Important Announcement
PubHTML5 Scheduled Server Maintenance on (GMT) Sunday, June 26th, 2:00 am - 8:00 am.
PubHTML5 site will be inoperative during the times indicated!

Home Explore Hướng dẫn an chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp

Hướng dẫn an chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp

Published by Chiec La Cuon Bay, 2022-03-08 05:37:09

Description: Hướng dẫn an chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp

Search

Read the Text Version

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 89 luận rằng: ‘Chúng ta cũng đã chịu đựng như vậy trong thời gian dài rất dài.’ … Khi thấy có kẻ an lạc và may mắn, các ông nên kết luận rằng: ‘Chúng ta cũng đã chịu đựng như vậy trong thời gian dài rất dài.’ … SN.15.11-2, Duggataṃ và Sukhitaṃ Suttas. Gặp lại thân nhân Này các tỳ-kheo, sự luân hồi từ đời này sang đời khác chẳng thấy khởi đầu. … Chẳng dễ gì tìm được một chúng sanh trong quá khứ chưa từng làm mẹ ngươi, … cha ngươi … huynh đệ ngươi … tỷ muội ngươi … con trai ngươi … con gái ngươi trong quá khứ. … Đã lâu rồi các ngươi chịu đựng đau khổ, chịu đựng thống khổ, chịu đựng tai họa, và mộ phần ngày càng lớn lên – đủ để nhàm chán với tất cả pháp hữu vi, đủ để từ bỏ, đủ để giải thoát. SN.15.14-9, Six suttas on relatives. Tin vào tái sanh và nghiệp là lựa chọn tốt nhất Này các Kālāma, khi vị thánh đệ tử ấy, với tâm không oán, không sân, không uế nhiễm, thanh tịnh như vậy, vị ấy đạt được bốn sự an ổn ngay trong hiện tại. 1/ … ‘Nếu có đời sau, có kết quả và dị thục các nghiệp thiện ác, thì sau khi thân hoại mạng chung, ta sẽ sanh lên cõi thiện, cõi trời’. 2/ … ‘Nếu không có đời sau, không có kết quả và dị thục các nghiệp thiện ác, thì ở đây, trong hiện tại, ta tự sống được an lạc, với tâm không oán, không sân’. 3/ … ‘Nếu có điều xấu xảy ra cho kẻ làm ác, thì vì ta không có tâm ác đối với ai cả, làm sao khổ đau tổn hại ta…?’ 4/ … ‘Nếu không có điều xấu xảy ra cho kẻ làm ác, thì ngay tại đây ta thấy mình được thanh tịnh ở cả hai mặt (không làm ác cũng không chịu quả ác)’. AN.3.65, Kesaputta (hay Kālāma) Sutta.

90 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp THIỆN VÀ BẤT THIỆN Thiện và bất thiện hành Thiện và bất thiện hành cùng căn bản của chúng Này chư hiền, bất thiện là gì, và căn bản bất thiện là gì? Sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói hai lưỡi, ác khẩu, nói phù phiếm, tham dục, ác tâm, tà kiến là bất thiện. Căn bản bất thiện là gì? Tham, sân, si là căn bản bất thiện. Thiện là gì? Từ bỏ sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói hai lưỡi, ác khẩu, nói phù phiếm, tham dục, ác tâm; có chánh tri kiến là thiện. Căn bản thiện là gì? Vô tham, vô sân, vô si là căn bản thiện. MN.9, Sammādiṭṭhi Sutta. Tránh các hành động đem lại tổn hại thật sự cho người khác và chính mình - Này Rāhula, mục đích của cái gương là gì? - Bạch Thế Tôn, mục đích là để phản tỉnh. - Cũng vậy, này Rāhula, sau khi phản tỉnh nhiều lần, hãy hành thân nghiệp… ngữ nghiệp… ý nghiệp. Này Rāhula, khi ông muốn làm một thân nghiệp gì, hãy phản tỉnh thân nghiệp ấy như sau: “Thân nghiệp này của ta có thể đưa đến tự hại, … hại người, … hại cả hai chăng? Thân nghiệp này là bất thiện chăng? Nó đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ chăng?” Nếu trong khi phản tỉnh, ông biết… thì ông nhất định chớ có làm … Này Rāhula, nếu sau khi phản tỉnh, ông biết, “thân nghiệp này ta muốn làm không có thể đưa đến tự hại, không có thể đưa đến hại người, không có thể đưa đến hại cả hai, nó là thiện, đưa đến an lạc, đem đến quả báo an lạc”, thì ông nên làm … Ngay cả khi ông đang làm một thân nghiệp, ông cần phải phản tỉnh thân nghiệp ấy như sau: “Thân nghiệp này ta đang làm có thể đưa đến tự hại… đau khổ chăng?” Này Rāhula, nếu có, ông hãy từ bỏ … Nhưng nếu ông biết như sau, “thân nghiệp này ta đang làm không đưa đến tự hại…”, ông cần phải tiếp tục làm …

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 91 Cũng vậy, sau khi ông làm xong một thân nghiệp, ông cần phải phản tỉnh thân nghiệp ấy như sau. “Thân nghiệp này ta đã làm đưa đến tự hại… đau khổ chăng?” Nếu trong khi phản tỉnh, ông biết là có, thời ông cần phải thưa lên, cần phải tỏ lộ, cần phải trình bày một thân nghiệp như vậy trước các vị Ðạo Sư, hay trước các vị đồng Phạm hạnh có trí. Sau khi đã thưa lên, tỏ lộ, trình bày, cần phải phòng hộ trong tương lai. Này Rāhula, nếu trong khi phản tỉnh, ông biết “thân nghiệp này ta đã làm không đưa đến tự hại…”, ông phải an trú trong niềm hoan hỷ tự mình tiếp tục tu học ngày đêm trong các thiện pháp.’ [… Tương tự lặp lại cho ngữ và ý nghiệp ...] … MN.61, Ambalaṭṭhikā-rāhulovāda Sutta. Quy tắc vàng về đạo đức trong Phật pháp Này các gia chủ, thế nào là cách sống chân chánh đưa đến lợi ích cho bản thân? Ở đây, này các gia chủ, vị thánh đệ tử suy nghĩ như sau, ‘Ta muốn sống, không muốn chết, muốn lạc, ghét khổ. Nếu có ai đến đoạt mạng sống của ta… như vậy là một việc không khả ái, không khả ý đối với ta. Và nếu ta đoạt mạng sống một người muốn sống… như vậy là một việc không khả ái, không khả ý đối với người ấy. Những gì không khả ái, không khả ý cho ta, thì thứ ấy cũng không khả ái, không khả ý cho người khác. Sao ta lại bắt người khác chịu những gì không khả ái, không khả ý cho ta?’ Vị ấy, do suy tư như vậy, tự từ bỏ sát sanh, khuyến khích người khác từ bỏ sát sanh, nói lời tán thán từ bỏ sát sanh. Như vậy, về thân hành, vị ấy được hoàn toàn thanh tịnh theo ba khía cạnh. Lại nữa, này các gia chủ, vị thánh đệ tử suy nghĩ như sau, ‘Nếu có ai lấy của không cho của ta, gọi là ăn trộm, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta … Nếu ai có tà dâm với những người vợ70 của ta … Nếu có ai làm tổn hại lợi ích ta bằng lời nói láo … Nếu có ai phá vỡ tình bạn bè ta bằng lời nói chia rẽ … Nếu có ai đối xử với ta bằng thô ác ngữ … Nếu có ai đối xử với ta với lời phù phiếm ….’ Nên vị ấy tự mình từ bỏ lời nói phù phiếm, khuyến khích người khác từ bỏ nói lời phù phiếm, tán thán từ bỏ nói lời phù phiếm. Như vậy, về khẩu hành, vị ấy được hoàn toàn thanh tịnh theo ba khía cạnh. SN.55.7, Veḷudvāreyya Sutta. 70 Tục đa thê thời xưa ở Ấn.

92 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp Ai cũng sợ bạo lực; cuộc sống ai cũng quý. So kẻ khác với mình, đừng giết hay bảo giết. Dhp.130. Thập thiện nghiệp Thập thiện nghiệp bao gồm việc đoạn trừ mười bất thiện nghiệp và phụng hành các thiện pháp đối trị ác nghiệp. Thiện nghiệp đầu tiên về thân là đoạn trừ sát sanh và ái hộ sanh mạng. Thiện nghiệp thứ hai về thân là đoạn bất dữ thủ và khảng khái bố thí. Thiện nghiệp thứ ba về thân là đoạn trừ tà dâm và thủ trì giới luật. Thiện nghiệp đầu tiên về ngữ là đoạn trừ vọng ngữ và thuyết đế thật ngữ. Thiện nghiệp thứ hai về ngữ là đoạn ly gián ngữ và hóa giải oán hận. Thiện nghiệp thứ ba về ngữ là đoạn trừ ác ngữ và thuyết duyệt nhĩ ngữ. Thiện nghiệp thứ tư về ngữ là cấm chỉ ỷ ngữ và tinh tấn niệm tụng. Thiện nghiệp đầu tiên về ý là đoạn trừ tham tâm và mãn hoài xả tâm. Thiện nghiệp thứ hai về ý là đoạn tuyệt hại tâm và tu nhiêu ích tâm. Thiện nghiệp thứ ba về ý là khí ly tà kiến và y chỉ chánh kiến. ‘The Words of My Perfect Teacher’, pp.186. Chi tiết 10 bất thiện hạnh Thân ác hành Và này Cunda, ba thân bất tịnh hạnh là thế nào? Này Cunda, ở đây, có người sát sanh, hung bạo, tay lấm máu, tâm chuyên sát hại, đả thương, tâm không từ bi đối với các loại hữu tình. (Người này) lấy của không cho, bất cứ tài vật gì của người khác, hoặc tại thôn làng, hoặc tại rừng núi, không cho người ấy ; người ấy lấy trộm tài vật ấy. Người ấy sống tà hạnh đối với các dục, tà hạnh với các hạng nữ nhân có mẹ che chở, có cha che chở, có mẹ cha che chở, có anh che chở, có chị che chở, có bà con che chở, có pháp che chở, đã

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 93 có chồng, được hình phạt gậy gộc bảo vệ, cho đến những nữ nhân được trang sức bằng vòng hoa.71 Như vậy, này Cunda, đó là ba thân bất tịnh hạnh. AN.10.176, Cunda. Khẩu ác hành Và này Cunda, bốn khẩu bất tịnh hạnh là thế nào? Này Cunda, ở đây, có người nói láo, đến chỗ tập hội, hay đến chỗ chúng tôi, hay đến giữa các thân tộc, hay đến giữa các tổ hợp, hay đến giữa các vương tộc, khi bị dẫn xuất làm chứng và được hỏi : \"Này người kia, hãy nói những gì ông biết\". Dầu cho vị ấy không biết, vị ấy nói : \"Tôi biết\". Dầu cho vị ấy biết, vị ấy nói : \"Tôi không biết\". Hay dầu cho vị ấy không thấy, vị ấy nói : \"Tôi thấy\". Hay dầu cho vị ấy thấy, vị ấy nói : \"Tôi không thấy\". Như vậy lời nói của người ấy trở thành cố ý nói láo, hoặc nguyên nhân vì mình, hoặc nguyên nhân vì người, hoặc nguyên nhân vì một vài quyền lợi gì. Và người ấy là người nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, đến chỗ kia nói, để sanh chia rẽ ở những người này ; nghe điều gì ở chỗ kia, đi nói với những người này để sanh chia rẽ, ở những người kia. Như vậy, vị ấy ly gián những kẻ hòa hợp, hay xúi giục những kẻ ly gián, ưa thích chia rẽ, vui thích chia rẽ, thích thú chia rẽ, nói những lời đưa đến chia rẽ. Và người ấy là người nói lời thô ác, bất cứ lời gì thô bạo, thô tục, khiến người đau khổ, khiến người tức giận, liên hệ đến phẫn nộ, không đưa đến Thiền định. Người ấy nói những lời như vậy. Và người ấy nói những lời phù phiếm, nói phi thời, nói những lời phi chân, nói những lời không lợi ích, nói những lời phi pháp, nói những lời phi luật, nói những lời không đáng gìn giữ. Vì nói phi thời, nên lời nói không có thuận lý, không có mạch lạc, hệ thống, không có lợi ích. Như vậy, này Cunda, đó là bốn khẩu bất tịnh hạnh. AN.10.176, Cunda. Ý ác hành Và này Cunda, ba ý bất tịnh hạnh là thế nào? 71 Đám cưới.

94 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp Này Cunda, ở đây, có người có tham ái, tham lam tài vật kẻ khác, nghĩ rằng : \"Ôi, mong rằng mọi tài vật của người khác trở thành của mình ! \". Có người có sân tâm, khởi lên hại ý, hại niệm như sau : \"Mong rằng những loài hữu tình này bị giết, hay bị tàn sát, hay bị tiêu diệt, hay bị tai hại, hay mong chúng không còn tồn tại ! \". Lại có người có tà kiến, có tưởng điên đảo, như : \"không có bố thí, không có cúng dường, không có tế lễ, các hành vi thiện ác không có kết quả dị thục, không có đời này, không có đời sau, không có mẹ, không có cha, không có các loại hóa sanh, trong đời không có các sa-môn, bà-la-môn chân chánh hành trì, chân chánh thành tựu, sau khi tự tri, tự chứng, lại tuyên bố cho đời này và cho đời sau\". Như vậy, này Cunda, đó là ba ý bất tịnh hạnh. AN.10.176, Cunda. Chi tiết 10 thiện hạnh Thân thiện hành Này Cunda, ba thân tịnh hạnh là thế nào? Ở đây, này Cunda, có người đoạn tận sát sanh, từ bỏ sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh, và loài hữu tình. Đoạn tận lấy của không cho, từ bỏ lấy của không cho; bất cứ vật gì của người khác, hoặc tại thôn làng, hoặc tại rừng núi, không có người ấy, người ấy không lấy với ý niệm trộm cắp. Đoạn tận tà hạnh trong các dục, từ bỏ tà hạnh trong các dục, với hạng nữ nhân có mẹ che chở, có cha che chở, có anh che chở, có chị che chở, có bà con che chở, có pháp che chở, đã có chồng, được hình phạt gậy gộc bảo vệ, cho đến những nữ nhân được trang sức bằng vòng hoa (đám cưới). Như vậy, này Cunda, đó là ba thân tịnh hạnh. AN.10.176 - Cunda Khẩu thiện hành Và này Cunda, bốn khẩu tịnh hạnh là thế nào?

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 95 Ở đây, này Cunda có người đoạn tận nói láo, từ bỏ nói láo, đến chỗ tập hội hay đến chỗ chúng tội, hay đến giữa các thân tộc, hay đến giữa các tổ hợp, hay đến giữa các vương tộc, khi bị dẫn xuất làm chứng và được hỏi : \"Này người kia, hãy nói những gì người biết\". Nếu không biết, người ấy nói : \"Tôi không biết\". Nếu biết, người ấy nói : \"Tôi biết\". Hay nếu không thấy, người ấy nói : \"Tôi không thấy\". Nếu thấy, người ấy nói : \"Tôi thấy\". Như vậy lời nói của người ấy không trở thành cố ý vọng ngữ, hoặc nguyên nhân vì mình, hoặc nguyên nhân vì người, hoặc nguyên nhân vì một vài quyền lợi gì. Đoạn tận nói hai lưỡi, từ bỏ nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, không đi đến chỗ kia nói, để sanh chia rẽ ở những người này ; nghe điều gì ở chỗ kia, không đi nói với những người này, để sanh chia rẽ ở những người kia. Như vậy người ấy sống hòa hợp những kẻ ly gián, tăng trưởng những kẻ hòa hiệp, thích thú hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp. Đoạn tận lời nói độc ác, từ bỏ lời nói độc ác, những lời nói nhu hòa, êm tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vui ý nhiều người, người ấy nói những lời như vậy. Đoạn tận lời nói phù phiếm, nói đúng thời, nói chân thật, nói có ý nghĩa, nói Pháp, nói Luật, nói những đáng được gìn giữ. Vì nói hợp thời, nên lời nói thuận lý, có mạch lạc, hệ thống, lợi ích. Như vậy, này Cunda, đó là bốn khẩu tịnh hạnh. AN. 10.176 - Cunda Ý thiện hành Và này Cunda, ba ý tịnh hạnh là thế nào? Ở đây, này Cunda, có người không tham ái, không tham lam tài vật kẻ khác, không nghĩ rằng : \"Ôi ! Mong rằng mọi tài vật của người khác trở thành của mình\". Không có sân tâm, khởi lên hại ý, hại niệm, nhưng nghĩ rằng : \"Mong rằng những loài hữu tình này sống lo tự ngã, không thù hận, không nhiễm loạn, được an lạc\". Có chánh kiến, không có tư tưởng điên đảo : \"Có bố thí, có cúng thí, có tế lễ, các hành vi thiện ác, có kết quả dị thục, có đời này, có đời sau, có mẹ, có cha, có các loại hóa sanh, trong đời có các Sa-môn, Bà-la-môn chân chánh hành trì, chân chánh thành tựu, sau khi tự tri, tự chứng, lại tuyên bố cho đời này và cho đời sau\". Như vậy, này Cunda, đó là ba ý tịnh hạnh.

96 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp AN. 10.176 - Cunda

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 97 TÍNH CHẤT CỦA NGHIỆP Ác nghiệp sẽ bắt kịp ngươi, dù sớm hay muộn Khi ác nghiệp chưa chín, kẻ ngu tưởng mật ngọt. Nhưng khi nó chín muồi, kẻ ngu chịu khổ đau. Ác nghiệp khác sữa ấm, bị hư sau một ngày; nó như lửa dưới tro, vẫn đi theo kẻ ngu. Dhp.69 và 71. Các nghiệp chẳng mất Ta thường dạy tánh không, Tránh xa thường lẫn đoạn. Luân hồi như mộng huyễn – nhưng các nghiệp chẳng mất. Laṅkāvatāra Sūtra, ch.2, v.135. Nghiệp và định mệnh Sư Tử Hống thưa Phật: - … Bạch Thế Tôn, như bài kệ trong Kinh Pháp Cú72 nói: Chẳng trên trời, dưới biển, chẳng lánh vào núi đá, chẳng nơi nào trên đời, lánh được quả ác nghiệp… Nếu vậy thì làm sao ai có thể tỏ ngộ Phật tánh và chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng chánh giác?' Phật dạy: - … Này thiện nam tử, nghiệp nặng có thể có quả báo nhẹ hoặc ngược lại, nghiệp nhẹ có thể quả báo nặng. Thật vậy, chúng sinh có người trí, kẻ ngu. Do đó, ông nên biết rằng không phải bất cứ nghiệp nào cũng cho quả, mà quả có thể là cố định hay bất định. Này thiện nam tử, mọi chúng sinh đều được phân thành hai hạng: trí và ngu. Người trí có thể chuyển trọng nghiệp địa ngục thành kết quả nhẹ trong đời này bằng tuệ lực của mình. Kẻ ngu lại biến khinh nghiệp của mình thành trọng nghiệp địa ngục. 72 Cf. Dhammapada v.128.

98 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp Sư Tử Hống bạch rằng: - Thế Tôn, nếu thế thì không nên cầu phạm hạnh thanh tịnh và quả giải thoát ư? Phật dạy: - Này thiện nam tử, nếu tất cả nghiệp đều tất yếu cho quả, vậy tất nhiên không nên cầu phạm hạnh và giải thoát. Này thiện nam tử, nhưng vì nghiệp (có khi) bất định, cho nên cần tu phạm hạnh và cầu quả giải thoát. … Này thiện nam tử, nghiệp có hai loại: định nghiệp và bất định nghiệp. Trong đó, định nghiệp có hai: một là quả báo xác định, hai là thời gian xác định. Có nghiệp cho quả xác định mà thời gian bất định. Hoặc có nghiệp cho quả báo xác định nhưng thời gian bất định, khi nào đủ duyên thì cho quả. Hoặc có nghiệp cho quả trong ba thời: đời này (hiện thọ), đời sau (sanh thọ) và đời sau nữa (hậu thọ). … T.374, Đại Bát Niết-Bàn Kinh, ch.38, p.549b29–50b18. Nghiệp và vô ngã Lúc bấy giờ, có một tỳ-kheo khác khởi nghĩ rằng: “Nếu Ngài nói sắc… thọ... tưởng... các hành... thức là vô ngã, thì các nghiệp do vô ngã tạo ra, vậy ngã nào lãnh thọ?” … Này các tỳ-kheo, các câu vấn nạn đã được ta khéo dạy cho các ông nhiều chỗ trong các pháp ấy. Này các tỳ-kheo, các ông nghĩ thế nào, sắc là thường hay vô thường? Là vô thường, bạch Thế Tôn. [Tương tự: Thọ … tưởng … các hành … thức …] Cái gì vô thường là khổ hay lạc? Là khổ, bạch Thế Tôn. Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng, nếu quán cái ấy là: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”? Thưa không, bạch Thế Tôn. SN.22.82, Puṇṇamā.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 99 Chỉ là tri kiến vọng tưởng của tự tâm Này Đại Huệ, có một số sa-môn và bà-la-môn tin rằng các pháp sẽ sinh lại sau khi chúng đã diệt. Họ còn chủ trương rằng mỗi pháp chính là biểu hiện của nhân và quả; rằng nó tồn tại theo thời gian; rằng uẩn, xứ, giới sanh rồi trụ y trên các duyên sinh khởi, và họ tin rằng cái gì đã sanh thì sẽ diệt. Này Đại Huệ, các vị ấy chủ trương đoạn diệt luận, cho rằng, các chuỗi tương tục; các tác sự, hoặc sinh hoặc diệt, hoặc hữu; niết-bàn; đạo; nghiệp; quả; chân đế; thảy đều tận diệt. Đó là do bởi những pháp này không khả đắc bằng trực kiến, và vì khởi thủy của chúng không thể thấy được. Này Đại Huệ, cái bát bị vỡ thì không còn có tác dụng như cái bát và một hạt giống bị cháy thì không thể nảy mầm. Này Đại Huệ, cũng vậy, thể tánh của uẩn, xứ, giới mà đã diệt, đang diệt, sẽ diệt, không tồn tại dòng lưu chuyển không gián đoạn, vì không có nhân để thấy, mà đó chỉ là tri kiến tư duy vọng tưởng của tự tâm. Laṅkāvatāra Sūtra, ch.2.

100 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp CHUYỂN HÓA NGHIỆP Nghiệp có thể trổ chậm và tri kiến cùng thái độ của người ta vào cuối đời là quan trọng Này Ānanda, có bốn loại người ở đây là người sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói chia rẽ, nói lời ác khẩu, nói lời phù phiếm, có tham dục, có sân tâm, có tà kiến – sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Cũng có thể do người ấy đã làm các ác hạnh trước đó có khả năng mang lại cảm thọ khổ đau, hoặc là người ấy có thể làm những điều ấy sau đó, hoặc là người ấy ấp ủ và quán sát các tà kiến vào lúc lâm chung, nên sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào… địa ngục. Bởi vì người ấy đã sát sanh, … và có tà kiến, người ấy sẽ lãnh thọ quả hoặc bây giờ và ở đây, hoặc đời sau, hoặc sau đó. Nhưng ở đây, này Ānanda, có người sát sanh… sanh vào … thiên giới. Cũng có thể do người ấy đã làm các thiện hạnh trước đó có khả năng mang lại cảm thọ hỷ lạc, hoặc người ấy có thể làm những điều ấy sau đó, hoặc người ấy có thể ấp ủ và quán sát các chánh kiến vào lúc lâm chung … thiên giới. Bởi vì người ấy đã sát sanh, … và có tà kiến, người ấy sẽ lãnh thọ quả hoặc bây giờ và ở đây, hoặc đời sau, hoặc sau đó. Ở đây, này Ānanda, có người từ bỏ sát sanh, … có chánh kiến, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy được sanh vào thiện thú, thiên giới. Cũng có thể do người ấy đã làm các thiện hạnh trước đó có khả năng mang lại cảm thọ hỷ lạc, hoặc người ấy có thể làm những điều ấy sau đó, hoặc người ấy có thể ấp ủ và quán sát các chánh kiến vào lúc lâm chung …. thiên giới. Bởi vì người ấy đã từ bỏ sát sanh, … và có chánh kiến, người ấy sẽ lãnh thọ quả hoặc bây giờ và ở đây, hoặc đời sau, hoặc sau đó. Nhưng ở đây, này Ānanda, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, … có chánh kiến, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào … địa ngục. Cũng có thể do người ấy đã làm các ác hạnh trước đó có khả năng mang lại cảm thọ khổ đau, hoặc là người ấy có thể làm những điều ấy sau đó, hoặc là người ấy ấp ủ và quán sát các tà kiến vào lúc lâm chung … địa ngục. Bởi vì người ấy đã từ bỏ sát sanh, … và có chánh kiến, người ấy sẽ lãnh thọ quả hoặc bây giờ và ở đây, hoặc đời sau, hoặc sau đó. MN.136, Mahā-kamma-vibhaṅga Sutta.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 101 Tu tập tốt để dung hòa quả của ác nghiệp - Này các tỳ-kheo, nếu nói rằng ‘Người này làm nghiệp như thế nào, thời người ấy cảm thọ như thế ấy.’ … thì không có đời sống Phạm hạnh, không có cơ hội để nêu rõ sự chân chánh đoạn diệt đau khổ. Này các tỳ-kheo, nếu nói rằng: ‘Người này làm nghiệp được cảm thọ như thế nào, người ấy cảm thọ quả dị thục như thế ấy.’ … thì có đời sống Phạm hạnh, có cơ hội để nêu rõ sự chân chánh đoạn diệt đau khổ. Ở đây, này các tỳ-kheo, có người làm nghiệp ác nhỏ, mà lại đưa người ấy vào địa ngục. Ở đây, này các tỳ-kheo, có người làm nghiệp ác nhỏ tương tự mà lại đưa người ấy đến cảm thọ (quả) ngay trong hiện tại, chẳng còn ít nhiều trong đời sau. Hạng người như thế nào làm nghiệp ác nhỏ, mà lại đưa người ấy vào địa ngục? Ở đây, này các tỳ-kheo, có người thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập, hạn hẹp, tự ngã nhỏ nhen, sống chịu khổ ít oi… dù làm nghiệp ác nhỏ mọn, thì vẫn đưa người ấy vào địa ngục. Hạng người như thế nào làm nghiệp ác nhỏ tương tự mà lại đưa người ấy đến cảm thọ (quả) ngay trong hiện tại, chẳng còn ít nhiều trong đời sau? Ở đây, này các tỳ-kheo, có người thân được tu tập, giới được tu tập, tâm được tu tập, tuệ được tu tập, không có hạn hẹp, tự ngã to lớn, sống đời vô lượng,73 … dù có làm nghiệp ác nhỏ mọn tương tự, thì chỉ đưa người ấy đến cảm thọ (quả) ngay trong hiện tại, chẳng còn ít nhiều trong đời sau. Ví như, này các tỳ-kheo, có người bỏ một nắm muối vào một chén nước nhỏ. Các ông nghĩ như thế nào, này các tỳ-kheo, nước trong chén ấy có vì nắm muối mà trở thành mặn và không uống được chăng? - Thưa đúng, bạch Thế Tôn. Vì sao? Nước trong chén nhỏ này là ít, do nắm muối này, nước trở thành mặn, không uống được. - Ví như, này các tỳ-kheo, có người bỏ một nắm muối vào sông Hằng. Các ông nghĩ như thế nào, này các tỳ-kheo, sông Hằng có vì nắm muối mà trở thành mặn và không uống được không? 73 Có lẽ có nghĩa là phẩm tánh ‘vô hạn’ của lòng từ, bi, hỷ, và xả.

102 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - Thưa không, bạch Thế Tôn. Vì sao? Cả khối nước sông Hằng là lớn. Khối nước ấy không vì nắm muối này, nước trở thành mặn và không uống được. … AN.3.100, Loṇakapallaka Sutta. Gieo bòn phước đức Đừng khinh chê việc thiện, cho rằng ‘chưa đến mình’. Dù nước nhỏ từng giọt, rồi bình cũng đầy tràn, Cũng vậy, người có trí, cũng chứa đầy điều thiện, Dù cho có bòn góp, từng chút, từng chút một. Dhp.122. Cách giảm trừ ác nghiệp Có người tu thân, tu giới, tu tâm, tu tuệ, tất biết rằng, thiện hay ác nghiệp tất yếu đều có quả báo, nhưng có khả năng chuyển những nghiệp nặng thành nhẹ, nghiệp nhẹ thành vô hiệu. Nếu người ấy may gặp phước điền, hội ngộ thiện tri thức, tu đạo, tu thiện; thì vị ấy có thể chuyển hóa nghiệp nặng phải thọ địa ngục trong đời sau thành nghiệp nhẹ thọ báo trong đời này. T.1488, Ưu-bà-tắc giới kinh, ch.24, p.1070c13–16. Thiện thắng ác Này chư bồ-tát, trong thế giới gọi là Ta-bà này có mười thiện pháp mà các quốc độ Phật khác không có. Mười thiện pháp đó là gì? Đó là: (1) Lấy bố thí đối trị bần cùng. (2) Lấy trì giới đối trị phạm giới. (3) Lấy nhẫn nhục đối trị sân nhuế. (4) Lấy tinh tấn đối trị giải đãi. (5) Lấy thiền định khắc phục loạn ý. (6) Lấy trí huệ dẹp tan vô minh. (7) Nói pháp trừ nan để vượt qua bát nan.74 (8) Dạy pháp Đại thừa cho người còn chấp pháp Tiểu thừa. (9) Lấy các thiện căn giúp người vô đức. (10) Thường dùng bốn nhiếp pháp để thành tựu chúng sinh.75 Vimalakīrti-nirdeśa Sūtra, ch.9, section 17. 74 Vì ngăn chặn việc nghe và hiểu Pháp. Từ này thường bị phiên sai là bát nạn. 75 Bố thí, ái ngữ, lợi hành, và đồng sự.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 103 Tự quyết định tái sanh Ở đây, này các tỳ-kheo, tỳ-kheo nào đầy đủ tín, đầy đủ giới, văn, thí, trí tuệ, mà nghĩ như sau, ‘Mong rằng ta sẽ được sanh vào nhà đại phú trong dòng sát-đế-lợi sau khi thân hoại mạng chung!’ rồi chuyên định, an trú, tu tập tâm ấy, thì những hành ấy của tỳ- kheo được an trú, tu tập, làm cho sung mãn như vậy đưa vị ấy thọ sanh tại chỗ ấy. Này các tỳ-kheo, đây là đạo, đây là lộ trình đưa đến tái sanh tại chỗ ấy. [… Tương tự: nhà đại phú trong dòng bà-la-môn, nhà đại phú trong các gia chủ; cõi Tứ Ðại Thiên vương, Đao-lợi, Dạ-ma, Đâu Suất, Hóa Lạc, Tha hóa tự tại …] MN.120, Saṅkhāruppatti Sutta.

104 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp NÓI RIÊNG VỀ KHẨU NGHIỆP Tổng quan về khẩu nghiệp Khẩu tà hạnh Phật nói ba tà hạnh là thân tà hạnh, khẩu tà hạnh, ý tà hạnh (…) Khẩu cũng có thể tạo, tùy đem lời dạy bày khiến người sát chúng sanh; hoặc đem tâm phù chú mà sát cũng có thể tạo được, như có người phát tâm mà năng khiến kẻ khác chết (…) Lại thân nghiệp bất thiện, hoặc lấy thân làm tướng, hoặc lấy khẩu làm tướng, hoặc phát tâm thì kẻ khác biết, do nhân duyên này cũng tạo được những tội về sát. (…) Khẩu tà hạnh cũng như vậy. Khẩu gây ra ác nghiệp gọi khẩu tà hạnh. T.1558 Thành Thật Luận, quyển 7, phẩm 101 Tà hạnh. Những yếu tố cấu thành khẩu nghiệp Thành nghiệp đạo vọng ngữ (nói giả dối) là do đủ bốn duyên: Một là tâm ô nhiễm. Hai là tư tưởng và phát ngôn trái với luật nghi. Ba là người bị lừa hiểu rõ điều được nghe. Bốn là người nói dối biết rõ mình nói dối. Thành nghiệp đạo nói hai lưỡi (ly gián ngữ) là do đủ bốn duyên: Một là tâm ô nhiễm. Hai là phát lời nói hại kẻ khác. Ba là người nghe hiểu rõ. Bốn là người nói biết rõ mình nói hai lưỡi. Thành nghiệp đạo nói thô ác (ác khẩu) là do đủ bốn duyên: Một là tâm ô nhiễm. Hai là phát lời cộc cằn, thô lỗ, chửi mắng kẻ khác. Ba là người nghe hiểu rõ. Bốn là người nói biết rõ mình nói thô ác. Thành nghiệp đạo nói thêu diệt (ỷ ngữ, tạp uế ngữ) là do có đủ hai duyên: Một là tâm ô nhiễm. Hai là thốt lời tà vạy, thêu dệt vẽ vời, dua nịnh, tạo các từ khúc sai trái dâm ô. Phạm vi ỷ ngữ rất rộng, trừ ba thứ nói giả dối, nói thô ác, nói ly gián, tất cả ngôn từ điên đảo, tà vạy, phát ra với tâm ô nhiễm đều thuộc loại ỷ ngữ này. T.1558 A-Tỳ-Đạt-Ma Câu-Xá Luận, phẩm Phân biệt Nghiệp. Phân biệt hình thức và nội dung Nếu thân khẩu ý gạt chúng sinh khác, khiến họ hiểu sai lầm thì gọi là vọng ngữ. Phật vì biết đây là trọng tội nên bảo hội chúng đặt câu hỏi về vọng ngữ. Cho đến khi một người hỏi cũng gọi

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 105 vọng ngữ, đâu cần nhiều người ư? Lại tùy chỗ muốn gạt người thì đắc tội với người ấy. Nếu người bảo với người khác rằng tôi đã nói với kẻ nào đó việc như vậy. Việc tuy chẳng thật mà chẳng gọi là vọng ngữ. Lại vọng ngữ tùy ý tưởng. Nếu thấy tưởng không thấy, hỏi thì nói chẳng thấy, là không bị tội vọng ngữ. Như trong luật Tỳ-ni đã nói. Nếu người muốn chia lìa kẻ khác nên khởi khẩu nghiệp, gọi là đâm thọc. Nếu không cố tâm chia lìa, mà người kia nghe tự hoại, thời chẳng đắc tội. Nếu đem thiện tâm giáo hóa khiến lìa người ác, tuy là chia lìa, nhưng cũng chẳng đắc tội. Nếu chẳng bởi kiết- sử trược tâm tuy là miệng nói cũng chẳng đắc tội. Nếu người đem khổ ngôn mà không có lợi ích chỉ muốn não hại kẻ khác, gọi là ác khẩu. Nếu vì lòng thương xót muốn làm lợi ích, nên phải khổ ngôn, thì không có tội. Như vô sự mà gia hại thì có tội. Y theo phương pháp châm cứu chữa bệnh, tuy khổ mà chẳng phải tội. Khổ ngôn cũng vậy, chư Phật, Hiền Thánh cũng vì việc ấy, chẳng hạn như nói: “Ngươi là người ngu si!” Lại nếu không kiết sử trược tâm, tuy là khổ ngôn mà chẳng gọi là tội, như người ly dục thảy. Nếu vì thiện tâm, với trong khổ ngôn mà khởi phiền não là lập tức đắc tội. Như chẳng phải thật ngữ nghĩa bất chính nên gọi là lời thêu dệt. Lại tuy là thật ngữ vì phi thời, nên cũng gọi lời thêu dệt. Lại tuy thật và phải thời, vì tùy thuận suy não không lợi ích, nên cũng gọi lời thêu dệt. Lại tuy lời thật và phải thời cũng có lợi ích nhưng vì nói nghĩa lý không đầu đuôi, chẳng thứ tự, nên cũng gọi lời thêu dệt. Lại vì các phiền não tán tâm như si… mà nói, gọi là lời thêu dệt. Thân ý bất chính cũng gọi nghiệp nói thêu dệt, chỉ đa phần do khẩu tác, cũng tùy thế tục mà nói, nên gọi là lời thêu dệt, còn ba khẩu nghiệp kia lời thêu đều lẫn lộn không thể rời nhau: Như vọng ngữ mà chẳng khổ ngôn, cũng chẳng chia lìa thời có hai thứ: Lời dối và lời thêu dệt; nếu là lời dối cũng muốn chia lìa, mà chẳng khổ ngôn thời có ba thứ: Lời dối đâm thọc và lời thêu dệt; nếu lời dối lời khổ cũng muốn chia lìa, thời đủ bốn thứ. Nếu không lời dối, lời khổ cũng chẳng chia lìa, nhưng lời phi thời, lời vô ích, lời vô nghĩa, thời chỉ là lời thêu. Lời thêu nầy nhỏ nhiệm khó mà lìa được, chỉ có chư Phật mới có thể dứt tận gốc. Vậy nên chỉ có chư Phật độc xưng Thế Tôn, vì nói là tin nhận, những điều khác không ai sánh kịp được. T.1558, Thành Thật Luận, quyển 8, phẩm 116 Thập bất thiện đạo.

106 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp 15 loại đại ác Có mười lăm loại ác lớn: 1/ Háo sát, 2/ Trộm cướp, 3/ Dâm dật, 4/ Dối trá, 5/ Nịnh hót, 6/ Khoác lác, 7/ Nịnh bợ gièm pha, 8/ Vu cáo người lành, 9/ Tham lam ô trọc, 10/ Phóng túng buông lung, 11/ Nát rượu, 12/ Ganh ghét người hiền, 13/ Hủy hoại đạo pháp, 14/ Mưu hại bậc thánh, 15/ Bất chấp tội vạ. Đó là mười lăm trường hợp của sự xấu ác lớn. T.790, Phật Thuyết Bột Kinh Sao. Quả báo của khẩu nghiệp Quả báo của khẩu nghiệp thiện Người không nói xằng bậy hơi miệng tỏa ra mùi thơm, nói năng luôn được tin tưởng. Người không nói hai lưỡi thì trong nhà luôn hòa hợp, không có chia lìa. Người không nói thô ác thì miệng lưỡi của họ luôn nói những lời đẹp dễ nghe và thông suốt. Người không nói thêu dệt thì người ta nghe lời của họ ai cũng hỏi han và công nhận là những điều quý báu. T.116 Giới Đức Hương Kinh, quyển 1. Quả báo đọa nẻo dữ của bất thiện nghiệp Trong đời vị lai, nếu có người nam hay người nữ nào không hành thiện mà hành ác, cho đến kẻ không tin nhân quả, kẻ tà dâm và nói láo, nói hai lưỡi, nói thô ác, kẻ hủy báng Đại Thừa, chúng sanh gây các nghiệp như vậy ắt đọa vào nẻo dữ. T.412 Địa Tạng Bồ-Tát Bổn Nguyện Kinh, quyển 1, phẩm Diêm-phù chúng sinh nghiệp cảm.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 107 Các quả báo khác nhau của khẩu nghiệp Lại khẩu nghiệp báo nhiều đọa súc sanh, như người bất tri bất tín nghiệp quả báo, nên mới khởi các thứ khẩu nghiệp, như nói: “Người ấy nhẹ nhảy y như vượn khỉ” thì sinh trong loài vượn khỉ; như nói tham ăn như quạ, nói lời như chó sủa, sợ hãi như heo dê, tiếng kêu như lừa hí, đi như lạc đà, tự cao như voi, hung như trâu hoang, dâm như chim sẻ, sợ như chồn mèo, nịnh hót như dã can, hung tợn như dê đen, nhiều như lông trâu. Sinh khởi những ác khẩu nghiệp như vậy nên phải theo nghiệp mà chịu quả-báo. Lại chúng sinh vì tham vui nên phát nhiều thứ thệ nguyện, như vui dâm dục thì sinh trong những loài như chim sẻ; nếu nghe các loài như rồng, chim kim sí có thế lực, nên nguyện sinh trong các loài ấy. (…) Lại nếu dạy người khác khiến đọa trong tà pháp thì sinh chỗ không trí, mù từ trong bụng mẹ, mù đến chết làm côn trùng trong thây chết. (…) Lại nếu khởi nghiệp làm loài ăn cỏ, như người vọng ngữ, tự nguyền rủa rằng: Nếu ăn món ăn này thì sẽ khiến tôi ăn cỏ, hoặc tôi ăn đất. Như vậy thảy. Lại nếu người ác khẩu mắng lời: Sao ngươi không ăn cỏ, ăn đất đi. Người ấy tùy lời mà thụ sinh làm những loài ăn cỏ ăn đất thảy. T.1558 Thành Thật Luận, quyển 8, phẩm 110 Lục nghiệp. Quả báo đọa địa ngục của khẩu nghiệp Hoặc bốn nghiệp về khẩu gây những trọng tội, do nhiều loại nhân duyên như vậy nên đọa vào trong địa ngục Án-phù-đà. T.1509 Đại Trí Độ Luận, quyển 16, phẩm Tựa.

108 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp CHI TIẾT VỀ KHẨU ÁC NGHIỆP Vọng ngôn Định nghĩa vọng ngữ Nói láo không thật, hoặc ở trong nhà vua chúa, hoặc ở trong nhà chân thật, đông đảo người tụ tập, nơi trưng cầu lời thỏa đáng mà nói những điều không thật, không thấy nói là thấy, thấy nói là không thấy, không nghe nói là nghe, nghe nói là không nghe, biết nói là không biết, không biết nói là biết, vì mình vì người, hoặc là do tài lợi, biết mà nói láo song chẳng từ bỏ, đó gọi là vọng ngữ (nói láo). T.99 Tạp A-hàm Kinh, quyển 37, kinh 1039.. Định nghĩa về nói dối Trong điều thứ tư, vả sao gọi là kẻ nói giả dối (hư cuống ngữ) ? Như đức Thế Tôn nói : có kẻ nói giả dối, hoặc đối với các quan bình chính, hoặc đối với đại chúng, hoặc đối với nhà vua chúa, hoặc đối với quan chấp lý, hoặc đối với họ hàng. Cùng xét hỏi rằng : Ô hay chàng trai ! Ngươi biết thì nên nói, không biết thì chớ nói, ngươi thấy thì nên nói, không thấy thì chớ nói. Kẻ kia được hỏi rồi, không biết mà nói biết, biết mà nói không biết, thấy mà nói không thấy, không thấy mà nói thấy, kẻ kia hoặc vì mình, hoặc lại vì người ta, hoặc là vì danh lợi, cho nên bằng chính tri nhưng nói điều giả dối, chẳng lìa điều giả dối. (…) Những điều gì gọi là cùng xét hỏi ? Gọi là hoặc làm chứng, hoặc truy cứu bản thân họ, tập trung mọi người lại cân nhắc cùng xét hỏi (…) Nói lời giả dối tức là chuyện không có thật mà giả ra tên gọi đặt điều tưởng tượng, không thật gọi là dối, đó gọi là giả dối. Kẻ nói giả dối dùng tham, sân, si, làm việc trái mà nói điều tưởng tượng để cho người khác hiểu sai, gọi là nói giả dối. T.1537, A-Tỳ-Đạt-Ma Pháp Uẩn Túc Luận, quyển 1, phẩm Học xứ. Ba loại nói dối Nói lời giả dối có ba loại gọi là : vì cần những thứ như tài lợi, danh dự… mà đối với một hữu tình, hoặc đại chúng hội, giả vờ làm chứng cứ rõ ràng che lấp sự thật mà nói, cho đến những lời

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 109 lẽ giả dối được thâu nhận chưa phát ra, tất cả những nghiệp thân–ngữ bất thiện bấy giờ là thuộc về gia hạnh của lời dối. Nếu những lời lẽ giả dối được thâu nhận đang phát ra thì tất cả những biểu hiện lời bất thiện lúc ấy và vô biểu trong sát-na này là thuộc về căn bản của lời dối. Từ đấy về sau vẫn dựa vào sự việc này mà khởi lên nghiệp biểu và vô biểu của thân–ngữ bất thiện, là thuộc về sự khởi sau của lời nói giả dối. T.1545, Đại Tỳ-Bà-Sa Luận, quyển 113, thiên 4 (trung) : Nghiệp uẩn, phẩm 1 : Ác hạnh nạp tức (II). Tội nói suông dối bậy của tỳ-kheo Ta không biết mà nói biết, không thấy mà nói thấy, ấy là ta nói suông dối bậy, đây là lời nói vô nghĩa, y chỉ theo ba điều Ba-la- di trước, nếu người nào mắc tội này thì gọi là Ba-la-di. T.1462, Thiện Kiến Luật Tỳ-Bà-Sa, quyển 12. Tội nói láo của tỳ-kheo Nói láo nghĩa là miệng nói trái với suy nghĩ, cũng gọi là nói rỗng suông ; muốn nói điều này nhưng nói lầm điều kia thì không vi phạm, nhưng giới nói láo nếu nói cho rộng thì đây là tánh tội. T.1462, Thiện Kiến Luật Tỳ-Bà-Sa, quyển 15. Văn răn nói dối Tâm là gốc của thiện ác, miệng là cửa của họa phúc. Nghĩ một niệm thì tiếng vọng chẳng sai, nói một lời thì bóng theo không lệch. Người quân tử coi trọng lời nói như biện luận, cổ nhân giữ miệng kín như bình. Nói ra thì thẳng thắn, công bằng ; kể lại thì không cong, không vẹo. Chẳng nói kẻ giỏi người dở, không bàn mình đúng người sai. Nào dám khua môi múa lưỡi, cần phải giữ miệng gìn lời. Vả lại, nghiệp thân là nặng, nhưng họa miệng đứng đầu. Chẳng những kẻ nói vọng ngôn, còn khiến người nghe làm bậy. Nay sống thì bị người khinh rẻ, sau chết thì bị nghiệp buộc ràng. Hoặc kềm sắt kéo lưỡi, cam chịu chua cay, hoặc nước đồng rót miệng, lòng ôm đau đớn. Kệ rằng: Sánh vai cười nịnh khua lưỡi môi, Mãi việc nói càn sống ở đời. Riêng ý cầu vui mong được lợi, Miễn đâu nghiệp rốt buộc thân thôi. Trần Thái Tông, Khóa hư lục, Văn giới vọng ngữ.

110 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp Bốn điều tự nguy Con người thường có bốn điều tự tạo nguy cho mình: 1/ Gánh vác giúp việc gia đình kẻ khác; 2/ Làm chứng việc nhà người; 3/ Mai mối cưới vợ gả chồng ; 4/ Nghe và dùng lời gian tà. Đó là bốn điều tự rước lấy nguy khốn vào mình. T.790, Phật Thuyết Bột Kinh Sao. Người có trí biết bốn việc không tin Người sáng suốt có bốn điều không nên nghe dùng. Đó là: 1/ Bạn bè tà ngụy, 2/ Quan lại dua nịnh, 3/ Thê thiếp yêu nghiệt, và 4/ Con cái bất hiếu. Bốn điều ấy thật chẳng nên tin dùng. T.790, Phật Thuyết Bột Kinh Sao. Mười việc không nên thân cận và tin cậy Con người có mười sự việc, trường hợp chẳng có thể gần gũi, tin tưởng. 1/ Ở chỗ đế vương hậu đãi. 2/ Ở chốn phụ nữ thân tình. 3/ Ỷ lại thân khỏe mạnh. 4/ Cậy mình có nhiều tài sản. 5/ Ở chốn có dòng nước ngâm, thấm lâu. 6/ Ở nơi nhà cũ, tường hư mục. 7/ Nơi sinh sống của loài rồng rắn. 8/ Mắc chút tội mà bị giải lên quan. 9/ Đối với người có thọ mạng đời trước xấu ác. 10/ Ở những nơi có loài độc vật. T.790, Phật Thuyết Bột Kinh Sao.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 111 Ỷ ngữ Không tán thán tương xứng Tỳ-kheo cư trú thành tựu năm pháp như vầy thì bị đọa vào địa ngục. Năm điều gì? Không suy xét, không thẩm sát, tán thán người không đáng được tán thán; không suy xét, không thẩm sát, không tán thán người đáng được tán thán; không suy xét, không thẩm sát, đặt lòng tin vào những chỗ không đáng được tịnh tín; không suy xét, không thẩm sát, không đặt lòng tin vào những chỗ đáng được tịnh tín; làm rơi rớt các vật tín thí. [...] AN. 5.236, Không Tán Thán Tương Xứng 1 (Paṭhamāvaṇṇāraha) Cf. AN. 4.83, Avaṇṇārahasutta. 10 việc để nhận biết lòng yêu quý trọng hậu Có mười sự việc để nhận biết lòng yêu quý trọng hậu: 1/ Xa cách không quên nhau, 2/ Gặp nhau thì vui mừng, 3/ Có món ngon vật lạ thì san sẻ cho nhau, 4/ Khi có lỡ lời nhẫn nhịn nhau, 5/ Nghe điều thiện thì thêm mừng, 6/ Thấy ác thì hết lòng can gián, 7/ Làm được những việc khó làm, 8/ Không đem chuyện riêng nói với người khác, 9/ Khi gặp việc gấp thì cố gắng giải quyết, 10/ Đến lúc nghèo khổ không rời bỏ nhau. Đó là mười trường hợp thể hiện lòng yêu kính sâu dày T.790, Phật Thuyết Bột Kinh Sao. 8 việc biết là không ưa nhau Có tám sự việc để biết là không ưa nhau: 1/ Thấy nhau thì sắc diện thay đổi. 2/ Liếc ngó gian tà, không thẳng thắn, 3/ Lời nói không ôn hòa, 4/ Nói phải thì cho là quấy, 5/ Nghe người nguy hại thì vui thích, 6/ Nghe người hưng thịnh thì không vui,

112 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp 7/ Chế giễu chê bai cái thiện của người, 8/ Khen ngợi cái ác của người. Đó là tám sự việc để nhận biết là không cùng vui với nhau. T.790, Phật Thuyết Bột Kinh Sao. 5 nguyên do bị người khinh mạn Vua hỏi: –Thế nào gọi là người khinh mạn? Bột đáp: –Có năm trường hợp để nhận ra khinh mạn: 1/ Tóc tai bù xù mà phóng túng. 2/ Quần áo nhớp nhúa. 3/ Nghĩ ngợi mông lung. 4/ Dâm ô vô lễ. 5/ Cười đùa không tiết chế. Đó là năm trường hợp để nhận biết con người khinh mạn. T.790, Phật Thuyết Bột Kinh Sao. Lưỡng thiệt Không nên nói đâm thọc Nếu nói với đệ tử, tỳ-kheo, hoặc ai khác, nên nói về Diệu Pháp, không hai lưỡi, chỉ trích. Snp. 391. Nói hai lưỡi là một phần của nói dối Hỏi: Lìa những điều như nói hai lưỡi, cớ sao chẳng gọi là giới? Đáp: Sự ấy nhỏ nhiệm, khó giữ gìn được. Lại những điều như nói hai lưỡi là một phần của nói dối, nếu nói “Các lời nói dối” là đã nói chung cả rồi. T.1558 Thành Thật Luận, quyển 8, phẩm 109 Ngũ giới.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 113 Quả báo của những kẻ nói thêu dệt Quả báo của những kẻ nói thêu dệt, dù có nói thật thì mọi người cũng đều không tin nhận. Như bài kệ nói : Có kẻ đọa ngạ quỷ, Lửa cháy từ miệng ra, Bốn hướng cất tiếng to, Là quả báo lỗi khẩu. Tuy lại học biết nhiều, Thuyết pháp trong đại chúng, Do nghiệp không thành tín, Người đều không tin nhận. Nếu muốn rộng đa văn, Vì được người tin nhận, Bởi vậy nên chí thành, Đừng nên nói thêu dệt! T.1509, Đại Trí Độ Luận, quyển 5, phẩm Tựa. 5 quả báo của người gây ra đấu tranh trong tăng chúng Này các tỳ-kheo, tỳ-kheo nào gây ra cãi cọ, … tranh luận, … đấu tranh, … đấu khẩu, … kiện tụng trong tăng chúng, thì vị ấy sẽ có năm sự nguy hại. Năm điều gì? Không chứng điều chưa chứng; thối thất điều đã chứng; tiếng ác đồn khắp; khi mạng chung, tâm bị mê loạn; sau khi mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. … AN.5.212, Kinh đấu tranh (Bhaṇḍanakāraka). Ác khẩu Năm cách biểu hiện của sự ghét bỏ Có năm cách biểu hiện của sự ghét bỏ: 1/ Miệng nói lời thô bỉ, xúc phạm người. 2/ Gièm pha hại người, vui thích khi thấy họ đấu tranh. 3/ Nhăn nhó cằn nhằn, không tươi vui. 4/ Ganh ghét và nguyền rủa. 5/ Mặt lộ vẻ khinh khi, miệng nói hai chiều. Đó là năm cách biểu hiện của sự ghét bỏ. T.790, Phật Thuyết Bột Kinh Sao.

114 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp Quả báo phỉ báng bậc Hiền thánh Dùng ác tâm và ác khẩu phỉ báng bậc hiền thánh, người ấy đọa địa ngục Ni-phù-đà mười ngàn năm, địa ngục A-phù-đà ba mươi sáu vạn năm năm. T.1558, Thành Thật Luận, quyển 7, phẩm 98 Khinh trọng tội. Quả báo chửi mắng Phật Lại con người tuy một đời gặp Phật nhưng lại càng không biết giá trị. Như thời đức Phật Tỳ-bà-thi, vương sư Bà-la-môn tuy được gặp Phật và Tăng nhưng mà ác khẩu chửi mắng : « Bọn người này như loài súc sanh, chẳng phải người tốt, thấy ta không đứng dậy. » Do vì tội ấy suốt chín mươi mốt kiếp đọa trong loài súc sanh. T.1509, Đại Trí Độ Luận, quyển 37, phẩm Tập tương ưng. Nói không đúng đối tượng là ác thuyết Này các tỳ-kheo, lời nói với năm hạng người này là ác thuyết khi so sánh giữa người và người. Năm điều gì? Này các tỳ-kheo, nói về tín với người phi tín là ác thuyết; nói về giới với người phi giới là ác thuyết; nói về đa văn với người thiểu văn là ác thuyết; nói về bố thí với người xan tham là ác thuyết; nói về trí tuệ với người ngu độn là ác thuyết. Và này các tỳ-kheo, tại sao nói về tín với người phi tín là ác thuyết? Này các tỳ-kheo, khi người không tin được nói về lòng tin liền tức tối, phẫn nộ, hiềm khích, mất bình tĩnh, biểu lộ phẫn nộ, sân hận, phiền muộn. Vì sao? Vì rằng vị ấy không thấy tự mình có đầy đủ lòng tin, do nhân duyên ấy, không có hỷ và hân hoan. Do vậy, nói về tín với người không có lòng tin là ác thuyết. [… Tương tự: giới và người phi giới; đa văn và người thiểu văn; bố thí và người xan tham; trí tuệ và người ngu độn …] AN.5.157, Kinh ác thuyết (Dukkathā).

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 115 CHÁNH NGỮ Thế nào là chánh ngữ Này các hiền giả , thế nào là chánh ngữ? Tự chế không nói dối, tự chế không nói hai lưỡi, tự chế không nói ác khẩu, tự chế không nói lời phù phiếm. Này các hiền giả, như vậy được gọi là chánh ngữ. MN.141, Kinh Phân biệt về Sự thật (Saccavibhanga sutta). Này chư Hiền, thế nào là chánh ngữ? Đó là khi vị thánh đệ tử suy niệm về khổ là khổ, tập là tập, diệt là diệt, đạo là đạo; hoặc quán sát về các việc làm trước kia của mình, hoặc học suy niệm về các hành, hoặc thấy các hành là tai hại, hoặc thấy niết-bàn là tịch tĩnh; hoặc khi bằng suy niệm vô nhiễm mà quán sát tâm giải thoát hoàn toàn, trong đó ngoài bốn khẩu diệu hành, thì các khẩu ác hành khác đều viễn ly, đoạn trừ, không làm, không thực hiện, không tập hợp và không tụ hội. Đó là chánh ngữ. MA.31, Kinh Phân biệt Thánh Đế. 4 đức tánh của lời thiện thuyết Thế Tôn nói như sau: - Này các tỳ-kheo, khi hội đủ bốn đức tánh này, thì lời nói được xem là thiện thuyết, không phải ác thuyết, vô tội và không bị người có trí chê trách. Thế nào là bốn? Này các tỳ-kheo, ở đây, vị tỳ-kheo nói lời thiện thuyết, không nói lời ác thuyết; nói lời đúng pháp, không nói lời phi pháp; nói lời ái ngữ, không nói lời ác ngữ; nói lời chân ngữ, không nói lời phi chân. […] SN.8.5, Kinh khéo nói (Subhāsita). 5 yếu tố của lời nói thiện Này các tỳ-kheo, nếu thành tựu năm chi phần, thì lời nói là thiện thuyết, không phải ác thuyết, không có phạm tội và không bị những người có trí chê trách. Thế nào là năm? Nói đúng thời, nói đúng sự thật, nói lời nhu hòa, nói lời liên hệ đến lợi ích, nói với lời từ tâm. […] AN. 5.198, Kinh lời thiện thuyết (Subhāsitavācā).

116 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp Lời nói chân chánh không liên quan đến tuổi tác người nói Này các tỳ-kheo, dù một vị trưởng lão có là 80 tuổi, hay 90 tuổi, hay 100 tuổi đời, nhưng nếu vị ấy nói phi thời, nói phi chân, nói phi nghĩa, nói phi pháp, nói phi luật, nói những lời không đáng giữ gìn, lời nói không hợp thời cơ, không hợp lý, không có giới hạn, không có liên hệ đến mục đích, thì vị ấy chỉ được gọi là vị trưởng lão ngu. Này các tỳ-kheo, dù một vị tuổi trẻ có là một thanh niên còn non trẻ, tóc đen nhánh, trong tuổi hiền thiện của đời, còn trong tuổi thanh xuân, nhưng nếu vị ấy nói lời đúng thời, nói lời chân thực, nói lời có nghĩa, nói lời đúng pháp, nói lời đúng luật, nói những lời đáng giữ gìn, lời nói hợp thời cơ, hợp lý, có giới hạn, liên hệ đến mục đích, thì vị ấy cũng được gọi là vị trưởng lão hiền trí. AN. 4.22, Kinh Uruvelā thứ hai (Dutiyauruvela). Tán thán tương xứng Tỳ-kheo cư trú thành tựu năm pháp như vầy thì bị sanh lên trời. Năm điều gì? Có suy xét, có thẩm sát, không tán thán người không đáng được tán thán; có suy xét, có thẩm sát, tán thán người đáng được tán thán; có suy xét, có thẩm sát, không đặt lòng tin vào những chỗ không đáng được tịnh tín; có suy xét, có thẩm sát, đặt lòng tin vào những chỗ đáng được tịnh tín; không làm rơi rớt các vật tín thí. [...] AN.5.236, Không Tán Thán Tương Xứng 1 (Paṭhamāvaṇṇāraha) Cf. AN.4.83, Avaṇṇārahasutta. 5 cách thể hiện sự yêu kính Yêu kính có năm cách thể hiện: 1/ Dịu dàng, hòa nhã, và nhẫn nhịn. 2/ Luôn cẩn trọng nhưng tin tưởng. 3/ Nhanh nhẹn sáng suốt nhưng ít lời. 4/ Lời nói đi đôi với việc làm. 5/ Giao tiếp càng lâu càng gắn bó sâu đậm. Đó là năm cách thể hiện sự yêu kính hết lòng. T.790, Phật Thuyết Bột Kinh Sao. Nói đúng đối tượng Lời nói với năm hạng người này là thiện thuyết khi có sự so sánh giữa người và người. Năm điều gì? Này các tỳ-kheo, thuyết về

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 117 tín cho người có lòng tin là thiện thuyết; thuyết về giới cho người giữ giới là thiện thuyết; thuyết về đa văn cho người đa văn là thiện thuyết; thuyết về bố thí cho người bố thí là thiện thuyết; thuyết về trí tuệ cho người trí tuệ là thiện thuyết. Và này các tỳ-kheo, tại sao thuyết về lòng tin cho người có lòng tin là thiện thuyết? Này các tỳ-kheo, khi người có lòng tin được nói đến lòng tin thì không tức tối, không phẫn nộ, không hiềm khích, không mất bình tĩnh, không biểu lộ phẫn nộ, sân hận, phiền muộn. Vì sao? Vì rằng vị ấy thấy tự mình có đầy đủ lòng tin, do nhân duyên ấy, có hỷ và hân hoan. Do vậy, nói về tín với người có lòng tin là thiện thuyết. AN. 5.157, Kinh ác thuyết (Dukkathā). Nhận biết người có thích hợp để nói chuyện Này các tỳ-kheo, có ba chủ đề để thảo luận. Ba điều gì? Này các tỳ-kheo, người ta có thể nói về quá khứ rằng: ‘Điều như vầy đã xảy ra trong quá khứ’. Này các tỳ-kheo, người ta có thể nói về tương lai rằng: ‘Điều như vầy sẽ xảy ra trong tương lai’. Này các tỳ-kheo, người ta có thể nói về hiện tại rằng: ‘Điều như vầy đang xảy ra trong hiện tại’. Này các tỳ-kheo, qua cách một người thảo luận, ta có thể biết một người là có thích hợp để nói chuyện hay không. Này các tỳ- kheo, nếu ai khi được hỏi một câu, không trả lời một cách dứt khoát một câu hỏi cần phải trả lời dứt khoát, không trả lời một cách phân tích một câu hỏi cần trả lời một cách phân tích, không hỏi ngược lại với một câu hỏi cần phải hỏi ngược lại, không có gạt qua một bên một câu hỏi cần phải gạt qua một bên. Như vậy, này các tỳ-kheo, một người như vậy không thích hợp để thảo luận. Này các tỳ-kheo, nếu ai, khi được hỏi một câu, trả lời một cách dứt khoát một câu hỏi cần phải trả lời dứt khoát, trả lời phân tích một câu hỏi cần trả lời một cách phân tích, hỏi ngược lại với một câu hỏi cần phải hỏi ngược lại, gạt qua một bên một câu hỏi cần phải gạt qua một bên. Như vậy, này các tỳ-kheo, một người như vậy thích hợp để thảo luận. Này các tỳ-kheo, qua cách một người thảo luận, ta có thể biết một người là có thích hợp để nói chuyện hay không. Này các tỳ- kheo, nếu ai, khi được hỏi một câu, không căn cứ trên sự khả dĩ hoặc bất khả dĩ, không căn cứ trên lẽ thường, không căn cứ trên lời của bậc trí, không căn cứ trên quá trình, thì người trong trường hợp này là không thích hợp để thảo luận. Này các tỳ- kheo, nếu ai, khi được hỏi một câu, căn cứ trên sự khả dĩ hoặc

118 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp bất khả dĩ, căn cứ trên lẽ thường, căn cứ trên lời của bậc trí, căn cứ trên quá trình, thì người trong trường hợp này là thích hợp để thảo luận. Này các tỳ-kheo, qua cách một người thảo luận, ta có thể biết một người là có thích hợp để nói chuyện hay không. Này các tỳ- kheo, nếu ai, khi được hỏi một câu, tránh câu hỏi ấy với một câu hỏi khác, hướng câu chuyện ra ngoài chủ đề, bày tỏ sự phẫn nộ, sân, hận, bất mãn, thì người trong trường hợp này là không thích hợp để thảo luận. Này các tỳ-kheo, nếu ai, khi được hỏi một câu, không tránh câu hỏi ấy với một câu hỏi khác, không hướng câu chuyện ra ngoài chủ đề, không bày tỏ sự phẫn nộ, sân, hận, bất mãn, thì người trong trường hợp này là thích hợp để thảo luận. Này các tỳ-kheo, qua cách một người thảo luận, ta có thể biết một người là có thích hợp để nói chuyện hay không. Này các tỳ- kheo, nếu ai, khi được hỏi một câu, lại mắng chửi, đánh đập, nhạo báng, chụp lấy chỗ sơ hở, thì người trong trường hợp này là thích hợp để thảo luận. Này các tỳ-kheo, nếu ai, khi được hỏi một câu, không mắng chửi, không đánh đập, không nhạo báng, không chụp lấy chỗ sơ hở, thì người trong trường hợp này là thích hợp để thảo luận. Này các tỳ-kheo, qua cách một người thảo luận, ta có thể biết một người là có liên đới hay không. Này các tỳ-kheo, không có lắng tai, là không liên đới; có lắng tai là liên đới. Do liên đới, người đó thắng tri một pháp, biến tri một pháp, từ bỏ một pháp, chứng đắc một pháp. Do thắng tri một pháp, liễu tri một pháp, từ bỏ một pháp, chứng đắc một pháp, người đó cảm thấy chánh giải thoát. Như vậy, này các tỳ-kheo, là lợi ích của thảo luận, như vậy là lợi ích của đàm luận, như vậy là lợi ích liên đới, như vậy là lợi ích lắng tai, tức là tâm giải thoát không có chấp thủ. […] AN.3.67, Các vấn đề được nói đến (Kathāvatthu) Cần phải lên tiếng, không phải cứ im lặng là tốt - Này Potaliya, có bốn hạng người này có mặt, hiện hữu ở đời. Bốn hạng người nào? Ở đây, này Potaliya, có hạng người chê người đáng chê một cách đúng việc, đúng đắn, và đúng lúc; nhưng không khen người đáng khen một cách đúng việc, đúng đắn, và đúng lúc. Ở đây, này Potaliya, có hạng người khen người đáng khen … nhưng không chê người chê … Ở đây, này Potaliya, có hạng người không khen người đáng khen … cũng không chê người đáng chê … Ở đây,

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 119 này Potaliya, có hạng người chê người đáng chê … và khen người đáng khen … Này Potaliya, trong bốn hạng người này hạng người nào ông chấp nhận là vi diệu hơn, thù thắng hơn? - … Thưa Tôn giả Gotama, trong bốn hạng người này, tôi cho là hạng người không chê người đáng chê … cũng không khen người đáng khen … là đáng được chấp nhận rằng vi diệu hơn, thù thắng hơn trong bốn hạng người trên. Vì sao? Thưa Tôn giả Gotama, quân bình là điều vi diệu nhất. - … Này Potaliya, trong bốn hạng người này, hạng người chê người đáng chê … và khen người đáng khen … là vi diệu hơn, thù thắng hơn, đối với bốn hạng người trên. Vì sao? Này Potaliya, biết đúng và biết thời là điều vi diệu nhất. … AN. 4.100, Kinh Potaliya. Nói sau lưng và nói thẳng trước mặt Ta đã nói về việc \"không nên nói sau lưng cũng không nên nói thẳng trước mặt\", vì sao ta nói như vậy? Tại đây, này các tỳ-kheo, khi biết được điều nói sau lưng là không thực, hư dối, và có hại, nếu có thể được, thì hoàn toàn chớ nên nói. Khi biết được điều nói sau lưng là có thực, chính xác, nhưng có hại, thì hãy tự chế đừng nói. Khi biết được điều nói sau lưng là có thực, chính xác, và có lợi ích, thì hãy lựa thời điểm để nói. khi biết được điều nói thẳng trước mặt là không thực, hư dối, và có hại, nếu có thể được, thì hoàn toàn chớ nên nói. Khi biết được điều nói thẳng trước mặt là có thực, chính xác, nhưng có hại, thì hãy tự chế đừng nói. Khi biết được điều nói thẳng trước mặt là có thực, chính xác, và có lợi ích, thì hãy lựa thời điểm để nói. … MN 139. Kinh Vô Tránh Phân Biệt (Araṇavibhaṅgasutta). 5 điều cân nhắc trước khi buộc tội người khác Lúc đó, tôn giả Sāriputta nói với chư tỳ-kheo: - Này chư hiền giả, khi một tỳ-kheo muốn buộc tội người khác, hãy cân nhắc năm điều này trước. Năm điều gì? \"Tôi sẽ nói đúng lúc, không sai lúc\"; \"Tôi sẽ nói dúng sự thật, không phải sai sự thật\"; \"Tôi sẽ nói ôn hòa, không phải thô bạo\"; \"Tôi sẽ nói một cách lợi ích, không phải nói một cách tai hại\"; \"Tôi sẽ nói với từ tâm, không phải với sân tâm\". ... AN.5.167, Kinh buộc tội (Codanā).

120 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp 2 điều người bị buộc tội cần cân nhắc Này chư hiền giả, người bị buộc tội cần phải an trú trong hai điều: chân thực và bình tĩnh. Này chư hiền giả, nếu các người khác buộc tội tôi, đúng lúc hay sai lúc, đúng sự thật hay sai sự thật, ôn hòa hay thô bạo, có lợi ích hay tai hại, với từ tâm hay sân tâm, thì cần phải an trú trong hai điều: chân thực và bình tĩnh. Nếu tôi nghĩ \"Pháp này có trong tôi\", thì tôi sẽ nói là có. Nếu tôi nghĩ \"Pháp này không có trong tôi\", thì tôi sẽ nói là không. AN.5.167, Kinh buộc tội (Codanā). 10 trường hợp không thể giáo hóa Có mười loại người chẳng thể dùng lời để giáo hóa được: 1/kẻ ngạo mạn, 2/kẻ ngu độn, 3/kẻ hay lo sợ, 4/kẻ quá vui, 5/kẻ hay e ngại, 6/kẻ nói lắp, 7/kẻ thù hận, 8/kẻ đói lạnh, 9/kẻ bận việc, 10/người đang suy nghiệm. Đó là mười trường hợp không thể dùng lời để giáo hóa. T.790, Phật Thuyết Bột Kinh Sao. 10 trường hợp mình không thể khuyên can Có mười trường hợp: 1/tham lam keo kiệt, 2/tham đắm sắc đẹp, 3/lờ mờ mông lung, 4/nóng nảy hung bạo, 5/chống đối xung đột, 6/mệt nhọc cực khổ, 7/kiêu mạn phóng túng, 8/ưa thích đấu đá, 9/chấp nhất ngu si, 10/tiểu nhân hẹp hòi. Đó là mười trường hợp chẳng thể can ngăn. T.790, Phật Thuyết Bột Kinh Sao.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 121 ĂN CHAY NIỆM PHẬT ĐỂ TIÊU NGHIỆP Ăn chay niệm Phật tiêu được cả tội ngũ nghịch Có đứa giết mẹ cùng cha Làm điều ác nghiệp cứ mà sát sanh Quy y bỏ dữ làm lành Các tội sau khỏi ngục hình hay chăng Diêm vương lời mới phán rằng Vả trong Phật pháp không ngằn nhiệm sâu Độ người có bỏ ai đâu Khắp trong ba cõi kể hầu xiết chi Dầu ai trước đã ngu si Sau hay sám hối qui y sửa lòng Ăn chay niệm Phật chuyên ròng Các tội nghiệp trước ắt đồng cũng tiêu Ví như nhà tối đã lâu Một ngọn đèn đốt đâu đâu sáng đều Phật là bình đẳng thương yêu Rất lòng nguyện chúng đều theo đạo lành Một lòng lân mẫn chúng sanh 76 Tin nghe độ đặng tung hoành thời thôi Toàn Nhật, Hứa sử truyện vãn, câu 1283-300. Nghiệp báo luân hồi Chẳng qua một niệm trước sai Làm đường ác nghiệp nhiều đời vô minh Ắt sa vào loại súc sinh Hoặc làm cha mẹ chị anh ông bà Phàm gian nhục nhãn tin tà Vật chi cách vách coi mà thấy đâu Lọ là kiếp trước kiếp sau Luân hồi khác vóc, biết đâu cho tường Giết nhau lòng nỡ chẳng thương Huống sau lại mắc oan ương đời đời Vả món máu thịt tanh hôi Có dùng là loại ma lồi yêu tinh Các vị chánh trực thần linh Mang gần những giống hôi tanh làm gì Nói cho tỏ sự thầy nghe 76 Lân mẫn: Thương xót.

122 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp Đến sau trở về thuật với nhân gian Chớ tin phù thủy bóng chàng Cùng lời thầy bói gây đường trái oan Vả mình bệnh khổ chẳng an Hoặc nhiễm thương hàn khí huyết già suy Phép đời đã có lương y Thuốc điều tiết dưỡng ắt thì bệnh an Hoặc là kiếp trước trái oan Đời nay nghiệp báo phải toan làm lành Lẽ đương mãi vật phóng sanh Cầu trời khấn Phật kệ kinh cần quyền Ắt là bệnh đặng nhờ thuyên Có đâu giết nó cầu yên thân mình Cũng như lời ví trong kinh Lửa kia đã hết dầu rinh đổ vào Ắt là nổi trận hỏa hào Càng thêm cháy lắm lẽ nào tắt cho Thế gian ít biết xét so Hôn mê tâm tánh hồ đồ phóng ngôn Gọi rằng không quả không nhân Địa ngục thiên đường tội phúc cũng không Cho nên mới ở buông lung Sát sanh ác nghiệp, quen lòng làm ngang Sát sanh tế tự cầu an Đã không lợi ích gây đàng oan gia Huống chi vì miệng vóc ta Khi không giết nó quyết đà chẳng nên Toàn Nhật, Hứa sử truyện vãn, câu 1689-730. Lời nói nên hòa nhã (…) Tất cả các ngươi đều là người học đạo, cần phải siêng năng cúng dường Phật, nhằm diệt trừ nghiệp ác. Tâm niệm miệng niệm tụng, phải tin, hiểu, nghe, biết. Nên ở nơi yên tĩnh, gần thiện tri thức, nói lời hòa nhã, đúng lúc, không sợ khiếp, thấu đáo nghĩa lý, viễn ly ngu mê, an trụ bất động, xem hết mọi pháp vô thường vô ngã, vô tác vô vi, ở chỗ lìa phân biệt. Đó mới thật là người học đạo. Duyên hóa độ của ta nay đã xong. Thiền uyển tập anh, 27. Thiền sư Tịnh Lực. Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tính Mình ngồi thành thị; Nết dụng sơn lâm.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 123 Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tính; Nửa ngày rồi tự tại thân tâm. Trần Nhân Tông, Cư trần lạc đạo phú, Hội 1. Dừng tam nghiệp mới lặng thân tâm Thật thế! Hãy xá vô tâm; Tự nhiên hợp đạo. Dừng tam nghiệp mới lặng thân tâm; Đạt một lòng thì thông tổ giáo. Trần Nhân Tông, Cư trần lạc đạo phú, Hội 6. Niệm Phật dập tắt được ba nghiệp Việc niệm Phật là do tâm khởi. Tâm khởi điều thiện thì niệm thiện, niệm thiện khởi thì có nghiệp thiện báo. Tâm khởi điều ác thì niệm ác, niệm ác sinh thì có nghiệp ác ứng. Như gương hiện ảnh, như bóng theo hình. Thế nên Vĩnh Gia thiền sư nói: “Vô niệm thì vô sanh” chính là ý nghĩa này. Nay người học muốn khởi chánh niệm để dập tắt ba nghiệp, cũng là nhờ công niệm Phật. Vì sao niệm Phật dập tắt được ba nghiệp? Vì trong lúc niệm Phật thì thân thẳng ngồi ngay, không làm việc sai, do đó dập tắt thân nghiệp. Miệng tụng chân ngôn, không nói điều bậy, do đó dập tắt khẩu nghiệp. Ý chăm tinh tấn, không khởi niệm tà, do đó dập tắt ý nghiệp. Trần Thái Tông, Khóa hư lục, Niệm Phật luận.

124 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp TÀI LIỆU THAM KHẢO ĐẠI TẠNG Pāḷi Tạng, Mahāsaṅgīti Tipiṭaka Buddhavasse 2500, tham chiếu CST4 (Chaṭṭha Saṅgāyana Tipiṭaka Version 4.0), bản điện tử tại: https://tipitaka.org/romn/ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Taishō Shinshu Daizōkyō ‒ 大 正新修大藏經, tham chiếu CBETA 線上閱讀 (CBETA Online Reader) 上線: http://cbetaonline.dila.edu.tw Vạn Tục Tạng, Wan xu zang ‒ 卍續藏, tham chiếu CBETA 線上 閱讀 (CBETA Online Reader) 上 線 : http://cbetaonline.dila.edu.tw Bibliotheca Polyglotta, University of Oslo, https://www2.hf.uio.no/polyglotta/index.php Kinh tạng Nikāya, Thích Minh Châu et. al dịch, 20 tập, Truyền Đăng, 2017. Tam tạng Pāli-Việt. http://tamtangpaliviet.net/ Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh. http://www.daitangkinh.org/index.php SÁCH KHÁC Duy-ma-cật sở thuyết, Tuệ Sỹ dịch, nxb. Hồng Đức, 2020. Hoàng Thị Ngọ, Thiền tông bản hạnh, TT. Nghiên cứu Quốc học, nxb. Văn học, 2009. Lê Mạnh Thát, Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh, nxb. Phương Đông, 2006. Lê Mạnh Thát, Toàn tập Toàn Nhật Quang Đài, 2 tập, nxb.THTPHCM, 2005. Luật Tứ Phần, Thích Nguyên Chứng, Thích Đức Thắng dịch, nxb. THTPHCM, 2006. Peter Harvey, ed. Common Buddhist Text: Guidance and Insight from the Buddha. Mahachulalongkornrajavidyalaya

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 125 University Press, 2017. Tạp A-hàm, Thích Đức Thắng, Tuệ Sỹ dịch, nxb. Hồng Đức, 2019. Thích Thanh Từ, Khóa Hư Lục giản giải, nxb. VHVN, 2019. Thích Thanh Từ, Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục giảng giải, nxb. VHVN, 2016. Trần Trọng Dương, Thiền tông khóa hư ngữ lục, TT. Nghiên cứu Quốc học, nxb. Văn học, 2009. Trường A-hàm, Tuệ Sỹ dịch, nxb. Hồng Đức, 2018. Trung A-hàm, Tuệ Sỹ dịch, nxb. Hồng Đức, 2019.

126 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp Sách ấn tống nhưng bán cũng được.


Like this book? You can publish your book online for free in a few minutes!
Create your own flipbook