Important Announcement
PubHTML5 Scheduled Server Maintenance on (GMT) Sunday, June 26th, 2:00 am - 8:00 am.
PubHTML5 site will be inoperative during the times indicated!

Home Explore VIỆT NAM KHO TÀNG DÃ SỬ

VIỆT NAM KHO TÀNG DÃ SỬ

Published by SÁCH HAY - SƯU TẦM, 2023-03-31 12:50:14

Description: Truyện lịch sử

Search

Read the Text Version

Nguyễn Nhạc run sợ bước lên. Mọi người nhìn theo, thấp thoáng thấy ông ta quì xuống dưới một vị tiên đầu râu tóc bạc, nghe giảng dạy những điều gì đó. Được một chốc thì ông quay xuống, vị tiên ông đã biến mất rồi, ông thì hai tay ôm khư khư một cái hộp và bảo mọi người: - Ông cụ nói ông là sứ giả của Ngọc hoàng, gọi tôi đến và bảo phải làm theo mệnh trời. Chỉ nói thế và giao cho tôi cái hộp này, chứ không nói gì thêm. Mọi người đỡ lấy cái hộp, mở ra đó là một quả ấn bằng vàng, trên khắc bốn chữ: Nguyễn Nhạc Vi Vương (Nguyễn Nhạc là vua). Mọi người đều quì xuống tung hô ông. Họ yên trí trời đã sai Nguyễn Nhạc làm vua nước Nam nay. Ngay sau đó, Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa, được tôn làm Tây Sơn Vương. Đó là vào năm Tân Mão (1771). Ông lấy dãy núi ở đèo An Khê làm khu căn cứ. Ông cùng bộ tham mưu đóng quân ở hòn núi cao nhất nằm về phía nam chân đèo. Núi ấy được dân gọi là núi ông Nhạc. Em sát ông là Nguyễn Huệ, còn có tên là Nguyễn Quang Bình, lĩnh một đội quân đóng ở ngọn núi gần đó, cũng gọi tên là núi ông Bình. Buổi lễ tế cáo trời đất và tế cờ xuất quân được tổ chức vào ngày 15 tháng 8 năm Quí Tị (1773). Nghĩa quân Tây Sơn mở trận tấn công đầu tiên vào huyện Tuy Viễn và đạt ngay thắng lợi ban đầu. Viên tri huyện bỏ trốn. Nhân viên và lính tráng đều quy hàng. Đồng thời Nguyễn Nhạc cho hai tướng là Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng đánh chiếm hai huyện Phù Ly và Bồng Sơn. Rồi cả ba đạo quân cùng tiến về Qui Nhơn. Tây Sơn bắt đầu những ngày chiếắng huy hoàng từ đó. Dã sử kể rằng triều đại Tây Sơn có mười thứ vũ khí phi thường của mười vị đại tướng danh tiếng: 1. Thanh gươm độc thần kiếm: Đó là thanh gươm của lãnh tụ Nguyễn Nhạc. Thanh kiếm này dân chúng nói là do trời ban cho. Nguyễn Nhạc lấy được ở đèo An Khê. Hòn núi giấu thanh kiếm này được mang tên là hòn Kiếm Sơn. 2. Hai cây côn:

- Côn bạc (ngân côn) của tướng Võ Đình Tú - Côn sắt (thiết côn) của tướng Đặng Xuân Phong Vì hai cây côn lợi hại này mà nữ tướng Bùi Thị Xuân đã thêu hai lá cờ đề tặng cho hai người: Cờ Ngân côn tướng quân và cờ Thiết côn tướng quân. 3. Ba cây đại đao có tên là: - Ô Long đao của Nguyễn Huệ - Huỳnh Long đao của Trần Quang Diệu - Xích Long đao của Lê S> 4. Và 4 cây cung có tên là: - Thiết thai cung của tướng Nguyễn Quang Huy. Một lần ông Huy đã dùng cung này bắn trúng làm Nguyễn Ánh bị thương. - Vũ Mao cung của tướng La Xuân Kiều. Ông này vốn là một văn thần, nhưng lại kiêm tài cung nỏ. - Kỳ Nam cung của tướng Lý Văn Bưu. Cây cung này ông Bưu đã dùng để bắn chết cọp. - Liên Phát cung là cung của tướng Đặng Xuân Phong. Gọi là Liên Phát, vì có thể bắn một lần 5 mũi tên và bắn liên tiếp. Mười thứ vũ khí lợi hại đó đã giúp cho nghĩa quân ra trận là thắng. Quân Tây Sơn trở nên vô địch khi các vị tướng này còn sống. Nhân dân vùng Bình Định cuối thế kỷ thứ 18, còn ca ngợi các vị tướng Tây Sơn đã có 5 con ngựa đáng gọi là ngựa thần, vì những con ngựa này rất giỏi, có lòng trung nghĩa. Năm con thần mã ấy là. 1. Con Bạch Long của Nguyễn Nhạc đã theo ông đi chinh chiến khắp nơi. Năm 1793 ông mất, ngựa chạy vào núi Hảnh Hót ở, không chịu ra nữa, mà đêm đêm cứ hí vang lên như nhớ người chủ tướng. 2. Con Xích Kỳ là ngựa

của tướng Nguyễn Văn Tuyết. Vốn là ngựa do vua Cao Miên tặng cho chúa Nguyễn Phúc Khoát. Nguyễn Văn Tuyết đã thừa dịp cướp đi, để phục vụ mình. Ngựa này năm 1788, đã đưa ông Tuyết từ Thăng Long về Phú Xuân, cáo cấp với Nguyễn Huệ, vượt đường ngàn dặm trong thời gian ngắn. Đến năm 1802, Nguyễn Văn Tuyết phò tá vua Bảo Hưng trốn lên Xương Giang bị vây. Cả đô đốc Tuyết và ngựa đều trúng đạn. 3. Con Ô Du là con ngựa đen của tướng Đặng Xuân Phong có tài leo núi và vượt qua các ghềnh đá. 4. Con Ngân Câu của nữ tướng Bùi Thị Xuân có tài đi trong đêm tối và phi nhanh không ngựa nào bì kịp. Trong trận Rạch Gầm, ngựa phi như chớp nên Bùi Thị Xuân đã chém bay đầu tướng Xiêm một cách dễ dàng. 5. Con Hồng Lư của tướng Lý Văn Bưu. Ngựa này có dị tướng mà lại khó tính. Trừ bốn con ngựa nới trên, các ngựa khác đều sợ Hồng Lư. Chỉ có Lý Văn Bưu điều khiển được nó. Ba anh em chúa Tây Sơn khởi nghĩa thành công, Nguyễn Nhạc lên ngôi, trở thành vua Thái Đức. Ông vẫn nhớ công ơn của một gia đình tại huyện An Nhơn (Bình Định) đã giúp đỡ cụ Hồ Phi Phúc những ngày đầu sinh cơ lập nghiệp. Vua Thái Đức cho mời một vị trưởng lão trong gia đình này đến để phong tước đền ơn. Ông già này, tục gọi là ông Chảng, gặp nhà vua, ông già nói: - Ngài tuy là vua, nhưng vẫn là phận con cháu. Vậy nếu phong tước, thì xin Ngài cho lão được tự phong rồi Ngài thông qua mới quý. Chứ Ngài lấy chức tước triều đình để ban thì lại hóa ra ban ơn chứ có phải trả ơn đâu! Vua Thái Đức bật cười, và cũng chiều ý ông lão. Ông cụ lền lấy giầy bút xin vua phong cho mình chức tước như sau: Bùng bình chi tướng Uýnh cường chi quan Bộn bàn chi thức

Chảng chảng ngang thiên! Cả triều đình thiếu có bò ra mà cười. Nghe nói vua Thái Đức cũng chuẩn y, chấp nhận sự ngang tàng nghịch ngợm của ông cụ. Phải chăng đây cũng là một giai thoại hư cấu để nói lên phần nào nét phóng túng của phong trào nông dân Tây Sơn. Chỉ biết rằng bà con ở vùng Bình Định thường thích thú nhân vật này. Bên cạnh bốn câu trên, vùng này còn lưu hành thêm câu thành ngữ: Ngang quá ông Chảng. Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn rất được nhân dân đương thời ca ngợi. Mặc dù sử ghi chép, nhưng có nhiều chi tiết, nhiều chuyện riêng tư không có điều kiện trình bày. Có những nhà nho đã lượm lặt trong sử sách và trong dân gian để sáng tác thành những bài sử ca. Khi nhà Tây Sơn thất bại, những tác phẩm này phải dấu diếm, không được lưu hành. Mãi đến năm 1978, mới phát hiện ra được hai tập là: - Tây Sơn tiềm long lục (Ghi chép về con rồng ẩn ở đất Tây Sơn) - Cân quắc anh hùng truyện (Truyện người anh hùng khăn yếm, tức là chuyện nữ tướng Bùi Thị Xuân). Cả hai tác phẩm đều do Nguyễn Bá Huân viết, được công bố vào dịp Hội thảo Khoa học về Tây Sơn, ở Nghĩa Bình. Nội dung rất phong phú và chi tiết, đúng là những tập dã sử đặc sắc. Sách cũng đã được in ra hồi đó, đến nay đã 30 năm, chúng tôi xin phép trích lại một ít. (CON RỒNG ẨN ĐẤT TÂY SƠN) Lữ du qua chốn An Khê, Chạnh niềm cố quốc lòng tê tái sầu. Dò lần ngành ngọn nông sâ>

Tây Sơn di tích còn đâu chốn này? Cuộc đời lắm dịp đổi thay, Bút nghiên ghi lại họa may một vài. Đất thiêng sinh lắm anh tài Tiềm long tam kiệt trần ai dập vùi. Hồ Công buôn bán ngược xuôi, Nông tang vất vả lắm mùi truân chuyên. Phước nhà sinh được con hiền, Nhạc, Thơm cùng Lữ thiếu niên anh hùng. Đêm ngày luyện tập đao cung, Ngũ kinh, tứ truyện ung dung luận bàn. Trong triều có gã Phúc Loan, Nắm quyền Thái phó tham gian vô cùng. Bày mưu hãm hại tôi trung, Giết Trương Văn Hạnh, Lê Dung mấy người. Lại còn truyền lệnh nơi nơi, Bắt Trương công tử kịp thời trừ căn. Kiêm toàn thao lược võ văn, Chàng Trương Văn Hiến thùằn quyền gian. Dãi dầu vượt chốn quan san,

Lánh nơi hổ khẩu băng ngàn vô Nam. Một hôm dừng bước hiền am Gặp sư Trí Viễn luận đàm thời cơ. Sư rằng: “Đời tựa giấc mơ, Hưng, suy, bỉ, thái bao giờ cho yên. Bần tăng vui chốn lâm tuyền Dùng đao trí cắt dây phiền sạch không. Thương cho thí chủ long đong, Tai nhà, ách nước lâm vòng nguy nan. Miền trong có chốn Tây San, Đế vương khởi nghiệp phá tan Nguyễn triều. Cơ trời khôn nói được nhiều, Khuyên người tới đó lo điều tập thân. Hiến nghe hớn hở, muôn phần, “Cảm ơn thầy đã ân cần giúp nhau, Đoái nhìn kinh khuyết lòng đau, Từ nay lưu lạc dãi dầu nắng mưa”.> Lên yên, dóng dả vó lừa, Qui Nhơn trực chỉ, gió đưa cánh bằng Quê người nương náu mấy trăng,

Lương tiền hết sạch, lòng hằng xót xa. Nghĩ mình là kẻ không nhà, Đơn thương độc mã ai là người thân ? Lần mò ra chốn giang tân, Xin ăn độ nhật mười phân thẹn thùng. Trần ai mai một anh hùng, Xuân qua, thu lại, hình dung võ vàng. Nào ai dựng nghiệp Võ, Thang Minh Điều, Mục Dã tìm đàng tới nơi ? Ra tay xoay lại vận trời, Hãn thanh lưu tiếng muôn đời còn khen. Giờ đây rách rưới nghèo hèn, Cơ hàn bức bách lắm phen đau lòng. Chữ rằng: “Vị vũ giao long”, “Ẩn sơn hổ báo” còn mong nỗi gì?> Ngờ đâu vật hoán tinh di , Đã qua bỉ vận, hanh kỳ hiện ra. Ngoài thành có bậc phú gia Họ Phan, tên Nghĩa gần xa nể vì. Trong nhà nuôi lắm kiện nhi ,

Canh phòng cửa nẻo rủi khi tai nàn. Lại nuôi thầy võ Đặng Quan, Bảo tiêu hàng hóa chu toàn bán buôn. Thường hay xuống biển, lên nguồn, Muốn đem đổi gạo, bạc dồn mua tiêu. Bên sông buôn bán dập dìu, Bạn hàng khắp nẻo sớm chiều tới lui. Ghe thuyền lên xuống ngược xuôi Khiến cho thảo khấu đánh mùi nhiều phen. Đại vương xước hiệu Song Tiên, Tính tình hung ác, côn quyền tinh thông. Lâu la trên dưới một lòng, Chận ghe chở gữa dòng ra tay. Trên mui họ Đặng loay hoay, Truyền cho bạn gái tấp ngay vào bờ. Roi vung theo thế phất cờ , Đánh cùng lũ bợm nửa giờ đột xung. Song Tiên nổi cáu anh hùng, Vội sai bộ hạ thắt vòng trùng vây. Đặng Quan ngang dọc đông tây,

Hở cơ, trúng mũi tên bay rồi đời! Lái ghe bị đánh tơi bời, Buông sào nhảy xuống giữa vời đào sanh. Ăn xin, Hiến ở gần quanh, Nghe la chạy tới vội giành sào tre. Xông vào trên đánh dưới che, Lâu la lớp lớp hầm hè phủ vây. Hiến như cọp dữ bị ngây, Sào tre vùn vụt ra tay anh hùng. Song Tiên nổi trận đùng đùng, >Rút roi nhảy tới quyết cùng tranh phong. Hiến dùng “Quan nhật trường hồng”, Đâm y ruột đổ lòng thòng ghê hay! Lâu la bỏ chạy tức thì, Đao thương vứt lại tử thi bộn bề. Lái ghe lòng thật hả hê, Chạy ra ôm Hiến mời về thuyền trung. Phan công nghe báo vui lòng. Đến nơi cảm tạ anh hùng thi ân. Lại truyền mở tiệc ân cần, Đãi đằng tráng sĩ mười phân bỉ bàng.

Công rằng: \"Gặp buổi gian nan, Cứu nguy ân ấy vô vàn cao sâu. Nghĩa tình báo đáp cùng nhau, Xin sang hàn xá trước sau tự tình”. Hiến rằng: “Phải bước linh tinh, Ra tay nghĩa hiệp há đành làm ngơ. Lạc loài chút phận bơ vơ, Quê người đất khách biết nhờ cậy ai”. Phan công nghe nói thở dài, Nắm tay chàng Hiến về ngay nhà mình. Ông truyền yến tiệc linh đình, Mòi ngồi phản giữa thỏa tình hàn huyên. Rằng: “Nay trong nước chẳng yên, Giang hồ đạo tặc khắp miền xảy ra. Tôi đây tuổi tác đã già, Anh em không có, chẳng bà con chi. Của tiền kể chả thiếu gì, Xin dâng tráng sĩ đền nghì giúp nhau”. Hiến rằng: “Lời lẽ ngọc châu, Minh tâm khắc cốt dễ hầu lãng quên.

Tôi đây tự xét tài hèn, Nhờ ơn trưởng thượng một phen chu toàn. Bây giờ đã hết nguy nan, Mở trường dạy học tạm an một bề. Giúp tôi về chốn thôn quê, Cất cho một dãy tranh tre làm trường. Tháng sau bái biệt lên đường, Về miền Tuy Viễn dạy phường ấu thơ. Khi nhàn chén rượu cuộc cờ, Mai danh ẩn tích đợi chờ hùng anh. Tiếng thầy vang khắp thị thành, Môn sinh lui tới học hành rất đông. Hồ công nghe rõ thủy chung,. Mừng nay con trẻ hạnh phùng minh sư. Chọn ngày mồng chín tháng tư, Xin con thụ nghiệp thi thư thánh hiền. Thầy rằng: \"Cách trở sơn duyên Mà lòng cầu học vững bền đáng khen. Từ nay làm bạn sách đèn, Phải cho cần mẫn mới ban kịp người.

Nam nhi danh tiếng để đời, Cự huân vĩ nghiệp nơi nơi lưu truyền. Thầy trò tương ngộ là duyên. Mấy em vào chốn án tuyền bái sư”. Nhạc, Thơm cùng Lữ ba , Khiêm cung đến trước án thư lạy thầy. Lễ xong, đứng thẳng vòng tay, Thầy xem hình dáng, mặt mày giờ lâu. Vui lòng, vừa ý, gật đầu, “Ba em phúc lộc cao sâu ai tày? Khôi ngô, vạm vỡ chân tay, Nghề văn nghiệp võ phải hay hơn người” . Đêm đêm vào khoảng canh tư, Thầy đem côn kiếm, binh thư giải bày. Anh em Hồ Nhạc mê say, Văn ôn, võ luyện đợi ngày lập công. Một hôm vừa mới rạng đông, Hồ Thơm vào chốn tướng trung hầu thầy. Bỗng nghe thầy hét: “Đỡ ngay!\" Ngọn roi vụt tới, thế hay vô cùng.

Hồ Thơm vẻ mặt ung dung, Nhảy lui né tránh, rồi cung thân liền. Thưa rằng: \"Cứu chủ đơn tiên Thế này em liên miên tập rèn. Nhưng còn sử dụng chưa quen, Cúi xin thầy hãy một phen chỉ bày”. Thầy rằng: \"Ta thử hôm nay, Biết em võ nghệ đã dày công phu. Mai sau gặp phải khấu thù Hãy dùng thế ấy mà thu phục người. Còn như “Rồng vượt ra khơi\" “Cọp đen lên núi” em thời tập đi, Chớ quên \"Thủ chấp đại kỷ”, “Huy qua dược mã\" “Xích my tróc hầu”. Cùng là “Triệu Tử đoạt mâu”, Cũng cần tập kỹ nhiệm mầu vô biên. Binh thư ta đã từng truyền, Lục thao tam lược cũng nên chuyên cần. Tôn Ngô binh pháp đà phân, Trương, Lưu, Hàn, Nhạc điều quân bí truyền.

Tử nghi diệu pháp ba thiên, Bày binh nơi chốn bình nguyên diệt thi> Như em luyện tập ba thu, Tài kiêm văn võ ai đâu sánh bằng? Đồng môn có gã Lý Năng, Kiên trinh, trung dũng em hằng kết thân. Mai sau dựng nghiệp, cứu dân, Tả phù hữu bật phải cần tôn trung. Bạn cùng hào kiệt quanh vùng, Đình Minh, Quang Diệu binh nhung am tường. Bấy nay triều chính nhiễu nhương, Máy trời chắc mở rộng đường Võ, Thang. Ra tài tế thế, an bang, Khai cơ lập nghiệp huy hoàng mai sau. Các em đổi họ cho mau, Từ “Hồ\" sang “Nguyễn” ứng câu sấm truyền. “Thơm” thành ra “Huệ\" mới yên, Binh thư, đao kiếm, còn quyền gia công. Lời thầy tua khá nghi lòng. Đừng nên trông trải lâm vòng tai ương.

Thơm nghe, trong dạ cảm thương, Quì dâng hai lạy, tận tường trình lên: Ơn thầy dạy dỗ khó quên, Tam sinh hữu hạnh đáp đền sao đang? Ra tài cứu vớt gia bang, Dẫu cho phó hỏa đạo thang dám từ. Mấy thiên danh tướng binh thư, Nhờ thầy giảng kỹ coi như phép màu. Em xin luyện tập qua mâu, Điều binh, xung trận, trước sau tung hoành. Mai sau đột lũy công thành, Đổng Nhung ngôi ấy để dành tôn sư”. Hiến nghe Thơm nói mỉm cười: “Xưa nay nhân định thắng trời nhiều phen, Thầy đây đức mỏng tài hèn, Giúp em dựng nghiệp cho nên khó lòng. Thượng du lắm kẻ anh hùng, Các em về đó vẫy vùng tốt hơn. Nghĩa kỳ dựng lại Tây Sơn, Tận trung báo quốc rửa hờn cho dân.

Sau này rạng rỡ đai cân, Phải dùng đức trị, Phải dùng đức trị mười phân vẹn mười. Nhớ câu thu phục lờng người, Ân uy tịnh dụng muôn đời chính ngôn\". Hôm sau vừa lúc hoàng hôn, Lạy thầy, Nhạc, Lữ cố thôn phản hồi. Chàng Ba Nguyễn Huệ bồi hồi, Tiễn đưa ra tận bên đồi mới lui. Người đi trong dạ bùi ngùi, Nhớ ơn thầy dạy khôn nguôi tấc lòng. Nguyễn Thế Triết, Đinh Văn Tuấn Sưu tầm, chú thích (Trích theo Tây Sơn danh tướng anh hùng truyện. Nghĩa Bình 1978, tr. 11 - 19) (CON RỒNG ẨN ĐẤT TÂY SƠN) ... Về nhà thưa với Hồ công, Buôn trầu mở nghiệp, ngược dòng sông Côn. Làm quen tù trưởng các nguồn, Đem câu trung nghĩa sớm hôm giải bày. Cùng nhau chung sức ra tay,

Diệt loài tham bạo xưa nay hoành hành. Thượng du lớn nhỏ đồng tình, Theo ông Hai Nhạc luyện binh đêm ngày. Lập đoàn cung thủ rất hay, Đợi khi lâm trận sau này ra oai. Lữ thì coi sóc trong ngoài, Dồn lương tích thảo cùng khai khẩn điền Nhạc thường xem xét bình nguyên, Ngắm nhìn địa thế vẽ nên bản đồ. Còn đem tiền bạc, vải bô, Giúp dân quan quả đơn cô lấy lòng. Lại về quét dọn gia trung, Gọi dân trong xóm đến cùng giết trâu. Chén anh, chén chú mời nhau, Canh ba đêm ấy coi màu đã xay. Nhạc rằng: “Nghe nói lâu nay, Lòng ta có một chuyện này rất ghê. Lần theo một giải sơn khê, Đêm đêm ma quỉ hiện về rất đông. Tôi nghe, sợ hãi trong lòng,

chẳng hay chuyện ấy các ông thế nào?\" Thôn dân có gã Lê Hào, Xưa nay đảm lược vượt cao hơn người. Nghe Nhạc hỏi, miệng tươi cười Thưa rằng: “Huynh trưởng kịp thời theo tôi, Hai ta lên núi cùng coi. Thử xem hư thực đúng lời đồn không?\" Dân làng nao nức trong lòng, Ùa theo Hào, Nhạc rùng rùng ra đi. Sườn non cây cỏ rậm rì Bỗng nghe tiếng nổ tứ dừng chân. Tiếp theo, lửa cháy rần rần, Giọng truyền sang sảng mười phần oai nghiêm : “Các ngươi hãy đứng cho im, Có tên Nguyễn Nhạc, thần tìm đã lâu. Trao cho thanh kiếm nhiệm mầu Lên đây mà nhận mau mau đừng ngờ”.. Dân làng sợ hãi ngẩn ngơ, Một mình Nguyễn Nhạc bấy giờ tiến lên. Cúi đầu quì lại trước ghềnh,

Thần linh hiển hiện đứng trên thạch đài. Trao cho thanh kiếm rất dài, Hào quang rực rỡ, ai ai lạnh mình. Bỗng đâu trời nổi lôi đình, Cây lăn, đá vãi, thế tình hiểm nguy. Mọi người kinh khiếp lạy, quì Thần linh biến mất, còn gì nữa đâu? Nhạc nâng thanh kiêm ngang đầu Rồi đưa lưỡi kiếm cho nhau xem cùng Lưỡi gươm khắc chữ “Anh hùng\">Chuôi gươm hai chữ \"Tinh trung\" rành rành. Dân làng trông thấy đồng thanh Tung hô Nguyễn Nhạc xứng danh anh hào. Về làng mở tiệc ăn khao Cho mời hương đảng cùng vào diên trung Mở lời, Nhạc mới ung dung Rằng: \"Nay Thái phó gian hùng hại dân Cùng hung chi kém họ Tần Làm cho trăm họ muôn phần lầm than Chúng ta cử nghĩa Tây San, Vì dân diệt bạo, lòng đan rạng ngời

Nghìn năm thanh sử truyền đời, Còn hơn mai ẩn ở nơi lâm tuyền. Anh em ai chịu kết duyên Rạch tay, lấy máu dâng lên bàn thờ Rồi ta mài mực đề cờ Thế thiên hành đạo kịp giờ ra quân\". Dưới trên hết thảy thôn dân, Đứng lên cung kính mười phân thưa trình> \"Trời đã sai bậc Thần linh, Ban cho bửu kiếm rạng danh anh hùng. Chúng tôi thề quyết tận trung, Theo về huy hạ hết lòng dám sai. Cùng nhau cử nghĩa ra oai, Giết phường tham lại cùng loài phú thương. Xin ngài chỉ lối đưa đường, Con em trong xóm đồng nương cánh hồng\". Nhạc nghe hoan hỉ trong lòng, Thân đi châm rượu mấy vòng mời dân. Hôm sau làm lễ khởi quân, Lại cho mở quán Nghinh tân chiêu hiền.

Minh quân, lương tướng thiên duyên, Anh hùng vân tậpcác miền gần xa. Nguyễn ThếTiết và Đinh Văn Tuấn Sưu tầm, chú thích (Trích theo Tây Sơn danh tướng anh hùng truyện, Nghĩa Bình 1978. tr. 19 - 22). ...Tài hèn chẳng nệ mua cười, Tây Sơn dật sử vài lời chép ra. Bình Khê là đất quê nhà, Phu nhân Bùi thị thật là liệt oanh. Một thời lừng lẫy uy danh, Con Hồng, cháu Lạc anh danh rạng ngời. Phòng văn gặp lúc thành thơi, Thủy chung sau trước viết chơi canh chầy. Họ Bùi giàu có xưa nay, Lúa phơi đầy ngõ, ruộng ngay bên nhà. Bùi công giữ nghiệp ông cha, Chăm lo cày cấy, xuân qua, đông tàn. Phu nhân nội trợ lo toan, Công, dung, ngôn, hạnh cũng an một bề. Tiếng đồn trong thị, ngoài quê,

Ông bà hiền đức giữ lề nghĩa nhân. Thường hay cứu kẻ gia bần, Giúp người hoạn nạn toan tân lỡ đường. Một hôm gặp tiết Trùng dương Bỗng nghe tiếng khóc thảm thương bên ngoài. Bùi công trong dạ ái hoài, Vội ra xem thử là ai thế này? Thấy người niên thiếu đen gầy, Áo quần rách rưới, mặt mày xanh xao. Dắt tay ông lão tuổi cao, Mày râu trắng xóa khác nào thúng bông. Bùi công trắc ẩn trong lòng, Hỏi rằng: “Ai đó lâm vòng gian nan? Thôi xin đừng có than van, Hai người hãy bước vào hàn gia đây\". Cầm tay ông nói cùng đi Thiếu niên theo gót tức thì vào trong. Bùi công mở cửa khách phòng, Kinh mời lão trượng vui lòng tiến vô. Phân ngôi chủ khách xưng hô

Hỏi rằng: \"Hai vị cùng đồ tới đây , Quán quê xin hãy tỏ bày, Cao danh quý tánh hôm nay xin tường?” Lão rằng: \"Tôi kẻ tha phương, Gặp cơn binh biến lần đường xin ăn. Cầu ngài giúp kẻ khó khăn, Áo cơm, tiền bạc, chiếu chăn ít nhiều. Tệ danh là Đặng Hải Siêu Cháu tôi tên Đặng Sơn Điêu, ngu hèn”. Công rằng: \"Trước lạ sau quen, Thương cho lão trượng lắm phen cơ hàn. Ở đây kể cũng bình an, Cháo rau đắp đổi, lo toan làm gì? Giúp người nghèo khổ nhiều khi, Ấy là bổn phận cần chi nhọc lòng... ...Thời gian thấm thoát như tên, Đông sang, xuân tới, hạ liền thu qua. Hải Siêu quen cửa, quen nhà,> Một hôm trời tối, bước ra sau vườn. Xa xa trùng điệp liên sơn

Ngắm nhìn đại thế lòng đơn ngậm ngùi. Nghĩ mình vận kiện, số xui, Gia đình tan nát đủ mùi đắng cay. Đến đây nhờ chủ nhà này, Giúp qua cơn khó, thật tay Mạnh Thường. Ơn người ta phải liệu phương, Đáp đền xứng đáng tình thương của người. Bỗng nghe như tiếng lá rơi, Rặng tre ngoài ngõ, bóng người lao xao. Áo đen, che mặt nhảy vào, Tay cầm binh khí khác nào bóng ma. Hải Siêu núp dưới bụi hoa, Nhìn xem động tĩnh bên nhà Bùi Công. Xem tình thật chẳng an lòng, Chắc là quân cướp thắt vòng trùng vây. Báo ơn là lúc này đây, Giết loài hùm sói, cứu nguy chủ nhà. Nghĩ xong, chạy đến luống c> Sẵn cây tre đực gác qua làm giàn, Kíp dùng trong lúc nguy nan,

Lấy làm trúc bổng, an toàn xông pha. Bùi Công đangở trong nhà, Bỗng nghe ngoài cửa hét la vang lừng. Bốn phương lửa chớp bừng bừng, Đầu trâu, mặt ngựa phừng phừng kéo vô. Đang cơn lực bạc thế cô, Chợt đâu giọng hét: “Nghịch đồ dừng tay, Có ta cứu chủ đến đây, Cùng bay sống mái hôm nay vài đường\". Lâu la nghe giọng ngang xương, Cung giương, kiếm tuốt, tranh cường kể chi. Hải Siêu xông lướt trùng vây, Tả xung, hữu đột khác gì Tử Long. Ngọn roi vùn vụt mấy vòng, Lâu la tan vỡ, còn mong nỗi gì. Bể đầu, lòi cẳng, gãy tay, Bò lăn khóc kể, ai bi vô cùng. Bùi Công xem thấy thủy chung. Cả mừng, khen ngợi lòng trung ông già. Rằng: “Nay thật mở mắt ra,

Trần ai luân lạc thật là buồn thay! Anh hùng kể cũng hiếm tay, Xin dung lũ bợm sau này hoàn lương\" Hải Siêu cũng chạnh lòng thương. Dừng roi, quát lớn: “Hỡi phường lâu la! Chúng bay cướp của, đốt nhà, Thao thiên đại tội thật là khó dung. Hôm nay ta cũng thể lòng,. Tha cho bôn tẩu để mong đổi nghề. Nếu bay vẫn giữ thói lề, Giết người như trước khó bề thứ tha. Cút đi cho khuất mắt ta, Kẻo còn lớ xớ ắt là vong thân” Bùi công cao hứng muôn phần, Nắm tay họ Đặng ân cần hỏi han: - Bấy lâu từng trải gian nan,> Tài lành dấu giếm, cơ hàn tấm thân. Thấp cao xin hãy thiệt phân, Đừng nên tỵ nệ phú bần làm chi”. Lão rằng: “Xin phép tỏ bày,

Bấy lâu quấy phá nhà này cũng ghê. Ơn sâu chu cấp trăm bề, Gạo cơm, quần áo, chẳng hề so đo. Tôi nay trình hết nguyên do, Thật tên Ngô Mãnh, học trò Thiếu Lâm Côn quyền, cung tiễn tinh thâm, Trước làm Đô Thống, tay cầm quyền binh. Biên quan giong ruổi vân trình, Linh Giang, Trường Dực quân dinh ra vào. Phúc Loan ghét kẻ tài cao, Tước thu binh lính ghép vào tội gian. Đào vong từng trải cơ hàn, Gia đình liên lụy, tiêu tan còn gì! Dắt tay cháu nhỏ ra đi, Tìm nơi, kiếm chốn, chờ thời rửa o> Cháu tôi, Văn Sở nhược quan Tuổi tuy còn nhỏ, nhưng gan anh hùng. Lâm cơn binh loạn lao lung, Tuổi già, sức yếu, vẫy vùng được sao? Thương ông là bậc phú hào,

Khinh tài, trọng nghĩa, xiết bao cảm tình. Vừa qua xem xét thế hình, Thấy đoàn thảo khấu uy thinh lẫy lừng. Vậy nhà nên chẳng đặng dừng, Phải đem tiện kỹ đuổi rừng xanh kia. Cứu tôn quyền khỏi chia lìa, Gọi là báo đáp sớm khuya chu toàn\". Bùi Công trong dạ bàng hoàng, Nửa mừng nửa cảm, tâm can rối bời. Tạ rằng: “Lửa bỏng, dầu sôi, Ơn người cứu giúp không đời nào quên Bấy lâu giấu họ, ẩn tên, Tôi không được biết tật nên lỗi lầm. Nghĩa nào khắc cốt, minh tâm,Đối cùng lão trượng kính thâm vô cùng. Nhà tôi mấy trẻ hôn dung Xin thu dạy dỗ kiếm cung vài đường. Trước là bảo vệ gia cương, Sau là mai hậu danh dương tôn đường. Tôi đà phận thật tỏ tường, Cúi xin lão trượng rủ thương ít nhiều\".

Mãnh rằng: \"Ngài đã lầm yêu: Tôi đem tận lực trả điều nghĩa ân\" . Bùi Công vội bảo gia nhân, Giết gà làm thịt hoan hân phỉ tình. Hôm nay vừa mới bình minh, Gọi hai con lớn bên mình bảo ban: “Các con chưa trải gian nan. Ăn ngon, ngủ kỹ, cơ hàn biết đâu? Nhà ta nổi tiếng là giàu, Gian manh đạo tặc theo nhau trộm rình. Nếu không võ nghệ trong mình, Ắt là bị chúng gia hình một phen. Tuổi già, nhàn nhã, đã quen đi rồi. Vừa qua nếu chẳng kịp thời, Nhờ Ngô công cứu, đi đời nhà ma! Hai con hãy kíp theo cha, Sang nhờ Ngô lão dạy qua ít đường. Mai sau, võ nghệ cao cường Giữ nhà, giữ xóm là phương nhiệm mầu\". Cha con bàn bạc cùng nhau,

Sang phòng Ngô Mãnh cúi đầu bái sư. Lão Ngô trông thấy tươi cười, Đỡ hai trẻ dậy, khuyên lời Bùi Công. Cùng nhau ăn uống, tiệc tùng, Chọn ngày tháng tốt hết lòng bảo ban. Thầy rằng: \"Học võ rất nan Phải cần có chí, có gan cho bền. Phải làm việc nghĩa đừng quên, Lăng cường, chửng nhược để tên đời đời. Khuyên hai con chớ ham chơi, Thị Xuân là phận thuyền quyên, Nhưng xem cốt cách rất nên lương tài. Bùi Văn tuy phận làm trai. Nhưng mà hư nhược tập hoài công đi. Chớ nên học võ làm chi, Theo đòi sự nghiệp, khoa kỳ chờ cơ\". Mỗi đêm trăng sáng mờ mờ, Thị Xuân tập luyện hàng giờ ngoài sân. Tuy nàng thuộc phận yếm khăn, Thông minh hiếu học lại năng dùi mài.

Côn quyền tinh thục hơn ai, Song đao, đoản kiếm là hai sở trường. Đấu cùng Văn Sở tương đương, Còn về ám khí, lắm đường diệu tinh. Ba thu chi xiết công trình, Anh thư nổi tiếng uy danh xa gần. Bùi Công mừng rỡ trăm phần. Sớm hôm săn sóc ân cần chăm lo. Ngờ đâu máy tạo khôn d> Võ sư Ngô Mãnh qua đò âm dương. Thị Xuân chi xiết sầu thương, Tang ma chôn cất đủ đường lễ nghi Ngô Văn Sở cũng ai bi, Đau lòng cháu dại chưa chi đáp đền. ...Ngày qua, tháng lại cũng chầy, Gió thu đưa lá rụng ngay bên thềm. Thị Xuân, Văn Sở đêm đêm, Ôn nhuần thương bổng lại thêm tinh thuần Sở rằng: \"Danh tướng, lương thần, Ngoài môn võ nghệ, lại cần binh thư.

Ông tôi lực địch muôn người, Lại thêm mưu lược cũng mười phần hay. Gia truyền còn những sách này. Thái công binh pháp sánh tày Tôn Ngô Từ nay tôi sẽ cùng cô, Ngày xem binh pháp, trận đồ, lược thao. Thôi thì thượng mã đề đao, Văn ôn võ luyện, lẽ nào dám khuây!> Bây giờ ở chốn non Tây, Anh em Nhạc, Huệ dựng ngay cờ đào. Sĩ nông, công, cổ theo nhau, Lên miền sơn cước nhập vào nghĩa binh. Tiếng đồn xuống tận tỉnh thành, Khắc Tuyên đốc trấn lôi đình nổi cơn: \"Khá khen một lũ quả đơn, Phen này làm giặc, đáng hờn, đáng căm. Điểm binh tuyển tướng hằm hằm, Bắt loài phản nghịch băm vằm mới hay\". Ngờ đâu đường sá không am, Mấy phen chinh thảo lại làm thiệt quân.

Bấy giờ Văn Sở, Thị Xuân, Cùng nhau thương nghị, định nhân lúc này. Thưa cùng Bùi Lão dở, hay, Quyên tiền, góp của theo ngay non đoài. Tây Sơn từ nổi binh oai, Bốn phương hào kiệt ai ai đồng lòng. Theo đầu dưới ngọn cờ hồng,> Vì dân cử nghĩa, há không quên mình ? Bồng Sơn có Đặng Đình Minh, Cùng Trần Quang Diệu là tình tri giao. Hai người gồm đủ lược thao, Bán nhà góp lúa cùng vào An Khê. Lương cầm trạch mộc, nhi thê Dưới quyền Nguyễn Nhạc đồng thề tận trung. Một hôm Huệ mới ung dung, Gọi Trần Quang Diệu doanh trung dạy rằng: \"Tướng quân trung dũng ai bằng, Bấy lâu ta cũng vẫn hằng mến yêu. Bây giờ nhờ cậy một điều, Xuống vùng thành thị kết nhiều hùng anh.

Cùng nhau hợp lực mới thành, Rồi đồng khởi sự phá dinh quan tuần. Ta nghe vùng dưới Thị Xuân, Tuy là nhi nữ, mười phần uy phong. Lại thêm Văn Sở hào hùng, Được hai người ấy để cùng chúng ta. Tướng quân xuống đó lân la, Tìm cơ giao kết thật là rất hay\" Họ Trần nghe Huệ giãi bày, Thưa rằng : \"Việc ấy giao ngay kẻ hèn\", Hôm sau chuẩn bị cung tên, Cầm đao chào chủ, nhảy lên ngựa hồng. Băng miền, lướt bụi thẳng xông, Đinh ninh lời chúa, hai lòng được sao ? Hai ngày rong ruổi gian lao, Xuyên qua rừng rậm, đi vào đường đê. Xa xa một dải tiểu khê, Đến gần, xuống ngựa, tính bề rửa chân. Ngờ đâu họa suýt vong thân, Bụi lau cạnh suối bất thần cọp ra.

Mồi ngon trước miệng hổ già, Cọp vươn móng sắc nhảy qua chụp liền. Diệu đâu phải kẻ tài hèn, Múa quyền tiến thoái rất nên vững vàng. Hai giờ chiến đấu ngửa ngang, Nổi xung cọp mới quay sang thế mầu. Giả vờ mệt mỏi, cúi đầu, Dụ Trần Quang Diệu xông vào tấn công. Hai chân trước cọp đồng vung, Chụp vai Quang Diệu máu hồng vọt ra. Tiếp theo vừa trảo vừa nha, Cắn, quào tới tấp, thế đà hiểm thay. Họ Trần mệt nhọc xiết chi, Lui thì không được, tiến thì không sao Bỗng nghe vó ngựa ào ào Một nàng thiếu nữ khác nào Mộc Lan. Đến nơi, hạ mã, ly an, Tay vung song kiếm xông tràn cứu nguy. Cọp điên nào có kể gì, Bỏ Trần Quang Diệu, đáp ngay họ Bùi.

Thị Xuân chém trúng mỏm đuôi, Cọp đau, hốt hoảng vội lùi bên khe. Hai chân cào đất hầm hè, Lấy đà nhẩy tới, quyết đè Thị Xuân. Khen thay hữu dũng giai nhân, Kiếm vung như điện, mười phần tinh vi. Trúng thương, cọp ngã tức thì, Lăn vòng mấy bận, chạy ngay vào rừng. Một trường ác chiến lẫy lừng, Khiến cho Quang Diệu cũng bừng chí trai. Cầm đao, xông bụi, lướt gai, Đuổi theo cọp dữ, giương oai anh hùng. Thị Xuân xem thấy ung dung, Bảo rằng: \"Cọp gặp thế cùng, chớ truy. Vết thương phải buộc ngay đi, Nếu không máu chảy như ri cũng phiền. Nơi đây là chôn lâm tuyền. Thuốc đâu rít, bó cho yên thân này. Nhà tôi kể cũng gần đây. Dám xin dời bước đi ng> chớ chầy\".

Thị Xuân, Quang Diệu cả hai Trở về trang trại đường dài ruổi dong. Bước vào trình với Bùi Công, Cả nhà tiếp đón hết lòng chăm lo Vết thương vừa nặng, vừa to Cũng nhờ Văn Sở ra trò lương y. Thuốc thang bó, đắp tức thì Trải qua một tháng đến kỳ giảm thuyên. Cảm ơn, lòng chẳng được yên, Ngày kia vừa mới canh hai, Ra sân dạo mát, thấy ngoài hàng mai. Có đôi trai gái thi tài, Đao, thương, quyền, kiếm ra oai tranh hùng. Đứng nhìn, Quang Diệu ung dung, Nói rằng: \"Tôi cũng xin cùng góp vui,. Cho tôi đấu thử một h> Cùng Ngô huynh trưởng để coi thế nào?” Vào nhà, cầm lấy đại đao, Ra sân thủ thế khác nào Quan Công. Ngô Văn Sở vội tấn công,

Song tiên trực đã thế đồng giao lang. Ngửa ngang trăm hiệp cầm đồng, Thị Xuân đứng ở ngoài vòng ngứa tay, Cười rằng: “Hai bậc tài trai, Xin dừng một chút cho ai vào vòng\". Ngô, Trần ngừng cuộc giao phong, Lau mồ hôi trán rồi đồng nghỉ ngơi. Cùng nhau chuyện phiếm một hồi, Tiểu thư Bùi thị lại đòi đấu chơi. Họ Trần trông thấy cả cười: “Khen cho nhi nữ ít người như cô, Đấu quyền, tôi đứng, nàng vô, Dạo chơi chốc lát anh Ngô phẩm bình”. Vội dùng “Loan phụng đồng minh\" Hay tay vươn thẳng như hình móng ưng> Thị Xuân công, thủ chẳng ngừng, “Gia long xuất hải” mấy từng xông pha. Đánh qua “Lưu thủy lạc hoa\" , Hai bên tài nghệ xem ra cũng đồng. Sau lưng xuất hiện Bùi Công,

Bảo rằng: “Hai trẻ hãy cùng nghỉ tay Ta xem gái sắc, trai tài, Đáng duyên cầm sắt, liệu bài se cho\". Thị Xuân nghe nói thẹn thò, Chạy vô đóng cửa, không cho ai vào. Công rằng: \"Lão thật tào lao, Đem giây bìm sắn dựa vào tùng quân. Ý chàng nông, đậm hãy phân, Cho ta nghe thử định phần nghi gia”. Họ Trần quỳ gối thưa qua, Công ơn lịnh ái thật là cao thâm. Cứu tôi giữa chốn sơn lâm, Lâu nay khắc cốt minh tâm đã nhiều. Nếu như lão bá thương yêu, Thật là hân hạnh, dám điều từ nan?\" Ngô Văn Sở cũng hân hoan, Cười rằng: \"Đôi bạn chi lan sum vầy, Ý tôi đã định lâu nay, Tìm cơ nối lại, ra tài mai dong. Không ngờ nay gặp Bùi công,

Mở lời như vậy, thật lòng mừng vui\". Bùi Công nghe nội mỉm cười: Lão xem Văn Sở đáng người tri âm, Cháu đà có ả Băng Tâm, , Công dung, ngôn, hạnh, mày tằm, mắt hoa Bút nghiên võ vẽ năm ba, Hãy còn đãi tự ở nhà anh Hai. Bây giờ ta hãy làm mai, Để cho Văn Sở cùng ai kết nguyền. Chọn ngày xe mới lương duyên, Cùng nhau gia thất vẹn tuyền cả hai.> Ngô, Trần hai kẻ hòa hài, Bùi gia kiều khách anh tài là đây\". Ngô Văn Sở vội quỳ ngay, Thưa rằng: \"Trưởng thượng bấy nay thương tình, Giúp cho kẻ khó linh đinh, Lại còn tính chuyện gia đình cho con. Thì dù sông cạn, đá mòn, Tấm lòng trượng nghĩa như son khó mờ”. Hôm sau, trời sáng tinh mơ,

Bùi công xem lịch, chờ giờ trực khai. Bèn truyền quét dọn trong ngoài, Trương đăng kết thái cho ai phỉ nguyền. Anh hùng sánh với thuyền quyên, Sắt cầm hòa hợp, lương duyên tự trời. Chén quỳnh uống đã gần vơi, Chàng Trần Quang Diệu lựa lời thưa qua: “Trước là trình thật cùng cha, Sau là các bậc thân gia xa gần. Bây giờ trong nước muôn dâ Bị quan hà khắc, lắm phần khổ đau. Nghèo hèn cho chí sang giàu, Đều mong thay đổi cho mau triều đình. Phúc Loan là đứa yêu tinh, Buôn vua, bán chúa, dân tình oán ta. Bốn phương dấy động can qua, Tây Sơn khởi nghĩa có ba anh hùng. Nhạc, Huệ, Lữ thảy tận trung, Phò vua, diệt nịnh hết lòng vì dân. Con đây nào quản gian truân,

Theo phò Nguyễn Nhạc mười phần tin yêu. Nghe cha tiền lắm, chúa nhiều. Lại thêm nhân nghĩa lắm điều thương dân. Ngô Văn Sở, Bùi Thị Xuân, Anh hùng nổi tiếng, xa gần biết danh. Đến đây với một lòng thành, Khuyên mời liệt vị đinh ninh một lời. Cùng nhau ra sức giúp đời, Theo cùng Nguyễn Nhạc thay trời cứu dân”. Bùi Công mừng rỡ muônần, Dạy rằng: “Hiền tế chẳng cần nghi nan, Ta đây nghe ở Tây San, Anh hùng tam vị lòng đang sáng ngời. Làm người, công, nghiệp để đời. Nghìn thu há được một thời như nay? Ngày mai rạngrợ mặt mày, Tên ghi thanh sử sau này còn lâu. Công thành cắt đất, phong hầu Vinh thê, ấm tử có đau lắm người? Thong dong con ở lại chơi,

Vài ngày rồi sẽ về nơi trướng hùm. Lựa lời con hãy thưa giùm, Cùng ngài Nguyễn Nhạc thủy chung rõ ràng. Cha đem hết thảy dân làng, Sung vào quân nghĩa về hàng Cần vương”. Ít lâu, QuangDiệu lên đường, Kíp về đại trại tỏ tường trước Bùi Công tiễn đến giang đầu, Nắm tay nghĩa tế, cùng nhay tỏ tình: “Thị Xuân chút phận linh đinh, Cũng nhờ kiều mộc nương mình dây leo. Gian nan vượt suối trèo đèo, Mong con chung thủy, hiểm nghèo đừng quên” . Trần rằng: “Muôn đội ơn trên, Con xin trọn nghĩa, bẻ tên mà thề. Vợ chồng sinh tử không nề, Tương thân, tương ái chớ hề phụ nhau”. Nói xong, cúi lạy dập đầu: “Kính trào nhạc trượng, con mau lên đường”. Từ khi phu tế viễn phương,

Thị Xuân mong nhớ lòng thường xót xa. Ngày đêm bàn luận cùng cha, Chiêu binh, mãi mã, xây ba lũy dài. Lại cho đầy tớ Hạ Khai, Lên miền sơn thượng mua hai voi > Đem về luyện tập xông pha. Cho quen chiến trận để mà ra quân. Năm sau, vào lúc trọng xuân, Cỏ hoa đua thắm, mười phần xinh tươi. Thị Xuân cưỡi tượng dạo chơi, Vào vùng núi hiểm, tìm nơi lập đồn. Bỗng nghe tiếng rú kinh hồn, Xa xa vọng lại, bồn chồn tâm can. Thúc voi cấp tốc đăng san, Xông bờ, lướt bụi, băng ngàn cây xanh. Chợt đâu trận gió hôi tanh, Từ xa thổi lại, xem tình rất hung. Thị Xuân ngẫm nghĩ trong lòng, Chắc là ác thú quanh vùng đâu đây. Xuống voi, cột lại võ hài,

Lăm lăm thương bạc, dặm dài tiến lên. Lại nghe tiếng rống vang rền, Thấy con voi trắng lăn kềnh bên khe. Mãng xàấn chặt bốn bề, Miệng phun nọc độc, không hề buông tha. Thị Xuân phấn dũng xông pha, Ngân thương đâm tới thế đà rất mau. Trăn kia bị trúng nơi đầu, Buông voi, quăng tới táp nhầu Thị Xuân. Múa thương bảo vệ châu thân, Trăn, người hỗn chiến, mười phân kinh hoàng. Ai ngờ giữa chốn rừng hoang, Bỗng thành một bãi chiến tràng là đây. Áo ào đổ lá rung cây Kinh hồn bỏ chạy một bầy sơn dương. Thị Xuân dùng thế xuyên thương, Đâm trăn phọt óc về đường âm ty. Voi kia trông thấy vội quỳ, Gục đầu cảm tạ ân ni cứu nàn. Thị Xuân trông thấy hân hoan,

Vỗ đầu bạch tượng bảo ban vài lời. Voi như thông hiểu tiếng người, Đứng lên rống lớn mấy hồi vang rân. Xa đưa tiếng động rần rần, Một bầy dã tượng đến gần chúa voi. Cùng quỳ gối, cùng co vòi, Coi như lễ bái với người thi ân. Phía sau có tiếng: “Dì Xuân! Anh đây đến trễ, có phần lỗi to. Rừng hoang dì lại lần mò, Vào sâu như vậy sao cho vẹn toàn. Ở nhà trong dạ chẳng an, Nên anh vội vã băng ngàn đến đây. Trăn kia sống ở nơi này, Đã trên trăm tuổi, da đầy vảy che. Ta mau mang xác trăn về, Lột da làm giáp, tiện bề xông pha\". Nàng rằng: \"Anh Sở bàn qua, Thật là hợp lý của ta vô cùng. Nay ta thu phục voi hung,

Dề trang trại hết lòng dưỡng nuôi. Ngày đêm luyện tập hẳn hoi, Phòng khi xông trận có hồi ra quân\". Cỡi voi đến chôn giang tân, Cho voi xuống tắm, ân cần chăm nom. Từ nay, cứ đến đầu hôm, Sở, Xuân chuẩn bị nước, cơm sẵn sàng. Dẫn voi ra cánh gò hoang, Thổi còi tập trận, thế càng nghiêm minh. Nhắc qua Quang Diệu kiêm trình, Trở về đài trại, tình hình thưa qua. Huệ rằng: \"Nay lúc can qua , Binh tinh, lương túc mới là thành công. Tướng quân với mỗ đi cùng, Đến thành lịnh nhạc khúc trung tỏ bày. Tế cờ, cử nghĩa định ngày, Thời cơ đã đến, làm ngay mới là\". Hôm sau, vừa mới canh ba, Huệ cùng Quang Diệu, Trần Nha lên đường. Ra đi giữa chốn mù sương,

Trăng sao ẩn lặn, bốn phương mịt mờ, Lần dò khe suối, bụi bờ, Cường nhơn đâu bỗng bất ngờ xông ra. Hét rằng: “Nghe lịnh lão gia, Của tiền để lại, mới qua chốn này. Nếu không ta sẽ ra tay, Mỗi đao mỗi đứa cho bay chầu trời\". Huệ nhìn cặp mắt sáng ngời, Thấy tên tướng cướp thân mười thước cao. Uy phong lẫm lẫm anh hào, Râu ria, mắt xếch khác nào Trương Phi. Huệ rằng: “Đã gọi nam nhi, Giúp đời, trị loạn, cứu nguy cỡi bờ. Còn như nằm bụi nằm bờ, Giết người, cướp của, bao giờ nên danh? Để chi những tiếng hôi tanh, Người chê, kẻ chửi, hỡi anh râu rì? Bây giờ ời hãy còn khuya, Thấp cao đấu thử, phân chia thư, hùng”. Cường nhơn nổi giận, tay vung,

Tấn công lập tức, trung cung đánh vào. Thế như khởi phụng đằng giao. Nhanh như mãnh hổ ào ào quyền phong. Trần Nha tức giận trong lòng, Nhảy vô giao chiến, phân công túc thì. Cường nhơn dùng ngọn song phi, Đá Trần Nha té, khác gì trở tay. Trần Quang Diệu nhảy vào ngay, Cứu Trần Nha thoát, thế hay vô cùng. Hai bên chân đá, tay vung, Tiến lui trăm hợp, cầm đồng mà thôi. Đứng ngoài, Nguyễn Huệ cả cười, Bảo rằng: \"Quang Diệu cùng người giao tranh, Khác nào cọp trắng, rồng xanh, Một đôi địch thủ liệt doanh khó tìm. Bây giờ đã hết ban đêm, Vừng hồng sắp hiện để xem anh hùng. Ngừng tay ăn uống no lòng, Rồi cùng đánh nữa mới mong cao hèn. Đường quyền địch thủ quen quen,

Phải chăng cùng phái chơn truyền của ta?\" Cường nhơn nghe Huệ nói qua, Ngạc nhiên, lùi lại, xem ra bàng hoàng, Hỏi rằng: “Kiếm, kích, đao, sang, Cô, quyền, xoa, bỗng trong hàng võ sư. Nổi danh chỉ có một người, Là thầy giáo Hiên đương thời mà thôi. Ta nghe ngươi nói hẳn hòi Vậy ta cùng dạo thử coi vài đường\". Huệ rằng: \"Giữa chốn chiến trường, Hơn thua phân rõ nhược cường mới hay. Còn như cùng học một thầy, Sư huynh, sư đệ, cần gì tranh nhau ?> Để ta phân hết đuôi đầu. Cho người ta thử trước sau thế nào? Ngươi dùng: “Bắc hải cầm giao, Chuyển qua \"mãnh hổ đăng cao” chớ gì? Tiến lên \"Thủ chiết quế chi” Bước sang bên tả “ Xích mi tróc hầu” Lui về \"Túy ngọa cao lâu\"


Like this book? You can publish your book online for free in a few minutes!
Create your own flipbook