Important Announcement
PubHTML5 Scheduled Server Maintenance on (GMT) Sunday, June 26th, 2:00 am - 8:00 am.
PubHTML5 site will be inoperative during the times indicated!

Home Explore Science Exploration eBook Cover (2)

Science Exploration eBook Cover (2)

Published by Nguyễn Văn Tùng, 2021-10-24 05:08:26

Description: Science Exploration eBook Cover (2)

Search

Read the Text Version

Nguyễn Văn Tùng Nhà xuất bản HDU

MỞ ĐẦU Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn (bản Hán văn) và của Đoàn Thị Điểm (bản dịch Nôm hiện hành) là một trong những tác phẩm tiểu biểu nhất về số phận, cuộc đời người phụ nữ trung đại, qua cái nhìn mới mẻ, hiện đại, chân thực và gần gũi. Xét trên góc độ văn hóa, lịch sử, Chinh phụ ngâm được khám phá những nét táo bạo, mạnh dạn, là bước nhảy ra khỏi những rào cản quy phạm của xã hội đương thời. Chính vì vậy mà khi tìm hiểu tác phẩm này tôi muốn làm rõ hơn nữa hình tượng người chinh phụ để thấu hiểu hơn về nỗi khổ, về nỗi cô đơn buồn tủi khi phải xa chồng. 1

Trước hết, tác phẩm “Chinh phụ ngâm” là tác phẩm thể hiện hình ảnh người chinh phụ lẻ loi, tủi phận sống trong nỗi khắc khoải mòn mỏi chờ chồng. Mở đầu tác phẩm, người được khắc họa với tư cách là người vượt qua giới hạn nhỏ bé của thân phận người phụ nữ trong xã hội nam quyền, để nói thay chinh phu khát vọng công danh, phú quý: được khắc họa với tư cách là người vượt qua giới hạn nhỏ bé của thân phận người phụ nữ trong xã hội nam quyền, để nói thay chinh phu khát vọng công danh, phú quý: Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt Xếp bút nghiên theo việc đao cung Thành liền mong tiến bệ rồng Thước gươm đã quyết chẳng dong giặc trời. Thế nhưng, ngay sau giây phút xuất quân đầy hào hùng của chinh phu, người chinh phụ lại đối mặt với nỗi cô đơn, sự trống vắng. Và trong sâu thẳm nỗi đau ấy, đã có lúc nàng phải thốt lên rằng: Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong. 2

Với người chinh phụ, “phép công” và ấn phong hầu đã không còn sức nặng để so với khát vọng hạnh phúc lứa đôi đang bùng cháy mãnh liệt. Khát vọng đó cũng chứng tỏ người chinh phụ đang tồn tại đầy đủ với ý nghĩa của một người đànbà vắng chồng. Mọi thứ khác dường như bị tê liệt trong khoảnh khắc chờ đợi mỏimòn, chỉ còn khát vọng vừa thiêng liêng, vừa trần thế là nâng đỡ nàng, tiếp thêm sức mạnh chờ đợi nhớ thương người chồng phương xa.Nàng ý thức sâu sắc về thực cảnh đau khổ và càng rõ hơn khát vọng đích thực trong lòng mình: hạnh phúc lứa đôi. “Đó là khi con người ý thức rằng hạnh phúc và khổ đau là những gì hết sức cụ thể.” Sự cô đơn, lạnh lẽo, tủi phận của người chinh phụ lan tỏa và thấm đượm vào từng cảnh vật. Mọi thứ nhuốm một màu ảm đạm và thê lương. Ngay cả những hình ảnh “hoa”, “nguyệt”, “dương” cũng mang sắc buồn u ám. Tình cảnhg cho thân văn bảncủa người chinh phụ, cái nhìn của nàng về người chinh phu,...tất cả đều dẫn đến một lời than oán trách móc: Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ Mặt chinh phu ai vẽ cho nên?” Tuy vậy, nội dung nổi bật trong “Chinh phụ ngâm” chưa hẳn là là phê phán và lên án cuộc chiến tranh phi nghĩa đã đẩy người vợ và chồng vào hoàn cảnh chia xa. Mà thông qua nguyên nhân đó, tiếng nói về hạnh phúc lứa đôi và khao khát thỏa mãn phần người trong con người mới được đề cập một các mới mẻ, táo bạo và là vấn đề chủ đạo. 3

Thế kỷ XVIII- XIX chứng kiến tiếng nói bênh vực nữ quyền của một số nhà Nho- người đàn ông. Kiểu nhân vật phụ nữ do nhà Nho sáng tác, đã tạo nên những cơn sốt văn học cho giai đoạn này là: người chinh phụ trong “Chinh phụ ngâm”. Nhân vật chinh phụ- người vợ lính- có lẽ chỉ là cái cớ để tác giả lên tiếng nói giùm người phụ nữ quý tộc những khát khao sâu kín nhưng không kém phần sôi nổi của chính người phụ nữ về tình yêu lứa đôi đầy màu sắc nhục thể. Bởi khi người chồng đi đánh trận xa,nhiều năm cũng không rõ ngày về thì tác giả mới có cớ để sử dụng các motip như giấc mộng gặp chồng, nỗi cô đơn trên chiếc giường trống vắng, hay nỗi lo về tuổi xuân đang qua đi uổng phí. Tác phẩm tập trung biểu hiện khát vọng được hưởng hạnh phúc tuổi trẻ, cái phần vật chất nhất của con người. Lý tưởng võ công, lý tưởng hiếu nghĩa vẫn còn được nhắc đến nhưng không còn là niềm rung cảm. Người chinh phụ nhân danh “khách má hồng” chịu nỗi “truân chuyên” mà lên án “xanh kia”, không chấp nhận kiếp hy sinh chiến trường trong chiến tranh phi nghĩa: Trong cánh cửa đã đành phận thiếp Ngoài mây kia há kiếp chàng vay?” Trong toàn bộ khúc ngâm, duyên đôi lứa là niềm tha thiết nhất. Bao nhiêu chờ mong, khắc khoải đều tập trung vào nỗi lo sợ “tuổi xuân lỡ thì”: “Gió xuân ngày một vắng tin, Khá thương lỡ hết mấy phen lương thì.” 4

Cả một khúc ngâm tràn trề nỗi “tiếc niên hoa”, thương “phận bạc”, sợ “bạc đầu”, “tóc pha sương”, “Gái tơ mấy chốc mà ra nạ dòng”, “Lệch làn tóc rối, lỏng vòng lưng eo”. Cùng với ý thức cá nhân vật chất, ý thức thời gian cũng thay đổi. Thời gian tuổi trẻ trôi nhanh : “mấy chốc”, “đòi nau”, “thấm thoắt”, đã phân hoá ra khỏi thời gian xã hội, vũ trụ. Người chinh phụ không còn ảo tưởng vào chữ tình “muôn kiếp” siêu hình: “Đành muôn kiếp chữ tình là vậy, Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau.” Giấc mộng “chim liền cánh”, “cây liền cành”, “kiếp sau” trở thành vô nghĩa. Tất cả đều cho thấy một cá nhân vật chất, trần thế duy nhất đang được ý thức, mọi huyễn hoặc siêu nghiệm đều đáng ngờ. Chữ “dục” hạnh phúc thầm kín, khó nói nhất xưa nay, bị khinh bỉ nhất của con người, nay đã được nói to lên bằng ngôn ngữ của tự nhiên như một cái quyền chính đáng, nhân danh âm dương, tạo hoá: Kìa loài sâu đôi đầu cùng sánh, Nọ loài chim chắp cánh cùng bay. Liễu sen là thức cỏ cây, Đôi hoa cùng sánh đôi dây cùng liền.” Cá nhân rõ ràng chưa ý thức mình như một nhân tố có quyền của xã hội người. Nó chỉ mong được tồn tại như mọi vật của tạo hoá, như chim muông, côn trùng, cây cỏ. Đó chẳng phải là phần đáng thương nhất của thân phận con người hay sao ? Trong tư tưởng Nho giáo, con người không có gì là riêng của mình, từ thân thế, tài sản cho đến 5

đến danh phận, bổng lộc đều là của cha mẹ hay vua ban. Giờ đây con người ý thức một cái gì là của riêng mình mà mình phải biết giữ gìn thì mới còn được.Đó cũng chẳng phải là một phát hiện lại về con người hay sao ? Nho giáo chủ trương một lý tưởng lập thân để được bất hủ, không cùng nát với cỏ cây. Nay con người tự thấy mình cùng một chất với cỏ cây, muốný thức cá nhân làm con người không tin vào cái vĩnh viễn, họ chỉ tin vào lúc này, kiếp này, thân này. Đó là một bước ngoặt trong quan niệm con người trong văn học Việt Nam. Người phụ nữ trong “Chinh phụ ngâm” được miêu tả theo cả quan niệm chính thống và phi chính thống về nữ tính trongvăn học nhà nho. Theo quan niệm chính thống, về ngoại hình, dáng vóc lí tưởng của người phụ nữ khuê các đã được mặc định từtrong thơ cổ. Nó gợi lên những ấn tượng về sự đài các, yếu đuối, cần nơi dựa dẫm, che chở của phụ nữ và cuộc sống trong nhung lụa, nhàn tản dạochơi chốn phòng khuê của nàng.Xét về đạo đức, miêu tả nàng chinh phụ, Đặng Trần Côn vẫn điểm qua một vài nét để bức chân dung của nàng vừa toàn vẹn hơn, vừa hợp với đạo lý truyền thống hưởng cuộc đời vốn dễ hư nát, tàn lụi ấy, chẳng phải là một phản tư đó sao ? “Gác khói”, “đài lân”,“kiếp sau” đều trở thành hão huyền, xa lạ 6

Tuy vậy, người chinh phụ vẫn được miêu tả theo quan niệm phi chính thống. Trong văn học trung đại Việt Nam trước thế kỷ XVIII, tiếng nói át trội trên thi đàn là tiếng nói của các anh hùng hào kiệt, các đấng trượng phu tư thế “hoành sóc giang sơn”, khí thế “khí thôn ngưu, của người thánh nhân,quân tử dùng “chí” khuất phục “tình”.Bước sang thế kỷ XVII – XVIII, Nho giáo suy yếu, cương thường đảo lộn khiến niềm tin vào các tín điều Nho giáo cũng vì thế mà suy giảm trầm trọnglàm xuất hiện những kẽ hở để các tư tưởng “âm tính” vốn bị kiểm soátgắt gao và đè nén bấy lâu trỗi dậy. Sự xuất hiện của tầng lớp thị dân “tuy ít ỏi nhưng cũng đủ hình thành nên một xã hội thị dân, một môi trường kinh tế- văn hoá phi cổ truyền.” Những thực tế này tác động tới quan niệm của nhiều nhà nho. Trước hết là sự thay đổi về quan niệm đối với sắc đẹp của người phụ nữ. Trước kia, nhà nho luôn có ác cảm và xa lánh sắc. Các sử gia Nho giáo của Trung Quốc cũng như Việt Nam từ lâu đã luôn tổng kết các mĩ nhân đã làm sụp đổbao triều đại lừng danh trong lịch sử như Muội Hỉ nhà Hạ, Đát Kỉ nhà Thương và Bao Tự nhà Chu. Nguyễn Trãi dẫu mê Thị Lộ vẫn có bài thơ Nôm Răn sắc. Lê Thánh Tông trong tập thơ Cổ tâm bách vịnh coi 7

coi DươngQuý Phi là yêu ma đã mê hoặc Đường Huyền Tông. Những câu chuyện trong Truyền kì mạn lục thường miêu tả người phụ nữ đẹp là yêu ma, hồ ly. Nhưng tới “Chinh phụ ngâm” tác giả lại coi trọng và ca ngợi sắc đẹp của người phụ nữ. Đặng Trần Côn miêu tả dáng vóc “bồ liễu” của nàng chinh phụ, dùng những điển cố về các nhân vật đẹp để tả nàng. Đáng chú ý hơn là sự ngợi ca sắc đẹp của người phụ nữ lại gắn liền với miêu tả khao khát ái ân qua hàng loạt những mô típdục tính, phần nhiều được tiếp thu từ kho tàng thơ cung oán, khuê oán của Trung Quốc, như miêu tả thân xác khơi gợi ham muốn được chiếm hữu,miêu tả vật dụng cá nhân kín đáo gợi nhắc đến những kí ức ái ân, nhắc tới chiếc giường trống, mộng hợp hoan, những cặp đôi viên mãn trong trongthiên nhiên để kín đáo đề cập tới sự thiếu thốn cũng như nỗi khát khao hơi ấm, tình yêu và ái ân của người đàn bà. Điều này khiến cho nhân vật chinh phụ khác biệt so với các nhân vật nữ của văn học thời kì trước,vốn hầu như bị mất bản năng giới tính vì thường được miêu tả từ điểm. hìn quả dục, tiết dục đậm màu sắc Phật giáo hoặc Nho giáo của người đàn ông. Biểu hiện của cái nhìn đàn ông của tác giả và sự chi phối của nó tới cách miêu tả nhân vật chinh phụ. Biểu hiện đầu tiên của cái nhìn đàn ông của tác giả là cách đánh giá và miêu tả của họ về ngoại hình, phong thái, cử chỉ, điệu bộ của nhân vật nữ. Xuất phát từ góc nhìn của người đàn ông, tác giả có xu hướng miêu tả nhân vật nữ của mình một cách gợi tình thông qua sự đặc tả về dáng điệu, dung mạo của người phụ nữ. 8

Ngoài ra, cái nhìn đàn ông là tác giả cũng định hướng ngòi bút tập trung khắc hoạ hình ảnh cô đơn và khao khát đến mức ám ảnh của người phụ nữ đối với người tình vắng mặt và chuyện ái ân. Cái nhìn đàn ông còn thể hiện qua sự đặc tả mối lo âu đến mức ám ảnhvề tuổi già và nhan sắc tàn phai của nhân vật nữ, dựa trên quan niệm của các tác giả cho rằng người phụ nữ luôn xem vai trò quan trọng nhất của mình là đem đến lạc thú cho người đàn ông, bằng phương tiện là nhan sắc và tuổi trẻ. Nhưng đồng thời, quacách miêu tả này tác giả cũng đã nói hộ được nỗi lòng của nhiều người phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ. 9

Nghiên cứu“Chinh phụ ngâm” sẽ thấy tác phẩm có nội dung trọng tâm là miêu tả diễn biến tâm trạng của người chinh phụ trong thời gian chờ chồng đi chinh chiến. Thông qua đó, tác phẩm này của Đặng Trần Côn cũng góp phần thể hiện được tiếng nói tố cáo sự khốc liệt, phi nghĩa của những cuộc chiến tranh thời phong kiến và đồng thời cũng bộc lộ niềm khát khao của con người trong việc đòi lại những quyền rất đỗi cơ bản, đó là quyền được sống, quyền được chọn lựa hạnhphúc lứa đôi. Về nghệ thuật, tác phẩm đã cho thấy sự tài năng của tác giả trong việc sử dụng loại hình thơ văn Hán cổ dưới hình thức của điệu ngâm. Bên cạnh đó, cách lựa chọn từ ngữ, hình ảnh cũng góp phần tạo nên thành công cho tác giả trong việc chuyển tải nội dung nói trên. Như vậy, với những ý nghĩa về nội dung và giá trị về nghệ thuật nói trên của “Chinh phụ ngâm”, Đặng Trần Côn đã góp vào kho tàng văn học nước nhà một tác phẩm đặc sắc để người đọc có cơ hội tìm hiểu ít nhiều về nội dung và nghệ thuật của một thời văn học trung đại đã qua.Hi vọng những chia sẻ trên đây đã giúp bạn cảm nhận rõ hơn tác phẩm nghệ thuật bất hủ này. 10


Like this book? You can publish your book online for free in a few minutes!
Create your own flipbook