Important Announcement
PubHTML5 Scheduled Server Maintenance on (GMT) Sunday, June 26th, 2:00 am - 8:00 am.
PubHTML5 site will be inoperative during the times indicated!

Home Explore Hướng dẫn an chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp

Hướng dẫn an chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp

Published by Chiec La Cuon Bay, 2022-03-08 05:37:09

Description: Hướng dẫn an chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp

Search

Read the Text Version

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 39 18. Bạch Thế Tôn, con nguyện không chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác khi con đã đạt được giác ngộ, nếu có bất kỳ chúng sanh nào ở thế giới khác, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nghe danh hiệu của con, tưởng nhớ đến con với tín tâm, những chúng sanh đó trong lúc lâm chung nếu con không xuất hiện trước mặt họ để dẫn dắt, cùng với chư Thánh tăng bao quanh. 19. Bạch Thế Tôn, con nguyện không chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nếu chúng sanh ở vô lượng vô số cõi Phật nghe danh hiệu của con, phát khởi thiện căn và hồi hướng công đức lành muốn tái sinh về Phật độ của con mà không được tái sanh về đó – ngay cả những người chỉ niệm danh hiệu này mười lần26. Ngoại trừ những chúng sanh phạm tội ngũ nghịch27 và tội phỉ báng Chánh pháp.28 20. Bạch Thế Tôn, con nguyện không chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác khi con đạt được giác ngộ, nếu những chúng sanh sinh ở Phật độ của con không phải chỉ một đời nữa là chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ngoại trừ những Bồ-tát Đại sĩ, những người đã phát nguyện lớn, mặc áo giáp kiên cố, vì lợi ích và giác ngộ cho hết thảy thế gian, thực hành Bồ-tát đạo trong tất cả các cõi nước, vì thệ nguyện phụng sự tất cả chư Phật, an trú chúng sanh nhiều như số cát trong sông Hằng ở nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nguyện tu thù thắng hạnh, và những người đã hoàn hảo sự tu tập vì lợi ích chung… 29. Bạch Thế Tôn, con nguyện không chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nếu khi con đạt được giác ngộ, Phật độ của con không soi chiếu vô lượng, vô số, không thể tính kể, không thể nghĩ bàn cõi nước Phật, như chiếc gương sáng soi hình khuôn mặt rõ ràng… 26 Theo Talban (476-542), vị tổ đầu tiên của Tịnh Độ Tông ở Trung Quốc, điều này có nghĩ là mười niệm chuyên chú không gián đoạn của A-di-đà và cũng là mười lần trì niệm liên tục tên của Ngài (bằng cách niệm Namo’mitābhāya Buddhāya (theo tiếng Sanskrit), Nan-mo A-mi-tuo Fo (theo tiếng Trung Quốc), Namo Amida Butsu (theo tiếng Nhật): thể hiện sự kính trọng đến đức Phật A- di-đà). 27 Cố ý giết mẹ, cha, hoặc một vị A-la-hán, làm thân Phật chảy máu, hoặc gậy nên sự chia rẽ trong Tăng đoàn. 28 Việc đánh số và thiết lập lời nguyện của Phật A-di-đà hơi khác một chút giữa bản tiếng Sanskrit và bản tiếng Trung. Như vậy, lời nguyện nổi tiếng được biết đến là Bản Nguyện Thứ Mười Tám của Phật A-di-đà ở Phât giáo Đông Á được gộp kèm nội dung của lời nguyện thứ hai mươi của văn bản tiếng Trung, được đánh số mười chín trong bản tiếng Phạn.

40 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp 32. Bạch Thế Tôn, con nguyện không chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nếu khi con đạt được giác ngộ, chúng sanh trong vô lượng, vô số, không thể tính kể, không thể nghĩ bàn cõi nước Phật xúc chạm được đến ánh sáng của con mà họ không tràn đầy an lạc siêu việt trời người… 37. Bạch Thế Tôn, con nguyện không chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nếu khi con đạt được giác ngộ, thời điểm chúng sanh được sinh ra ở Phật độ của con mà không được hưởng an lạc của một tỳ-kheo a-la-hán lìa tham dục, an trú vào tĩnh lự thứ ba… 44. Bạch Thế Tôn, con nguyện không chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nếu khi còn đạt được giác ngộ, chúng sanh ở Phật độ của con khi họ nghĩ tưởng muốn nghe Pháp chân thật mà không được nghe. 45. Bạch Thế Tôn, con nguyện không chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nếu khi con đạt được giác ngộ, các vị Bồ- tát ở Phật độ của con, hoặc ở bất kỳ Phật độ nào, khi nghe đến danh hiệu của con mà không được bất thối chuyển. Sukhāvatī-vyūhaḥ (Vistara-mātṛkā).

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 41 QUY Y PHẬT Các loại quy y Quy y Phật Chúng sinh chẳng tri ân, Như Lai hiện thế gian, Phát ánh sáng bi trí, Xua tan đi bóng tối. Với tâm đầy đại bi, Ngài quán thấy chúng sinh, Đang khổ đau vô lượng, Trói buộc trong tam đồ.29 Chẳng ai trừ đức Phật, Tức vô thượng đạo sư, Giữa chư thiên, nhân loại, là nơi đáng nương tựa. T.278, Đại phương quảng phật hoa nghiêm kinh, p.444b15–20. Quy y tam bảo Kính lễ đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Tôi đi đến Phật, nơi nương tựa. Tôi đi đến Pháp, nơi nương tựa. Tôi đi đến Tăng, nơi nương tựa. Lần thứ hai tôi đi đến Phật, nơi nương tựa. Lần thứ hai tôi đi đến Pháp, nơi nương tựa. Lần thứ hai tôi đi đến Tăng, nơi nương tựa. Lần thứ ba tôi đi đến Phật, nơi nương tựa. Lần thứ ba tôi đi đến Pháp, nơi nương tựa. Lần thứ ba tôi đi đến Tăng, nơi nương tựa. KN.1, Saraṇā-gamanaṃ. Kệ nguyện quy y Cho đến khi đạt thành, được quả vị giác ngộ, 29 Các đường khổ khác nhau trong luân hồi.

42 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp con xin nguyện quy y, Phật, Pháp, Tăng tam bảo. Bằng công đức của việc, hành sáu ba-la-mật,30 mong thành tựu giác ngộ, để lợi lạc quần sanh! Bài nguyện quy y truyền thống của các phái Phật giáo Tây Tạng, được cho là do ngài Atiśa soạn. Quy y nghi quỹ Trước hết, đệ tử thỉnh với vị thượng sư (tiến hành nghi quỹ). Rồi vị thượng sư sửa soạn cúng dường trước ảnh tượng ngôi Tam Bảo hoặc, nếu điều này chẳng tiện, thì ngài quán tưởng Tam Bảo trụ trên hư không mà lễ bái cúng dường trong tâm. Rồi đệ tử tụng theo vị thượng sư như vầy: ‘Thập phương nhất thiết chư Phật chư bồ-tát, xin hãy lắng nghe con! Xin thượng sư hãy lắng nghe con! Con – tên như vầy – từ giờ cho đến khi đạt được tâm giác ngộ, xin quy y Phật, tối thắng nhân; xin quy y Pháp, tối thắng viễn ly tham dục; và quy y Tăng, tối thắng hội chúng!’ Kẻ ấy thành tâm lặp lại ba lần như vậy. ‘The Jewel Ornament of Liberation’, p.125. Bàn về quy y Các động lực quy y khác nhau Người ta quy y bởi hai động lực. Động lực thông thường là vì người ta không thể nhẫn thọ nỗi khổ đau của chính mình, và động lực đặc thù là vì người ta không thể nhẫn thọ nỗi khổ đau của tha nhân. ‘The Jewel Ornament of Liberation’, pp.124–25. Đức Phật là nơi quy y tối thượng […] Nếu có chúng sinh được Như Lai điều phục mà quy y Như Lai, được thấm nhuần bởi pháp, sinh tâm tín hỷ mà quy y Pháp và Tăng. Đó là nhị quy. Hai sự quy y này không giống như quy y Như Lai. Đệ nhất nghĩa quy y là quy y Như Lai. Vì sao? Không có 30 Sáu hành trì chính của bồ-tát: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Lưu ý rằng lời thệ quy y này cũng bao gồm lời thệ Đại Thừa về bồ-đề tâm.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 43 sự khác biệt giữa quy y Như Lai và hai quy y kia. Như Lai tức là ba quy y. T.353, Thắng-man sư tử hống nhất thừa phương tiện phương quảng kinh, ch.5, p. 221a02–15; cf., T.310, Đại bảo tích kinh, p.676b16–29. Tại sao có Tam Quy Này thiện nam tử, để diệt trừ khổ, để đoạn trừ phiền não và để cảm thọ niềm an lạc vô thượng của tịch diệt, do nhân duyên này mà thọ ba quy y… Phật, Pháp và Tăng. Phật là người chỉ dạy cách diệt trừ phiền não, nhân của khổ, đạt được giải thoát chân chánh. Pháp là giải thoát tối hậu, diệt trừ phiền não, nhân của khổ. Tăng là cộng đồng tu hành Thánh đạo, diệt trừ phiền não, nhân của khổ và thành tựu giải thoát chân thật. Có người nói rằng, nếu vậy, chỉ có một quy y mà thôi. Điều này không đúng. Vì sao? Vì cho dù Như Lai có xuất hiện trong thế gian này hay không, chánh Pháp vẫn luôn tồn tại dù không được nhận thấy. Chỉ khi nào Như Lai xuất hiện trên thế gian thì Pháp mới được nhận thấy. Do đó, không nên chỉ quy y Phật. Dù Như Lai có xuất hiện ở thế gian hay không, chánh Pháp vẫn luôn tồn tại, mà không có người thọ lãnh. Chính Tăng, đệ tử Phật, là những người thọ lãnh Pháp; vì vậy không nên chỉ quy y Tăng. T.1488, Ưu-bà-tắc giới kinh, ch.20, p.1061b04–14. Cách phát nguyện tam quy của bồ-tát tại gia Bồ-tát tại gia nên quy y Phật như thế nào? Vị ấy nên nghĩ rằng, ‘Ta cần phải thành tựu Phật thân được trang nghiêm bằng 32 tướng tốt của Phật. Ta sẽ nhiếp trì các thiện căn cần thiết để hội đủ 32 tướng đại nhân. Để hội đủ những diệu tướng này, ta cần phải tự tinh tấn dũng mãnh.’ Này trưởng giả, đây là cách bồ-tát tại gia quy y Phật. Bồ-tát tại gia nên quy y Pháp như thế nào? Này trưởng giả, bồ- tát cung kính Pháp và người thuyết Pháp; khao khát Pháp, vui trong Pháp, cực kỳ hỷ lạc trong Pháp của Pháp. Vị ấy là người hộ Pháp, an trú trong Pháp, thọ trì Pháp, hộ trì Pháp, an trụ kiên cố nơi Pháp, tán dương Pháp, ban bố Pháp, an trụ trong pháp hành, tăng trưởng pháp, cầu Pháp, lấy Pháp làm sức mạnh, tự trang bị khí trượng Pháp, duy chỉ phục vụ Pháp.Vị ấy nghĩ rằng, ‘Khi tôi chứng đắc quả vị Chánh đẳng chánh giác, tôi sẽ truyền bá chánh Pháp này bình đẳng đến cho tất cả người, trời và a-tu-la. Này trưởng giả, đây là cách Bồ-tát tại gia nên quy y Pháp.

44 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp Này trưởng giả, bồ-tát tại gia nên quy y Tăng như thế nào? Bồ- tát khi gặp vị tu-đà-hoàn, tư-đà-hàm, a-na-hàm, hoặc a-la-hán, hoặc một kẻ phàm phu đang tu tập thanh văn thừa, bồ-tát nên tôn kính tất cả họ; nhanh chóng đứng dậy đón chào, nói những lời hòa ái, giọng điệu êm dịu, và đi nhiễu phía bên phải quanh những vị ấy. Bồ-tát nên nghĩ rằng, ‘Khi tôi thành tựu vô thượng chánh đẳng chánh giác, tôi sẽ diễn thuyết Chánh Pháp vì mục đích thành tựu công đức thanh văn.’ Tuy sanh tâm cung kính như vậy, nhưng tâm không xác lập trong đó. Này trưởng giả, đây là cách bồ-tát tại gia nên quy y Tăng. T.310, Đại bảo tích kinh, Pháp hội Úc-già trưởng lão, pp.472c22–473a09.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 45 NIỆM PHẬT Các tùy niệm Niệm Phật, Pháp, Tăng Khi vị thánh đệ tử tùy niệm như vậy, tâm vị ấy không bị chi phối bởi tham, sân, si; tâm vị ấy được chánh trực, do tập trung vào Như Lai, Pháp, hay Tăng. Thánh đệ tử, với tâm chánh trực, được nghĩa tín thọ, được pháp tín thọ, được hân hoan liên hệ đến pháp. Khi vị ấy có hân hoan, thì hỷ sanh; ai được nâng đỡ bởi hỷ, thì thân được khinh an; ai thân được khinh an, thì cảm giác lạc thọ; ai có lạc thọ, thì tâm được định tĩnh. Đây gọi là vị thánh đệ tử an trú bình thản dù giữa quần chúng không bình thản, vị an trú không não hại dù giữa quần chúng có não hại, vị nhập được pháp lưu và tu tập niệm Phật … Pháp … Tăng. Mahānāma Sutta: Aṅguttara-nikāya III.285. 10 tùy niệm Tu tập niệm Phật... tu tập niệm Pháp... tu tập niệm Tăng... tu tập niệm Giới... tu tập niệm Thí... tu tập niệm Thiên... tu tập niệm Hơi thở vô, Hơi thở ra... tu tập niệm Chết... tu tập Thân niệm... tu tập An tịnh niệm... vị này, này các tỳ-kheo, được gọi là một tỳ-kheo trú Thiền không phải trống không, đã làm theo lời dạy bậc Ðạo sư, là vị chịu nghe lời giáo giới, ăn đồ ăn quốc độ không phải uổng phí, còn nói gì vị ấy làm cho sung mãn pháp ấy. AN.1.485-94. Niệm Phật và quả báo thế gian Năng lực của ước muốn Này thiện nam tử, dục31 là căn bản của tất cả các thiện pháp. Dục là nhân duyên để thành tựu toàn giác và quả giải thoát. T.1488, Ưu-bà-tắc giới kinh, ch.20, p.1062b27–29. 31 Chanda, chỉ cho ước muốn nói chung.

46 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp Lợi ích của tùy niệm phật Này các tỳ-kheo, ở đây, thánh đệ tử tùy niệm Như Lai: \"Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán... Phật, Thế Tôn\". Này các tỳ-kheo, khi vị thánh đệ tử tùy niệm Như Lai, tâm vị ấy không bị chi phối bởi tham, … sân, … si, tâm được chánh trực, ra khỏi, giải thoát, xuất khỏi tham. Này các tỳ-kheo, tham đồng nghĩa với năm dục trưởng dưỡng. Này các tỳ-kheo, do lấy pháp này làm đối tượng, ở đây một số các loài hữu tình được thanh tịnh. AN.6.25, Lợi ích của tùy niệm phật (Anussatiṭṭhāna) Tụng các phẩm tánh của Phật, Pháp, Tăng có thể mang lại sự hộ trì và phước lành Chư linh tụ hội đến nơi đây, dù dưới đất hay trên trời mây, mong cho tất cả an vui đặng, và lắng lòng nghe những lời này. Do vậy, chư linh hãy chú tâm, khởi lòng bi mẫn đến nhân quần, vì họ đêm ngày thường cúng thí, xin các vị hãy gắng hộ trì. Tài bảo ở đâu quý nhất trời, chẳng sao sánh được với Như Lai. Tối thắng bảo ấy chính là Phật; với chân lý này, mong an vui. Ðoạn ái, ly tham, diệu bất tử, Thích tôn thiền chứng pháp vô tỷ. Tối thắng bảo ấy chính là Pháp; với chân lý này, mong an vui. Điều tôn Phật khen là thanh tịnh, vô tỷ thiền định vô gián quả. Tối thắng bảo ấy chính là Pháp; với chân lý này, mong an vui. Tám vị bốn đôi được tán thán.32 Phật đồ đáng cúng, được quả lớn. Tối thắng bảo ấy chính là Tăng; với chân lý này, mong an vui. 32 Các hạng thánh nhân, hoặc những người ở các mức độ giải thoát ban đầu hoặc cao hơn.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 47 Thiểu dục, kiên trì, khéo nghe Phật, đắc quả, bất tử, hưởng tịch tịnh. Tối thắng bảo ấy chính là Tăng; với chân lý này, mong an vui. Như trụ cắm đất, gió chẳng động, chân nhân nhập tuệ thấy Thánh đế. Tối thắng bảo ấy chính là Tăng; với chân lý này, mong an vui. Hiểu rõ Thánh đế, khéo tuệ thuyết: phóng dật cũng không sanh lần tám.33 Tối thắng bảo ấy chính là Tăng; với chân lý này, mong an vui. Giác đoạn thân kiến, nghi, giới thủ, thoát bốn đọa xứ, trừ sáu ác.34 Tối thắng bảo ấy chính là Tăng; với chân lý này, mong an vui. Không giấu bất thiện thân, ngữ, ý, chẳng nói ngài không thấy ác đạo. Tối thắng bảo ấy chính là Tăng; với chân lý này, mong an vui. Cây rừng trổ hoa, tháng đầu hạ, diệu Pháp ngài thuyết lợi niết-bàn. Tối thắng bảo ấy chính là Phật; với chân lý này, mong an vui. Thượng nhân biết rõ tối thượng pháp, ban bố, chuyển đạt pháp vô tỷ. Tối thắng bảo ấy chính là Phật; với chân lý này, mong an vui. ‘Cũ đoạn, mới không’, bỏ sanh ái, đoạn chủng, bất tăng, như đèn tắt. Tối thắng bảo ấy chính là Tăng; với chân lý này, mong an vui. Chư linh hội đây, đất hay trời, hãy cùng kính lễ đấng Như Lai, 33 Tức là đối với vị thánh Nhập lưu, dù cho có phóng dật, cũng không phải tái sanh quá 7 lần. 34 Giết người mẹ, giết cha, giết a-la-hán, làm tổn thương Phật, gây chia rẽ trong Tăng, hoặc tuyên thuyết các giáo lý ngoại đạo.

48 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp Phật được thiên nhân hằng tán thán. Mong cho tất cả được an vui. Chư linh hội đây, đất hay trời, hãy cùng kính lễ đấng Như Lai, Pháp được thiên nhân hằng tán thán. Mong cho tất cả được an vui. Chư linh hội đây, đất hay trời, hãy cùng kính lễ đấng Như Lai, Tăng được thiên nhân hằng tán thán. Mong cho tất cả được an vui. Khp.8, Ratana Sutta và Snp.222–38. Niệm phật để làm giàu Mẹ cha về chốn tiên hương Nay con chẳng khá khóc than buồn rầu Tụng kinh niệm Phật khẩn cầu Ngộ đặng đạo mầu ắt cũng thấy nhau Nếu con cứ một buồn rầu Bỏ trong Phật pháp ắt sau khốn nghèo Toàn Nhật, Hứa sử truyện vãn, câu 517-22. Niệm phật đặng phú quới Tại gia tiệm giới tiệm trai35 Tác phúc niệm Phật thương loài chúng sinh Khoan nhân mẫn tuất dân tình Phúc truyền con cháu hiển vinh muôn đời Chân Nguyên, Thiền tông bản hạnh, câu 549-552. Niệm Phật vãng sanh Phương tiện niệm Phật vãng sanh Nên biết Như Lai có thắng phương tiện, nhiếp hộ tín tâm, gọi là dùng nhân duyên chuyên ý niệm Phật, tùy thuận được sinh cõi Phật phương khác, thường nhìn thấy Phật, mãi lìa đường ác, như kinh nói: nếu người chuyên niệm A-di-đà Phật của thế giới Tây phương Cực Lạc, liền được vãng sinh nên được thấy Phật. 35 Người tu tại gia thì ăn chay giữ giới dần dần.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 49 T.1963, Tịnh Độ Luận quyển trung, 4. Xuất đạo lý. Các môn tu hành không gì bằng niệm Phật Văn-thù nói: Điều ngươi đã hỏi nay chính phải thời, các môn tu hành không gì bằng niệm Phật. Vào thuở quá khứ nhân vì ta niệm Phật nên đắc Nhất thiết chủng trí. Pháp Chiếu lại hỏi rằng: Nên niệm thế nào? Văn-thù nói: phương Tây của thế giới này có đức Phật A-di-đà, nguyện lực khó nghĩ, ngươi nên hệ niệm đừng để cho gián đoạn thì mạng chung chắc chắn vãng sinh. Nói rồi xoa đầu cho Chiếu, Chiếu nghe vui sướng, ở nơi đó phát triển mạnh pháp môn niệm Phật. Vua Đức Tông ban sắc cho rước vào nội dạy cung nhân niệm Phật, pháp đạo chấn hưng to lớn. X.1154 Tịnh độ Chỉ quy tập, quyển thượng, I. Nguyên giáo môn, điều Văn-thù giáo giới. Già đến tu đường ngắn Già đến tu đường ngắn Chuyên niệm Phật A-di Một báo thân này hết Nước Cực lạc cùng về. Tịnh độ yếu nghĩa (Chân Nguyên) Mau trở lại cố hương Hiệp tua sau trước chuyên công Lâm chung mới thấy đức ông Di-đà Lời Phật vốn chẳng dối ta Khuyên đừng nghi ngại dần dà cõi đây Chăm lòng niệm Phật ăn chay Mau giã chốn này, trở lại cố hương. Toàn Nhật, Hứa sử truyện vãn, câu 4453-8. Thoát khỏi Ta-bà, về Tịnh Độ Ai mà có chí tu hành Một lòng tinh tiến tín thành chẳng sai Đã lòng niệm Phật ăn chay Tu đường nhân nghĩa thảo ngay làm đầu Sắc tài danh lợi mựa cầu Làm lành bỏ dữ mai sau mới nhờ Thoát nơi khổ não Ta-bà Về miền Tịnh độ rất là vui thay Toàn Nhật, Tam giáo nguyên lưu ký, câu 729-36.

50 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp Niệm phật nhất định sinh Cực lạc Vô thường tới một khi Mới hay người trong mộng Muôn thứ đem chẳng đi Theo mình chỉ có nghiệp Chỉ niệm Phật A-di Nhất định sinh Cực lạc. Chân Nguyên, Tịnh độ yếu nghĩa. Niệm Phật cõi người Tịnh độ hoa nở Niệm Phật cõi người Tịnh độ hoa nở Hóa sinh Tịnh độ Tất thấy Như Lai. Chân Nguyên. Tịnh độ yếu nghĩa. Niệm Phật và giới Niệm Phật như sống cùng Phật Khi một tỳ-kheo hết lòng tùy niệm về đức Phật, vị ấy … chinh phục được sự sợ hãi và kinh hãi. Vị ấy có thể chịu đựng khổ đau. Vị ấy đạt tới cảm thọ như thể mình được sống với bậc Đạo Sư. Và thân vị ấy, khi trú trong tưởng niệm những đặc tính của Phật, trở thành đáng tôn kính như một điện thờ. Tâm vị ấy hướng về cảnh giới của chư Phật. Khi vị ấy gặp một cơ hội phạm giới, vị ấy có tàm quý mạnh mẽ như đang đối diện đấng đạo sư. Visuddhimagga of Buddhaghosa, VII.67, pp.212–13. Giữ giới và tụng kinh tinh chuyên Lại thưa hiền giả: muốn sinh Tịnh độ, chỉ cần giữ giới, niệm Phật, tụng Kinh Di-đà, mỗi ngày chia ra mười lăm lần, cũng nên theo thời lễ tán việc trang nghiêm Tịnh độ, rất cần tinh tấn, hoặc ai được ba vạn, sáu vạn, mười vạn đều là người thượng phẩm thượng sinh. T.1959, Quán niệm A-di-đà Phật Tướng hải Tam-muội Công đức Pháp môn. Tu niệm phật trong mọi thời (1) Ở đây, này Mahānāma, Thánh đệ tử tùy niệm Như Lai: \"Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc,

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 51 Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn\". Khi nào, này Mahānāma, Thánh đệ tử niệm Như Lai, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si chi phối; trong khi ấy, tâm vị ấy được chánh trực nhờ dựa vào Như Lai. Và này Mahānāma, một Thánh đệ tử, với tâm chánh trực, được nghĩa tín thọ, được pháp tín thọ, được hân hoan liên hệ đến pháp. Người có hân hoan, nên hỷ sanh. Người có hỷ, nên thân được khinh an. Với thân khinh an, vị ấy cảm giác lạc thọ. Người có lạc thọ, tâm được định tĩnh. Này Mahānāma, về vị Thánh đệ tử này, được nói như sau: \"Với quần chúng không bình thản, vị ấy sống bình thản. Với quần chúng có não hại, vị ấy sống không não hại. Nhập được pháp lưu, vị ấy tu tập niệm Phật\". AN.6.10, Mahānāma. Thực hành niệm phật trong 4 oai nghi Việc đời ai dũ sạch rồi Đi đứng nằm ngồi niệm Phật tinh chuyên Ắt là cảm ứng tự nhiên Thời mình thấy Phật hiện tiền chẳng không Nếu ai trọc loạn tấm lòng Phật tuy có đó cũng không thấy rồi Phật như trăng tỏ trên trời Muôn phương soi thấu đòi nơi sáng lòa. Toàn Nhật, Hứa sử truyện vãn, câu 1627-34. Niệm Phật và định Niệm Phật tiêu trừ sợ hãi … Này các tỳ-kheo, khi các ông đi vào rừng, đi đến gốc cây hay đi đến nhà trống, nếu run sợ, hoảng hốt, hay lông tóc dựng ngược có khởi lên, trong khi ấy hãy niệm nhớ đến ta: \"Ngài là Thế Tôn, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn\". Này các tỳ-kheo, khi các ông niệm nhớ đến ta, thời sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược có khởi lên, sẽ được tiêu diệt… SN.11.3, Ðầu Lá Cờ (Dhajagga)

52 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp Lý nhất tâm và sự nhất tâm Chân kệ nói: con đường pháp môn niệm Phật tiếp bậc căn khí thượng thượng, lại dẫn luôn cơ trung và hạ, cho nên thuyết Nhất tâm bất loạn gồm chứa luôn cả hai ý là lý nhất tâm và sự nhất tâm. Nếu người sự nhất tâm đều có thể đem thực hành chỉ một ức niệm như rồng được nước, tợ hổ dựa núi, tức Kinh Lăng- nghiêm nói: Nhớ Phật niệm Phật, hiện tiền và đương lai ắt hẳn thấy Phật, phương tiện chẳng giả, tự đắc tâm khai. X.1163, Tây phương Trực chỉ, quyển thượng, chương 1, điều Nhất tâm niệm Phật. Cách niệm phật Hoặc một ngày đêm, hoặc bảy ngày đêm, chí tâm niệm Phật không làm nghiệp khác, cho đến thấy Phật niệm nhỏ thấy nhỏ niệm lớn thấy lớn, cho đến vô lượng kẻ niệm thấy sắc thân Phật vô lượng vô biên, thân hình Phật kia ba mươi hai tướng, trong mỗi một tướng vừa niệm vừa quán đều khiến sáng tỏ, tùy chỗ thấy tướng thấy ánh sáng xanh, trong ánh sáng kia chuyên tinh hệ ý không để cho tâm loạn. T.397, Đại Phương đẳng Đại tập Kinh, quyển 43, phẩm 10: Nhật Tạng phần Niệm Phật tam-muội. Tâm bất biến giữa dòng đời vạn bién Này Mahānāma, ở đây, ông hãy tùy niệm về Như Lai thế này: \"Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn\". Này Mahānāma, trong khi thánh đệ tử tùy niệm về Như Lai, thì tâm không bị tham ám ảnh, tâm không bị sân ám ảnh, tâm không bị si ám ảnh, mà tâm được chánh trực nhờ duyên với Như Lai. Vị thánh đệ tử, này Mahānāma, với tâm chánh trực, có được nghĩa tín thọ, có được pháp tín thọ, có được hân hoan liên hệ đến pháp. Khi có hân hoan, thì hỷ sanh; khi có hỷ, thì thân được khinh an; khi thân khinh an, thì cảm giác được lạc thọ; khi có lạc thọ, thì tâm được định tĩnh. Này Mahānāma, như vậy gọi là bậc thánh đệ tử sống đạt được bình đẳng với chúng sanh không bình đẳng, sống đạt được vô sân với chúng sanh có sân, nhập được pháp lưu, tu tập Phật tùy niệm. Này Mahānāma, ông cần phải tu tập tùy niệm Phật này khi đi, … khi đứng, … khi ngồi, … khi nằm, … khi chú tâm vào các công việc, … khi ông sống tại trú xứ đầy những con nít. AN.11.11‒12, Mahānāma 1.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 53 Thiền định tùy niệm Phật Con sẽ sống trong rừng, Thiền định tùy niệm Phật, Đức Ðiều Ngự chí tôn, Ngày đêm chẳng lười biếng. Theg.5.8, Vakkali, v.354. Niệm Phật vô lượng Hãy niệm Phật vô lượng, Tâm có được tịnh tín, Thân thấm nhuần hỷ lạc, Luôn cảm thấy phấn chấn. Theg.6.2, Tekicchakāni, v.382. Tứ niệm ca Trên tòa bất thoái chuyển, hiệp nhất phương tiện - tuệ, thượng sư đáng quy y; Phật đoạn phiền, toàn giác.36 Xả bỏ đi tất cả, các vọng chấp phân biệt, cầu xin ngài gia hộ, cho được thanh tịnh tưởng. Chẳng để cho tâm mình, phóng dật theo vọng niệm, hãy an trú tâm ấy, thành tâm và kính ngưỡng. Chẳng bao giờ quên ngài, dù chỉ trong chốc lát, giữ tâm ấy như vậy, thành tâm và kính ngưỡng. ‘The Song of the Four Mindfulnesses’. 36 Nghĩa là, một người đã xả ly tất cả phiền não cần phải xả ly và giác ngộ tất cả sự thật được giác ngộ. Trong Kim Cương Thừa, người đệ tử được yêu cầu phải xem vị thượng sư của mình như chính đức Phật.

54 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp Niệm Phật và tuệ Nhập Vô sinh nhẫn do niệm Phật Ta vốn nhân địa lấy niệm Phật, tâm nhập Vô sinh nhẫn, nay ở cõi này thâu nhiếp người niệm Phật quy về Tịnh độ. Phật hỏi viên thông, ta không chọn lựa, đều thâu sáu căn, tịnh niệm nối tiếp đắc Tam-ma-địa thế là bậc nhất! T.945, Đại Phật đỉnh Như Lai Mật nhân Tu chứng Liễu nghĩa chư Bồ-tát vạn hạnh Thủ-lăng-nghiêm Kinh, quyển 5. Niệm Phật là con đường mau ngắn dẫn tới giác ngộ Muốn mau chứng pháp vô sanh Tua khá chuyên tình sáu chữ A-di A-di-đà thời thời tưởng niệm Ắt là ma khó nhiễm khó xâm Dầu mà các việc tội lầm Niệm Di-đà Phật, thân tâm an hòa Tại gia cùng kẻ xuất gia Đều cũng tín niệm Di-đà mựa sai Khắp trong tăng tục ai ai Tua khá nhớ lời ta dặn chớ quên Toàn Nhật, Hứa Sử truyện vãn, câu 2685-94. Niệm Phật và giải thoát 10 tùy niệm đưa đến giải thoát Này các tỳ-kheo, có một pháp khi được tu tập, được làm cho sung mãn, sẽ đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, niết-bàn. Một pháp đó là gì? Đó chính là niệm Phật. Này các tỳ-kheo, chính một pháp này khi được tu tập, được làm cho sung mãn, sẽ đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết- bàn. Này các tỳ-kheo, có một pháp khi được tu tập, được làm cho sung mãn, sẽ đưa đế nhất hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, niết-bàn. Một pháp đó là gì? Đó chính là niệm Pháp... Tăng... Giới... Thí... Thiên... Hơi thở vô, Hơi thở ra... Chết... Thân... An tịnh. AN 1.296-305

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 55 Niệm phật là con đường mau ngắn Đức Thích-ca Như Lai đã đem pháp môn tối thượng trong 84.000 pháp môn, quảng diễn cho chúng sanh trình tự tu tập Tịnh độ. Đây là chiếc thuyền từ bi chở hết lục đạo vượt qua biển khổ. Người ta bỏ công đơn giản, mà lại chứng quả mau chóng. Ai có thể phát tâm niệm Phật một cách chí thành thì việc đời nay tới thẳng Tây phương là điều khả dĩ. Xuất gia lẫn tại gia, thiện nam và tín nữ, muôn người tu muôn người được, kết quả không còn ngờ. Chân Nguyên, Long thư tịnh độ bạt hậu. Tùy niệm vô thượng Này các tỳ-kheo, ai bằng lòng tin an trú, lòng ái mộ an trú, nhứt hướng thuần tín, mà tùy niệm Như Lai hay đệ tử Như Lai, thì tùy niệm ấy là vô thượng, đưa đến thanh tịnh cho các loài chúng sanh, vượt qua sầu bi, chấm dứt khổ ưu, đạt được chánh lý, chứng ngộ niết-bàn... AN.6.30, Tùy niệm vô thượng (Anuttariya)

56 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp LIÊN HỆ THIỀN – TỊNH – MẬT 4 cách niệm Phật Người tìm rõ thường niệm tướng, điều này có nhiều loại, chia theo lớn là bốn: một là định nghiệp, gọi là ngồi thiền nhập định quán Phật; hai là tán nghiệp, gọi là đi–đứng–ngồi–nằm tán tâm niệm Phật; ba là hữu tướng nghiệp, gọi là hoặc quán tướng giỏi, hoặc niệm danh hiệu, nhàm chán Uế độ, chuyên cầu Tịnh độ; bốn là vô tướng nghiệp, gọi là tuy xưng niệm Phật vui cầu Tịnh độ nhưng quán thân và độ tức là tất cánh không, như ảo như mộng, tức thể mà không. Tuy không mà có, chẳng phải có chẳng phải không, thông suốt lẽ bất nhị này thì nhập Đệ nhất nghĩa không thật, ấy gọi là vô tướng nghiệp. T.2682, Vãng Sinh Yếu Tập, quyển hạ (mạt). 3 cấp độ niệm Phật Nhưng kẻ trí có ba hạng. Bậc thượng trí thì tâm tức là Phật, chẳng cần tu thêm. Niệm tức là bụi trần, chẳng vướng mảy may. Niệm cùng trần vốn là tịnh, nên gọi là như như bất động. Đó là thân Phật. Thân Phật tức là thân ta, chẳng có hai tướng. Mọi tướng đều bất nhị, lặng lẽ thường còn, còn mà không biết, đó gọi là Phật sống. Bậc trung trí ắt nhờ vào niệm Phật. Chú ý siêng năng, niệm niệm không quên, tâm mình thuần thiện. Niệm thiện đã hiện, thì niệm ác liền tiêu; niệm ác đã tiêu, thì chỉ còn niệm thiện. Dùng niệm mà ý thức về niệm thì niệm niệm đều diệt. Khi niệm đã diệt, thì ắt về chánh đạo. Lúc mệnh chung sẽ được niềm vui Niết bàn “Thường lạc ngã tịnh”. Đó là Phật đạo. Kẻ hạ trí miệng siêng niệm lời Phật, lòng muốn thấy tướng Phật, thân nguyện sinh ở nước Phật, ngày đêm siêng tu, không hề thoái chuyển. Như vậy đến khi mệnh chung sẽ theo niệm thiện mà được sinh ở nước Phật, sau đó học được chánh pháp chư Phật dạy mà chứng được bồ-đề, cũng vào quả Phật. Ba hạng trí này nông sâu chẳng đồng, nhưng sở đắc là một. Nhưng bậc thượng trí thì nói dễ mà hành khó. Người đời nay muốn theo mà học, nhưng vì không có chỗ nương gá, nên hầu hết chỉ trông bờ rồi lui, khó đặt chân tới. Bậc trung trí nếu có thể siêng năng tu hành như đã nói ở trên thì thức khắc thành Phật. Nếu như các lậu chưa hết mà đã chết thì tùy theo nhân quả mà

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 57 thọ sanh ở đời để nhận thiện báo. Khi thiện báo đã hết, nếu không có người cảnh tỉnh, cũng lại sẽ rơi vào ác đạo. Những kẻ như vậy thì cũng khó đắc đạo. Còn kẻ hạ trí lấy niệm làm bậc, lấy tinh tấn làm thang, chú ý thiện duyên, nguyện sinh vào nước Phật. Nếu siêng năng chẳng lười biếng, tâm tính thuần thục thì sau khi mạng chung sẽ tùy theo ý nguyện mà được sinh vào nước Phật. Đã sinh ở nước Phật thì thân đó không bao giờ mất. Người học ngày nay đã được thân người, thì ba nghiệp đều có. Thế mà không dùng niệm Phật để cầu sinh vào nước Phật, chẳng phải cũng khó sao? Nếu như muốn niệm Phật, nên lấy cách của kẻ hạ trí làm đầu. Vì sao? Bởi vì có sự chú ý. Ví như làm một tòa lâu đài ba tầng mà không làm tầng dưới trước, đó là điều không thể có. Trần Thái Tông, Khóa Hư Lục. Tham thiền niệm Phật phải tinh chuyên Bằng ai đạo hãy mơ màng Tìm nơi tịch tĩnh lo đàng tu nhân Xa vòng thành thị nhân dân Tụng kinh lễ sám ân cần không ly Nương theo kinh luật tu trì Tham thiền niệm Phật chẳng khi nào rời Minh tâm kiến tánh đã rồi Vậy sau mới khá ra đời ứng cơ Người người thọ độ đều nhờ Ngày sau ắt đặng một nhà siêu sanh Bằng ai thức tánh chưa thanh Gần chốn thị thành ở cảnh phong ba Xưng mình lợi kỷ lợi tha Như thuyền chưa chắc đem ra đưa người Gặp cơn sóng gió ngoài khơi Ắt là đều đắm giữa vời chẳng không Toàn Nhật, Hứa sử truyện vãn, câu 849-64. Thấy chư Phật trong định Đức Phật nói với Bạt-đà-hòa (Bhadrapāla), ‘Nếu một người tu tập như vậy sẽ đạt được tam-muội mà ở đó tất cả chư Phật hiện tại sẽ xuất hiện trước vị ấy tức thì. Một tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu- bà-tắc, ưu-bà-di muốn thực hành theo cách này nên giữ gới đầy đủ, ở riêng một mình, nhất tâm nhớ nghĩ về đức Phật A-di-đà hiện nay đang ở nước Cực lạc cách đây ngàn ức vạn cõi Phật về phương Tây, trong một ngày một đêm hoặc bảy ngày bảy đêm…

58 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp Bồ-tát an trú tự tại trong tam-muội như thế này, thông qua oai thần lực của chư Phật, sẽ có thể nhìn thấy bất cứ vị Phật nào mà họ muốn. Vì sao? Nhờ lực của chư Phật, lực của tam-muội, và lực nơi công đức đã tu tập của mình. … Đức Phật nói, ‘Này Bạt-đà-hòa, lành thay, vì hình sắc thanh tịnh nên bóng ảnh cũng thanh tịnh. Nếu người ta muốn thấy Phật thì liền được thấy, thấy rồi thưa hỏi và sẽ nhận được sự hồi đáp. Người nghe kinh nói vậy, vô cùng hoan hỷ, và nghĩ rằng, ‘Đức Phật từ đâu đến, ta đi đến chỗ nào? Tự mình niệm Phật, nhưng Phật không từ đâu đến, ta cũng chẳng đi đến đâu. Cũng như vậy, nếu tự ta niệm Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới, ba xứ này này đều do tâm ý tạo ra. Ta niệm cái gì thì thấy cái đó. Tâm tạo ra Phật. Tâm tự thấy tâm. Tâm này là tâm Phật. Tâm Phật này là thân ta.’ T.417, Phật thuyết bát chu tam-muội kinh, ch.2. Tịnh độ là lòng trong sạch Tịnh độ là lòng trong sạch, Chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương; Di-đà là tính sáng soi, Mựa phải nhọc tìm về Cực Lạc. Trần Nhân Tông, Cư trần lạc đạo phú. Tịnh Mật song tu Ngã niệm A-di-đà, chỉ thị A-di-đà, nhữ niệm A-di-đà, Di-đà khước thành ma, như hà khước thành ma, vị liễu tát-bà-ha, ngã liễu tát-bà-ha, niệm niệm A-di-đà. (Dịch): Ta niệm A-di-đà, thực là A-di-đà, ngươi niệm A-di-đà, Di-đà lại thành ma, tại sao lại thành ma, chẳng rõ tát-bà-ha, ta rõ tát-bà-ha, niệm niệm A-di-đà. Phật Tâm Luận (khuyết danh), trích lời Trần Nhân Tông.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 59 Nội mạn-đà-la của ngũ báo thân Phật EMAHO! Lại nữa, kẻ hữu hạnh, hãy nghe tụng ca này! Tỳ-lô-giá-na Phật, ở trong chẳng ở ngoài. Chân Phật Tỳ-lô ấy, là bản tánh của tâm Pháp giới thể tánh ấy, chẳng chướng ngại hý luận, Và thể tánh vô minh, thanh tịnh ngay khi ấy. Kim Cang Tát-đỏa Phật, ở trong chẳng ở ngoài. Chân Kim Cang Tát-đỏa, là gương đại viên kính, Biến hiện không ngừng nghỉ, bởi hiện năng của tâm, Và thể tánh sân khuể, thanh tịnh ngay khi ấy. Đức Bảo Sanh Thế Tôn, ở trong chẳng ở ngoài. Chân Phật Bảo Sanh ấy, là bình đẳng như nhau, Không nhận hay chối từ, chứng minh hay bác bỏ, Và thể tánh kiêu mạn, thanh tịnh ngay khi ấy. Đức A-di-đà Phật, ở trong chẳng ở ngoài. Chân Phật A-di-đà, diệu quán vô ngại giải, Ẩn mật ở bên trong, phạm vi của không lạc, Và thể tánh tham dục, thanh tịnh ngay khi ấy. Bất Không Thành Tựu Phật, ở trong chẳng ở ngoài. Chân Bất Không Thành Tựu, là sở tác thành tựu, Sự trực tiếp tức thì, tự giải thoát của trí, Và thể tánh nghi đố, thanh tịnh ngay khi ấy. ‘The Flight of the Garuda’, p.196. Bản Sơ Phật Phổ Hiền37 nguyện tán HO! Thế và chúng luân niết, cùng trụ một căn bản – hai đạo thành hai quả: biến hiện giác, vô minh. Bằng Phổ Hiền quảng nguyện, mong thảy đều chứng đắc, quả Phật-đà viên mãn, trong toàn pháp giới cung! Chân như bản thể tánh, vô vi và tự tại, quảng đại, bất khả tư, chẳng gọi luân hay niết. Giác liễu: ngươi là Phật, 37 Ādibuddha Samantabhadra.

60 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp không: chúng sanh luân hồi, mong tam giới38 hữu tình, chứng ly ngôn thật nghĩa! Ta, Phổ Hiền, chứng đắc, tự tại trí như vậy, ly nhân và ly duyên, không trong cũng không ngoài, chẳng xác nhận, phủ nhận, nó là vô cấu uế, bởi thất niệm hắc ám, nên tự hiển vô nhiễm. An trú bản giác tánh, tam giới hoại chẳng sợ, không tham lam chấp trước, nơi ngũ dục ở đời. Vô biệt tự tại trí, trong ấy chẳng hề có, các sắc tướng hiện khởi, hay ngũ độc39 phát sanh. Bất đoạn quang bản giác, căn bản của ngũ trí. Từ ngũ trí viên mãn, hiện ngũ bộ sơ Phật.40 Khi trí tuệ tăng trưởng, tứ thập nhị Phật41 khởi; ngũ trí uy quang lực, lục thập ẩm huyết tôn.42 Bởi lý do như thế, bản giác căn bản ấy, vốn chẳng thể bao giờ, bị điên đảo mê hoặc. 38 Tức là mọi cấp độ của hiện hữu, từ địa ngục thấp nhất đến thiên giới vi tế nhất: xem ‘tam giới’ trong phần Bảng chú giải thuật ngữ và tên riêng. 39 Đồng với năm phiền não, chúng được liệt kê dưới đây như là các phiền não tăng thượng của mỗi cảnh giới tái sanh. 40 Các bộ của năm Báo thân Phật như là những phát chiếu của Phổ Hiền. 41 Bốn mươi hai Báo thân Phật an tĩnh xuất hiện trong các ảnh tượng hậu tử được mô tả trong ‘Tử thư Tây Tạng’. 42 Còn được gọi là các ‘phẫn nộ tôn’ (heruka) đại diện cho các năng lực động của tâm thường được thể hiện thành phẫn nộ, tấn công (hay tương tự) nhưng có thể chuyển hóa qua đạo lộ Mật tục thành các năng lượng giác ngộ. Các vị cũng được nêu nhiều trong ‘Tử thư Tây Tạng’.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 61 Ta là bản sơ Phật, thanh tịnh quảng đại nguyện, chúng hữu tình luân hồi, trong khắp cùng ba cõi, Có thể liễu tri được, tự tại bản giác trí, và viên mãn hết thảy, vô số loại trí tuệ. Hóa thân ta vô gián, hóa hiện vô lượng tôn, dạy rất nhiều giáo pháp, giúp chúng điều phục tâm. Bằng đại bi nguyện này, chúng hữu tình luân hồi, trong khắp cùng ba cõi, thoát lục đạo khổ xứ. Từ khởi vô thủy lai, chúng sanh bị mê hoặc, không thể trực ngộ được, căn bản tự tánh ấy, Trú si ám thất niệm, đó chính là vô tri, là cội rễ nguyên nhân, của tất thảy si hoặc. Họ khởi trong vô thức, bỗng dưng sanh bố úy, tâm niệm sanh loạn động, khởi chấp trước tự tha. Tập khí dần tăng trưởng, họ nhập đạo luân hồi. Ngũ độc phiền não tăng, ngũ độc nghiệp vô gián. Bất chánh tri thất niệm, đệ nhất nhân si hoặc; ta, Phật, phát đại nguyện, mong thảy minh giác tánh. Câu sanh vô minh ấy, sanh thất niệm tán loạn; còn phân biệt vô minh, tự tha nhị chấp thủ. Câu sanh và phân biệt, hai vô minh căn bản,

62 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp là nguyên nhân khiến cho, chúng sanh mãi điên đảo. Ta, Phật, phát đại nguyện, mong hết thảy chúng sanh, luân chuyển trong sanh tử, tiêu hắc ám thất niệm, và thanh tịnh được khỏi, năng sở nhị vọng chấp, cũng như liễu tri được, bản cụ tự minh tánh. Với tâm nhị chấp trước, luôn ở trong nghi hoặc, vi tế khởi tham trước, tập khí tiệm tăng trưởng. Khởi tham trước ở nơi, thực, tài, y, xứ, bạn; ngũ dục thân quyến đẳng, nhiệt não bởi dục lạc. Tất thảy những dục này, là thế gian ảo hoặc, do vậy nhị thủ nghiệp, cũng vô tận vô cùng. Khi quả tham chín muồi, họ sanh làm ngạ quỷ, giày vò bởi khao khát, trong đói khát khốn cùng. Ta, Phật, phát đại nguyện, chư hữu tình tham dục, chẳng kềm sở nhiệt ái, chẳng theo sở chấp thủ; mà tự tâm an trú, ở trạng thái tự nhiên,43 tiếp xúc tự bản giác, đắc diệu quan sát trí. Nội tâm bị ảo động, bởi sợ nơi ngoại cảnh, tăng trưởng sân tập khí, khởi địch, phẫn, sát hại. 43 Theo truyền thống Đại Thành Tựu (Dzogchen), trạng thái tự nhiên của tâm là đồng với tâm của Phổ Hiền. Sự giác ngộ của các phiền não trong tâm mà chẳng kềm nén hay biểu lộ chúng cũng được tìm thấy trong một khía cạnh của thực hành chánh niệm trong Thượng Tọa Bộ.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 63 Rồi trái đắng lòng sân, chín muồi khi đến lúc, họ sanh vào địa ngục, chịu khổ đốt sục sôi. Ta, Phật, phát đại nguyện, mong chúng sanh sáu nẻo, với sân khuể mãnh liệt, khỏi mà chẳng thủ xả; mong họ tiếp xúc được, bản giác của chính mình, và mong họ có thể, chứng đạt minh tích trí.44 Khi tâm khởi cao ngạo, sẽ tranh chấp hạ người, thành tập khí kiêu mạn, mãi chịu khổ đấu tranh. Khi nghiệp quả chín muồi, họ tạm sanh thiên chúng, nhưng lúc dư báo tận, sẽ bị thoái đọa ngay. Ta, Phật, phát đại nguyện, khi chúng tâm ngạo mạn, thì sẽ được buông xả, về trạng thái tự nhiên, và khi tái tiếp xúc, với bản giác của mình, họ có thể chứng ngộ, được bình đẳng tánh trí. Khổ tự tán hủy tha, bằng tập khí sâu dày, của nhị chấp huân nhiễm, nuôi tranh đấu, tật đố, Sẽ dẫn đến tái sanh, sát lục phi thiên xứ, nhưng lúc dư báo tận, sẽ bị đọa địa ngục. Ta, Phật, phát đại nguyện, chúng sanh ai còn trong, khổ tật đố tranh đấu, xả oán địch, chẳng chấp, 44 Cũng gọi là đại viên kính trí.

64 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp rồi khi tái tiếp xúc, bản giác ở nơi mình, họ có thể chứng ngộ, vô ngại Phật hành trí.45 Mê hồ và ngu si, đãng trí với hôn thùy, tán loạn sanh thất niệm, sanh vô dụng súc sanh. Ta, Phật, phát đại nguyện, mong ánh sáng thanh tịnh, chiếu rọi chúng hữu tình, còn ngu si hắc ám. rồi khi tái tiếp xúc, bản giác ở nơi mình, sẽ có thể chứng ngộ, tự do tư tưởng trí.46 Mỗi mỗi chúng hữu tình, trong khắp cùng ba cõi, thảy đều đồng như Phật, ở thể tánh chân như. Nhưng do trầm thất niệm, mê hoặc điên đảo tâm, tạo sáu vô nghĩa nghiệp,47 mộng ảo thú lục đạo. Ta vốn vẫn có Phật, từ nguyên thủy bản sơ, điều phục lục đạo chúng, bằng hóa thân của mình. Ta, Phật, phát đại nguyện, mong tất thảy hữu tình, chẳng dư sót một ai, thành Phật trong Pháp giới. ‘Tantra Showing the Transparency of the Samantabhadra’s Buddha Mind’, 1: 535– 541. 45 Cũng gọi là thành sở tác trí. 46 Cũng gọi là pháp giới thể tánh trí. 47 Loại thứ sáu, nhân loại nghiệp (hay hành động dẫn tới tái sanh vào cõi người) không được kể riêng trong bài tán này.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 65 Nguyện Giải thoát khỏi Vực thẳm Trung hữu Kính lễ đức thượng sư, Bổn Tôn Không Hành Mẫu!48 Xin chỉ dẫn cho con, bằng đại bi mẫn hạnh! Con luân chuyển sanh tử, theo ảo vọng mê mờ, Xin chỉ dẫn cho con, hỡi phối tôn, mật chủ,49 Trên đường quang minh đạo, câu sanh bản giác trí,50 Xin hộ trì cho con, không hành tôn thắng mẫu; Xin cứu giúp cho con, khỏi trung hữu hiểm ải Và dẫn con cho đến, nơi chân mãn Phật địa! Con luân chuyển sanh tử, theo vô minh dày đặc, Xin chỉ dẫn cho con, Tỳ-lô-giá-na Phật (Vairocana Buddha), Trên đường quang minh đạo, pháp giới thể tánh trí, Xin hộ trì cho con, Không Giới Tôn Thắng Mẫu (Ākāśadhātvīśvarī);51 Xin cứu giúp cho con, khỏi trung hữu hiểm ải Và dẫn con cho đến, nơi chân mãn Phật địa! Con luân chuyển sanh tử, theo sân khuể mãnh liệt, Xin chỉ dẫn cho con, Kim Cang Tát-đỏa Phật (Vajrasattva Buddha),52 48 Thượng sư (guru) là thầy dạy mật tục và ‘không hành mẫu’ (ḍākinī) là vị nữ miêu tả cho năng lượng trí tuệ giác ngộ trong truyền thống Mật giáo. Chẳng hạn, năm ‘Phật mẫu’ – phối ngẫu với năm ‘Phật phụ’ – hiện thân của năng lượng thanh tịnh của ngũ đại. 49 ‘Phối tôn’ là vị nam phối của các không hành mẫu, ‘mật chủ’ là các đạo sư về mật giáo. 50 Trí bất nhị của từng sát-na kinh nghiệm. 51 ‘Tôn thắng Mẫu của Không đại’. 52 ‘Kim cang hữu tình’, ở đây là một tên khác của Akṣobhya, tức ‘Bất Động’.

66 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp Trên đường quang minh đạo, của đại viên kính trí, Xin hộ trì cho con, Phật Nhãn Tôn Thắng Mẫu (Buddhalocanā);53 Xin cứu giúp cho con, khỏi trung hữu hiểm ải Và dẫn con cho đến, nơi chân mãn Phật địa! Con luân chuyển sanh tử, theo kiêu mạn cực độ, Xin chỉ dẫn cho con, hỡi đức Bảo Sanh Phật (Ratnasambhava Buddha), Trên đường quang minh đạo, của bình đẳng tánh trí, Xin hộ trì cho con, Ma-ma-chỉ Tôn Mẫu (Māmakī);54 Xin cứu giúp cho con, khỏi trung hữu hiểm ải Và dẫn con cho đến, nơi chân mãn Phật địa! Con luân chuyển sanh tử, theo tham dục kiên cố, Xin chỉ dẫn cho con, hỡi A-di-đà Phật (Amitābha Buddha), Trên đường quang minh đạo, của diệu quan sát trí, Xin hộ trì cho con, Bạch Y Tôn Thắng Mẫu (Pāṇḍaravāsinī);55 Xin cứu giúp cho con, khỏi trung hữu hiểm ải Và dẫn con cho đến, nơi chân mãn Phật địa! Con luân chuyển sanh tử, theo nghi đố thúc đẩy, Xin chỉ dẫn cho con, Bất Không Thành Tựu Phật (Amoghasiddhi Buddha), Trên đường quang minh đạo, của thành sở tác trí, 53 ‘Phật nhãn’ nhân cách hóa bản tánh thanh tịnh của địa đại. 54 Māmakī (không rõ cách dịch) nhân cách hóa thủy đại. 55 ‘Bạch Y Mẫu’ là tinh tủy thanh tịnh của hỏa đại.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 67 Xin hộ trì cho con, Trinh Tín Tôn Độ Mẫu (Samayatārā);56 Xin cứu giúp cho con, khỏi trung hữu hiểm ải Và dẫn con cho đến, nơi chân mãn Phật địa! Con luân chuyển sanh tử, do bởi theo ngũ độc,57 Xin chỉ dẫn cho con, hỡi năm đức Phật phụ, Trên đường quang minh đạo, của tứ trí kết hợp,58 Xin hộ trì cho con, hỡi năm tôn thắng mẫu; Xin cứu giúp cho con, khỏi trung hữu hiểm ải Và dẫn con cho đến, nơi chân mãn Phật địa! Con luân chuyển sanh tử, theo tập quán đưa đẩy, Xin chỉ dẫn cho con, an tĩnh, phẫn nộ59 Phật, Trên đường quang minh đạo, của khủng bố ảo kiến, Xin hộ trì cho con, phẫn nộ tôn thắng mẫu; Xin cứu giúp cho con, khỏi trung hữu hiểm ải Và dẫn con cho đến, nơi chân mãn Phật địa! Con luân chuyển sanh tử, theo vô minh sâu dày, Xin chỉ dẫn cho con, hỡi phối tôn, mật chủ, Trên đường quang minh đạo, câu sanh bản giác trí, 56 ‘Trinh Tín’ nhân cách hóa bản tánh thanh tịnh của phong đại. 57 Năm phiền não (hay ngũ tâm độc) được kể trong các bài kệ trước: si, sân, mạn, tham, và đố. 58 Năm loại trí trừ loại cuối, thành sở tác trí. 59 ‘Phẫn nộ Phật’ là thị hiện năng động của các Báo thân Phật an tĩnh đại diện cho năng lực chuyển hóa ngũ độc thành các loại trí tương ứng của chúng.

68 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp Xin hộ trì cho con, trát-cách-ni60 tôn mẫu; Xin cứu giúp cho con, khỏi trung hữu hiểm ải Và dẫn con cho đến, nơi chân mãn Phật địa! ‘The Tibetan Book of the Dead’, pp.185–191. 60 Ḍākinī: không hành mẫu.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 69 TỊNH ĐỘ NHÂN GIAN Làm các việc lành trên đời Thảo ngay nhân nghĩa hòa lành Thấy ai đói rách thương tình giúp cho Phước nhờ thừa thãi ấm no Của đời tạo hóa co ro làm gì Còn ai bần khổ cơ nguy Rủ nhau thọ phái quy y giữ gìn Ăn chay niệm Phật kỉnh tin Trọn đời tua vẹn thiện duyên vui làm Bỏ lòng bạc ác gian tham Giữ niềm nhân nghĩa, noi làm thảo ngay Lo đền đức trọng ân dày Một mai cũng đặng nhiều ngày thong dong Toàn Nhật, Hứa Sử truyện vãn, câu 61-72. Khuyên niệm Phật, khóc than người đã khuất không ích gì Dìu con nối gót dời chân Thầy bảo niệm Phật khóc than làm gì Về am hằng niệm A-di Đốt than bán củi, tùy thì nuôi nhau Một mình chạy trước lo sau Cơ hàn chẳng quản cần lao không nài Trước là lo cấp dưỡng thầy Sau nuôi con dại, mình gầy đoái chi Tuy là vợ sớm mất đi Ăn chay niệm Phật kiên trì chẳng thôi. Toàn Nhật, Hứa Sử truyện vãn, câu 465-74. Bồ-tát phụng sự cho hòa bình Giữa những cuộc chiến lớn, bồ-tát không phe nào. Chư đại lực bồ-tát vui, thích hòa hợp mọi người. Vimalakīrti-nirdeśa Sūtra, ch.7, section 6, verse 27. Các nguyên tắc đảm bảo sự an bình của quốc gia Này Ānanda, dân Vajjī sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm nếu họ vẫn thường hay tụ họp, … tụ họp trong niệm đoàn kết,

70 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp giải tán trong niệm đoàn kết, và làm việc trong niệm đoàn kết … không ban hành những luật lệ không được ban hành, không hủy bỏ những luật lệ đã được ban hành, sống đúng với truyền thống của dân Vajjī như đã ban hành thuở xưa … tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc trưởng lão Vajjī và nghe theo lời dạy của những vị này … không có bắt cóc và cưỡng ép những phụ nữ và thiếu nữ phải sống với mình … tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các tự miếu của Vajjī ở tỉnh thành và ngoài tỉnh thành, không bỏ phế các cúng lễ đã cúng từ trước, đã làm từ trước đúng với quy pháp … bảo hộ, che chở, ủng hộ đúng pháp các vị a-la-hán ở tại đó, khiến các vị a-la-hán chưa đến sẽ đến trong xứ, và những vị a-la-hán đã đến được sống an lạc. DN.16, Mahā-parinibbāna Sutta. Ngài Long Thọ luận về vương pháp [Hộ Pháp] 231. Vì kính ngưỡng (Tam Bảo), tạo vô số Phật tượng, bảo tháp và tự miếu, cùng các đại tăng viện. 232. Tạc trang nghiêm Phật tượng, bằng các chất liệu quý, sơn thếp, tọa liên hoa, trang nghiêm bằng trân bảo. 233. Dốc toàn lực hộ trì, Thánh Pháp và tăng chúng, lại trang nghiêm tháp Phật, bằng tấm lưới kim bảo. 234. Cúng tháp kim ngân hoa, kim cương và san hô, trân châu và lục bảo, phệ-lưu-ly, lam bảo. 235. Cúng dường Thánh Pháp sư, làm các việc hỷ duyệt, bằng lợi dưỡng, thừa sự, luôn y chỉ nơi Pháp. … [Chính sách văn hóa] 238. Cung cấp giấy lá buông, mực đen và bút tre,

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 71 cần cho việc ghi chép, những điều đức Phật dạy. 239. Để truyền bá tri thức, xây học đường khắp nước, cấp tá điền chăm sóc, cho sinh kế giáo thọ. [Y tế] 240. Để trừ khổ chúng sanh, lão, ấu, và kẻ bệnh, an trí thưởng đất đai, y dược sĩ cả nước. [Bố trí các phương tiện công cộng] 241. Kéo tuệ tác lữ xá, hoa viên và cầu, ao, lều rạp và bồn nước, giường, thức ăn, cỏ, củi. 242. Dựng lều rạp khắp chốn, thị, thôn, và gần chùa, cho bồn nước dọc dường, nơi thiếu nguồn cấp nước. [Phương sách phúc lợi xã hội] 243. Từ bi lo kẻ bệnh, không nhà và khổ bức, hạ tánh và bần cùng. Giúp người sống an ổn. 244. Các đồ ăn thức uống, đã sẵn bày ra đó, dù nấu, hạt hay quả, chưa cho đừng nên dùng. [Cung cấp nhu yếu phẩm công cộng] 245. Cho giầy kết, dù, lọc, kẹp gắp gai, kim, chỉ, cùng hiên mát che đầu, cạnh những bồn chứa nước.

72 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp 246. Đặt tam quả,61 tam tân,62 tô phong, mật, nhãn dược, tiêu độc gần bồn nước. Viết dược phương, thần chú. 247. Trang bị cho thân thể, dưới chân lẫn trên đầu, chăn bông, ghế đẩu, cháo, bát đồng, rìu cạnh bồn. 248. Xếp các chum đựng đầy, các loại mè, mễ, cốc, nước đường, dầu, và nước, chứa ở nơi râm mát. 249. Cho người đáng tin cậy, thường đặt thức ăn, uống, các nước đường và hạt, ngoài các cửa tổ kiến.63 [Cúng thí thực phẩm cho phi nhân] 250. Trước sau khi dùng bữa, luôn cúng thí thức ăn, đến các hàng ngạ quỷ, chó, trùng, chim, các loại. [Biện pháp kinh tế] 251. Chăm lo người bị hại, mất mùa và tổn hoại, ôn dịch và dân chúng, ở những vùng chiến bại. 252. Giúp đỡ người bần nông, bằng hạt giống, thực phẩm. Giúp cho họ miễn thuế, cũng giảm luôn cả tô. 253. Cứu tế người túng quẫn, trừ thuế ở cầu đường, 61 Quả chiêu liêu vàng, bàng hôi, và me rừng. 62 Gừng, gừng nâu (?), và tiêu lốt. 63 Có lẽ để ngăn chặn kiến tấn công vào khu vực nghỉ ngơi xung quanh bể chứa nước.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 73 giảm thuế nơi buôn bán. Trừ khổ chờ cửa xin. 254. Dẹp trộm cướp trong nước, cũng như các chư hầu. Giữ các mức lãi suất, ổn định giá thị trường. [Nguyên tắc cai trị] 255. Điều các đại thần tâu, nên tự mình tìm hiểu. Luôn làm hết mọi chuyện, vì lợi lạc thế gian. 256. Như ngươi chỉ lo nghĩ, ‘Làm sao được lợi mình?’, cũng thế hãy lo nghĩ, vì lợi ích tha nhân. 257. Ngươi hãy nên sẵn sàng, cấp các thứ mong muốn, như đất, nước, lửa, gió, thảo mộc lẫn cây rừng. … [Xây dựng các cơ sở tôn giáo mới] 307. Ngươi nay được phú quý, do xưa thí kẻ bần. Nếu vô ân, tham trước, không thí, sau chẳng còn. … 309. Nguyện thường phát đại bi, và làm các đại sự, do làm quảng đại nghiệp, định cảm quảng đại quả. 310. Tạo lập các pháp cơ, nơi tôn thờ Tam Bảo, mà các hạng tiểu vương, chẳng thể nghĩ bàn được. … 313. Ngươi rồi cũng phải chết, bỏ lại mọi tài sản, nhưng điều làm vì Pháp, sẽ dẫn bước cho ngươi. … 315. Dùng tiền vui đời này, cho đi vui đời sau.

74 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp Không dùng, cho, thì phí, chỉ còn khổ, không vui. 316. Lâm chung không thể thí, quần thần chẳng quý ngươi, mà xu nịnh tân vương, ngươi trở nên bất lực. 317. Nên thí lập pháp cơ, khi ngươi còn quyền lực, cái chết luôn chực chờ, đời như đèn trước gió. [Bảo dưỡng các cơ sở đã có] 318. Ngươi cũng nên bảo hộ, các pháp cơ đã có, các tự viện đền tháp, tạo bởi các tiên vương. 319. Lo người bằng bất hại, thiện hành và trì giới, từ tâm, chân thật, nhẫn, vô tranh, hằng tinh cần. [Phương sách phúc lợi khác] 320. Kẻ mù, bệnh, ty hạ, không nhà, cùng khổ, què, cũng nhận được chẳng ngại, đồ ăn và thức uống. 321. Hỗ trợ kẻ theo Pháp, không có người chăm sóc, bằng mọi loại phương tiện, dù họ ở tha hương. [Bổ nhiệm chức vị] 322. Ngôi chủ lãnh pháp cơ, dùng người không cẩu thả, sáng suốt, không nóng tính; như pháp, không hại ai. 323. Ngôi đại thần cho người, rõ truyền thống, y pháp; nhu, tịnh, trung, vô độc; thiện gia, hiền, tri ân.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 75 324. Ngôi tướng lãnh cho người, khảng khái, vô tham, dũng, nhu hòa và khả tín, tận tụy và y pháp. 325. Còn ngôi vị tổng lãnh, cho trưởng lão tôn đức, nhớ thanh tịnh giáo pháp, thông xảo các ngành học; bình đạm và nhu hòa. [Cách cai trị] 326. Cho báo cáo từng tháng, lắng nghe, tự quyết định, tất cả các sự vụ, pháp cơ cùng mọi thứ. 327. Nếu cai trị lợi pháp, không cầu danh và dục, sẽ có được thắng quả, ngược lại chẳng được vậy. … 329. Nên chiêu nạp quanh mình, nhiều thiện gia lão thông, rõ phong tục, chế ác, biết việc gì phải làm. [Xử trí tội phạm] 330. Chẳng nên dùng xử tử, bắt trói và tra tấn, ngay cả họ đáng vậy, cũng đại bi nhiếp thọ. 331. Đại vương, người hãy thường, khởi bi mẫn nhiêu ích, thậm chí cho những kẻ, phạm phải cực trọng tội. 332. Tập khởi cả bi tâm, với kẻ trọng sát tội. Những kẻ hủy hoại mình, đều là đáng thương xót. 333. Tha bổng tội phạm nhỏ, từ một đến năm ngày,

76 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp còn lại tùy thời cơ, đừng bỏ ai chẳng thả. 334. Nếu ngươi quên phóng thích, tức sanh phi luật nghi, do phi luật nghi ấy, tương tục tích tội ác. 335. Khi tù còn chưa thả, hãy cho họ an ổn, bằng thế phát, mộc dục, y phục, ẩm thực, dược. 336. Như muốn dạy trẻ hư, tập phạt vì tình thương, hơn là sự tức giận, hay là lợi tài vật. 337. Khi ngươi điều tra được, sát nhân bởi cực sân, hãy đuổi họ khỏi nước, mà đừng giết hay hại. [Khuyên về cách trị quốc] 338. Luôn độc lập theo dõi, khắp toàn bộ đất nước. Tận tâm và chánh niệm, hành động y theo pháp. 339. Thiện thí, kính, thừa sự, với người làm phước điền, quảng đại tùy thuận hành, theo đức các vị khác. 340. Các chúng sanh như chim, nghỉ bóng nhẫn vương thụ, hoa tôn kính nở rộ, quả bố thí lớn lao. 341. Dân chúng sẽ hoan hỷ, vua uy đức quảng đại, cũng như một viên đường, bọc đậu khấu, hồ tiêu. … 343. Ngươi chẳng đem vương quốc, từ đời trước đến đây, và ngươi cũng chẳng thể,

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 77 mang nó đến đời sau – mà ngươi có được nó, nhờ hành theo chánh pháp, nên ngươi chớ làm gì, trái ngược lại chánh pháp. ‘The Precious Garland’, vv.231–257, 307, 309–10, 313, 315–27, 329–41, and 343.



Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 79 CHƯƠNG 3: KHẨU NGHIỆP NGHIỆP VÀ QUẢ Nghiệp Nghiệp là tư Này các tỳ-kheo, ta tuyên bố rằng tư (cetanā) là nghiệp; sau khi suy tư, người ta tạo tác các hành động về thân, về ngữ, về ý. AN.6.63, Nibbedhika Sutta. Hành động và tư duy quyết định tái sanh, không phải lễ nghi - Bạch Thế Tôn, các vị bà-la-môn các miền tây, mang bình nước, đeo vòng cỏ nước, tịnh hóa bằng nước, và thờ lửa để tìm thấy, triệu hồi, hướng dẫn, siêu độ về thiên giới những người đã mất. Còn Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có thể làm những gì để mọi người trên thế gian sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên thiện thú, thiên giới? - Này thôn trưởng, vậy ta sẽ hỏi ông, ông hãy kham nhẫn trả lời. Này thôn trưởng, ông nghĩ thế nào về việc sau? Có người sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời chia rẽ, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham lam, sân hận, theo tà kiến. Rồi có một đại chúng đông đảo, tụ tập, họp lại, cầu khẩn, tán dương, chắp tay đi nhiễu mà nói rằng “Mong người này sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên thiện thú, thiên giới!” Này thôn trưởng, ông nghĩ thế nào, có phải người ấy do nguyên nhân cầu khẩn của đại chúng ấy, hay tán dương, hay chắp tay đi nhiễu, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy được sanh lên thiện thú, thiên giới? - Thưa không, thưa ngài. - Này thôn trưởng, ví như, có người lấy tảng đá lớn ném xuống hồ nước sâu. Rồi có đại chúng đông đảo, tụ tập, họp lại, cầu khẩn, tán dương, chắp tay đi nhiễu mà nói rằng “Hãy trồi lên, này tảng đá lớn! Hãy nổi lên, này tảng đá lớn! Hãy dạt vào bờ, này tảng đá lớn!” Này thôn trưởng, ông nghĩ thế nào, tảng đá lớn ấy do nguyên nhân cầu khẩn của đại quần chúng ấy, hay tán dương, hay chắp tay đi nhiễu, có thể trồi lên, hay nổi lên, hay dạt vào bờ không?

80 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - Thưa không, thưa ngài. - Cũng vậy, người nào sát sanh … sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. - Ông nghĩ thế nào, này thôn trưởng? Ở đây, có người từ bỏ sát sanh, trộm cắp, …, không tham lam, không sân hận, có chánh tri kiến. Rồi có đại chúng đông đảo, tụ tập, họp lại, cầu khẩn … nói rằng “Mong người này sau khi thân hoại mạng chung bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục!” … Người ấy do nguyên nhân cầu khẩn … sau khi thân hoại mạng chung bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục không? - Thưa không, bạch ngài. - Này thôn trưởng, ví như có người nhận chìm ghè sữa đông hay ghè dầu vào trong hồ nước sâu rồi đập bể ghè ấy. Ghè ấy bể thành từng miếng, từng mảnh và chìm xuống. Còn sữa đông hay dầu thì nổi lên trên. Rồi có đại chúng đông đảo, tụ tập, họp lại, cầu khẩn … nói “Hãy chìm xuống, này sữa đông và dầu! Hãy dìm xuống, này sữa đông và dầu! Hãy lặn xuống, này sữa đông và dầu!” … Dầu ấy, có do nguyên nhân cầu khẩn … nên bị chìm xuống, hay dìm xuống, hay lặn xuống không? - Thưa không, bạch ngài.’ - Này thôn trưởng, cũng vậy, có người từ bỏ sát sanh … Rồi có đại chúng đông đảo, tụ tập, họp lại, cầu khẩn … nói “Mong rằng người này sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục!” Nhưng người ấy sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh lên thiện thú, thiên giới. SN.42.6, Asibandhaka-putta Sutta. Kết luận về nghiệp Này thanh niên, các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình; nghĩa là có liệt, có ưu. MN.135, Kamma vibaṅga.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 81 Quả báo của nghiệp Cách nghiệp quá khứ dẫn tới sự sai biệt giữa con người - Thưa Tôn giả Gotama, do nhân duyên gì mà lại có người liệt, người ưu trong loài người với nhau, dù họ đều là loài người? Chúng tôi thấy có người đoản thọ, có người trường thọ; có người nhiều bệnh, có người ít bệnh; có người xấu sắc, có người đẹp sắc; có người quyền thế nhỏ, có người quyền thế lớn; có người tài sản nhỏ, có người tài sản lớn; có người thuộc gia đình hạ liệt, có người thuộc gia đình cao quý; có người trí tuệ yếu kém, có người trí tuệ lớn mạnh. Thưa Tôn giả Gotama, tại sao lại có sự sai biệt được thấy giữa loài người? - Này thanh niên, chúng sanh là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự của nghiệp, được thai tạng từ nghiệp, là quyến thuộc với nghiệp, lấy nghiệp làm chỗ nương. Nghiệp phân chia chúng sanh thành có liệt, có ưu. … Này thanh niên, ở đây, có người đàn bà hay đàn ông, sát sanh, tàn nhẫn, tay dính máu, tâm chuyên sát hại, với tâm không từ bi đối với chúng sanh. Người đó, do làm các nghiệp ấy, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn nếu người ấy đi đến được loài người, thì sanh ra ở đâu cũng bị đoản mạng. Này thanh niên, sát sanh, tàn nhẫn, tay dính máu, tâm chuyên sát hại, với tâm không từ bi đối với chúng sanh là con đường đưa đến đoản mạng. Này thanh niên, nhưng ở đây, có người đàn bà hay đàn ông, từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ gậy, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh. Người này, do làm các nghiệp ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào thiện thú, thiên giới. Còn nếu người ấy đi đến loài người, thì sanh ở đâu cũng được trường thọ. Đây là con đường đưa đến trường thọ. Này thanh niên, ở đây, có người đàn bà hay người đàn ông, tánh hay não hại các loài chúng sinh, bằng tay, đá, gậy, hay dao. Do làm các nghiệp ấy, sau khi thân hoại mạng chung, … địa ngục. Còn nếu người ấy đi đến loài người, thì sanh ở đâu cũng bị nhiều bệnh hoạn. Này thanh niên, đây là con đường đưa đến nhiều bệnh hoạn. Này thanh niên, nhưng ở đây, có người đàn bà hay người đàn ông, tánh không hay não hại các loài hữu tình, bằng tay, đá, gậy, hay dao. Người này, do làm các nghiệp ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được được sanh vào thiện thú, thiên giới. Còn nếu

82 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp người ấy đi đến loài người, thì sanh ở đâu cũng được ít bệnh hoạn. Này thanh niên, đây là con đường đưa đến ít bệnh hoạn. Này thanh niên, ở đây, có người đàn bà hay người đàn ông cáu kỉnh, nóng nảy, ngay cả bị nói đến một chút cũng bất bình, phẫn nộ, sân hận, chống đối, tỏ lộ phẫn nộ, sân nhuế, bất mãn. Người này, do làm nghiệp ấy, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào … địa ngục. Còn nếu người ấy được đi đến loài người, sanh ở đâu cũng phải xấu sắc. Này thanh niên, đây là con đường đưa đến xấu sắc. Này thanh niên, nhưng ở đây, có người đàn bà hay người đàn ông không cáu kỉnh, không nóng nảy, dù bị nói đến nhiều cũng không bất bình, phẫn nộ, sân hận, chống đối, tỏ lộ phẫn nộ, sân nhuế, bất mãn. Người này, do làm các nghiệp ấy, sau khi thân hoại mạng chung … thiên giới. Còn nếu người ấy đi đến loài người, thì sanh ở đâu cũng được đẹp sắc. Này thanh niên, đây là con đường đưa đến đẹp sắc. Này thanh niên, ở đây, có người đàn bà hay người đàn ông, tật đố, oán hận và ghen tỵ đối với việc được quyền lợi, tôn trọng, cung kính, tôn sùng, đảnh lễ, cúng dường của kẻ khác. Người này, do do làm các nghiệp ấy, … phải quyền thế nhỏ. Đây là con đường đưa đến quyền thế nhỏ. Này thanh niên, nhưng ở đây, có người đàn bà hay người đàn ông, không có tật đố, oán hận và ghen tỵ đối với việc được quyền lợi, tôn trọng, cung kính, tôn sùng, đảnh lễ, cúng dường của kẻ khác. Người này, do làm các nghiệp ấy, … được quyền thế lớn. Đây là con đường đưa đến quyền thế lớn. Này thanh niên, ở đây, có người đàn bà hay người đàn ông, không bố thí cho sa-môn hay bà-la-môn các đồ ăn uống, y phục, xe cộ, vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, ngọa cụ, nhà cửa, đèn đuốc. … có tài sản nhỏ Này thanh niên, ở đây, có người đàn bà hay người đàn ông có bố thí cho sa-môn hay bà-la-môn … được tài sản lớn. Này thanh niên, ở đây, có người đàn bà hay người đàn ông ngạo nghễ và kiêu mạn, không đảnh lễ những người đáng đảnh lễ, không đứng dậy đối với người đáng đứng dậy, không mời ngồi những người đáng mời ngồi, không nhường chỗ đi cho những người đáng được nhường chỗ đi, không tôn trọng những người đáng tôn trọng, … phải sanh thuộc gia đình hạ liệt.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 83 Này thanh niên, nhưng ở đây, có người đàn bà hay người đàn ông không ngạo nghễ và kiêu mạn, đảnh lễ những người đáng đảnh lễ … được sanh vào gia đình cao quý. Này thanh niên, ở đây, có người đàn bà hay người đàn ông, không đi đến sa-môn hay bà-la-môn và hỏi: “Thưa Tôn giả, thế nào là thiện và thế nào là bất thiện? Thế nào là phạm tội và thế nào là không phạm tội? Thế nào là cần phải thực hành và thế nào là không cần phải thực hành? Làm gì để phải không lợi ích và đau khổ lâu dài? Hay làm gì để được lợi ích và an lạc lâu dài?” … phải trí tuệ yếu kém. Này thanh niên, nhưng ở đây, có người đàn bà hay người đàn ông, đi đến sa-môn hay bà-la-môn và hỏi … được trí tuệ lớn mạnh. … MN.135, Cūḷa-kamma-vibhaṅga Sutta. Các kinh nghiệm, và các thiện ác hành, chẳng phải đều do nghiệp quá khứ, Thượng Đế, hay vô nhân duyên ‘Này các tỳ-kheo, có ba y xứ này của ngoại đạo, dầu có bị các bậc hiền giả cật vấn, nạn vấn lý do, thảo luận, vẫn kiên trì trong quan điểm truyền thống về không có trách nhiệm hành vi. Ba điều chi? Có một số sa-môn, bà-la-môn thuyết như sau, chấp kiến như sau, ‘Phàm có cảm giác gì con người này lãnh thọ, lạc, khổ hay không khổ không lạc, tất cả đều do nhân nghiệp quá khứ.’ Có một số sa-môn, bà-la-môn thuyết như sau, chấp kiến như sau, ‘Phàm có cảm giác gì con người này lãnh thọ, lạc, khổ hay không khổ không lạc, tất cả đều do nhân một tạo hóa tạo ra.’ Có một số sa-môn, bà-la-môn thuyết như sau, chấp kiến như sau, ‘Phàm có cảm giác gì con người này lãnh thọ, lạc, khổ hay không khổ không lạc, tất cả đều do không nhân, không duyên.’ Ở đây, này các tỳ-kheo, đối với các vị sa-môn, bà-la-môn thuyết như sau, chấp kiến (thứ nhất) … hỏi họ, ‘Chư Tôn giả, có thật chăng, Chư Tôn giả có thuyết như sau, chấp kiến như sau …?’ Khi được hỏi, họ thừa nhận như vậy. Rồi ta nói với họ như sau, ‘Như vậy, thời theo các Tôn giả, do nhân nghiệp quá khứ, mà người ta sẽ trở thành người sát sanh, người lấy của không cho, người hành dâm,64 người nói láo, người nói hai lưỡi, người ác 64 Không phù hợp với những người xuất gia; trong danh sách các thân ác hành của cư sĩ, điều này được thay thế bằng ‘tà dâm’.

84 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp khẩu, người nói lời phù phiếm, người tham lam, người sân hận, người theo tà kiến? Với những ai dựa vào nghiệp quá khứ làm kiên thực, thời sẽ không có ước muốn, không có tinh tấn, không có việc phải làm hay việc không nên làm. Khi, về chân lý lẫn thực tế, việc nên làm và việc không nên làm là không thể được thấy bởi những người sống thất niệm và không hộ trì, và ngay cả danh xương ‘sa-môn’ cũng không thích hợp (cho họ). [Tương tự khi nói với hai thuyết kia.] AN.3.61, Titthāyatana Sutta. Không phải mọi tri giác đều do nghiệp tạo - Thưa ngài Cù-đàm, có những bà-la-môn xuất gia thấy và nói rằng: ‘Tất cả những con người tri giác đều bởi nhân quá khứ đã tạo. Tu khổ hạnh khiến sạch nghiệp quá khứ, không tạo nghiệp mới, đoạn các nhân duyên, không còn các lậu trong đời vị lai. Vì hết lậu nên hết nghiệp. Vì hết nghiệp nên hết khổ. Vì hết khổ nên rốt ráo biên tế của khổ.’ Còn chủ trương của ngài Cù-đàm ra sao? - Sa-môn, bà-la-môn kia thật sự nói hàm hồ, không suy nghĩ, không suy xét, ngu si, không khéo léo, không biện biệt. Vì sao? Chúng sanh có thể tri giác khổ khởi lên do gió, hoặc do đờm, hoặc do nước dãi, hoặc do kết hợp các yếu tố trên,65 hoặc do tự hại, hoặc do kẻ khác hại, hoặc do thời tiết khí hậu. Này Thi-bà, nếu họ siêng năng thực hành các thứ khổ như nhổ tóc, hoặc nhổ râu, hoặc thường đứng giơ tay, hoặc ngồi xổm trên đất, hoặc nằm giữa tro đất, hoặc nằm trên chông gai, hoặc nằm trên cái chày, hoặc nằm trên ván, hoặc nằm trên đất trét phân trâu, hoặc nằm trong nước, hoặc tắm rửa ngày ba lần, hoặc đứng một chân, thân xoay chuyển theo mặt trời, thì đó gọi là tự hại. Còn bị người khác dùng tay, đá, dao, gậy, các thứ hại thân là khổ do kẻ khác hại. Này Thi-bà, còn bị thời tiết làm hại, như mùa đông quá lạnh, mùa xuân quá nóng, mùa hè vừa nóng vừa lạnh, thì đó là bị thời tiết hại. Những điều này thật là có ở thế gian, chẳng phải giả dối. … nếu sa-môn, bà-la-môn nào nói rằng: tất cả những gì người ta tri giác được đều là nhân đã được tạo từ trước … , thì đó là bỏ việc thực 65 Quan niệm nguyên nhân bệnh của y học Ấn-độ thời bấy giờ.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 85 tế ở thế gian mà nói theo sự nhận thấy hư vọng của chính mình. … SA.977, Thi-bà (2). 4 loại nghiệp trắng/đen Này các tỳ-kheo, có bốn nghiệp này được ta thuyết giảng sau khi chứng ngộ với thắng trí. Bốn điều gì? Có nghiệp đen, quả đen; nghiệp trắng, quả trắng; nghiệp đen trắng, quả đen trắng; nghiệp không đen không trắng, quả không đen không trắng, đưa đến đoạn diệt nghiệp. Và này các tỳ-kheo, thế nào là nghiệp đen, quả đen? Này các tỳ- kheo, ở đây, có người làm thân, khẩu, hay ý hành có tổn hại. Do làm như vậy, người ấy tái sinh vào thế giới có tổn hại. Do sinh vào ở thế giới có tổn hại, người ấy chịu các xúc có tổn hại. Chịu các xúc có tổn hại, người ấy trực nghiệm những cảm thọ có tổn hại, thuần nhất khổ, như những chúng sinh trong địa ngục. Đây được gọi là nghiệp đen, quả đen. Và này các tỳ-kheo, thế nào là nghiệp trắng, quả trắng? Này các tỳ-kheo, ở đây, có người làm thân, khẩu, hay ý hành không có tổn hại. Do làm như thế, người ấy tái sinh vào thế giới không có tổn hại. Do sinh vào thế giới không có tổn hại, người ấy nhận các xúc không có tổn hại. Nhận các xúc không có tổn hại, người ấy trực nghiệm những cảm thọ không có tổn hại, thuần nhất lạc, như các vị trời ở Biến tịnh thiên. Đây được gọi là nghiệp trắng, quả trắng. Và này các tỳ-kheo, thế nào là nghiệp đen trắng, quả đen trắng? Này các tỳ-kheo, ở đây, có người làm thân, khẩu, hay ý hành có tổn hại và không tổn hại. Do làm như thế, người ấy tái sinh vào thế giới có tổn hại và không tổn hại. Do sinh vào thế giới có tổn hại và không tổn hại, người ấy có các xúc có tổn hại và không tổn hại. Nhận các xúc có tổn hại và không tổn hại, người ấy trực nghiệm những cảm thọ có tổn hại và không tổn hại, khổ và lạc xen lẫn nhau, như loài người và một số chư thiên ở các cõi trời thấp. Đây được gọi là nghiệp đen trắng, quả đen trắng. Và này các tỳ-kheo, thế nào là nghiệp không đen không trắng, quả không đen không trắng, đưa đến đoạn diệt nghiệp? Có tư tâm sở để đoạn tận nghiệp đen, quả đen; có tư tâm sở để đoạn tận nghiệp trắng, quả trắng; có tư tâm sở để đoạn tận nghiệp đen trắng, quả đen trắng. Đây được gọi là nghiệp không đen không trắng, quả không đen không trắng, đưa đến đoạn diệt nghiệp. …

86 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp AN.4.232. Định và bất định nghiệp (1) Này A-nan, có người không từ bỏ sát sanh, trộm cắp, nói dối, tà kiến, mà dù vậy… khi thân hoại mạng chung sanh về chốn lành, cõi trời. Đó là do trước kia người đó đã tạo tác nghiệp bất thiện,… do đó ở trong đời hiện tại thọ báo xong, rồi mới sanh về nơi đó. Hoặc do hậu báo, không vì nhân duyên này, nên người kia khi thân hoại mạng chung sanh về chốn lành, cõi trời. Hoặc trước kia đã tạo tác nghiệp thiện, … chưa tiêu hết, cần phải được thọ báo ở chốn lành… nên khi thân hoại mạng chung sanh về chốn lành, cõi trời. Hoặc khi chết khởi các tâm, và tâm sở thiện tương ưng với chánh kiến… nên khi thân hoại mạng chung sanh về chốn lành, cõi trời. Này A-nan, Như Lai biết người kia là như vậy. (2) Này A-nan, có người từ bỏ sát sanh, trộm cắp, nói dối, tà kiến, mà dù vậy… khi thân hoại mạng chung sanh về nẻo ác, địa ngục. Đó là do trước kia họ đã tạo tác nghiệp thiện, … do đó ở trong đời hiện tại họ thọ báo xong, rồi mới sanh về nơi đó. Hoặc do bởi hậu báo, không vì nhân duyên này, nên người kaa khi thân hoại mạng chung sanh về nẻo ác, địa ngục. Hoặc trước kia đã tạo tác nghiệp bất thiện, … chưa tiêu hết, phải thọ báo ở địa ngục… nên khi thân hoại mạng chung sanh về nẻo ác, địa ngục. Hoặc khi chết khởi tâm và tâm sở bất thiện tương ưng với tà kiến… nên khi thân hoại mạng chung sanh về nẻo ác, địa ngục. Này A-nan, Như Lai biết người kia là như vậy. (3) Này A-nan, có người không từ bỏ sát sanh, trộm cắp, nói dối, tà kiến, và do vậy… khi thân hoại mạng chung sanh về nẻo ác, địa ngục. Người kia do chính nhân duyên này, nên khi thân hoại mạng chung sanh về nẻo ác, địa ngục.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 87 Hoặc trước kia đã tạo tác nghiệp bất thiện, … chưa tiêu hết, nên phải thọ báo ở địa ngục… nên thân hoại mạng chung sanh về nẻo ác, địa ngục. Hoặc khi chết khởi các tâm và tâm sở bất thiện tương ưng với tà kiến… nên khi thân hoại mạng chung sanh về nẻo ác, sanh trong địa ngục. A-nan, Như Lai biết người kia là như vậy. (4) Này A-nan, có một người từ bỏ sát sanh, trộm cắp, nói dối, tà kiến, và do vậy… khi thân hoại mạng chung sanh về chốn lành, cõi trời. Người kia do chính nhân duyên này, nên khi thân hoại mạng chung sanh về chốn lành, cõi trời. Hoặc trước kia đã tạo tác nghiệp thiện, … chưa tiêu hết, phải được thọ báo thiện… nên thân hoại mạng chung sanh về chốn lành, cõi trời. Hoặc khi chết khởi các tâm và tâm sở thiện tương ưng với chánh kiến, … nên khi thân hoại mạng chung sanh về chốn lành, cõi trời. Này A-nan, Như Lai biết người kia là như vậy. MA.171, Phân biệt đại nghiệp kinh, Luân hồi Các cảnh giới tái sanh chính Này các tỳ-kheo, sự sai biệt của nghiệp là thế nào? Có nghiệp đưa đến cảm thọ ở địa ngục, hay ở loài bàng sanh, hay ở cõi ngạ quỷ, hay ở nhân gian, hay ở thiên giới. … Này các tỳ-kheo, sự dị thục của nghiệp là thế nào? Ta tuyên bố rằng nghiệp có ba loại dị thục: ở ngay đời hiện tại, ở đời sau, hay các đời sau đó. AN.6.63, Nibbedhika Sutta. Nhận biết về tái sanh và nghiệp Này các gia chủ, có những sa-môn, bà-la-môn có những lý thuyết và quan điểm rằng: ‘Không có (giá trị gì trong) bố thí, cúng dường, tế tự; không có kết quả hay dị thục của các nghiệp thiện

88 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp ác; không có đời này, không có đời sau;66 không có mẹ, không có cha;67 không có các loại hóa sanh;68 trên đời không có những vị sa-môn, bà-la-môn chân chánh hành trì, chân chánh thực hành, và những vị này tuyên bố về đời này và về đời sau sau khi đã tự chứng ngộ được chúng bằng thắng trí (tu tập tinh thần là không thể được; người ta không thể có thiện tuệ trực giác về tái sanh vào các sanh chủng khác nhau trên đời)’ – đối với những vị này, được thấy là họ sẽ từ bỏ ba thiện pháp này: thân thiện hành, ngữ thiện hành, ý thiện hành, và sẽ chấp nhận ba ác pháp này: thân ác hành, ngữ ác hành, ý ác hành. Vì sao vậy? Vì những vị tôn giả sa-môn, bà-la-môn ấy không thấy sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự cấu uế của các bất thiện pháp, cũng như họ chẳng thấy sự thoát ly, sự lợi ích và sự thanh tịnh của các thiện pháp. Vì rằng thực có đời sau, quan điểm nói rằng ‘không có đời sau’ là tà kiến của vị ấy. Vì rằng thực có đời sau, khi vị ấy suy tư rằng ‘không có đời sau’ thời đó là tà tư duy. MN.60, Apaṇṇaka Sutta. Luân hồi vô thủy Này các tỳ-kheo, luân hồi này không thể thấy khởi đầu. Khởi điểm là không thể nêu rõ được với các chúng sanh lưu chuyển luân hồi, bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc. Ví như có người … chặt các cành cỏ, khúc cây, nhành cây, và nhành lá của cõi Diêm-phù-đề 69 chất thành đống, rồi bó thành từng bó khoảng bốn phân, mà nói rằng: “Ðây là mẹ tôi, đây là mẹ của mẹ tôi…”. Các cành cỏ… có thể hết sạch trước khi đếm hết các bà mẹ của người ấy. Vì sao vậy? Bởi vì luân hồi này là không thể thấy khởi đầu… Này các tỳ-kheo, cũng vậy, đã lâu đời, các ông chịu đựng khổ, chịu đựng thống khổ, chịu đựng tai họa, và các mộ phần ngày một lớn lên. Đến như vậy là đủ để nhàm chán, từ bỏ, giải thoát đối với tất cả các hành. SN.15.1, Tiṇakaṭṭha Sutta. Khởi lòng đồng cảm Này các tỳ-kheo, sự luân hồi đời này sang đời khác chẳng thấy khởi đầu... Khi thấy có kẻ khốn cùng, bất hạnh, các ông nên kết 66 Tức là thế giới này là không thực, và người ta không đến thế giới khác sau khi chết 67 Không đáng để tôn kính cha mẹ. 68 Không có thế giới tái sanh trong đó các hạng thiên chúng được sanh ra không cần cha mẹ, 69 Đại diện cho cả tiểu lục địa Ấn-độ và thế giới nói chung.


Like this book? You can publish your book online for free in a few minutes!
Create your own flipbook