Chương I TRẤN YÊN NGUỒN CỘI 1
Trấn Yên - mảnh đất cửa ngõ miền Tây Bắc Tổ quốc, là một huyện miền núi vùng thấp của tỉnh Yên Bái. Trấn Yên có phía Tây bắc giáp với huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái. Phía Đông nam giáp với huyện Hạ Hòa của tỉnh Phú Thọ. Phía Đông bắc giáp với huyện Yên Bình tỉnh Yên Bái. Phía Tây nam giáp với huyện Văn Chấn tỉnh Yên Bái. Phía Đông Nam giáp với thành phố Yên Bái. Địa hình huyện Trấn Yên được kiến tạo bởi hai dãy núi Con Voi và Pú Luông cùng với dòng sông Thao tạo nên hình thế lòng chảo. Dòng sông Thao chảy qua Trấn Yên chia huyện thành hai miền: tả ngạn gồm một số xã như Tân Đồng, Báo Đáp, Đào Thịnh…hữu ngạn là các xã như Y Can, Minh Tiến…vào sâu chân các dải núi đồi còn có các xã như Việt Hồng, Việt Cường, Kiên Thành…Dòng sông Thao như một điểm nhấn vừa là tuyến đường giao thông huyết mạch, vừa chở nặng phù sa bồi đắp nên những cánh đồng màu mỡ của người dân ven sông. 2
Trấn Yên là miền đất lâu đời nên địa danh, địa giới hành chính của huyện có nhiều thay đổi. Dưới thời Bắc thuộc, từ năm 220 nhà Ngô thống trị nước ta Trấn Yên nằm trong quận Tân Hưng- huyện Lâm Tây. Dưới thời nhà Tùy, quận Giao Chỉ được chia thành 9 huyện, Trấn Yên lúc này thuộc về huyện An Nhân. Đến thời nhà Đường, Trấn Yên lại nằm trong huyện Gia Ninh và châu kị my Lâm Tây. Theo “Hưng Hóa phong thổ lục” của Hoàng Bình Chính: Huyện Trấn Yên là đất châu Đăng thời Lý. Tên huyện đặt từ thời Lê. Đời Gia Long vẫn như vậy. Đến năm Minh Mạng thứ 17 đổi trang làm xã, huyện Trấn Yên lãnh 4 tổng 30 xã thuộc phủ Quy Hóa, trấn Hưng Hóa. Người Mông xã Kiên Thành, huyện Trấn Yên dệt trang phục truyền thống. Nhiều làn điệu dân ca cùng các nhạc cụ dân tộc được đồng bào Cao Lan huyện Trấn Yên giữ gìn. Lễ cấp sắc của người Dao Lễ Lồng Tồng 3
Năm 1900, toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập tỉnh Yên Bái tách ra từ đạo quan binh thứ 4 bao gồm 4 huyện. Huyện Trấn Yên khi đó bao gồm 5 tổng ( Tổng Bách Lẫm, Giới Phiên, Lương Ca, Yên Phú, Đông Cuông). Năm 1905 một số làng thuộc tổng Bách Lẫm được đưa vào thị xã Yên Bái. Năm 1906 lập thêm các xã Dao Viễn, Phú Thọ thuộc tổng Đông Cuông. Từ năm 1907 sáp nhập các làng Văn Lãng, Bình Lục, Văn Phú của huyện Hạ Hòa vào huyện Trấn Yên. Kể từ đây đến hết thời kỳ thực dân Pháp xâm lược thị xã Yên Bái tách khỏi huyện Trấn Yên thành đơn vị hành chính độc lập thuộc tỉnh trưởng tỉnh Yên Bái. 4
Cách mạng tháng 8/1945 thành công, chính quyền nhân dân được thành lập ở tỉnh, huyện, tổng và tất cả các xã. Thị xã Yên Bái trước đó sáp nhập vào huyện Trấn Yên mang tên xã Nguyễn Phúc. Đến năm 1956,đứng trước yêu cầu thành lập khu tự trị Thái-Mèo (Khu tự trị Tây Bắc) theo Nghị định 727/TTg của Thủ tướng Chính phủ: Tái lập thị xã Yên Bái thuộc UBND tỉnh Yên Bái, thôn Lò Vôi thuộc xã Minh Bảo và xóm nhà thờ thuộc xã Nam Cường, huyện Trấn Yên sáp nhập vào thị xã Yên Bái. Bản đồ hành chính huyện Trấn Yên (Trang thông tin điện tử Trấn Yên) 5
Đến năm 1989 huyện Trấn Yên có 28 xã và 1 thị trấn. Số đơn vị hành chính được bố trí thành 280 thôn-bản, khu phố.Kể từ năm 2008,toàn huyện có 22 xã và thị trấn. Số đơn vị hành chính trên được bố trí thành 233 thôn, khu phố. Tính đến năm 2015,dân số của Trấn Yên là 83.500 người .Trấn Yên là mảnh đất có bề dày văn hóa, trên địa bàn huyện có các dân tộc anh em đã sinh sống nhiều đời bao gồm người Kinh, Tày, Dao, Cao Lan, Mường, H’mông. (Theo Lịch sử Đảng bộ huyện Trấn Yên 1930-2015) Hồ Vân Hội Cầu Cổ Phúc 6
Chương II TRẤN YÊN NHỮNG ĐIỂM HẸN LỊCH SỬ 7
1. Chiến khu Vần Chiến khu Vần là một vùng đất rộng, nằm ở phía Nam huyện Trấn Yên và Đông Nam huyện Văn Chấn. Căn cứ cách mạng kiểu Chiến khu có quy mô khá rộng trong đó có 2 vùng quan trọng nhất là làng Vần và làng Đồng Yếng. Trước năm 1945, Chiến khu Vần nằm ở địa bàn của 3 tổng là: Lương Ca, Giới Phiên (thuộc Trấn Yên) và Đại Lịch thuộc Văn Chấn. Trung tâm của Chiến khu là xã Minh Phú (tổng Lương Ca, huyện Trấn Yên) nay gồm 3 xã Việt Hồng, Việt Cường, Vân Hội trong đó tiêu biểu là 2 điểm Làng Vần xã Việt Hồng (là trung tâm chỉ huy của Chiến khu) và Làng Đồng Yếng (thuộc xã Vân Hội) là trung tâm huấn luyện quân sự của căn cứ cách mạng Chiến khu. Video xã Việt Hồng Đình làng Vần 8
*Sự hình thành Di tích lịch sử (kiểu Chiến khu): Xưa vùng đất này chỉ có 3 tộc người: Kinh, Tày và Dao, có truyền thống đoàn kết, gắn bó. Từ khi Mặt trời Cách mạng soi rọi đến đã xây dựng được nhiều cơ sở cách mạng, tinh thần nhân dân sẵn sàng ủng hộ và đi theo cách mạng. Sau khi nhận định tình hình vị trí địa lý và tinh thần của nhân dân. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Xứ ủy Bắc Kỳ, khi thành lập đội du kích Âu Cơ đã chuyển lên Đồng Yếng rồi vào làng Vần. Lấy Vần làm trung tâm chỉ huy, lấy Đồng Yếng làm trung tâm huấn luyện quân sự cho hình thành Chiến khu. Lãnh đạo chiến khu gồm có các đồng chí: Trần Quang Bình, Bình Phương, Ngô Minh Loan, Nguyễn Phúc, Trấn Đức Sắc. Chiến khu cũng là nơi an toàn đón các đồng chí cách mạng kiên trung vượt ngục nhà tù Sơn La về và một số hoạt động ở miền xuôi bị lộ lên để tiếp tục tham gia hoạt động cách mạng. Cây vải trên di tích Đình Chung ở Chiến khu Làng Vần xã Việt Hồng 9
Ngày 30/6/1945, Ban cán sự liên tỉnh Phú - Yên (Phú Thọ - Yên Bái) được thành lập - một mốc lịch sử quan trọng đánh dấu sự hình thành Chiến khu do đồng chí Ngô Minh Loan làm Bí thư lãnh đạo cách mạng tại hai tỉnh Yên Bái và Phú Thọ. Từ đây đã phát triển rộng lên Lào Cai và một phần Sơn La. Tại đây, lực lượng Đảng hoạt động có tổ chức, có nền nếp để củng cố phát triển mạnh, nên lần lượt ra đời các tổ chức như: Cứu quốc của Việt Minh; Ủy ban cách mạng lâm thời Chiến khu được thành lập. Đội du kích phát triển mạnh đã đánh bại chính quyền địch tan rã và đánh bại các cuộc tấn công của quân ngụy, quân Nhật. Khi thời cơ đến, từ chiến khu quân cách mạng đã tiến ra 3 hướng đi: Phú Thọ, Yên Bái và Nghĩa Lộ, để phá kho thóc Nhật chia cho nhân dân đang lúc đói khổ, một cổ hai tròng. Nhân dân càng tin tưởng đi theo cách mạng đánh đổ chính quyền địch, giải phóng và lập nên chính quyền cách mạng ở 2 tỉnh Phú Thọ, Yên Bái và huyện Phù Yên (Sơn La) góp phần tích cực vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc trong cuộc tổng khởi nghĩa có một không hai của lịch sử cách mạng tháng Tám 1945. 10
*Một số địa điểm diễn ra những sự kiện lịch sử quan trọng của Chiến khu Làng Vần: Là thung lũng được bao bọc bởi các dãy núi có độ cao trung bình từ 200 đến 500m, thung lũng có chiều dài 4,5 km, đường đi lại khó khăn, ngày nay được kết cấu bằng những chân ruộng bậc thang, sau cách mạng được đồng bào khai phá (có độ chênh lệch thấp) nay gọi là Đồng Trò, Đồng Cây Gạo… có ngòi Vần chạy dọc theo làng. Đây cũng là hợp lưu của 3 con ngòi nhỏ để tạo nên ngòi Vần. Địa thế hiểm trở, xưa chỉ có một con đường duy nhất vào làng và phải qua đèo. Vừa kín đáo lại vừa gần các trung tâm chính trị (tỉnh lỵ hai tỉnh Yên Bái - Phú Thọ) nên khu vực này đã được Xứ ủy Bắc Kỳ chọn làm nơi thuận lợi cho việc lập căn cứ cách mạng dần phát triển hình thành mô hình kiểu Chiến khu. Đình làng Vần 11
Làng Đồng Yếng: Nay mang tên Đồng Chão thuộc xã Vân Hội (Trấn Yên).Cách làng Vần khoảng 4 km về phía Đông và cách Hiền Lương hơn 3 km về phía Tây, là làng nằm giữa Vần và Hiền Lương. (Gò cọ Đồng Yếng nơi tập luyện của đội du kích Âu Cơ) Làng Đồng Yếng nay thuộc xã Vân Hội (Trấn Yên).Có vị trí thuận lợi, đồi hình mâm xôi, nên Đồng Yếng được đội du kích Âu Cơ chọn làm trung tâm huấn luyện quân sự để phát triển lực lượng vũ trang để chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng ở Yên Bái và Phú Thọ. Di tích quan trọng là Gò cọ Đồng Yếng. 12
Khu nhà của ông Trần Đình Khánh : Ngôi nhà sàn của ông Trần Đình Khánh tọa lạc tại làng Vần, xã Việt Hồng, huyện Trấn Yên. Trong đời sống hàng ngày, ngôi nhà của ông cũng bình dị như những ngôi nhà khác trong bản Tày, nhưng trong những năm tháng kháng chiến lại “sục sôi”, “hăng hái” như chính những con người vùng đất cách mạng này. Năm 1995, nơi đây cùng với các điểm Hang Dơi, đình Chung, gò cọ Đồng Yếng đã được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nhà ông Trần Đình Khánh - trụ sở đầu tiên của đội du kích Âu Cơ, nơi Ban cán sự Đảng Yên Bái - Phú Thọ đưa ra nhiều quyết định quan trọng. Ảnh: Bảo tàng tỉnh Yên Bái Ngôi nhà sàn có kiến trúc cột gỗ, 5 gian, 2 chái, 4 hàng chân, thiết kế theo kiểu chồng bồn, kẻ truyền, có hành lang phía trước. Nhà chính nối liền với nhà bếp, mái lợp cọ. Phía sau tựa lưng vào núi, phía trước hướng ra cánh đồng cây Gạo. Tại đây, đã diễn ra nhiều sự kiện, nhiều cuộc họp đưa ra những quyết định quan trọng của chiến khu Vần - Hiền Lương, đồng thời là nơi tập hợp lực lượng quần chúng nhân dân tham gia cách mạng, đấu tranh giành chính quyền trong thời gian kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. 13
Tại nhà ông Trần Đình Khánh đã diễn ra các sự kiện tiêu biểu như: + Khi được tin có đội du kích nổi dậy ở làng Vần, ngày 19/6/1945, Tri phủ Trấn Yên An Văn Tùng và chánh quản Khoát - chỉ huy lính Bảo An, đưa một đội lính gần 40 tên tiến vào làng Vần, đóng quân tại nhà chánh tổng Lương Ca Trần Đình Khánh. + Rạng sáng ngày 20/6/1945 đội du kích đã bất ngờ tấn công lính Bảo An từ mọi hướng, địch hốt hoảng bỏ chạy tán loạn, bị quân ta truy kích buộc phải đầu hàng. Trước khi thả về quân ta buộc Tri phủ Trấn Yên phải cam kết: thả hết tù chính trị đang bị giam giữ ở thị xã; trả lại tiền thuế của nhân dân Lương Ca đã nộp lên huyện; không được đem quân đi đàn áp cách mạng. + Thất bại của quân Bảo An, một tuần sau phát xít Nhật đã tổ chức đội quân gồm 20 tên do Quan Hai chỉ huy tiến vào làng Vần nhằm khủng bố quân ta. Nhận định rõ tình hình, đồng chí Ngô Minh Loan đã tổ chức cuộc họp bàn bạc phương án tác chiến, sau đó ông chỉ huy lực phục kích ở Đèo Giang (đoạn ngòi từ Vân Hội ra Hiền Lương), tấn công bất ngờ tiêu diệt một phần sinh lực địch, số còn lại bỏ chạy rồi rút quân về thị xã Yên Bái. 14
+Theo chỉ thị của Mặt trận Việt Minh, tháng 9/1945 Ủy ban hành chính kháng chiến được thành lập, với những đóng góp to lớn và uy tín của mình ông Trần Đình Khánh đã được bầu làm chủ tịch, trụ sở đầu tiên đặt tại nhà ông. + Cũng tại đây, ngày 30/6/1945 diễn ra cuộc họp để thành lập ban cán sự liên tỉnh Phú Yên do đồng chí Ngô Minh Loan làm Bí thư. Khu di tích nhà ông Trần Đình Khánh + Cuối năm 1945 khi quân Tưởng Giới Thạch và bọn phản động Việt Nam Quốc dân Đảng ra sức phá hoại cơ quan đầu não của ta, tỉnh đã rút về làng Vần, ông Trần Đình Khánh đã nuôi dấu các cán bộ quan trọng trong nhà của mình, đảm bảo an toàn cho các đồng chí. Có thể nói rằng nhà ông Trần Đình Khánh trở thành trụ sở đầu tiên của chiến khu Vần và trở thành địa điểm tiêu biểu cho cuộc đấu tranh giành chính quyền của tỉnh Yên Bái. 15
Di tích Hang Dơi : Nhũ đá trong hang Dơi Rộng 20 đến 25 mét, sâu trên 300 mét, vòm hang cao khoảng 20 mét nên hang Dơi được chọn làm hậu cứ của chiến khu trong những ngày đầu cách mạng. Đây là nơi cất giữ quân lương và đón tiếp các cán bộ cách mạng thoát ra từ nhà tù Sơn La, Hoả Lò. (Nhũ đá Hang Dơi) Những cánh rừng nguyên sơ, đi lại hiểm trở, hang đá rộng giúp cho hậu cứ này góp phần làm nên thắng lợi của những cuộc tấn công xuất quỷ nhập thần của Việt Minh năm xưa, nay trở thành điểm đến trải nghiệm của du khách gần xa với những sự hấp dẫn, lạ kỳ. 16
Di tích lịch sử đình làng Dọc ( xã Việt Hồng, huyện Trấn Yên) Làng Dọc xưa có tên cổ là Bản Guộc hay Bản Lọc, nghĩa tiếng Tày là bản rừng rậm. Nơi đây xưa kia mọc nhiều cây dọc, quả được dân bản ép làm dầu thắp sáng. Đình làng Dọc được xây dựng từ đầu thế kỷ XIX. Đời vua Khải Định (triều Nguyễn), Đình được vua ban sắc phong. Theo lời kể của các bậc cao niên ở đây thì các đời vua khác cũng có sắc phong cho Đình nhưng do chiến tranh loạn lạc nên các sắc phong này đã bị mất, bị giặc đốt cháy nay chỉ còn một bản. 17
Đình làng Dọc gồm 5 gian 2 trái, kiến trúc chữ “đinh”. Gian trước được kiến trúc cung thờ, loại kiến trúc tôn giáo. Hiên trái phía Đông được chọn làm cửa chính vào đình. Nét đặc dị này do dải đồi nơi xây dựng đình tạo nên và chính điều đó đã góp phần làm nên cảnh trí độc đáo của đình làng Dọc. Đình nhìn ra suối nước trong xanh có mỏ nước ngầm chảy 4 mùa, tương truyền đó là long mạch của đình và trên mỏ nước là phiến đá lớn nơi còn lưu giữ vết chân ngựa của người xưa đến vùng đất này khai khẩn. Sân trước đình hẹp, kề sát vực suối và mỏ nước ngầm. Chái đình kề dải đồi dốc thấp được chọn làm nơi lên xuống, đón khách chiêm bái. 18
Năm 1947, khi giặc Pháp quay lại chiếm khu cách mạng Vần - Dọc, chúng đã xây lại đồn cách đình 500m ở Gò Dứa, đối diện mặt trước của Đình. Hình ảnh Đình làng Dọc đã được tu bổ Chúng đốt phá làng mạc nhưng tuyệt nhiên không dám đụng đến ngôi Đình. Vào ngày rằm, mồng 1 hàng tháng, bọn lính thuê người Việt đến cửa Đình cúng bái cầu Thành Hoàng làng. Thời kỳ này, đình làng Dọc trở thành đài quan sát lợi hại của lực lượng du kích. 19
Lễ hội đình làng Dọc được tổ chức 2 kỳ trong năm là vào mồng 3, mồng 4 tháng giêng âm lịch (gọi là lễ hạ điền) và 13, 14 tháng 7 âm lịch (lễ hội cầu Thần Nông). Lễ cúng trong các ngày hội gồm 4 mâm cỗ chay và 27 mâm cỗ mặn. Riêng lễ tháng 7 còn có thêm thịt trâu hay thịt dê. Lễ hội đình làng Dọc mang đậm sắc thái của người Kinh và người Tày cổ. Phần lễ đình được tổ chức trang nghiêm, tiết kiệm, không lợi dụng mê tín dị đoan. Bên cạnh đó, phần hội cũng được tổ chức rất đa dạng, phong phú với hội chơi đu, hội còn, hội yến, hội hát đối, hội chọi gà... cùng những điệu xòe then duyên dáng của các bà, các chị, của thiếu nữ Tày, Kinh. 20
2. Bến phà Âu Lâu (Hình ảnh dân công vận tải trên bến Âu Lâu ) Bến Âu Lâu (nay nằm trên địa bàn xã Âu Lâu và phường Nguyễn Phúc, thành phố Yên Bái). Bến phà Âu Lâu năm xưa có vị trí đặc biệt quan trọng nối liền Việt Bắc với Tây Bắc qua sông Hồng. Từ bến phà này, các loại vũ khí hạng nặng: pháo mặt đất, pháo cao xạ, ô tô chở đạn dược, khí tài quân sự cùng bộ đội, dân công hỏa tuyến lần lượt nối nhau qua sông tiếp viện cho chiến trường Điện Biên Phủ .Bến Âu Lâu là nơi ghi dấu một thời đấu tranh chống quân xâm lược của nhân dân các dân tộc tỉnh Yên Bái nói chung và nhân dân huyện Trấn Yên nói riêng. 21
Từ cuối năm 1952, cùng với Yên Bái huyện Trấn Yên có hai nhiệm vụ quan trọng là đảm bảo giữ vững giao thông vận tải qua sông Hồng, đường 13A từ bến phà Âu Lâu qua đèo Lũng Lô và cung cấp lương thực, thực phẩm, dân quân hỏa tuyến. Bến phà Âu Lâu ,các đò ngang từ Trái Hút tới Minh Quân ngày đêm bị máy bay địch rà soát, thả bom nhằm cắt đứt mạch máu quan trọng nối căn cứ Việt Bắc với Điện Biên. Tuy nhiên bộ đội,dân quân,thanh niên xung phong của ta ngày đêm bảo vệ tuyến đường huyết mạch ấy. Riêng Trấn Yên khi đó lực lượng dân công làm đường là 800/1000 người toàn tỉnh. Đội thanh niên xung phong C236 có tới gần 200 đội viên là người huyện Trấn Yên. Các đội viên đã làm nên bảng thành tích vàng phá hàng trăm quả bom nổ chậm, hàng ngàn quả bom bươm bướm. Đội viên Mai Văn Cát, Trần Văn Tiền được phong tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua. Dân công Hà Văn Đoạn -Người Tày xã Hưng Khánh được bầu làm Chiến sĩ thi đua toàn chiến dịch. 22
Với những nỗ lực không ngừng nghỉ, quân dân Trấn Yên cùng quân dân tỉnh Yên Bái đảm bảo giao thông vận tải an toàn, thông suốt tuyến đường Yên Bái-Ba Khe-Phù Yên trong đó có những khúc quan trọng như Âu Lâu, đèo Lũng Lô góp phần quan trọng vào chiến dịch vĩ đại của dân tộc-Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954. Do ý nghĩa và giá trị lịch sử của bến Âu Lâu, tỉnh Yên Bái đã xây dựng tượng đài “Bến Âu Lâu lịch sử” ở phường Nguyễn Phúc trên ngã ba đường gần bến. 23
Tượng đài “Bến Âu Lâu lịch sử” với hình tượng người thợ phà tay giữ mỏ neo, một phụ nữ tay nắm chắc mái chèo và một anh bộ đội trong khí thế hào hùng. Ba nhân vật đứng trên đài hoa cách điệu cùng những bức phù điêu miêu tả cảnh thuyền phà vượt sông, cảnh xe ra tiền tuyến, cảnh phá đá mở đường tiến quân vào Tây Bắc trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Tượng đài là một biểu tượng cho tinh thần của những người đã chiến đấu, hy sinh để giành lại độc lập, tự do cho tổ quốc. Ngày 07/8/2012 Bến Âu Lâu được Bộ VHTT&DL công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. 24
3. Đồn Ca Vịnh-(xã Hồng Ca) - Cánh cửa thép vào Nghĩa Lộ Ngày 21/6/2007, Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái ban hành Quyết định số 863/QĐ-UBND công nhận Di tích đồn Ca Vịnh xã Hồng Ca, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh. (Khu tưởng niệm các liệt sĩ trong trận đánh đồn Ca Vịnh) 25
Đồn Ca Vịnh còn có tên gọi khác Đồn Khau Coóc. Di tích cách huyện Trấn Yên 40,5km, cách thành phố Yên Bái 32km. Tháng 02/1951, Le-Roóc được điều tới chỉ huy đồn, quyết định chuyển đồn lên vị trí đồi Khau Coóc (đồn Ca Vịnh ngày nay). Đầu tháng 5/1951 lực lượng du kích xã Hồng Ca tổ chức phục kích quân Pháp, trong trận này ta tiêu diệt được 7 tên địch, làm bị thương nhiều tên, buộc chúng phải tháo chạy khỏi Hồng Ca. Tháng 9 năm 1951, Bộ Tổng tư lệnh quyết định mở chiến dịch Lý Thường Kiệt. Trận đánh đồn Ca Vịnh có sự tham gia của các Đại đội, cùng bộ đội địa phương (Đại đội 87 - Huyện đội huyện Trấn Yên) và dân quân du kích xã. Tại bến phà Âu Lâu, Trung đoàn 165 được nhân dân các xã Hợp Minh và Âu Lâu, huyện Trấn Yên bố trí thuyền phà đưa bộ đội qua sông an toàn, dân công và nhân dân địa phương phá đá mở đường, bắc cầu để bộ đội nhanh chóng chiếm lĩnh trận địa. 26
Trận đánh đồn Ca Vịnh ngày 1/10/1951 là một trong những thắng lợi quan trọng của quân và dân ta trong chiến dịch Lý Thường Kiệt. Thắng lợi này đã góp phần tiêu hao một phần sinh lực địch, phá vỡ một phần tuyến phòng thủ kiên cố bảo vệ phân khu Nghĩa Lộ, mở rộng thêm vùng giải phóng, phá thế bao vây uy hiếp của địch đối với căn cứ địa Việt Bắc từ hướng Tây. Trận đánh đồn Ca Vịnh 1/10/1951 đã mở ra bước ngoặt đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta tiến sang một thời kỳ mới, thời kỳ quân ta tiến công và phản công trên khắp các chiến trường.Với ý nghĩa lịch sử đó, di tích đồn Ca Vịnh xã Hồng Ca, huyện Trấn Yên được Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh. (Các chiến sĩ trung đoàn 165 tưởng nhớ đồng đội tại 27 nghĩa trang đồn Ca Vịnh) - Nguồn ảnh báo Yên Bái
4.GÒ CỌ LÀNG CHIỀNG (Thôn Trung Mỹ xã Cường Thịnh-Trấn Yên) Di tích Gò Cọ - làng Chiềng, trước thuộc làng Chiềng, nay là thôn Trung Mỹ, xã Cường Thịnh, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái. Di tích Gò Cọ - làng Chiềng cách trung tâm xã 500 m. Để đưa cuộc kháng chiến tiến lên giành thêm những thắng lợi mới, từ ngày 10 tới ngày 15/1/1949, hội nghị Đảng bộ tỉnh Yên Bái lần thứ hai (tức Đại hội I) đã họp tại Gò Cọ, làng Chiềng, xã Cường Thịnh, huyện Trấn Yên. Gò Cọ, nằm ở trung tâm Làng Chiềng, xã Cường Thịnh, huyện Trấn Yên. Phía Đông giáp thôn Chung Mỹ, Tây giáp thôn Đồng Trò, Nam giáp thôn Đồng Chuối, Bắc giáp thôn Đồng Phương (xã Minh Quán). Ngay từ trung tuần 12/1948, công tác chuẩn bị phục vụ Đại hội I Đảng bộ tỉnh Yên Bái đã diễn ra tại Gò Cọ - làng Chiềng, xã Cường Thịnh, huyện Trấn Yên.Lực lượng bảo vệ do Trung đoàn 115 Liên khu 10 và lực lượng du kích xã Cường Thịnh. Địa điểm Gò Cọ - làng Chiềng chính là một di tích ghi dấu ấn lịch sử cách mạng của địa phương gắn với diễn biến sự kiện Đại hội lần thứ I Đảng bộ tỉnh Yên Bái. Đó là: - Nhà ông Bủ Tạ, là hội trường chính. Nơi tổ chức phiên họp đại hội Đảng bộ tỉnh Yên Bái lần thứ nhất 10/01/1949. Hiện nay ngôi nhà này đã bị tháo dỡ, chỉ còn dấu tích phần nền nhà có kích thước 20 x 20 m, cao nền 0,35 cm. 28
- Đình Cường Thịnh. Đình làng Cường Thịnh trong quãng thời gian từ năm 1945 đến năm 1949, tại đây đã gắn với nhiều sự kiện trọng đại của địa phương nói riêng, của tỉnh Yên Bái nói chung. Hiện nay, ngôi đình đã được tu sửa lại khá khang trang gồm 5 gian, được kết cấu theo lối chữ Nhất, gồm 4 gian Đại Bái và 1 gian Hậu Cung. Sân và nền được nát gạch bát tràng (gạch mộc). . Địa điểm Gò Cọ - làng Chiềng đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái cấp bằng chứng nhận Di tích cấp tỉnh theo Quyết định số 863/QĐ-UBND ngày 21/6/2007 29
Chương III TRẤN YÊN SỰ KIỆN LỊCH SỬ 30
1. Phong trào Văn Thân (1886-1890) Đến tháng 2/1886 sau khi làm chủ thành Hưng Hóa và tỉnh Tuyên Quang thực dân Pháp tiếp tục mở rộng xâm lược lên vùng thượng lưu sông Hồng, tiến công tuyến phòng thủ trên đất Trấn Yên từ Hào Gia, Tuần Quán, Bách Lẫm đến Giới Phiên. (Hình ảnh mới trên vùng đất Hào Gia khi xưa) Tại tuyến phòng thủ trên đã diễn ra nhiều trận chiến ác liệt giữa ta và Pháp xong do tương quan lực lượng chênh lệch nên Tuần Quán thất thủ. Tướng Gia-mông của Pháp quyết định chốt quân tại đây, dùng Tuần Quán làm bàn đạp tấn công lên thượng huyện Trấn Yên, Lào Cai và vùng biên giới Việt Trung. (Đền Tuần Quán ngày nay - nơi diễn ra trận Tuần 31 Quán do lãnh tụ Nguyễn Văn Giáp chỉ huy)
Lãnh đạo cuộc kháng chiến tại vùng hữu ngạn sông Hồng lúc này là tuần phủ Nguyễn Quang Bích và án sát Nguyễn Văn Giáp đã phối hợp cùng các lãnh đạo địa phương như Vương Văn Doãn ,Đặng Đình Tế, Phạm Thọ, Đặng Tiến Lộc, Đổng Phúc Thịnh tổ chức đánh chặn địch quyết liệt; xây dựng căn cứ chiến đấu ở Tú Lệ (Văn Chấn), làng Vần (Trấn Yên). Phong trào kháng chiến phát triển nhanh chóng. Nghĩa quân gồm nhiều tộc người cùng với các văn thân chiến đấu hết sức dũng cảm. Căn cứ kháng chiến là một vùng rộng lớn từ Minh Phú, Đại Lịch, Mường Lò, Mường Cơi, Thu Cúc. Lãnh tụ Nguyễn Quang Bích (1832-1890) Lãnh tụ Nguyễn Văn Giáp (1837-1887) Nguồn tài liệu: Lịch Sử Đảng bộ huyện Trấn Yên 32
Nhân dân Minh Phú, Đại Lịch đã xây dựng phòng tuyến từ làng Vần qua làng Dọc tới Đại Lịch, tới Mường Lò, chốt chặn địch ở các đèo như đèo Din, đèo Ách. Tháng 1/1887 địch đánh sâu vào Vân Hội, Vần, Dọc, Đại Lịch bị ta phục kích thất bại nặng nề. Vào thời điểm trên Pháp cũng tiến đánh Nghĩa Lộ nhưng bị đẩy lùi. Lúc này Nguyễn Văn Giáp bị bệnh mất gây tổn thất cho nghĩa quân. Từ giữa năm 1887, Pháp nhiều lần tổ chức đánh Nghĩa Lộ nhưng gặp phải sự kháng cự quyết liệt của quân dân ta chúng bị tổn thất nặng nề. Cho đến tháng 1/1890, Nguyễn Quang Bích bị mất đại bản doanh, phong trào suy yếu dần-Văn Thân tan rã. Phong trào Văn Thân được sự ủng hộ to lớn của nhân dân các dân tộc huyện Trấn Yên, Văn Chấn. Phong trào tuy thất bại xong đã gây cho nhiều khó khăn cho thực dân Pháp trong việc mở rộng xâm lược nên mạn sông Hồng. Di tích trận đánh Đèo Din Đình Bằng Là xã Đại Lịch 33
2. Cuộc khởi nghĩa Giáp Dần (1914) Cuộc khởi nghĩa do Triệu Tài Lộc, Triệu Tài Kiên và một số thủ lĩnh khác tổ chức được đông đảo đồng bào người Dao, Tày, Kinh tham gia ủng hộ. Cơ sở đầu tiên của cuộc khởi nghĩa là tổng Trúc Lâu sau đó lan rộng ra các châu Lục Yên, phủ Trấn Yên, phủ Yên Bình với khoảng 1400 người. Nghĩa quân đã tổ chức thao luyện, xây đồn đắp lũy cho phù hợp với từng địa phương. Tại Trái Hút (Trấn Yên) mỗi đội có 10-15 người có cai chỉ huy. Ở Đông Cuông có khoảng hơn 100 người. Nghĩa quân dự tính khởi nghĩa vào tháng 9 năm Giáp Dần. Tuy nhiên kế hoạch bị bại lộ, Pháp tăng cường lùng sục nhằm ngăn chặn phong trào. Cuộc khởi nghĩa được mô tả tại Bảo tàng Yên Bái 34
Ngày 19/10/1914, nghĩa quân tấn công đồn Trái Hút, ngày 21/1/1914 đánh ga Bảo Hà. Ngày 22/10 tấn công đồn Lục Yên nhưng đều bị thất bại. Thực dân Pháp đàn áp dã man cuộc khởi nghĩa bắt hàng trăm người trong đó có nhiều phụ nữ, xử tử 67 người. Tuy nhiên sự khủng bố của Pháp vẫn không làm nhụt chí nhân dân Yên Bái và Trấn Yên. Cờ bát quái, được nghĩa quân Dao quần trắng do Triệu Tài Lộc chỉ huy sử dụng đánh đồn Đồng Bánh, Lục Yên, 21/10/1914 35
3. Khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc dân Đảng 1930 Vào cuối thế kỷ XIX, sau khi xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp tiến hành “bình định” nước ta, chúng đặt Yên Bái thuộc các đạo quan binh (1891 - 1900). Ngày 11/4/1900, thực dân Pháp thành lập tỉnh Yên Bái gồm có phủ Trấn Yên, hai châu Văn Chấn, Văn Bàn và thị xã tỉnh lỵ đặt tại làng Yên Bái. Từ năm 1910 - 1920, Pháp chuyển châu Lục Yên (tỉnh Tuyên Quang) và châu Than Uyên (tỉnh Lai Châu) vào tỉnh Yên Bái. Từ đó cho đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945, địa dư và các đơn vị hành chính tỉnh Yên Bái không thay đổi. Khi thực dân Pháp tiến hành khai thác, cướp bóc thuộc địa, đặc biệt là việc chúng cướp ruộng đất, lập đồn điền, nông dân các xã Mông Sơn, Ẩm Phước (phủ Yên Bình), Nga Quán, Cổ Phúc (phủ Trấn Yên) và nhiều nơi khác đã liên tục đấu tranh chống bắt phu, bắt lính, cướp ruộng đất, làm cho thực dân Pháp rất lúng túng, lo sợ và bất ổn định. 36
Trong bối cảnh đó, đầu năm 1930 trên địa bàn Yên Bái đã nổ ra cuộc khởi nghĩa của tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng, do Nguyễn Thái Học lãnh đạo. Sở dĩ Yên Bái được lựa chọn là một địa điểm của cuộc khởi nghĩa vì vị trí quan trọng của đô thị này trên tuyến đường nối Hà Nội với Lào Cai và Vân Nam. Để chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa ở Yên Bái, các cán bộ của Quốc dân Đảng là Nguyễn Thị Giang và Nguyễn Thị Bắc được phái tới thành lập và tổ chức binh đoàn Yên Bái, đồng thời gây dựng cơ sở trong lực lượng lính khố đỏ tại đây. Ngày 9 tháng 2 năm 1930, nhân cơ hội lễ hội đền Tuần Quán có nhiều người từ khắp nơi kéo về, đảng viên Quốc dân Đảng đã chuyển dấu vũ khí đến Yên Bái. Cuộc khởi nghĩa của binh đoàn Yên Bái tấn công quân đội Pháp khởi sự vào ngày 10 tháng 2 năm 1930. Nguyễn Thái Học - người lãnh đạo Lãnh tụ Việt Nam Quốc dân Đảng cuộc khởi nghĩa Yên Bái - Nguyễn Khắc Nhu 37
Nhân dân các xã Nga Quán, Cổ Phúc đã cùng nhân dân thị xã Yên Bái hưởng ứng chủ trương của Việt Nam Quốc dân Đảng đứng lên đấu tranh. Tuy nhiên cuộc khởi nghĩa bị đàn áp , thất bại. Di tích lịch sử khu mộ Nguyễn Thái Học và các cộng sự của ông trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930 tại Công viên Yên Hòa, thành phố Yên Bái Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Yên Bái 38
4. Khởi nghĩa giành chính quyền (8/ 1945) ở Trấn Yên *Giành chính quyền ở cấp tổng, xã. Từ tháng 7/1945 cao trào cách mạng trong tỉnh lên cao, nhân dân được tập hợp hầu hết trong các Hội cứu quốc của Mặt trận Việt Minh đã sẵn sàng chờ thời cơ khởi nghĩa. Đình làng Vần Lực lượng cách mạng ở chiến khu Vần-Hiền Lương được lệnh tiến vào Nghĩa Lộ. Tất cả được biên chế thành 9 trung đội chia làm 3 mũi di chuyển. Lực lượng vũ trang đã giải phóng các đồn Lương Tàm ,Ca Vịnh vừa đi vừa tuyên truyền, cổ vũ nhân dân phá kho thóc Nhật, chuẩn bị khởi nghĩa. 39
Trong tháng 7 hầu hết các tổng,xã lân cận vùng chiến khu và thị xã Yên Bái đã giành được chính quyền, điều này đã khích lệ nhân dân Trấn Yên đứng lên giành chính quyền. Các Ủy ban nhân dân cách mạng liên tục được thành lập (1/7 ở tổng Lương Ca, 3/7 ở xã Đức Quân; 5/7 ở Giới Phiên …). Các xã hữu ngạn sông Hồng như tổng Lương Ca, tổng Giới Phiên đã giành được chính quyền thông qua tuyên truyền thuyết phục chính quyền cơ sở. Giữa tháng 8, chính quyền cách mạng ở các xã như Cường Thịnh, Nam Cường được thành lập… Tại xã Báo Đáp và vùng Chiến khu Vần - Hiền Lương Ngòi Hóp được sự giúp đỡ từ Yên Bình, ảnh hưởng của Ảnh: Sưu tầm chiến khu Vần-Hiền Lương nhân dân cũng nhanh chóng giành chính quyền. Ngày 19/8/1945 chính quyền cách mạng ra mắt nhân dân. Tại Cổ Phúc, ngày 19/8/1945 nông dân, tá điền trong đồn điền Phúc Long, nhân dân Hòa Cuông, Minh Quán, Nga Quán tổ chức mít tinh, biểu tình và tuyên bố thành lập chính quyền cách mạng. 40
*Tổng khởi nghĩa giành chính quyền: Ngày 13/8/1945, Ủy ban quân sự cách mạng Yên Bái ra kế hoạch khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh lị. Kế hoạch khởi nghĩa gồm 2 bước: bước 1 dùng lực lượng vũ trang tước vũ khí của địch; bước 2 huy động quần chúng ở thị xã và huyện Trấn Yên cùng lực lượng vũ trang biểu tình gây áp lực cho Nhật giải tán bộ máy tay sai. HIện vật của nhân dân Trấn Yên trong thời kì tổng khởi nghĩa 8/1945 Ngày 16/8/1945 ta cử đoàn sang đàm phán với Nhật tại dinh tri phủ Trấn Yên nhưng không đi đến được thỏa thuận cuối cùng. Tối 17/8/1945, ban cán sự đảng họp ở nhà Tằm (Âu Lâu) đề ra chủ trương: Giải quyết nhanh chóng việc giành chính quyền ở Yên Bái. Ngày 18/8/1945, từng đoàn người từ chiến khu Vần, Đông Cuông, Báo Đáp, Cổ Phúc với các thành phần dân tộc tiến hành biểu tình, thị uy. 41
Vào khoảng 8 giờ sáng, 19/8/1945 đại diện tay sai của Nhật xin ngừng bắn; 14h ngồi vào bàn đàm phán, Nhật chấp nhận không can thiệp vào việc thành lập chính quyền ở Yên Bái. Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền của Yên Bái giành thắng lợi. Ngày 22/8/1945 ,Ủy ban cách mạng lâm thời tỉnh Yên Bái ra mắt nhân dân. Cuối tháng Tám, ủy ban cách mạng lâm thời huyện Trấn Yên thành lập. Đồng chí Ngô Minh Loan Đồng chí Hoàng Quốc VIệt (Ảnh chụp tại Bảo Tàng Yên Bái) Như vậy, sau 5 năm đấu tranh kể từ khi nhen nhóm xây dựng cơ sở ban đầu, nhân dân các dân tộc huyện Trấn Yên cùng nhân dân cả nước giành được độc lập cho dân tộc. Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, là mốc son chói lọi trong tiến trình lịch sử của nhân dân các dân tộc huyện Trấn Yên. 42
5. Trấn Yên với cuộc kháng chiến chống Pháp lần 2 (1945-1954) *Bảo vệ chính quyền cách mạng Sau Cách mạng tháng Tám, trong khó khăn chung của cả nước nhân dân tỉnh Yên Bái, huyện Trấn Yên phải đối mặt với vô vàn khó khăn đó là việc quân Tưởng theo sông Hồng và đường sắt Lào Cai-Yên Bái tràn vào các huyện, thị xã tiến hành các hoạt động chống phá cách mạng. Thực hiện chủ trương của Đảng, của Chính phủ nhân dân tỉnh Yên Bái, huyện Trấn Yên thực hiện đấu tranh vừa mềm dẻo vừa cứng rắn, hạn chế mức thấp nhất âm mưu phá hoại của quân Tưởng. Điển hình là thắng lợi tháng 11/1945 khi một toán Việt Quốc đã từ thị xã kéo vào Bảo Long - làng Vần nhằm đánh úp cơ quan của tỉnh, toán khác tiến hành cướp vũ khí ở Hiền Lương nhưng đã bị lực lượng vũ trang của ta đánh bại. Tự vệ các xã Báo Đáp, Lan Đình đã đánh đổ toa xe của Quốc dân đảng ở cống Từ Mẫu (Việt Thành); tự vệ xã Báo Đáp, Việt Long đánh úp xe tuần tiễu đường sắt của Việt Quốc. 43
Sau Hiệp định sơ bộ, quân Tưởng phải rút về nước, bọn phản động tìm cách tháo chạy bị quân ta truy kích trên tuyến đường sắt Yên Bái-Lào Cai. Lực lượng vũ trang ở Nga Quán, Báo Đáp, Mậu A… đã bắt sống được nhiều tên. Ga Ngòi Hóp ngày nay (Báo Đáp) *Củng cố chính quyền cách mạng: Ủy ban hành chính kháng chiến huyện Trấn Yên đã tập trung giải quyết vấn đề ổn định đời sống nhân dân, xóa nạn mù chữ… Phong trào tăng gia sản xuất, giảm tô, giảm thuế được thực hiện có hiệu quả chỉ một thời gian ngắn sản lượng lương thực tăng, nạn đói được đẩy lùi. Hưởng ứng “Tuần lễ vàng”, “Quỹ độc lập” nhân dân các xã Việt Hồng, Báo Đáp, Lương Tàm… Đã nô nức ủng hộ. Riêng Giới Phiên đã thu được 2,1 lạng vàng, 20 lạng bạc… 44
Với phong trào “Bình dân học vụ” toàn huyện đã xóa mù chữ cho khoảng 9000 người, Y Can là xã dẫn đầu được tỉnh khen thưởng (Theo Lịch sử đảng bộ huyện Trấn Yên 2005) . *Góp phần đánh bại cuộc tấn công lên Việt Bắc 1947: Tháng 10/1947 để hỗ trợ cho cuộc tiến công Việt Bắc, Pháp ồ ạt đánh chiếm Yên Bái qua phía tây huyện Trấn Yên. Chúng kết hợp hành quân đánh chiếm và xây dựng một số đồn bốt như đồn Đồng Bằng (Hưng Khánh), đồn Ca Vịnh (Hồng Ca), đồn Ngòi Rào (Quy Mông)… Một góc Ngòi Hóp - Báo Đáp 45
Với chủ trương bám đất, bám làng, tiêu thổ kháng chiến, phát triển chiến tranh du kích … Phong trào kháng chiến diễn ra sôi nổi làm cho hết năm 1947 địch chỉ chiếm được một số địa bàn còn lại hầu hết các xã hữu ngạn và toàn bộ tả ngạn vẫn do cách mạng quản lí. Ngoài ra ta tiến hành đánh địch khoảng 20 trận tiêu diệt được một bộ phận sinh lực địch, giam chân chúng trong các đồn bốt . Những chiến thắng tiêu biểu từ sau 1947: Trận Đồng Bằng 1948, Chiến dịch Sông Thao 1949; Góp phần vào chiến dịch Biên giới 1950; Chiến cuộc Đông - Xuân 1953-1954 Chiến dịch Điện Biên Phủ… Nguồn : Sách Lịch Sử Đảng Bộ Trấn Yên 46
*Trận Đồng Bằng 1948 Thôn Đồng Bằng nay thuộc xã Lương Thịnh huyện Trấn Yên tỉnh Yên Bái. Trong kháng chiến chống Pháp lần 2, năm 1948 trên tuyến đường Yên Bái-Nghĩa Lộ, tại thôn Đồng Bằng (Khánh Môn) cách thị xã Yên Bái 9km, Pháp xây dựng ở đây 1 đồn trú quân nhằm khống chế bộ đội ta phát triển về Tây Bắc, tạo thế uy hiếp thị xã Yên Bái và vùng tự do của ta ở tả ngạn sông Hồng. Trong đồn có khoảng 120 tên địch do tên quan hai Pháp chỉ huy. Bộ chỉ huy Liên khu 10 quyết định đánh đòn chiến thuật tại Đồng Bằng. Trận chiến ở Đồng Bằng là khởi đầu cho cuộc tiến công vào Nghĩa Lộ, chặn đứng âm mưu chiếm đóng của Pháp, mở rộng vùng giải phóng của ta. Trận chiến đấu phối hợp tác chiến của đội du kích Âu Lâu, Việt Cường và các đồng bào Dao trong vùng. Nhận nhiệm vụ chính ở đây là Tiểu đoàn 442 và Trung đoàn 209. 47
Trận chiến bắt đầu từ 14 giờ ngày 16/1/1948, hai bên giằng co nhau từng căn nhà, từng ụ súng, đến gần sáng ta đã chiếm được 3/4 đồn, sáng ra địch rút chạy thắng lợi thuộc về ta. Chiến thắng này ta tiêu diệt được 26 tên địch. Chiến thắng Đồng Bằng buộc địch phải rút 10 vị trí chiến lược trên tuyến sông Hồng từ Việt Hồng lên Ngòi Rào, Đại Bục, Đại Phác và đồn Róm. Vùng giải phóng được mở rộng phát triển vào vùng địch hậu ở Tây Bắc. Đồng Bằng là trận tấn công quy mô lớn của bộ đội vào đồn địch trên địa bàn huyện Trấn Yên. Đây là lần đầu tiên pháo binh của ta xuất hiện, công đồn, bắn áp chế địch hỗ trợ cho bộ binh. Chiến thắng Đồng Bằng có đóng góp rất lớn của du kích xã Việt Cường, Việt Hồng, Đại Đồng, Đại Phác, Y Can, Việt Thành… Sau chiến thắng trên, tại Trấn Yên đã xây dựng được 6 đội du kích cơ động mạnh tại các xã Y Can, Quy Mông, Việt Cường… 48
6. Trấn Yên trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước *Phục hồi sản xuất sau 1954 Sau kháng chiến chống Pháp, nhân dân các dân tộc huyện Trấn Yên gặp nhiều khó khăn, nhiệm vụ quan trọng lúc bấy giờ là phải phục hồi sản xuất; giữ vững an ninh thôn xóm; tiếp tục cải cách ruộng đất, đưa nông dân vào làm ăn tập thể. Thành tựu nổi bật của nhân dân trong huyện là công cuộc khai hoang, ở các xã như Đại Đồng, Ca Vịnh, Tân Hợp sau 2 năm đã khai hoang được 800 mẫu ruộng. Công tác thủy lợi được chú ý, cơ cấu lại mùa vụ, cây trồng thực hiện có hiệu quả. Tất cả đã góp phần làm cho đời sống nhân dân ổn định hơn. Từ 1961-1965 thực hiện thành công kế hoạch 5 năm tập trung phát triển nông nghiệp, cùng tỉnh Yên Bái tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và chống lại các hoạt động gián điệp của Mỹ và tay sai như nhân dân Kiên Thành tiêu diệt, bắt sống nhóm gián điệp nhảy dù xuống Đồng Song. 49
*Chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất Đế quốc Mĩ thực hiện phá hoại miền Bắc khi thất bại các loại hình chiến tranh đầu tiên ở miền Nam, nhân dân Trấn Yên cùng nhân dân cả nước chuyển sang trạng thái vừa chiến đấu vừa sản xuất. Từ tháng 6/1965, Mĩ bắt đầu đánh phá Nghĩa Lộ, tháng 7/1965 đánh thị xã Yên Bái. Nhân dân Trấn Yên tiến hành sơ tán các cơ quan, trường học, đào hầm trú ẩn, xây dựng hệ thống trận địa, đặc biệt là sân bay Yên Bái. Trấn Yên đã khẩn trương di chuyển nhân dân các xã như Nga Quán, Nam Cường ra khỏi vùng trọng điểm. Trong một thời gian ngắn đã di chuyển 1200 nóc nhà tới các xã Y Can, Hưng Khánh, Minh Quân, Báo Đáp... Riêng 3 xã Nam Cường, Tuy Lộc, Nga Quán đã hiến 135 ha ruộng để xây dựng sân bay chiến đấu. Sân bay Nga Quán ngày nay 50
Search
Read the Text Version
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 7
- 8
- 9
- 10
- 11
- 12
- 13
- 14
- 15
- 16
- 17
- 18
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23
- 24
- 25
- 26
- 27
- 28
- 29
- 30
- 31
- 32
- 33
- 34
- 35
- 36
- 37
- 38
- 39
- 40
- 41
- 42
- 43
- 44
- 45
- 46
- 47
- 48
- 49
- 50
- 51
- 52
- 53
- 54
- 55
- 56
- 57
- 58
- 59
- 60
- 61
- 62
- 63
- 64
- 65
- 66
- 67
- 68
- 69
- 70
- 71
- 72
- 73
- 74
- 75
- 76
- 77
- 78
- 79
- 80
- 81
- 82
- 83
- 84
- 85
- 86
- 87
- 88
- 89
- 90
- 91
- 92
- 93
- 94
- 95
- 96
- 97
- 98
- 99
- 100
- 101
- 102
- 103
- 104