Important Announcement
PubHTML5 Scheduled Server Maintenance on (GMT) Sunday, June 26th, 2:00 am - 8:00 am.
PubHTML5 site will be inoperative during the times indicated!

Home Explore 1. CHUYEN DE 16 - VAI TRO CUA SACH TRONG DOI SONG

1. CHUYEN DE 16 - VAI TRO CUA SACH TRONG DOI SONG

Published by Guset User, 2023-07-06 14:49:30

Description: 1. CHUYEN DE 16 - VAI TRO CUA SACH TRONG DOI SONG

Search

Read the Text Version

CHUYÊN ĐỀ 16 VAI TRÒ CỦA SÁCH TRONG ĐỜI SỐNG NHỮNG CÂU NÓI HAY VỀ SÁCH 1. “Để cho con một hòm vàng không bằng dạy cho con một quyển sách hay”. (Vi Hiền Truyện) 2. “Thích đọc sách tức là biết đánh đổi những giờ phút buồn tẻ không thể tránh được trong cuộc đời lấy những giờ phút lý thú”. (Môngtexkiơ) 3. “Một cuốn sách hay cho ta một điều tốt, một người bạn tốt cho ta một điều hay”. (Gustavơ Lebon) 4. “Bạn biết rằng bạn đã đọc một cuốn sách hay khi bạn giở đến trang cuối cùng và cảm thấy như mình vừa chia tay một người bạn”. (Khuyết Danh) 5. “Sách hay, cũng như bạn tốt, ít và được lựa chọn; chọn lựa càng nhiều, thưởng thức càng nhiều”. (Louisa May Alcott) 6. “Đọc sách hay cũng giống như trò chuyện với các bộ óc tuyệt vời nhất của những thế kỷ đã trôi qua”. (Rene Descartes) 7. “Chính từ sách mà những người khôn ngoan tìm được sự an ủi khỏi những rắc rối của cuộc đời”. (Victor Hugo) 8. “Tất cả những gì con người làm, nghĩ hoặc trở thành: được bảo tồn một cách kỳ diệu trên những trang sách”. (Thomas Carlyle) 9. “Trường học vĩ đại nhất chính là sách vở”. (Thomas Carlyle) 10. “Chúng ta là ai, mỗi người trong chúng ta là ai nếu không phải tổ hợp của kinh nghiệm, thông tin, những cuốn sách chúng ta đã đọc, những điều chúng ta đã tưởng tượng ra?” (Italo Valvino) 11. “Cuốn sách tốt nhất cho bạn là cuốn sách nói nhiều nhất với bạn vào lúc bạn đọc nó”. (Robertson Davies) 12. “Việc đọc rất quan trọng. Nếu bạn biết cách đọc, cả thế giới sẽ mở ra cho bạn”. (Barack Obama) 13. \"Chỉ có sách mới cho ta biết tới sự thật, cái đẹp hoàn mỹ và tình yêu\". 14. “Tất cả những gì con người làm, nghĩ hoặc trở thành được bảo tồn một cách kỳ diệu trên những trang sách”. (Thomas Carlyle) 15. “Không có người bạn nào trung thành như một cuốn sách”. (Ernest Hemingway) 16. “Những gì sách dạy chúng ta cũng giống như lửa. Chúng ta lấy nó từ nhà hàng xóm, thắp nó trong nhà ta, đem nó truyền cho người khác và nó trở thành tài sản của tất cả mọi người”. (Voltaire) 17. “Một cuốn sách hay trên giá sách là một người bạn dù quay lưng lại nhưng vẫn là bạn tốt”. 18. “Sách là nguồn của cải quý báu của thế giới và là di sản xứng đáng của các thế hệ và các quốc gia”. (Henry David Thoreau) 19. “Một cuốn sách là một giấc mơ mà bạn cầm trong tay”. 20. “Thích đọc sách tức là biết đánh đổi những giờ phút buồn tẻ không thể tránh được trong cuộc đời lấy những giờ phút lý thú”. (Môngtexkiơ) 21. “Đọc sách chính là hộ chiếu cho vô số cuộc phiêu lưu”. (Mary Pope Osborne)

22. “Một người không đọc sách chẳng hơn gì kẻ không biết đọc”. (Mark Twain) 23. “Những người đọc sách tuy chưa thành danh nhưng cũng đã có một tư cách cao thượng”. 24. “Nghệ thuật đọc sách là nghệ thuật tư duy với ít nhiều sự giúp đỡ của người khác”. (Phaghe) 25. “Đọc sách có thể không giàu, nhưng không đọc, chắc chắn nghèo”. 26. “Không có gì có thể thay thế văn hóa đọc”. (Gunter Grass) 27. Đọc sách hay cũng giống như trò chuyện với các bộ óc tuyệt vời nhất của những thế kỷ đã trôi qua. (Rene Descartes) 28. “Đọc một tác phẩm – sống thêm nhiều cuộc đời”. 29. “Cuộc đời mở ra cùng trang sách”. 30. “Những ước mơ thắp lên từ trang sách”. 31. “Hãy yêu sách, nó là nguồn kiến thức, chỉ có kiến thức mới là con đường sống”. 32. “Sách là một phần quan trọng và tất yếu của cuộc sống”. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG CHÍNH CÁC VĂN BẢN NGỮ VĂN 9 Mỗi tác phẩm là một thế giới do nhà văn sáng tạo nên. Khi đọc tác phẩm độc giả được “sống thêm nhiều cuộc đời” mới trong thế giới ấy. Trải nghiệm khi tác phẩm sẽ thắp lên trong mỗi con người những hoài bão, những lí tưởng, những khát vọng chân chính, cao đẹp. Với “Đồng chí” là tình đồng chí đồng đội keo sơn thắm thiết, là lí tưởng chiến đấu cao đẹp của những người lính trong những năm đầu thời kì kháng chiến chống Pháp. Với “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là hình ảnh những người lính tự nguyện dấn thân, vui trong gian khổ, chấp nhận hi sinh vì miền Nam phía trước trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Với bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận là tinh thần lao động khẩn trương của những con người không quản ngày đêm để làm ra được thêm nhiều của cải góp phần dựng xây đất nước. Với “Bếp lửa” của Bằng Việt là những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với gia đình, quê hương, đất nước. Với bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy là lối sống ân nghĩa thủy chung, là thái độ trân trọng và biết ơn đối với quá khứ. Với “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long là bức chân dung của những con người lao động âm thầm, lặng lẽ cống hiến hết mình trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới. Với “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải là tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống tha thiết, khát vọng cống hiến, khát vọng sống đẹp, góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc, để đất nước ta sẽ mãi tươi đẹp như trong tiết xuân. Với \"Chiếc lược ngà\" của Nguyễn Quang Sáng là những rung động trước tình cha con sâu nặng, thắm thiết trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh.

Với “Làng” của Kim Lân là hình ảnh người nông dân hay làm hay khoe, gắn bó bền chặt với làng. Tình yêu làng gắn với tinh thần kháng chiến, lòng yêu nước, một lòng theo Cụ Hồ. Với “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là tiếng lòng thiết tha, niềm thành kính và nỗi xúc động của những người con miền Nam khi được ra thăm lăng Bác. Với “Sang thu” của Hữu Thỉnh là một tiếng lòng trang trải, gửi gắm, báo mùa thu của quê hương đất nước; một tiếng thu nồng hậu, thiết tha. Với “Nói với con” của Y Phương là sự tự hào, giữ gìn và phát huy truyền thống của dân tộc, là tình yêu thương quê hương, gia đình mình và phải có ý chí, nghị lực vươn lên trước những chướng ngại của cuộc đời. Còn với “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê là những tâm hồn trong sáng, mơ mộng, tinh thần dũng cảm, cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, hi sinh nhưng rất hồn nhiên, lạc quan của những cô gái thanh niên xung phong. Đó chính là những hình ảnh đẹp đẽ, tiêu biểu cho phẩm chất cao quý của thế hệ trẻ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ vừa qua. ĐỀ 1: (ĐỀ 1 MÔN NGỮ VĂN 10) Có ý kiến cho rằng: “Tác phẩm văn học như một tấm gương đặc biệt để con người soi lại bản thân”. Từ những trải nghiệm trong quá trình đọc văn và học văn, hãy viết về một số tác phẩm khiến em có thể “soi lại bản thân”. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI 1. Mở bài: “Một giọt mực có thể làm vạn người suy nghĩ, một cuốn sách hay có thể thay đổi số phận biết bao người”. Mỗi cuốn sách là kết tinh từ tri thức và cuộc sống, đọc sách không chỉ là một sở thích mà còn là con đường ngắn nhất để tiếp cận với nền văn minh của nhân loại. Sách chính là con đường ngắn nhất, quan trọng nhất để con người đến với tri thức. Con người lưu lại vào sách những suy nghĩ tâm tư, tình cảm của mình về những vấn đề trong cuộc sống. Tác phẩm văn học đem đến cho con người những bài học quý giá về lẽ sống, hình thành trong con người một lý tưởng tiến bộ, giúp người đọc có thái độ và quan điểm đúng đắn về cuộc sống. Những tác phẩm hay nâng đỡ nhân cách con người phát triển, giúp cho họ biết phân biệt phải trái, đúng sai, có quan hệ tốt và biết gắn bó cuộc sống của cá nhân mình với cuộc sống của con người. Chính vì thế có ý kiến cho rằng: “Tác phẩm văn học như một tấm gương đặc biệt để con người soi lại bản thân”. Tìm hiểu ý nghĩa sâu sắc của lời nhận định trên sẽ cho ta những bài học đường đời thú vị. 2. Thân bài: a. Giải thích vấn đề: Nói “tác phẩm văn học như một tấm gương đặc biệt” là một cách diễn đạt so sánh về giá trị phản ánh của văn học. Không như tấm gương bình thường, tác phẩm văn học giúp con người thấy được nhiều điều hơn hình ảnh phản chiếu của bản thân. Nhấn mạnh “Tác phẩm văn học như một tấm gương đặc biệt để con người soi lại bản thân” chính là khẳng định tác phẩm văn học có khả năng giúp con người nhìn lại mình, từ đó có những điều chỉnh kịp thời và hợp lý về tính cách, quan điểm, thái độ của bản thân. Ý kiến trên thực chất đang tập trung bàn về chức năng nhận thức và chức năng giáo dục của văn học đối với con người.

b. Bàn luận – Chứng minh (Chứng minh bằng cơ sở lý luận): Quả thật như vậy, “tác phẩm văn học chính là một tấm gương đặc biệt để giúp con người soi lại bản thân mình”. Văn học có thể đem đến cho người đọc một thế giới tri thức mênh mông về đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân loại từ xưa đến nay; về vẻ đẹp thiên nhiên ở nước mình và trên khắp thế giới. Văn học là bộ bách khoa toàn thư về cuộc sống. Mặt khác, văn học còn giúp người đọc hiểu được bản chất của con người nói chung để hiểu chính bản thân mình. Văn học đem đến cho con người những bài học quí giá về lẽ sống. Văn học hình thành trong con người một lí tưởng tiến bộ, giúp người đọc có thái độ và quan điểm đúng đắn về cuộc sống. Văn học giúp con người biết yêu ghét đúng đắn, làm cho tâm hồn con người trở nên lành mạnh, trong sáng, cao thượng hơn. Văn học nâng đỡ nhân cách con người phát triển, giúp cho họ biết phân biệt phải trái, đúng sai, có quan hệ tốt đẹp và biết gắn bó cuộc sống của cá nhân mình với cuộc sống của cộng đồng. c. Chứng minh bằng những trải nghiệm khi đọc tác phẩm: Mỗi tác phẩm là một thế giới do nhà văn sáng tạo nên. Khi đọc tác phẩm độc giả như được “soi lại bản thân mình” trong thế giới ấy. Trải nghiệm khi tác phẩm sẽ thắp lên trong mỗi con người những hoài bão, những lí tưởng, những khát vọng chân chính, cao đẹp. Với bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận là tinh thần lao động khẩn trương của những con người không quản ngày đêm để làm ra được thêm nhiều của cải góp phần dựng xây đất nước. Với “Bếp lửa” của Bằng Việt là những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với gia đình, quê hương, đất nước. Với bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy là lối sống ân nghĩa thủy chung, là thái độ trân trọng và biết ơn đối với quá khứ. Với “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long là bức chân dung của những con người lao động âm thầm, lặng lẽ cống hiến hết mình trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới. Với “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải là tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống tha thiết, khát vọng cống hiến, khát vọng sống đẹp, góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc, để đất nước ta sẽ mãi tươi đẹp như trong tiết xuân. Với \"Chiếc lược ngà\" của Nguyễn Quang Sáng là những rung động trước tình cha con sâu nặng, thắm thiết trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cân là một tấm gương đặc biệt để giúp con người soi lại bản thân mình. Bài thơ như là ngọn lửa nhỏ đủ thức tính, đủ soi sáng để bạn đọc tự soi lại chính mình, thay đổi số phận mình theo hướng tích cực hơn. Bài thơ là hành trình dài và rộng từ lúc đoàn thuyền ra khơi, đánh cá và trở về. Một điều người đọc dễ nhận thấy nhất đó là những câu hát được cất lên xuyên suốt quá trình ấy. Sau một ngày làm việc vất vả, vũ trụ đã đi vào nghỉ ngơi, thư giãn. Trong hoàn cảnh đó, con người lại bắt tay vào lao động. Họ ra đi với tinh thần đoàn kết, phấn khởi, lạc quan, khí thế khẩn trương trong lao động. Tinh thần đó được thể hiện qua câu hát khoẻ khoắn, lời hát của họ như hoà vào trong gió, thổi căng buồm đẩy con thuyền thẳng tiến ra khơi. Câu hát của những người đi biển, nó không những thể hiện được tâm hồn lạc quan và khí thế khẩn trương mà còn nói lên niềm mong ước của con người. Các hình ảnh của cá được so sánh, ẩn dụ là những nét sáng tạo độc đáo đem đến cho người đọc một cảm nhận thú vị về con người lao động trong

công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Hình ảnh con thuyền đánh cá trên biển như một bức tranh sơn mài lộng lẫy: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng Lướt giữa may cao với biển bằng Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăng Ta hát bài ca gọi cá vào Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao Biển cho ta cá như lòng mẹ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”. Giữa biển trơi mênh mông, trời và biển như hoà vào một. Còn đối với người dân chài, tác giả miêu tả họ với tinh thần làm chủ biển khơi. Họ chủ động, sáng tạo trong lao động, bố trí đánh bắt cá như một trận đánh. Với tinh thần lao động hăng hái, lạc quan như thế, thì chắc chắn hiệu quả sẽ cao hơn. Tiếng hát được vang lên trong những giờ lao động, xua đi những khó nhọc và làm khô đi những giọt mồ hôi. Trong hương vị mặn mòi của biển, lời hát như khích lệ, giúp cho thành quả lao động được cao hơn. Hành trình của đoàn thuyền khép lại bằng những câu hát thể hiện rõ một niềm hân hoan, phấn khởi: “Câu hát căng buồm cùng gió khơi Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời Mặt trời đội biển nhô màu mới Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”. Cảnh rạng đông và mặt trời từ từ đổi biển nhô lên thật tuyệt diệu. Và, tuyệt diệu hơn cả đó là đoàn thuyền trở về với cá đầy khoang. Hình ảnh con thuyền trở về được miêu tả khẩn trương như lúc ra đi: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Phải chăng ở đây, những người đi biển đang chạy đua với thời gian để chuẩn bị cho đợt ra biển tiếp theo. Những người lao động không thoả mãn với những kết quả đạt được. Vì vậy, họ phải chạy đua với thời gian để làm ra được nhiều của cải hơn cho đất nước. Cảnh bình minh thật huy hoàng nhưng người lao động không kịp ngắm nó, hầu như mọi tâm trí của họ chỉ tập trung vào công việc lao động. Đây chính là tinh thần lao động của nhân dân ta trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Với giọng thơ khoẻ mạnh, kết hợp với cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật nhân hoá, hoán dụ tài tình, nhà thơ đã vẽ lên được một bức tranh tuyệt đẹp về cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về lúc bình mình. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã đi qua nhưng mỗi lần đọc lại bài “Đoàn thuyền đánh cá” ta như thấy hiện ra trước mắt tinh thần lao động khẩn trương của những con người không quản ngày đếm để làm ra được thêm nhiều của cải cho đất nước. Cả bài thơ là một bức tranh tuyệt đẹp, đẹp về cảnh thiên nhiên, đẹp về tinh thần lao động. Đó là thành công nhất của nhà thơ Huy Cận trong tác phẩm này. Văn học là cuộc đời, cuộc đời là khởi nguồn cũng là những điểm đi tới của văn học. Yêu cái đẹp của văn chương là chúng ta yêu tấm lòng của nhà văn. Họ là những kĩ sư tâm hồn đốt cháy mình để có được ánh sáng, niềm vui dẫn ta đến bến bờ xứ sở của cái đẹp trong cuộc sống, mở ra cuộc đời mới, thắp sáng những ước mơ trong lòng bạn đọc. Đọc “Bếp lửa” sẽ đem đến cho con người những bài học quí giá về lẽ sống, hình thành trong con người một lí tưởng tiến bộ, giúp người đọc có thái độ và

quan điểm đúng đắn về cuộc sống, đó là lời nhắc nhở ta về lối sống thủy chung ân nghĩa, lòng biết ơn, đối xử ân nghĩa với gia đình, láng giềng và quê hương, cội nguồn dân tộc: “Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. “Bếp lửa” của Bằng Việt là những cung bậc cảm xúc tha thiết, đằm thắm ân tình của người cháu xa quê nhớ thương những kí ức tuổi thơ và hình ảnh bếp lửa gắn liền với tình bà cháu thiêng liêng sâu nặng. Các câu thơ cứ nhẹ nhàng, chân thật như sương mai buổi sớm lan tỏa vào tâm hồn người đọc một tình cảm yêu thương sâu lắng. Tình cảm bà cháu thiêng liêng ấy cứ như con thuyền nhỏ chở đầy ắp những kỉ niệm trên dòng song tuổi thơ êm đềm mà suốt cuộc đời này người cháu không bao giờ quên được. Từ đó, sức ấm và ánh sáng của tình bà cháu cũng như của bếp lửa lan tỏa toàn bài thơ: “Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen. Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”. Hay là: “Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm, Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi, Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui, Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ Ôi! Kỳ lạ và thiêng bếp lửa”. Bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đầy đủ về vật chất mà còn là người làm cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp thêm huyền ảo như trong truyện. Người bà có trái tim nhân hậu, đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục và thức tỉnh tâm hồn đứa cháu để mai này cháu khôn lớn thành người. Người bà kì diệu như vậy ấy, rất giản dị nhưng có một sức mạnh kì diệu từ trái tim, một trái tim ấp áp thấm đẫm tình yêu thương. Câu thơ thốt lên như một phát hiện kỳ diệu của bếp lửa tình thân. Bếp lửa gần gũi thân thương trong mỗi gia đình nhưng cũng thật kỳ lạ thiêng liêng. Bếp lửa đã khơi dậy bao kỉ niệm trong tâm hồn đứa cháu về hình ảnh người bà tần tảo lam lũ vất vả. Bằng những lời thơ trong sáng, bình dị và giàu chất trữ tình, âm điệu thơ trữ tình sâu lắng và hình tượng “bếp lửa” mang đầy ý nghĩa và những hình ảnh ẩn dụ sâu sắc, bài thơ mang triết lí sâu xa, thầm kín. Những gì là thân thiết của tuổi thơ mỗi người có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu thương và lòng biết ơn bà là biểu hiện cụ thể của tình yêu thương, sự gắn bó với gia đình, quê hương và đó cũng là sự khởi đầu của tình yêu con người, tình yêu đất nước. “Bếp lửa” là một bài học đạo lí tha thiết. Bài thơ nhắc nhở ta về lối sống thủy chung ân nghĩa, có lòng biết ơn, đối xử ân nghĩa với gia đình, láng giềng và quê hương, cội nguồn dân tộc. Với bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy sẽ đem đến cho con người những bài học quí giá về lẽ sống, hình thành trong con người một lí tưởng tiến bộ, giúp người đọc có thái độ và quan điểm đúng đắn về cuộc sống, đó là lối sống ân nghĩa thủy chung, là thái độ trân trọng và biết ơn đối với quá khứ. Bài thơ mang dáng dấp một câu chuyện được kể theo trình tự thời gian. Trong đó, \"ánh trăng\"

là hình ảnh xuyên suốt và giàu ý nghĩa. Thông qua hình tượng nghệ thuật “ánh trăng” và cảm xúc của nhà thơ, bài thơ đã diễn tả những suy ngẫm sâu sắc về thái độ của con người đối với quá khứ gian lao, là lời tự nhắc nhở của Nguyễn Duy về thái độ, tình cảm của mình đối với quá khứ gian khổ mà hào hùng của đất nước. Do hoàn cảnh lịch sử của dân tộc, con người bước vào cuộc chiến máu lửa với kẻ thù, vầng trăng vẫn luôn kề cận, cùng con người đến mọi nẻo đường. Nhưng khi con người sống trong một môi trường hoàn toàn khác: \"quen ánh điện cửa gương\" thì \"cái vầng trăng tình nghĩa\" năm nào giờ đã bị lãng quên. Người bạn tri kỷ ấy trở thành \"người dưng qua đường\". Con người thì thế nhưng vầng trăng vẫn không bao giờ bỏ rơi con người. Hình ảnh này đã chứng tỏ tính vị tha, chất bền vững trong sâu thẳm nguồn cội tâm hồn người Việt. Trăng xưa vẫn đến với người, vẫn tròn, vẫn đẹp, vẫn thủy chung. Người ngắm trăng rồi bâng khuâng suy ngẫm: \"Ngửa mặt lên nhìn mặt có cái gì rưng rưng như là đồng là bể như là sông là rừng\". Con người đang \"mặt đối mặt\" với trăng, với những giá trị tinh thần mình đã lãng quên, khước từ. Hai \"mặt\" ấy mãi mãi là một, không thể tách rời và cũng chưa từng tách rời. Chỉ có con người cắm cúi vào những vật chất, phồn hoa tầm thường mà quên mất thôi: “Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình... ”. Mặc cho người vô tình vầng trăng vẫn tròn vành vạnh, độ lượng, bao dung. Hay nói khác đi, những giá trị bền vững, thuần khiết vẫn luôn bao bọc, che chở cho con người một cách vô hình. Khi con người quay về với cội nguồn tinh thần, họ mới nhận ra mình đã bỏ phí quá nhiều điều vô giá. Ánh trăng như người bạn, nhân chứng nghĩa tình đang nghiêm khắc nhắc nhở con người. Cái \"im phăng phắc\" ấy giống như một người dẫn đường nghiêm khắc chỉ vào cái quá khứ nghĩa tình mà con người tự đánh mất, tự bỏ quên... Hai chữ \"giật mình\" ở cuối bài thơ như một sám hối một sự tự cảnh tỉnh chính mình của con người. Tuy nhiên, bài thơ không phải là lời nhắc nhở riêng ai, mà nhắc nhở cả một thế hệ đã từng trải qua những năm tháng gian khổ của chiến tranh, từng gắn bó với thiên nhiên, được nhân dân đùm bọc, che chở, nay được may mắn sống trong hòa bình thì đừng bao giờ quên quá khứ. Hơn thế, bài thơ là hồi chuông cảnh tỉnh với nhiều người, nhiều thời bởi nó đặt ra vấn đề thái độ trân trọng và biết ơn đối với quá khứ, những người đã khuất và đối với cả chính mình. Bài thơ nằm trong mạch cảm xúc uống nước nhớ nguồn. Đây là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam ta tự bao đời. “Ánh trăng\" của Nguyền Duy gây được nhiều xúc động đối với nhiều thế hệ độc giả bởi cách diễn tả bình dị như những lời tâm sự, lời tự thú, lời tự nhắc nhở chân thành. Giọng thơ trầm tĩnh, sâu lắng. Tứ thơ bất ngờ, mới lạ. “Lặng lẽ Sa Pa” cũng chính là một tấm gương đặc biệt để giúp con người soi lại bản thân mình. Truyện đem đến cho con người những bài học quý giá về lẽ sống, hình thành trong con người một lý tưởng tiến bộ, giúp người đọc có thái độ và quan điểm đúng đắn về cuộc sống. “Lặng lẽ Sa Pa” còn nâng đỡ nhân cách

con người phát triển, giúp cho họ biết phân biệt phải trái, đúng sai, có quan hệ tốt và biết gắn bó cuộc sống của cá nhân mình với cuộc sống của cộng đồng. Con người trong \"Lặng lẽ Sa Pa\" hiện lên rất đẹp. Tiêu biểu trong những con người ấy chính là anh thanh niên. Hoàn cảnh sống khắc nghiệt vô cùng bởi sự heo hút, vắng vẻ; cuộc sống và công việc có phần đơn điệu, giản đơn… là thử thách thực sự đối với tuổi trẻ vốn sung sức và khát khao trời rộng, khát khao hành động. Anh đã vượt qua hoàn cảnh bằng những suy nghĩ rất đẹp, giản dị mà sâu sắc. Vẻ đẹp ở anh thanh niên đó chính là vẻ đẹp trong tính cách. Anh thanh niên là người có lòng yêu nghề, tinh thần trách nhiệm với công việc. Anh hiểu rằng, công việc mình làm tuy nhỏ bé nhưng liên quan đến công việc chung của đất nước, của mọi người. Anh yêu công việc của mình, anh kể về nó một cách say sưa và tự hào. Với anh, công việc là niềm vui, là lẽ sống. Hãy nghe anh tâm sự với ông họa sĩ: “khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi công việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất\". Anh là người biết tạo ra một cuộc sống nề nếp văn minh và thơ mộng. Sống một mình trên đỉnh núi cao, anh đã chủ động sắp xếp cho mình một cuộc sống ngăn nắp. Ngoài công việc, anh còn trồng hoa, nuôi gà, làm cho cuộc sống của mình thêm thi vị, phong phú về vật chất và tinh thần. Không những thế anh còn là người chân thành, cởi mở và lòng hiếu khách. Lòng hiếu khách đến nồng nhiệt và sự quan tâm đến người khác một cách chu đáo. Anh còn là người rất khiêm tốn, thành thực cảm thấy công việc và những lời giới thiệu nhiệt tình của bác lái xe là chưa xứng đáng, đóng góp của mình chỉ là bình thường nhỏ bé. Vẻ đẹp con người trong \"Lặng lẽ Sa Pa\" không chỉ thể hiện ở nhân vật anh thanh niên mà còn được thể hiện ở những nhân vật khác. Qua cảm xúc, suy nghĩ và thái độ cảm mến của bác lái xe, cô kĩ sư, ông họa sĩ, hình ảnh anh thanh niên được hiện ra càng rõ nét và đẹp hơn. Chủ đề của tác phẩm mở rộng thêm và gợi ra nhiều ý nghĩa. Bức chân dung nhân vật chính như được soi rọi nhiều luồng ánh sáng khiến nó thêm rạng rỡ và ánh lên nhiều màu sắc. Trong tác phẩm, còn có những nhân vật không xuất hiện trực tiếp mà chỉ xuất hiện gián tiếp qua câu kể của anh thanh niên cũng góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm. Dù không xuất hiện trực tiếp trong truyện mà chỉ gián tiếp qua lời kể của anh thanh niên, song họ hiện lên với những nét tuyệt đẹp trong tâm hồn và cách sống. Họ là những người say mê công việc. Vì công việc làm giàu cho đất nước, họ sẵn sàng hi sinh tuổi thanh xuân, hạnh phúc và tình cảm gia đình. \"Lặng lẽ Sa Pa\" không có những chi tiết đặc biệt, không có những nhân vật và hành động lạ lùng, không có những gay go, nhưng nó lại có sức lôi cuốn người đọc đến lạ thường. Truyện ngắn như một lời kể chuyện duyên dáng về những điều vẫn diễn ra bình thường trong cuộc sống bình thường. Đọc “Lặng lẽ Sa Pa”, ta thấy đó chính là một tấm gương đặc biệt để giúp con người soi lại bản thân mình. Chúng ta thấy cuộc đời thật là đáng sống, con người thật là tốt đẹp. Mỗi người cần phải sống tốt đẹp, bởi sống như thế thật là hạnh phúc. Đọc \"Lặng lẽ Sa Pa\", điệp khúc ấy vang mãi trong hồn ta. Đọc “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng, sẽ đem đến cho con người những rung động trước tình cha con sâu nặng, thắm thiết trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh, những bài học quí giá về lẽ sống, hình thành trong con người một lí tưởng tiến bộ, giúp người đọc có thái độ và quan điểm đúng đắn về cuộc

sống. Truyện ngắn là một áng văn bất hủ ca ngợi tình phụ tử giản dị mà thiêng liêng, với những con người giàu tình cảm và đẹp đẽ, như nhân vật bé Thu và ông Sáu. Câu chuyện không chỉ ca ngợi tình cha con sâu nặng thắm thiết, mà còn gợi cho chúng ta những suy ngẫm và thấm thía được tình sự đau thương, mất mát của chiến tranh tàn khốc gây ra. Vỏn vẹn trong vài ngày ông Sáu về thăm nhà, đoạn trích ngắn từ câu chuyện đã lấy đi bao nước mắt người đọc, thấu cảm về tình cha con, tình yêu thương gia đình máu mủ ruột già không gì có thể so sánh được và đặc biệt là tình cảm bền bỉ bé Thu dành cho người cha của mình. Truyện khép lại, tuy không phải là kết thúc có hậu nhưng lại vô cùng hạnh phúc. Tiếng gọi \"ba\" trong tâm khảm được cất lên là lời khẳng định đanh thép về tình cảm cha con ruột thịt cháy bỏng. Đồng thời, qua đây, tác giả lên án chiến tranh tàn khốc, cuộc chiến phi nghĩa đã chia cắt biết bao gia đình, gây ra tình huống éo le, đau đớn cho bao nhiêu đứa trẻ, bao nhiêu người cha, người mẹ. Nguyễn Quang Sáng không chỉ kể đến tình người, tình cảm giàu đẹp giữa hoàn cảnh khó khăn, gian nan nhất của dân tộc mà còn là đạo lý, đạo làm người, đạo làm con cái đối với cha mẹ một tình thương, sự tôn trọng và biết ơn sâu sắc. “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng với những tình huống éo le mà cảm động và diễn biến tâm trạng nhân vật phức tạp được miêu tả hết sức tinh tế đã khiến cho ta phải rung động trước tình cha con giữa ông Sáu và bé Thu. Chiến tranh có thể hủy diệt được cuộc sống, nhưng không thể huỷ diệt tình cảm gia đình thiêng liêng của con người. Chiến tranh đã lùi xa, cuộc sống yên bình, hạnh phúc đã đến với các em thơ trong sự tận hưởng trọn vẹn tình yêu thương của cha mẹ. Chúng ta hiểu và biết ơn bao người đã hi sinh tình cảm riêng, hi sinh cuộc đời của mình cho đất nước như cha con ông Sáu trong “Chiếc lược ngà”. Sức sống của tác phẩm là ở chỗ khơi gợi được ý nghĩa sâu sắc của tình cha con, vẻ đẹp tâm hồn của người lính Cách mạng. Và một lần nữa chúng ta có thể khẳng định rằng “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng chính là một câu chuyện cổ tích giữa đời thường, một truyện cổ tích hiện đại. “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải cũng là tác phẩm như thế. Đó là một tấm gương đặc biệt để giúp chúng ta soi lại bản thân mình, đem đến cho ta những bài học quý giá về lẽ sống đẹp, hình thành trong ta một lý tưởng tiến bộ, giúp ta có thái độ và quan điểm sống đúng đắn, nâng đỡ nhân cách ta phát triển, giúp cho ta biết phân biệt phải trái, đúng sai, có quan hệ tốt và biết gắn bó cuộc sống của cá nhân mình với cuộc sống của con người. “Mùa xuân nho nhỏ” là tiếng nói, một thanh âm trong trẻo giữa cuộc đời bao la. Tác phẩm là một điệu thơ ngân vang đất nước vào xuân vui tươi rộn ràng. Có thể nói, Thanh Hải đã góp cho vườn thơ Việt một bài thơ xuân đẹp, đậm đà tình nghĩa. Tình yêu mùa xuân gắn liền với tình yêu đất nước, quê hương được Thanh Hải diễn tả một cách sâu sắc, cảm động. Mỗi một cuộc đời hãy là một mùa xuân. Đất nước ta mãi mãi sẽ là những mùa xuân tươi đẹp. “Mùa xuân nho nhỏ” là những hoài bão, những lí tưởng, những khát vọng chân chính, cao đẹp: “Ta làm con chim hót Ta làm một nhành hoa Ta nhập vào hòa ca Một nốt trầm xao xuyến. Một mùa xuân nho nhỏ Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi Dù là khi tóc bạc”. Lời thơ tâm tình thiết tha. Mỗi con người hãy trở thành \"một mùa xuân nho nhỏ\" để làm nên mùa xuân bất diệt của đất nước. Ai cũng phải có ích cho đời. Mùa xuân nho nhỏ, là một ẩn dụ đầy sáng tạo khắc sâu ý tưởng. \"Nho nhỏ\" và \"lặng lẽ\" là cách nói khiêm tốn, chân thành. \"Dâng cho đời\" là lẽ sống đẹp, cao cả. Nhà thơ Tố Hữu từng viết: “Nếu là con chim, chiếc lá, Con chim phải hót, chiếc lá phải xanh Lẽ nào vay mà không trả, Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình”. Sống hết mình thủy chung cho đất nước, đem cả cuộc đời mình phục vụ đất nước, từ lúc \"tuổi hai mươi\" trai tráng cho đến khi về già \"tóc bạc\". Thơ hay là ở cảm xúc chân thành. Bài thơ là những hình ảnh ẩn dụ sáng tạo, biện pháp nhân hóa, điệp ngữ và những từ ngữ tượng hình được sử dụng thành công đã tạo nên nét đặc sắc của bài thơ. Qua đó, ta có thể cảm nhận được cái thi vị trong hồn thơ Thanh Hải. Tình yêu thiên nhiên, sự xúc động trước vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân cách mạng và khát vọng cống hiến cho Tổ quốc đã được Thanh Hải gửi gắm qua bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”. Tuy là tác phẩm được viết không lâu trước khi nhà thơ qua đời nhưng bài thơ vẫn để lại trong lòng bao thế hệ bạn đọc những cảm xúc sâu lắng khó phai mờ. Đọc “Mùa xuân nho nhỏ”, ta như được soi lại bản thân mình. Bài thơ là lời gợi nhắc mọi người một cách sống đẹp, sống cống hiến: góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc, để đất nước ta sẽ mãi tươi đẹp như trong tiết xuân. Đọc bài thơ ta thấy cuộc đời thật là đáng sống, con người thật là tốt đẹp. Thế mới biết, cuộc đời của con người thì có hạn nhưng những giá trị tinh thần mà con người để lại cho đời sau thì luôn có giá trị vĩnh hằng. d. Đánh giá, mở rộng vấn đề bàn luận: Các chức năng văn học có mối quan hệ mật thiết, không tách rời, cùng tác động đến người đọc. Chức năng nhận thức luôn là tiền đề của chức năng giáo dục. Chức năng giáo dục làm sâu sắc thêm chức năng nhận thức. Chức năng thẩm mỹ khiến cho chức năng nhận thức và chức năng giáo dục được phát huy. Các chức năng trên khiến tác động giải trí mà văn học mang lại càng thêm sâu sắc, ý nghĩa. Do đó bên cạnh chức năng nhận thức và chức năng giáo dục, ta cần chú ý đến những chức năng khác được thể hiện trong tác phẩm văn học gây ấn tượng với bản thân. Và chỉ những tác phẩm thực sự có giá trị mới mở ra hình ảnh cuộc đời, phản ánh hiện thực một cách chân thực, sâu sắc, mới đem đến cho con người những nhận thức đúng đắn về hiện thực, về chính mình và hướng con người đến những giá trị chân, thiện, mỹ trong cuộc sống. Để thấy được cái đẹp, cái hay, cái độc đáo của tác phẩm, người đọc phải là người có trình độ thưởng thức, có sự am hiểu văn học, có chiều sâu trong suy nghĩ và tình cảm, đồng thời người đọc không chỉ tiếp nhận một cách thụ động mà còn phải có sự đồng điệu, đồng sáng tạo cùng tác giả… thì mới có thể nhận thức, khám phá được những giá trị của tác phẩm. Bên cạnh đó, nhà văn, nhà thơ cũng phải thực sự có tài và có tâm mới có thể làm vạn người suy nghĩ; mới có thể ghi lại những dấu ấn đậm nét về cái đẹp, cái hay, cái độc đáo của tác phẩm.

3. Kết bài: “Một cuốn sách hay cho ta một điều tốt, một người bạn tốt cho ta một điều hay” (Gustavơ Lebon). Tác phẩm văn học đem đến cho con người những bài học quý giá về lẽ sống, hình thành trong con người một lý tưởng tiến bộ, giúp người đọc có thái độ và quan điểm đúng đắn về cuộc sống. Tác phẩm văn học giúp con người biết yêu ghét đúng đắn, làm cho tâm hồn con người trở nên lành mạnh, trong sáng, cao thượng hơn. Những tác phẩm hay nâng đỡ nhân cách con người phát triển, giúp cho họ biết phân biệt phải trái, đúng sai, có quan hệ tốt và biết gắn bó cuộc sống của cá nhân mình với cuộc sống của con người. Và “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận, “Bếp lửa” của Bằng Việt; “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long, “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng và “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải là một trong những tác phẩm như thế. Đó là những tác phẩm “như một tấm gương đặc biệt để con người soi lại bản thân”. ĐỀ 2: (ĐỀ 7 MÔN NGỮ VĂN 10) Có ý kiến cho rằng: “Đọc một tác phẩm – sống thêm nhiều cuộc đời”. Từ những trải nghiệm trong quá trình đọc văn và học văn, hãy viết về một tác phẩm giúp em “sống thêm nhiều cuộc đời”. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI 1. Mở bài: “Việc đọc rất quan trọng. Nếu bạn biết cách đọc, cả thế giới sẽ mở ra cho bạn” (Barack Obama). Sách có lẽ là một trong những phát minh quan trọng và vĩ đại nhất của con người. Mỗi cuốn sách là kết tinh từ tri thức và cuộc sống, đọc sách không chỉ là một sở thích mà còn là con đường ngắn nhất để tiếp cận với nền văn minh của nhân loại. Trong cuộc sống của mình, con người luôn luôn có ý thức học tập, tìm hiểu khám phá thế giới tự nhiên và xã hội. Những kinh nghiệm, suy nghĩ của con người được ghi chép, lưu giữ lại để truyền cho muôn đời con cháu mai sau. Và vì vậy, sách trở thành một con đường quan trọng để con người đến với tri thức. Con người lưu lại vào sách những suy nghĩ tâm tư, tình cảm của mình về những vấn đề trong cuộc sống. Chính vì thế có ý kiến cho rằng: “Đọc một tác phẩm – sống thêm nhiều cuộc đời”. Tìm hiểu ý nghĩa sâu sắc của lời nhận định trên sẽ cho ta những bài học đường đời thú vị. 2. Thân bài: a. Giải thích vấn đề: “Đọc một tác phẩm – sống thêm nhiều cuộc đời” nghĩa là mỗi tác phẩm là một thế giới do nhà văn sáng tạo nên. Khi đọc tác phẩm độc giả được “sống thêm nhiều cuộc đời” mới trong thế giới ấy, thậm chí sau khi đọc xong tác phẩm có thể thay đổi tích cực để cuộc đời của chính mình trở nên khác biệt, ý nghĩa hơn. Ý kiến trên thực chất đang tập trung bàn về chức năng nhận thức và chức năng giáo dục của văn học đối với con người. Văn học có thể đem đến cho người đọc một thế giới tri thức mênh mông về đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân loại từ xưa đến nay; về vẻ đẹp thiên nhiên ở nước mình và trên khắp thế giới. Văn học là bộ bách khoa toàn thư về cuộc sống. Mặt khác, văn học còn giúp người đọc hiểu được bản chất của con người nói chung để hiểu chính bản thân mình. Văn học đem đến cho con người những bài học quí giá về lẽ sống. Văn học hình thành trong con người một lí tưởng tiến bộ, giúp

người đọc có thái độ và quan điểm đúng đắn về cuộc sống. Văn học giúp con người biết yêu ghét đúng đắn, làm cho tâm hồn con người trở nên lành mạnh, trong sáng, cao thượng hơn. Văn học nâng đỡ nhân cách con người phát triển, giúp cho họ biết phân biệt phải trái, đúng sai, có quan hệ tốt đẹp và biết gắn bó cuộc sống của cá nhân mình với cuộc sống của con người. b. Bàn luận – Chứng minh (Chứng minh bằng cơ sở lý luận): Quả thật như vậy, đọc một tác phẩm có thể giúp ta sống thêm nhiều cuộc đời. Tác phẩm tác động sâu sắc đến tâm hồn người đọc còn người đọc thì tìm thấy tiếng nói tri âm, đồng điệu với tâm hồn của tác giả. Tác phẩm xuất phát từ một trạng thái cảm xúc chân thật, mãnh liệt, tình cảm nhân văn cao đẹp của người nghệ sĩ. Từ đó, tác phẩm chạm đến thế giới tình cảm, tâm hồn người đọc, khơi dậy tình yêu thiết tha với con người, với cuộc sống, đánh thức những tình cảm sâu kín cần được sẻ chia, giải bày. Người đọc đến với một tác phẩm hay là bắt gặp sự đồng điệu, giúp họ tìm thấy câu trả lời, làm cho tâm hồn họ phong phú, thanh lọc họ, khám phá được bản thân mình. Những trải nghiệm khi đọc thơ, đọc văn sẽ thắp lên trong mỗi con người những hoài bão, những lí tưởng, những khát vọng chân chính, cao đẹp. Sau quá trình “đọc một tác phẩm” người đọc “sống thêm nhiều cuộc đời” nghĩa là hiểu hơn về chính mình, để có những cảm nhận sâu sắc hơn, nhân văn hơn. Đây cũng chính là chức năng của tác phẩm văn học. Trong thế giới của tác phẩm, độc giả có thể được khám phá những thời đại, bối cảnh, nền văn hóa mới lạ. Có thể theo dõi hoặc hóa thân vào các nhân vật để sống với những thân phận, số phận khác nhau. Những ảnh hưởng của tác phẩm đến độc giả cũng có thể thay đổi cuộc đời người ấy đang sống. c. Chứng minh bằng những trải nghiệm khi đọc tác phẩm: Mỗi tác phẩm là một thế giới do nhà văn sáng tạo nên. Khi đọc tác phẩm độc giả được “sống thêm nhiều cuộc đời” mới trong thế giới ấy. Trải nghiệm khi tác phẩm sẽ thắp lên trong mỗi con người những hoài bão, những lí tưởng, những khát vọng chân chính, cao đẹp. Với bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy là lối sống ân nghĩa thủy chung, là thái độ trân trọng và biết ơn đối với quá khứ. Với “Bếp lửa” của Bằng Việt là những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với gia đình, quê hương, đất nước. Còn với “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải là tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống tha thiết, khát vọng cống hiến, khát vọng sống đẹp, góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc, để đất nước ta sẽ mãi tươi đẹp như trong tiết xuân. Khi đọc bài thơ “Ánh trăng” ta như được “sống thêm nhiều cuộc đời” mới trong thế giới ấy. Ta thấy bài thơ như chạm đến thế giới tình cảm, tâm hồn mình, khơi dậy tình yêu thiết tha với con người, với cuộc sống, đánh thức những tình cảm sâu kín cần được sẻ chia, giải bày. Ta thấy cuộc đời mình thay đổi tích cực hơn, trở nên khác biệt, ý nghĩa hơn. Bài thơ mang dáng dấp một câu chuyện được kể theo trình tự thời gian. Trong đó, \"ánh trăng\" là hình ảnh xuyên suốt và giàu ý nghĩa. Thông qua hình tượng nghệ thuật “ánh trăng” và cảm xúc của nhà thơ, bài thơ đã diễn tả những suy ngẫm sâu sắc về thái độ của con người đối với quá khứ gian lao, là lời tự nhắc nhở của Nguyễn Duy về thái độ, tình cảm của mình đối với quá khứ gian khổ mà hào hùng của đất nước. Do hoàn cảnh lịch sử của dân tộc, con người

bước vào cuộc chiến máu lửa với kẻ thù, vầng trăng vẫn luôn kề cận, cùng con người đến mọi nẻo đường. Nhưng khi con người sống trong một môi trường hoàn toàn khác: \"quen ánh điện cửa gương\" thì \"cái vầng trăng tình nghĩa\" năm nào giờ đã bị lãng quên. Người bạn tri kỷ ấy trở thành \"người dưng qua đường\". Con người thì thế nhưng vầng trăng vẫn không bao giờ bỏ rơi con người. Hình ảnh này đã chứng tỏ tính vị tha, chất bền vững trong sâu thẳm nguồn cội tâm hồn người Việt. Trăng xưa vẫn đến với người, vẫn tròn, vẫn đẹp, vẫn thủy chung. Người ngắm trăng rồi bâng khuâng suy ngẫm: \"Ngửa mặt lên nhìn mặt có cái gì rưng rưng như là đồng là bể như là sông là rừng\". Con người đang \"mặt đối mặt\" với trăng, với những giá trị tinh thần mình đã lãng quên, khước từ. Hai \"mặt\" ấy mãi mãi là một, không thể tách rời và cũng chưa từng tách rời. Chỉ có con người cắm cúi vào những vật chất, phồn hoa tầm thường mà quên mất thôi: “Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình... ”. Mặc cho người vô tình vầng trăng vẫn tròn vành vạnh, độ lượng, bao dung. Hay nói khác đi, những giá trị bền vững, thuần khiết vẫn luôn bao bọc, che chở cho con người một cách vô hình. Khi con người quay về với cội nguồn tinh thần, họ mới nhận ra mình đã bỏ phí quá nhiều điều vô giá. Ánh trăng như người bạn, nhân chứng nghĩa tình đang nghiêm khắc nhắc nhở con người. Cái \"im phăng phắc\" ấy giống như một người dẫn đường nghiêm khắc chỉ vào cái quá khứ nghĩa tình mà con người tự đánh mất, tự bỏ quên... Hai chữ \"giật mình\" ở cuối bài thơ như một sám hối một sự tự cảnh tỉnh chính mình của con người. Tuy nhiên, bài thơ không phải là lời nhắc nhở riêng ai, mà nhắc nhở cả một thế hệ đã từng trải qua những năm tháng gian khổ của chiến tranh, từng gắn bó với thiên nhiên, được nhân dân đùm bọc, che chở, nay được may mắn sống trong hòa bình thì đừng bao giờ quên quá khứ. Hơn thế, bài thơ là hồi chuông cảnh tỉnh với nhiều người, nhiều thời bởi nó đặt ra vấn đề thái độ trân trọng và biết ơn đối với quá khứ, những người đã khuất và đối với cả chính mình. Bài thơ nằm trong mạch cảm xúc uống nước nhớ nguồn. Đây là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam ta tự bao đời. “Ánh trăng\" của Nguyền Duy gây được nhiều xúc động đối với nhiều thế hệ độc giả bởi cách diễn tả bình dị như những lời tâm sự, lời tự thú, lời tự nhắc nhở chân thành. Giọng thơ trầm tĩnh, sâu lắng. Tứ thơ bất ngờ, mới lạ. Và khi đọc bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt độc giả cũng được “sống thêm nhiều cuộc đời” mới trong thế giới bài thơ ấy. Bài thơ giúp người đọc thay đổi tích cực để cuộc đời của chính mình trở nên khác biệt, ý nghĩa hơn. Bài thơ giúp người đọc lắng nghe được những cung bậc cảm xúc tha thiết, đằm thắm ân tình của người cháu xa quê nhớ thương những kí ức tuổi thơ và hình ảnh bếp lửa gắn liền với tình bà cháu thiêng liêng sâu nặng: “Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. “Bếp lửa” của Bằng Việt là những cung bậc cảm xúc tha thiết, đằm thắm ân tình của người cháu xa quê nhớ thương những kí ức tuổi thơ và hình ảnh bếp lửa gắn liền với tình bà cháu thiêng liêng sâu nặng. Các câu thơ cứ nhẹ nhàng, chân thật như sương mai buổi sớm lan tỏa vào tâm hồn người đọc một tình cảm yêu thương sâu lắng. Tình cảm bà cháu thiêng liêng ấy cứ như con thuyền nhỏ chở đầy ắp những kỉ niệm trên dòng song tuổi thơ êm đềm mà suốt cuộc đời này người cháu không bao giờ quên được. Từ đó, sức ấm và ánh sáng của tình bà cháu cũng như của bếp lửa lan tỏa toàn bài thơ: “Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen. Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”. Hay là: “Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm, Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi, Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui, Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ Ôi! Kỳ lạ và thiêng bếp lửa”. Bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đầy đủ về vật chất mà còn là người làm cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp thêm huyền ảo như trong truyện. Người bà có trái tim nhân hậu, đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục và thức tỉnh tâm hồn đứa cháu để mai này cháu khôn lớn thành người. Người bà kì diệu như vậy ấy, rất giản dị nhưng có một sức mạnh kì diệu từ trái tim, một trái tim ấp áp thấm đẫm tình yêu thương. Câu thơ thốt lên như một phát hiện kỳ diệu của bếp lửa tình thân. Bếp lửa gần gũi thân thương trong mỗi gia đình nhưng cũng thật kỳ lạ thiêng liêng. Bếp lửa đã khơi dậy bao kỉ niệm trong tâm hồn đứa cháu về hình ảnh người bà tần tảo lam lũ vất vả. Bằng những lời thơ trong sáng, bình dị và giàu chất trữ tình, âm điệu thơ trữ tình sâu lắng và hình tượng “bếp lửa” mang đầy ý nghĩa và những hình ảnh ẩn dụ sâu sắc, bài thơ mang triết lí sâu xa, thầm kín. Những gì là thân thiết của tuổi thơ mỗi người có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu thương và lòng biết ơn bà là biểu hiện cụ thể của tình yêu thương, sự gắn bó với gia đình, quê hương và đó cũng là sự khởi đầu của tình yêu con người, tình yêu đất nước. “Bếp lửa” là một bài học đạo lí tha thiết. Bài thơ nhắc nhở ta về lối sống thủy chung ân nghĩa, có lòng biết ơn, đối xử ân nghĩa với gia đình, láng giềng và quê hương, cội nguồn dân tộc. Còn khi đọc bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải ta cũng lại được “sống thêm nhiều cuộc đời” mới trong thế giới bài thơ ấy. Đó là là tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống tha thiết, khát vọng cống hiến, khát vọng sống đẹp, góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc, để đất nước sẽ mãi mãi tươi đẹp như trong tiết xuân. “Mùa xuân nho nhỏ” là tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống tha thiết của tiếng thơ Thanh Hải. Tình yêu dâng trào ấy đầu tiên được thể hiện thông qua bức tranh thiên nhiên mùa xuân của xứ Huế đầy mộng mơ với những thanh âm tươi trẻ, tràn đầy nhựa sống: dòng sông xanh, bông hoa tím biếc, chim chiền chiện hót vang trời… Mùa xuân hiện hữu và lan tỏa trên khắp mọi miền, trong tất cả các hoạt động, mùa xuân là những “Lộc giắt đầy bên lưng” theo chân

người chiến sĩ ra mặt trận, mùa xuân là những “Lộc trải dài nương mạ” theo chân người nông dân ra đồng với sự lạc quan, háo hức và niềm tự hào mãnh liệt về sự phát triển trường tồn của đất nước: “Đất nước bốn ngàn năm Vất vả và gian lao Đất nước như vì sao Cứ đi lên phía trước”. Bằng những câu thơ giản dị, tác giả đã khái quát một cách cô đọng lịch sử của dân tộc. Chặng đường dân tộc đã đi qua thật dài và nhiều chông gai. Nhưng không vì thế mà làm cho bước đi của dân tộc bị chậm lại. Đất nước vẫn như những vì sao tiến lên phía trước. Câu thơ chính là lòng tin và niềm tự hào của tác giả vào đất nước, vào sự nghiệp cách mạng. Cảm động biết bao khi đó là lời của một người đang nằm trên giường bệnh và sắp từ biệt cõi đời. Phải là người có sức sống, niềm lạc quan và tin tưởng nồng nhiệt mới có được những vần thơ như thế. “Mùa xuân nho nhỏ” là tiếng nói, là thanh âm trong trẻo giữa cuộc đời bao la. Tác phẩm là một điệu thơ ngân vang đất nước vào xuân vui tươi rộn ràng. Có thể nói, Thanh Hải đã góp cho vườn thơ Việt một bài thơ xuân đẹp, đậm đà tình nghĩa. Tình yêu mùa xuân gắn liền với tình yêu đất nước, quê hương được Thanh Hải diễn tả một cách sâu sắc, cảm động. Mỗi một cuộc đời hãy là một mùa xuân. Đất nước ta mãi mãi sẽ là những mùa xuân tươi đẹp. “Mùa xuân nho nhỏ” chính là những hoài bão, những lí tưởng, những khát vọng chân chính, cao đẹp: “Ta làm con chim hót Ta làm một nhành hoa Ta nhập vào hòa ca Một nốt trầm xao xuyến. Một mùa xuân nho nhỏ Lặng lẽ dâng cho đời Dù là tuổi hai mươi Dù là khi tóc bạc”. Lời thơ tâm tình tha thiết. Mỗi con người hãy trở thành \"một mùa xuân nho nhỏ\" để làm nên mùa xuân bất diệt của đất nước. Ai cũng phải có ích cho đời. Mùa xuân nho nhỏ, là một ẩn dụ đầy sáng tạo khắc sâu ý tưởng. Đó là cách nói khiêm tốn, chân thành nhưng lại là lẽ sống đẹp đẽ, cao cả. Và nhà thơ Tố Hữu cũng từng viết: “Nếu là con chim, chiếc lá, Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh Lẽ nào vay mà không trả, Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình”. Sống hết mình thủy chung cho đất nước, đem cả cuộc đời mình phục vụ đất nước, từ lúc \"tuổi hai mươi\" trai tráng cho đến khi về già \"tóc bạc\". Thơ hay là ở cảm xúc chân thành. Bài thơ là những hình ảnh ẩn dụ sáng tạo, biện pháp nhân hóa, điệp ngữ và những từ ngữ tượng hình được sử dụng thành công đã tạo nên nét đặc sắc của bài thơ. Qua đó, ta có thể cảm nhận được cái thi vị trong hồn thơ Thanh Hải. Tình yêu thiên nhiên, sự xúc động trước vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân cách mạng và khát vọng cống hiến cho Tổ quốc đã được Thanh Hải gửi gắm qua bài thơ “Mùa xuân

nho nhỏ”. Tuy là tác phẩm được viết không lâu trước khi nhà thơ qua đời nhưng bài thơ vẫn để lại trong lòng bao thế hệ bạn đọc những cảm xúc sâu lắng khó phai mờ. Và, bài thơ vẫn sẽ tiếp tục trường tồn cùng với những bước đi lên của đất nước, gợi nhắc cho những thế hệ trẻ một cách sống đẹp: góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc, để đất nước ta sẽ mãi tươi đẹp như trong tiết xuân. Thế mới biết, cuộc đời của con người thì có hạn nhưng những giá trị tinh thần mà con người để lại cho đời sau thì luôn có giá trị vĩnh hằng. d. Đánh giá, mở rộng vấn đề bàn luận: Các chức năng văn học có mối quan hệ mật thiết, không thể tách rời, cùng tác động đến người đọc. Chức năng nhận thức luôn là tiền đề của chức năng giáo dục. Chức năng giáo dục làm sâu sắc thêm chức năng nhận thức. Chức năng thẩm mỹ khiến cho chức năng nhận thức và chức năng giáo dục được phát huy. Các chức năng trên khiến tác động giải trí mà văn học mang lại càng thêm sâu sắc, ý nghĩa. Do đó bên cạnh chức năng nhận thức và chức năng giáo dục, ta cần chú ý đến những chức năng khác được thể hiện trong tác phẩm văn học. “Đọc một tác phẩm - sống thêm nhiều cuộc đời” là một khả năng kỳ diệu, một chức năng quan trọng của văn chương, tạo nên sự hấp dẫn và sức sống bất diệt của tác phẩm. Người nghệ sĩ bằng tài năng và tâm huyết của mình cần sáng tạo nên những thi phẩm hay và giàu sức hấp dẫn. Điều đó vừa là thiên chức vừa là trách nhiệm của nhà thơ, là yêu cầu thiết yếu, sống còn của sáng tạo nghệ thuật. Muốn được “sống thêm nhiều cuộc đời” một cách trọn vẹn, khi đọc tác phẩm văn học độc giả cần có sự nhập tâm, chiêm nghiệm và đồng sáng tạo với tác giả. Việc đọc một tác phẩm sẽ không có hiệu quả cao nếu chúng ta dửng dưng, vô cảm, thiếu sự đồng cảm, thiếu tâm thế nhập cuộc và “vốn đối ứng” là cảm xúc, tâm hồn, trái tim chân tình của người tiếp nhận trước cuộc đời nhà thơ và cuộc sống muôn người. Hiện nay, vẫn còn những tác phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường, rẻ rúng đã vô tình làm mất đi ý nghĩa cao đẹp của văn chương. Giới trẻ cần chọn lọc tác phẩm văn học chân chính để đồng cảm, chia sẻ và hiểu hơn về giá trị cuộc sống. 3. Kết bài: “Một cuốn sách hay cho ta một điều tốt, một người bạn tốt cho ta một điều hay” (Gustavơ Lebon). Sách tốt được coi như là một thứ thuốc bồi dưỡng cực kì công hiệu. Ngược lại, sách xấu như là một thứ thuốc cực kì nguy hiểm. Không còn sách, nền văn minh nhân loại cũng sẽ không còn. Vì thế: “Hãy yêu sách, nó là nguồn kiến thức, chỉ có kiến thức mới là con đường sống” như M. Gorki đã nói: “Sách là một phần quan trọng và tất yếu của cuộc sống”. Không có nó, thì văn minh nhân loại rất khó được lưu giữ trường cửu với thời gian. Một quyển sách hay sẽ giúp người đọc khám phá ra bản thân, làm giàu thế giới tình cảm, nhân sinh quan. Và “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, “Bếp lửa” của Bằng Việt và “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải là một trong những tác phẩm như thế. Đọc các tác phẩm ấy ta như được “sống thêm nhiều cuộc đời”. ĐỀ 3: (ĐỀ 3 NGỮ VĂN 10) Có ý kiến cho rằng: “Cuộc đời mở ra cùng trang sách”. Từ những trải nghiệm trong quá trình đọc văn và học văn, em hãy viết bài văn với nhan đề “Cuộc đời mở ra cùng trang sách”. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI

1. Mở bài: “Chính từ sách mà những người khôn ngoan tìm được sự an ủi khỏi những rắc rối của cuộc đời” (Victor Hugo). Sách có lẽ là một trong những phát minh quan trọng và vĩ đại nhất của con người. Sách là thầy dạy cuộc sống, là người bạn tri kỉ, là ngọn đèn chỉ đường, sách giúp con người ta hiểu biết, rèn luyện kĩ năng, nhân cách. Sách còn giúp người đọc phát hiện ra chính mình, hiểu rõ mình là ai giữa vũ trụ bao la này, hiểu mỗi người có mối quan hệ như thế nào với người khác, với tất cả mọi người trong cộng đồng. Sách giúp người đọc hiểu được đâu là hạnh phúc, đâu là nỗi khổ của mỗi người và phải làm gì để sống cho đúng và đi tới một cuộc đời thật sự. Sách mở rộng những chân trời ước mơ và khát vọng. Chính vì thế có ý kiến cho rằng: “Cuộc đời mở ra cùng trang sách”. Tìm hiểu ý nghĩa sâu sắc của lời nhận định trên sẽ cho ta những bài học đường đời thú vị. 2. Thân bài: a. Giải thích vấn đề: Cuộc đời mở ra từ trang sách nghĩa là những trải nghiệm trong quá trình đọc sách sẽ hình thành nên ở mỗi chúng ta vốn kiến thức sâu rộng về cuộc đời, về con người trên tất cả các bình diện, với tất cả sự phong phú, phức tạp, đa chiều giúp chúng ta có thể nhận thức, khám phá sâu sắc về hiện thực cuộc sống và về chính bản thân mình. Cũng chính từ những trải nghiệm đó mọi người sẽ có một hành trang, vốn sống, tình cảm, ước mơ, lý tưởng quý giá để sống một cuộc đời ý nghĩa, thú vị và có chiều sâu. Ý kiến trên thực chất đang tập trung bàn về chức năng nhận thức của văn học đối với con người. Văn học có thể đem đến cho người đọc một thế giới tri thức mênh mông về đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân loại từ xưa đến nay; về vẻ đẹp thiên nhiên ở nước mình và trên khắp thế giới. Văn học là bộ bách khoa toàn thư về cuộc sống. Mặt khác, văn học còn giúp người đọc hiểu được bản chất của con người nói chung để hiểu chính bản thân mình. b. Bàn luận – Chứng minh (Chứng minh bằng cơ sở lý luận): Quả thật như vậy, những trải nghiệm trong quá trình đọc sách sẽ hình thành nên ở mỗi chúng ta vốn kiến thức sâu rộng về cuộc đời. Tác phẩm văn học phản ánh chân thực sự sinh động của cuộc sống muôn màu, muôn vẻ đồng thời thể hiện sâu sắc phẩm chất, tâm hồn, suy nghĩ, tình cảm của con người. Đến với tác phẩm văn học người đọc phải tìm thấy bóng hình của cuộc sống, phải tiếp nhận được những tri thức bách khoa về cuộc sống, phải bắt gặp những tâm tình, ước mơ, khát vọng, những băn khoăn, rạo rực, đắm say, là tiếng lòng của những người cầm bút, là tiếng lòng của bao người và cũng là tiếng lòng của chính mình. Hiện thực trong văn học là hiện thực được khúc xạ qua lăng kính chủ quan của tác giả. Phải có sự sáng tạo, chứa đựng quan điểm, tư tưởng, tình cảm, thái độ của tác giả đối với hiện thực cuộc sống, nói cách khác là in đậm dấu ấn cá nhân của tác giả. Nhờ vậy cuộc sống in bóng trong văn học trở nên sống động, đa chiều, đa diện và gợi mở nhiều điều để người đọc khám phá, trải nghiệm, suy ngẫm, trăn trở. Từ đó tác phẩm tác động làm thay đổi con người và nhiều mặt của xã hội. c. Chứng minh bằng những trải nghiệm khi đọc tác phẩm: Những trải nghiệm trong quá trình đọc sách sẽ hình thành nên ở mỗi chúng ta vốn kiến thức sâu rộng về cuộc đời. Thế nhưng, văn học phản ánh hiện thực nhưng không phải là chụp ảnh sao chép hiện thực một cách hời hợt nông cạn. Qua nhân vật

ta thấy cả một tầng lớp, một giai cấp, một thời đại, thậm chí có nhân vật vượt lên khỏi thời đại, có ý nghĩa nhân loại, vĩnh cửu sống mãi với thời gian. Tác phẩm văn học là nơi nhà văn nhắn gửi, thể hiện tình cảm cũng như tư tưởng, quan điểm nhân sinh của mình. Với bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận là tinh thần lao động khẩn trương của những con người không quản ngày đêm để làm ra được thêm nhiều của cải góp phần dựng xây đất nước. Với “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long là bức chân dung của những con người lao động âm thầm, lặng lẽ cống hiến hết mình trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới. Và với \"Chiếc lược ngà\" của Nguyễn Quang Sáng là những rung động trước tình cha con sâu nặng, thắm thiết trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh. Khi đọc bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận ta như được mở ra nhiều cuộc đời. Ta thấy bài thơ như chạm đến thế giới tình cảm, tâm hồn mình, khơi dậy tình yêu thiết tha với con người, với cuộc sống, đánh thức những tình cảm sâu kín cần được sẻ chia, giải bày. Ta thấy cuộc đời mình thay đổi tích cực hơn, trở nên khác biệt, ý nghĩa hơn. Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đã giấy lên một phong trào “mỗi người làm việc bằng hai” vừa xây dựng miền Bắc, vừa chi viện cho chiến trường tiền tuyến miền nam. Khắp nơi mọi người ra sức lao động không quản ngày đêm, khổ cực. Với tinh thần đó, các nhà văn, nhà thơ đã đi sát với cuộc sống của những người lao động để phản ánh và ca ngợi họ. Bài thơ là hành trình dài và rộng từ lúc đoàn thuyền ra khơi, đánh cá và trở về. Một điều người đọc dễ nhận thấy nhất đó là những câu hát được cất lên xuyên suốt quá trình ấy. Sau một ngày làm việc vất vả, vũ trụ đã đi vào nghỉ ngơi, thư giãn. Trong hoàn cảnh đó, con người lại bắt tay vào lao động. Họ ra đi với tinh thần đoàn kết, phấn khởi, lạc quan, khí thế khẩn trương trong lao động. Tinh thần đó được thể hiện qua câu hát khoẻ khoắn, lời hát của họ như hoà vào trong gió, thổi căng buồm đẩy con thuyền thẳng tiến ra khơi. Câu hát của những người đi biển, nó không những thể hiện được tâm hồn lạc quan và khí thế khẩn trương mà còn nói lên niềm mong ước của con người. Các hình ảnh của cá được so sánh, ẩn dụ là những nét sáng tạo độc đáo đem đến cho người đọc một cảm nhận thú vị về con người lao động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Hình ảnh con thuyền đánh cá trên biển như một bức tranh sơn mài lộng lẫy: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng Lướt giữa may cao với biển bằng Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăng Ta hát bài ca gọi cá vào Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao Biển cho ta cá như lòng mẹ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”. Giữa biển trơi mênh mông, trời và biển như hoà vào một. Còn đối với người dân chài, tác giả miêu tả họ với tinh thần làm chủ biển khơi. Họ chủ động, sáng tạo trong lao động, bố trí đánh bắt cá như một trận đánh. Với tinh thần lao động hăng hái, lạc quan như thế, thì chắc chắn hiệu quả sẽ cao hơn. Tiếng hát được vang lên trong những giờ lao động, xua đi những khó nhọc và làm khô đi những giọt mồ hôi. Trong hương vị mặn mòi của biển, lời hát như khích lệ, giúp cho thành quả lao động được

cao hơn. Hành trình của đoàn thuyền khép lại bằng những câu hát thể hiện rõ một niềm hân hoan, phấn khởi: “Câu hát căng buồm cùng gió khơi Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời Mặt trời đội biển nhô màu mới Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”. Cảnh rạng đông và mặt trời từ từ đổi biển nhô lên thật tuyệt diệu. Và, tuyệt diệu hơn cả đó là đoàn thuyền trở về với cá đầy khoang. Hình ảnh con thuyền trở về được miêu tả khẩn trương như lúc ra đi: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Phải chăng ở đây, những người đi biển đang chạy đua với thời gian để chuẩn bị cho đợt ra biển tiếp theo. Những người lao động không thoả mãn với những kết quả đạt được. Vì vậy, họ phải chạy đua với thời gian để làm ra được nhiều của cải hơn cho đất nước. Cảnh bình minh thật huy hoàng nhưng người lao động không kịp ngắm nó, hầu như mọi tâm trí của họ chỉ tập trung vào công việc lao động. Đây chính là tinh thần lao động của nhân dân ta trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Với giọng thơ khoẻ mạnh, kết hợp với cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật nhân hoá, hoán dụ tài tình, nhà thơ đã vẽ lên được một bức tranh tuyệt đẹp về cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về lúc bình mình. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã đi qua nhưng mỗi lần đọc lại bài “Đoàn thuyền đánh cá” ta như thấy hiện ra trước mắt tinh thần lao động khẩn trương của những con người không quản ngày đếm để làm ra được thêm nhiều của cải cho đất nước. Cả bài thơ là một bức tranh tuyệt đẹp, đẹp về cảnh thiên nhiên, đẹp về tinh thần lao động. Đó là thành công nhất của nhà thơ Huy Cận trong tác phẩm này. Văn học là cuộc đời, cuộc đời là khởi nguồn cũng là những điểm đi tới của văn học. Yêu cái đẹp của văn chương là chúng ta yêu tấm lòng của nhà văn. Họ là những kĩ sư tâm hồn đốt cháy mình để có được ánh sáng, niềm vui dẫn ta đến bến bờ xứ sở của cái đẹp trong cuộc sống, mở ra cuộc đời mới, thắp sáng những ước mơ trong lòng bạn đọc. Và khi đọc “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long ta như được mở ra nhiều cuộc đời mới trong thế giới tác phẩm ấy. Tác phẩm giúp người đọc thay đổi tích cực để cuộc đời của chính mình trở nên khác biệt, ý nghĩa hơn. \"Lặng lẽ Sa Pa\" đã khám phá, khẳng định và ngợi ca vẻ đẹp của con người lao động. Điều này đã được thể hiện rõ qua hình tượng anh thanh niên qua những nét đẹp về phẩm chất, tâm hồn và tinh thần trách nhiệm trong công việc cũng như sự cống hiến thầm lặng đầy cao đẹp. Trong bối cảnh bức tranh thiên nhiên thơ mộng, mờ ảo, tác giả đã ngợi ca những con người lao động luôn sống và làm việc với lòng say mê nhiệt thành, đặc biệt là hình tượng nhân vật anh thanh niên với những nét đẹp đáng trân trọng. Anh thanh niên xuất hiện trong trang văn của tác giả qua hoàn cảnh sống và làm việc hết sức khắc nghiệt nhưng anh vẫn vượt lên mọi trở ngại, khó khăn bằng những phẩm chất cao đẹp. Trước hết đó là lòng yêu nghề và tinh thần trách nhiệm với công việc. Dù làm việc trên đỉnh núi cao và không có người thúc giục, giám sát nhưng anh thanh niên vẫn làm việc hết mình và tự giác. Động lực để chàng thanh niên có thế vượt qua mọi khó khăn chính là lòng yêu nghề, thể hiện qua việc anh hăng say nói về công việc một cách say mê và đầy tự hào và coi đó là lẽ sống: \"Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi công việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất

nó đi, cháu buồn đến chết mất\". Quan điểm của anh thanh niên đã thể hiện rõ triết lí: \"Không phải nghề nghiệp làm danh giá cho con người, mà chính con người làm danh giá cho nghề nghiệp\". Sống trên đỉnh núi cao giá lạnh cùng sự cô đơn nhưng anh thanh niên vẫn tạo ra cho mình một nếp sống văn minh và ngăn nắp. Điều này thể hiện qua cách bài trí bình dị nhưng khoa học trong căn nhà nhỏ. Ngoài công việc, anh còn nuôi dưỡng tâm hồn, làm giàu trí tuệ, mở mang hiểu biết bằng thú vui đọc sách, xem sách là phương tiện để tìm hiểu, giao lưu với thế giới bên ngoài. Bên cạnh đó, những thú vui tao nhã như trồng hoa, nuôi gà cũng góp phần làm cho cuộc sống của anh trở nên phong phú, đa dạng hơn. Không chỉ dừng lại ở đó, ngay từ những trang văn đầu tiên của thiên truyện, anh thanh niên còn xuất hiện với vẻ đẹp của sự chân thành, cởi mở và lòng hiếu khách. Cuộc đối thoại và hành động ân cần của anh đối với bác lái xe cùng niềm vui khi có khách ghé thăm bất ngờ đã cho thấy sự trân trọng giá trị tình cảm và khao khát được gặp gỡ, trò chuyện của nhân vật. Ngoài ra, đây còn là chàng trai khiêm tốn và thành thực. Mặc dù làm việc trong hoàn cảnh khắc nghiệt và đem đến những cống hiến vĩ đại nhưng khi ông họa sĩ ngỏ lời phác họa chân dung, anh nhiệt thành giới thiệu những người khác và cho rằng những đóng góp của mình chỉ là bé nhỏ. Vẻ đẹp con người trong \"Lặng lẽ Sa Pa\" không chỉ thể hiện ở nhân vật anh thanh niên mà còn được thể hiện ở những nhân vật khác. Qua cảm xúc, suy nghĩ và thái độ cảm mến của bác lái xe, cô kĩ sư, ông họa sĩ, hình ảnh anh thanh niên được hiện ra càng rõ nét và đẹp hơn. Chủ đề của tác phẩm mở rộng thêm và gợi ra nhiều ý nghĩa. Bức chân dung nhân vật chính như được soi rọi nhiều luồng ánh sáng khiến nó thêm rạng rỡ và ánh lên nhiều màu sắc. Trong tác phẩm, còn có những nhân vật không xuất hiện trực tiếp mà chỉ xuất hiện gián tiếp qua câu kể của anh thanh niên cũng góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm. Dù không xuất hiện trực tiếp trong truyện mà chỉ gián tiếp qua lời kể của anh thanh niên, song họ hiện lên với những nét tuyệt đẹp trong tâm hồn và cách sống. Họ là những người say mê công việc. Vì công việc làm giàu cho đất nước, họ sẵn sàng hi sinh tuổi thanh xuân, hạnh phúc và tình cảm gia đình. \"Lặng lẽ Sa Pa\" không có những chi tiết đặc biệt, không có những nhân vật và hành động lạ lùng, không có những gay go, nhưng nó lại có sức lôi cuốn người đọc đến lạ thường. Đồng thời thể hiện rõ tài năng xây dựng tình huống truyện và xây dựng nhân vật của nhà văn Nguyễn Thành Long. Truyện ngắn như một lời kể chuyện duyên dáng về những điều vẫn diễn ra bình thường trong cuộc sống bình thường. Anh thanh niên ngời sáng những vẻ đẹp về cách nghĩ, tinh thần, tình cảm cũng như cách sống và làm việc, trở thành một biểu tượng đẹp, minh họa cho bức chân dung của những con người lao động trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới. Đọc “Lặng lẽ Sa Pa” chúng ta thấy cuộc đời thật là đáng sống, con người thật là tốt đẹp. Mỗi người cần phải sống tốt đẹp, bởi sống như thế thật là hạnh phúc. Với “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng ta cũng lại được mở ra nhiều cuộc đời mới trong thế giới tác phẩm ấy. Truyện ngắn là một áng văn bất hủ ca ngợi tình phụ tử giản dị mà thiêng liêng, với những con người giàu tình cảm và đẹp đẽ, như nhân vật bé Thu và ông Sáu. Câu chuyện không chỉ ca ngợi tình cha con sâu nặng thắm thiết, mà còn gợi cho chúng ta những suy ngẫm và thấm thía được tình

sự đau thương, mất mát của chiến tranh tàn khốc gây ra. Vỏn vẹn trong vài ngày ông Sáu về thăm nhà, đoạn trích ngắn từ câu chuyện đã lấy đi bao nước mắt người đọc, thấu cảm về tình cha con, tình yêu thương gia đình máu mủ ruột già không gì có thể so sánh được và đặc biệt là tình cảm bền bỉ bé Thu dành cho người cha của mình. Truyện khép lại, tuy không phải là kết thúc có hậu nhưng lại vô cùng hạnh phúc. Tiếng gọi \"ba\" trong tâm khảm được cất lên là lời khẳng định đanh thép về tình cảm cha con ruột thịt cháy bỏng. Đồng thời, qua đây, tác giả lên án chiến tranh tàn khốc, cuộc chiến phi nghĩa đã chia cắt biết bao gia đình, gây ra tình huống éo le, đau đớn cho bao nhiêu đứa trẻ, bao nhiêu người cha, người mẹ. Nguyễn Quang Sáng không chỉ kể đến tình người, tình cảm giàu đẹp giữa hoàn cảnh khó khăn, gian nan nhất của dân tộc mà còn là đạo lý, đạo làm người, đạo làm con cái đối với cha mẹ một tình thương, sự tôn trọng và biết ơn sâu sắc. “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng với những tình huống éo le mà cảm động và diễn biến tâm trạng nhân vật phức tạp được miêu tả hết sức tinh tế đã khiến cho ta phải rung động trước tình cha con giữa ông Sáu và bé Thu. Chiến tranh có thể hủy diệt được cuộc sống, nhưng không thể huỷ diệt tình cảm gia đình thiêng liêng của con người. Chiến tranh đã lùi xa, cuộc sống yên bình, hạnh phúc đã đến với các em thơ trong sự tận hưởng trọn vẹn tình yêu thương của cha mẹ. Chúng ta hiểu và biết ơn bao người đã hi sinh tình cảm riêng, hi sinh cuộc đời của mình cho đất nước như cha con ông Sáu trong “Chiếc lược ngà”. Sức sống của tác phẩm là ở chỗ khơi gợi được ý nghĩa sâu sắc của tình cha con, vẻ đẹp tâm hồn của người lính Cách mạng. Và một lần nữa chúng ta có thể khẳng định rằng “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng chính là một câu chuyện cổ tích giữa đời thường, một truyện cổ tích hiện đại. d. Đánh giá, mở rộng vấn đề bàn luận: Các chức năng văn học có mối quan hệ mật thiết, không thể tách rời, cùng tác động đến người đọc. Chức năng nhận thức luôn là tiền đề của chức năng giáo dục. Chức năng giáo dục làm sâu sắc thêm chức năng nhận thức. Chức năng thẩm mỹ khiến cho chức năng nhận thức và chức năng giáo dục được phát huy. Các chức năng trên khiến tác động giải trí mà văn học mang lại càng thêm sâu sắc, ý nghĩa. Do đó bên cạnh chức năng nhận thức và chức năng giáo dục, ta cần chú ý đến những chức năng khác được thể hiện trong tác phẩm văn học. Tác phẩm thực sự có giá trị mới mở ra hình ảnh cuộc đời, phản ánh hiện thực một cách chân thực, sâu sắc, mới đem đến cho con người những nhận thức đúng đắn về hiện thực, về chính mình và hướng con người đến những giá trị chân, thiện, mỹ trong cuộc sống. Để thấy được cái đẹp, cái hay, cái độc đáo của tác phẩm, người đọc phải là người có trình độ thưởng thức, có sự am hiểu văn học, có chiều sâu trong suy nghĩ và tình cảm, đồng thời người đọc không chỉ tiếp nhận một cách thụ động mà còn phải có sự đồng điệu, đồng sáng tạo cùng tác giả… thì mới có thể nhận thức, khám phá được những giá trị của tác phẩm. Bên cạnh đó, nhà văn, nhà thơ cũng phải thực sự có tài và có tâm mới có thể làm vạn người suy nghĩ; mới có thể ghi lại những dấu ấn đậm nét về cái đẹp, cái hay, cái độc đáo của tác phẩm. Bên cạnh đó, việc đọc một tác phẩm sẽ không có hiệu quả cao nếu chúng ta dửng dưng, vô cảm, thiếu sự đồng cảm, thiếu tâm thế nhập cuộc và vốn đối ứng là cảm xúc, tâm hồn, trái tim chân tình của người tiếp nhận trước cuộc đời nhà thơ và cuộc sống muôn người. Tác động của văn chương thường không đến ngay lập tức sau

khi đọc mà phải qua quá trình suy ngẫm, chiêm nghiệm. Chỉ khi người đọc có trình độ thưởng thức, có sự am hiểu văn học, tác phẩm mới có thể khiến họ suy nghĩ và làm thay đổi số phận của họ. Hiện nay, vẫn còn những tác phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường, rẻ rúng đã vô tình làm mất đi ý nghĩa cao đẹp của văn chương. Giới trẻ cần chọn lọc tác phẩm văn học chân chính để đồng cảm, chia sẻ và hiểu hơn về giá trị cuộc sống. 3. Kết bài: “Một cuốn sách hay cho ta một điều tốt, một người bạn tốt cho ta một điều hay” (Gustavơ Lebon). Sách tốt được coi như là một thứ thuốc bồi dưỡng cực kì công hiệu. Ngược lại, sách xấu như là một thứ thuốc cực kì nguy hiểm. Không còn sách, nền văn minh nhân loại cũng sẽ không còn. Vì thế: “Hãy yêu sách, nó là nguồn kiến thức, chỉ có kiến thức mới là con đường sống” như M. Gorki đã nói: “Sách là một phần quan trọng và tất yếu của cuộc sống”. Không có nó, thì văn minh nhân loại rất khó được lưu giữ trường cửu với thời gian. ĐỀ 4: (ĐỀ 6 NGỮ VĂN 10) Có ý kiến cho rằng: “Những ước mơ thắp lên từ trang sách”. Từ những trải nghiệm trong quá trình đọc văn và học văn, em hãy viết bài văn với nhan đề “Những ước mơ thắp lên từ trang sách”. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI 1. Mở bài: “Việc đọc rất quan trọng. Nếu bạn biết cách đọc, cả thế giới sẽ mở ra cho bạn” (Barack Obama). Sách có lẽ là một trong những phát minh quan trọng và vĩ đại nhất của con người. Mỗi cuốn sách là kết tinh từ tri thức và cuộc sống, đọc sách không chỉ là một sở thích mà còn là con đường ngắn nhất để tiếp cận với nền văn minh của nhân loại. Trong cuộc sống của mình, con người luôn luôn có ý thức học tập, tìm hiểu khám phá thế giới tự nhiên và xã hội. Những kinh nghiệm, suy nghĩ của con người được ghi chép, lưu giữ lại để truyền cho muôn đời con cháu mai sau. Và vì vậy, sách trở thành một con đường quan trọng để con người đến với tri thức. Con người lưu lại vào sách những suy nghĩ tâm tư, tình cảm của mình về những vấn đề trong cuộc sống. Chính vì thế, có ý kiến cho rằng: “Những ước mơ thắp lên từ trang sách”. 2. Thân bài: a. Giải thích vấn đề: “Những ước mơ thắp lên từ trang sách” nghĩa là những trải nghiệm trong quá trình đọc sách sẽ thắp lên trong mỗi con người những hoài bão, những lý tưởng, những khát vọng chân chính, cao đẹp. Đó có thể là ước mơ công lí, ước mơ tự do, ước mơ hòa bình, ước mơ cống hiến, ước mơ tình yêu, ước mơ hạnh phúc, ước mơ thành công. Chính những ước mơ này sẽ làm dấy lên những nghĩ suy, trăn trở, những suy ngẫm, chiêm nghiệm, những khát khao hành động giúp con người sống một cuộc đời có ý nghĩa hơn, nhân văn và sâu sắc hơn. Đây cũng chính là chiều sâu giá trị mà tác phẩm văn học mang đến cho con người trong quá trình tiếp nhận. Ý kiến trên thực chất đang tập trung bàn về chức năng giáo dục của văn học đối với con người. Văn học đem đến cho con người những bài học quí giá về lẽ sống. Văn học hình thành trong con người một lí tưởng tiến bộ, giúp người đọc có thái độ và quan điểm đúng đắn về cuộc sống. Văn học giúp con người biết yêu ghét đúng đắn, làm

cho tâm hồn con người trở nên lành mạnh, trong sáng, cao thượng hơn. Văn học nâng đỡ nhân cách con người phát triển, giúp cho họ biết phân biệt phải trái, đúng sai, có quan hệ tốt đẹp và biết gắn bó cuộc sống của cá nhân mình với cuộc sống của con người. b. Bàn luận – Chứng minh (Chứng minh bằng cơ sở lý luận): Quả thật như vậy, những trải nghiệm trong quá trình đọc sách sẽ thắp lên trong mỗi con người những hoài bão, những lý tưởng, những khát vọng chân chính, cao đẹp. Bắt nguồn từ cuộc sống, qua lăng kính cảm nhận của nhà văn, văn học lại trở về với đời, mở ra những ngã đường hướng con người tới cõi chân, thiện, mỹ. Chính những cảm xúc mãnh liệt, những tình cảm cao đẹp của nhà văn sẽ tác động mạnh mẽ đến người đọc, khơi dậy những rung động sâu sắc trong tâm hồn họ giúp họ biết yêu thương, biết xót xa, biết chia sẻ, biết phẫn nộ, biết căm hờn, biết nể phục, biết tự hào. Từ những rung động này văn học tiếp tục hành trình thắp lên trong con người những ước mơ về cuộc sống tốt đẹp hơn cho mọi người và cho chính bản thân mình. Đó là ước mơ đem đến sự công bằng, tự do, bình yên và hạnh phúc cho những người lương thiện là ước mơ cống hiến xây dựng xã hội, tiếp bước thế hệ đi trước, là ước mơ sống một cuộc đời có ý nghĩa, có lí tưởng, là ước mơ khẳng định giá trị bản thân giữa cuộc đời. Có ước mơ con người sẽ có động lực phấn đấu, nỗ lực hoàn thiện bản thân, hình thành những phẩm chất cao đẹp. c. Chứng minh bằng những trải nghiệm khi đọc tác phẩm: Mỗi tác phẩm là một thế giới do nhà văn sáng tạo nên. Khi đọc tác phẩm độc giả được “sống thêm nhiều cuộc đời” mới trong thế giới ấy. Trải nghiệm khi tác phẩm sẽ thắp lên trong mỗi con người những hoài bão, những lí tưởng, những khát vọng chân chính, cao đẹp. Với bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận là tinh thần lao động khẩn trương của những con người không quản ngày đêm để làm ra được thêm nhiều của cải góp phần dựng xây đất nước. Với “Bếp lửa” của Bằng Việt là những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với gia đình, quê hương, đất nước. Với bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy là lối sống ân nghĩa thủy chung, là thái độ trân trọng và biết ơn đối với quá khứ. Với “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long là bức chân dung của những con người lao động âm thầm, lặng lẽ cống hiến hết mình trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới. Với “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải là tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống tha thiết, khát vọng cống hiến, khát vọng sống đẹp, góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc, để đất nước ta sẽ mãi tươi đẹp như trong tiết xuân. Với \"Chiếc lược ngà\" của Nguyễn Quang Sáng là những rung động trước tình cha con sâu nặng, thắm thiết trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh. Đọc bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận sẽ thắp lên trong ta những hoài bão, ước mơ cao đẹp, đó là tinh thần lao động khẩn trương của những con người không quản ngày đêm để làm ra được thêm nhiều của cải góp phần dựng xây đất nước. Bài thơ là hành trình dài và rộng từ lúc đoàn thuyền ra khơi, đánh cá và trở về. Một điều người đọc dễ nhận thấy nhất đó là những câu hát được cất lên xuyên suốt quá trình ấy. Sau một ngày làm việc vất vả, vũ trụ đã đi vào nghỉ ngơi, thư giãn. Trong hoàn cảnh đó, con người lại bắt tay vào lao động. Họ ra đi với tinh thần đoàn kết, phấn khởi, lạc quan, khí thế khẩn trương trong lao động. Tinh

thần đó được thể hiện qua câu hát khoẻ khoắn, lời hát của họ như hoà vào trong gió, thổi căng buồm đẩy con thuyền thẳng tiến ra khơi. Câu hát của những người đi biển, nó không những thể hiện được tâm hồn lạc quan và khí thế khẩn trương mà còn nói lên niềm mong ước của con người. Các hình ảnh của cá được so sánh, ẩn dụ là những nét sáng tạo độc đáo đem đến cho người đọc một cảm nhận thú vị về con người lao động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Hình ảnh con thuyền đánh cá trên biển như một bức tranh sơn mài lộng lẫy: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng Lướt giữa may cao với biển bằng Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăng Ta hát bài ca gọi cá vào Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao Biển cho ta cá như lòng mẹ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”. Giữa biển trơi mênh mông, trời và biển như hoà vào một. Còn đối với người dân chài, tác giả miêu tả họ với tinh thần làm chủ biển khơi. Họ chủ động, sáng tạo trong lao động, bố trí đánh bắt cá như một trận đánh. Với tinh thần lao động hăng hái, lạc quan như thế, thì chắc chắn hiệu quả sẽ cao hơn. Tiếng hát được vang lên trong những giờ lao động, xua đi những khó nhọc và làm khô đi những giọt mồ hôi. Trong hương vị mặn mòi của biển, lời hát như khích lệ, giúp cho thành quả lao động được cao hơn. Hành trình của đoàn thuyền khép lại bằng những câu hát thể hiện rõ một niềm hân hoan, phấn khởi: “Câu hát căng buồm cùng gió khơi Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời Mặt trời đội biển nhô màu mới Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”. Cảnh rạng đông và mặt trời từ từ đổi biển nhô lên thật tuyệt diệu. Và, tuyệt diệu hơn cả đó là đoàn thuyền trở về với cá đầy khoang. Hình ảnh con thuyền trở về được miêu tả khẩn trương như lúc ra đi: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Phải chăng ở đây, những người đi biển đang chạy đua với thời gian để chuẩn bị cho đợt ra biển tiếp theo. Những người lao động không thoả mãn với những kết quả đạt được. Vì vậy, họ phải chạy đua với thời gian để làm ra được nhiều của cải hơn cho đất nước. Cảnh bình minh thật huy hoàng nhưng người lao động không kịp ngắm nó, hầu như mọi tâm trí của họ chỉ tập trung vào công việc lao động. Đây chính là tinh thần lao động của nhân dân ta trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Với giọng thơ khoẻ mạnh, kết hợp với cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật nhân hoá, hoán dụ tài tình, nhà thơ đã vẽ lên được một bức tranh tuyệt đẹp về cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về lúc bình mình. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã đi qua nhưng mỗi lần đọc lại bài “Đoàn thuyền đánh cá” ta như thấy hiện ra trước mắt tinh thần lao động khẩn trương của những con người không quản ngày đếm để làm ra được thêm nhiều của cải cho đất nước. Cả bài thơ là một bức tranh tuyệt đẹp, đẹp về cảnh thiên nhiên, đẹp về tinh thần lao động. Đó là thành công nhất của nhà thơ Huy Cận trong tác phẩm này. Văn học là cuộc đời, cuộc đời là khởi nguồn cũng là những điểm đi tới của văn học. Yêu cái đẹp của văn chương là chúng ta yêu tấm lòng của

nhà văn. Họ là những kĩ sư tâm hồn đốt cháy mình để có được ánh sáng, niềm vui dẫn ta đến bến bờ xứ sở của cái đẹp trong cuộc sống, mở ra cuộc đời mới, thắp sáng những ước mơ trong lòng bạn đọc. Những trải nghiệm trong quá trình đọc “Bếp lửa” sẽ thắp lên trong mỗi chúng ta những hoài bão, những lý tưởng, những khát vọng chân chính, cao đẹp, nhắc nhở ta về lối sống thủy chung ân nghĩa, lòng biết ơn, đối xử ân nghĩa với gia đình, láng giềng và quê hương, cội nguồn dân tộc: “Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. “Bếp lửa” của Bằng Việt là những cung bậc cảm xúc tha thiết, đằm thắm ân tình của người cháu xa quê nhớ thương những kí ức tuổi thơ và hình ảnh bếp lửa gắn liền với tình bà cháu thiêng liêng sâu nặng. Các câu thơ cứ nhẹ nhàng, chân thật như sương mai buổi sớm lan tỏa vào tâm hồn người đọc một tình cảm yêu thương sâu lắng. Tình cảm bà cháu thiêng liêng ấy cứ như con thuyền nhỏ chở đầy ắp những kỉ niệm trên dòng song tuổi thơ êm đềm mà suốt cuộc đời này người cháu không bao giờ quên được. Từ đó, sức ấm và ánh sáng của tình bà cháu cũng như của bếp lửa lan tỏa toàn bài thơ: “Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen. Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”. Hay là: “Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm, Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi, Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui, Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ Ôi! Kỳ lạ và thiêng bếp lửa”. Bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đầy đủ về vật chất mà còn là người làm cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp thêm huyền ảo như trong truyện. Người bà có trái tim nhân hậu, đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục và thức tỉnh tâm hồn đứa cháu để mai này cháu khôn lớn thành người. Người bà kì diệu như vậy ấy, rất giản dị nhưng có một sức mạnh kì diệu từ trái tim, một trái tim ấp áp thấm đẫm tình yêu thương. Câu thơ thốt lên như một phát hiện kỳ diệu của bếp lửa tình thân. Bếp lửa gần gũi thân thương trong mỗi gia đình nhưng cũng thật kỳ lạ thiêng liêng. Bếp lửa đã khơi dậy bao kỉ niệm trong tâm hồn đứa cháu về hình ảnh người bà tần tảo lam lũ vất vả. Bằng những lời thơ trong sáng, bình dị và giàu chất trữ tình, âm điệu thơ trữ tình sâu lắng và hình tượng “bếp lửa” mang đầy ý nghĩa và những hình ảnh ẩn dụ sâu sắc, bài thơ mang triết lí sâu xa, thầm kín. Những gì là thân thiết của tuổi thơ mỗi người có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu thương và lòng biết ơn bà là biểu hiện cụ thể của tình yêu thương, sự gắn bó với gia đình, quê hương và đó cũng là sự khởi đầu của tình yêu con người, tình yêu đất nước. “Bếp lửa” là một bài học đạo lí tha thiết. Bài thơ nhắc nhở ta về lối sống thủy chung ân nghĩa, có lòng biết ơn, đối xử ân nghĩa với gia đình, láng giềng và quê hương, cội nguồn dân tộc.

Đọc bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy sẽ thắp lên trong ta những hoài bão, ước mơ cao đẹp, đó là lối sống ân nghĩa thủy chung, là thái độ trân trọng và biết ơn đối với quá khứ. Bài thơ mang dáng dấp một câu chuyện được kể theo trình tự thời gian. Trong đó, \"ánh trăng\" là hình ảnh xuyên suốt và giàu ý nghĩa. Thông qua hình tượng nghệ thuật “ánh trăng” và cảm xúc của nhà thơ, bài thơ đã diễn tả những suy ngẫm sâu sắc về thái độ của con người đối với quá khứ gian lao, là lời tự nhắc nhở của Nguyễn Duy về thái độ, tình cảm của mình đối với quá khứ gian khổ mà hào hùng của đất nước. Do hoàn cảnh lịch sử của dân tộc, con người bước vào cuộc chiến máu lửa với kẻ thù, vầng trăng vẫn luôn kề cận, cùng con người đến mọi nẻo đường. Nhưng khi con người sống trong một môi trường hoàn toàn khác: \"quen ánh điện cửa gương\" thì \"cái vầng trăng tình nghĩa\" năm nào giờ đã bị lãng quên. Người bạn tri kỷ ấy trở thành \"người dưng qua đường\". Con người thì thế nhưng vầng trăng vẫn không bao giờ bỏ rơi con người. Hình ảnh này đã chứng tỏ tính vị tha, chất bền vững trong sâu thẳm nguồn cội tâm hồn người Việt. Trăng xưa vẫn đến với người, vẫn tròn, vẫn đẹp, vẫn thủy chung. Người ngắm trăng rồi bâng khuâng suy ngẫm: \"Ngửa mặt lên nhìn mặt có cái gì rưng rưng như là đồng là bể như là sông là rừng\". Con người đang \"mặt đối mặt\" với trăng, với những giá trị tinh thần mình đã lãng quên, khước từ. Hai \"mặt\" ấy mãi mãi là một, không thể tách rời và cũng chưa từng tách rời. Chỉ có con người cắm cúi vào những vật chất, phồn hoa tầm thường mà quên mất thôi: “Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình... ”. Mặc cho người vô tình vầng trăng vẫn tròn vành vạnh, độ lượng, bao dung. Hay nói khác đi, những giá trị bền vững, thuần khiết vẫn luôn bao bọc, che chở cho con người một cách vô hình. Khi con người quay về với cội nguồn tinh thần, họ mới nhận ra mình đã bỏ phí quá nhiều điều vô giá. Ánh trăng như người bạn, nhân chứng nghĩa tình đang nghiêm khắc nhắc nhở con người. Cái \"im phăng phắc\" ấy giống như một người dẫn đường nghiêm khắc chỉ vào cái quá khứ nghĩa tình mà con người tự đánh mất, tự bỏ quên... Hai chữ \"giật mình\" ở cuối bài thơ như một sám hối một sự tự cảnh tỉnh chính mình của con người. Tuy nhiên, bài thơ không phải là lời nhắc nhở riêng ai, mà nhắc nhở cả một thế hệ đã từng trải qua những năm tháng gian khổ của chiến tranh, từng gắn bó với thiên nhiên, được nhân dân đùm bọc, che chở, nay được may mắn sống trong hòa bình thì đừng bao giờ quên quá khứ. Hơn thế, bài thơ là hồi chuông cảnh tỉnh với nhiều người, nhiều thời bởi nó đặt ra vấn đề thái độ trân trọng và biết ơn đối với quá khứ, những người đã khuất và đối với cả chính mình. Bài thơ nằm trong mạch cảm xúc uống nước nhớ nguồn. Đây là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam ta tự bao đời. “Ánh trăng\" của Nguyền Duy gây được nhiều xúc động đối với nhiều thế hệ độc giả bởi cách diễn tả bình dị như những lời tâm sự, lời tự thú, lời tự nhắc nhở chân thành. Giọng thơ trầm tĩnh, sâu lắng. Tứ thơ bất ngờ, mới lạ.

Những trải nghiệm trong quá trình đọc “Lặng lẽ Sa Pa” sẽ thắp lên trong mỗi chúng ta những hoài bão, những lý tưởng, những khát vọng chân chính, cao đẹp, đó là bức chân dung của những con người lao động âm thầm, lặng lẽ cống hiến hết mình trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới. \"Lặng lẽ Sa Pa\" đã khám phá, khẳng định và ngợi ca vẻ đẹp của con người lao động. Điều này đã được thể hiện rõ qua hình tượng anh thanh niên qua những nét đẹp về phẩm chất, tâm hồn và tinh thần trách nhiệm trong công việc cũng như sự cống hiến thầm lặng đầy cao đẹp. Trong bối cảnh bức tranh thiên nhiên thơ mộng, mờ ảo, tác giả đã ngợi ca những con người lao động luôn sống và làm việc với lòng say mê nhiệt thành, đặc biệt là hình tượng nhân vật anh thanh niên với những nét đẹp đáng trân trọng. Anh thanh niên xuất hiện trong trang văn của tác giả qua hoàn cảnh sống và làm việc hết sức khắc nghiệt nhưng anh vẫn vượt lên mọi trở ngại, khó khăn bằng những phẩm chất cao đẹp. Trước hết đó là lòng yêu nghề và tinh thần trách nhiệm với công việc. Dù làm việc trên đỉnh núi cao và không có người thúc giục, giám sát nhưng anh thanh niên vẫn làm việc hết mình và tự giác. Động lực để chàng thanh niên có thế vượt qua mọi khó khăn chính là lòng yêu nghề, thể hiện qua việc anh hăng say nói về công việc một cách say mê và đầy tự hào và coi đó là lẽ sống: \"Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi công việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất\". Quan điểm của anh thanh niên đã thể hiện rõ triết lí: \"Không phải nghề nghiệp làm danh giá cho con người, mà chính con người làm danh giá cho nghề nghiệp\". Sống trên đỉnh núi cao giá lạnh cùng sự cô đơn nhưng anh thanh niên vẫn tạo ra cho mình một nếp sống văn minh và ngăn nắp. Điều này thể hiện qua cách bài trí bình dị nhưng khoa học trong căn nhà nhỏ. Ngoài công việc, anh còn nuôi dưỡng tâm hồn, làm giàu trí tuệ, mở mang hiểu biết bằng thú vui đọc sách, xem sách là phương tiện để tìm hiểu, giao lưu với thế giới bên ngoài. Bên cạnh đó, những thú vui tao nhã như trồng hoa, nuôi gà cũng góp phần làm cho cuộc sống của anh trở nên phong phú, đa dạng hơn. Không chỉ dừng lại ở đó, ngay từ những trang văn đầu tiên của thiên truyện, anh thanh niên còn xuất hiện với vẻ đẹp của sự chân thành, cởi mở và lòng hiếu khách. Cuộc đối thoại và hành động ân cần của anh đối với bác lái xe cùng niềm vui khi có khách ghé thăm bất ngờ đã cho thấy sự trân trọng giá trị tình cảm và khao khát được gặp gỡ, trò chuyện của nhân vật. Ngoài ra, đây còn là chàng trai khiêm tốn và thành thực. Mặc dù làm việc trong hoàn cảnh khắc nghiệt và đem đến những cống hiến vĩ đại nhưng khi ông họa sĩ ngỏ lời phác họa chân dung, anh nhiệt thành giới thiệu những người khác và cho rằng những đóng góp của mình chỉ là bé nhỏ. Vẻ đẹp con người trong \"Lặng lẽ Sa Pa\" không chỉ thể hiện ở nhân vật anh thanh niên mà còn được thể hiện ở những nhân vật khác. Qua cảm xúc, suy nghĩ và thái độ cảm mến của bác lái xe, cô kĩ sư, ông họa sĩ, hình ảnh anh thanh niên được hiện ra càng rõ nét và đẹp hơn. Chủ đề của tác phẩm mở rộng thêm và gợi ra nhiều ý nghĩa. Bức chân dung nhân vật chính như được soi rọi nhiều luồng ánh sáng khiến nó thêm rạng rỡ và ánh lên nhiều màu sắc. Trong tác phẩm, còn có những nhân vật không xuất hiện trực tiếp mà chỉ xuất hiện gián tiếp qua câu kể của anh thanh niên cũng góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm. Dù không xuất hiện trực tiếp trong truyện mà chỉ gián tiếp qua lời kể của anh thanh niên, song họ hiện lên với những nét tuyệt đẹp trong tâm hồn và cách sống. Họ là những người say mê công việc. Vì công

việc làm giàu cho đất nước, họ sẵn sàng hi sinh tuổi thanh xuân, hạnh phúc và tình cảm gia đình. \"Lặng lẽ Sa Pa\" không có những chi tiết đặc biệt, không có những nhân vật và hành động lạ lùng, không có những gay go, nhưng nó lại có sức lôi cuốn người đọc đến lạ thường. Đồng thời thể hiện rõ tài năng xây dựng tình huống truyện và xây dựng nhân vật của nhà văn Nguyễn Thành Long. Truyện ngắn như một lời kể chuyện duyên dáng về những điều vẫn diễn ra bình thường trong cuộc sống bình thường. Anh thanh niên ngời sáng những vẻ đẹp về cách nghĩ, tinh thần, tình cảm cũng như cách sống và làm việc, trở thành một biểu tượng đẹp, minh họa cho bức chân dung của những con người lao động trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới. Đọc “Lặng lẽ Sa Pa” chúng ta thấy cuộc đời thật là đáng sống, con người thật là tốt đẹp. Mỗi người cần phải sống tốt đẹp, bởi sống như thế thật là hạnh phúc. “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải cũng là tác phẩm như thế. Những trải nghiệm trong quá trình đọc bài thơ sẽ thắp lên trong mỗi chúng ta những hoài bão, những lý tưởng, những khát vọng chân chính, cao đẹp, đó là tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống tha thiết, khát vọng cống hiến, khát vọng sống đẹp, góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc, để đất nước ta sẽ mãi tươi đẹp như trong tiết xuân. “Mùa xuân nho nhỏ” là tiếng nói, một thanh âm trong trẻo giữa cuộc đời bao la. Tác phẩm là một điệu thơ ngân vang đất nước vào xuân vui tươi rộn ràng. Có thể nói, Thanh Hải đã góp cho vườn thơ Việt một bài thơ xuân đẹp, đậm đà tình nghĩa. Tình yêu mùa xuân gắn liền với tình yêu đất nước, quê hương được Thanh Hải diễn tả một cách sâu sắc, cảm động. Mỗi một cuộc đời hãy là một mùa xuân. Đất nước ta mãi mãi sẽ là những mùa xuân tươi đẹp. “Mùa xuân nho nhỏ” là những hoài bão, những lí tưởng, những khát vọng chân chính, cao đẹp: “Ta làm con chim hót Ta làm một nhành hoa Ta nhập vào hòa ca Một nốt trầm xao xuyến. Một mùa xuân nho nhỏ Lặng lẽ dâng cho đời Dù là tuổi hai mươi Dù là khi tóc bạc”. Lời thơ tâm tình thiết tha. Mỗi con người hãy trở thành \"một mùa xuân nho nhỏ\" để làm nên mùa xuân bất diệt của đất nước. Ai cũng phải có ích cho đời. Mùa xuân nho nhỏ, là một ẩn dụ đầy sáng tạo khắc sâu ý tưởng. \"Nho nhỏ\" và \"lặng lẽ\" là cách nói khiêm tốn, chân thành. \"Dâng cho đời\" là lẽ sống đẹp, cao cả. Nhà thơ Tố Hữu từng viết: “Nếu là con chim, chiếc lá, Con chim phải hót, chiếc lá phải xanh Lẽ nào vay mà không trả, Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình”. Sống hết mình thủy chung cho đất nước, đem cả cuộc đời mình phục vụ đất nước, từ lúc \"tuổi hai mươi\" trai tráng cho đến khi về già \"tóc bạc\". Thơ hay là ở cảm xúc chân thành. Bài thơ là những hình ảnh ẩn dụ sáng tạo, biện pháp nhân hóa, điệp ngữ và những từ ngữ tượng hình được sử dụng thành công đã tạo nên nét đặc sắc của

bài thơ. Qua đó, ta có thể cảm nhận được cái thi vị trong hồn thơ Thanh Hải. Tình yêu thiên nhiên, sự xúc động trước vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân cách mạng và khát vọng cống hiến cho Tổ quốc đã được Thanh Hải gửi gắm qua bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”. Tuy là tác phẩm được viết không lâu trước khi nhà thơ qua đời nhưng bài thơ vẫn để lại trong lòng bao thế hệ bạn đọc những cảm xúc sâu lắng khó phai mờ. Đọc “Mùa xuân nho nhỏ”, ta như được soi lại bản thân mình. Bài thơ là lời gợi nhắc mọi người một cách sống đẹp, sống cống hiến: góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc, để đất nước ta sẽ mãi tươi đẹp như trong tiết xuân. Đọc bài thơ ta thấy cuộc đời thật là đáng sống, con người thật là tốt đẹp. Thế mới biết, cuộc đời của con người thì có hạn nhưng những giá trị tinh thần mà con người để lại cho đời sau thì luôn có giá trị vĩnh hằng. Thật đúng vậy, trải nghiệm trong quá trình đọc “Chiếc lược ngà” sẽ thắp lên trong mỗi chúng ta những hoài bão, những lý tưởng, những khát vọng chân chính, cao đẹp, đó là những rung động trước tình cha con sâu nặng, thắm thiết trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh. Truyện ngắn là một áng văn bất hủ ca ngợi tình phụ tử giản dị mà thiêng liêng, với những con người giàu tình cảm và đẹp đẽ, như nhân vật bé Thu và ông Sáu. Câu chuyện không chỉ ca ngợi tình cha con sâu nặng thắm thiết, mà còn gợi cho chúng ta những suy ngẫm và thấm thía được tình sự đau thương, mất mát của chiến tranh tàn khốc gây ra. Vỏn vẹn trong vài ngày ông Sáu về thăm nhà, đoạn trích ngắn từ câu chuyện đã lấy đi bao nước mắt người đọc, thấu cảm về tình cha con, tình yêu thương gia đình máu mủ ruột già không gì có thể so sánh được và đặc biệt là tình cảm bền bỉ bé Thu dành cho người cha của mình. Truyện khép lại, tuy không phải là kết thúc có hậu nhưng lại vô cùng hạnh phúc. Tiếng gọi \"ba\" trong tâm khảm được cất lên là lời khẳng định đanh thép về tình cảm cha con ruột thịt cháy bỏng. Đồng thời, qua đây, tác giả lên án chiến tranh tàn khốc, cuộc chiến phi nghĩa đã chia cắt biết bao gia đình, gây ra tình huống éo le, đau đớn cho bao nhiêu đứa trẻ, bao nhiêu người cha, người mẹ. Nguyễn Quang Sáng không chỉ kể đến tình người, tình cảm giàu đẹp giữa hoàn cảnh khó khăn, gian nan nhất của dân tộc mà còn là đạo lý, đạo làm người, đạo làm con cái đối với cha mẹ một tình thương, sự tôn trọng và biết ơn sâu sắc. “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng với những tình huống éo le mà cảm động và diễn biến tâm trạng nhân vật phức tạp được miêu tả hết sức tinh tế đã khiến cho ta phải rung động trước tình cha con giữa ông Sáu và bé Thu. Chiến tranh có thể hủy diệt được cuộc sống, nhưng không thể huỷ diệt tình cảm gia đình thiêng liêng của con người. Chiến tranh đã lùi xa, cuộc sống yên bình, hạnh phúc đã đến với các em thơ trong sự tận hưởng trọn vẹn tình yêu thương của cha mẹ. Chúng ta hiểu và biết ơn bao người đã hi sinh tình cảm riêng, hi sinh cuộc đời của mình cho đất nước như cha con ông Sáu trong “Chiếc lược ngà”. Sức sống của tác phẩm là ở chỗ khơi gợi được ý nghĩa sâu sắc của tình cha con, vẻ đẹp tâm hồn của người lính Cách mạng. Và một lần nữa chúng ta có thể khẳng định rằng “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng chính là một câu chuyện cổ tích giữa đời thường, một truyện cổ tích hiện đại. d. Đánh giá, mở rộng vấn đề bàn luận: Các chức năng văn học có mối quan hệ mật thiết, không thể tách rời, cùng tác động đến người đọc. Chức năng nhận thức luôn là tiền đề của chức năng giáo dục.

Chức năng giáo dục làm sâu sắc thêm chức năng nhận thức. Chức năng thẩm mỹ khiến cho chức năng nhận thức và chức năng giáo dục được phát huy. Các chức năng trên khiến tác động giải trí mà văn học mang lại càng thêm sâu sắc, ý nghĩa. Do đó bên cạnh chức năng nhận thức và chức năng giáo dục, ta cần chú ý đến những chức năng khác được thể hiện trong tác phẩm văn học. Chỉ những tác phẩm thực sự có giá trị mới có thể hướng con người đến những ước mơ, khát vọng chân chính và để có thể thắp sáng lên ước mơ từ những trang viết, tác giả phải là người có trải nghiệm sâu sắc, có nhiều suy tư về cuộc đời, tràn đầy tình yêu thương và niềm tin vào những giá trị tốt đẹp của con người. Để có thể tìm thấy những ước mơ được thắp lên từ trang văn người đọc phải là người có trình độ thưởng thức, có sự am hiểu văn học, có chiều sâu trong suy nghĩ và tình cảm, luôn khát vọng hướng đến điều tốt đẹp trong cuộc sống. 3. Kết bài: “Một giọt mực có thể làm vạn người suy nghĩ, một cuốn sách hay có thể thay đổi số phận biết bao người” (Lord Byron). Sách tốt được coi như là một thứ thuốc bồi dưỡng cực kì công hiệu. Ngược lại, sách xấu như là một thứ thuốc cực kì nguy hiểm. Không còn sách, nền văn minh nhân loại cũng sẽ không còn. Vì thế: “Hãy yêu sách, nó là nguồn kiến thức, chỉ có kiến thức mới là con đường sống” như M. Gorki đã nói: “Sách là một phần quan trọng và tất yếu của cuộc sống”. Không có nó, thì văn minh nhân loại rất khó được lưu giữ trường cửu với thời gian. Một quyển sách hay sẽ thắp lên trong mỗi con người những hoài bão, những lý tưởng, những khát vọng chân chính, cao đẹp. Đó có thể là ước mơ công lí, ước mơ tự do ước, mơ hòa bình, ước mơ cống hiến, ước mơ tình yêu, ước mơ hạnh phúc, ước mơ thành công. Và “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận, “Bếp lửa” của Bằng Việt; “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long, “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải và “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một trong những tác phẩm như thế. Đọc các tác phẩm ấy ta như được “được thắp lên những ước mơ”. ĐỀ 5: (ĐỀ 14 NGỮ VĂN 10) Lord Byron, nhà thơ người Anh, từng nói: “Một giọt mực có thể làm vạn người suy nghĩ, một cuốn sách hay có thể thay đổi số phận biết bao người”. Hãy viết bài văn cảm nhận “một cuốn sách hay” (hoặc một tác phẩm đặc sắc) mà theo em đã khiến “vạn người suy nghĩ” và có khả năng “thay đổi số phận con người”. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI 1. Mở bài: “Việc đọc rất quan trọng. Nếu bạn biết cách đọc, cả thế giới sẽ mở ra cho bạn” (Barack Obama). Sách có lẽ là một trong những phát minh quan trọng và vĩ đại nhất của con người. Mỗi cuốn sách là kết tinh từ tri thức và cuộc sống, đọc sách không chỉ là một sở thích mà còn là con đường ngắn nhất để tiếp cận với nền văn minh của nhân loại. Trong cuộc sống của mình, con người luôn luôn có ý thức học tập, tìm hiểu khám phá thế giới tự nhiên và xã hội. Những kinh nghiệm, suy nghĩ của con người được ghi chép, lưu giữ lại để truyền cho muôn đời con cháu mai sau. Và vì vậy, sách trở thành một con đường quan trọng để con người đến với tri thức. Con người lưu lại vào sách những suy nghĩ tâm tư, tình cảm của mình về những vấn đề trong cuộc sống. Chính vì thế, Lord Byron, nhà thơ người Anh, từng nói: “Một giọt

mực có thể làm vạn người suy nghĩ, một cuốn sách hay có thể thay đổi số phận biết bao người”. 2. Thân bài: a. Giải thích vấn đề: “Một giọt mực có thể làm vạn người suy nghĩ” nghĩa là nội dung tư tưởng mà nhà văn gửi vào trong tác phẩm những vấn đề mà nghệ sĩ đặt ra khiến mọi người phải cảm nhận và suy nghĩ. “Một cuốn sách hay có thể thay đổi số phận biết bao nhiêu người” nghĩa là cuốn sách ấy đem đến cho con người những bài học quí giá về lẽ sống, hình thành những lí tưởng tiến bộ, giúp người đọc có thái độ và quan điểm đúng đắn về cuộc sống. Nhà thơ Byron muốn đề cao vai trò, trách nhiệm của người cầm bút sáng tác phải hướng đến những vấn đề thiết thực của cuộc sống mà bạn đọc quan tâm, khơi gợi sự đồng cảm, đồng sáng tạo của họ, đồng thời tác phẩm phải là ngọn lửa nhỏ đủ thức tỉnh, đủ soi sáng để bạn đọc tự thay đổi chính mình, thay đổi số phận mình theo hướng tích cực hơn. Ý kiến trên thực chất đang tập trung bàn về chức năng nhận thức và chức năng giáo dục của văn học đối với con người. b. Bàn luận – Chứng minh (Chứng minh bằng cơ sở lý luận): Quả thật như vậy, “một cuốn sách hay có thể thay đổi số phận biết bao người”. Văn học đem đến cho con người những bài học quí giá về lẽ sống. Văn học hình thành trong con người một lí tưởng tiến bộ, giúp người đọc có thái độ và quan điểm đúng đắn về cuộc sống. Văn học giúp con người biết yêu ghét đúng đắn, làm cho tâm hồn con người trở nên lành mạnh, trong sáng, cao thượng hơn. Văn học nâng đỡ nhân cách con người phát triển, giúp cho họ biết phân biệt phải trái, đúng sai, có quan hệ tốt đẹp và biết gắn bó cuộc sống của cá nhân mình với cuộc sống của con người. Một cuốn sách hay phải là ngọn lửa nhỏ đủ thức tỉnh, đủ soi sáng để bạn đọc tự thay đổi chính mình, thay đổi số phận mình theo hướng tích cực hơn. Đọc một tác phẩm hay, một tác phẩm có giá trị đã thay đổi số phận biết bao người. Thông điệp tình yêu thương mà nhà văn gửi vào tác phẩm đã gợi cho bạn đọc những tình cảm đẹp, cao thượng, trong sáng. Từ đó mỗi người có cách nhìn, cách nghĩ tốt đẹp hơn với muôn người, muôn loài. Một tác phẩm hay là tác phẩm khiến vạn người trầm ngâm, suy nghĩ, để thức tính, để soi sáng, để tự thay đổi chính mình, thay đổi số phận mình theo hướng tích cực hơn. c. Chứng minh bằng những trải nghiệm khi đọc tác phẩm: Mỗi tác phẩm là một thế giới do nhà văn sáng tạo nên. Khi đọc tác phẩm độc giả được “sống thêm nhiều cuộc đời” mới trong thế giới ấy. Trải nghiệm khi tác phẩm sẽ thắp lên trong mỗi con người những hoài bão, những lí tưởng, những khát vọng chân chính, cao đẹp. Với bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận là tinh thần lao động khẩn trương của những con người không quản ngày đêm để làm ra được thêm nhiều của cải góp phần dựng xây đất nước. Với “Bếp lửa” của Bằng Việt là những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với gia đình, quê hương, đất nước. Với bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy là lối sống ân nghĩa thủy chung, là thái độ trân trọng và biết ơn đối với quá khứ. Với “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long là bức chân dung của những con người lao động âm thầm, lặng lẽ cống hiến hết mình trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới. Với “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải là

tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống tha thiết, khát vọng cống hiến, khát vọng sống đẹp, góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc, để đất nước ta sẽ mãi tươi đẹp như trong tiết xuân. Với \"Chiếc lược ngà\" của Nguyễn Quang Sáng là những rung động trước tình cha con sâu nặng, thắm thiết trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh. “Một giọt mực có thể làm vạn người suy nghĩ, một cuốn sách hay có thể thay đổi số phận biết bao người”. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận như là ngọn lửa nhỏ đủ thức tính, đủ soi sáng để bạn đọc tự thay đổi chính mình, thay đổi số phận mình theo hướng tích cực hơn. Bài thơ là hành trình dài và rộng từ lúc đoàn thuyền ra khơi, đánh cá và trở về. Một điều người đọc dễ nhận thấy nhất đó là những câu hát được cất lên xuyên suốt quá trình ấy. Sau một ngày làm việc vất vả, vũ trụ đã đi vào nghỉ ngơi, thư giãn. Trong hoàn cảnh đó, con người lại bắt tay vào lao động. Họ ra đi với tinh thần đoàn kết, phấn khởi, lạc quan, khí thế khẩn trương trong lao động. Tinh thần đó được thể hiện qua câu hát khoẻ khoắn, lời hát của họ như hoà vào trong gió, thổi căng buồm đẩy con thuyền thẳng tiến ra khơi. Câu hát của những người đi biển, nó không những thể hiện được tâm hồn lạc quan và khí thế khẩn trương mà còn nói lên niềm mong ước của con người. Các hình ảnh của cá được so sánh, ẩn dụ là những nét sáng tạo độc đáo đem đến cho người đọc một cảm nhận thú vị về con người lao động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Hình ảnh con thuyền đánh cá trên biển như một bức tranh sơn mài lộng lẫy: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng Lướt giữa may cao với biển bằng Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăng Ta hát bài ca gọi cá vào Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao Biển cho ta cá như lòng mẹ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”. Giữa biển trơi mênh mông, trời và biển như hoà vào một. Còn đối với người dân chài, tác giả miêu tả họ với tinh thần làm chủ biển khơi. Họ chủ động, sáng tạo trong lao động, bố trí đánh bắt cá như một trận đánh. Với tinh thần lao động hăng hái, lạc quan như thế, thì chắc chắn hiệu quả sẽ cao hơn. Tiếng hát được vang lên trong những giờ lao động, xua đi những khó nhọc và làm khô đi những giọt mồ hôi. Trong hương vị mặn mòi của biển, lời hát như khích lệ, giúp cho thành quả lao động được cao hơn. Hành trình của đoàn thuyền khép lại bằng những câu hát thể hiện rõ một niềm hân hoan, phấn khởi: “Câu hát căng buồm cùng gió khơi Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời Mặt trời đội biển nhô màu mới Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”. Cảnh rạng đông và mặt trời từ từ đổi biển nhô lên thật tuyệt diệu. Và, tuyệt diệu hơn cả đó là đoàn thuyền trở về với cá đầy khoang. Hình ảnh con thuyền trở về được miêu tả khẩn trương như lúc ra đi: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Phải chăng ở đây, những người đi biển đang chạy đua với thời gian để chuẩn bị cho đợt ra biển tiếp theo. Những người lao động không thoả mãn với những kết quả đạt được.

Vì vậy, họ phải chạy đua với thời gian để làm ra được nhiều của cải hơn cho đất nước. Cảnh bình minh thật huy hoàng nhưng người lao động không kịp ngắm nó, hầu như mọi tâm trí của họ chỉ tập trung vào công việc lao động. Đây chính là tinh thần lao động của nhân dân ta trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Với giọng thơ khoẻ mạnh, kết hợp với cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật nhân hoá, hoán dụ tài tình, nhà thơ đã vẽ lên được một bức tranh tuyệt đẹp về cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về lúc bình mình. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã đi qua nhưng mỗi lần đọc lại bài “Đoàn thuyền đánh cá” ta như thấy hiện ra trước mắt tinh thần lao động khẩn trương của những con người không quản ngày đếm để làm ra được thêm nhiều của cải cho đất nước. Cả bài thơ là một bức tranh tuyệt đẹp, đẹp về cảnh thiên nhiên, đẹp về tinh thần lao động. Đó là thành công nhất của nhà thơ Huy Cận trong tác phẩm này. Văn học là cuộc đời, cuộc đời là khởi nguồn cũng là những điểm đi tới của văn học. Yêu cái đẹp của văn chương là chúng ta yêu tấm lòng của nhà văn. Họ là những kĩ sư tâm hồn đốt cháy mình để có được ánh sáng, niềm vui dẫn ta đến bến bờ xứ sở của cái đẹp trong cuộc sống, mở ra cuộc đời mới, thắp sáng những ước mơ trong lòng bạn đọc. “Một cuốn sách hay có thể thay đổi số phận biết bao người”. Đọc “Bếp lửa” sẽ đem đến cho con người những bài học quí giá về lẽ sống, hình thành trong con người một lí tưởng tiến bộ, giúp người đọc có thái độ và quan điểm đúng đắn về cuộc sống, đó là lời nhắc nhở ta về lối sống thủy chung ân nghĩa, lòng biết ơn, đối xử ân nghĩa với gia đình, láng giềng và quê hương, cội nguồn dân tộc: “Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. “Bếp lửa” của Bằng Việt là những cung bậc cảm xúc tha thiết, đằm thắm ân tình của người cháu xa quê nhớ thương những kí ức tuổi thơ và hình ảnh bếp lửa gắn liền với tình bà cháu thiêng liêng sâu nặng. Các câu thơ cứ nhẹ nhàng, chân thật như sương mai buổi sớm lan tỏa vào tâm hồn người đọc một tình cảm yêu thương sâu lắng. Tình cảm bà cháu thiêng liêng ấy cứ như con thuyền nhỏ chở đầy ắp những kỉ niệm trên dòng song tuổi thơ êm đềm mà suốt cuộc đời này người cháu không bao giờ quên được. Từ đó, sức ấm và ánh sáng của tình bà cháu cũng như của bếp lửa lan tỏa toàn bài thơ: “Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen. Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”. Hay là: “Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm, Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi, Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui, Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ Ôi! Kỳ lạ và thiêng bếp lửa”. Bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đầy đủ về vật chất mà còn là người làm cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp thêm huyền ảo như trong truyện. Người bà có trái tim nhân hậu, đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục và thức tỉnh tâm hồn đứa cháu để mai

này cháu khôn lớn thành người. Người bà kì diệu như vậy ấy, rất giản dị nhưng có một sức mạnh kì diệu từ trái tim, một trái tim ấp áp thấm đẫm tình yêu thương. Câu thơ thốt lên như một phát hiện kỳ diệu của bếp lửa tình thân. Bếp lửa gần gũi thân thương trong mỗi gia đình nhưng cũng thật kỳ lạ thiêng liêng. Bếp lửa đã khơi dậy bao kỉ niệm trong tâm hồn đứa cháu về hình ảnh người bà tần tảo lam lũ vất vả. Bằng những lời thơ trong sáng, bình dị và giàu chất trữ tình, âm điệu thơ trữ tình sâu lắng và hình tượng “bếp lửa” mang đầy ý nghĩa và những hình ảnh ẩn dụ sâu sắc, bài thơ mang triết lí sâu xa, thầm kín. Những gì là thân thiết của tuổi thơ mỗi người có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu thương và lòng biết ơn bà là biểu hiện cụ thể của tình yêu thương, sự gắn bó với gia đình, quê hương và đó cũng là sự khởi đầu của tình yêu con người, tình yêu đất nước. “Bếp lửa” là một bài học đạo lí tha thiết. Bài thơ nhắc nhở ta về lối sống thủy chung ân nghĩa, có lòng biết ơn, đối xử ân nghĩa với gia đình, láng giềng và quê hương, cội nguồn dân tộc. “Một cuốn sách hay có thể thay đổi số phận biết bao người”. Đọc bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy sẽ đem đến cho con người những bài học quí giá về lẽ sống, hình thành trong con người một lí tưởng tiến bộ, giúp người đọc có thái độ và quan điểm đúng đắn về cuộc sống, đó là lối sống ân nghĩa thủy chung, là thái độ trân trọng và biết ơn đối với quá khứ. Bài thơ mang dáng dấp một câu chuyện được kể theo trình tự thời gian. Trong đó, \"ánh trăng\" là hình ảnh xuyên suốt và giàu ý nghĩa. Thông qua hình tượng nghệ thuật “ánh trăng” và cảm xúc của nhà thơ, bài thơ đã diễn tả những suy ngẫm sâu sắc về thái độ của con người đối với quá khứ gian lao, là lời tự nhắc nhở của Nguyễn Duy về thái độ, tình cảm của mình đối với quá khứ gian khổ mà hào hùng của đất nước. Do hoàn cảnh lịch sử của dân tộc, con người bước vào cuộc chiến máu lửa với kẻ thù, vầng trăng vẫn luôn kề cận, cùng con người đến mọi nẻo đường. Nhưng khi con người sống trong một môi trường hoàn toàn khác: \"quen ánh điện cửa gương\" thì \"cái vầng trăng tình nghĩa\" năm nào giờ đã bị lãng quên. Người bạn tri kỷ ấy trở thành \"người dưng qua đường\". Con người thì thế nhưng vầng trăng vẫn không bao giờ bỏ rơi con người. Hình ảnh này đã chứng tỏ tính vị tha, chất bền vững trong sâu thẳm nguồn cội tâm hồn người Việt. Trăng xưa vẫn đến với người, vẫn tròn, vẫn đẹp, vẫn thủy chung. Người ngắm trăng rồi bâng khuâng suy ngẫm: \"Ngửa mặt lên nhìn mặt có cái gì rưng rưng như là đồng là bể như là sông là rừng\". Con người đang \"mặt đối mặt\" với trăng, với những giá trị tinh thần mình đã lãng quên, khước từ. Hai \"mặt\" ấy mãi mãi là một, không thể tách rời và cũng chưa từng tách rời. Chỉ có con người cắm cúi vào những vật chất, phồn hoa tầm thường mà quên mất thôi: “Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình... ”.

Mặc cho người vô tình vầng trăng vẫn tròn vành vạnh, độ lượng, bao dung. Hay nói khác đi, những giá trị bền vững, thuần khiết vẫn luôn bao bọc, che chở cho con người một cách vô hình. Khi con người quay về với cội nguồn tinh thần, họ mới nhận ra mình đã bỏ phí quá nhiều điều vô giá. Ánh trăng như người bạn, nhân chứng nghĩa tình đang nghiêm khắc nhắc nhở con người. Cái \"im phăng phắc\" ấy giống như một người dẫn đường nghiêm khắc chỉ vào cái quá khứ nghĩa tình mà con người tự đánh mất, tự bỏ quên... Hai chữ \"giật mình\" ở cuối bài thơ như một sám hối một sự tự cảnh tỉnh chính mình của con người. Tuy nhiên, bài thơ không phải là lời nhắc nhở riêng ai, mà nhắc nhở cả một thế hệ đã từng trải qua những năm tháng gian khổ của chiến tranh, từng gắn bó với thiên nhiên, được nhân dân đùm bọc, che chở, nay được may mắn sống trong hòa bình thì đừng bao giờ quên quá khứ. Hơn thế, bài thơ là hồi chuông cảnh tỉnh với nhiều người, nhiều thời bởi nó đặt ra vấn đề thái độ trân trọng và biết ơn đối với quá khứ, những người đã khuất và đối với cả chính mình. Bài thơ nằm trong mạch cảm xúc uống nước nhớ nguồn. Đây là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam ta tự bao đời. “Ánh trăng\" của Nguyền Duy gây được nhiều xúc động đối với nhiều thế hệ độc giả bởi cách diễn tả bình dị như những lời tâm sự, lời tự thú, lời tự nhắc nhở chân thành. Giọng thơ trầm tĩnh, sâu lắng. Tứ thơ bất ngờ, mới lạ. “Một cuốn sách hay có thể thay đổi số phận biết bao người”. Đọc “Lặng lẽ Sa Pa” sẽ đem đến cho con người những bài học quí giá về lẽ sống, hình thành trong con người một lí tưởng tiến bộ, giúp người đọc có thái độ và quan điểm đúng đắn về cuộc sống, đó là bức chân dung của những con người lao động âm thầm, lặng lẽ cống hiến hết mình trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới. \"Lặng lẽ Sa Pa\" đã khám phá, khẳng định và ngợi ca vẻ đẹp của con người lao động. Điều này đã được thể hiện rõ qua hình tượng anh thanh niên qua những nét đẹp về phẩm chất, tâm hồn và tinh thần trách nhiệm trong công việc cũng như sự cống hiến thầm lặng đầy cao đẹp. Trong bối cảnh bức tranh thiên nhiên thơ mộng, mờ ảo, tác giả đã ngợi ca những con người lao động luôn sống và làm việc với lòng say mê nhiệt thành, đặc biệt là hình tượng nhân vật anh thanh niên với những nét đẹp đáng trân trọng. Anh thanh niên xuất hiện trong trang văn của tác giả qua hoàn cảnh sống và làm việc hết sức khắc nghiệt nhưng anh vẫn vượt lên mọi trở ngại, khó khăn bằng những phẩm chất cao đẹp. Trước hết đó là lòng yêu nghề và tinh thần trách nhiệm với công việc. Dù làm việc trên đỉnh núi cao và không có người thúc giục, giám sát nhưng anh thanh niên vẫn làm việc hết mình và tự giác. Động lực để chàng thanh niên có thế vượt qua mọi khó khăn chính là lòng yêu nghề, thể hiện qua việc anh hăng say nói về công việc một cách say mê và đầy tự hào và coi đó là lẽ sống: \"Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi công việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất\". Quan điểm của anh thanh niên đã thể hiện rõ triết lí: \"Không phải nghề nghiệp làm danh giá cho con người, mà chính con người làm danh giá cho nghề nghiệp\". Sống trên đỉnh núi cao giá lạnh cùng sự cô đơn nhưng anh thanh niên vẫn tạo ra cho mình một nếp sống văn minh và ngăn nắp. Điều này thể hiện qua cách bài trí bình dị nhưng khoa học trong căn nhà nhỏ. Ngoài công việc, anh còn nuôi dưỡng tâm hồn, làm giàu trí tuệ, mở mang hiểu biết bằng thú vui đọc sách, xem sách là phương tiện để tìm hiểu, giao lưu với thế giới bên ngoài. Bên cạnh đó, những thú vui tao nhã như trồng hoa, nuôi gà cũng góp phần làm cho cuộc sống của

anh trở nên phong phú, đa dạng hơn. Không chỉ dừng lại ở đó, ngay từ những trang văn đầu tiên của thiên truyện, anh thanh niên còn xuất hiện với vẻ đẹp của sự chân thành, cởi mở và lòng hiếu khách. Cuộc đối thoại và hành động ân cần của anh đối với bác lái xe cùng niềm vui khi có khách ghé thăm bất ngờ đã cho thấy sự trân trọng giá trị tình cảm và khao khát được gặp gỡ, trò chuyện của nhân vật. Ngoài ra, đây còn là chàng trai khiêm tốn và thành thực. Mặc dù làm việc trong hoàn cảnh khắc nghiệt và đem đến những cống hiến vĩ đại nhưng khi ông họa sĩ ngỏ lời phác họa chân dung, anh nhiệt thành giới thiệu những người khác và cho rằng những đóng góp của mình chỉ là bé nhỏ. Vẻ đẹp con người trong \"Lặng lẽ Sa Pa\" không chỉ thể hiện ở nhân vật anh thanh niên mà còn được thể hiện ở những nhân vật khác. Qua cảm xúc, suy nghĩ và thái độ cảm mến của bác lái xe, cô kĩ sư, ông họa sĩ, hình ảnh anh thanh niên được hiện ra càng rõ nét và đẹp hơn. Chủ đề của tác phẩm mở rộng thêm và gợi ra nhiều ý nghĩa. Bức chân dung nhân vật chính như được soi rọi nhiều luồng ánh sáng khiến nó thêm rạng rỡ và ánh lên nhiều màu sắc. Trong tác phẩm, còn có những nhân vật không xuất hiện trực tiếp mà chỉ xuất hiện gián tiếp qua câu kể của anh thanh niên cũng góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm. Dù không xuất hiện trực tiếp trong truyện mà chỉ gián tiếp qua lời kể của anh thanh niên, song họ hiện lên với những nét tuyệt đẹp trong tâm hồn và cách sống. Họ là những người say mê công việc. Vì công việc làm giàu cho đất nước, họ sẵn sàng hi sinh tuổi thanh xuân, hạnh phúc và tình cảm gia đình. \"Lặng lẽ Sa Pa\" không có những chi tiết đặc biệt, không có những nhân vật và hành động lạ lùng, không có những gay go, nhưng nó lại có sức lôi cuốn người đọc đến lạ thường. Đồng thời thể hiện rõ tài năng xây dựng tình huống truyện và xây dựng nhân vật của nhà văn Nguyễn Thành Long. Truyện ngắn như một lời kể chuyện duyên dáng về những điều vẫn diễn ra bình thường trong cuộc sống bình thường. Anh thanh niên ngời sáng những vẻ đẹp về cách nghĩ, tinh thần, tình cảm cũng như cách sống và làm việc, trở thành một biểu tượng đẹp, minh họa cho bức chân dung của những con người lao động trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới. Đọc “Lặng lẽ Sa Pa” chúng ta thấy cuộc đời thật là đáng sống, con người thật là tốt đẹp. Mỗi người cần phải sống tốt đẹp, bởi sống như thế thật là hạnh phúc. “Một cuốn sách hay có thể thay đổi số phận biết bao người”. Đọc bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải sẽ đem đến cho con người những bài học quí giá về lẽ sống, hình thành trong con người một lí tưởng tiến bộ, giúp người đọc có thái độ và quan điểm đúng đắn về cuộc sống, đó là tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống tha thiết, khát vọng cống hiến, khát vọng sống đẹp, góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc, để đất nước ta sẽ mãi tươi đẹp như trong tiết xuân. “Mùa xuân nho nhỏ” là tiếng nói, một thanh âm trong trẻo giữa cuộc đời bao la. Tác phẩm là một điệu thơ ngân vang đất nước vào xuân vui tươi rộn ràng. Có thể nói, Thanh Hải đã góp cho vườn thơ Việt một bài thơ xuân đẹp, đậm đà tình nghĩa. Tình yêu mùa xuân gắn liền với tình yêu đất nước, quê hương được Thanh Hải diễn tả một cách sâu sắc, cảm động. Mỗi một cuộc đời hãy là một mùa xuân. Đất nước ta mãi mãi sẽ là những mùa xuân tươi đẹp. “Mùa xuân nho nhỏ” là những hoài bão, những lí tưởng, những khát vọng chân chính, cao đẹp: “Ta làm con chim hót Ta làm một nhành hoa Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến. Một mùa xuân nho nhỏ Lặng lẽ dâng cho đời Dù là tuổi hai mươi Dù là khi tóc bạc”. Lời thơ tâm tình thiết tha. Mỗi con người hãy trở thành \"một mùa xuân nho nhỏ\" để làm nên mùa xuân bất diệt của đất nước. Ai cũng phải có ích cho đời. Mùa xuân nho nhỏ, là một ẩn dụ đầy sáng tạo khắc sâu ý tưởng. \"Nho nhỏ\" và \"lặng lẽ\" là cách nói khiêm tốn, chân thành. \"Dâng cho đời\" là lẽ sống đẹp, cao cả. Nhà thơ Tố Hữu từng viết: “Nếu là con chim, chiếc lá, Con chim phải hót, chiếc lá phải xanh Lẽ nào vay mà không trả, Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình”. Sống hết mình thủy chung cho đất nước, đem cả cuộc đời mình phục vụ đất nước, từ lúc \"tuổi hai mươi\" trai tráng cho đến khi về già \"tóc bạc\". Thơ hay là ở cảm xúc chân thành. Bài thơ là những hình ảnh ẩn dụ sáng tạo, biện pháp nhân hóa, điệp ngữ và những từ ngữ tượng hình được sử dụng thành công đã tạo nên nét đặc sắc của bài thơ. Qua đó, ta có thể cảm nhận được cái thi vị trong hồn thơ Thanh Hải. Tình yêu thiên nhiên, sự xúc động trước vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân cách mạng và khát vọng cống hiến cho Tổ quốc đã được Thanh Hải gửi gắm qua bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”. Tuy là tác phẩm được viết không lâu trước khi nhà thơ qua đời nhưng bài thơ vẫn để lại trong lòng bao thế hệ bạn đọc những cảm xúc sâu lắng khó phai mờ. Đọc “Mùa xuân nho nhỏ”, ta như được soi lại bản thân mình. Bài thơ là lời gợi nhắc mọi người một cách sống đẹp, sống cống hiến: góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc, để đất nước ta sẽ mãi tươi đẹp như trong tiết xuân. Đọc bài thơ ta thấy cuộc đời thật là đáng sống, con người thật là tốt đẹp. Thế mới biết, cuộc đời của con người thì có hạn nhưng những giá trị tinh thần mà con người để lại cho đời sau thì luôn có giá trị vĩnh hằng. “Một cuốn sách hay có thể thay đổi số phận biết bao người”. Đọc bài thơ “Chiếc lược ngà” sẽ đem đến cho con người những bài học quí giá về lẽ sống, hình thành trong con người một lí tưởng tiến bộ, giúp người đọc có thái độ và quan điểm đúng đắn về cuộc sống, đó là những rung động trước tình cha con sâu nặng, thắm thiết trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh. Truyện ngắn là một áng văn bất hủ ca ngợi tình phụ tử giản dị mà thiêng liêng, với những con người giàu tình cảm và đẹp đẽ, như nhân vật bé Thu và ông Sáu. Câu chuyện không chỉ ca ngợi tình cha con sâu nặng thắm thiết, mà còn gợi cho chúng ta những suy ngẫm và thấm thía được tình sự đau thương, mất mát của chiến tranh tàn khốc gây ra. Vỏn vẹn trong vài ngày ông Sáu về thăm nhà, đoạn trích ngắn từ câu chuyện đã lấy đi bao nước mắt người đọc, thấu cảm về tình cha con, tình yêu thương gia đình máu mủ ruột già không gì có thể so sánh được và đặc biệt là tình cảm bền bỉ bé Thu dành cho người cha của mình. Truyện khép lại, tuy không phải là kết thúc có hậu nhưng lại vô cùng hạnh phúc. Tiếng gọi \"ba\" trong tâm khảm được cất lên là lời khẳng định đanh thép về tình cảm cha con ruột thịt cháy bỏng. Đồng thời, qua đây, tác giả lên án chiến

tranh tàn khốc, cuộc chiến phi nghĩa đã chia cắt biết bao gia đình, gây ra tình huống éo le, đau đớn cho bao nhiêu đứa trẻ, bao nhiêu người cha, người mẹ. Nguyễn Quang Sáng không chỉ kể đến tình người, tình cảm giàu đẹp giữa hoàn cảnh khó khăn, gian nan nhất của dân tộc mà còn là đạo lý, đạo làm người, đạo làm con cái đối với cha mẹ một tình thương, sự tôn trọng và biết ơn sâu sắc. “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng với những tình huống éo le mà cảm động và diễn biến tâm trạng nhân vật phức tạp được miêu tả hết sức tinh tế đã khiến cho ta phải rung động trước tình cha con giữa ông Sáu và bé Thu. Chiến tranh có thể hủy diệt được cuộc sống, nhưng không thể huỷ diệt tình cảm gia đình thiêng liêng của con người. Chiến tranh đã lùi xa, cuộc sống yên bình, hạnh phúc đã đến với các em thơ trong sự tận hưởng trọn vẹn tình yêu thương của cha mẹ. Chúng ta hiểu và biết ơn bao người đã hi sinh tình cảm riêng, hi sinh cuộc đời của mình cho đất nước như cha con ông Sáu trong “Chiếc lược ngà”. Sức sống của tác phẩm là ở chỗ khơi gợi được ý nghĩa sâu sắc của tình cha con, vẻ đẹp tâm hồn của người lính Cách mạng. Và một lần nữa chúng ta có thể khẳng định rằng “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng chính là một câu chuyện cổ tích giữa đời thường, một truyện cổ tích hiện đại. d. Đánh giá, mở rộng vấn đề bàn luận: Các chức năng văn học có mối quan hệ mật thiết, không thể tách rời, cùng tác động đến người đọc. Chức năng nhận thức luôn là tiền đề của chức năng giáo dục. Chức năng giáo dục làm sâu sắc thêm chức năng nhận thức. Chức năng thẩm mỹ khiến cho chức năng nhận thức và chức năng giáo dục được phát huy. Các chức năng trên khiến tác động giải trí mà văn học mang lại càng thêm sâu sắc, ý nghĩa. Do đó bên cạnh chức năng nhận thức và chức năng giáo dục, ta cần chú ý đến những chức năng khác được thể hiện trong tác phẩm văn học. Và chỉ những tác phẩm thực sự có giá trị mới mở ra hình ảnh cuộc đời, phản ánh hiện thực một cách chân thực, sâu sắc, mới đem đến cho con người những nhận thức đúng đắn về hiện thực, về chính mình và hướng con người đến những giá trị chân, thiện, mỹ trong cuộc sống. Để thấy được cái đẹp, cái hay, cái độc đáo của tác phẩm, người đọc phải là người có trình độ thưởng thức, có sự am hiểu văn học, có chiều sâu trong suy nghĩ và tình cảm, đồng thời người đọc không chỉ tiếp nhận một cách thụ động mà còn phải có sự đồng điệu, đồng sáng tạo cùng tác giả… thì mới có thể nhận thức, khám phá được những giá trị của tác phẩm. Bên cạnh đó, nhà văn, nhà thơ cũng phải thực sự có tài và có tâm mới có thể làm vạn người suy nghĩ, mới có thể thay đổi số phận biết bao người, mới có thể ghi lại những dấu ấn đậm nét về cái đẹp, cái hay, cái độc đáo của tác phẩm. 3. Kết bài: “Một cuốn sách hay cho ta một điều tốt, một người bạn tốt cho ta một điều hay” (Gustavơ Lebon). Cuộc đời mỗi người là cả một hành trình dài. Nhiều khi mệt mỏi, chơi vơi, nản chí, tưởng chừng như không thể vượt qua khó khăn trước mắt. Hãy để những cuốn sách hay giúp bạn lấy lại tinh thần, truyền thêm niềm tin, niềm cảm hứng để tiếp tục bước đi trên con đường của mình. Những cuốn sách thú vị và bổ ích giống như người bạn tốt nhất giúp bạn vượt qua gió mưa và đến được với ánh sáng mặt trời ấm áp. Và “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận, “Bếp lửa” của Bằng Việt; “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long, “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải và “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang

Sáng là một trong những tác phẩm như thế. Đó là những tác phẩm “có thể làm vạn người suy nghĩ, có thể thay đổi số phận biết bao người”. ========================== ĐỀ 6: Bài về vai trò và tác dụng to lớn của sách trong đời sống tinh thần con người, nhà văn M. Gorki có viết: “Sách mở rộng trước mắt tôi những chân trời mới”. Viết một bài văn nghị luận ngắn trình bày suy nghĩ của anh chị về ý kiến trên. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI 1. Mở bài: “Một giọt mực có thể làm vạn người suy nghĩ, một cuốn sách hay có thể thay đổi số phận biết bao người” (Lord Byron). Sách là thầy dạy cuộc sống, là người bạn tri kỉ, là ngọn đèn chỉ đường, sách giúp con người ta hiểu biết, rèn luyện kĩ năng, nhân cách. Sách còn giúp người đọc phát hiện ra chính mình, hiểu rõ mình là ai giữa vũ trụ bao la này, hiểu mỗi người có mối quan hệ như thế nào với người khác, với tất cả mọi người trong cộng đồng. Sách giúp người đọc hiểu được đâu là hạnh phúc, đâu là nỗi khổ của mỗi người và phải làm gì để sống cho đúng và đi tới một cuộc đời thật sự. Sách mở rộng những chân trời ước mơ và khát vọng. Về vấn đề này, Maxim Gorki nói rằng: “Sách mở rộng trước mắt tôi những chân trời mới”. Tìm hiểu ý nghĩa sâu sắc của lời nhận định trên sẽ cho ta những bài học đường đời thú vị. 2. Thân bài: a. Giải thích vấn đề: “Sách mở rộng trước mắt tôi những chân trời mới” nghĩa là những trải nghiệm trong quá trình đọc sách sẽ hình thành nên ở mỗi chúng ta vốn kiến thức sâu rộng về cuộc đời, về con người trên tất cả các bình diện, với tất cả sự phong phú, phức tạp, đa chiều giúp chúng ta có thể nhận thức, khám phá sâu sắc về hiện thực cuộc sống và về chính bản thân mình. Cũng chính từ những trải nghiệm đó mọi người sẽ có một hành trang, vốn sống, tình cảm, ước mơ, lý tưởng quý giá để sống một cuộc đời ý nghĩa, thú vị và có chiều sâu. Ý kiến trên thực chất đang tập trung bàn về chức năng nhận thức của văn học đối với con người. Văn học có thể đem đến cho người đọc một thế giới tri thức mênh mông về đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân loại từ xưa đến nay; về vẻ đẹp thiên nhiên ở nước mình và trên khắp thế giới. Văn học là bộ bách khoa toàn thư về cuộc sống. Mặt khác, văn học còn giúp người đọc hiểu được bản chất của con người nói chung để hiểu chính bản thân mình. b. Bàn luận – Chứng minh (Chứng minh bằng cơ sở lý luận): Quả thật như vậy, “sách mở rộng trước mắt tôi những chân trời mới”, những trải nghiệm trong quá trình đọc sách sẽ hình thành nên ở mỗi chúng ta vốn kiến thức sâu rộng về cuộc đời. Tác phẩm văn học phản ánh chân thực sự sinh động của cuộc sống muôn màu, muôn vẻ đồng thời thể hiện sâu sắc phẩm chất, tâm hồn, suy nghĩ, tình cảm của con người. Đến với tác phẩm văn học người đọc phải tìm thấy bóng hình của cuộc sống, phải tiếp nhận được những tri thức bách khoa về cuộc sống, phải bắt gặp những tâm tình, ước mơ, khát vọng, những băn khoăn, rạo rực, đắm say, là tiếng lòng của những người cầm bút, là tiếng lòng của bao người và cũng là tiếng lòng của chính mình. Hiện thực trong văn học là hiện thực được khúc xạ qua lăng kính chủ quan của tác giả. Phải có sự sáng tạo, chứa đựng quan điểm, tư tưởng, tình cảm, thái độ của tác giả đối với hiện thực cuộc sống, nói cách khác là in đậm dấu ấn cá nhân của tác giả. Nhờ vậy cuộc sống in bóng trong văn học trở nên

sống động, đa chiều, đa diện và gợi mở nhiều điều để người đọc khám phá, trải nghiệm, suy ngẫm, trăn trở. Từ đó tác phẩm mở rộng trước mắt ta những chân trời mới. c. Chứng minh bằng những trải nghiệm khi đọc tác phẩm: Những trải nghiệm trong quá trình đọc sách sẽ hình thành nên ở mỗi chúng ta vốn kiến thức sâu rộng về cuộc đời. Thế nhưng, văn học phản ánh hiện thực nhưng không phải là chụp ảnh sao chép hiện thực một cách hời hợt nông cạn. Qua nhân vật ta thấy cả một tầng lớp, một giai cấp, một thời đại, thậm chí có nhân vật vượt lên khỏi thời đại, có ý nghĩa nhân loại, vĩnh cửu sống mãi với thời gian. Tác phẩm văn học là nơi nhà văn nhắn gửi, thể hiện tình cảm cũng như tư tưởng, quan điểm nhân sinh của mình. Với “Đồng chí” là tình đồng chí đồng đội keo sơn thắm thiết, là lí tưởng chiến đấu cao đẹp của những người lính trong những năm đầu thời kì kháng chiến chống Pháp. Với “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là hình ảnh những người lính tự nguyện dấn thân, vui trong gian khổ, chấp nhận hi sinh vì miền Nam phía trước trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Với bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận là tinh thần lao động khẩn trương của những con người không quản ngày đêm để làm ra được thêm nhiều của cải góp phần dựng xây đất nước. Với “Bếp lửa” của Bằng Việt là những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với gia đình, quê hương, đất nước. Với bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy là lối sống ân nghĩa thủy chung, là thái độ trân trọng và biết ơn đối với quá khứ. Với “Làng” của Kim Lân là hình ảnh người nông dân hay làm hay khoe, gắn bó bền chặt với làng. Tình yêu làng gắn với tinh thần kháng chiến, lòng yêu nước, một lòng theo Cụ Hồ. Với “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long là bức chân dung của những con người lao động âm thầm, lặng lẽ cống hiến hết mình trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới. Với \"Chiếc lược ngà\" của Nguyễn Quang Sáng là những rung động trước tình cha con sâu nặng, thắm thiết trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh. Với “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải là tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống tha thiết, khát vọng cống hiến, khát vọng sống đẹp, góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc, để đất nước ta sẽ mãi tươi đẹp như trong tiết xuân. Với “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là tiếng lòng thiết tha, niềm thành kính và nỗi xúc động của những người con miền Nam khi được ra thăm lăng Bác. Với “Sang thu” của Hữu Thỉnh là một tiếng lòng trang trải, gửi gắm, báo mùa thu của quê hương đất nước; một tiếng thu nồng hậu, thiết tha. Với “Nói với con” của Y Phương là sự tự hào, giữ gìn và phát huy truyền thống của dân tộc, là tình yêu thương quê hương, gia đình mình và phải có ý chí, nghị lực vươn lên trước những chướng ngại của cuộc đời. Còn với “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê là những tâm hồn trong sáng, mơ mộng, tinh thần dũng cảm, cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, hi sinh nhưng rất hồn nhiên, lạc quan của những cô gái thanh niên xung phong. Đó chính là những hình ảnh đẹp đẽ, tiêu biểu cho phẩm chất cao quý của thế hệ trẻ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ vừa qua. Khi đọc bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận ta như được mở ra nhiều cuộc đời. Ta thấy bài thơ như chạm đến thế giới tình cảm, tâm hồn mình, khơi dậy tình yêu thiết tha với con người, với cuộc sống, đánh thức những tình cảm sâu kín cần được sẻ chia, giải bày. Ta thấy cuộc đời mình thay đổi tích cực hơn, trở nên khác biệt,

ý nghĩa hơn. Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đã giấy lên một phong trào “mỗi người làm việc bằng hai” vừa xây dựng miền Bắc, vừa chi viện cho chiến trường tiền tuyến miền nam. Khắp nơi mọi người ra sức lao động không quản ngày đêm, khổ cực. Với tinh thần đó, các nhà văn, nhà thơ đã đi sát với cuộc sống của những người lao động để phản ánh và ca ngợi họ. Bài thơ là hành trình dài và rộng từ lúc đoàn thuyền ra khơi, đánh cá và trở về. Một điều người đọc dễ nhận thấy nhất đó là những câu hát được cất lên xuyên suốt quá trình ấy. Sau một ngày làm việc vất vả, vũ trụ đã đi vào nghỉ ngơi, thư giãn. Trong hoàn cảnh đó, con người lại bắt tay vào lao động. Họ ra đi với tinh thần đoàn kết, phấn khởi, lạc quan, khí thế khẩn trương trong lao động. Tinh thần đó được thể hiện qua câu hát khoẻ khoắn, lời hát của họ như hoà vào trong gió, thổi căng buồm đẩy con thuyền thẳng tiến ra khơi. Câu hát của những người đi biển, nó không những thể hiện được tâm hồn lạc quan và khí thế khẩn trương mà còn nói lên niềm mong ước của con người. Các hình ảnh của cá được so sánh, ẩn dụ là những nét sáng tạo độc đáo đem đến cho người đọc một cảm nhận thú vị về con người lao động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Hình ảnh con thuyền đánh cá trên biển như một bức tranh sơn mài lộng lẫy: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng Lướt giữa may cao với biển bằng Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăng Ta hát bài ca gọi cá vào Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao Biển cho ta cá như lòng mẹ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”. Giữa biển trơi mênh mông, trời và biển như hoà vào một. Còn đối với người dân chài, tác giả miêu tả họ với tinh thần làm chủ biển khơi. Họ chủ động, sáng tạo trong lao động, bố trí đánh bắt cá như một trận đánh. Với tinh thần lao động hăng hái, lạc quan như thế, thì chắc chắn hiệu quả sẽ cao hơn. Tiếng hát được vang lên trong những giờ lao động, xua đi những khó nhọc và làm khô đi những giọt mồ hôi. Trong hương vị mặn mòi của biển, lời hát như khích lệ, giúp cho thành quả lao động được cao hơn. Hành trình của đoàn thuyền khép lại bằng những câu hát thể hiện rõ một niềm hân hoan, phấn khởi: “Câu hát căng buồm cùng gió khơi Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời Mặt trời đội biển nhô màu mới Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”. Cảnh rạng đông và mặt trời từ từ đổi biển nhô lên thật tuyệt diệu. Và, tuyệt diệu hơn cả đó là đoàn thuyền trở về với cá đầy khoang. Hình ảnh con thuyền trở về được miêu tả khẩn trương như lúc ra đi: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Phải chăng ở đây, những người đi biển đang chạy đua với thời gian để chuẩn bị cho đợt ra biển tiếp theo. Những người lao động không thoả mãn với những kết quả đạt được. Vì vậy, họ phải chạy đua với thời gian để làm ra được nhiều của cải hơn cho đất nước. Cảnh bình minh thật huy hoàng nhưng người lao động không kịp ngắm nó, hầu như mọi tâm trí của họ chỉ tập trung vào công việc lao động. Đây chính là tinh thần lao động của nhân dân ta trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Với

giọng thơ khoẻ mạnh, kết hợp với cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật nhân hoá, hoán dụ tài tình, nhà thơ đã vẽ lên được một bức tranh tuyệt đẹp về cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về lúc bình mình. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã đi qua nhưng mỗi lần đọc lại bài “Đoàn thuyền đánh cá” ta như thấy hiện ra trước mắt tinh thần lao động khẩn trương của những con người không quản ngày đếm để làm ra được thêm nhiều của cải cho đất nước. Cả bài thơ là một bức tranh tuyệt đẹp, đẹp về cảnh thiên nhiên, đẹp về tinh thần lao động. Đó là thành công nhất của nhà thơ Huy Cận trong tác phẩm này. Văn học là cuộc đời, cuộc đời là khởi nguồn cũng là những điểm đi tới của văn học. Yêu cái đẹp của văn chương là chúng ta yêu tấm lòng của nhà văn. Họ là những kĩ sư tâm hồn đốt cháy mình để có được ánh sáng, niềm vui dẫn ta đến bến bờ xứ sở của cái đẹp trong cuộc sống, mở ra cuộc đời mới, thắp sáng những ước mơ trong lòng bạn đọc. Và khi đọc “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long ta như được mở ra nhiều cuộc đời mới trong thế giới tác phẩm ấy. Tác phẩm giúp người đọc thay đổi tích cực để cuộc đời của chính mình trở nên khác biệt, ý nghĩa hơn. \"Lặng lẽ Sa Pa\" đã khám phá, khẳng định và ngợi ca vẻ đẹp của con người lao động. Điều này đã được thể hiện rõ qua hình tượng anh thanh niên qua những nét đẹp về phẩm chất, tâm hồn và tinh thần trách nhiệm trong công việc cũng như sự cống hiến thầm lặng đầy cao đẹp. Trong bối cảnh bức tranh thiên nhiên thơ mộng, mờ ảo, tác giả đã ngợi ca những con người lao động luôn sống và làm việc với lòng say mê nhiệt thành, đặc biệt là hình tượng nhân vật anh thanh niên với những nét đẹp đáng trân trọng. Anh thanh niên xuất hiện trong trang văn của tác giả qua hoàn cảnh sống và làm việc hết sức khắc nghiệt nhưng anh vẫn vượt lên mọi trở ngại, khó khăn bằng những phẩm chất cao đẹp. Trước hết đó là lòng yêu nghề và tinh thần trách nhiệm với công việc. Dù làm việc trên đỉnh núi cao và không có người thúc giục, giám sát nhưng anh thanh niên vẫn làm việc hết mình và tự giác. Động lực để chàng thanh niên có thế vượt qua mọi khó khăn chính là lòng yêu nghề, thể hiện qua việc anh hăng say nói về công việc một cách say mê và đầy tự hào và coi đó là lẽ sống: \"Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi công việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất\". Quan điểm của anh thanh niên đã thể hiện rõ triết lí: \"Không phải nghề nghiệp làm danh giá cho con người, mà chính con người làm danh giá cho nghề nghiệp\". Sống trên đỉnh núi cao giá lạnh cùng sự cô đơn nhưng anh thanh niên vẫn tạo ra cho mình một nếp sống văn minh và ngăn nắp. Điều này thể hiện qua cách bài trí bình dị nhưng khoa học trong căn nhà nhỏ. Ngoài công việc, anh còn nuôi dưỡng tâm hồn, làm giàu trí tuệ, mở mang hiểu biết bằng thú vui đọc sách, xem sách là phương tiện để tìm hiểu, giao lưu với thế giới bên ngoài. Bên cạnh đó, những thú vui tao nhã như trồng hoa, nuôi gà cũng góp phần làm cho cuộc sống của anh trở nên phong phú, đa dạng hơn. Không chỉ dừng lại ở đó, ngay từ những trang văn đầu tiên của thiên truyện, anh thanh niên còn xuất hiện với vẻ đẹp của sự chân thành, cởi mở và lòng hiếu khách. Cuộc đối thoại và hành động ân cần của anh đối với bác lái xe cùng niềm vui khi có khách ghé thăm bất ngờ đã cho thấy sự trân trọng giá trị tình cảm và khao khát được gặp gỡ, trò chuyện của nhân vật. Ngoài ra, đây còn là chàng trai khiêm tốn và

thành thực. Mặc dù làm việc trong hoàn cảnh khắc nghiệt và đem đến những cống hiến vĩ đại nhưng khi ông họa sĩ ngỏ lời phác họa chân dung, anh nhiệt thành giới thiệu những người khác và cho rằng những đóng góp của mình chỉ là bé nhỏ. Vẻ đẹp con người trong \"Lặng lẽ Sa Pa\" không chỉ thể hiện ở nhân vật anh thanh niên mà còn được thể hiện ở những nhân vật khác. Qua cảm xúc, suy nghĩ và thái độ cảm mến của bác lái xe, cô kĩ sư, ông họa sĩ, hình ảnh anh thanh niên được hiện ra càng rõ nét và đẹp hơn. Chủ đề của tác phẩm mở rộng thêm và gợi ra nhiều ý nghĩa. Bức chân dung nhân vật chính như được soi rọi nhiều luồng ánh sáng khiến nó thêm rạng rỡ và ánh lên nhiều màu sắc. Trong tác phẩm, còn có những nhân vật không xuất hiện trực tiếp mà chỉ xuất hiện gián tiếp qua câu kể của anh thanh niên cũng góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm. Dù không xuất hiện trực tiếp trong truyện mà chỉ gián tiếp qua lời kể của anh thanh niên, song họ hiện lên với những nét tuyệt đẹp trong tâm hồn và cách sống. Họ là những người say mê công việc. Vì công việc làm giàu cho đất nước, họ sẵn sàng hi sinh tuổi thanh xuân, hạnh phúc và tình cảm gia đình. \"Lặng lẽ Sa Pa\" không có những chi tiết đặc biệt, không có những nhân vật và hành động lạ lùng, không có những gay go, nhưng nó lại có sức lôi cuốn người đọc đến lạ thường. Đồng thời thể hiện rõ tài năng xây dựng tình huống truyện và xây dựng nhân vật của nhà văn Nguyễn Thành Long. Truyện ngắn như một lời kể chuyện duyên dáng về những điều vẫn diễn ra bình thường trong cuộc sống bình thường. Anh thanh niên ngời sáng những vẻ đẹp về cách nghĩ, tinh thần, tình cảm cũng như cách sống và làm việc, trở thành một biểu tượng đẹp, minh họa cho bức chân dung của những con người lao động trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới. Đọc “Lặng lẽ Sa Pa” chúng ta thấy cuộc đời thật là đáng sống, con người thật là tốt đẹp. Mỗi người cần phải sống tốt đẹp, bởi sống như thế thật là hạnh phúc. Với “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng ta cũng lại được mở ra nhiều cuộc đời mới trong thế giới tác phẩm ấy. Truyện ngắn là một áng văn bất hủ ca ngợi tình phụ tử giản dị mà thiêng liêng, với những con người giàu tình cảm và đẹp đẽ, như nhân vật bé Thu và ông Sáu. Câu chuyện không chỉ ca ngợi tình cha con sâu nặng thắm thiết, mà còn gợi cho chúng ta những suy ngẫm và thấm thía được tình sự đau thương, mất mát của chiến tranh tàn khốc gây ra. Vỏn vẹn trong vài ngày ông Sáu về thăm nhà, đoạn trích ngắn từ câu chuyện đã lấy đi bao nước mắt người đọc, thấu cảm về tình cha con, tình yêu thương gia đình máu mủ ruột già không gì có thể so sánh được và đặc biệt là tình cảm bền bỉ bé Thu dành cho người cha của mình. Truyện khép lại, tuy không phải là kết thúc có hậu nhưng lại vô cùng hạnh phúc. Tiếng gọi \"ba\" trong tâm khảm được cất lên là lời khẳng định đanh thép về tình cảm cha con ruột thịt cháy bỏng. Đồng thời, qua đây, tác giả lên án chiến tranh tàn khốc, cuộc chiến phi nghĩa đã chia cắt biết bao gia đình, gây ra tình huống éo le, đau đớn cho bao nhiêu đứa trẻ, bao nhiêu người cha, người mẹ. Nguyễn Quang Sáng không chỉ kể đến tình người, tình cảm giàu đẹp giữa hoàn cảnh khó khăn, gian nan nhất của dân tộc mà còn là đạo lý, đạo làm người, đạo làm con cái đối với cha mẹ một tình thương, sự tôn trọng và biết ơn sâu sắc. “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng với những tình huống éo le mà cảm động và diễn biến tâm trạng nhân vật phức tạp được miêu tả hết sức tinh tế đã khiến cho ta phải rung động trước tình cha con giữa ông Sáu và bé Thu. Chiến tranh có thể hủy diệt được cuộc sống, nhưng không thể huỷ

diệt tình cảm gia đình thiêng liêng của con người. Chiến tranh đã lùi xa, cuộc sống yên bình, hạnh phúc đã đến với các em thơ trong sự tận hưởng trọn vẹn tình yêu thương của cha mẹ. Chúng ta hiểu và biết ơn bao người đã hi sinh tình cảm riêng, hi sinh cuộc đời của mình cho đất nước như cha con ông Sáu trong “Chiếc lược ngà”. Sức sống của tác phẩm là ở chỗ khơi gợi được ý nghĩa sâu sắc của tình cha con, vẻ đẹp tâm hồn của người lính Cách mạng. Và một lần nữa chúng ta có thể khẳng định rằng “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng chính là một câu chuyện cổ tích giữa đời thường, một truyện cổ tích hiện đại. d. Đánh giá, mở rộng vấn đề bàn luận: Các chức năng văn học có mối quan hệ mật thiết, không thể tách rời, cùng tác động đến người đọc. Chức năng nhận thức luôn là tiền đề của chức năng giáo dục. Chức năng giáo dục làm sâu sắc thêm chức năng nhận thức. Chức năng thẩm mỹ khiến cho chức năng nhận thức và chức năng giáo dục được phát huy. Các chức năng trên khiến tác động giải trí mà văn học mang lại càng thêm sâu sắc, ý nghĩa. Do đó bên cạnh chức năng nhận thức và chức năng giáo dục, ta cần chú ý đến những chức năng khác được thể hiện trong tác phẩm văn học. Tác phẩm thực sự có giá trị mới mở ra hình ảnh cuộc đời, phản ánh hiện thực một cách chân thực, sâu sắc, mới đem đến cho con người những nhận thức đúng đắn về hiện thực, về chính mình và hướng con người đến những giá trị chân, thiện, mỹ trong cuộc sống. Để thấy được cái đẹp, cái hay, cái độc đáo của tác phẩm, người đọc phải là người có trình độ thưởng thức, có sự am hiểu văn học, có chiều sâu trong suy nghĩ và tình cảm, đồng thời người đọc không chỉ tiếp nhận một cách thụ động mà còn phải có sự đồng điệu, đồng sáng tạo cùng tác giả… thì mới có thể nhận thức, khám phá được những giá trị của tác phẩm. Bên cạnh đó, nhà văn, nhà thơ cũng phải thực sự có tài và có tâm mới có thể làm vạn người suy nghĩ; mới có thể ghi lại những dấu ấn đậm nét về cái đẹp, cái hay, cái độc đáo của tác phẩm. Bên cạnh đó, việc đọc một tác phẩm sẽ không có hiệu quả cao nếu chúng ta dửng dưng, vô cảm, thiếu sự đồng cảm, thiếu tâm thế nhập cuộc và vốn đối ứng là cảm xúc, tâm hồn, trái tim chân tình của người tiếp nhận trước cuộc đời nhà thơ và cuộc sống muôn người. Tác động của văn chương thường không đến ngay lập tức sau khi đọc mà phải qua quá trình suy ngẫm, chiêm nghiệm. Chỉ khi người đọc có trình độ thưởng thức, có sự am hiểu văn học, tác phẩm mới có thể khiến họ suy nghĩ và làm thay đổi số phận của họ. Hiện nay, vẫn còn những tác phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường, rẻ rúng đã vô tình làm mất đi ý nghĩa cao đẹp của văn chương. Giới trẻ cần chọn lọc tác phẩm văn học chân chính để đồng cảm, chia sẻ và hiểu hơn về giá trị cuộc sống. 3. Kết bài: “Một cuốn sách hay cho ta một điều tốt, một người bạn tốt cho ta một điều hay” (Gustavơ Lebon). Sách tốt được coi như là một thứ thuốc bồi dưỡng cực kì công hiệu. Ngược lại, sách xấu như là một thứ thuốc cực kì nguy hiểm. Không còn sách, nền văn minh nhân loại cũng sẽ không còn. Vì thế: “Hãy yêu sách, nó là nguồn kiến thức, chỉ có kiến thức mới là con đường sống” như M. Gorki đã nói: “Sách là một phần quan trọng và tất yếu của cuộc sống”. Không có nó, thì văn minh nhân loại rất khó được lưu giữ trường cửu với thời gian.

ĐỀ 7: Trong văn bản “Tiếng nói văn nghệ”, Nguyễn Đình thi có viết: “Nghệ thuật không đứng ngoài trỏ vẽ cho ta đường đi, nghệ thuật vào đốt lửa trong lòng chúng ta, khiến chúng ta tự phải bước lên đường ấy”. Từ những trải nghiệm trong quá trình đọc văn và học văn, em hãy viết bài văn làm sáng tỏ ý kiến trên. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI 1. Mở bài: “Cuộc đời mở ra cùng trang sách”. Tác phẩm văn học đem đến cho con người những bài học quý giá về lẽ sống, hình thành trong con người một lý tưởng tiến bộ, giúp người đọc có thái độ và quan điểm đúng đắn về cuộc sống. Những tác phẩm hay như là ngọn lửa đốt lên trong lòng ta những cảm xúc, tình cảm mãnh liệt, nâng đỡ nhân cách con người phát triển, giúp cho họ biết phân biệt phải trái, đúng sai, có quan hệ tốt và biết gắn bó cuộc sống của cá nhân mình với cuộc sống của cộng đồng. Chính vì thế có ý kiến cho rằng: “Nghệ thuật không đứng ngoài trỏ vẽ cho ta đường đi, nghệ thuật vào đốt lửa trong lòng chúng ta, khiến chúng ta tự phải bước lên đường ấy”. 2. Thân bài: a. Giải thích vấn đề: Nghệ thuật là một loại hình độc đáo thể hiện cuộc sống qua các hình tượng, nét vẽ, màu sắc, hình khối, âm thanh... Nghệ thuật được tác giả nói ở đây nên hiểu là nghệ thuật văn chương. “Nghệ thuật không đứng ngoài trỏ vẽ cho ta” nghĩa là các tác phẩm nghệ thuật là con đẻ của người nghệ sĩ, trong đó các nhà văn gửi gắm những suy tư, ước vọng của mình đến với độc giả. Tư tưởng trong tác phẩm nghệ thuật là thứ tư tưởng náu mình. “Nghệ thuật vào đốt lửa trong lòng chúng ta” nghĩa là các tác phẩm văn chương tác động vào nhận thức, tâm tư, tình cảm của người đọc, giúp người đọc hiểu được hiện thực cuộc sống được phản ánh trong tác phẩm và qua sự rung động mà tác phẩm đem lại người tiếp nhận sẽ nhận thức rõ cái đẹp, cái đúng, cái sai trong thực tế cuộc sống, từ đó có những tình cảm yêu cái tốt đẹp, ghét cái xấu xa sai trái... “Khiến chúng ta tự phải bước đi lên đường ấy” nghĩa là từ những tình cảm tốt đẹp mà tác phẩm nghệ thuật đem lại, người đọc sẽ có hành động phù hợp như kế thừa, phát huy, noi theo những điều tốt đẹp, đấu tranh, phê phán cái xấu xa, lỗi thời, hèn kém. Ý kiến trên thực chất đang tập trung bàn về chức năng nhận thức và chức năng giáo dục của văn học đối với con người. b. Bàn luận – Chứng minh (Chứng minh bằng cơ sở lý luận): Quả thật như vậy, “nghệ thuật không đứng ngoài trỏ vẽ cho ta đường đi, nghệ thuật vào đốt lửa trong lòng chúng ta, khiến chúng ta tự phải bước lên đường ấy”. Văn học có thể đem đến cho người đọc một thế giới tri thức mênh mông về đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân loại từ xưa đến nay; về vẻ đẹp thiên nhiên ở nước mình và trên khắp thế giới. Văn học là bộ bách khoa toàn thư về cuộc sống. Mặt khác, văn học còn giúp người đọc hiểu được bản chất của con người nói chung để hiểu chính bản thân mình. Văn học đem đến cho con người những bài học quí giá về lẽ sống. Văn học hình thành trong con người một lí tưởng tiến bộ, giúp người đọc có thái độ và quan điểm đúng đắn về cuộc sống. Văn học giúp con người biết yêu ghét đúng đắn, làm cho tâm hồn con người trở nên lành mạnh, trong sáng, cao thượng hơn. Văn học nâng đỡ nhân cách con người phát triển, giúp cho họ biết

phân biệt phải trái, đúng sai, có quan hệ tốt đẹp và biết gắn bó cuộc sống của cá nhân mình với cuộc sống của cộng đồng. c. Chứng minh bằng những trải nghiệm khi đọc tác phẩm: “Nghệ thuật không đứng ngoài trỏ vẽ cho ta đường đi, nghệ thuật vào đốt lửa trong lòng chúng ta, khiến chúng ta tự phải bước lên đường ấy”. “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long là một trong những tác phẩm như thế. “Lặng lẽ Sa Pa” đem đến cho con người những bài học quý giá về lẽ sống, hình thành trong con người một lý tưởng tiến bộ, giúp người đọc có thái độ và quan điểm đúng đắn về cuộc sống. “Lặng lẽ Sa Pa” còn nâng đỡ nhân cách con người phát triển, giúp cho họ biết phân biệt phải trái, đúng sai, có quan hệ tốt và biết gắn bó cuộc sống của cá nhân mình với cuộc sống của cộng đồng. Con người trong \"Lặng lẽ Sa Pa\" hiện lên rất đẹp. Tiêu biểu trong những con người ấy chính là anh thanh niên. Hoàn cảnh sống khắc nghiệt vô cùng bởi sự heo hút, vắng vẻ; cuộc sống và công việc có phần đơn điệu, giản đơn… là thử thách thực sự đối với tuổi trẻ vốn sung sức và khát khao trời rộng, khát khao hành động. Anh đã vượt qua hoàn cảnh bằng những suy nghĩ rất đẹp, giản dị mà sâu sắc. Vẻ đẹp ở anh thanh niên đó chính là vẻ đẹp trong tính cách. Anh thanh niên là người có lòng yêu nghề, tinh thần trách nhiệm với công việc. Anh hiểu rằng, công việc mình làm tuy nhỏ bé nhưng liên quan đến công việc chung của đất nước, của mọi người. Anh yêu công việc của mình, anh kể về nó một cách say sưa và tự hào. Với anh, công việc là niềm vui, là lẽ sống. Hãy nghe anh tâm sự với ông họa sĩ: “khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi công việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất\". Anh là người biết tạo ra một cuộc sống nề nếp văn minh và thơ mộng. Sống một mình trên đỉnh núi cao, anh đã chủ động sắp xếp cho mình một cuộc sống ngăn nắp. Ngoài công việc, anh còn trồng hoa, nuôi gà, làm cho cuộc sống của mình thêm thi vị, phong phú về vật chất và tinh thần. Không những thế anh còn là người chân thành, cởi mở và lòng hiếu khách. Lòng hiếu khách đến nồng nhiệt và sự quan tâm đến người khác một cách chu đáo. Anh còn là người rất khiêm tốn, thành thực cảm thấy công việc và những lời giới thiệu nhiệt tình của bác lái xe là chưa xứng đáng, đóng góp của mình chỉ là bình thường nhỏ bé. Vẻ đẹp con người trong \"Lặng lẽ Sa Pa\" không chỉ thể hiện ở nhân vật anh thanh niên mà còn được thể hiện ở những nhân vật khác. Qua cảm xúc, suy nghĩ và thái độ cảm mến của bác lái xe, cô kĩ sư, ông họa sĩ, hình ảnh anh thanh niên được hiện ra càng rõ nét và đẹp hơn. Chủ đề của tác phẩm mở rộng thêm và gợi ra nhiều ý nghĩa. Bức chân dung nhân vật chính như được soi rọi nhiều luồng ánh sáng khiến nó thêm rạng rỡ và ánh lên nhiều màu sắc. Trong tác phẩm, còn có những nhân vật không xuất hiện trực tiếp mà chỉ xuất hiện gián tiếp qua câu kể của anh thanh niên cũng góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm. Dù không xuất hiện trực tiếp trong truyện mà chỉ gián tiếp qua lời kể của anh thanh niên, song họ hiện lên với những nét tuyệt đẹp trong tâm hồn và cách sống. Họ là những người say mê công việc. Vì công việc làm giàu cho đất nước, họ sẵn sàng hi sinh tuổi thanh xuân, hạnh phúc và tình cảm gia đình. \"Lặng lẽ Sa Pa\" không có những chi tiết đặc biệt, không có những nhân vật và hành động lạ lùng, không có những gay go, nhưng nó lại có sức lôi cuốn người đọc đến lạ thường. Truyện ngắn như một lời kể chuyện duyên dáng về những điều vẫn diễn ra bình thường trong cuộc

sống bình thường. Đọc “Lặng lẽ Sa Pa”, ta thấy đó chính là một tấm gương đặc biệt để giúp con người soi lại bản thân mình. Chúng ta thấy cuộc đời thật là đáng sống, con người thật là tốt đẹp. Mỗi người cần phải sống tốt đẹp, bởi sống như thế thật là hạnh phúc. Đọc \"Lặng lẽ Sa Pa\", điệp khúc ấy vang mãi trong hồn ta. Đọc bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt ta thấy như có ngọn lửa đốt lên trong lòng chúng ta những tình cảm, cảm xúc mãnh liệt, khiến chúng ta tự cảm nhận được những bài học quý giá về lẽ sống đẹp, nhắc nhở ta về lối sống thủy chung ân nghĩa, lòng biết ơn, đối xử ân nghĩa với gia đình, láng giềng và quê hương, cội nguồn dân tộc: “Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. “Bếp lửa” của Bằng Việt là những cung bậc cảm xúc tha thiết, đằm thắm ân tình của người cháu xa quê nhớ thương những kí ức tuổi thơ và hình ảnh bếp lửa gắn liền với tình bà cháu thiêng liêng sâu nặng. Các câu thơ cứ nhẹ nhàng, chân thật như sương mai buổi sớm lan tỏa vào tâm hồn người đọc một tình cảm yêu thương sâu lắng. Tình cảm bà cháu thiêng liêng ấy cứ như con thuyền nhỏ chở đầy ắp những kỉ niệm trên dòng song tuổi thơ êm đềm mà suốt cuộc đời này người cháu không bao giờ quên được. Từ đó, sức ấm và ánh sáng của tình bà cháu cũng như của bếp lửa lan tỏa toàn bài thơ: “Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen. Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”. Hay là: “Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm, Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi, Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui, Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ Ôi! Kỳ lạ và thiêng bếp lửa”. Bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đầy đủ về vật chất mà còn là người làm cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp thêm huyền ảo như trong truyện. Người bà có trái tim nhân hậu, đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục và thức tỉnh tâm hồn đứa cháu để mai này cháu khôn lớn thành người. Người bà kì diệu như vậy ấy, rất giản dị nhưng có một sức mạnh kì diệu từ trái tim, một trái tim ấp áp thấm đẫm tình yêu thương. Câu thơ thốt lên như một phát hiện kỳ diệu của bếp lửa tình thân. Bếp lửa gần gũi thân thương trong mỗi gia đình nhưng cũng thật kỳ lạ thiêng liêng. Bếp lửa đã khơi dậy bao kỉ niệm trong tâm hồn đứa cháu về hình ảnh người bà tần tảo lam lũ vất vả. Bằng những lời thơ trong sáng, bình dị và giàu chất trữ tình, âm điệu thơ trữ tình sâu lắng và hình tượng “bếp lửa” mang đầy ý nghĩa và những hình ảnh ẩn dụ sâu sắc, bài thơ mang triết lí sâu xa, thầm kín. Những gì là thân thiết của tuổi thơ mỗi người có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu thương và lòng biết ơn bà là biểu hiện cụ thể của tình yêu thương, sự gắn bó với gia đình, quê hương và đó cũng là sự khởi đầu của tình yêu con người, tình yêu đất nước. “Bếp lửa” là một bài học đạo lí tha thiết. Bài thơ nhắc nhở ta về lối sống thủy chung ân

nghĩa, có lòng biết ơn, đối xử ân nghĩa với gia đình, láng giềng và quê hương, cội nguồn dân tộc. “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải cũng là tác phẩm như thế. Bài thơ là một thanh âm trong trẻo giữa cuộc đời bao la, là một điệu thơ ngân vang đất nước vào xuân vui tươi rộn ràng. Có thể nói, Thanh Hải đã góp cho vườn thơ Việt một bài thơ xuân đẹp, đậm đà tình nghĩa. Tình yêu mùa xuân gắn liền với tình yêu đất nước, quê hương được nhà thơ diễn tả một cách sâu sắc, cảm động. Mỗi một cuộc đời hãy là một mùa xuân. Đất nước ta mãi mãi sẽ là những mùa xuân tươi đẹp. “Mùa xuân nho nhỏ” là những hoài bão, những lí tưởng, những khát vọng chân chính, cao đẹp: “Ta làm con chim hót Ta làm một nhành hoa Ta nhập vào hòa ca Một nốt trầm xao xuyến. Một mùa xuân nho nhỏ Lặng lẽ dâng cho đời Dù là tuổi hai mươi Dù là khi tóc bạc”. Lời thơ tâm tình thiết tha. Mỗi con người hãy trở thành \"một mùa xuân nho nhỏ\" để làm nên mùa xuân bất diệt của đất nước. Ai cũng phải có ích cho đời. Mùa xuân nho nhỏ, là một ẩn dụ đầy sáng tạo khắc sâu ý tưởng. \"Nho nhỏ\" và \"lặng lẽ\" là cách nói khiêm tốn, chân thành. \"Dâng cho đời\" là lẽ sống đẹp, cao cả. Nhà thơ Tố Hữu từng viết: “Nếu là con chim, chiếc lá, Con chim phải hót, chiếc lá phải xanh Lẽ nào vay mà không trả, Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình”. Sống hết mình thủy chung cho đất nước, đem cả cuộc đời mình phục vụ đất nước, từ lúc \"tuổi hai mươi\" trai tráng cho đến khi về già \"tóc bạc\". Thơ hay là ở cảm xúc chân thành. Bài thơ là những hình ảnh ẩn dụ sáng tạo, biện pháp nhân hóa, điệp ngữ và những từ ngữ tượng hình được sử dụng thành công đã tạo nên nét đặc sắc của bài thơ. Qua đó, ta có thể cảm nhận được cái thi vị trong hồn thơ Thanh Hải. Tình yêu thiên nhiên, sự xúc động trước vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân cách mạng và khát vọng cống hiến cho Tổ quốc đã được Thanh Hải gửi gắm qua bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”. Tuy là tác phẩm được viết không lâu trước khi nhà thơ qua đời nhưng bài thơ vẫn để lại trong lòng bao thế hệ bạn đọc những cảm xúc sâu lắng khó phai mờ. Đọc “Mùa xuân nho nhỏ”, ta như được soi lại bản thân mình. Bài thơ là lời gợi nhắc mọi người một cách sống đẹp, sống cống hiến: góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc, để đất nước ta sẽ mãi tươi đẹp như trong tiết xuân. Đọc bài thơ ta thấy cuộc đời thật là đáng sống, con người thật là tốt đẹp. Thế mới biết, cuộc đời của con người thì có hạn nhưng những giá trị tinh thần mà con người để lại cho đời sau thì luôn có giá trị vĩnh hằng. d. Đánh giá, mở rộng vấn đề bàn luận:

Các chức năng văn học có mối quan hệ mật thiết, không tách rời, cùng tác động đến người đọc. Chức năng nhận thức luôn là tiền đề của chức năng giáo dục. Chức năng giáo dục làm sâu sắc thêm chức năng nhận thức. Chức năng thẩm mỹ khiến cho chức năng nhận thức và chức năng giáo dục được phát huy. Các chức năng trên khiến tác động giải trí mà văn học mang lại càng thêm sâu sắc, ý nghĩa. Do đó bên cạnh chức năng nhận thức và chức năng giáo dục, ta cần chú ý đến những chức năng khác được thể hiện trong tác phẩm văn học gây ấn tượng với bản thân. Và chỉ những tác phẩm thực sự có giá trị mới mở ra hình ảnh cuộc đời, phản ánh hiện thực một cách chân thực, sâu sắc, mới đem đến cho con người những nhận thức đúng đắn về hiện thực, về chính mình và hướng con người đến những giá trị chân, thiện, mỹ trong cuộc sống. Để thấy được cái đẹp, cái hay, cái độc đáo của tác phẩm, người đọc phải là người có trình độ thưởng thức, có sự am hiểu văn học, có chiều sâu trong suy nghĩ và tình cảm, đồng thời người đọc không chỉ tiếp nhận một cách thụ động mà còn phải có sự đồng điệu, đồng sáng tạo cùng tác giả… thì mới có thể nhận thức, khám phá được những giá trị của tác phẩm. Bên cạnh đó, nhà văn, nhà thơ cũng phải thực sự có tài và có tâm mới có thể làm vạn người suy nghĩ; mới có thể ghi lại những dấu ấn đậm nét về cái đẹp, cái hay, cái độc đáo của tác phẩm. 3. Kết bài: “Đọc một tác phẩm – sống thêm nhiều cuộc đời”. Tác phẩm văn học đem đến cho con người những bài học quý giá về lẽ sống, hình thành trong con người một lý tưởng tiến bộ, giúp người đọc có thái độ và quan điểm đúng đắn về cuộc sống. Tác phẩm văn học giúp con người biết yêu ghét đúng đắn, làm cho tâm hồn con người trở nên lành mạnh, trong sáng, cao thượng hơn. Những tác phẩm hay nâng đỡ nhân cách con người phát triển, giúp cho họ biết phân biệt phải trái, đúng sai, có quan hệ tốt và biết gắn bó cuộc sống của cá nhân mình với cuộc sống của con người. Và “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long, “Bếp lửa: của Bằng Việt và “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải là một trong những tác phẩm như thế. Đọc các tác phẩm ấy ta như được soi lại bản thân mình. Ta bắt gặp những con người dù điều kiện sống và làm việc vô cùng khó khăn, khắc nghiệt nhưng họ vẫn nhiệt tình, hăng say, mang hết sức lực của mình để cống hiến cho Tổ quốc. Đó còn là lời nhắc nhở ta về lối sống thủy chung ân nghĩa, có lòng biết ơn, đối xử ân nghĩa với gia đình, láng giềng và quê hương, cội nguồn dân tộc. =========================


Like this book? You can publish your book online for free in a few minutes!
Create your own flipbook