng còn dang dở. Di chúc là tâm sự của một người đã suốt đời hy sinh hạnh phúc riêng tư, hiến dâng trọn cuộc đời cho Tổ quốc và nhân dân; là tấm lòng chung thuỷ với “các nước anh em” và “bầu bạn khắp năm châu”. Di chúc là công trình lý luận về xây dựng Đảng cầm quyền Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Đảng ta là Đảng cầm quyền”. Để đáp ứng được nhiệm vụ lãnh đạo xã 19
hội, Đảng phải luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và gắn bó máu thịt với nhân dân, không ngừng nâng cao bản chất giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình. Di chúc nêu những vấn đề cốt yếu của công tác xây dựng Đảng, đó là: Giữ gìn mối đoàn kết trong Đảng, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tự phê bình và phê bình, rèn luyện đạo đức cách mạng, nêu cao tinh thần trách nhiệm, hết lòng phục vụ nhân dân của mỗi cán bộ, đảng viên. Công tác chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ chiến lược, là công việc thường xuyên để giữ vững vai trò lãnh đạo và cầm quyền của Đảng. Sự nghiệp cách mạng là một sự nghiệp bền bỉ, dài lâu, tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đảng cầm quyền phải chăm lo phát triển lực lượng cho hiện tại và chuẩn bị cho tương lai một thế hệ trẻ vừa “hồng” vừa “chuyên”, có như vậy mới thực hiện thành công lý tưởng xây dựng một xã hội mới, tiến bộ, văn minh. Bác dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”, đó là công việc bồi dưỡng lý tưởng cộng sản, giáo dục truyền thống yêu nước, ý thức rèn luyện đạo đức cách mạng, đào tạo nguồn nhân lực kế tục sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng Việt Nam không thể tách rời cách mạng thế giới. Sự vững mạnh của Đảng còn được khẳng định trong mối quan hệ đoàn kết chặt chẽ với các đảng cộng sản và bè bạn quốc tế. Điều Bác dặn trong Di chúc “về phong trào cộng sản thế giới” chỉ dẫn định hướng quan trọng cho quan hệ đối ngoại của Đảng, đó là nguyên tắc đoàn kết quốc tế dựa trên “nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý có tình”. 20
Di chúc là tác phẩm bàn về xây dựng xã hội XHCN ở Việt Nam, là phác thảo lý luận sự nghiệp đổi mới ở nước ta Di chúc là điểm kết tinh tư tưởng của Bác về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam, mối quan hệ giữa công bằng và tiến bộ xã hội, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá trong xây dựng xã hội mới, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và sức mạnh thời đại, động lực lợi ích và chăm lo chu đáo tới cuộc sống con người, tư tưởng trọng dân, coi dân là gốc, là chủ thể của sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước. Di chúc như một kế hoạch, một chương trình hành động của toàn Đảng, toàn dân về sự nghiệp xây dựng đất nước sau chiến tranh với những chỉ dẫn về quản lý xã hội như: đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; sửa đổi chế độ giáo dục cho phù hợp hoàn cảnh mới; khôi phục và mở rộng các ngành kinh tế; phát triển công tác vệ sinh, y tế; chính sách miễn thuế nông nghiệp cho nông dân; chính sách xã hội, công bằng xã hội... Giá trị văn hoá của Di chúc rất lớn lao, trong đó Bác chỉ dẫn con đường, mục tiêu phát triển của nền văn hoá Việt Nam; trù tính, dự liệu về những cuộc vận động lớn giáo dục văn hoá trong toàn dân, toàn xã hội, lấy văn hoá chính trị của Đảng Cộng sản cầm quyền và văn hoá trong thể chế nhà nước - một nhà nước dân chủ pháp quyền của dân, do dân, vì dân làm sức mạnh tiêu biểu nêu gương thuyết phục nhân dân. Qua lời dặn dò về việc riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề cập đến việc xây dựng một đời sống văn hoá mới; một lối sống tiết kiệm, không lãng phí; mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, môi trường sinh thái. 21
Di chúc phác thảo những vấn đề quan trọng của sự nghiệp đổi mới đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm, đổi mới là một tất yếu để phát triển; đổi mới là một cuộc đấu tranh bền bỉ, một quá trình xây dựng gian khổ, \"là một công việc cực kỳ to lớn, nặng nề và phức tạp”, là “cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. Người yêu cầu, Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh, điều kiện nước ta phải đặc biệt chú trọng phát huy khả năng sáng tạo của dân, “động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”. Ý nghĩa sâu sắc của Di chúc Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là văn kiện có giá trị vô cùng to lớn đối với quá trình cách mạng và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc ta trên nhiều phương diện, nó vạch ra phương hướng cho cách mạng Việt Nam cả hôm nay và trong tương lai, đặc biệt là quan hệ với các Đảng Cộng sản anh em, các nước xã hội chủ nghĩa. Ở vấn đề này, khi hệ thống chủ nghĩa xã hội có nhiều biến đổi, nhất là những diễn biến phức tạp trong khu vực và thế giới gần đây càng cho chúng ta thấy Di chúc của Người có ý nghĩa thời sự sâu sắc. Di chúc vừa là văn kiện của một nhà chính trị lớn, lãnh tụ cao nhất của Đảng và dân tộc, người đã sáng tạo ra thời đại mới, “thời đại Hồ Chí Minh”, thời đại của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của dân tộc Việt Nam; vừa là tác phẩm nghệ thuật tầm cỡ của một nhà văn hoá lớn. Đây là sự phản ánh thống nhất, cô đọng nhất về toàn bộ cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh; thể hiện phẩm chất đạo 22
đức sáng ngời suốt đời phục vụ cách mạng, phục vụ Tổ quốc và nhân dân của người chiến sĩ cộng sản kiệt xuất; thể hiện mong muốn cuối cùng của Người. Di chúc thể hiện cô đọng và sâu sắc những tư tưởng đổi mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam. Người đã căn dặn toàn Đảng, toàn dân ta những việc to lớn, hệ trọng, cần làm sau khi đất nước thống nhất. Hơn 45 năm qua, Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là nguồn cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phát huy tinh thần yêu nước, đại đoàn kết toàn dân tộc, vượt qua thử thách, giành những thắng lợi vẻ vang, đưa cả nước bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kỷ niệm 45 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một dịp để chúng ta tiếp tục ôn lại lời căn dặn tâm huyết cuối cùng của Lãnh tụ kính yêu, Anh hùng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới trước lúc đi xa. Với tất cả tình cảm kính yêu vô hạn và niềm tin tuyệt đối vào lời căn dặn của Người, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đồng lòng quyết tâm thực hiện thắng lợi Di chúc thiêng liêng và con đường cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa chọn, xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Nguồn: https://www.xaydungdang.org.vn/tu-tuong-ho-chi-minh/di-chuc-cua-chu-tich-ho- chi-minh-mai-mai-sang-soi-7684 23
Học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh dễ hay khó, như thế nào cho hiệu quả? 24
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Một nhân cách văn hóa kiệt xuất Chủ tịch Hồ Chí Minh - nơi hội tụ và tỏa sáng văn hóa Việt Nam. Nhân cách văn hóa của Người không chỉ làm rạng rỡ non sông đất nước Việt Nam mà còn khắc sâu trong trái tim bạn bè thế giới. Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức của Người không chỉ là dịp để người Việt Nam lĩnh hội và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc, tìm về chuẩn mực đạo đức mà còn là cơ hội để sửa mình, học làm người, làm cán bộ, học để phụng sự nhân dân, để xây dựng đất nước Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm châu như Bác hằng mong ước. Hằng năm, mỗi độ Tháng Năm về, muôn triệu trái tim Việt Nam cùng chung nhịp đập hướng về Chủ tịch Hồ Chí Minh - nơi hội tụ và tỏa sáng văn hóa Việt Nam, tưởng nhớ 25
ngày sinh của Bác - một người cộng sản vĩ đại, anh hùng dân tộc kiệt xuất, chiến sĩ quốc tế lỗi lạc đã đấu tranh không mệt mỏi và hiến dâng cả đời mình cho Tổ quốc, nhân dân, vì độc lập, tự do của các dân tộc, hòa bình và công lý trên thế giới. Người đã đi xa nhưng nhân cách văn hóa của Người không chỉ làm rạng rỡ non sông đất nước Việt Nam mà còn khắc sâu trong trái tim bạn bè thế giới. Bác sinh thành trong gia đình có nền nếp gia phong mẫu mực, hiếu học, nhân nghĩa của vùng đất xứ Nghệ giàu truyền thống lịch sử văn hóa - nơi đã sản sinh những hiền tài của đất nước. Quê hương, gia đình, đặc biệt là nhân cách của người cha - Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, được hầu trà, bê tráp cho các bậc cha chú, luận bàn việc nước, đàm đạo chính sự và những bài học “vỡ lòng” từ các thầy trong nhóm “Tứ hổ Nam Đàn”… đã ảnh hưởng, nuôi dưỡng và sớm giác ngộ tinh thần yêu nước, hình thành nhân cách người thanh niên Nguyễn Tất Thành - lãnh tụ kiệt xuất Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Chứng kiến nước mất, nhà tan và rất nhiều cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp theo khuynh hướng khác nhau thất bại, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi “đêm trường nô lệ”. Năm 1911, Người đã rời cảng Nhà Rồng, thành phố Sài Gòn - Gia Định sang phương Tây để tìm con đường giải phóng dân tộc. Sau quá trình bôn ba khắp bốn biển năm châu, Người đã đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin, Cách mạng Tháng Mười Nga. Đây là dấu mốc quan trọng, đánh dấu chuyển biến trong nhận thức và tư tưởng. Người tìm thấy trong Chủ nghĩa Mác - Lênin phương pháp biện chứng, con đường đánh đổ ách thống trị đế quốc, giải phóng đất nước, dân 26
tộc Việt Nam. Người nhận thức:“Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó, chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta”. Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên đều mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội. Do đó, Người nói: “Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy”. Người đã là một học trò xuất sắc, kế thừa và phát triển lý tưởng của những người thầy lên tầm cao mới, góp phần phát triển văn hóa nhân loại. Nhà thơ Liên Xô, Ô-xíp Man-đen-xtam đã viết: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã toả ra một thứ văn hoá, không phải văn hoá Âu châu, mà có lẽ là nền văn hoá tương lai... Qua phong thái thanh cao, trong giọng nói trầm ấm của Nguyễn Ái Quốc, chúng ta như nghe thấy ngày mai, như thấy sự yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái toàn thế giới”. Bác đã được Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận là Anh hùng giải phóng dân tộc và Danh nhân văn hóa kiệt xuất. Cả cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến trọn vẹn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và nhân dân Việt Nam, đồng thời Người cũng đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp giải phóng những người cùng khổ và bị áp bức trên toàn thế gian. Người đau xót trước cảnh những người dân nghèo quê hương gầy guộc, rách rưới, khổ đau sống lầm lụi khiếp đời nô lệ. Và, cũng với nỗi đau đó, Nguyễn Ái Quốc đã khóc khi nhìn thấy những người nô lệ da đen ở bờ biển Đa-ca bị bọn thực dân giết hại, hoặc khi nghe tin một người da trắng Ai-len yêu nước bị chết trong nhà tù của bọn thực dân. Người đã khóc khi nghe 27
tin đồng bào bị quân thù giết hại, khi nghe tin nhiều chiến sĩ đã hy sinh trong chiến đấu. Tình cảm của Người đối với nhân loại được nhà thơ Tố Hữu viết:“Bác ơi! Tim Bác mênh mông quá/ Ôm cả non sông, mọi kiếp người”. Trong quá trình hoạt động cách mạng, Người luôn luôn có các phương pháp tinh tế và phù hợp để giải quyết những vấn đề cụ thể, cứng rắn và kiên định về nguyên tắc nhưng mềm mại và uyển chuyển trong giải pháp, thận trọng nhưng kiên quyết, bình tĩnh nhưng khẩn trương, sâu sắc lý luận nhưng rất thực tiễn… là những biểu hiện biện chứng trong nhân cách văn hóa của Người. Năm 1945, khi vận nước đứng trước tình thế ngàn cân treo sợi tóc, Người luôn dĩ bất biến ứng vạn biến, lãnh đạo Đảng và Nhân dân thực hiện thành công sách lược hòa để tiến. Trong bối cảnh lịch sử đầy biến động cách ứng xử khoan nhưng không nhu, nhẫn nhục nhưng không khuất phục đã tôn cao thêm nhân cách văn hóa Hồ Chí Minh. Hình ảnh nhân cách văn hóa lớn Việt Nam tỏa sáng trong con người giản dị Hồ Chí Minh được bạn bè thế giới nghiêng mình kính phục. Trong cuốn “Đối diện với Hồ Chí Minh” xuất bản tại Pa-ri, năm 1970, ông , J. Xanh-ten-ni, đại diện của Chính phủ Pháp ký Hiệp đinh Sơ bộ (6-3-1946) kể lại: Buổi làm việc cuối cùng về tinh thần và lời văn của Hiệp định kết thúc. Lễ ký được tiến hành. Hồ Chí Minh đã suy nghĩ thận trọng, nhưng cũng rất khẩn trương và quyết đoán. Để đổi lấy hòa bình, dân tộc Việt Nam đã nhân nhượng. Một trong những cố gắng cuối cùng, đêm 19-4-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với Chính phủ Pháp một thỏa thuận để cứu vãn hòa bình. Trong cuốn“Một nền hòa bình bị bỏ lở”, J. Xanh-ten-ni viết: Quả thật nước Pháp không đánh giá đúng tầm cỡ ông Hồ Chí 28
Minh, không hiểu vai trò của ông và sức mạnh mà ông có trong tay. Với tầm nhìn chiến lược, nhân cách văn hóa lớn, Người đã cùng dân tộc Việt Nam viết nên bản hùng ca Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu” năm 1954. Năm 1965, Mỹ đưa quân và vũ khí trang bị ồ ạt xâm lược Việt Nam, Người đã kêu gọi: “Này, Tổng thống Giôn xơn - Người hãy công khai trả lời trước nhân dân Mỹ và thế giới câu hỏi này: Ai đã phá vỡ Hiệp nghị Giơ-ne-vơ – là Hiệp nghị bảo đảm độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam, phải chăng quân đội Việt Nam sang xâm lược nước Hoa Kỳ hay chính phủ Mỹ đã đem quân đội Hoa Kỳ đến xâm lược Việt Nam và giết hại người Việt Nam. Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa chúng ta kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng. Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Bác kính yêu, nhân dân Việt Nam đã anh dũng kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước vào năm 1975. Chủ tịch Hồ Chí Minh phê phán không khoan nhượng những quan điểm đối lập không có lợi cho sự nghiệp cứu dân, cứu nước của những người cùng thời, nhưng trong mối quan hệ cá nhân, sự hành xử đúng mực và có tình của Người đã khiến họ vị nể và kính trọng. Trong lịch sử, hiếm có những nhân vật chính trị lớn, có tên tuổi mà không có kẻ thù riêng như Hồ Chí Minh. Đối với những người cùng chính kiến, những đồng chí, Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng kiệt xuất. Với những người khác chính kiến, thậm chí đối địch, thì Hồ Chí Minh là một nhân cách với nhiều phẩm chất trong sáng và cao thượng. 29
Là người đứng đầu quốc gia, một lãnh tụ thiên tài nhưng đời sống thường ngày của Người vô cùng giản dị. Một người nước ngoài sau khi thăm nơi ở và làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Hà Nội đã tâm sự: Nơi đây không có chỗ cho sự xa hoa và, cũng không có chỗ cho sự tầm thường. Đó chính là một nhân cách văn hóa lớn - nhân cách văn hóa Hồ Chí Minh. Trong điếu văn, cố Tổng Bí thư Lê Duẩn đã nghẹn ngào khi tiễn Bác về cõi vĩnh hằng: Dân tộc ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh – Người là nơi hội tụ, kết tinh và tỏa sáng nền văn hóa Việt Nam. Bác đã đi vào cõi vĩnh hằng, nhưng hệ thống tư tưởng, quan điểm và tấm gương đạo đức sáng ngời của Người luôn song hành cùng dân tộc. Năm 2007, Đảng ta đã phát động Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Cuộc vận động đã và đang đi vào chiều sâu và có sức sống, sức lan tỏa rộng lớn. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người không chỉ là dịp để người Việt Nam lĩnh hội và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc, tìm về chuẩn mực đạo đức mà còn là cơ hội để sửa mình, học làm người, làm cán bộ, học để phụng sự nhân dân, để xây dựng đất nước Việt Nam đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, sánh vai với các cường quốc năm châu như sinh thời Bác hằng mong ước. Nguồn: https://xaydungdang.org.vn/tu-tuong-ho-chi-minh/chu-tich-ho-chi-minh-mot- nhan-cach-van-hoa-kiet-xuat-9437 30
Học tập Bác điều quan trọng nhất là làm theo gương Bác Vẫn còn biết bao câu chuyện cảm động về Bác Hồ kính yêu của chúng ta. Mỗi người hãy xác định suốt đời học tập và làm theo gương Bác để không ngừng tiến bộ, tránh được những khuyết điểm, sai lầm dù là nhỏ nhất. Nhắc đến hai tiếng Bác Hồ, ai trong chúng ta cũng thấy thân thương, trìu mến. Sinh thời, Người hằng quan tâm và dày công xây dựng Đảng thành một khối đoàn kết thống nhất, vững mạnh và trong sạch. Người luôn chăm lo giáo dục, đào tạo, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng 31
viên, đặc biệt là thế hệ trẻ. Cả cuộc đời Người đã hy sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì tương lai, vận mệnh của đất nước, vì ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Dù là lãnh tụ đứng đầu một đất nước nhưng Bác vẫn sống đạm bạc, giản dị, luôn vì dân, vì nước, không một chút tư riêng. Điều đó đã tạo nên một tấm gương bình dị mà cao quý, khiến mọi người muốn noi theo. Khi xuống cơ sở, đến với dân, Bác không bao giờ báo trước, để không bố trí đón rước linh đình. Bác đến thẳng nơi ăn nơi ở, trong bếp núc, nơi làm việc, nhà trẻ, chỗ vệ sinh, quan tâm thiết thực đến đời sống hằng ngày của mọi người. Các buổi lễ lớn, Người thường xuất hiện ở phía sau hội trường, thường không chỉ nghe báo cáo viết sẵn, trình bày một chiều mà bằng nhiều cách khác nhau. Người quan sát thực tiễn, hiểu rõ những điều cơ bản nhất, chân thật nhất của tình hình rồi mới đọc và nghe báo cáo. Bác tiết kiệm từng thứ nhỏ nhất trong nếp sống, công việc hằng ngày. Bác thường xuyên nhắc nhở mọi người quý trọng sức lao động, sử dụng tiết kiệm từ những vật dụng bé nhỏ như que diêm, sợi chỉ, mẩu bút chì… Bởi không chỉ vì nghèo mới tiết kiệm, mà tiết kiệm là đức tính truyền thống của dân tộc ta. Bước vào Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, mỗi chúng ta đều thấy bản thân tiến bộ thêm, gắng sức sản xuất, công tác và làm việc tốt hơn để góp phần nhỏ bé của mình vào công tác xây dựng Đảng, chính quyền của địa phương nơi mình cư trú, sống với nhau chân thành, học tập lẫn nhau, khắc phục những mặt còn yếu kém trong cuộc sống thường nhật. Nghiêm túc học tập theo tấm gương Bác là điều không dễ và làm theo Bác lại càng khó hơn. Nhưng nếu có tấm lòng 32
trong sáng và có sự quyết tâm thì ai ai cũng đều có thể học và làm theo Bác. Cũng có người cho rằng bận công việc, ít có thời gian, điều kiện để làm được như Bác. Nói như vậy là chưa đúng. Dù bận việc nước, việc dân, Bác vẫn có thời gian chăm lo đến những việc nhỏ nhất, chan hòa tình thương đến mọi người, không sót một ai, từ cụ già đến các cháu thiếu nhi… Mọi người đều có thể học tập và làm theo Bác từ những việc hằng ngày, ở mọi lúc, mọi nơi, rất đỗi bình thường, giản dị. Chính sự bình thường giản dị ấy càng tôn thêm tầm vĩ đại của Bác. Đợt sơ kết đánh giá của Ban chỉ đạo Cuộc vận động TP. Hồ Chí Minh đã nhận định: “Cuộc vận động “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” của Thành phố đã mang lại nhiều kết quả: nâng cao tinh thần trách nhiệm trong công việc, thực hiện cải cách thủ tục hành chính, giảm phiền hà cho nhân dân, tăng cường các biện pháp thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tích cực tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, đẩy lùi sự suy thoái về đạo đức, lối sống, ngăn chặn các tệ nạn xã hội… Thông qua Cuộc vận động đã xuất hiện nhiều tập thể, cá nhân xuất sắc, điển hình trong lao động sản xuất và học tập… Tuy nhiên, điều dễ nhận thấy là việc gắn kết giữa “học tập” và “làm theo” chưa được chặt chẽ, nhiều nơi chỉ chú trọng việc nghiên cứu, học tập các chuyên đề của Cuộc vận động còn công việc triển khai làm theo tấm gương đạo đức của Bác thì cấp ủy, người đứng đầu cơ quan chưa quan tâm đúng mức. Do đó chuyển biến tuy có nhưng còn hạn chế: tập thể, cá nhân điển hình chưa nhiều, chưa sâu rộng trong quần chúng. Vẫn còn cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật… Những người đứng đầu cơ quan, đơn vị, thành viên ban chỉ đạo Cuộc vận động và các cấp ủy đảng trước hết phải là tấm gương sáng trong học 33
tập, rèn luyện làm theo Bác bằng những việc làm thiết thực, cụ thể trong sinh hoạt, trong công việc, để các tầng lớp quần chúng noi theo. Qua đó, kịp thời ngăn chặn những suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, coi đó là giải pháp trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm. Công cuộc đổi mới của đất nước đã đi chặng đường trên 35 năm đã làm nên những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử mang về cho đất nước những mùa hoa thơm, trái ngọt, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, đã và đang đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, vị thế uy tín của nước ta được nâng lên trên trường quốc tế. Tuy nhiên, nguy cơ và thách thức còn lớn, nguy cơ tham nhũng, quan liêu, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả người đứng đầu thoái hóa về đạo đức, lối sống, tư tưởng chính trị. Đất nước ta còn nghèo, rất cần phải tiết kiệm của cải vật chất để kiến thiết, xây dựng đất nước. Kẻ thù của tiết kiệm là lãng phí. Trong khi nhân dân đang nghiêm túc thực hành tiết kiệm chống lãng phí thời gian, tiền của thì hằng ngày vẫn xảy ra hiện tượng tiêu cực, lãng phí. Không ít cán bộ, quan chức ở nước ta đang hình thành thói quen “vung tay quá trán”, “xài tiền chùa”, biểu hiện rõ nhất là ở các dịp hội họp, đón nhận danh hiệu thi đua, khánh thành, khai trương, động thổ... Đáng quan tâm là lớp trẻ chưa có ý thức tiết kiệm. Việc giáo dục đức tính này cho lớp trẻ cần thực hiện kiên trì, thường xuyên. Cha mẹ hãy nêu gương và khuyên răn con cái tiết kiệm trong cuộc sống hằng ngày. Về phía nhà trường nên tăng cường bộ môn giáo dục công dân, trong đó coi trọng rèn rũa ý thức cần kiệm đối với học sinh. Cơ quan, 34
đơn vị khi tiếp nhận cán bộ trẻ nên kiểm tra sát hạch về năng lực trình độ, đồng thời xem xét đến kiến thức thực hành tiết kiệm… Hơn nửa thế kỷ qua, Di chúc của Người để lại, còn nhiều điều Người ủy thác, mong muốn cho đất nước, nhân dân, chúng ta chưa làm được, chưa làm tròn. Bản Di chúc của Người vẫn còn mang tính thời sự cho hôm nay. Để thực hiện trọn vẹn những điều mong muốn của Bác Hồ. Thiết nghĩ: Các tổ chức đảng, đoàn thể và mỗi người phải thường xuyên nêu cao tính tiên phong, gương mẫu, tăng cường xây dựng củng cố, chấp hành nghiêm các nguyên tắc chế độ sinh hoạt của Đảng, mỗi người chúng ta nêu cao phẩm chất đạo đức cách mạng thường xuyên học tập và làm theo tấm gương của Bác, trước mắt cũng như lâu dài, bền chí vững tâm đinh ninh lời hứa với Bác, để xứng đáng với niềm tin cậy và “muôn vàn tình thân yêu” của Bác Hồ. Giờ đây, Bác đã đi xa, nhưng với dân tộc Việt Nam không lúc nào và không ở đâu thiếu vắng hình ảnh Bác. Người để lại “muôn vàn tình thương yêu” cho toàn dân. Người suốt đời “chỉ có ham muốn, ham muốn đến tột bậc là Tổ quốc ta được độc lập, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Chỉ bấy nhiêu điều, đơn giản vậy thôi, ba chữ “độc lập - tự do - hạnh phúc” chứa đựng chung cả dân tộc và riêng cho mỗi người. Tuy nhiên, nhiều điều trong Di chúc của Bác, chúng ta đã thực hiện được, song cũng có những điều chúng ta chưa làm được, chưa phát triển được ngang tầm với yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước, công cuộc xây dựng chỉnh đốn Đảng, rèn luyện đạo đức của người cán bộ, đảng viên chưa làm được như căn dặn và mong muốn của Người. 35
Mỗi khi chúng ta nhớ đến Bác, mỗi người chúng ta nhớ về Người, hãy làm theo những lời Người căn dặn trong Di chúc chính là chúng ta thực hiện học tập và làm theo tư tưởng, phong cách, đạo đức Hồ Chí Minh, thực hiện thi đua yêu nước một cách sinh động và hiệu quả nhất. “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua và những người thi đua là những người yêu nước nhất”, “Mỗi người tốt, việc tốt là những bông hoa đẹp, cả dân tộc ta là một rừng hoa đẹp”. “Yêu Bác lòng ta trong sáng hơn, Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn …” (Tố Hữu) Nguồn: https://www.xaydungdang.org.vn/ 36
Cần hiểu đúng về tự phê bình và phê bình theo Tư tưởng Hồ Chí Minh Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đặc biệt tới công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Để bảo đảm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, thực sự “là đạo đức, là văn minh”, giữ vững vai trò lãnh đạo với sự nghiệp cách mạng, Người nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng phải luôn đề cao “tự phê bình và phê bình”. Trước lúc “đi gặp cụ Các Mác, cụ Lê-nin và các vị cách mạng đàn anh khác”, Người đã để lại bản Di chúc thiêng liêng có ý nghĩa to lớn đối với toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, nhất là đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay. 1. Trong bản Di chúc viết năm 1965, trước hết, Người nói về Đảng trong đó đề cập đến ba vấn đề trọng đại: Một là, vấn đề đoàn kết trong Đảng. Hai là, vấn đề tự phê bình và phê bình trong Đảng. Ba là, vấn đề đảng cầm quyền. Đây là ba vấn đề 37
cốt lõi, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Vấn đề tự phê bình và phê bình trong Đảng, được Người đặc biệt quan tâm, Người căn dặn: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”. Nghiên cứu, quán triệt và vận dụng những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình trong Di chúc có ý nghĩa giá trị sâu sắc đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là trong giai đoạn cách mạng hiện nay, góp phần thiết thực nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Tự phê bình và phê bình là nhu cầu nội tại của tổ chức đảng và đảng viên, song muốn tự phê bình và phê bình phát huy được tác dụng, hiệu quả, đòi hỏi phải thực hành một cách thường xuyên, nghiêm túc; nếu không thực hành thường xuyên, nghiêm túc thì dù đó là vũ khí sắc bén cũng không tiêu diệt được “kẻ thù”, dù chó là “thần dược” cũng không trị được bệnh trong mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng. Vì vậy, trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn phải “thường xuyên và nghiêm chỉnh tự pê bình và phê bình”. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ trong Đảng cùng với việc thực hành dân chủ thì “tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất” để củng cố và phát triển sự đoàn kết, thống nhất của Đảng, góp phần xây dựng Đảng thành một khối thống nhất, vững mạnh về tư tưởng, chính trị và tổ chức; không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, hoàn thành tốt nhiệm vụ cách mạng vẻ vang mà nhân dân tin yêu giao phó. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ một nước nông 38
nghiệp lạc hậu, thuộc địa nửa phong kiến, chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng phong kiến, thực dân. Đội ngũ đảng viên của Đảng phần đông xuất thân từ nông dân và nhiều giai tầng khác nhau, mang theo những đặc điểm tư tưởng, tâm lý, lối sống khác nhau, dễ nảy sinh những mâu thuẫn trong Đảng. Đó không phải là mâu thuẫn đối kháng, nhưng là nguy cơ gây mất đoàn kết, không tập trung, thống nhất được tư tưởng, trí tuệ trong Đảng. Mặt khác, Đảng ta là đảng cầm quyền “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”, đảng viên có chức, có quyền nếu không nghiêm túc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng rất dễ nảy sinh những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng, độc đoán, chuyên quyền, gia trưởng, quan liêu, xa rời quần chúng… Đảng viên cũng là con người, không phải là thánh thần, có hoạt động thì khó tránh khỏi sai lầm, ai cũng có cái tốt, cái xấu, chỉ khác nhau ở chỗ nặng hay nhẹ và trạng thái biểu hiện của nó, nhưng đã tình nguyện vào một Đảng vì dân, vì nước, đã là một người cách mạng thì phải cố gắng phát triển những tính tốt và sửa bỏ những tính xấu. Muốn vậy cần tiến hành tự phê bình và phê bình ráo riết, thường xuyên. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: một Đảng mà dấu diếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng, “một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”. Trong khi thực hành tự phê bình và phê bình phải có thái độ kiên quyết không khoan nhượng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Tự phê bình và sữa chữa có khi dễ, nhưng có khi 39
cũng khó khăn, đau đớn vì tự ái, vì thói quen, hoặc vì nguyên nhân khác. Đó là một cuộc đấu tranh”. Vì thế thực hiện tự phê bình và phê bình “ta phải tự phê bình ráo riết, và phải lấy lòng thân ái, lấy lòng thành thật, mà ráo riết phê bình đồng chí mình. Hai việc đó phải đi đôi với nhau”. Tự phê bình và phê bình phải đúng mức, thật thà không nể nang, không thêm bớt, không hình thức, hời hợt, quanh co, chiếu lệ... Trên thực tế những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, tham ô, tham nhũng, hủ hóa, vi phạm tư cách đảng viên, suy cho cùng nguyên nhân là do không thường xuyên, nghiêm chỉnh tự phê bình và tiếp thu phê bình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh tỉnh nếu không kiên quyết sửa chữa khuyết điểm của chúng ta thì cũng như giấu diếm bệnh tật trong mình, không dám uống thuốc để bệnh ngày càng nặng thêm, nguy hiểm đến tính mệnh. Phát hiện càng sớm, điều trị bệnh càng chóng khỏi; để bệnh nặng rất khó chữa, thậm chí có khi không chữa nổi. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ một số biểu hiện chưa đúng trong tự phê bình và phê bình, đó là: “vẫn có một số ít đảng viên bị chủ nghĩa cá nhân trói buộc mà trở nên kiêu ngạo, công thần, tự cao, tự đại. Họ phê bình người khác mà không muốn người khác phê bình họ; không tự phê bình hoặc tự phê bình một cách không thật thà, nghiêm chỉnh. Họ sợ tự phê bình thì sẽ mất thể diện, mất uy tín. Họ không lắng nghe ý kiến của quần chúng. Họ xem khinh những cán bộ ngoài Đảng. Họ không biết rằng: có hoạt động thì khó mà hoàn toàn tránh khỏi sai lầm. Chúng ta không sợ sai lầm, chỉ sợ phạm sai lầm mà không quyết tâm sửa chữa. Muốn sửa chữa cho tốt thì phải sẵn sàng nghe quần chúng phê bình và thật thà tự phê bình. Không chịu nghe phê bình và không tự phê bình thì nhất 40
định lạc hậu, thoái bộ. Lạc hậu và thoái bộ thì sẽ bị quần chúng bỏ rơi”. Tất cả những hiện tượng trên là biểu hiện sự nhận thức chưa đúng bản chất của tự phê bình và phê bình với tư cách là một nguyên tắc trong sinh hoạt đảng. 2. Kiểm điểm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình, thấy rằng, trong những năm đổi mới, vấn đề tự phê bình và phê bình luôn luôn được đặt ra trong các nghị quyết của Đảng. Tính từ Đại hội VI, Đại hội ghi dấu ấn đổi mới toàn diện, đến này, Trung ương Đảng đã có các nghị quyết chuyên đề về xây dựng Đảng. Đó là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, khóa VI ngày 20-6-1988 “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng, bảo đảm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3, khóa VII ngày 29-6-1992 “Về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII ngày 2-2-1999 “Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, khóa XI ngày 16-1-2012 “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, khóa XII ngày 30-10-2016 “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện \"tự diễn biến\", \"tự chuyển hóa\" trong nội bộ”. Các nghị quyết này đều đặt vấn đề tự phê bình và phê bình trong Đảng. Thông qua tự phê bình và phê bình mà sửa chữa những khuyết điểm, phát huy ưu điểm, làm cho công việc tiến nhanh và có hiệu quả. 3. Quán triệt, vận dụng tư tưởng thường xuyên, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, 41
mỗi đảng viên và tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên cần thực hiện tốt một số giải pháp sau: Một là, thường xuyên nâng cao nhận thức, đề cao trách nhiệm tự phê bình và phê bình của các cấp ủy đảng. Tự phê bình và phê bình chỉ có thể đem lại hiệu quả thiết thực khi cấp ủy đảng các cấp có nhận thức đúng và thường xuyên tổ chức thực hiện nghiêm túc ở cấp mình. Nhận thức không đúng về ý nghĩa, tầm quan trọng của nguyên tắc tự phê bình và phê bình tất dẫn tới việc thực hành tự phê bình và phê bình không thường xuyên, nghiêm chỉnh, thậm chí buông lỏng, coi nhẹ hoặc hình thức, qua loa, chiếu lệ… Để có nhận thức đúng và bảo đảm tự phê bình và phê bình được tiến hành thường xuyên, nghiêm chỉnh, có chất lượng thì cấp ủy đảng cần quán triệt cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nắm vững nội dung nguyên tắc tự phê bình và phê bình, hiểu rõ lý do, mục đích, đối tượng, phương pháp, thái độ tự phê bình và phê bình theo Tư tưởng Hồ Chí Minh. Hai là, thường xuyên, nghiêm chỉnh thực hiện chế độ tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng. Mỗi tổ chức đảng và mọi cán bộ, đảng viên cần coi tự phê bình và phê bình là chế độ thường xuyên, cần nghiêm chỉnh thực hành như việc như rửa mặt mỗi ngày. Thường xuyên, nghiêm chỉnh thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả nền nếp, chế độ sinh hoạt tự phê bình và phê bình trong Đảng nhằm nâng cao tinh thần tu dưỡng rèn luyện đạo đức cách mạng; kịp thời phát hiện, cảnh tỉnh, ngăn chặn những cán bộ, đảng viên có khuyết điểm. 42
Ba là, thường xuyên phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của người đứng đầu, cấp ủy viên và trách nhiệm của các tổ chức quần chúng trong thực hành tự phê bình và phê bình. Phát huy vai trò gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cấp ủy viên và người đứng đầu trong thực hành tự phê bình và phê bình có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Tự phê bình và phê bình trong các tổ chức đảng cần tiến hành từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài, từ cấp uỷ, người đứng đầu đến cán bộ, đảng viên. Cấp trên phải gương mẫu kiểm điểm trước để cấp dưới noi theo; tập thể kiểm điểm trước, cá nhân kiểm điểm sau; cấp uỷ viên và cán bộ giữ chức vụ lãnh đạo điểm điểm trước, đảng viên kiểm điểm sau; cấp trên phải gương mẫu tự phê bình trước cấp dưới; cấp dưới phải mạnh dạn phê bình cấp trên; tổ chức đảng và đảng viên phải lắng nghe ý kiến phê bình của quần chúng. Định kỳ phải tổ chức cho quần chúng tham gia đóng góp ý kiến cho cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng. Những ý kiến đúng phải được tiếp thu và kiên quyết sửa chữa, những ý kiến chưa đúng phải giải thích cho quần chúng hiểu. Bí thư và thủ trưởng đơn vị cần phải tiền phong, gương mẫu, dám tự phê bình, dám nhận khuyết điểm trước tập thể, trước cấp trên, cấp dưới và đồng cấp; thật sự tạo ra không khí cởi mở, khuyến khích động viên mọi cán bộ, đảng viên, quần chúng mạnh dạn tự phê bình và phê bình. Bên cạnh đó, cần phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng trong cơ quan, đơn vị tham gia phê bình tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên. Mọi hoạt động của tổ chức cơ sở đảng đều được quần chúng nắm bắt, giám sát. 43
Bốn là, gắn tự phê bình và phê bình với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng. Tự phê bình và phê bình cần kết hợp chặt chẽ với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng. Tự phê bình và phê bình là một khâu của công tác kiểm tra, giám sát, là một trong những phương pháp cơ bản khi tiến hành kiểm tra, giám sát. Tự phê bình và phê bình tốt sẽ góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát. Ngược lại, không làm tốt tự phê bình và phê bình thì công tác kiểm tra, giám sát sẽ mang tính hình thức, không mang lại hiệu quả thiết thực. Hơn nửa thế kỷ đã qua đi, song Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên tính thời sự và đang tiếp tục định hướng cho công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đi đúng hướng. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần phải thường xuyên, nghiêm chỉnh nêu cao tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình trong Đảng theo Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa là vấn đề cấp bách, vừa là nhiệm vụ lâu dài, thường xuyên của Đảng, là vũ khí sắc bén để xây dựng Đảng và giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên. Vũ khí sắc bén này phải thường xuyên được sử dụng và mài dũa để có đủ khả năng ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng hiện nay, góp phần quan trọng đưa sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước đến thành công để hiện thực hóa mong muốn cuối cùng của Bác đó là: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Nguồn: https://www.xaydungdang.org.vn/tu-tuong-ho-chi-minh/can-hieu-dung-ve-tu- phe-binh-va-phe-binh-theo-tu-tuong-ho-chi-minh-13729 44
Vẫn nóng bỏng tính thời sự tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” Tháng 10-1947, tại Việt Bắc với bút danh XYZ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hoàn thành tác phẩm: Sửa đổi lối làm việc. Mục đích của tác phẩm là: Nâng cao trình độ lý luận, tư tưởng và tình cảm cách mạng, phẩm chất đạo đức, tác phong công tác của người cán bộ, năng lực lãnh đạo đáp ứng các yêu cầu mới của cách mạng. Những nội dung của tác phẩm là những căn dặn thiết thực của Người đối với mỗi đảng viên, cán bộ ngày nay. Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết năm 1947. 45
Về công tác cán bộ Hồ Chí Minh khẳng định: Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém. Theo Người: Có cán bộ tốt, việc gì cũng xong. Ngay từ khi chính quyền cách mạng nhân dân được thành lập, Hồ Chí Minh đã mời những nhân sĩ, học giả, trí thức của xã hội cũ ra làm việc và tham gia vào công tác chính quyền. Tất cả những ai có chuyên môn, cần dùng vào lĩnh vực nào nếu có nhiệt tâm đều được trọng dụng. Đồng thời với đào tạo và rèn luyện đội ngũ cán bộ cần kiệm liêm chính, chí công vô tư làm công bộc cho dân, Hồ Chí Minh kêu gọi các ngành, các cấp và địa phương tìm và tiến cử nhân tài kiến quốc. Người nhắc nhở: Trong các ngành hoạt động của chúng ta, nào chính trị, kinh tế, nào quân sự, văn hóa, chắc không thiếu những người có năng lực, có sáng kiến. Nhưng vì cách lãnh đạo của ta còn kém, thói quan liêu còn nồng cho nên có những người như thế cũng bị dìm xuống, không được cất nhắc. Muốn tránh khỏi sự hao phí nhân tài, chúng ta cần phải sửa chữa cách lãnh đạo. Thí dụ: Bắt buộc cán bộ trong mỗi ngành phải thiết thực báo cáo và cất nhắc nhân tài. Đối với phẩm chất đạo đức của người cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh nêu ra 5 tiêu chí ngắn gọn, súc tích, tiêu biểu của người cán bộ đảng viên gồm: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Phẩm chất đạo đức trên đã thể hiện khái quát các mối quan hệ xã hội của người cán bộ, đảng viên với Tổ quốc, với nhân dân, với đoàn thể và cá nhân. Việc chọn người và thay người cũng là một khâu quan trọng trong công tác lãnh đạo. Hồ Chí Minh chỉ rõ: Chúng ta phải có kế hoạch, chính sách đối với cán bộ già, cán bộ trẻ. 46
Già làm được việc gì thì giao việc ấy, không thì đối đãi thỏa đáng, cán bộ trẻ có tài, đức thì phải mạnh dạn đề bạt. Về phương pháp làm việc và kiểm soát của người cán bộ lãnh đạo Theo Hồ Chí Minh, cần áp dụng những phương pháp sau: Phải quyết định mọi vấn đề cho đúng. Trước khi đưa ra bất kỳ một quyết định nào, người lãnh đạo không được quan liêu mà phải căn cứ vào thực tế, nắm chắc hoàn cảnh để xem xét quyết định của mình có hợp lý không. Tiếp theo đó cần phải áp dụng hiểu biết của mình một cách năng động. Sau khi nắm rõ tình hình cần tổ chức bàn bạc một cách kịp thời và dân chủ trong tập thể lãnh đạo. Khi tập thể lãnh đạo đã hoàn toàn thống nhất ý kiến, người lãnh đạo chủ yếu cần phải có lòng tin và quyết đoán đưa ra quyết định cuối cùng. Phải tổ chức thi hành cho đúng. Công việc khó đạt kết quả tốt nếu chỉ có một người lãnh đạo quyết định. Muốn việc tiến triển tốt và hiệu quả, người lãnh đạo cần tổ chức được lực lượng, đóng vai trò hạt nhân đoàn kết tạo nên sức mạnh thành công. Phải tổ chức kiểm soát. Người căn dặn: Muốn chống bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy, muốn biết các nghị quyết có được thi hành hay không, muốn biết ai ra sức làm, ai làm cho qua chuyện, chỉ có một cách là khéo kiểm soát, vì vậy người lãnh đạo phải kiểm tra, kiểm soát thường xuyên. Về nâng cao hiểu biết cả về lý luận và thực tiễn Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Bác chỉ rõ: Có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng, một mắt mờ, lý luận cốt áp vào công việc thực tế, lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý 47
luận suông. Người cán bộ phải ra sức học tập lý luận, đồng thời luôn luôn biết tổng kết kinh nghiệm trong công tác. Phê bình và tổng kết kinh nghiệm là quy luật phát triển của cách mạng. Về phương pháp tuyên truyền vận động quần chúng Người căn dặn: Trước hết là nói, viết sao cho có hiệu quả để ai cũng dễ nghe, dễ hiểu. Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên gắn với việc kiểm điểm, đánh giá và biện pháp giải quyết vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng đảng của các cấp. Theo Hồ Chí Minh, sửa đổi lối làm việc sẽ giúp phát huy ưu điểm, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, yếu kém trong lãnh đạo và chỉ đạo thực tiễn của đảng cầm quyền. Đội ngũ cán bộ, đảng viên làm việc đúng hơn, khéo hơn, đạt hiệu quả cao hơn. Hơn 70 năm đã trôi qua nhưng tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” vẫn nóng hổi tính thời sự. Chúng ta đang tích cực thực hiện 2 nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII), Nghị quyết Trung ương 6, khóa XII với nhiều nội dung về công tác tổ chức, cán bộ, đảng viên. Những nội dung trong tác phẩm của Bác là căn cứ để Đảng ta có những quyết sách đúng đắn, phù hợp, xây dựng Đảng vững mạnh, tiếp tục đưa nước ta ngày một phát triển giàu đẹp, dân chủ, văn minh. Nguồn: https://www.xaydungdang.org.vn/tu-tuong-ho-chi-minh/van-nong-bong-tinh-thoi- su-tac-pham-sua-doi-loi-lam-viec-10877 48
Về học và làm theo Bác Học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh dễ hay khó, như thế nào cho hiệu quả? Trả lời được câu hỏi này, mới có thể nhận thức đúng và có hành động đúng, không rơi vào sự giáo điều, máy móc, dẫn đến mất phương hướng trong chỉ đạo, và trong thực hiện học tập và làm theo Bác. Bác Hồ tiếp đoàn đại biểu các dân tộc Hà Giang (15.11.1965). Ảnh: TƯ LIỆU Dễ hay khó Thực sự, ai đó đặt mục tiêu, học, làm theo Bác để trở thành một người như Bác - điều đó là khó có thể. Bởi để trở thành một người dành trọn niềm tin, sự tôn kính của cả dân tộc cũng như của nhân loại tiến bộ như Bác là cả một quá trình học tập, rèn luyện vất vả và quá trình ấy cũng phải diễn ra trong hoàn cảnh lịch sử rất đặc biệt. 49
Search