Important Announcement
PubHTML5 Scheduled Server Maintenance on (GMT) Sunday, June 26th, 2:00 am - 8:00 am.
PubHTML5 site will be inoperative during the times indicated!

Home Explore AI ĐÃ ĐẶT TEN CHO DÒNG SÔNG- HỒNG LINH

AI ĐÃ ĐẶT TEN CHO DÒNG SÔNG- HỒNG LINH

Published by Nguyễn Thị Vân Trường THPT Hiệp Hòa 1, 2021-12-11 15:27:49

Description: AI ĐÃ ĐẶT TEN CHO DÒNG SÔNG- HỒNG LINH

Search

Read the Text Version

Chuyên đề: Ai đã đặt tên cho dòng sông?. (Hoàng Phủ Ngọc Trường) I. Khái quát thời đại “Thời bao cấp” là một thời kỳ lịch sử trong giai đoạn những năm 1976-1986 diễn ra ở Việt Nam. Từ “thời bao cấp” là khái niệm dùng của người Việt đặt cho một thời kì lịch sử từng diễn ra sau chiến tranh thống nhất đất nước. Sau cuộc chiến tranh dai dẳng và khốc liệt của nhân dân ta với các nước hùng mạnh nhất thế giới. Đó là thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và nhiều quân đội của các nước đồng minh khác. Khi thống nhất đất nước, toàn thể nhân dân ta bước vào giai đoạn hòa bình, xây dựng đất nước. Thời kì đó gọi là thời kì bao cấp, nước ta xây dựng theo mô hình chủ nghĩa xã hội giống như Liên Xô (cũ). Trong giai đoạn này, mở ra thời kì mới cho văn học nghệ thuật nước nhà. Từ thời điểm 1975 và vài năm sau đó, khi đất nước bước vào thời bình, văn học, cũng như các loại hình nghệ thuật khác, đã rơi vào thực trạng đáng suy nghĩ. Trước tình trạng báo động này, Nguyễn Minh Châu xứng danh “ ngường mở đường tinh anh và tài hoa nhất” với những truyện ngắn đề cập đến khía cạnh đạo đức thế sự trong đời sống thường nhật của con người. Nhịp bước với Nguyễn Minh Châu là các tác giả như Nguyễn Khải, Bùi Hiển, Nguyễn Quang Sáng, Xuân Quỳnh, Triệu Xuân, Nguyễn Duy... Trong số các đề tài hiện diện đời sống văn học thời điểm đó, văn xuôi và kịch thể hiện rõ tinh thần nhập cuộc. Các nhà văn, biên kịch đã thay đổi cách nhìn hiện thực, trực tiếp đối mặt với thực trạng xã hội và con người. Họ rút ngắn cự li giữa văn học và hiện thực, giữa tác phẩm và người đọc, giữa chủ thể sáng tạo và chủ thể tiếp nhận, nhờ vậy họ không chỉ góp phần làm nóng lên đời sống văn nghệ đương thời mà còn làm bước trung chuyển tích cực cho cao trào đổi mới văn học từ sau năm 1986. II.Tác giả 1. Tiểu sử: -Hoàng Phủ Ngọc Trường sinh ngày 9/9/1937, tại thành phố Huế, nhưng quê gốc lại ở làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. -Thời niên thiếu ông sinh sống và học tập tại Huế. Sau khi học hết bậc trung học, ông di chuyển vào TP.HCM để học tại trường Đại học Sư Phạm Sài Gòn. Năm 1960, ông tốt nghiệp khóa I ban Việt Hán trường Đại học Sư Phạm Sài Gòn. -Sau đó ông quay trở lại Huế và tiếp tục sự nghiệp học hành của mình tại trường Đại học Văn khoa Huế. Năm 1964, ông chính thức tốt nghiệp và nhận bằng Cử nhân triết tại ngôi trường này.

-Trong khoảng thời gian từ năm 1960-1966, ông dạy tại trường Quốc Học Huế và tham gia rất tích cực vào các phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mĩ- Ngụy đòi độc lập, thống nhất Tổ Quốc. -Năm 1966- 1975, Hoàng Phủ Ngọc Tường tình nguyện thoát ly gia đình và di chuyển lên các chiến khu để góp sức vào cuộc kháng chiến chỗng Mỹ bằng các hoạt động cách mạng trên mặt trận văn nghệ. -Ông viết văn và viết báo từ khi còn rất trẻ nhưng đến năm 1978 ông mới kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam. Ông cũng từng nắm giữ rất nhiều chức vụ quan trọng như: Tổng thư ký Hội Văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên- Huế, Tổng thư ký Liên Minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình thành phố Huế, Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Cửa Việt, Sông Hương. -Phu nhân của ông là Lâm Thị Mỹ Dạ- bà cũng là một nhà thơ khá nổi tiếng và có rất nhiều đóng góp cho nền văn học Việt Nam. Nối tiếp sự nghiệp văn chương của ông bà là hai cô con gái Hoàng Dạ Thư và Hoàng Dạ Thi, họ cũng đã từng làm thơ, viết văn và công tác tại Nhà xuất bản. -Từ năm 2012 đến nay, gia đình nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đang cư ngụ tại thành phố Hồ Chí Minh. 2. Sự nghiệp văn học: -Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn vô cùng tài hoa, đặc biệt là về thể loại bút kí. Mỗi tác phẩm của ông đều có một phong cách viết rất độc đáo, đó là sự kết hợp ăn ý giữa chất trí tuệ và chất trữ tình về rất nhiều kiến thức, chủ đề khác nhau như: văn học, triết học, lịch sử, địa lí... bất kì chủ đề gì cũng không làm khó được ông. -Những sáng tác của ông hấp dẫn người đọc ở lối hành văn hướng nội, súc tích và tấm lòng nhân văn sâu sắc , trí tuệ uyên bác cùng chất Huế quyến rũ. -Một số tác phẩm tiêu biểu thuộc thể loại bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường: • Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu (1971). • Rất nhiều ánh lửa (1979). • Ai đã đặt tên cho dòng sông (1984). • Bản di chúc của cỏ lau (1984). • Ngọn núi ảo ảnh (1999). • Trong mắt tôi (2001). • Rượu hồng đào chưa uống đã say (2001). -Ngoài thể loại bút kí, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn sáng tác thơ. Thơ của ông cũng được rất nhiều người yêu thích nhờ có nhiều nét đặc sắc trong sáng tác. Các tập thơ của ông đều

mang vẻ đẹp của nỗi buồn hoài niệm cùng những suy ngẫm về lẽ sống, cái chết,… có ảnh hưởng rất sâu sắc đến tâm hồn người đọc. -Ba bài thơ ấn tượng nhất của ông là: Những dấu chân qua thành phố (1976), Người hái phù dung (1992) và Dạ Khúc. -Ông cũng có sáng tác một số tác phẩm thuộc thể loại nhàn đàm, đó là: • Nhàn đàm, Nxb Trẻ, 1997. • Người ham chơi, Nxb Thuận Hóa, 1998. • Miền gái đẹp, Nxb Thuận Hóa, 2001 (Tặng thưởng Văn học Hội nhà văn Việt Nam 2001). -Hoàng Phủ Ngọc Tường đã được nhà nước trao tặng một số giải thưởng danh giá như: • Giải thưởng Nhà nước về văn hóa nghệ thuật năm 2007. • Giải thưởng Văn học Hội Nhà văn Việt Nam: “Rất nhiều ánh lửa” (1980-1981). • Tặng thưởng Văn học Uỷ ban toàn quốc LH các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam các năm 1999 và 2008. • Giải A giải thưởng văn học nghệ thuật Cố đô (1998- 2003)... • Giải thưởng văn học nghệ thuật Chế Lan Viên tỉnh Quảng Trị lần thứ nhất (2015). -Hoàng Phủ Ngọc Tường được biết đến như là một nhà văn của những dòng sông và sự nghiệp văn chương của ông cũng giống như là một dòng sông vậy, luôn chăm chỉ, miệt mài sáng tác không nghỉ ngơi để đóng góp cho đời những áng văn thơ hay. III. Tác phẩm: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. 1.Xuất xứ: “Ai đã đặt tên cho dòng sông” là bài tùy bút suất sắc viết tại Huế, ngày 4/1/1981, rút từ tập bút kí cùng tên. 2.Tập bút kí: Gồm 8 bài bút kí, viết ngay sau năm 1975, trong đó thấm đẫm lòng yêu nước, tinh thần dân tộc và chủ nghĩa anh hùng. Những cảm hứng ấy được thể hiện rõ nét trong tình yêu, lòng tự hào sâu sắc của nhà văn đối vói vẻ đẹp thơ mộng và hùng vĩ của thiên nhiên đất nước, với truyền thống lịch sử lâu đời của dân tộc, với những phẩm chất cách mạng kiên cường của con người Việt Nam thời đại mới. Những nội dung ấy được truyền đạt bởi một ngòi bút tài hoa với những hiểu biết sâu rộng, lối hành văn hướng nội, đẹp sang trọng, súc tích, tinh tế. 3. Cảm hứng:

Dòng sông Hương thơ mộng của xứ Huế. Dòng sông quê hương được soi chiếu từ nhiều góc độ của lịch sử, địa lý, văn hóa... Qua những suy tư và liên tưởng, dòng sông đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp của đất cố đô với trang sử vẻ vang, với cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, trở thành biểu tượng cho văn hóa và tâm hồn con người xứ Huế. Bài tùy bút mang đậm phong cách tùy bút bởi giọng văn phóng túng và sự bộc lộ cái “tôi” suy tư, trữ tình của nhà văn. 4. Giá trị nội dung và nghệ thuật: 4.1. Giá trị nội dung: -Đoạn trích là hình ảnh của dòng sông Hương thơ mộng, trữ tình đầy chất thơ khi ở thượng nguồn đến khi về với thành phố Huế. Vẻ đẹp của sông Hương hiện lên với từng bước đi trong cuộc hành trình trở về với người tình thơ mộng. Và trong mỗi bước đi ấy, sông Hương như trưởng thành, thay đổi, lớn lên để từ một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại trở thành một bà mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. -Qua đoạn trích, người đọc cũng có thể cảm nhận được tình yêu, niềm tự hòa tha thiết, sâu lắng mà Hoàng Phủ Ngọc Tường dành cho dòng sông quê hương, cho xứ Huế thân yêu và cũng là cho đất nước. 4.2 Giá trị nghệ thuật: -Sông Hương được tái hiện bằng một vốn hiểu biết phong phú về văn hóa, lịch sử, địa lý và văn chương của tác giả. -Những cảm xúc sâu lắng cùng văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa tạo nên sức hấp dẫn của đoạn trích “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. 5. Tóm tắt tác phẩm: Bài bút kí đã ca ngợi vẻ đẹp của sông Hương gắn liền với xứ Huế thơ mộng đã đi vào lòng người và với truyền thống lịch sử xứ Huế. Lúc ở thượng nguồn, sông Hương có vẻ đẹp mãnh liệt và hoang dại, có nhiều ghềnh thác đáy vực bí ẩn. Có thể xem sông Hương như bản trường ca của rừng già. Lúc ở đồng bằng, sông Hương thơ mộng làm say đắm lòng người. Hai bên bờ sông Hương chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên. Dòng sông mềm như tấm lụa uốn cong, cảnh đẹp như bức tranh có đường nét, hình khối trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lưu Bảo. Sông Hương có vẻ đẹp da màu biến ảo: sớm xanh, trưa vàng, chiều tím. Lúc qua thành phố Huế, sông Hương trôi đi thực chậm chảy lặng lờ như điệu slow. Sông Hương trở thành một tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Trên sông vọng lại tiếng hát trong một khoang thuyền nào đó. Sông Hương mang vẻ đẹp vừa trữ tình, vừa trầm mặc gắn liền với lịch sử bi tráng của dân tộc mà trên thế giới không có con sông nào như thế. Và trước về với biển sông Hương lưu luyến tình cảm với thành phố Huế ví như nỗi vẫn vương của nàng Kiều với Kim Trọng.

IV. Phân tích “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” *Mở bài: “Đã đôi lần đến vói Huế mộng mơ. Tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt. Vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào có được, nét dịu dàng pha lẫn trầm tư”. Mỗi lần nghĩ về Huế là lòng tôi lại ngân nga câu hát ấy. Phải chăng mảnh đất của các lăng tẩm, đền đài của cố đô trầm mặc đã đi vào thơ ca nhạc học để lại bao mê đắm trong lòng người. Nói đến Huế ta còn nhớ về sông Hương, núi ngự, lục bình trôi- những hình ảnh không thể tách rời kinh thành cổ. Dòng sông Hương, dòng sông chỉ thuộc về Huế, dòng sông thơm ngát hương hoa ấy đã vấn vương vào lòng bao du khách, thậm chí cũng để lại nỗi băn khoăn với cả những người con của đất cố đô “ai đã đặt tên cho dòng sông?” để rồi nó mang tên Hương Giang. Hoàng Phủ Ngọc Tường, một người con xứ Huế đã trả lời cho câu hỏi ấy bằng một bài bút kí giàu chất trí tuệ, kết hợp giữa tự sự và trữ tình tài hoa, mê đắm và tình yêu thiết tha giành cho mảnh đất quê hương. “Ai đã đặt tên cho dòng sông” chính là câu trả lời ấy. *Thân bài: *Nét chính về tác giả: Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn có phong cách độc đáo và sở trường về thể bút kí, tùy bút. Lời văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường được cấu tạo bởi hệ thống ngôn từ nghệ thuật sang trọng, ám ảnh, đậm chất trữ tình của cái tooi uyên bác, tài hoa. *Hoàn cảnh sáng tác bút kí: Bút kí “Ai đặt tên cho dòng sông?” được viết năm 1981, khi tác giả đã sống bên bờ sông Hương , sống trong lòng Huế hơn 40 năm trời, tình yêu máu thịt đối với quê hương cứ lớn lên từng ngày và nó hiện hữu ở mọi thời gian, mọi không gian. Khi tác giả ngồi đọc truyện Kiều giữu mùa thu, trong một khu vườn cổ, nơi có những loài hoa đang nở, trái cây đang chín, yên tĩnh và khoáng đạt- khu vườn tọa lạc trên vùng đất mà Nguyễn Du từng sống nên thiên nhiên của “mảnh đất Kinh- xưa” đã in bóng trong thơ Nguyễn, ngược lại sông Hương và Huế đã gợi cho tác giả hình tượng của cặp tình nhân lý tưởng: Kim- Kiều. Bằng tài năng nghệ thuật viên mãn kết hợp với kiến thức uyên sâu ở nhiều lình vực, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đưa người đọc đến vói dòng sông Hương thiết tha và lãng mạn. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là linh hồn của tập truyện cùng tên xuất bản năm 1986, được tác giả viết năm 1981 và được đưa vào trong những kiệt tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường nói riêng, của thể kí nói ở văn học Việt Nam thời hậu chiến nói chung. Thành công của Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn đã xây dựng được con sông thơ mộng, lãng mạn để từ đó bộc lộ cái “tôi” với tình yêu quê hương đất nước nồng nàn, sâu sắc. *Thể bút kí: Trước hết cần phải khẳng định “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là một áng văn tiêu biểu viết theo thể kí. Đay là một thể loại rất kén độc giả, bạn đọc và khó sáng tác. Người viết tùy

bút phải có phông kiến thức uyên sâu ở nhiều lĩnh vực, câu văn co duỗi, nhịp nhàng. Đằng sau ông hoàng của thể loại tùy bút Nguyễn Tuân thì ta phải kể đến Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nhận định về ông, Nguyên Ngọc nói: “Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà ăn viết kí hay nhất trong văn học ta hiện nay”. Bằng sự am hiểu trong lĩnh vực địa lí Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm toát lên dòng sông Hương một vẻ đẹp thiên nhiên đến mê hoặc lòng người. *Phân tích dòng Hương Giang. 1. Dòng sông của địa lí. HPNT đã cảm nhận dòng Hương ở các lĩnh vực như địa lí, lịch sử và thơ ca, nhưng có lẽ dòng Hương Giang đẹp và để lại dấu ấn sâu sắc nhất là qua cảm nhận trên phương diện địa lí với cái nhìn đầy mới mẻ như kết tinh tình yêu và tài năng của tác giả. Tác giả đã cảm nhận con sông Hương qua bốn chặng đường khi nó tìm về thành phố Huế. 1.1 Sông Hương ở thượng nguồn- Cô gái Di-gan phóng khoáng, man dại. HPNT đã mở đầu bài kí của mình bằng một câu văn đầy chủ quan: “Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất.” Nhận xét của HPNT đã thể hiện được niềm tự hào của mình với dòng sông trên thế giới. Bằng trí tưởng tượng phong phú và niềm say mê bất tận đối với Hương Giang, HPNT đã gợi nên vẻ đẹp hoang dại của dòng sông ở thượng nguồn. Ông gọi đó là “ bản trường ca của rừng già”. Tên gọi ấy xuất phát từ cội nguồn của dòng sông đó là đại ngàn của Trường Sơn hùng vĩ. Sông Hương ở phần thượng nguồn toát lên vẻ đẹp dữ dội khi nó đi qua dãy Trường Sơn hoang dại của núi rừng và người yêu văn khó có thể quên được những câu văn tùy bút đẹp như một bản nhạc với đầy đủ những nốt trầm nốt bổng: “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở lên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Những vế đầu của câu văn rất ngắn gọn và những âm vực cao tạo nên những nốt bổng, nốt thăng trong bản nhạc của sông Hương, những vế sau lại là một tổ hợp như những câu phức với nhiều vế dàn trải để người đọc được ngân nga những nốt nhạc nhẹ của sông Hương dịu dàng và say đắm. Người đọc nhớ tới con sông Đà của Nguyễn Tuân khi nhập quốc tịch Việt Nam, chảy qua phần thượng nguồn nó cũng vô cùng dữ dội. Nguyễn Tuân đã tập trung miêu tả độ dốc của con sông khi đi qua những quãng sông hẹp: “đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có ánh mặt trời”. Thậm chí có những quãng hẹp đến mức “con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. Nếu con sông Đà của Nguyễn Tuân hiện lên dữ dội qua những câu văn có kết cấu điệp trùng như “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy.” thì con sông Hương của HPNT lại hiện lên với những câu văn tạo ra âm hưởng hùng tráng rất riêng cho bản trường ca rầm rộ của rừng già. Để tạo nên sự man dại của dòng sông ở phần thượng nguồn, HPNT đã sử dụng dày đặc nghệ thuật

đối lập, tương phản, so sánh để kích thích trí tưởng tượng của người đọc và từ đó độc giả hình dung ra vẻ đẹp khác nhau của dòng sông. Tác giả cũng chọn lựa những tính từ miêu tả để làm nổi bật vẻ đẹp riêng của sông Hương trên thượng nguồn: rầm rộ, mãnh liệt, cuộn xoáy, dịu dàng và say đắm để cho thấy những nét tính cách đối lập, đa dạng nhưng lại vô cùng thống nhất của sông Hương. Khó ai có thể hiểu những tính cách đối lập ấy lại hội tụ trong một cô gái. Tưởng rằng ví sông Hương như một cô gái thì sẽ thật dịu dàng, nữ tính. Không chỉ dừng lại ở đó, HPNT còn khoác lên cho dòng sông Hương một vẻ đẹp vô cùng độc đáo: “Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di – gan phóng khoáng và man dại”. Như vậy, ngay ở những câu đầu tiên của bài kí này, HPNT đã sử dụng rất thành công nghệ thuật nhân hóa để ví dòng sông như một cô gái với sức mạnh của rừng già: với bản lĩnh gan dạ và một tâm hồn tự do, trong sáng. Cá tính của một cô gái Di – gan phóng khoáng và man dại. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả lại chọn hình tượng cô gái Di – gan để ví với dòng sông Hương trên thượng nguồn. Nếu ai đã từng chiêm ngưỡng vẻ đẹp của một cô gái Di – gan thì tôi dám chắc sẽ bị cuốn hút bởi sự bí ẩn nhưng mạnh mẽ vô cùng, với làn da nâu rám nắng, đôi mắt xanh thăm thẳm như những thảo nguyên, mái tóc vàng đầy nắng và gió. Đặc biệt những cô gái này còn biết đến bởi nhưng vũ điệu bốc lửa, đắm say và thuật bùa chú. Và dòng Hương của Huế trên thượng nguồn cũng vậy. Sống cuộc đời phóng khoáng, tự do của dân du mục, của những con người không bao giờ chịu khuất phục. Đặc biệt cô gái ấy mang chút man dại, hoang sơ của núi rừng như con sông Hương khi còn ẩn mình trong rừng đại ngàn Trường Sơn. Nhưng cũng chính rừng già nơi đây cũng đã chế ngự nó để sông Hương tạo được cho mình một vẻ đẹp dịu dàng và trí tuệ – phẩm chất cần thiết của một người con gái khuôn mực. Nếu không có vẻ đẹp dữ dội ở trước đó tạo nên sự lạ lẫm thì đến đây dòng Hương giang lại trở về với vẻ đẹp muôn thủa. Hai nét tính cách này của sông Hương làm cho chúng ta liên tưởng đến sự trưởng thành của một người con gái: Khi còn trẻ thì còn ngang ngược, thậm chí bướng bỉnh với lối sống phóng khoáng. Nhưng qua thời gian và sự trải nghiệm thì người con gái ấy dần trưởng thành để mang cho mình những phẩm chất để có thể làm một người vợ, người mẹ. Nên trong cảm nhận của HPNT, đến đây dòng Hương giang đã có thể trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. Như vậy, với những hình ảnh phong phú, nghệ thuật đặc sắc, liên tưởng đa dạng, HPNT đã đưa đến những tính cách của dòng sông Hương ở phần thượng nguồn và từ đó ta hiểu sâu thêm phong cách và lối tư duy có chiều sâu trí tuệ của nhà văn. Đây là bộ mặt và nét tính cách mà sông Hương muốn giấu kín nên ít ai biết đến mà chỉ hiểu sông Hương một con sông trầm mặc và dịu dàng. Bởi trước khi đi ra khỏi rừng sông Hương đã đóng kín lại và ném chiếc chìa khóa vào trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng. 1.2. Sông Hương trước khi đi vào kinh thành Huế – hành trình đi tìm người tình trong mộng. Tiếp theo, HPNT đã miêu tả con sông Hương từ cội nguồn trở về ngoại vi thành phố Huế. Tác giả đã miêu tả dòng sông Hương bằng cái nhìn rất đa tình, thể hiện một tâm hồn nghệ sĩ lãng mạn và bay bổng. Trước khi trở thành người tình thủy chung dịu dàng của mảnh đất

Huế, Hương giang đã trải qua một hành trình đầy gian khổ, thử thách. Với sự cảm nhận đầy tinh tế của HPNT, toàn bộ hành trình đi từ cội nguồn đến ngoại vi rồi neo đậu ở thành phố Huế như một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình mong đợi của người con gái trong câu chuyện cổ tích ngày xưa. Đến đây, sông Hương mang một vẻ đẹp trữ tình, một lần nữa lại được ví như một “người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” được người tình đến đánh thức. Người đọc nhớ đến câu chuyện cổ tích Nàng công chúa ngủ trong rừng, đang ngủ say sưa trong lời nguyền của mụ phù thủy và chờ đợi người tình trong mộng đến đánh thức bằng một nụ hôn định mệnh của tình yêu. Và người tình ấy với Hương giang không ai khác ngoài kinh thành Huế. Rõ ràng, HPNT liên tiếp sử nghệ thuật nhân hóa, liên tưởng để cho dòng sông vừa mang vẻ đẹp trữ tình, vừa bừng lên sức sống. Tỉnh dậy sau một giấc ngủ dài, người đẹp Hương giang đã: “Chuyển dòng một cách liên tục, vòng những khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông – bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”. Đoạn văn đẹp này như một câu thơ, nó gợi lên dòng sông đẹp miên man và duyên dáng. Đọc đoạn văn này, người yêu văn lại liên tưởng đến Nguyễn Tuân khi miêu tả con sông Đà ở hạ lưu với những câu văn đẹp: “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Vậy vì sao mà con sông phải chuyển dòng liên tục, có phải chăng HPNT muốn nói rằng cuộc tìm kiếm một người tình trong mộng là không hề dễ dàng, có thể đôi bàn chân phải bôn ba trên khắp các nẻo đường như dân gian đã từng viết : “Anh đến tìm hoa Thì hoa đã nở Anh đến tìm đò Thì đò đã sang sông Anh đến tìm em thì em đã lấy chồng”. Và sông Hương trong cuộc hành trình tìm kiếm người yêu đích thực của mình cũng vậy. Nó phải Chuyển dòng một cách liên tục, vòng những khúc quanh đột ngột – thì mới gặp được Huế. Dịu dàng và đầy e ấp, nó uốn mình theo những đường cong thật mềm, nhưng lại bất giác rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông – bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ. Phải chăng chính khúc quanh đột ngột này là nàng Hương đã nhìn thấy thấp thoáng bóng dáng người tình trong mộng của mình. Và nó không chần chừ một giây phút để lỡ và quay về phương đó. Con sông Hương chảy qua đôi bờ cỏ cây tươi tốt, góp nhặt sắc núi Ngọc Trản rồi qua Tam Thai, Lưu Bảo để trở nên mềm mại như một tấm lụa. HPNT đã vẽ một bức tranh bằng nghệ thuật ngược sáng của điện ảnh. Dòng sông in bóng những ngọn đồi tạo nên phản quang nhiều màu sắc: “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Ta lại hình dung đến vẻ đẹp thật dịu dàng, e lệ của sông Hương trước khi gặp thành phố Huế. Nàng Hương ấy điệu đà mà chuẩn bị để đi gặp người tình trong mộng: nàng chuẩn bị cho mình ba sắc áo

nàng yêu thích nhất: xanh, vàng, tím để làm duyên, làm dáng với tình nhân. Dòng sông thật yểu điệu trong con mắt của HPNT. Nếu sông Hương đổi sắc màu theo ngày thì sông Đà của Nguyễn Tuân lại đổi sắc màu theo tháng trong năm. Mùa xuân nước sông Đà xanh màu “xanh ngọc bích” chứ không “xanh màu canh hến của sông Gâm sông Lô”. Mỗi độ xuân về, nước sông lại “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Hương giang không rực rỡ kiêu sa nữa bởi nó đã thấm vào mình một vẻ đẹp của rừng thông u tịch. Đó là vẻ đẹp triết lí như cổ thi và niềm kiêu hãnh âm u tỏa ra từ giấc ngủ ngàn thu của vua chúa. Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương. Khi thoát khỏi những vách núi, những đá vực, Hương giang bừng tỉnh, khi ngân nga tiếng chuông chùa Thiên Mụ rồi xa cách tiếng gà ở làng đồi núi trung du. Đoạn văn miêu tả vẻ đẹp của Hương giang là sự hắt bóng kì diệu, vẻ đẹp mơ mộng của phong cảnh miền đất cố đô. 1.3. Sông Hương khi đi vào kinh thành Huế – cuộc gặp gỡ người tình trong mộng. Điều đầu tiên tác giả muốn cho người đọc thấy nét thay đổi của sông Hương khi gặp kinh thành Huế là nó vui tươi hẳn lên. Đó là quy luật tình cảm tất yếu. Có ai từng quá nửa hành trình trong cuộc đời mình đi tìm một người tình trong mộng với bao gian nan, vất vả giờ đây khi gặp được chủ nhân của lòng mình lại không vui hay sao? Chính điểm vui tươi của một người con gái trong tình yêu là thời gian đẹp nhất. Có lẽ vì thế mà Hương giang thật sự muốn vấn vương, muốn sống chậm lại để cảm nhận. Miêu tả vẻ đẹp quyến rũ của Hương giang khi chảy qua lòng thành phố Huế, HPNT đã cảm nhận vẻ đẹp của dòng sông bằng cảm quan của một người nghệ sĩ: một người họa sĩ kiêm một nhạc sĩ. Dưới con mắt của hội họa, Hương giang hiện lên với đường nét mềm mại, màu sắc hài hòa. Sông Hương đã tìm thấy tình yêu của mình khi trở về với thành phố Huế. Đến đây sông Hương như một tiếng “Vâng” không nói ra của tình yêu – vẫn dịu dàng, nhẹ nhàng và e thẹn, sông Hương mang chút ngập ngừng của một người con gái khi nhận lời yêu thương từ người yêu của mình. Tiếng vâng này cho ta nhớ đến cái lắc đầu như chấp thuận của người con gái đang yêu trong thơ Xuân Quỳnh: “Sóng bắt đầu từ gió Gió bắt đầu từ đâu Em cũng không biết nữa Khi nào ta yêu nhau”. Khi gặp người yêu, gặp chủ nhân của lòng mình thì có ai muốn nỡ rời xa, bởi khi ấy mỗi giây phút đều đong đầy yêu thương nên ai cũng muốn thời gian như ngừng lại để níu giữ lấy tình yêu. Thế mới hiểu vì sao HPNT lại ví sông Hương như một điệu « Slow » tình cảm giành riêng cho Huế. Nhệ thuật nhân hóa khiến cho sông Hương trở nên gần gũi như con người và mảnh đất cố đô nơi này. Hai chữ “yên tâm” trong đoạn văn chính là cảm giác của Hương giang khi

tìm được tình yêu đích thực của mình. Sau cảm giác bình yên giữa lòng thành phố Huế, Hương giang lại hiện ra với những đường cong mềm mại, thướt tha, duyên dáng, quen thuộc như vốn có. Nó đang uốn lượn trước mắt, đang làm duyên làm dáng với người tình chung của. So sánh giữa sông Hương và sông Xen ở Paris, sông Nêva ở Leningrad càng làm cho dòng sông Hương trở nên cổ kính và quí giá hơn. Điểm giống nhau giữa ba con sông này là đều nằm trong lòng thành phố thân yêu của nó. Nhưng khác với những dòng sông trên sông Hương khi đi trong lòng thành phố thân yêu nó trôi đi thực chậm, chứ không chảy nhanh như đoàn tàu tốc hành của dòng Nê – va để khi chảy đi rồi mà vẫn chưa kịp nói gì với thành phố thân yêu của nó. Sông Hương khi vào đến kinh thành Huế, nếu giải thích về mặt địa lí thì do các chi lưu nhỏ dẫn nước của con sông đi khắp các biền bãi và với hai hòn đảo nhỏ trên sông làm cho lưu tốc của dòng nước chậm hẳn lại. Sông Hương trôi đi thực chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh. Nhưng nếu nhìn đồng nhất trong sự so sánh của tác giả – sông Hương như một cô gái trong hành trình đi tìm người tình trong mộng, thì đến đây sông Hương đã bắt gặp người tình nhân của mình. Hơn thế, HPNT còn thổi vào dòng Hương giang vẻ đẹp VH. Đó là vẻ đẹp của cố đô, vẻ đẹp của Việt Nam. Tác giả hướng tới cái nhìn xưa cũ của “những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống xóm thuyền xúm xít”, của những ánh lửa thuyền chài lập lòe. Không chỉ gợi nên bằng đường nét, sông Hương còn được gợi nên với màu sắc. Qua bàn tay của người nghệ sĩ tài ba, HPNT đã gợi nên dòng sông Hương với đầy đường nét quyến rũ, sắc màu hài hòa, màu biêng biếc của hàng cau, bóng trúc, lung linh trong trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh trên sông và đặc biệt là cây cầu trắng in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như một vầng trăng non. Những ánh hoa đăng bồng bềnh trôi trên sông bỗng ngập ngừng như muốn đi, muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng. Phải là người yêu quê hương, yêu dòng sông Hương, yêu mảnh đất Huế đến nhường nào thì HPNT mới viết lên được áng văn lay động lòng người đến vậy. Qua cảm quan của người nhạc sĩ, HPNT đã cảm nhận sông Hương qua liên tưởng độc đáo và thú vị. Sông Hương như một điệu nhạc tình cảm dành riêng cho Huế. Dòng sông chảy chậm như điệu chảy lững lờ vì nó quá yêu thành phố Huế. Đó là tình cảm của sông Hương dành cho thành phố Huế và cũng là tình cảm của tác giả dành cho dòng sông Hương, cho mảnh đất cố đô này. Đôi mắt sâu sắc của nhà văn đã nhìn ra mối quan hệ biện chứng giữa dòng sông Hương mềm mại với con người xứ Huế. Sông Hương dịu dàng, duyên dáng như đã góp phần hình thành nên tính cách nết na, ý nhị của người con gái cố đô. 1.4. Sông Hương chia tay kinh thành Huế – cuộc chia tay người tình trong mộng. Khi rời khỏi kinh thành Huế, sông Hương chếch về phía chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói. Như một giấc mộng tình yêu để Hương giang đứng trước cuộc chia tay rồi mà còn chưa tỉnh mộng. Trước khi xa dần thành phố, dòng sông đã lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ với màu nắng tinh khiết tinh khôi mà đã từng bước vào thơ Hàn Mặc Tử:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Dù vấn vương, dù lưu luyến không muốn rời xa nhưng đâu ai “tắm được hai lần trên một dòng sông” – Hương giang phải chia tay thành phố thân yêu, người tình trong mộng của mình. Nhưng đi rồi, sông Hương mới chợt nhận ra còn một điều chưa nói với người tình chung nên nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông-tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh cổ xưa. Về địa lí đây là một nơi khá cao của kinh thành Huế, nơi có thể dõi mắt nhìn xa hàng dặm trường đình khi chia tay. Hình ảnh và không khí mang đậm chất Đường thi, “đăng cao viễn vọng” trong mỗi cuộc chia ly. Cái đổi dòng này về mặt địa lý mà nói thì thực bất ngờ bởi sông Hương đã chảy xuống vùng đồng bằng phù sa êm ái thì không ai nghĩ nó còn đi ngược lên vùng cao này, bởi nước chảy xuôi dòng. Nhưng nhìn theo cái lí của tình yêu thì nó thật dễ hiểu và dễ chấp nhận. Vì thế HPNT mới nói dòng Hương có cái rất lạ, rất con người ở đây, hay nói đúng hơn đó là cái “lẳng lơ, kín đáo” của tình yêu. Mà nhà văn liên tưởng ngay đến nàng Kiều trong đêm tình tự đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng ở ngã rẽ này để nói một lời thề trước khi về biển cả: “còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ…”. Và lời thề ấy của dòng Hương chung thủy để đến nay nó vẫn còn vang vọng khắp lưu vực sông thành điệu hò dân gian dìu dặt: Nam ai, Nam bình, Mái nhì, Mái đẩy. Hay đó cũng là tấm lòng chung tình của người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở, của HPNT với xứ Huế yêu thương. 2 . Dòng sông của văn hóa. Sông Hương được nhà văn cảm nhận từ nhiều góc độ khác nhau. Từ đó, nhà văn đã mở ra cho tác phẩm này chiều sâu của lịch sử, của văn hóa. Sông Hương – dòng sông của lịch sử văn học thi ca – có mặt từ thuở đầu lập nước. Từ hiện thực kiêu hùng của Huế, mà Hoàng Phủ Ngọc Tường cho rằng: “Sông Hương là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết dưới màu cỏ lá xanh biếc”. Mặt khác, sông Hương cũng là cội nguồn của thi ca nghệ thuật. Có biết bao văn nhân, thi sĩ đã từng rung động với dòng sông Hương như Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Tản Đà, Tố Hữu. Nhà văn đã tin rằng “có một dòng sông thi ca về sông Hương và tôi hy vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”. Cao Bá Quát đã từng nhìn sông Hương mà thốt lên rằng: “Trường giang như kiếm lập thanh thiên”. Tản Đà thấy “dòng sông trắng, lá cây xanh”. Hàn Mặc Tử thì lại so sánh tôn vinh sông Hương như sông ngân hà: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó / Có chở trăng về kịp tối nay”. Thu Bồn nhìn dòng nước lững lờ của sông Hương mà bâng khuâng “Con sông dùng dằng con sông không chảy / Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”. Và với Nguyễn Trọng Tạo, Hương Giang lãng đãng một bầu khí quyển huyền thoại thi ca giúp nhà thơ thăng hoa những vần mê đắm:

“Con sông đám cưới Huyền Trân Bỏ quên dải lụa phù vân trên nguồn Hèn chi thơm thảo nỗi buồn Niềm riêng nhuộm tím hoàng hôn đến giờCon sông nửa thực nửa mơ Nửa mong Lí Bạch, nửa chờ Khuất Nguyên” Đất nước Việt Nam có rất nhiều dòng sông chảy qua mọi miền xứ sở, và nó đã kịp chảy vào trong những vần thơ, trang văn tuyệt vời. Bạn đọc từng xót xa với Hoàng Cầm khi nghe tin sông Đuống bị quân thù chiếm đóng. Nhà thơ đã thốt lên: “Sông Đuống trôi đi/Một dòng lấp lánh/Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì”. Công chúng yêu văn cũng đã chiêm ngưỡng vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của “Đà Giang độc bắc lưu” qua những “trang hoa” xuất sắc của nhà tuỳ bút hàng đầu Nguyễn Tuân. Giờ chúng ta lại tìm đến với sông Hương – dòng sông chỉ tự thu mình khiêm tốn trong lãnh địa Thừa Thiên Huế, nhưng qua những trang kí tài hoa của HPNT sông Hương hiện ra với những vẻ đẹp dịu dàng, tinh tế, góp phần làm cho Huế trở nên một bức tranh sơn thuỷ hữu tình. Hơn thế, sông Hương còn là dòng sông lịch sử, văn hoá, thơ ca, nghệ thuật. Nó đã là một phần trong đời sống tâm linh của người Huế trầm mặc, sâu sắc. Câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của HPNT đã gợi lên trong miền tình cảm của bạn đọc nhiều băn khoăn về một dòng sông ngỡ là quá quen, hoá ra lại có nhiều bí ẩn cần được khám phá thêm. Có như vậy, chúng ta mới hiểu sâu sắc hơn về quê hương đất nước, tự hào hơn về giang sơn cẩm tú Việt Nam. 3 . Dòng sông của lịch sử. Nó đã tham gia vào chứng kiến biết bao nhiêu biến cố quan trọng của lịch sử dân tộc. Sông Hương xuất hiện trong lịch sử trước hết với vai trò của một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước, của các vua Hùng khi còn mang tên Linh Giang trong “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi. Sau đó, nó còn đảm nhận là dòng sông Viễn Châu – dòng sông ở chốn xa xôi của Tổ quốc đã chảy vào trận chiến oanh liệt để bảo vệ đất nước Đại Việt thân yêu. Nó cũng đã từng soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ ở thế kỉ 18. Sông Hương đã từng sống hết bi tráng của thế kỉ 19 với những cuộc khởi nghĩa, trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của thế kỉ 20. Sông Hương lại có thêm sức mạnh để làm nên chiến thắng. Cùng với Huế, sông Hương đã trở thành một nét son trong lịch sử dân tộc. Đặt sông Hương trong chiều dài của lịch sử từ thời dựng nước của các vua Hùng cho đến ngày hôm nay, HPNT đã thể hiện tình yêu, niềm trân trọng, niềm tự hào sâu sắc đối với sông Hương. Tác giả đã gọi đó là dòng sông của thời gian, ngân vang của lịch sử. Khi viết về màu xanh biêng biếc, cách miêu tả tinh tế cùng cách so sánh liên tưởng ấy đã làm hiện ra các sắc thái khác nhau cùng tồn tại trong một dòng sông bởi sử thi hay anh hùng ca là một thể loại gắn liền với những chiến công còn màu lá xanh biêng biếc là màu sắc của tính chất trữ tình, của sự sống bình yên, của tình yêu. Có thể nói rằng HPNT là một nhà văn hoá Huế, ông không chỉ nhìn sông Hương trôi ở trong thì hiện tại, ngày ngày mang phù sa và nguồn nước ngọt trao tặng vô tư cho những cánh đồng Châu Hoà, cho cuộc sống người dân xứ Huế; mà ông còn nhìn sông Hương như là khởi nguồn cho những giá trị tinh thần lịch sử. Sông Hương trong quá khứ qua các triều

đại phong kiến vàng son, nó đã từng mang cái tên Linh giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam Tổ quốc nước Đại Việt. Nó đã từng vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của anh hùng Nguyễn Huệ, rồi nó đi suốt qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ góp phần làm nên những chiến công lẫy lừng vang dội cả thế giới như lời đại tướng Võ Nguyên Giáp đã phát biểu: “Lịch sử Đảng đã ghi bằng nét son tên của thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc”. *Kết Bài: Ai đó đã từng viết “Đất nước có nhiều dòng sông nhưng chỉ có một dòng sông để thương, để nhớ như đời người có nhiều cuộc tình nhưng chỉ có một cuộc tình để mãi mãi mang theo”. Vâng, “một dòng sông để thương, để nhớ” của mỗi người rất khác nhau. HPNT đã song hành cùng sông Hương đi vào trái tim người đọc với “Ai đã đặt tên cho dòng sông”. Có một huyền thoại vọng về từ làng Thành Trung, một ngôi làng trồng rau thơm ở Huế: Vì yêu quý con sông xinh đẹp, người dân hai bên bờ sông Hương đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước xanh thắm ấy mãi mãi thơm tho. Cũng như tình yêu của sông Hương với Huế, tình yêu của Hoàng Phủ Ngọc Tường với sông Hương cũng là quá trình dâng tặng, khám phá và hoàn thiện chính mình. V. Phong cách kí của tác giả qua “Ai đặt tên cho dòng sông?”. 1.Đậm chất Huế: Chất Huế trong bài kí thể hiện ở tình yêu và sự gắn bó sâu sắc của nhà văn với dòng sông quê hương. Phải yêu Huế, gắn bó với sông Hương đến mức nào, Hoàng Phủ Ngọc Tường mới có được những trang viết đầy ắp tri thức và rất đỗi tài hoa về Hương giang như vậy. Tài năng nghệ thuật là một phần, cái yếu tố tiên quyết trong nghệ thuật vẫn là tình cảm, cảm xúc chân thành, sâu đậm... Với Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương đã chiếm trọn tâm hồn ông. Vì yêu Huế, yêu sông Hương nên Hoàng Phủ Ngọc Tường đã chọn sông Hương làm đối tượng chính cho bài kí của mình. “ Phải lòng” dòng sông, nhà văn viết về nó với tất cả sự gắn bó, đắm say của một người con với dòng sông quê hương, với vẻ đẹp của quê hương, xứ sở. Khi viết về sông Hương, nhà văn say sưa tìm kiếm và khẳng định vẻ đẹp riêng, sức cuốn hút, quyến rũ riêng của con sông xứ Huế ở các phương diện không gian và thời gian, lịch sử và văn hoá. Cả bài tuỳ bút dường như là cuộc hành trình tìm kiếm cho câu hỏi đầy khắc khoải “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” Và cuộc tìm kiếm, lý giải cái tên của dòng sông đã trở thành cuộc tìm kiếm đầy hào hứng và say mê không chỉ vẻ đẹp của diện mạo hình hài mà còn là độ lắng sâu của tâm hồn và rung động. Con sông xứ Huế hiện lên trong cuộc tìm kiếm của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không chỉ là con sông địa lý mà là một sinh thể, một con người “sông Hương quả thực là Kiều, rất Kiều” vừa xinh đẹp, vừa tài hoa, vừa thăng trầm chìm nổi cùng lịch sử lại vừa đằm thắm lắng sâu với nền văn hoá riêng của nó.

Chính con sông cũng đã khiến trái tim ông phải ngân rung những giai điệu yêu thương với những cung bậc khác nhau: khi thì băn khoăn, trăn trở, e ngại con người – vì “mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành” của sông Hương – mà có thể “hiểu một cách đầy đủ bản chất” của nó, “hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ”; khi lại nhớ đến nao lòng một nét sông Hương với “điệu chảy lững lờ” mà ông gọi là “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”; có khi “thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày” bởi “toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này”. Có khi cảm xúc yêu thương da diết với xứ Huế lại được bộc lộ gián tiếp trong cuộc hành trình lặng lẽ với rất nhiều những tìm kiếm và phát hiện: Cái “tôi” tác giả khi thì chứng kiến một nghệ nhân già sau nửa thế kỷ chơi nhạc đã chợt nhận ra khúc nhạc Huế trong những trang Kiều “Trong như tiếng hạc bay qua. Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”, khi bất ngờ và ngỡ ngàng nhận ra điểm tương đồng giữa con sông và con người ở “nỗi vương vấn và chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”; có khi lại cũng vì yêu Huế mà đọc văn kiện của Liên Hiệp quốc về Huế bằng sự rung động thẩm mỹ của tâm hồn để “thấy hiện bóng khuôn mặt quyến rũ và tươi trẻ của dòng sông thành phố giữa lòng thế giới hiện đại ”; đồng thời cũng hoài niệm đến khắc khoải khi phát hiện ra một sắc màu xưa cũ của chiếc áo cưới ở Huế ngày xưa, rất xưa “màu áo lục điều với loại vảimàu áo điều-lục với loại vải vân thưa màu xanh tràm lồng lên một màu đỏ ở bên trong, tạo thành một màu tím ẩn hiện” để từ cái sắc màu văn hoá ấy mà liên tưởng một cách rất ngẫu hứng mà có lí tới “màu của sương khói trên sông Hương giống như tấm voan huyền ảo của tự nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt thực của dòng sông” … Như vậy, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem tình yêu đằm thắm lắng sâu và những cảm xúc sôi nổi, say sưa vào những trang viết để mối dòng văn như một bản đàn tâm hồn tôn vinh vẻ đẹp của sông Hương. Như I.Ê-ren-bua đã từng viết : “Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào đại trường giang Von-ga, con sông Von-ga đi ra biển. Lòng yêu nhà, yêu gia đình, yêu miền quê trở thành tình yêu tổ quốc”, tình cảm đối với sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường, xét đến cùng, là tình cảm đối với đất nước, là tấm lòng yêu mến quê hương xứ sở nồng cháy của nhà văn. Nhà thơ Ra-xun Gam-da-tôp đã từng nói : “Nếu nhà thơ không tham gia vào việc hoàn thành thế giới thì thế giới đã không được đẹp đẽ như thế này”. Dù Hoàng Phủ Ngọc Tường không phải là nhà thơ tiêu biểu (tuy ông đã xuất bản hai tập thơ) mà là một nhà viết kí, nhưng bằng bài kí đặc sắc này, ông đã góp một tay vào việc tạo nên một thế giới Việt Nam Đẹp và Thơ. Và đó là gì nếu như không phải là hành động yêu nước mang màu sắc riêng của người nghệ sĩ tài hoa này! 2.Sự hòa quyện giữa chất trí tuệ và chất thơ. 2.1.Chất trí tuệ: Vốn hiểu biết phong phú cùng những kiến thức liên ngành đã giúp nhà văn khám phá vẻ đẹp đa dạng của sông Hương trên nhiều phương diện: địa lí, lịch sử, văn hóa.

Chỉ riêng từ góc độ địa lí, ai cũng dễ dàng nhận thấy : tác giả của nó – nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dành hết tâm sức và tình cảm của mình, thậm chí cả tinh hoa và tâm huyết của một đời văn để say sưa khám phá và miêu tả vẻ đẹp của Hương giang. Chỉ nói riêng về thủy trình của dòng sông từ thượng nguồn đổ về xuôi rồi đi ra biển, ta có thể thấy nhà văn đã say sưa và kì công “đúc câu luyện chữ” để dành tặng cho dòng sông mà mình yêu dấu như thế nào : ở thượng nguồn, sông Hương là “bản trường ca của rừng già”, là “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”, là “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Khi rời vùng núi để về đồng bằng, con sông hiện lên giống như “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại được người tình mong đợi đến đánh thức”. Chảy giữa lòng thành phố yêu thương sông Hương là “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”, là “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”, để rồi trước khi chia tay “người tình mà nó mong đợi” ở “thị trấn Bao Vinh xưa cổ” sông Hương giống như nàng Kiều trở về tìm Kim Trọng để nói một lời thề trước khi đi xa... Những cách nói độc đáo ấy hẳn phải là kết tinh củatình yêu sâu đậm, của những hiểu biết tường tận về dòng sông và của một lối tư duy sắc bén đã được tưới tắm trong niềm xúc cảm say mê, để rồi thăng hoa trong cảm hứng nghệ thuật. Quả không sai khi có ai đó đã từng gọi Hoàng Phủ Ngọc Tường là “một thi sĩ của thiên nhiên”!Xin được mượn những câu thơ của Nguyễn Trọng Tạo để hiểu thêm về \"người thi sĩ thiên nhiên\": “Sao thèm một điệu gì xưa lắm Thèm đọc một đoạn văn Hoàng Phủ Ngọc Tường Có ai đó rót chiều vào chén ngọc Huế dịu dàng xây bằng khói và sương.” Từ góc nhìn lịch sử, sông Hương không còn là cô gái “Di – gan man dại”, không còn là “người đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa” mà trở thành chứng nhân của những biến thiên lịch sử. Từ góc nhìn văn hóa, sông Hương là một dòng sông của thi ca và âm nhạc. Như vậy, Có thể nói, bằng tình yêu và tài năng của mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tìm kiếm, phát hiện và khẳng định những vẻ đẹp khác nhau của sông Hương. Hành trình chữ nghĩa ấy về con sông xứ Huế không chỉ nói lên tình cảm yêu mến, sự say mê đến độ đắm đuối của nhà văn trước những vẻ đẹp độc đáo, đa dạng của Hương giang mà còn cho thấy sự tài hoa, chất lãng mạn bay bổng của tác giả. Nghiêm túc, cẩn trọng trong tìm kiếm và phát hiện Cả bài tuỳ bút là cuộc hành trình hào hứng và cẩn trọng, say sưa và rất nghiêm túc để tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi “Ai dó đặt tên cho dũng sụng”. Đây là câu hỏi ngỡ như bâng quơ của một nhà thơ nào đó khi đến với Huế song cũng là một câu hỏi đầy ngụ ý của chính Hoàng Phủ Ngọc Tường. Hỏi như một cách để xác lập mối quan hệ giữa dòng sông

với con người, giữa cái tên của dòng sông với cách nhìn, cách nghĩ và những cảm nhận của con người về nó. ý thức về điều này nên trong khi tìm hiểu về sông nhà văn cũng rất công phu tìm hiểu về cuộc sống và con người bên dòng sông ấy. Nghĩa là con sông đã được đặt trong mối quan hệ gắn bó mật thiết với con người. Trong mối liên hệ ấy, sông đã được soi ngắm từ nhiều góc độ, thời gian và không gian, văn hoá và lịch sử, sinh hoạt và phong tục, đời sống sinh hoạt và thế giới tinh thần…Và trong quá trình tìm hiểu “Ai dó đặt tên cho dòng sông”, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã bộc lộ mình không chỉ là một cái tôi giàu hiểu biết, ham tìm hiểu mà còn là một cái tôi rất mực tinh tường và vô cùng sâu sắc trong những khám phá, tìm hiểu những chiều sâu văn hoá tinh thần, tâm hồn của sông Hương cũng là của con người xứ Huế. Thành công của Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ do nhà văn biết lắng nghe và xúc động, biết nghiên cứu, tìm hiểu và suy ngẫm mà còn bởi người nghệ sĩ ấy có thực tế từ những chuyến đi. Nhà văn đã thực hiện cuộc hành trình theo suốt chiều dài sông hương từ khi nó khởi nguồn ở cánh rừng Trường Sơn về Châu Hóa và gặp thành phố tương lai của nó và phát hiện: “Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới núi Kim Phụng.”. Và cũng bởi từng đến Sông Sen, sông Đa-nuyp, sông Neva mà Hoàng Phủ Ngọc Tường có thể nhận ra nét riêng của sông Hương trong nhịp điệu (điệu slow tình cảm), trong sắc thái văn hóa và trong quan hệ của nó với thành phố Huế (cặp tình nhân lí tưởng trong truyện Kiều). Với những vốn kiến thức phong phú và sự am tường của về nhiều lĩnh vực cũng như sự nghiêm túc và cẩn trọng trong tìm kiếm và phát hiện, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thể hiện thành công hình ảnh sông Hương độc đáo, ấn tượng với những nét đẹp rất riêng mà hiếm dòng sông nào có được. 2.2.Chất thơ: Chất thơ trong kí Hoàng Phủ Ngọc Tường trước hết thể hiện ở trí tưởng tượng phong phú.Nhà văn không thuần tuý chỉ ghi chép một cách chính xác khách quan mà còn biết tạo cho mình rất nhiều cơ hội để tưởng tượng: Viết về con sông song lại không bắt đầu từ việc quan sát thực tế, từ việc đi thực địa mà lại bắt đầu từ việc đọc Kiều để cảm nhận văn chương hoà quyện với cảm nhận về con sông xứ Huế. Và phút nhận ra cuộc gặp gỡ giữa âm hưởng sâu thẳm của Huế với cảnh sắc thiên nhiên qua ngòi bút miêu tả của Nguyễn Du trên mỗi trang Kiều cũng chính là lúc nhà văn tưởng tượng về mối quan hệ giữa sông Hương và thành phố của nó là mối quan hệ của một cặp tình nhân lý tưởng với tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc. Cũng trong trí tưởng tượng bay bổng của nhà văn, sông Hương khi là một dòng nhạc đa âm sắc (bản trường ca rầm rộ của rừng già, điệu slow của tình cảm, bản đàn lúc đêm khuya với tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo), khi

là một con người giàu nữ tính và có đủ sức mạnh để trưởng thành dần trong cuộc hành trình (cô gái Digan phóng khoáng và man dại giữa rừng Trường Sơn, người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại, người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở với sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ giữa chốn kinh thành). Song có một điều quan trọng là, trong cuộc hành trình dù không ít những gian truân và cũng không hề ngắn ngủi ấy phẩm chất nữ tính của sông Hương khiến nó luôn tự bộ lộ mình là một người con gái rất mực đa tình: dù với tâm hồn tự do và trong sáng hay sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ thì hành trình của sông cũng là hành trình tìm kiếm người tình mong đợi để khi gặp được rồi, sông Hương trở nên mềm hẳn đi “như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu”, rồi cũng như Kiều khi gặp chàng Kim, sông Hương gặp Huế đã trở thành người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya để rồi khi phải lưu luyến ra đi, sông Hương như chưa nỡ rời xa thành phố mà cố ý đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông – tây để gặp lại thành phố lần cuối trong “nỗi vương vấn” “chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu” như nàng Kiều trong đêm tình tự đã chí tình trở lại cùng Kim Trọng để nói một lời thề mà sự vang vọng của lời thề ấy, trong tưởng tượng và sự hình dung của nhà văn chính là giọng hò dân gian “Còn non- còn nước- còn dài -còn về- còn nhớ…” Trí tưởng tượng mạnh mẽ và phong phú khi kết hợp với cái kho vốn cảm xúc, cảm giác rất dồi dào mà cũng vô cùng tinh tế sâu sắc đã tạo nên một chất thơ chan chứa trên mỗi trang văn và một sức lôi cuốn khó cưỡng lại đối với người thưởng thức. Chất thơ trong kí Hoàng Phủ Ngọc Tường còn toát lên từ vẻ đẹp của ngôn ngữ. Bởi văn học là nghệ thuật của ngôn từ. Chữ nghĩa chính là nơi phô bày tất cả tài nghệ của nhà văn. Sự tinh xảo của nhà văn khi chạm khắc nên những tượng đài nghệ thuật bằng ngôn từ phải nằm ở con chữ. Ở đây, dường như có bao nhiêu góc nhìn, điểm nhìn về sông Hương thì có bấy nhiêu kiểu chữ nghĩa được huy động để đặc tả cho thật ấn tượng, thật sắc, thật tinh hình hài và tâm hồn của con sông xứ Huế. Thậm chí, từng đường đi nước bước của con sông cũng được cái kho ngôn ngữ giàu có và tài hoa ấy làm cho thỏa mãn. Chẳng hạn như đoạn nhà văn miêu tả con sông Hương ở thượng lưu : “rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàn và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Hay như đoạn nhà văn miêu tả sông Hương rời khỏi vùng núi xuôi về đồng bằng chuẩn bị vào lòng thành phố Huế : “qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”. Đây là hai trong số những đoạn văn tiêu biểu trong bài kí. Chúng cho thấy bút lực dồi dào của nhà văn. Đó là một lối hành văn uyển chuyển, ngôn từ đa dạng và giàu hình ảnh. Từng từ, cụm từ, từng vế trong câu văn giống như một nét vẽ tài hoa của người họa sĩ, một động tác chạm khắc tinh xảo của nhà điêu khắc mà sau

mỗi đường cọ, mỗi động tác nhào nặn, vẻ đẹp của sông Hương lại hiện ra một cách đặc sắc, đem đến cảm giác bất ngờ, ngỡ ngàng cho người đọc. Bên những đoạn văn như thế, ta không khó để bắt gặp trong thiên tùy bút này những cách diễn đạt của một “phu chữ”, của người đã cất công lựa chọn trong cái vốn ngôn ngữ toàn dân những từ, ngữ hay nhất có thể, rồi tổ chức, sắp đặt chúng theo một lối riêng nhằm tạo ra những ý văn hay, những câu văn đẹp. Chẳng hạn: “như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long […], nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non. Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”. Đó là chưa kể đến những ý văn đẹp như một ý thơ : “những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”; “những vấn vương của một nỗi lòng”; “đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói”;… Có thể khẳng định đây không phải là lối diễn đạt thông thường của văn xuôi, nhất là ở thể kí mà là những kiểu chữ nghĩa thường thấy trong thơ ca, thậm chí còn thơ hơn nhiều bài thơ mà ta đã đọc đâu đó. Nói đến tài hoa của cái tôi Hoàng Phủ Ngọc Tường về ngôn ngữ, cũng không nên quên các thủ pháp nghệ thuật mà nhà văn đã sử dụng rất thành công. Tiêu biểu hơn cả là nhân hóa và so sánh. Với nhân hóa, nhà văn đã thổi hồn vào sông Hương, biến con sông vô tri vô giác thành một sinh thể có tính cách, có nỗi niềm, tâm trạng như con người. Con sông ấy lúc “rầm rộ” và “mãnh liệt”, lúc “dịu dàng” và “say đắm”; khi thì “nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”; khi thì “vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”; khi là “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”, khi “trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”… Không chỉ có thế, chính nhà văn trong bài kí này đã giãi tỏ trực tiếp về cái thủ pháp nhân hóa mà mình sử dụng – cái thủ pháp mà dường như ông không thể không dùng đến khi khám phá, phát hiện ra những vẻ đẹp bất ngờ, thú vị của sông Hương : “Có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống con người ở đây; và để nhân cách hóa nó lên, tôi gọi đấy là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Có thể nói, thủ pháp nhân hóa đã được nhà văn sử dụng rất hiệu quả trong bài kí. Nhờ nó mà hành trình về xuôi của sông Hương đã trở thành hành trình tâm hồn của người con gái tìm đến người tình mà nó mong đợi. Cũng nhờ thủ pháp ấy mà những kiến thức địa lý, lịch sử, văn hóa đã được thăng hoa để trở thành những tri thức nghệ thuật đẹp về đất nước, con người, về dòng sông yêu thương của Huế. Bên cạnh thủ pháp nhân hóa, nhà văn cũng đã sử dụng rất thành công biện pháp so sánh. Ở đây, so sánh được thực hiện trên cơ chế của liên tưởng, tưởng tượng mà trong bài kí này, sức liên tưởng, tưởng tượng của nhân vật tôi là rất mạnh mẽ, với nhiều bất ngờ, thú vị. Chính những liên tưởng ấy đã giúp nhà văn xây dựng được nhiều hình ảnh so sánh độc đáo, đưa đến những cảm nhận mới mẻ, đặc sắc về sông Hương. Chẳng hạn, nhân vật tôi đã so sánh cái hữu hình, hữu ảnh của dòng sông với cái vô hình, vô ảnh của cảm xúc nội tâm con người: “đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”. Hay chỗ rẽ của sông Hương ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ được ví như “nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”… Chưa hết, bài kí còn có

những hình ảnh so sánh đẹp như một hình ảnh thơ : “chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non”. Đặc biệt, để làm nổi bật dòng chảy trôi lững lờ của sông Hương như một “điệu slow tình cảm”, cái tôi trong bài kí đã so sánh bằng một hồi ức. Ấy là khi tác giả đến Lê-nin-grát, đứng nhìn sông Nê-va băng băng lướt qua trước cung điện Pê-tec-bua ra biển Ban-tích. So sánh này càng trở nên thú vị khi nhà văn đã gián tiếp đặc tả dòng chảy rất nhanh của sông Nê-va qua hình ảnh của những chú hải âu đứng co một chân trên những phiến băng mà không kịp nói điều gì với người bạn của chúng… Và ở đoạn cuối thiên tùy bút, ta còn bắt gặp hình ảnh so sánh thật ấn tượng, có lẽ là kết quả của một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm trong cảm nhận: “Trong đêm khuya, chưa bao giờ tôi được nghe một mùi đất thơm đến như vậy, xao xuyến như da thịt, sâu thẳm như thời gian. Chính lúc ấy, tôi liên tưởng đến sông Hương với cái tên gợi cảm của nó; sông Hương như hiện thân thành một cô gái thần tiên truyện cổ nào thùy mị đứng bên tôi…” Như vậy, với những gì đã đề cập trên, ta có thể khẳng định cái tôi nhà văn trong bài kí này là một cái tôi mê đắm và tài hoa. Cái tôi ấy đã phát huy (dường như là tối đa) trí tưởng tượng bay bổng, khả năng liên tưởng tuyệt vời cùng kho từ vựng giàu có để tạo dựng nên một dòng sông nghệ thuật quyến rũ trên mỗi trang văn. 3.Lối hành văn hướng nội a, Các tác phẩm kí thường khai thác những đề tài nóng bỏng, có tính thời sự cao nhưng Hoàng Phủ Ngọc Tường lại viết về những “sự kiện của tâm hồn”. Viết về sông Hương từ góc nhìn lịch sử, nhà văn không đặt nó trong những biến cố lịch sử lớn lao mà khai thác vẻ đẹp anh hùng của con sông từ những sự kiện còn vang bóng trong tâm hồn mỗi con người Huế. Nhà văn ví sông Hương như “sử thi viết giữa màu xanh cỏ lá xanh biếc” thể hiện sự hòa quyện giữa chất hùng tráng và trữ tình. Sông Hương là một bản anh hùng ca, đồng thời giữa đời thường sông Hương là một bản tình ca “Còn non, còn nước, còn dài – Còn về, còn nhớ…”. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhìn thấy từ dòng sông những dấu tích lịch sử; từng nhánh rẽ của dòng sông, đến “những cây đa, cây cừa cổ thụ” cũng hàm ẩn một phần lịch sử. Nhà văn đã ngược về quá khứ để khẳng định vai trò của dòng sông Hương trong lịch sử dân tộc. Từ thời đại các Vua Hùng, sông Hương là “dòng sông biên thùy xa xôi”. Trong những thế kỉ trung đại, với tên gọi Linh Giang, nó đã “oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt”. Sông Hương gắn liền với những chiến công Nguyễn Huệ. Sông Hương đẫm máu những cuộc khởi nghĩa TK XIX. Sông Hương gắn liền với cuộc Cách mạng Tháng 8 với những chiến công rung chuyển. Và sông Hương cùng những di sản văn hóa Huế oằn mình dưới sự tàn phá của bom Mỹ… Chất trữ tình của tùy bút giảm đi, nhường chỗ cho chất phóng sự với những sự kiện lịch sử cụ thể.Quay về quá khứ xa xưa, ngòi bút nhà văn lấp lánh niềm tự hào về lịch sử một dòng sông có cái tên mềm mại, dịu dàng nhưng kiên cường, kiêu hãnh qua thăng trầm lịch sử. Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ điểm mà còn bình lịch sử để nhận thấy rằng trong hoàn cảnh nào khi nghe tiếng gọi của đát nước, sông Hương cũng biết cách “tự hiến đời mình làm một chiến công” . Sông Hương không

chỉ có gương mặt đằm thắm dịu dàng mà còn có một đời sống, một cốt cách hào hùng. Cũng như những dòng sông khác trên đất nước Việt Nam, như con người Việt Nam, nó mang trong mình vẻ đẹp truyền thống đã làm thành bản sắc văn hóa Việt , như Huy Cận từng viết: “Sống vững trãi bốn nghìn năm sừng sững Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa Trong và thực sáng hai bờ suy tưởng Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa.” b, Thể hiện dòng sông ở vẻ đẹp đi sâu vào trầm tích, văn hóa Tác giả phát hiện từ âm thanh của dòng sông (tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga, tiếng mái chèo khua sóng đêm khuya, tiếng nước vỗ vào mạn thuyền…) đã hình thành những làn điệu hò dân gian và nền âm nhạc cổ điển Huế. Và rồi cũng chính trên dòng sông ấy, những câu hò Huế vút lên, mênh mang, xao xuyến…Viết về sông Hương, nhiều lần nhà văn đã liên tưởng đến “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Đại thi hào đã từng có thời gian sống ở Huế, những trang Kiều ra đời từ mảnh đất có truyền thống nhã nhạc cung đình. Đó là cơ sở để Hoàng Phủ Ngọc Tường hóa thân vào một nghệ nhân già, nghe những câu thơ tả tiếng đàn của nàng Kiều, chợt nhận ra âm hưởng của âm nhạc cung đình và bật thốt lên: “Đó chính là Tứ đại cảnh”. Đây là một nhận xét cảm tính mơ hồ nhưng đã hé mở phần nào sự giao thoa tâm hồn giữa những người nghệ sĩ và sông Hương. Nhà văn còn nhìn sông Hương như một dòng sông khơi nguồn cho cả một dòng thi ca. Dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nhà thơ. Từ màu xanh biếc thường ngày, nó đổi thành màu trắng trong cái nhìn của Tản Đà: “Dòng sông trắng lá cây xanh Xuân giang xuân thụ cho mình nhớ ai” Đó còn là hình ảnh dòng sông mang tráng khí cao người anh hùng Cao Bá Quát: “Trường giang như kiếm dựng thanh thiên” Sông Hương còn bảng lảng nỗi sầu vạn cổ trong thơ Bà Huyên Thanh Quan, là vẻ đẹp rất Kiều trong cái nhìn thắm thiết tình người của tác giả “Từ ấy”: “Cô gái thẫn thờ vê áo mỏng, Nghiêng nghiêng vành nón dáng chờ ai Ven bờ sông phẳng con đò mộng Lả lướt đi về trong gió mai...”

(Dửng dưng) Là vẻ đẹp rất Huế trong cái nhìn của nhà thơ Thu Bồn: “Con sông dùng dằng Con sông không chảy. Sông chảy vào lòng Nên Huế rất sâu…” Lối văn hướng nội thể hiện ở những sự kiện vang bóng trong tâm hồn và việc đi tìm vẻ đẹp sâu trong trầm tích văn hóa đã làm nên nét riêng rất độc đáo cho kí Hoàng Phủ Ngọc Tường. 4. KẾT LUẬN Trong mọi không gian và thời gian, dưới ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Huế hiện ra quen thuộc mà lạ lẫm đến bất ngờ. Bằng những con chữ có hồn ông đã góp phần làm nổi rõ bản sắc của thiên nhiên Huế và con người Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã góp cho kí Việt một tiếng nói riêng của một nhà văn rất Huế. Nếu là một người yêu văn chương nói chung và yêu thích thể loại kí nói riêng , ta dễ dàng nhận thấy nét độc đáo của kí Hoàng Phủ Ngọc Tường, nó khác với kí của các nhà văn khác như Vũ Bằng hay Nguyễn Tuân. Trong “Thương nhớ Mười Hai”, một tác phẩm tiêu biểu của Vũ Bằng, ta bắt gặp những trang kí rất đỗi trữ tình, giàu chất thơ, hướng vào biểu hiện nội tâm, hướng vào phong cảnh thiên nhiên bốn mùa xứ sở với những câu văn tràn đầy cảm xúc, cảm giác tinh tế. Vũ Bằng chọn nghiêng mình tìm về đất Bắc với nỗi nhớ da diết của một người con xa quê, ở tận bên kia “giới tuyến”. Như nhà văn Triệu Xuân đã từng ca ngợi: “Viết về Hà Nội, viết về đất nước quê hương, không ai có thể hơn Vũ Bằng. Bởi Vũ Bằng yêu Hà Nội, yêu đất nước quê hương khi ông đang sống ở Sài Gòn, cách Hà Nội chưa đầy mười hai giờ bay mà vời vợi ngàn trùng. Nỗi nhớ ấy là tuyệt vọng!” Hay như Nguyễn Tuân với Hoàng Phủ Ngọc Tường- đều là những con người hết mực uyên bác, tài hoa, có tình yêu lớn với cái đẹp, với quê hương đất nước- ta vẫn nhận thấy sự khác biệt trong những áng văn của họ. Nếu như Nguyễn Tuân- cây bút viết kí cự phách lôi cuốn người đọc bằng cái đẹp phi thường “đèo cao thác dữ”, “cuồng phong bão táp” thì những trang kí của Hoàng Phủ lại gây ấn tượng bằng cái đẹp mơ mộng dịu dàng như sông Hương, như cô gái Huế tình tứ mà kín đáo,e ấp. Cứ thế Hoàng Phủ Ngọc Tường đã góp thêm cho kí Việt một tiếng nói rất riêng của một nhà văn rất Huế. Tình yêu sâu sắc với xứ Huế, sự uyên bác, am tường và sự tài hoa, lãng mạn đã hun đúc nên một cái tôi trữ tình rất đỗi Hoàng Phủ Ngọc Tường.Chính những nét phong cách nổi bật ấy cũng đã làm nên một thiên tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” độc đáo và ấn tượng, đồng thời góp phần khẳng định vị trí riêng của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong nền văn học hiện đại Việt Nam, đặc biệt là ở thể loại kí. Hoàng Phủ Ngọc Tường xứng đáng được coi là một trong những nhà viết kí tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Bằng sự nhạy cảm tài hoa của người nghệ sĩ,

Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thực sự xác định cho mình được một lối đi riêng trong thể kí từ nguồn cảm hứng từ quê hương, đất nước Việt Nam tươi đẹp và giàu bản sắc văn hoá, đặc biệt là từ xứ Huế với bề dày lịch sử văn hóa của nó. VI. Luyện tập: ĐỀ 1: Có ý kiến cho rằng: “Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy, nó đòi hỏi người sáng tác phải có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong các tác phẩm của mình”. Bằng việc cảm nhận cái “tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong đoạn trích “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” (SGK Ngữ văn 12, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016), anh (chị) hãy làm rõ ý kiến trên. Từ đó liên hệ với cái “tôi” của Huy Cận trong bài “Tràng giang” (SGK Ngữ văn 11, tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016) để nhận xét về điểm giống và khác nhau trong cái “tôi” của mỗi tác giả. Hướng dẫn: 1. Giới thiệu vấn đề nghị luận: Nêu được vấn đề nghị luận, có cách dẫn dắt phù hợp, độc đáo. 2. Giải thích ý kiến: – Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo: Nghệ thuật nói chung, văn chương nói riêng là lĩnh vực của cái độc đáo- cái riêng, cái lạ, cái mới. Sự độc đáo thể hiện trong cách nhìn, cách cảm thụ có tính chất khám phá; độc đáo trong cách lựa chọn đề tài, xác định chủ đề…; độc đáo trong nghệ thuật thể hiện: giọng điệu, ngôn từ, xây dựng nhân vật, hình tượng, các thủ pháp nghệ thuật… – Nó đòi hỏi người sáng tác phải có nét riêng, nét mới lạ: Nghĩa là người nghệ sĩ phải đem đến một cái gì đó mới mẻ cho tác phẩm; phải thể hiện được cá tính sáng tạo; dấu ấn cá nhân, cái “tôi” của người làm nghệ thuật. – Cái “tôi” được hiểu là nét riêng, điểm khác biệt của mỗi người. (Ở phương diện khác, cái “tôi” là biểu hiện cao độ của ý thức cá nhân, xuất hiện khi con người có nhu cầu được là chính mình). Trong lĩnh vực nghệ thuật, cái “tôi” không chỉ thể hiện con người mà còn thể hiện phong cách của tác giả. III. Cảm nhận cái “tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong đoạn trích “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” 3. Một cái “tôi” uyên bác với vốn tri thức, vốn sống phong phú, đa dạng, sâu sắc. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vận dụng vốn kiến thức, hiểu biết từ nhiều lĩnh vực, nhiều phương diện khác nhau như địa lí, lịch sử, thơ ca, âm nhạc… cùng với vốn sống, sự trải nghiệm thực tế để cảm nhận vẻ đẹp của dòng sông Hương, của mảnh đất, con người xứ Huế. (Ví dụ: vốn tri thức về địa lí trong cách miêu tả tỉ mỉ, chính xác dòng chảy của Hương

Giang qua những địa danh khác nhau ; vốn kiến thức về lịch sử khi viết về sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử từ thời xa xưa khi còn là đất nước các vua Hùng…; vốn văn hóa khi khám phá vẻ đẹp của sông Hương và xứ Huế ở phương diện văn hóa….). 4. Một cái “tôi” tài hoa, tinh tế, lãng mạn với trí tưởng tượng bay bổng – Cái nhìn mang tính phát hiện về một dòng sông vốn đã trở thành niềm cảm hứng, đề tài của nhiều người nghệ sĩ: Sông Hương được khám phá từ nhiều góc nhìn, trong các mối quan hệ với địa lí, lịch sử, văn hóa, trong mối quan hệ với cuộc đời… Từ đó, dòng sông hiện lên với vẻ đẹp phong phú: Khi thì mãnh liệt, phóng khoáng, man dại, hừng hực sức sống; khi thì dịu dàng, đắm say, mơ màng; lúc lại trầm mặc cổ kính, sâu lắng…Đặc biệt, dòng sông luôn được hình dung như một người con gái đẹp với nhiều dáng vẻ, nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. – Tài năng nghệ thuật khi miêu tả vẻ đẹp của sông Hương và cảnh sắc, con người xứ Huế: Trí tưởng tượng với những liên tưởng phong phú, bay bổng thể hiện qua các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, ẩn dụ…; ngôn ngữ giàu chất thơ; lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm, tài hoa… 5. Một cái “tôi” gắn bó máu thịt với sông Hương, xứ Huế, với quê hương, đất nước – Tác giả miêu tả sông Hương bằng một tình yêu đắm say; hiểu thấu nỗi niềm của nó trong từng khúc, từng đoạn của dòng chảy; đưa sông Hương đến với mọi người với tất cả vẻ đẹp của nó…Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là “người tình mong đợi” của sông Hương. – Từ tình yêu sông Hương, tác giả cũng thể hiện tình yêu, sự gắn bó thiết tha với con người và văn hóa xứ Huế. – Trách nhiệm, lòng tự hào của một công dân đối với đất nước khiến Hoàng Phủ lật từng trang lịch sử, giở từng trang địa lí, tìm hiểu từng phong tục để viết về sông Hương. Những trang văn của ông chảy vào tâm hồn người đọc tình yêu mê say với dòng sông, với văn hóa, con người xứ Huế để người đọc thêm yêu hơn non sông, đất nước mình. 6. Đánh giá Cái “tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong đoạn trích là sự hội tụ cái tài, cái tâm của nhà văn. Đó là cái “tôi” mang nặng tình cảm yêu thương với dòng sông Hương, với Huế, với quê hương đất nước mình. Đó cũng là cái “tôi” uyên bác, tài hoa trong nghệ thuật thể hiện của thể bút kí. 7. Liên hệ với cái “tôi” của Huy Cận trong “Tràng giang”để nhận xét sự giống và khác nhau. 8. Giống nhau: – Đều là những cái “tôi” lãng mạn, tài hoa. – Đều là những cái “tôi” yêu mến, nặng tình với thiên nhiên, với quê hương xứ sở. 9. Khác nhau – Cái “tôi” của Huy Cận trong “Tràng giang”: Là cái “tôi” Thơ mới. Cái “tôi” mang nỗi buồn ảo não, cô đơn, nhỏ bé, lạc lõng giữa cái vô cùng của vũ trụ. Nó mang đậm phong

cách thơ Huy Cận trước cách mạng tháng Tám. Trong nỗi buồn của cái “tôi” Huy Cận ta thấy nỗi buồn thế hệ- nỗi buồn của tầng lớp trí thức tiểu tư sản sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh mất nước, sống giữa quê hương mà vẫn thấy “thiếu quê hương”. Cái “tôi” ấy được thể hiện bằng những vần thơ trữ tình, hiện đại mà vẫn giàu màu sắc cổ điển. – Cái “tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong đoạn trích “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”: Là cái “tôi” của người trí thức sống trong hoàn cảnh đất nước đã hòa bình, trong tâm thế hòa nhập với cuộc đời, đắm mình trong cảm hứng ngợi ca, tự hào về cảnh sắc quê hương đất nước. Cái “tôi” ấy được thể hiện bằng thể kí với những trang viết đầy chất thơ, văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa. – Nguyên nhân có sự khác biệt trong cái “tôi” của mỗi tác giả: Do hoàn cảnh sáng tác, do cá tính sáng tạo, phong cách nghệ thuật, sở trường riêng, khuynh hướng nghệ thuật riêng, cách nhìn, cách khám phá, cách thể hiện riêng… 10.Khái quát, mở rộng – Ý kiến trên đã khẳng định được bản chất nghệ thuật chính là nét riêng độc đáo trong cách thể hiện cái “tôi” của mỗi nghệ sĩ. – Nhà văn phải luôn ý thức trước ngòi bút, đổi mới, sáng tạo, không ngừng tìm tòi, khám phá. Chỉ có như vậy họ mới có “chỗ đứng” riêng của mình. ĐỀ 2: “Phong cách văn học biểu hiện trước hết ở cách nhìn, cách cảm thụ có tính chất khám phá, ở giọng điệu riêng biệt của tác giả.” (Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD, 2008) Từ hình tượng sông Hươngtrong bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông?của Hoàng Phủ Ngọc Tường, anh/ chị hãy bàn luận về ý kiến trên. Hướng Dẫn: 1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm, vấn đề nghị luận. 2. Giải thích ý kiến: Phong cách văn học là những nét riêng, độc đáo của một tác giả trong quá trình nhận thức và phản ánh cuộc sống… phong cách là sự thể hiện tài nghệ của người nghệ sĩ trong việc đưa đến cho độc giả một cái nhìn mới mẻ về cuộc đời thông qua những phương thức, phương tiện nghệ thuật mang đậm dấu ấn cá nhân của người sáng tạo. 3. Bàn luận. 3.1. Khẳng định vấn đề:

– Hình tượng sông Hương trong Ai đã đặt tên cho dòng sông? góp phần khẳng định phong cách của Hoàng Phủ Ngọc Tường. – Nét độc đáo trong phong cách của nhà văn biểu hiện trước hết ở cách nhìn, cách cảm thụ và giọng điệu riêng biệt. 3.2. Biểu hiện của phong cách Hoàng Phủ Ngọc Tường khi xây dựng hình tượng sông Hương. 3.2.1 Cách nhìn, cách cảm thụ có tính chất khám phá: – Sông Hương luôn được cảm nhận ở vẻ đẹp giàu nữ tính: + Hình ảnh sông Hương gắn với vẻ đẹp của người con gái: cô gái Digan, người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở, là người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, là người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya, là nàng Kiều trong đêm tình tự với Kim Trọng, là người con gái dịu dàng của đất nước. + Sông Hương được miêu tả bằng một hệ thống từ ngữ gợi nét đẹp đặc trưng của người phụ nữ: sắc đẹp dịu dàng, đường cong thật mềm, hình cung thật tròn, dòng sông mềm như tấm lụa, uốn một cánh cung rất nhẹ, điệu slow tình cảm, ngập ngừng như muốn đi muốn ở, những vấn vương của một nỗi lòng, chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu… Đó là vẻ đẹp dịu dàng, đằm thắm, kín đáo nhưng cũng đầy gợi cảm. – Sông Hương được miêu tả trong chiều sâu của những giá trị văn hóa: + Hình ảnh so sánh mới lạ: là bản trường ca của rừng già, vẻ đẹp trầm mặc như triết lí, như cổ thi, điệu slow tình cảm, là không gian sinh thành và nuôi dưỡng nền âm nhạc cổ điển Huế, là hành động rất lạ với tự nhiên và rất giống con người ở đây… + Trong quan hệ với thi ca, sông Hương luôn gợi những cảm hứng mới mẻ, không bao giờ tự lặp lại mình… Mỗi nhà thơ đều có một khám phá riêng về nó… 3.2.2. Giọng điệu riêng biệt: – Giọng điệu tha thiết, yêu thương: + Dõi theo hành trình của sông Hương từ thượng nguồn cho đến khi về với biển. + Phát hiện những biến đổi tinh tế của sông Hương trong không gian và thời gian. + Phát hiện mối liên hệ khăng khít giữa vẻ đẹp của sông Hương với mảnh đất cố đô và những nét đặc trưng trong văn hóa của con người xứ Huế. – Giọng điệu dịu dàng, mê đắm: hành trình của sông Hương được miêu tả trong sự liên tưởng đến câu chuyện tình yêu mãnh liệt, say đắm với nhiều cung bậc cảm xúc: mong đợi, vui sướng, ngập ngừng, bịn rịn, lưu luyến, nhớ nhung… – Giọng điệu tự hào, trân trọng:

+ Khám phá nét riêng, độc đáo của sông Hương trong tương quan với những dòng sông nổi tiếng trên thế giới để chợt nhớ và yêu quý điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố. + Sông Hương đã sống những thế kỉ quang vinh với nhiệm vụ lịch sử của nó… là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. 4. Đánh giá khái quát: – Thông qua cách nhìn, cách cảm thụ có tính chất khám phá, giọng điệu riêng biệt, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem đến cho người đọc hình ảnh một sông Hương vừa quen, vừa lạ, vừa chân thực nhưng đầy sức gợi. – Sông Hương trong bài kí là sản phẩm của một cái tôi nghệ sĩ tinh tế tài hoa, một cái tôi giàu vốn văn hóa và trí tưởng tượng phong phú, một cái tôi say đắm với tình yêu quê hương đất nước. Cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm nên sự đa dạng cho thể loại kí nói riêng và nền văn học dân tộc nói chung. ĐỀ 3: “Văn chương không có gì riêng sẽ không là gì cả”. Anh/chị hiểu như thế nào về ý kiến trên? Hãy phân tích vẻ đẹp của sông Đà trong “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân và sông Hương trong tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Trường để làm sáng tỏ ý kiến trên. Hướng dẫn 1. Giải thích: -Riêng: là nét mới độc đáo. -Vì sao văn chương cần có cái riêng: +Vì văn chương là lĩnh vực của cái độc đáo, mỗi tác phẩm văn chương phải có nét riêng và nét mới ở nội dung, hình thức và ý tưởng. Mỗi nhà văn phải có chân trời riêng, khám phá riêng, tạo thành phong cách riêng. Phong cách càng độc đáo càng tạo sự hấp dẫn lớn. +Văn chương không có nét riêng thì sẽ không là gì cả: mới mẻ, độc đáo là điều kiện tồn tại của tác phẩm văn chương... cái bình thường là cái chết của nghệ thuật nên mỗi nhà văn phải sáng tạo không ngừng. → Câu nói nhấn mạnh tầm quan trọng của phong cách nghệ thuật của người nghệ sĩ ngôn từ trong việc đem đến cái độc đáo cho tác phẩm. 2.Chứng mình: 2.1.Phân tích hình ảnh con sông Đà trong “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân. -Giới thiệu tác giả, tác phẩm, hình tượng con sông Đà.

-Nét riêng trong việc lựa chọn , xử lí đề tài, xác định chủ đề: +Hình ảnh con sông Đà ngan tàn, độc đáo, chảy về phía Bắc mang vẻ đẹp vừa kì vĩ vừa thơ mộng, cuốn hút cảm xúc của Nguyễn Tuân. +Trong rất nhiều áng thơ văn viết về những dòng sông trên đất nước ta thì hình ảnh sông Đà mang nét riêng có nhất: nó như một sinh thể sống có tâm địa và diện mạo như kẻ thù lớn nhất của con người. -Nét riêng trong việc cảm nhận và miêu tả dòng sông: +Sự hùng vĩ của sông Đà được lựa chọn bằng những hình ảnh chi tiết tiêu biểu: vách đá, mặt ghềnh, hút nước, thạch trận... +Vẻ đẹp của sông Đà được nhà văn miêu tả như một dòng chảy trữ tình tràn lên trang viết. Sự trữ tình của sông Đà cũng được lựa chọn bằng những chi tiết tiêu biểu: dáng vẻ, màu nước, bờ bãi trên sông... -Nét riêng trong nghệ thuật: +Hình tượng cái tôi độc đáo, tài hoa, uyên bác. +Sự am hiểu kiến thức sâu rộng về lịch sử, địa lí, văn hóa... +Tình yêu và những cảm xúc say mê, mãnh liệt của nhà thơ trước những vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước. +Hành văn biến hóa linh hoạt. → Đánh giá chung: sông Đà là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách Nguyễn Tuân và thể hiện sự thay đổi, sự thống nhất trong sáng tác của nhà văn. Tác phẩm và đặc biệt là hình ảnh dòng sông là đóng góp đặc biệt và riêng có của Nguyễn Tuân cho thể tùy bút viết về con sông quê hương. 2.2.Ai đã đặt tên cho dòng sông. -Giới thiệu tác giả, tác phẩm, hình tượng con sông Hương. -Nét riêng trong việc lựa chọn, xử lí đề tài, xác định chủ đề: +Hình ảnh sông Hương thơ mộng, trữ tình, trầm mặc như triết lí, như cổ thi được nhận từ góc độ địa lí, văn hóa, lịch sử... +Vẻ đẹp của sông Hương là vẻ đẹp của chiều sâu tâm hồn và văn hóa con người Huế... -Nét riêng trong cách nhìn và cảm thụ của tác giả: +Dưới ngòi bút tài hoa, lịch lãm, hướng nội của Hoàng Phủ Ngọc Tường sông Hương luôn được cảm nhận ở vẻ đẹp giàu nữ tính: ở thượng nguồn, ở đồng bằng, ở trung tâm thành phố Huế, rời khỏi kinh thành Huế, sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử, thi ca, âm nhạc Huế...

-Nét riêng trong nghệ thuật: +Bút pháp tả ít gợi nhiều, so sánh độc đáo, mới lạ. +Hành văn hướng nội... +Tư liệu chính xác, phong phú. +Ngôn ngữ sống động, linh hoạt, đậm chất trữ tình. → Áng văn giàu chất thơ thể hiện những khám phá, những cảm nhận riêng có của tác giả về sông Hương, xứ Huế - Đánh giá: sông Hương trong bút kí là sản phẩm của cái tôi nghệ sĩ tinh tế, tài hoa, một cái tôi giàu văn hóa và trí tưởng tượng, say đắm trong tình yêu quên hương đất nước. Cái tôi riêng có của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm lên sự đa dạng cho thể kí và làm lên vẻ đẹp phong phú và đa dạng đậm chất thơ của sông Hương. 3.Đánh giá ý kiến: -Thể hiện những đặc trưng trong quá trình sáng tác văn học và tiếp nhận văn học. -Đề cao sự sáng tạo mang dấu ấn cá nhân của người nghệ sĩ.


Like this book? You can publish your book online for free in a few minutes!
Create your own flipbook