Nhưng cũng từ buổi ấy, nhân dân và cán bộ đã cùng nhau đồng cam, cộng khổ, gắn bó chia sẻ cùng nhau. - Không chỉ đối diện với sự khắc nghiệt của thiên nhiên, những người cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc còn phải sinh hoạt trong điều kiện vật chất vô cùng thiếu thốn, kham khổ. Thiếu thốn nên chỉ có miếng cơm chấm muối, bát cơm cũng phải chia đôi, không có cơm thì ăn trám, ăn măng, cùng đắp chăn làm từ vỏ cây sui. Mặc dù khó khăn gian khổ là thế nhưng họ vẫn cùng nhau vượt qua bởi cùng khắc sâu mối thù với giặc. “Mối thù nặng vai” là hình ảnh hoán dụ có tác dụng vật chất hóa, cụ thể hóa mối thù sâu nặng của nhân dân đối với bè lũ cướp nước và bán nước. Nghệ thuật đối lập giữa miếng cơm nhỏ bé với mối thù to lớn đè nặng trên vai đã nâng cao tầm vóc con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Với ý chí quyết tâm, người Việt Nam đã vượt qua mọi khó khắn gian khổ để chiến đấu và chiến thắng quân thù. 3.3. Bốn câu thơ: Mình về, rừng núi nhớ ai Trám bùi để rụng, măng mai để già Mình đi, có nhớ những nhà Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son Những ngày tháng nghĩa tình *Hai câu thơ đầu: - Chính những ngày tháng khó khăn, gian khổ ấy đã làm nên nghĩa nên tình, khiến cho những người cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc xích lại gần nhau, yêu thương gắn bó với nhau hơn. Bởi vậy mà những ngày tháng gian khổ cũng là những ngày tháng nghĩa tình. Nghĩa tình sâu nặng nên khi phải chia tay mới lưu luyến, bịn rịn, bâng khuâng, không cầm nổi lòng mình mà cất lên lời giãi bày, thổ lộ tình cảm. - Trong cuộc chia tay người ở lại đã lên tiếng giãi bày, thổ lộ tình cảm nhớ thương, tha thiết qua hai hình thức gián tiếp và trực tiếp: + Ban đầu, người ở lại giãi bày tình cảm một cách gián tiếp, tế nhị bằng cách mượn các hình ảnh thiên nhiên như rừng núi, trám bùi, măng mai. Đây là cách nói lấp lửng, giãi bày tình cảm đầy ý nhị, khéo léo mà nhà thơ Tố Hữu học được từ ca dao: Bây giờ mận mới hỏi đào Vườn hồng đã có ai vào hay chưa Mận hỏi thì đào xin thưa Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào Nghệ thuật nhân hóa kết hợp với nghệ thuật hoán dụ “rừng núi nhớ ai”, trong đó hoán dụ \"rừng núi\" chỉ Việt Bắc và người Việt Bắc, đại từ phiếm chỉ \"ai\" chỉ người cán bộ về xuôi đã diễn tả trong cuộc chia tay này, dường như cả thiên nhiên và con người Việt Bắc đều thương nhớ người cán bộ về xuôi. Người ở lại còn khéo léo bày tỏ tình cảm chân thành, mộc mạc của mình qua hình ảnh trám bùi, măng mai vốn sản vật của núi rừng Việt Bắc. Đây là các món ăn thường nhật của cán bộ kháng chiến, cũng được Hồ Chí Minh nhắc đến trong bài thơ \"Tức cảnh Pác Bó\": Sáng ra bờ suối tối vào hang Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng 101
Khi những người cán bộ cách mạng ở Việt Bắc, người Việt Bắc lấy măng, hái trám để nuôi cán bộ. Vì thế bài thơ mới có những câu thơ tuyệt bút: Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Tình cảm quân dân thắm thiết nên khiến hình ảnh cô gái hái măng một mình trong rừng mà không hề gợi cảm giác lẻ loi, đơn chiếc. Nhưng bây giờ khi những người cán bộ cách mạng về xuôi trám và măng không có người thu hái nên để trám rụng, măng già. => Nhìn chung, việc mượn các hình ảnh thiên nhiên để giãi bày tình cảm đã thể hiện tình cảm nhớ thương, cảm giác lẻ loi, trống vắng đến thẫn thờ, ngẩn ngơ của người ở lại. Mình về ta nhớ và nỗi lòng của con người lan tỏa cả ra thiên nhiên,cảnh vật khiến cả núi rừng dường như cũng ngẩn ngơ, trống trải, buồn bã đến lạ thường. *Hai câu thơ sau: - Gợi ra cảnh vật Việt Bắc với những mái nhà tranh, vách đất, những bờ lau xám hiu hắt. Đây vẫn là những hình ảnh được sử dụng để bộc lộ gián tiếp tình cảm của người ở lại trong cuộc chia tay. Từ láy\"hắt hiu\" kết hợp với màu lau xám càng làm nổi bật lên khung cảnh hoang vắng, đơn sơ, buồn bã của cảnh vật. - Nhưng dường như diễn tả tình cảm một cách gián tiếp chưa đủ, chưa thỏa, chưa diễn tả hết được tình cảm sâu nặng nên người Việt Bắc sau đó không cần mượn hình ảnh gián tiếp mà khẳng định trực tiếp, rõ ràng tình cảm của mình là \"đậm đà lòng son\". \"Lòng son\" là từ ngữ rất đắt để thể hiện tình cảm sâu sắc, thủy chung, kết hợp thêm với từ láy \"đậm đà\" cùng nghệ thuật đối lập, đối lập giữa \"hắt hiu lau xám\" với \"đậm đà lòng son\"càng góp phần khẳng định tấm lòng sắc son, cao quý của nhân dân Việt Bắc. 3.4. Bốn câu thơ: Mình về, còn nhớ núi non Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh Mình đi, mình có nhớ mình Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa? Việt Bắc là cội nguồn cách mạng, làm nên những trang sử vẻ vang của dân tộc - Người ở lại một lần nữa nhắn nhủ người đi nhớ về Việt Bắc. \"Núi non\" ở đây là hoán dụ chỉ thiên nhiên, con người Việt Bắc. Núi non này đã từng chở che và cùng cán bộ kháng chiến, nhân dân Việt Bắc đánh giặc: “Nhớ khi giặc đến giặc lùng Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây Núi giăng thành lũy sắt dày Rừng che bộ đội rừng vây quân thù” Lời người ở lại gợi nhắc lại những ngày còn là Việt Minh kháng Nhật, là những ngày đầu đầu gian khổ của cuộc kháng chiến, người ở lại mong người về xuôi nhớ ghi những thời khắc lịch sử ấy, bởi “mình – ta” đã gắn bó với nhau từ khi đó để làm nên chiến thắng hôm nay. - Ở đoạn thơ 12 câu này cặp từ mình - ta được lặp đi lặp lại 8 lần. Trong đó, mười câu thơ đầu của đoạn thơ \"mình\" chỉ người ra đi nhưng đến câu thơ \"Mình đi, mình có nhớ mình\" thì từ mình chỉ cả người đi và kẻ ở. Mình với ta chuyển hóa, tuy hai mà một thể hiện tình cảm gắn bó, mặn nồng. 102
- Người ở lại còn nhắc đến các tên địa danh Tân Trào, Hồng Thái nay đã trở thành hai di tích lịch sử nổi tiếng, gắn với hai sự kiện quan trọng của cách mạng. Cây đa Tân Trào là nơi làm lễ xuất quân của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội Việt Nam. Đình Hồng Thái là nơi họp quốc dân đại hội phát động khởi nghĩa cách mạng tháng Tám. Những sự kiện lớn lao ấy đã làm nên thắng lợi của cách mạng tháng Tám, mở ra là những trang sử vẻ vang của dân tộc. Nhắc đến các địa danh này, người ở lại muốn nhắn nhủ người ra đi nhớ về Việt Bắc là nhớ về quê hương cách mạng. Tiểu kết: - Nét đặc sắc trong đoạn thơ này là ở chỗ tiết tấu rất giàu nhạc điệu. Tố Hữu đã sử dụng nghệ thuật đối một cách triệt để trong các câu thơ tám chữ làm cho nhạc điệu của đoạn thơ trở nên réo rắt và tạo nên những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc với người đọc 4. Đoạn thơ gồm 22 câu thơ tiếp: “Ta với mình, mình với ta …Chày đêm nện cối đều đều đều suối xa” Người ra đi gợi nhắc tình cảm gắn bó 4.1. Khái quát - Nếu như đoạn thơ trước nói về nỗi lòng kẻ ở người đi, tái hiện cảnh chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn rồi sau đó người ở lại đã hỏi và gợi nhắc người ra đi hãy nhớ về 15 năm gắn bó, nhớ về những ngày tháng gian khổ mà nghĩa tình thì đoạn thơ này đến lượt người ra đi thổ lộ, giãi bày tình cảm của mình. Lời người ra đi gợi lại nỗi nhớ về cuộc sống sinh hoạt trên chiến khu Việt Bắc, khẳng định tình cảm son sắc, chưa về đã nhớ. Nhớ thiên nhiên Việt Bắc thơ mộng, thanh bình, yên ả và nhớ người Việt Bắc nghèo về vật chất nhưng sâu nặng nghĩa tình, nhớ những ngày tháng gian nân mà vẫn lạc quan, yêu đời, tỉnh cảm vẫn gắn bó keo sơn. - Cặp từ mình - ta: Tk phần giới thiệu bài thơ 4.2. Bốn câu thơ đầu: - Ta với mình, mình với ta Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh Mình đi, mình lại nhớ mình Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu... Người ra đi khẳng định tình cảm mặn nồng, trước sau như một - Trước nỗi lòng của người ở lại, người ra đi cũng khẳng định tình cảm son sắc thủy chung. “Ta – mình”, “mình – ta” được lặp đi lặp lại, quấn quýt, quyện hoà làm một. Câu thơ là sự vận dụng sáng tạo câu ca dao về tình cảm lứa đôi: Ta với mình tuy hai mà một Mình với ta tuy một mà hai \"Đinh ninh\" là sự khẳng định chắc chắn, mãi mãi gắn bó, thuỷ chung. Như vậy, người ra đi ở đây đã khẳng định tình cảm của mình với Việt Bắc và người Việt Bắc trước sau như một, lúc nào cũng mặn mà đinh nình, dù có thế nào cũng không thay lòng đổi dạ. - Câu thơ \"Mình đi, mình lại nhớ mình” là sự hô ứng, để trả lời cho câu hỏi đặt ra của đồng bào Việt Bắc “Mình đi mình có nhớ mình\". Người cán bộ kháng chiến về nơi đô thành nhưng vẫn nhớ đến những ngày sống ở chiến khu Việt Bắc. Đây cũng chính là lời khẳng định phẩm chất đạo đức của người cán bộ kháng chiến, luôn nhớ về cội nguồn cách mạng. 103
- Biện pháp nghệ thuật so sánh “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” đã khẳng định một lần nữa sự chung thuỷ son sắt, tình cảm bền chặt của người cán bộ kháng chiến với Việt Bắc. Nhà thơ Tố Hữu có lẽ đã sáng tạo câu thơ dựa trên hình ảnh ca dao: Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Trong ca dao, tình mẹ vô bờ bến được so sánh với nước trong nguồn, tuôn chảy bất tận không bao giờ cạn. “Bao nhiêu” thành cặp với “bấy nhiêu” là cái vô tận đi liền với một cái vô tận khác. Câu thơ chính là tiếng lòng được thốt lên từ một trái tim tràn đầy xúc động của kẻ ở người về trong giây phút li biệt, thể hiện tình cảm nhớ thương gắn bó của những người cách mạng về xuôi với cảnh và người Việt Bắc cũng như nước trong nguồn không bao giờ vơi cạn. 4.3. Câu thơ \"Nhớ gì như nhớ người yêu\" Nhớ Việt Bắc và người Việt Bắc như nỗi nhớ của tình yêu đôi lứa: - Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo, nhà thơ đã diễn tả nỗi nhớ về một mảnh đất như nỗi nhớ người yêu, một mối quan hệ chính trị lại giống như một tình yêu đôi lứa. Tình yêu luôn đi liền với nỗi nhớ và nỗi nhớ trong tình yêu thì luôn là nồng nàn, da diết, cháy bỏng nhất. Thơ ca xưa nay viết về nỗi nhớ trong tình yêu rất nhiều. Ca dao cũng có những câu như: Nhớ ai bổi hổi bồi hồi Như đứng đống lửa như ngồi đống than Hoặc: Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ Nhớ ai, ai nhớ bây giờ nhớ ai Ông hoàng thơ tình Xuân Diệu cũng thể hiện một nỗi nhớ mãnh liệt: Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh Anh nhớ em, anh nhớ lắm em ơi Nỗi nhớ trong tình yêu của người phụ nữ lại được nữ thi sĩ Xuân Quỳnh miêu tả: Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức Nỗi nhớ người yêu là nỗi nhớ có khi ngẩn ngơ, ngơ ngẩn; có khi có khi bồn chồn, bối rối, bổi hổi, bồi hồi, mãnh liệt và thường trực... Nỗi nhớ Việt Bắc và người Việt Bắc phải chăng hàm chứa mọi cung bậc cảm xúc ấy. Với hình ảnh so sánh này, Tố Hữu đã thể hiện được tình cảm rất sâu đậm của người đi bởi có nỗi nhớ nào thổn thức, thường trực và mãnh liệt hơn nỗi nhớ trong tình yêu. - Điệp từ \"nhớ\" được lặp lại hai lần trong câu thơ đã nhấn mạnh nỗi nhớ cồn cào, da diết khôn nguôi. Cuộc đời mỗi con người đều không tránh được chuyện đi và ở, hội ngộ và chia li. Những mảnh đất đã từng qua, ngững con người đã từng gắn bó đều để lại niềm thương và nỗi nhớ như nhà thơ Chế Lan Viên đã khái quát: Khi ta ở chỉ là nơi đất ở Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn 104
Mười lăm năm trên chiến khu Việt Bắc đã để lại bao tình cảm luyến thương nên trong giờ phút chia tay tất cả kỉ niệm trong suốt 15 năm gắn bó bỗng chốc ùa về với những ấn tượng, tình cảm sâu đậm nhất. Và người ra đi cũng nhu cầu được bày tỏ nỗi lòng. 4.4. Đoạn thơ: Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương Nhớ từng bản khói cùng sương Sớm khuya bếp lửa người thương đi về. Nhớ từng rừng nứa bờ tre Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy Nhớ thiên nhiên việt Bắc yên ả, thanh bình, thơ mộng - Trong nỗi nhớ của người ra đi thiên nhiên Việt Bắc rất đẹp và thơ mộng. Đó là Việt Bắc vào những đêm trăng. “Trăng lên đầu núi\" là vầng trăng mới lên, mới lấp ló nơi đầu núi thật đẹp và lãng mạn. Khung cảnh Việt Bắc có ánh trăng chiếu rọi rất nên thơ còn được nhà thơ Tố Hữu miêu tả một lần nữa trong bài thơ: Rừng thu trăng rọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung \"Nắng chiều lưng nương” cũng là khoảnh khắc đẹp của thiên nhiên Việt Bắc, ánh nắng dịu nhẹ trải vàng cả núi rừng và nương rẫy trong buổi chiều tà. Các hình ảnh thiên nhiên thơ mộng ấy còn gợi hình ảnh con người Việt Bắc trong những khoảnh khắc đẹp, gợi những đêm trăng hò hẹn, những buổi chiều lao động trên nương rẫy. - Nỗi nhớ không chỉ trải dài theo thời gian “trăng lên – nắng chiều – sớm – khuya” mà còn trải rộng khắp không gian: Bản khói cùng sương – bếp lửa – rừng nứa – bờ tre – ngòi Thia – sông Đáy – suối Lê... Nghệ thuật liệt kê đã tái hiện nỗi nhớ vơi đầy của người cán bộ kháng chiến đồng thời khắc họa được vẻ đẹp của quê hương Việt Bắc. Những đồi tre bát ngát, những dòng suối mát trong, con sông hiền hòa, những bếp lửa ấp iu nồng đượm, tất cả cứ in sâu trong nỗi nhớ người về. Nhắc đến dòng sông, đồi núi, rừng nứa, bờ tre là rưng rưng bao kỉ niệm, đong đầy bao yêu thương. Những cái tên: Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê có lẽ không đơn thuần chỉ là những địa danh mà còn ẩn dấu bao kỉ niệm, cảm xúc. Có thể nói mỗi thời gian, không gian này với người về xuôi đều lung linh kỉ niệm, cham chứa yêu thương. - Câu thơ “Sớm khuya bếp lửa người thương đi về” là một điểm nhấn của nỗi nhớ với sự xuất hiện của hình ảnh con người Việt Bắc. Hai chữ “người thương” thật hay, đó là những con người gắn bó với nhau bằng tình sâu nghĩa đậm. “Người thương” ấy là những ai? Đó có thể là người em liên lạc “Sớm bản Na chiều em qua bản Bắc, mười năm tròn không mất một phong thư”, có thể là người anh du kích với “Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách”, là người mế “Lửa hồng soi tóc bạc/ năm con đau mế thức một mùa dài” như trong bài thơ “Tiếng hát con tàu” Chế Lan Viên cũng đã từng nói đến. Họ là những người đã cưu mang, đùm bọc, che chở cán bộ kháng chiến, là những người mà cán bộ kháng chiến coi như máu thịt, như gia đình. Hai chữ “người thương” vì vậy mà chất chứa biết bao ân tình của người về xuôi. - Các điệp từ: nhớ gì, nhớ từng, nhớ những cùng với nghệ thuật so sánh (như nhớ người yêu), các tên địa danh ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê và tiểu đối đều góp phần thể 105
hiện thành công những cung bậc cảm xúc phong phú của nỗi nhớ quê hương cách mạng, tạo nên chất nhạc chất họa mê li, say đắm cho khổ thơ. 4.5. Đoạn thơ: Ta đi, ta nhớ những ngày Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi... Thương nhau, chia củ sắn lùi Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng Nhớ người mẹ nắng cháy lưng Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô Nhớ người Việt Bắc nghèo về vật chất nhưng sâu nặng nghĩa tình - Hai câu thơ “Ta đi ta nhớ những ngày/ Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi” đã khái quát và khẳng định được tình cảm của người ra đi, ta về là ta luôn nhớ. Cụm từ “đắng cay ngọt bùi” là ẩn dụ, trong đó “đắng cay” là ẩn dụ cho những gian khổ, vất vả; “ngọt bùi” tượng trưng cho niềm vui, hạnh phúc. Trong nỗi nhớ của người ra đi có những kỉ niệm về những ngày tháng khó khăn, gian khổ những cũng có nhiều kỉ niệm ngọt ngào, có niềm vui chiến thắng, có hạnh phúc tình yêu. - Nếu hai câu thơ trước có ý nghĩa khái quát, thì hai câu thơ “Thương nhau chia củ sắn lùi/ bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng” đã cụ thể hóa những đắng cay, ngọt bùi trong cuộc sống kháng chiến. Bao nhiêu gian khổ đã cùng nhau nếm trải như thiên nhiên khắc nghiệt, thiếu thốn kham khổ về vật chất, giặc đến giặc lùng... Khó khăn gian khổ lại làm người cán bộ kháng chiến và người dân Việt Bắc yêu thương, đùm bọc nhau hơn. Nghệ thuật đảo ngữ với từ \"Thương nhau\" được đặt lên đầu cặp lục bát cho thấy đó là căn nguyên, cội nguồn để dẫn đến những hành động nhường cơm, sẻ áo. Sắn lùi là món ăn bình dị, dân dã. Chăn sui được làm từ vỏ cây sui, thô ráp nhưng là thứ duy nhất họ có để xua đi cái giá lạnh của vùng núi cao. Họ phải chia nhau từng củ sắn, bát cơm sẻ làm đôi, đắp cùng chăn sui để tỏa cho nhau hơi ấm. Các động từ “chia”, “sẻ”, “đắp cùng” thể hiện những hành động đầy ân nghĩa của người Việt Bắc, làm người ra đi mãi ghi nhớ, khắc sâu. - Người Việt Bắc nhường cơm, sẻ áo, nuôi giấu người cán bộ cách mạng còn được thể hiện qua hình ảnh người mẹ Việt Bắc “nắng cháy lưng, địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”. Đây có lẽ là một trong những hình ảnh in đậm nhất trong lòng người ra đi. Người mẹ địu con lên nương rẫy trong cái nắng đến cháy da, cháy thịt để vừa trông nom, che chở cho đứa con thơ bên mình vừa kiên trì, cần mẫn “bẻ từng bắp ngô” để nuôi con, nuôi cán bộ. Sự tương phản, đối lập giữa cái dữ dội của thiên nhiên với ý chí nghị lực của con người càng làm tôn lên vẻ đẹp cần cù, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh của người mẹ dân tộc. Hình ảnh những người mẹ tuyệt vời, kì diệu trong những cuộc kháng chiến còn được gặp lại trong bài thơ \"Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ\" của Nguyễn Khoa Điềm: Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng” 106
Chính người mẹ Việt Bắc, những người mẹ Việt Nam anh hùng với tình mẫu tử và tình cảm cách mạng thiêng liêng đã góp phần to lớn làm nên chiến thắng của dân tộc, trở thành những nhân vật lịch sử trong các cuộc kháng chiến vĩ đại. 4.6. Đoạn thơ: Nhớ sao lớp học i tờ Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan Nhớ sao ngày tháng cơ quan Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo. Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều Chày đêm nện cối đều đều suối xa... Nhớ cuộc sống kháng chiến gian khổ nhưng đầy niềm vui - Nhớ về những ngày ấy là nhớ về không khí của những lớp học i tờ, những ngày tháng vừa làm cách mạng vừa diệt giặc dốt. Trước khi cách mạng đến, dân ta có biết bao cuộc đời tủi cực, tăm tối, bị nô lệ và thiếu ánh sáng văn hóa, đa số nhân dân mù chữ. Muốn làm cách mạng phải dạy dân học chữ vì vậy mà những lớp bình dân học vụ ra đời. Cụm từ \"đồng khuya đuốc sáng\" cho thấy đêm đêm giữa mênh mông núi rừng Việt Bắc vang lên tiếng học i tờ, làm nên một sức sống mới trên quê hương cách mạng. Cụm từ \"những giờ liên hoan” trong câu thơ cho thấy lớp học tuy có những vất vả gian khổ nhưng vẫn đầy niềm vui, tưng bừng náo nức nhất là trong những giờ liên hoan sôi nổi. - Những ngày tháng ấy là những ngày tháng cơ quan đầy gian nan, thử thách. Nhưng với tinh thần lạc quan cách mạng người cán bộ miền xuôi và nhân dân Việt Bắc vẫn vượt qua, họ vẫn yêu đời nên tiếng hát vẫn bay cao, vang xa giữa núi đồi. Tinh thần lạc quan vốn là truyền thống của người Việt Nam, càng khó khăn gian khổ phẩm chất ấy càng được bộc lộ rõ ràng. Tinh thần ấy đã được những người những người cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc phát huy cao độ trong cuộc kháng chiến chống Pháp, góp phần cổ vũ, nâng đỡ, chắp cánh niềm tin để ta có đủ sức mạnh đi đến chiến thắng. - Trong nỗi nhớ của người ra đi còn có những âm thanh quen thuộc, bình dị, thân thương là âm thanh tiếng mõ tiếng chày vang lên giữa núi rừng Việt Bắc. Đó là tiếng mõ trâu buổi chiều trở về bản làng, là tiếng chày nhịp nhàng của cối giã gạo bên suối. Mỗi một âm thanh lại gợi mở bức họa bình dị mà thơ mộng. Tiếng giã gạo đêm khuya bình dị mà ghi dấu bao nghĩa tình sâu nặng. Tiếng suối róc rách nơi rừng xa lại gợi cái trong ngần, thơ mộng của cảnh vật. Những âm thanh của cuộc sống lao động thường ngày, khi sống cùng có lẽ chẳng mấy ai để ý, nhớ nhung, nhưng khi xa rồi thì những âm thanh ấy lại khiến con người bồi hồi, xao xuyến, thổn thức. Lời thơ dứt mà những âm thanh ấy cứ ngân vang mãi trong lòng người chia xa Việt Bắc. Từ láy \"đều đều\" không chỉ thể hiện âm thanh đều đều của tiếng mõ tiếng chày vào các buổi chiều và vào ban đêm hòa quện giữa âm thanh của rừng núi mà còn thể hiện nhịp sống đều đều, êm ả thanh bình trên chiến khu. Tiểu kết: Qua nỗi nhớ của người ra đi, đoạn thơ gợi ra trước mắt người đọc bức tranh thiên nhiên, con người Việt Bắc vừa thơ mộng vừa giàu chất hiện thực, diễn tả sâu sắc tình cảm ân tình thủy chung son sắc giữa những con người đã cùng đồng cam cộng khổ, là những kỉ niệm in đậm trong lòng nhà thơ cũng như bao người trong cuộc kháng chiến. Việt Bắc tiêu 107
biểu cho phong cách thơ Tố Hữu có sự hòa quyện giữa chất trữ tình chính trị và nghệ thuật biểu hiện đậm đà tính dân tộc. 5. Đoạn thơ: Ta về mình có nhớ ta ... Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung Bức tranh tứ bình về Việt Bắc 5.1. Khái quát: - Trong quan niệm mĩ học thời cổ điển, tứ bình là cấu trúc nghệ thuật đạt đến sự hài hòa, cân xứng. Chẳng hạn, khi miêu tả thiên nhiên người xưa thường sử dụng mô-típ Tùng - cúc - trúc - mai, Xuân - hạ - thu - đông; khi miêu tả người thì theo mô-típ ngư - tiều - canh - mục; khi miêu tả các con vật thì là Long - ly - quy - phụng... Trong đoạn thơ này Tố Hữu đã sử dụng cấu trúc nghệ thuật tứ bình để thể hiện một cách cô đúc nhất vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Bắc. - Ở những đoạn thơ trước, người cán bộ cách mạng miền xuôi và người Việt Bắc đã lần lượt nhắc lại những kỉ niệm gắn bó trong suốt 15 năm và khẳng định tình cảm son sắc thủy chung. Đến đoạn thơ này người ra đi tiếp tục gợi nhắc những kỉ niệm gắn bó bằng những ấn tượng sâu đậm nhất, kết tinh nhất về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Đây được coi là 10 câu thơ tuyệt bút đạt đến độ toàn bích trong bài thơ. Trong đó, hai câu thơ đầu được đánh giá là chủ đề, khái quát được nội dung của cả đoạn thơ là nỗi nhớ về thiên nhiên con người Việt Bắc trong bốn mùa theo thứ tự Đông - Xuân - Hạ - Thu. - Tố Hữu viết bài thơ “Việt Bắc” vào tháng 10 năm 1954, khi ấy miền Bắc nước ta đang vào mùa đông. Cho nên, mùa đông là mùa trong hiện tại, cũng là mùa mở ra bộ tranh tứ bình. Cũng có ý kiến cho rằng, sở dĩ mùa đông là mùa bắt đầu trong đoạn thơ này là vì Tố Hữu lấy cảm hứng từ thắng lợi của chiến dịch Việt Bắc thu đông. 5.2. Hai câu thơ đầu: Ta về, mình có nhớ ta Ta về, ta nhớ những hoa cùng người Hai câu thơ chủ đề cho cả đoạn - Cặp từ mình - ta: Tk phần giới thiệu bài thơ - Câu thơ thứ nhất là lời ướm hỏi của người ra đi với người ở lại. \"Ta về\" được lặp lại hai lần như xác nhận hoàn cảnh chia li tiễn biệt, trong đó ta chỉ người ra đi. Nhưng người ra đi ở đây đặt câu hỏi với người ở lại không phải để được trả lời bởi đến đoạn thơ này cả người đi kẻ ở đều đã cảm nhận được tình cảm sâu sắc, mặn nồng mà họ dành cho nhau. Bởi vậy, câu thơ chỉ là cái cớ, là cây cầu để người ra đi dẫn dắt, thổ lộ tình cảm của mình là ra về mà lòng đầy thương nhớ. - Câu thớ thứ hai đã cụ thể hóa nỗi nhớ của người về xuôi. Ra về là ta nhớ, nhớ hoa và nhớ người. Hoa ở đây là ẩn dụ chỉ vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc. Nhớ hoa là nhớ những gì đẹp nhất, tinh túy nhất, tươi sáng nhất về thiên nhiên Việt Bắc. \"Nhớ hoa cùng người\" nghĩa là cùng với nỗi nhớ về thiên nhiên là nỗi nhớ về con người Việt Bắc. - Tố Hữu lựa chọn thật đắt hai hình ảnh đối xứng: hoa - người. Hoa là vẻ đẹp tinh tuý nhất của thiên nhiên, tương xứng với hoa là con người như người ta thường nói \"Người ta là hoa của đất\". Sựn đối xứng ấy khiến bốn cặp lục bát còn lại được cấu tạo với phương thức miêu tả khá thống nhất là cứ câu lục nói đến thiên nhiên, câu bát nói tới con người. Tả thiên nhiên thì gắn với màu 108
sắc đặc trưng của từng mùa, tả con người thì gắn với công việc lao động, thể hiện những phẩm chất tốt đẹp của người Việt Bắc. 5.3. Mùa đông: Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng - Vẻ đẹp của thiên nhiên: Qua con mắt tinh tế của nhà thơ, thiên nhiên mùa đông gắn với hai màu sắc xanh và đỏ thể hiện qua các hình ảnh rừng xanh và hoa chuối đỏ tươi. + Rừng xanh: Mùa đông rừng núi hiện lên trong màu xanh bạt ngàn của cây rừng, bao phủ cả một không gian rộng lớn tạo thành cái nền cho bức tranh cảnh vật. Chính cái màu xanh của núi rừng Việt Bắc đã: Núi giăng thành lũy sắt dày Rừng che bộ đội rừng vây quân thù + Hoa chuối đỏ tươi (nhãn tự): Trên cái nền xanh ấy có điểm xuyết những bông hoa chuối đỏ tươi, thắp sáng cả cánh rừng đại ngàn. Màu đỏ tươi của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng như ngọn lửa ấm thắp sáng lên bức tranh cảnh vật, xua tan bớt cái lạnh giá, u ám, hiu hắt của rừng núi vào mùa đông. Hai chữ \"đỏ tươi\" không chỉ là từ ngữ chỉ sắc màu, mà chứa đựng cả một sự bừng thức, một khám phá ngỡ ngàng, một rung động rất thi nhân. Hình ảnh bông hoa chuối đỏ tươi còn hiện lên như một biểu tượng của niềm tin, của tình yêu, của sự lạc quan như Nguyễn Mỹ cũng hướng đến trong “Cuộc chia li màu đỏ”: Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người Nghĩa là màu đỏ ấy sẽ theo đi Như chưa hề có cuộc chia li - Hình ảnh con người: Hình ảnh con người trong bức tranh cảnh vật mùa đông là hình ảnh người với công việc lên rừng hái củi, phát nương làm rẫy góp công góp sức cho cuộc chiến đấu. Bước chân đã tới lưng đèo, hình ảnh con người đứng giữa đèo cao, giữa núi đồi đầy vững chãi, tự tin, mang tâm thế của người làm chủ núi rừng, làm chủ cuộc sống. Tư thế và tâm thế ấy còn được thể hiện một lần nữa trong bài thơ \"Lên Tây Bắc\" của Tố Hữu thể hiện rõ quan niệm của nhà thơ về con người kháng chiến, trở thành một nét thi pháp đặc sắc trong thơ của ông: Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo Núi không đè nổi vai vươn tới Lá ngụy trang reo với gió đèo Tâm thế là chủ ấy còn được thể hiện trong nhiều bài thơ của các nhà thơ cùng thời với Tố Hữu như Nguyễn Đình Thi: Trời xanh đây là của chúng ta Núi rừng đây là của chúng ta Những cánh đồng thơm mát Những ngả đường bát ngát Những dòng sông đỏ nặng phù sa - Hình ảnh người lên rừng lấy củi, phát nương, làm rẫy còn được miêu tả với con dao giắt cạnh sườn, ánh nắng mùa đông phản chiếu vào sáng lấp lánh. Ở đây, câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ 109
nhưng lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như một tụ điểm của ánh sáng. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc. - Hình ảnh con người trong hai câu thơ không chỉ mang vẻ đẹp sử thi, tiêu biểu cho con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp mà còn gợi lên phẩm chất tốt đẹp của người Việt Bắc cũng là phẩm chất tốt đẹp của người Việt Nam cần cù, chăm chỉ, chịu thương, chịu khó. 5.4. Mùa xuân: Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang - Vẻ đẹp của thiên nhiên: + Cụm từ chỉ thời gian \"ngày xuân\" : Nhà thơ không viết là mùa xuân mà là ngày xuân đầy tinh tế thể hiện sự ngỡ ngàng trước vẻ đẹp lộng lẫy của đất trời, vạn vật khi vào xuân và tác giả đã chớp lấy khoảnh khắc đẹp nhất, có thần nhất của mùa xuân Việt Bắc. + Màu sắc, hình ảnh: Nếu màu sắc của mùa đông là hai sắc màu xanh, đỏ thì bức tranh mùa xuân gắn với sắc trắng. Cùng với sự chuyển mùa, mùa đông sang mùa xuân, là sự chuyển màu trong bức tranh thơ. Màu xanh trầm tĩnh, lạnh giá của rừng già chuyển sang màu trắng tinh khôi của hoa mơ khi mùa xuân đến. Cụm từ \"trắng rừng\" cho thấy hoa mơ nở trắng, bao phủ cả khu rừng. Núi rừng Việt Bắc ngập tràn một sắc trắng tinh khôi, dịu nhẹ, ngọt ngào và mang sức sống bất diệt, xôn xao, rạo rực của mùa xuân. Hiện thực đầy mơ mộng này còn được nhà thơ Tố Hữu nhắc đến một lần nữa trong trường ca \"Theo chân Bác\": Ôi sáng xuân nay xuân 41 Trắng rừng biên giới nở hoa mơ Bác về im lặng con chim hót Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ - Hình ảnh con người: Nhớ sắc trắng hoa mơ nơi xuân rừng Việt Bắc không thể không nhớ đến con người Việt Bắc vào mùa xuân. Trong dân gian từ ngàn xưa cho đến nay luôn cho rằng mùa xuân là mùa của các lễ hội thế nên mới có câu ca “tháng giêng là tháng ăn chơi”. Nhưng trong những năm tháng mùa xuân khi đất nước có chiến tranh, quê hương còn bóng giặc thì dù mùa xuân nhân dân gác lại việc vui chơi để miệt mài với, say mê với công việc. Vào mùa xuân con người xuất hiện trong công việc đan nón. Hình ảnh người đan nón được tập trung miêu tả qua đôi bàn tay. Hai chữ \"chuốt từng\" gợi liên tưởng về đôi bàn tay tỉ mỉ, dường như bao yêu thương đợi chờ mong ngóng đã gửi vào từng sợi nhớ, sợi thương kết nên vành nón; gợi phẩm chất của người Việt Bắc kiên trì, khéo léo, cẩn trọng, tài hoa. Sự khéo léo và tài hoa của người đan nón, của con người Việt Nam cũng được nhà thơ Nguyễn Đình Thi miêu tả: Tay người như có phép tiên Tranh tre nứa lá cũng dệt nghìn bài thơ Một chiếc mũ nan, một vành nón lá nhưng chứa đựng trong đó bao ân tình thắm thiết, mặn nồng của người dân Việt Bắc. Và bao chiến sĩ đã đội những chiếc mũ ấy để vượt qua mưa bom, bão đạn của cuộc chiến đấu. Hơn thế nữa chiếc mũ ấy đã trở thành người bạn trên đoạn đường hành quân trùng điệp: Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan 5.5. Mùa hè: 110
Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình - Vẻ đẹp của thiên nhiên: Có thể nói bức tranh cảnh vật mùa hè là bức tranh gợi cảm nhất. Bởi vì nếu như trong bức tranh của hai mùa đông và xuân chỉ gắn với những đường nét và màu sắc thì đến bức tranh mùa hè, tác giả đã đánh thức thêm giác quan mới. Bức tranh cảnh vật mà hè không chỉ gắn với màu vàng của rừng phách mà còn làm thính giác choàng tỉnh bởi âm thanh rộn rã, tưng bừng của tiếng ve. Mùa hè đến tiếng ve kêu râm ran trong vòm lá như tiếng đàn, tiếng nhạc. Cái hay của câu thơ là ở chỗ nó thể hiện được một phản ứng có tính dây chuyền. Cây phách nở hoa vàng vào mùa hè và khi ve kêu báo hiệu mùa hè đến cũng là lúc nhưng bông hoa phách ẩn hiện trong tán lá nở rộ. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng sắc vàng trong câu thơ \"Ve kêu rừng phách đổ vàng\" không phải là màu vàng của hoa như những người soạn sách nhiều năm lầm tưởng mà là màu vàng của lá. Trong cuốn Hồi kí nhớ lại một thời khi nói về vẻ đẹp nên thơ của Việt Bắc cùng những gì là \"luyến tiếc ngẩn ngơ\" khi rời Việt Bắc, nhà thơ Tố Hữu đã chép lại đoạn thơ đặc sắc về thiên nhiên bốn mùa của Việt Bắc, đồng thời cũng đã chú thích rất rõ ràng về cây phách: Phách là loại cây gỗ cao, cuối hè đầu thu thì lá vàng rực lên (Nhớ lại một thời - Hồi kí - NXB Hội Nhà văn, 2000, trang 302). Từ \"đổ\" là được dùng thật chính xác, tinh tế khi nó gợi sự thay đổi đột ngột và đồng loạt của màu sắc. Và chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động khi tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến, rừng phách đột ngột, đồng loạt đổi sang màu vàng rực rỡ. - Câu thơ miêu tả mùa hè Việt Bắc gợi ta nhớ đến hai câu Kiều của Nguyễn Du, cũng thể hiện một phản ứng dây chuyền và sự chuyển màu đồng loạt của lá rừng. Khi Thúc Sinh lên ngựa, Thúy Kiều phải buông áo và đúng lúc Kiều buông áo Thúc Sinh thì rừng cây phong đồng loạt đổi màu sang màu đỏ của chia li. Có điều để diễn tả sự động loạt đổi màu của rừng phong, đại thi hào Nguyễn Du đã dùng từ \"nhuốm\": Người lên ngựa, kẻ chia bào Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san - Hình ảnh con người: Hai câu thơ mùa hè càng trở nên gợi cảm hơn với hình ảnh cô em gái hái măng một mình. Cách gọi \"Cô em gái\" thể hiện rõ cách sử dụng ngôn từ rất tinh tế của Tố Hữu thể hiện rõ sự gần gũi, thân thương, trìu mến. Cô gái Việt Bắc hái măng một mình trong rừng không gợi sự cô đơn, lẻ loi bởi vì cô hái măng để nuôi cán bộ, nuôi bộ đội thể hiện tình cảm sâu nặng của người Việt Bắc với người cán bộ cách mạng miền xuôi, thể hiện tình quân dân thắm thiết. Bởi vậy nên khi cán bộ về xuôi, cả rừng núi dường như cũng ngẩn ngơ: “Trám bùi để rụng, măng mai để già”. - Có ý kiến cho rằng hai câu thơ về mùa hè rất đẹp, gợi cảm nhưng ít nhiều chưa hợp lí vì cô em gái không thể tìm kiếm, hái măng trong rừng phách. Thế nhưng ta hoàn toàn có thể chấp nhận được vì cảnh vật, con người Việt Bắc ở đây là những vẻ đẹp ấn tượng, kết tinh nhất trong mùa hè và có thể chúng được cảm nhận ở những không gian, vạt rừng khác nhau trên chiến khu cách mạng. 5.6. Mùa thu: Rừng thu trăng rọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung 111
Khép lại bộ tứ bình là cảnh mùa thu. Đây là cảnh đêm thật phù hợp với khúc hát giao duyên trong thời điểm chia tay giã bạn. Nếu như bức tranh mùa hè được đánh giá là gợi cảm nhất thì bức tranh mùa thu lại thơ mộng và được miêu tả bằng cách thức khác biệt nhất. Bức tranh cảnh vật không được miêu tả vào ban ngày mà được miêu tả vào ban đêm, không được miêu tả qua màu sắc mà gắn với vẻ đẹp của ánh trăng, con người không xuất hiện qua công việc lao động mà xuất hiện qua tiếng hát. - Vẻ đẹp của thiên nhiên: Ấn tượng đẹp nhất về mùa thu Việt Bắc là những đêm trăng. Ánh trăng sáng trong, mát dịu chiếu rọi khắp núi rừng gợi một không gian huyền ảo, thơ mộng, thanh bình. Ánh trăng Việt Bắc ấy cũng được Hồ Chí Minh nhắc đến trong bài thơ được sáng tác trên chiến khu cách mạng: Trăng vào cửa sổ đòi thơ Việc quân đang bận xin chờ hôm sau - Hình ảnh con người: Đại từ phiếm chỉ \"ai\" thể hiện cách nói bóng gió, lấp lửng của ca dao, dân ca và ở đây chỉ người Việt Bắc. Trong không gian mờ ảo, thơ mộng, thanh bình của đêm trăng vang lên tiếng hát của người Việt Bắc. Tiếng hát về tình cảm ân nghĩa, thủy chung hòa quyện vào bức tranh cảnh vật không chỉ làm cho bức tranh mùa thu thêm gợi cảm mà còn thể hiện phẩm chất ân tình, thủy chung của người Việt Bắc nói riêng, của người Việt Nam nói chung. Tiểu kết: Bằng những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc, Tố Hữu đã tái hiện bức tranh cảnh vật, con người bằng những ấn tượng đẹp nhất, sâu đậm nhất. Trong đó người và cảnh không thể tách rời, thiên nhiên không thể thiếu bóng dáng con người và con người được đặt trong khung cảnh thiên nhiên. Chúng hỗ trợ, bổ sung cho nhau làm tôn lên vẻ đẹp của nhau. Bức tranh tứ bình về thiên nhiên, con người Việt Bắc trong bốn mùa đã xóa bỏ cách nghĩ thông thường về thiên nhiên Việt Bắc, cho rằng đó là vùng rừng núi xa xôi, heo hút, hoang vắng, rừng thiêng, nước độc và cho thấy một Việt Bắc tươi đẹp, thơ mộng, đáng yêu biết bao. Đoạn thơ cũng như bài thơ vì thế đã bồi đắp thêm cho ta tình yêu thiên nhiên, quê hương đất nước tươi đẹp. 6. Đoạn thơ: Nhớ khi giặc đến giặc lùng ... Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng. Khí thế chiến đấu, chiến thắng của quân và dân ta trên chiến khu Việt Bắc 6.1. Khái quát: - Nếu như các đoạn thơ trước của bài thơ đã thể hiện nghĩa tình trong kháng chiến giữa những người cán bộ cách mạng miền xuôi với nhân dân Việt Bắc trong suốt 15 thì đoạn thơ này lời người đi đã làm sống lại khí thế chiến đấu và chiến thắng của quân và dân ta trên chiến khu Việt Bắc từ những ngày đầu gian khổ đến khi chiến thắng về ta. - Đoạn thơ thể hiện cảm hứng sử thi đậm nét khi tái hiện khí thế dũng mãnh, cảnh tượng hào hùng, sôi nổi của quân và dân ta trong chiến đấu. Từ đó ca ngợi chiến thắng, thể hiện niềm tự hào dân tộc. \"Việt Bắc\" vì thế không chỉ là bản tình ca mà còn trở thành bản anh hùng ca về cuộc kháng chiến chống Pháp. 6.2. Mười câu thơ: Nhớ khi giặc đến giặc lùng ... Nhớ từ Cao Lạng, nhớ sang Nhị Hà. Khí thế chiến đấu và những trận đánh, chiến thắng bước đầu 112
- Những ngày kháng chiến trên chiến khu Việt Bắc là những ngày tháng đầy gian khổ. Những ngày đầu ấy quân và dân ta không chỉ phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt là mưa nguồn, suối lũ, mây mù, với điều kiện sinh hoạt vật chất vô cùng thiếu thốn chỉ có miếng cơm chấm muối, chia sẻ với nhau từng củ sắn, bát cơm, cùng đắp chăn làm từ vỏ cây sui... mà còn có cả những ngày giặc đến giặc lùng. \"Giặc đến\" là thời điểm nguy kịch, \"giặc lùng\" là cảnh nguy biến, hoảng loạn, tan tác, loạn lạc. Cảnh giặc đến gây bao tang thương đã được nhà thơ Hoàng Cầm khắc họa: Quê hương ta từ ngày khủng khiếp Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn Ruộng ta khô Nhà ta cháy Chó ngộ một đàn Lưỡi dài lê sắc máu Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang Hiện thực của những ngày đầu ta yếu, địch mạnh ấy cũng giống như khi Lê Lợi mới gây dựng khởi nghĩa Lam Sơn được Nguyễn Trãi viết trong \"Bình Ngô đại cáo\": Ta đây! Núi Lam Sơn dấy nghĩa Chốn hoang dã nương mình. Nghệ thuật chiến tranh du kích là phải dựa vào là phải dựa vào địa hình hiểm trở, rừng núi để đánh giặc. Bởi vậy mà núi đá, rừng cây cũng tham gia đánh giặc. Núi rừng Việt Bắc tươi đẹp, hiền hòa trong bức tranh tứ bình nay bỗng trở thành những chiến sĩ thực thụ trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược. + Núi đá tham gia đánh giặc: Những dãy núi trùng điệp dàn trải như thành lũy kiên cố bất khả xâm phạm che chở bộ đội, dân quân, du kích,… Tư thế hiên ngang kiêu hùng của những vách núi làm cho kẻ thù bất lực. + Rừng cây cũng tham gia đánh giặc: Rừng cây vừa bao vây quân thù, vừa chở che bộ đội. Rừng núi vốn là những vật vô tri, song dưới con mắt của nhà thơ, trong cuộc kháng chiến trường kì toàn dân, toàn diện cũng trở nên có ý chí, có tình người. Chúng cùng quân dân ta tham gia chiến đấu và trở thành đồng đội với quân và dân ta trong cuộc chiến. Với nghệ thuật nhân hóa, Tố Hữu đã biên núi rừng, thiên nhiên thành những người lính anh dũng kiên cường. + Bốn mặt sương mù: Khung cảnh chiến đấu vừa hào hùng vừa thơ mộng, đất trời bao la chìm trong sương mù dày đặc. Màn sương ấy như che chở cho quân ta và cản bước quân thù. + \"Cả chiến khu một lòng\": Cả núi rừng Việt Bắc giờ đây đang cùng chung một nhịp đập trái tim. Tất cả đang hướng về cuộc chiến đấu, hướng về sứ mệnh bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ quê hương yêu dấu. Cụm từ này đã nhấn mạnh tình đoàn kết quân dân, sự gắn bó giữa con người và thiên nhiên. Tất cả bừng lên ngọn lửa căm hờn, ngọn lừa hừng hực tinh thần quyết chiến, quyết thắng. Qua những câu thơ này, Tố Hữu thế hiện lòng tự hào trước sức mạnh của dân tộc ta. Khi Tổ quốc, quê hương cần, tất cả thiên nhiên và con người đều sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng hi sinh. Ngay từ những ngày đầu vất vả, gian khổ nhất khí thế chiến đấu của quân và 113
dân ta trên chiến khu Việt Bắc đã cao ngất trời, không khác gì khí thế của quân đội nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông: Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu Ba quân tì hổ khí thôn ngưu (Múa giáo non sông trải mấy thâu - Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu) - Câu thơ \"Ai về ai có nhớ không?\": Đại từ \"ai\" lặp lại 2 lần, tuy phiếm chỉ nhưng kết hợp thành \"ai về\" rõ ràng là chỉ người đi. Cả câu thơ là một câu hỏi. Câu hỏi ấy cũng không phải để được trả lời mà là một câu hỏi tu từ để cho thấy người ra đi đang tự nhìn vào lòng mình và sử dụng câu hỏi như một cây cầu nối để dẫn dắt vào nỗi nhớ về những trận đánh, chiến thắng. - Với quyết tâm đánh giặc, cả chiến khu từ thiên nhiên đến con người đều một lòng chiến đấu nên ta đã có những trận đánh, những chiến thắng bước đầu. Điệp từ \"nhớ\" được lặp lại 4 lần trong 4 câu thơ khẳng định sâu sắc nỗi nhớ niềm thương của người cán bộ về xuôi. Cũng trong 4 câu thơ, nhà thơ còn sử dụng nhiều tên địa danh. Nhưng đó không phải những địa danh đơn thuần mà là những địa danh diễn ra những trận đánh, những chiến thắng của quân và dân ta. Nhà thơ Quang Dũng trong bài thơ \"Tây Tiến\" cũng nhắc đến rất nhiều tên địa danh như Sài Khao, Mường Lát, Mai Châu, Pha Luông, Mường Hịch... Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Những tên địa danh ấy gợi lên trong lòng người đọc bao nhiêu niềm thương nỗi nhớ về một thời Tây Tiến. Nhưng ở đây, các địa danh trong thơ Tố Hữu không chỉ gợi niềm thương, nỗi nhớ mà còn là niềm tự hào chiến thắng. Đoạn thơ là lời khẳng định đầy tự hào rằng ta vẫn có thể chiến đấu và chiến thắng trong những ngày đầu khó khăn, gian khổ nhất. 6.3. Hai câu thơ: Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung Nét tả khái quát: Những con đường ra trận trên chiến khu Việt Bắc - Nếu như đoạn thơ 10 câu trên là những ngày đầu khó khăn, gian khổ mới chỉ có những trận đánh, chiến thắng bước đầu thì đoạn thơ tiếp theo đã tái hiện khí thế chiến đấu, chiến thắng ngút trời của quân và dân ta. Đoạn thơ được kết cấu theo cấu trúc mà trong đó nét tả khái quát là miêu tả những con đường ra trận trên chiến khu Việt Bắc làm hiện lên khí thế ra trận của quân và dân ta. Sau đó là miêu tả cụ thể những đoàn quân, đoàn dân công và những đoàn xe cơ giới ra chiến trường trên những nẻo đường Việt Bắc. Và cuối cùng là nêu các tên địa danh là những chiến thắng trên khắp mọi miền tổ quốc, khẳng định chiến thắng về ta. - Khí thế chiến đấu và chiến thắng ấy được thể hiện trước hết qua nét tả khái quát về những con đường ra trận trên chiến khu Việt Bắc. Hai câu thơ mở ra một không gian rộng lớn, hùng tráng là trên khắp các ngả đường Việt Bắc. Thời gian được thể hiện qua từ láy \"đêm đêm\" không chỉ thể hiện quãng thời gian lặp đi lặp lại là hàng đêm mà còn xác nhận một hiện thực thời đó là quân ta chủ yếu hoạt động và kiểm soát về đêm. Mặt khác, trong cuộc kháng chiến thần tốc ấy, để tiếp tế, chi viện cho chiến trường đủ cả về nhân lực và vật lực thì quân và dân ta phải hoạt động cả trong đêm. Hiện thực ấy được nhắc tới trong rất nhiều thi phẩm ra đời cùng thời như: Những đêm dài hành quân nung nấu 114
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu (“Đất nước” - Nguyễn Đình Thi), Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống Bộ đội bên sông đã trở về” (“Bên kia sông Đuống” - Hoàng Cầm) - Khí thế chiến đấu dũng mãnh của quân và dân ta được thể hiện rõ qua từ láy \"rầm rập\" và biện pháp nghệ thuật so sánh \"như là đất rung\": + Từ láy \"rầm rập\": cho thấy sự chuyển động của những bước chân trên con đường ra mặt trận và hơn nữa cho thấy sức mạnh, nhịp độ khẩn trương của quân ta. + Nghệ thuật so sánh có phần cường điệu \"như là đất rung\" càng nhấn mạnh khí thế chiến đấu, sức mạnh quân và dân ta, là sức mạnh nhân nghĩa của mấy ngàn năm lịch sử. Khí thế chiến đấu và chiến thắng ấy tưởng chừng có thể làm rung chuyển trời đất, lay động cả càn khôn. Mặt đất tưởng chừng rung chuyển dưới bước chân của những người khổng lồ đầu đội trời, chân đạp đất trong cuộc ra quân vĩ đại. + Từ \"của ta\" một lần nữa khẳng định tâm thế làm chủ. Đó là tâm thế của cả dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Tâm thế ấy còn được Tố Hữu nhắc đến một lần nữa trong \"Hoan hô chiến sĩ Điện Biên\": Của ta trời đất đêm này Sông kia, đồi nọ, núi này của ta Cũng là tâm thế được thể hiện trong thơ Nguyễn Đình Thi về thời ấy: Trời xanh đây là của chúng ta Núi rừng đây là của chúng ta Những cánh đồng thơm mát Những ngả đường bát ngát Những dòng sông đỏ nặng phù sa Nhìn chung, hai câu thơ thể hiện rõ niềm tự hào làm chủ và khí thế chiến đấu chiến thắng cao ngất trời của những con người chưa ra trận mà như đã nắm chắc phần thắng trong tay. Truyền thống yêu nước đã kết tinh thành sức mạnh, thành khí thế hào hùng của cả dân tộc trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược như \"Bình Ngô đại cáo\" của Nguyễn Trãi miêu tả: Đánh một trận sạch không kình ngạc Đánh hai trận tan tác chim muông Nổi gió to quét sạch lá khô Thông tổ kiến sụt toang đê vỡ 6.4. Hai câu thơ: Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan Hình ảnh đoàn quân ra trận - Hình ảnh đoàn quân được miêu tả trong sự trưởng thành, lớn mạnh, đội ngũ đông đảo, hùng hậu. Nghệ thuật trùng điệp với hai từ láy “điệp điệp\" và “trùng trùng\" đi liền nhau ở câu thơ có sức gợi tả đó, nó vừa gợi lên hình ảnh đoàn quân với sức mạnh vô song, tầng tầng, lớp lớp như sóng cuộn. Đoàn quân ra mặt trận hùng tráng, mang cả sức mạnh của lòng yêu nước, của lí tưởng cách mạng, khát khao chiến đấu và chiến thắng quân thù. 115
- Câu thơ thứ hai \"Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan\" đầy sáng tạo, được ngắt theo nhịp 4/4 càng làm tăng thêm vẻ đẹp của người lính - một vẻ đẹp vừa hiện thực vừa mộng ảo, gợi lên những ấn tượng đẹp về anh bộ đội cụ Hồ. Câu thơ trước hết tả thực hình ảnh những người lính trong cuộc hành quân đêm, súng khoác trên vai, ánh sao chênh chếch trên đầu mũi súng. Nhưng câu thơ không chỉ có ý nghĩa tả thực mà còn gợi nhiều liên tưởng. Trong đó, ánh sao là biểu tượng cho lí tưởng của người chiến sĩ, là ánh sáng cách mạng, là ý chí đánh giặc của người lính. Những người lính chiến đấu vì lí tưởng cao đẹp, vì độc lập tự do cho đất nước. Cụm từ \"ánh sao đầu súng\" đã nâng tầm vóc những người lính khiến họ vươn tới tận sao trời. Từ \"bạn cùng\" đã nhấn mạnh sự hài hòa giữa vẻ đẹp và lí tưởng ngời sáng của người chiến sĩ với cái bình dị, đời thường của người lính được gợi ra từ hình ảnh \"mũ nan\". Chiếc mũ nan ấy có thể được đan bởi những người dân Việt Bắc, họ gửi vào chiếc mũ bao nhiêu tin yêu cho chiến trường: Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Như thế, hình ảnh “Ánh sao đầu súng\" ở đây cũng có nét giống với hình ảnh \"Đầu súng trăng treo” trong bài thơ \"Đồng chí\" của Chính Hữu. Ánh sao đầu súng ấy cũng có thể là ánh sáng của ngôi sao gắn trên chiếc mũ nan của người lính, ánh sáng của lí tưởng cách mạng soi cho người lính bước đi, như nhà thơ Vũ Cao trong bài \"Núi đôi\" đã viết: Anh đi bộ đội sao trên mũ Mãi mãi là sao sáng dẫn đường 6.5. Hai câu thơ: Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay. Hình ảnh đoàn dân công - Trên các nẻo đường Việt Bắc còn có những đoàn dân công bền bỉ tải lương thực, súng đạn để phục vụ cho chiến trường. Hình ảnh của họ cũng thật đẹp, thật hào hùng và đầy lạc quan không kém những người lính. Cụm từ \"từng đoàn\" thể hiện đội ngũ rất đông đảo, hùng hậu. Điều đó khẳng định cuộc kháng chiến chống Pháp của ta là cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, là cuộc chiến tranh nhân dân mà cả nước đều dốc lòng, dốc sức cho tiền tuyến lớn. - Hình ảnh đoàn dân công đi trong đêm cũng là hình ảnh rất thực ở thời ấy. Họ đi dưới ánh sáng của những ngọn đuốc và từ những ngọn đuốc bay ra muôn tàn lửa tạo nên một hình ảnh rất đẹp, đậm chất lãng mạn, thậm chí có thể liên tưởng muôn tàn lửa bay ra từ những bó đuốc ấy như đã tạo ra một đêm hội hoa đăng. Nghệ thuật cường điệu “dấu chân nát đá” đã tạo nên hình ảnh thơ đầy chất thần thoại. Bước chân đoàn dân công như bước chân của những con người đội đá, vá trời, làm rung chuyển vũ trụ. Biện pháp nghệ thuật này có tác dụng nhấn mạnh sức mạnh và ý chí của đoàn dân công sẵn sàng đạp bằng mọi chông gai để đi tới. Bởi thế nên mới có những câu thơ, lời hát: Bác thương đoàn dân công Đêm nay ngủ ngoài rừng Rải lá cây làm chiếu Manh áo phủ làm chăn 116
6.6. Hai câu thơ: Nghìn đêm thăm thẳm sương dày Đèn pha bật sáng như ngày mai lên. Đoàn xe cơ giới ra chiến trường - Trên những con đường Việt Bắc không chỉ có đoàn quân, đoàn dân công mà còn có những đoàn xe cơ giới chở lương thực, đạn dược, chở bộ đội ra chiến trường. Hai câu thơ với bút pháp chủ đạo là nghệ thuật tương phản, đối lập đã cho ta cái nhìn toàn diện về cuộc kháng chiến của dân tộc. Hình ảnh thơ ở đây vừa có nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa biểu trưng: + Nghĩa thực: Những đoàn xe đi trong đêm giữa bóng tối nghìn đêm thăm thẳm của núi rừng Việt Bắc với đèn pha bật sáng xua tan bóng tối sương dày để soi rõ con đường ra tiền tuyến cho đến ngày mới sẽ có hừng đông ló rạng. + Nghĩa biểu trưng: Cụm từ thời gian “nghìn đêm thăm thẳm sương dày” như gợi lại cả một thời kì dài đất nước ta chìm trong ách nô lệ, tăm tối, hết nghìn năm Bắc thuộc lại Pháp thuộc. Đồng thời là muôn vàn những gian khổ, hi sinh, thử thách, khó khăn trên con đường cách mạng, kháng chiến. Cụm từ“ngày mai lên” chỉ một tương lai tươi sáng. Con đường ra trận trên chiến khu Việt Bắc là con đường đầy khó khăn gian khổ, hi sinh nhưng cũng chính là con đường đi tới ngày mai tươi sáng. - Nghệ thuật tương phản, đối lập càng bộc lộ rõ cảm hứng lãng mạn, thể hiện khát vọng và niềm tin cháy bỏng của nhân dân ta vào một ngày mai tất thắng. vẻ đẹp của đoàn xe cơ giới ra chiến trường và niềm tin chiến thắng ấy còn được thể hiện trong một bài thơ ra đời trong cuộc kháng chiến chống Mỹ là bài thơ \"Tiểu đội xe không kính\" của Phạm Tiến Duật: Không có kính, rồi xe không có đèn, Không có mui xe, thùng xe có xước, Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước: Chỉ cần trong xe có một trái tim. 6.7. Bốn câu thơ: Tin vui chiến thắng trăm miềm Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về Vui từ Ðồng Tháp, An Khê Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng. Tin vui chiến thắng Với khí thế chiến đấu và chiến thắng mạnh mẽ, với sức mạnh, ý chí to lớn nên cuối cùng ta đã chiến thắng. Tin vui thắng từ khắp các mặt trận dồn dập ùa về. Gọi tên các địa danh để nói đến chiến thắng trở thành một nét riêng của thơ Tố Hữu. Nghệ thuật liệt kê, trong đó mỗi địa danh được liệt kê ra là một chiến thắng. Vì vậy, gọi tên địa danh là thể hiện niềm tự hào dân tộc, niềm tự hào chiến thắng. (Mở rộng về cách sử dụng địa danh trong thơ: Xem ở trên) - Với các địa danh được liệt kê ở khắp mọi miền đất nước cùng với cách sử dụng ngôn ngữ như \"trăm miền\", cấu trúc \"...vui về...vui từ...vui lên...\" càng thể hiện rõ hơn chiến thắng vẻ vang của dân tộc. Chiến thăng liên tiếp báo về Việt Bắc cũng được Hồ Chí Minh khẳng định trong bài thơ Báo tiệp\": Trăng vào cửa sổ đòi thơ, Việc quân đang bận xin chờ hôm sau Chuông lầu chợt tỉnh giác thu 117
Ấy tin thắng trận liên khu báo về Tiểu kết: Âm hưởng chung của đoạn thơ là rất hùng tráng khi miêu tả cuộc ra quân vĩ đại của dân tộc. Có thể nói \"Việt Bắc\" là thơ trữ tình chính trị và đoạn thơ này mang đầy cảm hứng anh hùng ca, đậm màu sắc sử thi lãng mạn. Đoạn thơ là âm vang của cuộc kháng chiến thần thánh, là bản tổng kết bằng thơ về mười lăm năm chống Pháp nhưng vẫn nằm trong mạch cảm xúc về nỗi nhớ Việt Bắc, ân tình ân nghĩa của người cán bộ cách mạng miền xuôi với Việt Bắc và nhân dân việt Bắc. 7. Đoạn thơ: \" Ai về ai có nhớ không? ... Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào Việt Bắc là quê hương của cách mạng 7.1. Khái quát Đoạn thơ này tác giả lại chuyển sang giọng điệu thơ trang trọng, thiêng liêng để diễn tả nỗi nhớ của người về đối với Trung ương Chính phủ – Cụ Hồ. Và hình ảnh của Việt Bắc trong trí nhớ của người về là quê hương cách mạng, căn cứ địa kháng chiến, là niềm tin,hi vọng của cả dân tộc. 7.2. Hình ảnh Trung ương chính phủ ở Việt Bắc - Câu thơ \"Ai về ai có nhớ không?\": Đại từ phiếm chỉ “ai” được điệp lại hai lần trong câu thơ sáu tiếng như nốt luyến láy đầy vấn vương. “Ai” vừa là người đi cũng vừa là nhân dân Việt Bắc nên câu hỏi ấy như nỗi niềm băn khoăn, tha thiết của cả người đi và kẻ ở khi nhớ về những tháng ngày nơi thủ đô gió ngàn. - Khung cảnh Việt Bắc: Khi quyết định rời thủ đô Hà Nội, thực hiện kế hoạch vườn không nhà trống thì đồng thời cơ quan đầu não của TƯ của đảng và chính phủ kháng chiến cũng di chuyển lên chiến khu Việt Bắc nên mới có khung cảnh: Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang. Nắng trưa rực rỡ sao vàng Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công + Hình ảnh ngọn cờ đỏ sao vàng: Khi thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân cũng là lúc lá cờ đỏ sao vàng được lấy làm quốc kì của dân tộc ta. Lá cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay trên cửa hang lộng gió, phải chăng đó là hang PắcPó, nơi lãnh tụ HCM kính yêu của chúng ta sống và làm việc. Hình ảnh này không chỉ mang ý nghĩa tả thực mà nó còn mang ý nghĩa tượng trưng cho tinh thần, ý chí quyết tâm cao độ trong cuộc kháng chiến của quân và dân ta và niềm tin tất thắng vào cuộc kháng chiến của dân tộc. + Ánh nắng trưa rực rỡ: Khung cảnh Việt Bắc nơi chiến khu hiện lên rực sáng bởi sự xuất hiện ánh nắng chói chang của mặt trời. Hãy nhớ lại những tháng năm dân tộc ta phải đi qua “nghìn đêm thăm thẳm sương dày” mới hiểu hết giá trị của ánh nắng mặt trời khi chiếu rọi đến nơi đây. Phải chăng điều nhà thơ Tố Hữu muốn nói thật giản dị nơi nào có Đảng, có chính phủ nơi đó có ánh sáng mặt trời, có sự sống, có độc lập tự do. Đó là chân lí mà chàng thanh niên trẻ tuổi Nguyễn Kim Thành đã nhận ra từ tuổi đôi mươi. Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lí chói qua tim Khung cảnh nơi chiến khu hiện lên thật rực rỡ, làm tấm phông nền tươi sáng cho \"Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công\". Có lẽ không có hình ảnh nào tuyệt mĩ hơn ánh sáng lí 118
tưởng cách mạng đang tỏa khắp chiến khu, ngọn gió của tự do đang phần phật thổi trên lá cờ tổ quốc. Tất cả vì ngày mai chiến thắng. - Từ Việt Bắc phát động ra mọi phong trào thi đua, yêu nước trong cả nước: + Trên tiền tuyến: Ðiều quân cho chiến dịch thu đông. + Hậu phương: Trong khi tiền tuyến nổ súng thì cũng là lúc hậu phương phải tập trung cao độ cho sản xuất để hoàn thành vai trò tiếp viện cho chiến trường với các phong trào: phát động phong trào ở nông thôn như phong trào ba tốt, ba đảm đang, chị hai năm tấn, phong trào mở đường giao thông, giỡ đê, phòng hạn, thu mua lương thực, mở trường ở các khu... 7.3. Vai trò của Bác Hồ: Ở đâu u ám quân thù Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi Biện pháp nghệ thuật đối lập làm nổi bật vai trò của vị lãnh tụ kính yêu và tài ba của dân tộc. Bác chính là người soi đường dẫn lối cho kháng chiến. Bóng tối và sự u ám của quân thù không thể lấn át được ánh sáng tỏa rạng từ Cụ Hồ. Đó không chỉ đơn thuần là ánh sáng của vị lãnh tụ mà còn là linh hồn, trái tim của cuộc chiến đấu nuôi dưỡng niềm tin của cả dân tộc. 7.4. Vai trò của chiến khu cách mạng Ở đâu đau đớn giống nòi Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền. - Khi giống nòi dân tộc đang quằn quại, đau khổ dưới ách nô lệ lầm than, hãy hướng trái tim thì Việt Bắc chính là nơi hội tụ cội nguồn sức mạnh, là nơi đặt niềm tin và hi vọng của đồng bào cả nước. Cả nước hướng về Việt Bắc để nuôi ý chí chiến đấu quyết giành lại độc lập tự do cho đất nước. Mười lăm năm ấy ai quên Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hoà - Thời gian mười lăm năm được nhắc lại lần thứ hai trong đầy ắp ân tình và kỉ niệm. Và một sự khẳng định như lời thề son sắt \"Mười lăm năm ấy ai quên\". Hơn nữa, hai câu thơ còn là một khái quát về ý thức cội nguồn, lòng biết ơn quê hương cách mạng, đó là lẽ sống, lẽ làm người chân chính. Một Việt Bắc gian lao, bền bỉ, một Việt Bắc nghĩa tình và yêu nước – sẽ mãi còn là nỗi nhớ và tình cảm sắt son. Mười lăm năm trên chiến khu Việt Bắc đã khiến Việt Bắc trở thành quê hương, thành cái nôi của cách mạng, trở thành cội nguồn chiến thắng. 7.5. Hai câu thơ cuối: Mình về mình lại nhớ ta Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào. - Khúc hoàn ca: - Hai câu thơ là tiếng ân ca tha thiết của khúc hát giao duyên của ta và mình lại cất lên như lời thủy lời chung. Mình và ta lại quấn quýt giao hòa trong nỗi nhớ thương. Đây cũng chính là câu trả lời của người ra đi cho câu hỏi “Mình đi mình có nhớ mình” của người ở lại. Nghĩa là người về muốn nhắn nhủ với Việt Bắc là dù xa cách dù về thành thị xa xôi thì người các bộ kháng chiến năm xưa vẫn giữ gìn và phát huy phẩm chất tốt đẹp của người cán bộ cách mạng. - Một lần nữa những địa danh thiêng liêng như Tân Trào, Hồng Thái được nhắc lại tạo thành kết cấu vòng tròn để thể hiện tình cảm son sắt thủy chung của người đi kẻ ở rằng tình cảm với 15 năm trên chiến khu Việt Bắc mãi vẹn nguyên như thuở ban đầu. III. ĐÁNH GIÁ CHUNG 119
“Việt Bắc” là một kiệt tác của Tố Hữu mà cũng là kiệt tác của thơ ca cách mạng, thơ ca kháng chiến. Bài thơ thể hiện tài hoa nhiều mặt của nhà thơ Tố Hữu. Thể thơ lục bát được tác giả phô diễn những tình cảm, tư tưởng mới mà vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu phong phú cho bài thơ. Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo. Ngôn ngữ trong sáng, nhuần nhị, và có nhiều nét cách tân. Tiếng nói yêu thương – nét nổi bật trong phong cách thơ Tố Hữu – không có bài nào thấm thía hơn “Việt Bắc”. Bài thơ còn thể hiện tư tưởng mới mẻ với những dự báo sáng suốt được biểu hiện bằng hình ảnh phong phú và tấu lên băng âm nhạc làm say mê lòng người. Cảm ơn người con của xứ Huế đã để lại cho hậu thể một bản hùng ca về ân tình cách mạng trong lịch sử thơ ca dân tộc. LUYỆN ĐỀ Đề bài 1: Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc I. MỞ BÀI - Giới thiệu tác giả, tác phẩm - Tính dân tộc trong bài thơ II. THÂN BÀI 1. Giải thích khái niệm tính dân tộc - Tính dân tộc được hiểu là một đặc tính nhưng đồng thời cũng là thước đo giá trị của một tác phẩm văn họ, thể hiện sự gắn bó của văn học với văn hóa tinh thần dân tộc. Mỗi dân tộc trên thế giới đều có đời sống riêng, cách cảm thụ riêng, hệ giá trị riêng…do truyền thống văn hóa, tâm lí, phong tục tập quán và ngôn ngữ tạo thành sự biểu hiện tập trung của các phương diện ấy vào nội dung và hình thức tác phẩm, tạo thành tính dân tộc trong tác phẩm văn học. Những tác phẩm văn chương lớn từ trước cho đến naythường vừa mang tính nhân loại, vừa mang tính dân tộc sâu sắc. - Trong văn học, tính dân tộc được thể hiện ở cả nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Về nội dung, một tác phẩm mang tính dân tộc phải thể hiện được những vấn đề nóng bỏng liên quan đến vận mệnh dân tộc, thể hiện được khát vọng, tình cảm và ý chí của một dân tộc. Về hình thức, tác phẩm đó tiếp thu một cách sáng tạo tinh hoa văn hóa của dân tộc. Nếu hiểu như thế thì thơ Tố Hữu mang phong cách nghệ thuật “đậm đà bản sắc dân tộc”. 2. Tính dân tộc thể hiện qua nội dung 2.1. Đề tài giàu tính dân tộc: Cuộc chia tay lịch sử của những cán bộ cách mạng miền xuôi và các đồng bào dân tộc được tác giả ví như đôi bạn tình. (Hoàn cảnh ra đời – Đề tài chia li: Tham khảo bài phân tích) 2.2. Việt Bắc” đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên đậm đà tính dân tộc, mang bản sắc riêng của thiên nhiên đất nước Việt Nam: + Bức tranh thiên nhiên Việt Bắc đầy khắc nghiệt với mưa nguồn suối lũ trong những ngày đầu trên chiến khu Việt Bắc. 120
+ Bức tranh thiên nhiên Việt Bắc với những hình ảnh thiên nhiên thơ mộng: trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương, bản khói cùng sương, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê nin vơi đầy.. + Bức tranh thiên nhiên bốn mùa thơ mộng: Cảnh sắc mùa đông với sắc đỏ của những bông hoa chuối rừng, mùa xuân với sắc trắng bung nở của rừng hoa mơ, mùa hè được cảm nhận bằng cả màu sắc và âm thanh - màu vàng của rừng phách, của nắng hè và âm thanh của tiếng ve, mùa thu đẹp đẽ, êm đềm, mơ mộng với ánh trăng vàng - ánh trăng hòa bình đang chiếu rọi khắp núi rừng. 2.3. Bài thơ thể hiện đậm nét hình ảnh, con người Việt Nam, Tổ quốc Việt Nam trong thời đại cách mạng. + Những con người vất vả, lam lũ, chịu thương, chịu khó. + Những con người thủy chung, tình nghĩa, luôn đồng cam, cộng khổ cùng nhau của con người Việt Nam trong kháng chiến. + Tình nghĩa của cán bộ và đồng bào Việt Bắc với cách mạng và kháng chiến - đó cũng chính là mạch cảm xúc xuyên suốt toàn bộ bài thơ và cũng một phẩm chất truyền thống của dân tộc. => Tư tưởng và tình cảm cách mạng hòa nhập và tiếp nối với truyền thống tinh thần, tình cảm, đạo lí của dân tộc. 2.4. Tất cả hướng tình cảm về Lãnh tụ kính yêu và công ơn của Đảng. 3. Tính dân tộc thể hiện ở phương diện nghệ thuật 3.1. Tính dân tộc thể hiện ở thể thơ lục bát: Thể lục bát là thể thơ truyền thống của dân tộc với giọng thơ mềm mại, uyển chuyển, giàu tính nhạc, dễ đi vào lòng người: Nhớ gì như nhớ người yêu Trăng lên đầu núi năng chiều lưng nương Nhớ từng bản khói cùng sương Sớm khuya bếp lửa người thương đi về 2. Tính dân tộc thể hiện qua hình thức hát đối đáp trong ca dao trữ tình truyền thống: Trong ca dao đó thường là hát đối đáp giữa nam và nữ qua đó bộc lộ tình yêu quê hương đất nước con người. Ở đây, là lời đối đáp của những người cán bộ cách mạng về xuôi và người dân Việt Bắc. 3. Sử dụng lời ăn tiếng nói của nhân dân, giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, tha thiết: Thể hiện rõ ở ngôn từ cách xưng hô ta – mình: Đây là lối xưng hô mộc mạc, dân dã, thấm đượm nghĩa tình quân dân. Người Việt Bắc và người cán bộ cách mạng giống như một đôi bạn tình => Thể hiện cái hồn Huế đằm thắm và cốt cách, tâm hồn dân tộc. 4. Tính dân tộc mang đậm hồn ca dao và truyện Kiều, thể hiện qua so sánh ví von: + Ca dao: Người về ta chẳng cho về Ta nắm vạt áo ta đề bài thơ … Qua đình ngả nón trông đình Đình bao nhiêu ngói nhớ thương mình bấy nhiêu Trong VB Tố Hữu viết: 121
+ Truyện Kiều: Mình đi mình lại nhớ mình Tố Hữu viết: Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu Những là rày ước mai ao Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng 5. Tính dân tộc thể hiện qua ngôn ngữ thuần Việt, giản dị, dễ thuộc, dễ nhớ. Hình ảnh thơ gần gũi đời thường nhiều sức gợi. - Ngôn từ, vần điệu khiến bài thơ dễ đọc dễ nhớ và dễ đi vào lòng người. Hệ thống từ láy: tha thiết, bâng khuâng,.. tạo nhạc tính. - Các hình ảnh quen thuộc trong tâm thức người Việt như sông, núi, cồn, áo chàm, trám bùi, măng mai, bắp ngô… III. KẾT BÀI - Không có một nhà văn, nhà thơ đích thực nào lại từ bỏ đi quá khứ, từ bỏ truyền thông văn hóa của dân tộc vì từ bỏ văn hóa dân tộc cũng có nghĩa là từ bỏ nguồn sữa quy báu nuôi dưỡng hồn thơ mình. Như nhà thơ Hen-rich Hai-nơ đã có lần nói rất hay rằng, nếu nhà thơ xa rời hiện thực thì anh ta sẽ “lơ lửng trên không” tựa như Thần Ang-tê bị nhấc khỏi thần Mẹ Đất. Và cũng có thể nói về số phận nhà thơ như thế nếu từ bỏ truyền thống văn học quý báu của ông cha. - Trên con đường sáng tạo nghệ thuật thì người nghệ sĩ luôn luôn được ví von với hình ảnh con ong cần mẫn vậy. Tố Hữu cũng đã tiếp thu những tinh hoa nghệ thuật của dân tộc và việc tiếp thư truyền thống còn gắn liền với sự sáng tạo không mệt mỏi. Chế Lan Viên cho rằng, Tố Hữu đã khéo léo kết hợp được “cái hơi dân tộc” với “màu sắc hiện đại” để tạo nên sự kết tinh mới cho thơ ông. Và có thể nói tính dân tộc đã tạo lên một Tố Hữu thành công. => Việt Bắc thể hiện tính dân tộc đậm đà từ nội dung trữ tình tới nghệ thuật trữ tình. Vì thế, bài thơ dễ dàng tạo được tiếng nói đồng ý, đồng tình của người đọc. Đề số 2: Phong cách thơ Tố Hữu qua bài “Từ ấy” và “Việt Bắc” I. MỞ BÀI - Giới thiệu nhà thơ Tố Hữu cùng phong cách thơ rất đặc trưng của ông. - Vẻ đẹp trong phong cách cũng như ngôn ngữ thơ Tố Hữu được thể hiện điển hình qua hai tác phẩm Từ ấy và Việt Bắc. II. THÂN BÀI 1. Khái quát: 1.1. Khái niệm phong cách (Lí luận) 1.2. Những nét chính về nhà thơ Tố Hữu 122
- Tố Hữu sinh tại thị xã Hội An (tỉnh Quảng Nam) nhưng quê gốc của ông lại thuộc làng Phù Lai (nay thuộc xã Quảng Thọ), huyện Quảng Điền, tình Thừa Thiên – Huế. Mặc dù cuộc sống gia đình thuở ấu thơ của Tố Hữu phải trải qua những ngày tháng chật vật vì nỗi lo cơm áo nhưng điều đó không thể ngăn cách được Tố Hữu với niềm yêu thích thơ ca. - Một điều may mắn mà Tố Hữu có được chính là việc thân sinh của nhà thơ vốn là một nhà nho có kiến thức uyên thâm về thơ ca cổ điển. Nhờ vậy, Tố Hữu cũng đã ít nhiều học tập được cách làm thơ ngay từ nhỏ từ người cha đáng kính của mình. Không chỉ vậy, ông còn có một người mẹ có vốn hiểu biết rất sâu sắc với ca dao, dân ca xứ Huế, điều này giúp chúng ta có thể dẫ dàng hiểu được vì sao thơ ông lại thường có những dòng viết dạt dào cảm xúc đến như vậy. - Tố Hữu bước vào tuổi trưởng thành trong thời điểm Mặt trận Dân chủ đang diễn ra những phong trào sôi nổi. Là một trí thức nhận thức rất rõ về lí tưởng cao đẹp của cách mạng dân tộc. Tố Hữu đã nhanh chóng trở thành một người chiến sĩ và ít lâu sau đã đảm nhiệm nhiều vai trò lãnh đạo quan trọng. Chính vì sự kiên trì và sự chín chắn trong công tác, Tố Hữu đã có những đóng góp rất quan trọng và về sau ông liên tục giữ những cương vị trọng yếu trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. - Thành tựu trong trang đời Tố Hữu còn được viết bởi những đóng góp của ông trong lĩnh vực thơ ca. Đặc biệt, với sự nghiệp thơ cách mạng đồ sộ, ông đã được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996. 2. Phong cách thơ Tố Hữu qua bài Việt Bắc và Từ ấy 2.1. Thơ Tố Hữu mang khuynh hướng trữ tình và chính trị sâu sắc - Cái tôi trữ tình trong phong cách thơ Tố Hữu chính là cái tôi chiến sĩ, là cái tôi nhân danh đảng và nhân danh cộng động dân tộc. Thơ Tố Hữu thường không đi sâu vào cuộc sống hay những tình cảm riêng tư mà tập trung thể hiện những tình cảm lớn cũng như mang tính chất tiêu biểu, phổ biến của con người Cách mạng. Niềm vui trong thơ Tố Hữu thường không nhỏ bé tầm thường mà là niềm vui lớn, sôi nổi hay hân hoan, rực rỡ và tươi sáng, là những vần thơ chiến thắng. + Tố Hữu vốn là một chiến sĩ – thi sĩ nên thơ của ông chính là thơ của lí tưởng cộng sản và mang đậm khuynh hướng trữ tình chính trị. Trong suốt quãng đời sáng tác, ông luôn xác định chính lí tưởng cách mạng và quan điểm chính trị sẽ là ngọn đuốc soi đường dẫn lối cho cảm xúc để ông viết thành thơ. Chế Lan Viên cũng đã có một nhận định đúng đắn về Tố Hữu khi nhắc đến vấn đề này: Với Tố Hữu dù “tả tình hay tả cảnh, kể chuyện mình hay kể chuyện của người, viết về các vấn đề lớn hay về một sự việc nhỏ […] là để nói cho được cái lí tưởng cộng sản ấy thôi”. + Tố Hữu viết thơ nhưng thực chất những điều ông viết chẳng khác gì dòng nhật kí chân tình ông ghi lại những bước ngoặt quan trọng trong lịch sử của cuộc cách mạng dân tộc. Trong thơ ông, ta luôn cảm nhận được từng giai đoạn trong đời sống chính trị của đất nước. Minh chứng rõ nhất cho điều nói trên đây là những tập thơ giàu giá trị mà Tố Hữu để lại cho đời như: “Từ ấy” (1937-1946), “Việt Bắc” (1947-1954), hay “Gió lộng” (1955- 1961), “Ra trận” (1962-1972), “Máu và hoa” (1972-1977), Một tiếng đờn” (1992) và “Ta với ta” (1999). 123
+ Mặc dù viết về các chặng đường cách mạng nhưng phong cách thơ Tố Hữu không phải là những dòng viết phản ánh những con số, những sự kiện một cách khô cứng. Trong các sáng tác của nhà thơ, người đọc sẽ thấy được ở đó có sự biểu hiện của những tình cảm tốt đẹp của dân tộc. Đó là tình yêu dành cho lí tưởng cao đẹp của cách mạng dân tộc cất lên thành tiếng hát say mê, vui sướng: “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lí chói qua tim Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim” (Từ ấy) Là tình cảm cách mạng, nghĩa đồng bào gắn kết thân tình mà lúc chia xa cả người đi và kẻ ở đều xúc động, bịn rịn, quyến luyến. Kẻ ở ướm hỏi: “Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng Mình về mình có nhớ không Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn” Và tâm trạng người về đã nói lên hết tình cảm dành cho đồng bào ở lại: “Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong dạ bồn chồn Áo chàm đưa buổi phân li Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” (“Việt Bắc”) Đó là những tình cảm đẹp đẽ và quý giá mà những người chiến sĩ như Tố Hữu có được trong quá trình làm cách mạng của mình. 2.2. Phong cách thơ Tố Hữu gắn liền với khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn Cách mạng - Trong thơ Tố Hữu thường thấy những sự kiện chính trị của đất nước là đối tượng thường thể hiện chủ yếu, đồng thời cũng đề cập những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và mang tính chất toàn dân. Cảm hứng chủ đạo trong phong cách thơ Tố Hữu chính là cảm hứng lịch sử dân tộc, bên cạnh đó nổi bật là vấn đề vận mệnh cộng đồng. Thơ Tố Hữu thương có các nhân vật trữ tình mang tầm vóc lịch sử và thời đại. + Sự kiện chính trị của đất nước là đối tượng thường thể hiện chủ yếu, đồng thời cũng đề cập những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và mang tính chất toàn dân: Việt Bắc là bản tổng kết bằng thơ, là bản anh hùng ca về cuộc kháng chiến chống Pháp. Bài thơ ra đời nhân sự kiện lớn có tính lịch sử của thời đại, thể hiện tình cảm cách mạng sâu sắc giữa những người cán bộ cách mạng miền xuôi với người dân Việt Bắc và căn cứ địa cách mạng. Điểm nhìn thiên về khuynh hướng sử thi, trữ tình, chính trị trong bài thơ Việt Bắc được thể hiện qua đề tài, chủ đề của bài thơ khi tái hiện thành công một giai đoạn lịch sử đầy gian khổ nhưng vẻ vang của cách mạng và kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc nay đã trở thành kỉ niệm sâu nặng trong lòng người. Sự gắn bó giữa miền ngược và miền xuôi trong một viễn cảnh hòa bình tươi sáng của đất nước và kết thúc bằng lời ca ngợi công ơn của chủ 124
tịch Hồ Chí Minh, của Đảng đối với dân tộc. Nói cách khác, các sự kiện, các vấn đề của đời sống cách mạng, lí tưởng và chính trị trong “mười lăm năm ấy” qua trái tim nhạy cảm của nhà thơ đều trở thành cảm hứng thực sự. + Chính điểm nhìn nghệ thuật mang tính sử thi của nhà thơ đã nâng các nhân vật trữ tình trong bài thơ thành những con người nhân danh cộng đồng, nhân danh Đảng và dân tộc mà tiêu biểu là hình ảnh Bác Hồ: “nhớ ông cụ mắt sáng ngời, áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường, nhớ người những sáng tinh sương, ung dung yên ngựa trên đường suối reo, nhớ chân người bước trên đèo, người đi rừng núi trông theo bóng người”. Ngoài ra, một hình ảnh thường thấy trong thơ Tố Hữu là hình ảnh người chiến sĩ cách mạng có lý tưởng cao đẹp, sẵn sàng chiên đấu hi sinh vì độc lập tự do của tổ quốc, vì những người dân nghèo khổ bị áp bức: Tôi đã là con của vạn nhà Là em của vạn kiếp phôi pha Là anh của vạn đầu em nhỏ Không áo cơm cù bất cù bơ - Cảm hứng lãng mạn đậm nét trong thơ Tố Hữu khi thể hiện niềm vui phơi phới và tinh thần lạc quan cách mạng: Nhớ sao lớp học i tờ Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan Nhớ sao ngày tháng cơ quan Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo Hoặc: Nghìn đêm thăm thẳm xương dày Đèn pha bật sáng như ngày mai lên 2.3. Phong cách thơ Tố Hữu có giọng điệu ngọt ngào và tâm tình đầy mến thương. - Bên cạnh điểm nhìn nghệ thuật mang tính sử thi- cách mạng, phong cách nhà thơ Tố Hữu trong bài thơ Việt Bắc còn được biểu hiện ở một giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, tha thiết. Không khó để lí giả điều này bởi bản thân Tố Hữu có sự thừa hưởng từ những làn điệu tâm hồn của con người nơi xứ Huế mộng mơ. + Phong cách thơ Tố Hữu thường sử dụng những cách xưng hô bình dị của đời sống thường nhật nhưng lại tạo cảm giác thân thương, gần gũi vô ngần. Người đọc đến với thơ Tố Hữu vì vậy mà như đến để được nghe trò chuyện, giãi bày tâm tư. Tìm đến đọc thơ ông, người đọc sẽ lắm lần nghe ông gọi đối tượng trò chuyện bằng những tiếng gọi rất tha thiết, tự nhiên như: “Bạn đời ơi”, hay “Anh vệ quốc quân ơi”, “Anh chị em ơi”, và “Đất nước ta ơi”, “Hương giang ơi”… Điển hình như: “Giọt giọt mồ hôi rơi Trên má anh vàng nghệ Anh vệ quốc quân ơi Sao mà yêu anh thế!” (Cá nước) “Việt Nam đất nước ta ơi! 125
Mênh mông biển lúa đâu trười đẹp hơn Cánh cò bay lả rập rờn Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều” (Việt Nam quê hương ta) Trong “Từ ấy” là cách xưng hô “anh”, “em”, “con” và trong “Việt Bắc” là cách xưng hô mình – ta thân mật gần gũi: “Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng. Mình về mình có nhớ không”. Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn? + Tố Hữu kế thừa giọng điệu trữ tình ngọt ngào của ca dao: Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi” Hoặc: Ta với mình mình với ta Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh Mình đi mình lại nhớ mình Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu + Nét phong cách này còn được thể hiện qua việc sử dụng từ ngữ tình cảm, gây thương nhớ khi tái hiện những kỉ niệm trong “mười mấy năm ấy” gian khổ mà nghĩa tình: “Ta đi ta nhớ những ngày Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi Thương nhau chia củ sắn lùi Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng…” + Phong cách thơ trữ tình ngọt ngào của Tố Hữu còn ảnh hưởng bởi quan niệm thơ là chuyện đồng điệu, đồng thời cũng là tiếng nói đồng ý, đồng chí, đồng tình. Với bạn đọc, nhà thơ luôn quan niệm “Thơ là chuyện đồng điệu”. Phải chăng trong những tác phẩm của mình, nhà thơ luôn mong muốn độc giả có thể cảm được tấm chân tình của nhà thơ mà đặc biệt là những tình cảm mà ông dành cho cách mạng, cho sự nghiệp cứu nước, bởi thế, nên nhà thơ cũng xác định “Thơ là tiếng nói đồng ý và đồng tình, tiếng nói đồng chí”. Do vậy, khi phân tích phong cách thơ Tố Hữu, ta thấy tác giả đã sử dụng giọng điệu tâm tình, tha thiết nhà thơ cũng muốn thể hiện thật tự nhiên và chân thành những rung động của ông với tình nghĩa cách mạng và ân nghĩa đồng bào. 2.4. Thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc - Nội dung: + Tính dân tộc thể hiện qua đề tài, chủ đề: cuộc chia tay lịch sử và hình ảnh thiên nhiên, con người Việt Nam. + Phong cách thơ Tố Hữu cũng tiếp nối tinh thần, tình cảm, đạo lí dân tộc. - Nghệ thuật: Phong cách thơ Tố Hữu luôn thấm đượm tính dân tộc đậm đà, đặc biệt là trong cách ông sử dụng hình thức, từ ngữ dân gian để truyền tải tư tưởng, quan niệm của 126
mình. Tố Hữu đã sử dụng thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc, vốn là một hình thức rất hiệu quả để thể hiện những cảm xúc dạt dào, tự nhiên nhất. + Tố Hữu sử dụng thành công thể thơ truyền thống như thơ lục bát thơ thất ngôn. + Thơ ông cũng sử dụng từ ngữ, lời nói quen thuộc hay những ước lệ so sánh ví von truyền thống: Nhớ gì như nhớ người yêu Trăng lên đỉnh núi, nắng chiều lưng nương” Cách chuyển nghĩa và cách diễn đạt quen thuộc với tâm hồn người Việt: Áo chàm đưa buổi phân li Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay… + Thơ Tố Hữu giàu tính nhạc, ông có tài dùng từ lái, phối thanh. Thơ Tố Hữu có cách tạo nhạc điệu độc đáo: Đề cao và vận dụng tối đa tính nhạc phong phú trong tiếng Việt. Đặc biệt, phong cách thơ Tố Hữu sử dụng từ láy cùng với cách ngắt nhịp, phối thanh và phối vần. Nhà thơ đã tạo tính nhạc bên trong chiều sâu tâm hồn con người (đặc biệt những người chiến sĩ). III. KẾT LUẬN Có thể thấy, phong cách thơ Tố Hữu rất riêng biệt và độc đáo. Thơ chính là người, và thơ Tố Hữu không chỉ phản ánh tư tưởng cái tâm và cái tài của ông, mà những vần thơ ấy còn tái hiện rõ nét quá trình lịch sử và cách mạng của dân tộc. SÓNG - Xuân Quỳnh - I. MỞ BÀI Đại văn hào Mác-két đã từng nói rất hay về tình yêu: “Con bướm phải mất 180 triệu năm mới cất cánh bay lên được. Con người phải mất bằng ấy năm mới biết khóc, biết cười và biết chết cho tình yêu”. Tình yêu là món quà vô giá mà tạo hóa ban tặng cho loài người. Đó cũng là nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn đối với các văn nghệ sĩ. Nói đến thơ tình Việt Nam hiện đại, người đọc không thể không nhắc đến nữ hoàng tình yêu Xuân Quỳnh. Xuân Quỳnh là một trong số nhà thơ tiêu biểu nhất thuộc thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn vừa chân thành đằm thắm nhưng cũng đầy lo âu và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường. Bài thơ \"Sóng\" được Xuân Quỳnh sáng tác vào năm 1967, trong chuyến đi thực tế đến vùng biển Diêm Điền, Thái Bình. Sau đó, bài thơ được đưa vào tập thơ \"Hoa dọc chiến hào\" in 1968. Bài thơ là kết tinh sở trường thơ Xuân Quỳnh và đặc biệt thành công trong việc sáng tạo hai hình tượng nghệ thuật đặc sắc là sóng và em. Qua hai hình tượng này, nữ thi sĩ đã diễn tả được những cảm xúc phong phú, sôi nổi của một trái tim phụ nữ đang rạo rực và khát khao yêu thương. Bài thơ được xem như một bông hoa lạ giữa vườn thơ chống Mỹ. II. THÂN BÀI 1. Khái quát 127
- Đề tài: Tình yêu là đề tài muôn thuở của thơ ca. Đã là thi sĩ thì ít có ai lại không muốn mượn thơ để gửi gắm vào đó khát vọng tình yêu. Bởi vậy mà các thi sĩ đã tạo ra cả một khu vườn thơ tình yêu lung linh đầy sắc màu. Trong vườn thơ ấy, mỗi nhà thơ lại đem đến một sắc màu riêng lại cảm nhận và thể hiện tình yêu theo một cách riêng. Nếu Xuân Diệu thể hiện một tình yêu say đắm, cuồng nhiệt, vồ vập, ham hố và đầy nam tính: Như hôn mãi ngàn năm không thỏa Bởi yêu bò lắm lắm em ơi Tình yêu trong thơ Chế Lan Viên rực rỡ đầy sắc màu: Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng Như xuân đến chim rừng lông trở biếc Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương Tình yêu trong thơ Hàn Mặc Tử lại là sắc trắng mong manh của một mối tình đơn phương chưa ngỏ... thì trong bài thơ \"Sóng\", nữ thi sĩ Xuân Quỳnh đã đem đến cho vườn thơ tình yêu một sắc màu mới. Đó là tình yêu của người phụ nữ rất nữ tính,sôi nổi, say đắm, chân thành và đầy da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường. tro-nHgìnnhhữtưngợnhgìnthhơt:ượXnguyẩênndsụu,ốnt ótrloànsgựbhàóiathtơhâlnà hai hcìánihtôtưi ợtrnữgtìsnóhngcủvaàXemuâ.nSQónugỳ”nhlà. một của “Sóng” và “em”, vừa hòa hợp là một, lại vừa phân đôi để soi chiếu, cộng hưởng để diễn tả một cách sâu sắc hơn, thấm thía hơn tình yêu trong trái tim của người phụ nữ. Tâm hồn người phụ nữ đang yêu soi vào sóng để thấy rõ lòng mình, nhờ sóng để biểu hiện những trạng thái của lòng mình. Với hình tượng sóng, có thể nói Xuân Quỳnh đã tìm được một cách thể hiện thật tinh tế tâm trạng của người phụ nữ trong tình yêu. 2. Đoạn thơ: Dữ dội và dịu êm ...Bồi hồi trong ngực trẻ 2.1. Khổ thơ thứ nhất: Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể Những cung bậc khác nhau của con sóng và tâm hồn người phụ nữ đang yêu - Ngay từ những những câu thơ đầu tiên của bài thơ, người đọc đã có thể cảm nhận được âm điệu và sắc điệu chung của cả bài. Đó là âm điệu của những con sóng ngoài biển cả dạt dào, trùng điệp, vô hồi, vô hồi vô hạn, miên man xô bờ. Sắc điệu chung là sắc điệu trữ tình sâu lắng khi nhà thơ mượn hình ảnh con sóng để nói đến những cung bậc tình yêu trong trái tim của người phụ nữ. - Trong hai câu thơ đầu, nghệ thuật đối lập đã được sử dụng một cách rất tinh tế. Các cặp từ đối lập: dữ dội - dịu êm, ồn ào - lặng lẽ đã miêu tả trạng thái phức tạp của con sóng ngoài đại dương. Con sóng có lúc êm ái, lắng dịu nhưng cũng có lúc trào dâng mãnh liệt, thậm chí có lúc nó dữ dội đến mức có thể nhấn chìm tất cả. Thông qua hình ảnh con sóng, nhà thơ Xuân Quỳnh muốn nói đến trạng thái tâm hồn của người phụ nữ đang yêu. Mỗi biểu hiện của con sóng đều tương hợp với trạng thái tâm hồn của người con gái. Nhịp thơ 2/3 cộng hưởng với sự hô ứng của thanh điệu ở những cặp từ vế câu, kiểu đối lập song 128
hành đã thể hiện đối cực của sóng biển cũng như nhịp đập bất thường trong trái tim của người con gái đang yêu. Cách miêu tả những trạng thái đối nghịch, bất thường của con sóng trước hết gợi liên tưởng về trạng thái tâm lí đầy bí ẩn, nhiều khi đầy đối cực trong tâm hồn người phụ nữ. Trạng thái tâm lí ấy cũng từng được miêu tả trong ca dao xưa: Đưa tay ngắt một cọng ngò Thương anh đứt ruột giả đò ngó lơ Tâm tính người con gái khi yêu luôn là như thế, luôn mâu thuẫn, thậm chí đối lập trong lời nói và hành động như người con gái trong đoạn thơ sau đây: Em bảo anh đi đi Sao anh không đứng lại? Em bảo anh đừng đợi Sao anh vội về ngay? Lời nói gió thoảng bay Đôi mắt huyền đẫm lệ Sao mà anh ngốc thế Không nhìn vào mắt em Sóng từ cực này sang cực khác cũng giống như tâm tình của người phụ nữ đang yêu lúc mạnh mẽ, lúc yếu đuối, lúc sôi nổi, lúc bình lặng, suy tư và có lúc không thể đứng yên mà luôn dào dạt, nhiều khi lại vô cớ: Có những đêm vô cớ Biển ào ạt xô thuyền Ôi tình yêu muôn thuở Có bao giờ đứng yên ( Thuyền và biển của Xuân Quỳnh ) Điểm gặp gỡ đồng điệu kì lạ ấy giữa sóng và nhân vật em cho thấy sóng là ẩn dụ của em, của khát vọng tình yêu cháy bỏng. - Ngoài ra, trong hai câu thơ đầu này, thi sĩ Xuân Quỳnh đã thể hiện những cảm nhận rất sâu sắc và tinh tế về tình yêu của người phụ nữ. Nữ thi sĩ nhận ra rằng, dù tâm hồn người phụ nữ đang yêu có đầy phức tạp, dẫu ồn ào, dữ dội đến đâu thì cái căn cốt nhất, cái bản chất nhất, cái có chiều sâu nhất trong tình yêu của người phụ nữ vẫn là sự dịu dàng, nữ tính. Điều đó có thể được cảm nhận rõ qua cách lựa chọn và sắp xếp ngôn từ. Các từ ngữ \"lặng lẽ\", \"dịu êm\" được đặt ở cuối các câu thơ cho thấy sau những \"dữ dội\", \"ồn ào\" vẻ đẹp tình yêu dồn lại, đổ về phía cuối các câu thơ, lắng lại trong \"dịu êm\" và \"lặng lẽ\". - Hai câu thơ sau của khổ thơ nói về hành trình của con sóng đi từ sông ra bể. Sông và bể là hai khái niệm và hai giới hạn khác nhau, mà trong đó sông là cái gì đó rất giới hạn và chật hẹp. Ngược lại, biển là cái gì đó mênh mông, rộng lớn bát ngát tưởng đến vô cùng, vô tận. Khoảng cách từ sông ra bể không chỉ là khoảng cách chiều dài từ đầu câu thơ trước đến cuối câu thơ sau mà còn là một cuộc hành trình đầy gian nan và thử thách. Từ “tận” mang sắc thái biểu trưng cho những xa xôi, khó khăn ấy. Con sóng phải vượt qua một hành 129
trình đầy xa xôi, cách trở để tìm thấy và khẳng định giá trị đích thực của nó và nó đã sẵn sàng dấn thân vào một cuộc hành trình không đơn giản để tìm thấy chính mình. Phải ra đến bể rộng con sóng mới thực sự tìm thấy mình, nhận thức được sức mạnh, khát khao của mình và sống đến tận cùng từng nhịp đập của một trái tim yêu. Người con gái đang yêu cũng giống như con sóng, cũng sẵn sàng dấn thân vào cuộc hành trình đầy gian nan để từ bỏ giới hạn chật hẹp tìm đến cái bao dung, đồng cảm và đồng điệu. Nếu \"Sông không hiểu nổi mình - Sóng tìm ra tận bể\", dứt khoát từ bỏ cái giới hạn, nhỏ bé để tìm đến tình yêu và hạnh phúc đích thực. Nhịp thơ của hai câu thơ này so với hai câu thơ trước có sự biến đổi, từ nhịp thơ 2/3 chuyển sang nhịp thơ 1/2/2 để góp phần nhấn mạnh và tô đậm trạng thái phức tạp của con sóng và tình yêu. - Trong khổ thơ này, Xuân Quỳnh còn thể hiện một quan niệm mới mẻ, táo bạo về tình yêu của người phụ nữ. Người phụ nữ Việt Nam xưa nay luôn bị lệ thuộc, nhất là trong tình yêu và hôn nhân. Điều đó xuất phát từ quan niệm trọng nam khinh nữ từ thời phong kiến mà tư tưởng đó ngày nay ở nước ta vẫn còn khá nặng nề. Nhưng ở đây, người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh đã không còn cam chịu, thụ động, chấp nhận mà chủ động dứt khoát tìm đến với hạnh phúc và tình yêu. Không chấp nhận ngủ yên trong dòng sông lạnh chật hẹp, không cam chịu, nhẫn nhịn bao cay đắng, tủi nhục theo kiểu: \"Một duyên hai nợ âu đánh phận\", \"Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn\" hay \"Thiếp như cái chổi đầu hè – Phòng khi mưa nắng đi về chùi chân\". Người con gái trong thơ Xuân Quỳnh mạnh mẽ, quyết liệt vươn đến biển tình yêu mênh mông, đến bến bờ hạnh phúc viên mãn. Có lẽ, sau Hồ Xuân Hương đây là lần đầu tiên trong văn học Việt Nam có một người phụ nữ mạnh bạo, chủ động, tự tin bày tỏ, phơi trải lòng mình một cách mãnh liệt đến như vậy. 2.2. Khổ thơ thứ 2: Ôi con sóng ngày xưa Và ngày sau vẫn thế Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ Sự tương hợp giữa con sóng và tình yêu Sóng không chỉ mang vẻ đẹp đầy nữ tính mà còn ẩn chứa những khát vọng lớn lao trong trái tim của người phụ nữ. Qua hình ảnh con sóng, khát vọng tình yêu của nữ thi sĩ thể hiện rất nhẹ nhàng, thấm thía. Thán từ \"Ôi!\" được cất lên đầy cảm xúc khi nhà thơ nhận ra sự tương hợpgiữa những con sóng và tình yêu, cảm nhận được sức sống kỳ diệu của những con sóng ngoài biển cả và tình yêu của con người. Con sóng mãi mãi vỗ ngoài biển khơi và vĩnh viễn hướng vào bờ. Nó tồn tại vĩnh hằng, vĩnh cửu với thời gian và theo như Xuân Quỳnh quan sát chiêm nghiệm thì từ ngày xưa nó đã thế, bây giờ và mãi mãi sau này vẫn thế. Tình yêu của con người cũng giống như con sóng vĩnh hằng vĩnh cửu với thời gian. Xuân Diệu - ông hoàng của thơ tình yêu đã từng nói: Làm sao sống được mà không yêu Không nhớ không thương một kẻ nào 130
Con người không thể sống mà không yêu, khao khát tình yêu đã trở thành quy luật trong tình cảm của con người. Từ xa xưa con người đã đến với tình yêu và còn mãi đến với tình yêu cuối bao khát vọng bồi hồi, xôn xao, rạo rực. Cách sử dụng từ ngữ \"ngày xưa\", \"ngày sau\" cũng góp phần nhấn mạnh nhận thức về sự vĩnh hằng, vĩnh cửu của con sóng và tình yêu. Và tình yêu đặc biệt bồi hồi thiết tha say đắm trong trái tim của những người còn trẻ. Xuân Quỳnh ở đây muốn khẳng định, tình yêu luôn song hành với tuổi trẻ. Tuổi trẻ không thể thiếu tình yêu vì nếu thiếu tình yêu thì tuổi trẻ cũng như cuộc đời con người sẽ không còn còn nhiều ý nghĩa. Từ \"bồi hồi\" đã thể hiện rõ khát vọng tình yêu trong trái tim tuổi trẻ. Cũng từ \"bồi hồi\" ấy, ca dao đã sử dụng để nói đến nỗi nhớ trong tình yêu: Nhớ ai bổi hổi bồi hồi Như đứng đống lửa như ngồi đống than Tình yêu luôn làm trái tim trẻ thổn thức bồi hồi những khát khao gặp gỡ: Những ngày không gặp nhau Biển bạc đầu thương nhớ Những ngày không gặp nhau Lòng thuyền đau rạn vỡ Có yêu nhau mới thấy cồn cào của nỗi nhớ, mới khát khao những ngày gặp mặt, mới hiểu thế nào là \"bồi hồi trong ngực trẻ\". Ở đoạn thơ này ta bắt gặp một tình yêu khỏe khoắn hồn nhiên trẻ trung của tuổi trẻ đang căng đầy sức sống. Tình yêu ở đây không non nớt, nông nổi, không bi lụy thê lương như thơ Xuân Diệu. Xuân Diệu đắm say đấy, cuồng nhiệt đấy, vồ vập đấy nhưng ngay sau đó lại là cảm giác dại khờ, lại là \"yêu là chết trong lòng một ít\". Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh ở đây cũng say đắm mãnh liệt nhưng hơn nữa là tình yêu của một con người dám sống, dám yêu và tình yêu của chị luôn chứa chan ngọn lửa nhiệt thành. Tiểu kết: Bằng thể thơ ngũ ngôn và hai hình tượng sóng và em song hành, nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa, đối lập cùng với nhịp thơ tiến hóa đã tạo nên âm điệu của những con sóng ngoài biển cả, cách lựa chọn và sắp xếp ngôn từ sáng tạo... Từ những con sóng biển để thể hiện nhịp sóng lòng trong trái tim của người phụ nữ với nhiều cung bậc tình cảm, cảm xúc khác nhau. Có thể nói với \"Sóng\", Xuân Quỳnh đã cống hiến cho đời những vần thơ hay về tình yêu để biết bao thế hệ bạn đọc say mê, yêu quý. 3. Đoạn thơ: Trước muôn trùng sóng bể ...Khi nào ta yêu nhau 3.1. Khái quát - Nếu như đoạn thơ trước thể hiện nhiều cung bậc khác nhau trong tâm hồn người phụ nữ đáng yêu và cho thấy cái căn cốt, cái bản chất nhất trong tình yêu của người phụ nữ là sự dịu dàng, sâu lắng, đầy nữ tính thì đoạn thơ này nữ thi sĩ khát khao muốn được muốn lý giải con sóng và lí giải cội nguồn của tình yêu. 3.2. Lí giải cội nguồn của con sóng - Những câu thơ này được viết ra khi con sóng đã vươn ra biển lớn để tìm thấy chính mình. “Giữa muôn trùng sóng bể” – con sóng ấy đã phá vỡ được giới hạn của mình để đi 131
tới đích tìm kiếm tình yêu chân chính. Trong câu thơ \"Trước muôn trùng sóng bể\" thì từ \"Muôn trùng” gợi mở không gian rộng lớn bao la. Biển vốn đã mênh mông nhưng giờ lại càng rộng lớn hơn gấp bội trong cách kết hợp “muôn tùng sóng bể”. Dường như chỉ có không gian rộng lớn mênh mông ấy, sóng mới có thể thỏa sức vẫy vùng. Trong không gian ấy, người phụ nữ đang yêu mới có thể là chính mình, sống thật với những suy nghĩ cảm xúc của mình. - Đứng trước biển cả mênh mông nhìn những con sóng trùng trùng điệp điệp miên man xô bờ, nữ thi sĩ bất chợt muốn lý giải cội nguồn của con sóng \"Từ nơi nào sóng lên?\". Các câu hỏi tu từ liên tiếp đã thể hiện khao khát, mong muốn được khám phá về hiện tượng \"sóng\" trong tự nhiên và khám phá về tình yêu trong trái tim con người. Nữ thi sĩ đã tự lí giải \"Sóng bắt đầu từ gió\". Vì có gió nên mới sinh ra sóng nhưng nếu như vậy thì chưa thể đi đến cội nguồn con sóng nên câu hỏi tiếp theo được đặt ra là \"Gió bắt đầu từ đâu?\". Bằng kiến thức khoa học nữ thi sĩ hoàn toàn có thể lí giải được rằng gió được sinh ra do di chuyển của không khí vì sự chênh lệch áp suất giữa các vùng. Vậy sự không khí di chuyển vì đâu?... thực sự không thể đi đến tận cùng để giải thích để hiểu rõ ngọn nguồn của con sóng. 3.3. Lý giải tình yêu Nói về sóng nhưng thực chất là nói về tình cảm của em dành cho anh. Bởi vậy, trước biển cả mênh mông, nữ thi sĩ không chỉ muốn lí giải con sóng, tìm đến ngọn nguồn của nó mà còn thể hiện sự băn khoăn muốn đi được hiểu rõ về tình yêu của mình. Đây là một tâm lý phổ biến của con người, bởi khi yêu người ta thường có tâm lí muốn được hiểu rõ về tình yêu của mình. Người ta thường đặt ra những câu hỏi như \"Ta yêu nhau từ khi nào?\", \"Yêu nhau là bởi lẽ gì?\"... Có biết bao người đã cố gắng tìm cách để lý giải tình yêu và đã có bao nhiêu câu trả lời khác nhau. Xuân Diệu là ông hoàng của thơ tình yêu cũng đã từng thử định nghĩa về tình yêu: Làm sao cắt nghĩa được tình yêu Có nghĩa gì đâu một buổi chiều Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu Tình yêu là một trạng thái tinh thần đầy thần bí ẩn và có lẽ mãi mãi con người không lý giải cho cặn kẽ hết được. Bởi vì, ngay cả Xuân Diệu yêu say đắm, nồng nàn, tha thiết, đến thế nhưng đã bao nhiêu lần ông bỗng nhận ra yêu là chết trong lòng một ít, càng yêu càng thấy dại khờ, càng thấy tình yêu như \"nước đổ lá khoai\": Yêu là chết ở trong lòng một ít Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu Cho rất nhiều song nhận chẳng bao nhiêu Tình yêu bí ẩn đến thế nên càng yêu nhiều bao nhiêu người ta lại càng khao khát muốn thấu hiểu bấy nhiêu. Vì yêu mà con sóng đã phải đi muôn trùng vạn dặm để tìm ra cội nguồn, cũng như vì yêu anh mà em đã trăn trở, băn khoăn nhiều lắm để tìm kiếm nơi khởi nguồn của tình yêu chân chính. Sóng hay gió bắt nguồn từ nơi nào chẳng ai biết, cũng 132
như tình yêu sinh ra vốn dĩ không có điểm đầu và điểm cuối, không có giới hạn và không dễ gì tìm kiếm câu trả lời. Điệp ngữ “Em nghĩ về” kết hợp với điệp cấu trúc câu thể hiện niềm khát khao tìm kiếm thật sự, ước ao cháy bỏng được lí giải cặn kẽ nơi khởi sinh của con sóng và tình yêu. Nhưng dẫu có khát khao đến mấy thì nữ thi sĩ vẫn nhận ngay ra rằng mình hoàn toàn bất lực trong việc lí giải con sóng và tình yêu. Nhà thơ bỗng nhận ra tình yêu của con người cũng giống như sóng biển gió trời không thể đi đến tận cùng để giải thích. Và có lẽ, trong tình yêu, nếu có thể đi đến tận cùng để giải thích, để hiểu hết thì lúc đó tình yêu đã tan biến. Đoạn thơ như vậy đã thể hiện trạng thái tâm lý của người con gái trong tình yêu. Đó là cảm giác ngỡ ngàng, ngạc nhiên trước một tình cảm mới lạ không rõ từ đâu mà nó lại chiếm lĩnh tâm hồn mình từ lúc nào. Thi sĩ Xuân Quỳnh đã không giấu giếm mà thể hiện nó một cách thành thật hồn nhiên, đầy nữ tính. Sự hồn nhiên, nữ tính ấy được thể hiện rõ qua cái lắc đầu thành thật: Em cũng không biết nữa Khi nào ta yêu nhau. Tiểu kết: Bằng thể thơ 5 chữ, nhịp thơ linh hoạt biến hóa, hai hình tượng sóng và em song hành, các biện pháp tu từ như: câu hỏi tu từ, điệp từ, điệp ngữ... đoạn thơ đã thể hiện khao khát trong tình yêu trong trái tim người phụ nữ một cách chân thật, hồn nhiên. Sự gặp gỡ giữa tâm trạng riêng của người phụ nữ trong tình yêu với tâm trạng phổ quát của toàn nhân loại đã làm đoạn thơ giàu tính nhân văn. Đọc đoạn thơ, người đọc có thể cảm nhận được một vẻ đẹp rất lung linh nhưng cũng đầy bí ẩn của tình yêu. Một nhà phê bình Pháp từng khẳng định: “Thơ, tự truyện của khát vọng”. Câu nói ấy rất đúng với Xuân Quỳnh. Thơ ca, với chị là sự sống, là tình yêu, làm thơ là được sống với chính mình, sống đầy đủ và trọn vẹn là mình. Đọc thơ Xuân Quỳnh, ta cũng cảm nhận được tình yêu và nghe được khát vọng trong mình. Đó là lý do vượt qua sự băng hoại thời gian, thơ ca đã, vẫn và sẽ sống cùng ta đến ngày tận thế. 4. Đoạn thơ: Con sóng dưới lòng sâu ... Hướng về anh một phương 4.1. Khái quát Ở đoạn thơ trước nhà thơ Xuân Quỳnh đã thể hiện khát vọng, mong muốn được lý giải tình yêu nhưng bất lực thì đến đoạn thơ này dù không thể lý giải tình yêu, thừa nhận tình yêu bí ẩn khó nắm bắt như sóng biển gió trời nhưng nhà thơ đã phát hiện ra rằng tình yêu luôn đi liền với nỗi nhớ. Từ đó thể hiện một nỗi nhớ da diết của một tình yêu mãnh liệt sâu sắc. 4.2. Khổ thơ thứ 5: Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được Lòng em nhớ đến anh 133
Cả trong mơ còn thức Nỗi nhớ trong tình yêu - Khái quát về sáu câu thơ: Tình yêu là một trạng thái tình cảm, cảm xúc đầy bí ẩn không thể lý giải, không thể hiểu hết nhưng có một điều chắc chắn là tình yêu luôn đi liền với nỗi nhớ. Yêu là nhớ và nhớ là yêu, yêu càng nhiều thì nhớ cả da diết. Từ thuở xa xưa con người đã đến với tình yêu và đã phát hiện ra tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ. Chẳng thế mà ca dao xưa đã có rất nhiều câu nói về nỗi nhớ trong tình yêu. Có khi là nỗi nhớ như có lửa đốt ở trong lòng: Nhớ ai bổi hổi bồi hồi Như đứng đống lửa như ngồi đống than Có khi là nỗi nhớ đến ngẩn ngơ, ngơ ngẩn, không thể kìm nén mà hóa thành dòng nước mắt đầm đầm: Nhớ ai em những khóc thầm Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa Nhà thơ Xuân Diệu cũng nói đến nỗi nhớ trong tình yêu một cách mãnh liệt, cháy bỏng: Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh Anh nhớ em anh nhớ lắm em ơi! Nếu Xuân Diệu yêu là nhớ tất cả những gì thuộc về người ấy, nhớ lắm nhưng không thể nói thành lời thì nhà thơ Chế Lan Viên lại khẳng định nỗi nhớ trong tình yêu có tính tất yếu, dĩ nhiên như một quy luật, khăng khít như đông với rét: Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét Còn nhà thơ Xuân Quỳnh ở đây đã thể hiện một nỗi nhớ cồn cào da diết mãnh liệt biểu hiện rõ qua việc tổ chức ngôn từ và sử dụng các biện pháp tu từ. Toàn bộ bài thơ gồm 9 khổ thơ, mỗi khổ thơ có 4 câu thơ, riêng khổ thơ thứ 5 có tới 6 câu thơ. Sự phá vỡ quy tắc thơ ở đây cũng như ngầm ám chỉ tình yêu vốn dĩ là sự phá cách và không có giới hạn như thế, trái tim khi yêu thì có thể phá vỡ mọi rào cản và nỗi nhớ thì cũng không bao giờ thôi sục sôi. Hơn nữa, nếu chia bài thơ làm 3 phần: phần một gồm 4 khổ đầu, phần hai là khổ 5, phần ba gồm 4 khổ thơ còn lại thì có thể liên tưởng phần 1 +3 là chân của con sóng, còn khổ thơ thứ 5 này như một cột sóng lên cao nhất. Khổ thơ này chính là đỉnh điểm của con sóng, thể hiện cảm xúc thăng hoa và cao trào nhất, diễn tả nỗi nhớ của một tình yêu say đắm, nồng nàn, thiết tha, cháy bỏng nhất. Trong sáu câu thơ, hai hình tượng sóng và em lúc thì tách ra lúc lại hòa nhập làm một để diễn tả những cung bậc khác nhau trong tình yêu của người phụ nữ. Bốn câu đầu của khổ thơ là hình ảnh con sóng, nhà thơ mượn hình ảnh con sóng để nói đến nỗi nhớ trong tình yêu. Còn trong hai câu thơ sau thì nhà thơ lại trực tiếp bày tỏ lòng mình, sóng và em hòa nhập tuy hai mà một, tuy một mà hai để thể hiện dòng cảm xúc tuôn trào: - Mượn hình ảnh sóng để diễn tả nỗi nhớ: Trong bốn câu thơ đầu, thi sĩ đã mượn hình ảnh con sóng để diễn tả được nỗi nhớ da diết mãnh liệt, không thể nào yên không thể nào nguôi, cuồn cuộn dào dạt như những con sóng ngoài biển cả triền miên, vô hồi, vô hạn. 134
Nữ thi sĩ như muốn soi mình vào con sóng để thấy rõ lòng mình vì sóng nhớ bờ cũng như em nhớ anh. + Nỗi nhớ thể hiện qua hình ảnh con sóng là nỗi nhớ choán ngợp cả không gian, chiếm lấy cả tầng sâu bề rộng. Nỗi nhớ có trong từng con sóng nên con sóng dưới lòng sâu cũng mang nỗi nhớ, con sóng trên mặt nước cũng mang nỗi nhớ. Mà nỗi nhớ trong con sóng trên mặt nước còn dễ nắm bắt chứ nỗi nhớ trong con sóng dưới lòng sâu thì vạn biến. Bởi con sóng dưới lòng sâu là những con sóng ngầm, có khi bình lặng nhưng có khi đầy nguy hiểm, dữ dội, có thể nhấn chìm tất cả. + Nỗi nhớ choán ngợp cả thời gian, cả ngày lẫn đêm, cả khi thức lẫn khi ngủ tức là luôn thường trực ở trong lòng. Nỗi nhớ chiếm cả không gian, thời gian; chiếm lấy cả chiều dài và chiều rộng, con sóng nhớ bờ cũng như em lúc nào cũng nhớ anh. + Các biện pháp tu từ: Điệp từ \"con sóng\" được lặp lại ba lần; nghệ thuật đối lập dưới-trên, lòng sâu- mặt nước, ngày - đêm; nghệ thuật nhân hóa \"con sóng nhớ bờ\"; nghệ thuật cường điệu \"ngày đêm không ngủ được\"... đã nhấn mạnh nỗi nhớ và biến thành một nỗi nhớ tầng tầng lớp lớp như muôn đợt sóng lòng đang trào dâng. - Nỗi nhớ được bộc lộ trực tiếp: Ở bốn câu thơ trước nhà thơ còn phải mượn hình ảnh con sóng để nói đến nỗi nhớ như một chút thẹn thùng, e ấp đầy con gái nhưng đến hai câu thơ sau tình yêu mãnh liệt đã thôi thúc trái tim tự hát thành lời \"Lòng em nhớ đến anh\", nhớ đến trong mơ vẫn nhớ. Như vậy nỗi nhớ trong tình yêu ở đây đã được nâng lên ở một cung bậc cao nữa, nó không chỉ choán ngợp không gian, thời gian, thường trực trong tâm thức mà còn đi vào tiềm thức, vô thức. Bất cứ lúc nào em cũng đều nhớ đến anh đến cồn cào, da diết. Yêu là khát khao gặp gỡ nên những ngày không gặp nhau thì bạc đầu thương nhớ, lòng đau đến rạn vỡ, có khi ở bên nhau mà vẫn nhớ. Cô gái trong thơ Xuân Quỳnh là thế, cô gái trong ca dao cũng thế cho nên có thể nói đó là tâm trạng chung của con người khi yêu: Đêm nằm lưng chẳng tới giường Cứ mong trời sáng ra đường gặp anh (Ca dao) => Có thể nói sóng và em đã hòa quyện cộng hưởng để thể hiện một tình yêu say đắm, mãnh liệt, tuyệt đích. Sáu câu thơ không sử dụng từ \"yêu\" nào mà vẫn thể hiện được một tình yêu cháy bỏng, dạt dào. Nữ thi sĩ đã không ngần ngại để thể hiện tình yêu say đắm mãnh liệt, cho thấy một dấu ấn riêng rất táo bạo của hồn thơ Xuân Quỳnh. 4.3. Khổ thơ thớ 6: Dẫu xuôi về phương Bắc Dẫu ngược về phương Nam Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh - một phương Khẳng định tình yêu là thủy chung, duy nhất Dường như thể hiện tình yêu và nỗi nhớ da diết cồn cào, mãnh liệt nhưng cảm thấy vẫn chưa đủ, chưa thỏa nên ở khổ thơ tiếp theo này nhà thơ khẳng định tình yêu của mình là thủy chung, duy nhất. Giữa đất trời bao la rộng lớn, nhà thơ không chỉ thấy phương Bắc, phương Nam mà còn phát hiện ra một phương nữa là \"phương anh\". Đất trời có bốn 135
phương tám hướng mênh mông nhưng em vẫn chỉ thấy, chỉ hướng về một phương duy nhất là phương anh, phương của tâm trạng, của tình yêu cháy bỏng, da diết, mãnh liệt. Các biện pháp điệp từ, điệp cú \"Dẫu xuôi...Dẫu ngược...\"; nghệ thuật đối lập xuôi-ngược, Bắc -Nam đã gợi lên một tình cảnh không xuôi chiều. Hơn nữa, người ta thường nói xuôi Nam ngược Bắc thì Xuân Quỳnh lại nói ngược lại thành xuôi Bắc ngược Nam như để khẳng định: Dù cuộc đời, trời đất có thay đổi quay cuồng, đảo điên, thay phương đổi hướng, dù thế nào đi chăng nữa tình yêu của em cũng chỉ dành duy nhất cho riêng anh mà thôi. Không có ngăn trở nào, không có khoảng cách địa lý nào có thể ngăn cách được tình yêu của em với anh. Chỉ có anh và em, chỉ có tình yêu của anh và em là còn lại cho nên trong khổ thơ này cũng hoàn toàn không có hình ảnh con sóng. Vẻ đẹp của tình yêu son sắc, thủy chung đến tận cuối cùng ấy còn được bắt gặp trong bài thơ \"Thơ tình cuối mùa thu\" của nữ thi sĩ: Chỉ còn em và anh Cùng tình yêu ở lại Tiểu kết: Bằng thể thơ ngũ ngôn, nhịp điệu linh hoạt biến hóa gợi âm hưởng của những con sóng ngoài biển cả, hai hình tượng nghệ thuật sóng và em song hành, các thủ pháp nghệ thuật như điệp từ, điệp ngữ, cường điệu, đối lập, nhân hóa... Nữ thi sĩ Xuân Quỳnh đã thổ lộ, giãi bày tình cảm là nỗi nhớ da diết, cồn cào, cháy bỏng của một tình yêu mãnh liệt, chân thành. Sức hấp dẫn của đoạn thơ cũng như bài thơ là đã thể hiện một cách táo bạo, không giấu giếm một tình yêu say đắm, thủy chung duy nhất khiến cho tình yêu vừa mang những nét truyền thống vừa mang tinh thần hiện đại. Đó đúng là tình yêu của người phụ nữ Việt Nam vừa dịu dàng, đằm thắm, thủy chung, son sắc vừa sôi nổi, mãnh liệt và táo bạo. Ra đời trong khói bom những năm kháng chiến chống Mỹ, \"Sóng\" đã vượt thoát ra khỏi dòng thơ cách mạng vốn rất phổ biến lúc bấy giờ để mang đến cho người đọc cảm xúc thơ mới mẻ. Nó xứng đáng trở thành một trong những bài thơ tình hay nhất của Việt Nam ở thế kỉ XX. 5. Đoạn thơ: Ở ngoài kia đại dương ... Để ngàn năm còn vỗ 5.1. Khái quát Bài thơ gồm có chín khổ thơ. Ở những khổ thơ trước Xuân Quỳnh đã tìm ra những điểm tương hợp của con sóng và tình yêu. Con sóng cũng mang vẻ đẹp đầy nữ tính như tâm hồn người con gái đang yêu đầy phức tạp, mang những đối cực như những con sóng ngoài biển khơi. Qua hình ảnh sóng, nữ thi sĩ đã bộc lộ khát vọng tình yêu, thể hiện một nỗi nhớ của một tình yêu sâu sắc, mãnh liệt, thủy chung, duy nhất. Đến khổ thơ thứ năm, thứ sáu thì cảm xúc tình yêu thăng hoa và lên đến cao điểm nhất thành những đợt sóng biển sóng lòng dâng cồn lên cao nhất từ tâm điểm. Sang đến khổ thơ thứ bảy, thứ tám thì nhịp thơ có phần dịu lại, lắng xuống thể hiện những suy tư chiêm nghiệm của nhà thơ về cuộc đời, về tình yêu. Để rồi khát vọng tình yêu lại trào dâng mãnh liệt ở khổ thơ cuối cùng. 5.2. Khổ thơ thứ 7: Ở ngoài kia đại dương Trăm nghìn con sóng đó 136
Con nào chẳng tới bờ Dù muôn vời cách trở Suy tư về không gian và niềm tin vào hạnh phúc tình yêu Khổ thơ này là suy tư của Xuân Quỳnh về không gian. Nhà thơ mượn hình ảnh những con sóng ngoài biển cả để thể hiện niềm tin vào hạnh phúc và tình yêu. Từ những trải nghiệm của cuộc đời mình, Xuân Quỳnh nhận ra rằng, tình yêu dù trong sáng đẹp đẽ nhưng cũng khó tránh khỏi những lẽ thường của cuộc đời, khó tránh khỏi những khó khăn, thử thách, khắc nghiệt như những con sóng ngoài đại dương mênh mông cũng có những ngày phong ba bão táp. Những con sóng mang khát vọng đến bờ nên cho dù gió xô, bão dạt cuối cùng nó vẫn vượt qua muôn vời cách trở để tìm được tới bờ. Những người yêu nhau cũng vậy, tình yêu không chỉ cần có sự say đắm mà còn cần nghị lực để vượt qua mọi khó khăn, trở ngại, thử thách để đến với tình yêu. Chẳng thế mà ông bà ta xưa đã có những câu ca dao như: Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo Ngũ lục sông cũng lội, thất bát cửu thập đèo cũng qua Dù vẫn biết con đường tình yêu đầy khó khăn, trắc trở nhưng nữ thi sĩ vẫn bộc lộ niềm tin vào hạnh phúc, tình yêu. Tình yêu của con người dù có phải vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách nhưng nếu có niềm tin, có đủ lòng quyết tâm thì tất yếu sẽ đến được bến bờ hạnh phúc, sẽ tìm được tình yêu đích thực. Cũng giống như những con sóng ngoài đại dương, đại dương dù mênh mông, bao la đến mấy, dù phải vượt qua muôn vàn cách trở, con sóng cũng sẽ tới bờ. Khi sáng tác bài thơ này, thi sĩ Xuân Quỳnh mới 25 tuổi nhưng đã trải qua những thất bại, đổ vỡ trong tình yêu. Trong tình cảnh đó, con người dễ bị mất niềm tin vào cuộc sông, mất niềm tin vào tình yêu nhưng người phụ nữ hồn nhiên, tha thiết yêu đời này vẫn ấp ủ, vẫn phơi phới niềm tin, hi vọng vào hạnh phúc tình yêu. Đó là điều rất đáng quý của hồn thơ Xuân Quỳnh. Sau này trong bài thơ \"Thơ tình cuối mùa thu\" nữ thi sĩ cũng thể hiện vẻ đẹp tình yêu khi nó đã trải qua những khó khăn thử thách: Tình ta như hàng cây Đã qua mùa bão gió Tình ta như dòng sông Đã yên ngày thác lũ 5.3. Khổ thơ thứ 8: Cuộc đời tuy dài thế Năm tháng vẫn đi qua Như biển kia dẫu rộng Mây vẫn bay về xa Suy tư về thời gian, cuộc đời và tình yêu - Suy tư về thời gian, cuộc đời: Nếu khổ thơ trước là những suy tư của Xuân Quỳnh về không gian thì khổ thơ này nhà thơ đã thể hiện những suy tư chiêm nghiệm về thời gian và cuộc đời, thể hiện ý thức về sự hữu hạn của đời người so với sự vô hạn của trời đất, vũ trụ. Cuộc đời con người tuy dài thế nhưng những ngày tháng cũng sẽ trôi qua và đến một 137
ngày nào đó chuỗi thời gian của một con người sẽ dừng lại. Cách sử dụng cấu trúc \"Tuy...vẫn...\", \"Dẫu... vẫn...\" cùng với cách sử dụng các từ ngữ như \"đi qua\", \"dẫu rộng\", \"về xa\", biện pháp tu từ so sánh \"Như biển kia dẫu rộng\"... đã hướng tâm hồn thi sĩ đến không gian mênh mông để trong không gian ấy nhà thơ tự nhận thức về cuộc đời và tình yêu. Biển kia dẫu rộng như những con sóng rồi cũng đến bờ, gió vẫn thổi, mây vẫn bay về xa xôi cùng sóng biển. Mây vẫn bay qua biển để về xa. Cái vô hạn vẫn bị khuất phục trước cái vô hạn và con người cũng thế, con người có thể sống 60 năm, 70 năm, 80 năm hay hơn 100 năm nhưng vẫn có một ngày trái tim ngừng đập để nghỉ ngơi và về cùng đất mẹ. Đời người vẫn bị chi phối bởi cái hữu hạn, bởi quy luật nhân sinh: Sinh, Lão, Bệnh, Tử. Thực ra, quy luật cuộc đời ấy ai chẳng biết và từ xưa đến nay đã có biết bao người đã nói, đã rơi lệ vì điều này. Người xưa vẫn ví cuộc đời như bóng câu qua cửa sổ vụt qua trong thoáng chốc, tựa áng phù vân hợp tan, tan hợp không thể biết trước. Theo quan niệm của Phật giáo thì \"Nhân sinh như trường mộng\", cuộc đời con người chỉ như một giấc mộng dài, lẽ sinh tử chỉ như một hơi thở ngắn ngủi lắm. Một nhà thơ Trung Quốc thời trung đại cũng đã từng than thở, rơi lệ: Ngẫm trời đất vô cùng Một mình tuôn giọt lệ Ngay cả Xuân Diệu, một người yêu đời, yêu người là thế nhưng khi nhận ra quy luật ấy cũng bâng khuâng, tiếc nuối: Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt - Suy tư về sự mong manh, dễ vỡ, khó giữ của tình yêu: Những câu thơ trong khổ thơ này của Xuân Quỳnh cho thấy nữ thi sĩ đã nhận thức được về lẽ thực của cuộc đời, về cái ngắn ngủi, hữu hạn của đời người. Nhưng điều đáng nói hơn ở đây là chị còn nhận ra tình yêu dẫu đẹp đẽ, thiêng liêng thật đấy nhưng nó cũng rất mong manh, dễ vỡ và khó giữ. Thực tế cuộc sống không đơn giản, xuôi chiều, vì thế nhiều khi tình yêu của con người không thể vượt qua những trắc trở và sẽ tàn phai theo thời gian. Cũng có tình yêu theo suốt cả đời người nhưng cũng có tình yêu chỉ kéo dài vài năm, vài tháng và đôi khi chỉ như chút cảm nắng thoáng qua rồi tan biến mất. Xuân Quỳnh còn cảm nhận và thể hiện rất rõ những khó khăn, thử thách này của tình yêu trong bài thơ \"Hoa cỏ may\": Lời yêu mỏng mảnh như màu khói Ai biết tình anh có đổi thay! Nhà thơ Đỗ Trung Quân cũng đã nhận ra điều đó và từng viết: Anh đã thấy một điều mong manh nhất Là tình yêu, là tình yêu ngát hương Tuy không hiện hình qua từng câu chữ nhưng ở đoạn thơ này Xuân Quỳnh đã thể hiện một trái tim nhạy cảm đầy những lo âu, phấp phỏng, những dự cảm, bất an về cái ngắn ngủi, mong manh của tình yêu và đời người. Nhưng dù có thế chăng nữa, ở đây ta 138
thấy Xuân Quỳnh vẫn cứ tin vào hạnh phúc và tình yêu. Bà nhận ra rằng thời gian cũng là thử thách tình yêu nhưng dù thời gian có khắc nghiệt đến đâu thì tình yêu cũng sẽ vượt qua tất cả và sẽ chiến thắng. Sóng vẫn tới bờ, mây vẫn bay qua biển về xa và tình yêu đích thực thì mãi vẫn đẹp đẽ và vĩnh hằng vĩnh cửu với thời gian. 5.4. Khổ thơ thứ 9: Làm sao được tan ra Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ Khát vọng về tình yêu vĩnh hằng, vĩnh cửu Khổ thơ cuối đã thể hiện những khát vọng về tình yêu vĩnh hằng vĩnh cửu, ý thức về sự thời gian chảy trôi của thời gian, đời người. Khi ý thức được sâu sắc sự hữu hạn của đời người, mỗi người có một cách ứng xử, một thái độ khác nhau. Nếu như người xưa không hề lo sợ bởi vì họ tin rằng con người một phần của vũ trụ, sống là gửi thác mới là về; nếu như nhà thơ người Trung Quốc Trần Tử Ngang buồn đến rơi lệ; nếu như nhà thơ Xuân Diệu muốn sống vội vàng, gấp gáp để tận hưởng cuộc đời, để cuộc đời, tuổi trẻ dẫu có trôi qua cũng không bao giờ phải ân hận vì đã sống hoài, sống phí thì Xuân Quỳnh cũng xuất phát từ khát vọng sống sâu sắc với cuộc đời đã thể hiện khát vọng to lớn, vô hạn về tình yêu. Điều đó được cảm nhận sâu sắc qua cách sử dụng các từ ngữ: - Tan ra: tan ra ở đây có thể hiểu theo hai nghĩa là tan ra để biến mất và tan ra để hòa nhập, hòa tan vào nhau. Với Xuân Quỳnh thì tan ra không phải là để biến mất mà để hòa nhập, hòa tan vào nhau. Từ \"tan ra\" ở đây làm người đọc liên tưởng đến câu chuyện cổ tích về một nàng tiên cá vì muốn cứu sống người mình yêu mà chấp nhận bị tan ra thành bọt biển. Có thể nói đây là cách sử dụng ngôn từ đầy tinh tế để thể hiện sự hi sinh, dâng hiến, hóa thân vào tình yêu. - Số từ ngàn năm: Cách sử dụng số từ có tác dụng nghệ thuật bất ngờ. Con số ngàn năm ấy đã từng làm ta xúc động trong bài thơ \"Thề non nước\" của Tản Đà: Ngàn năm giao ước kết đôi Non non nước nước chưa nguôi lời thề Xuân Diệu cũng nhắc đến số từ ngàn năm khi nói về khát vọng tình yêu: Như hôn mãi ngàn năm không thỏa Bởi yêu bờ lắm lắm em ơi Có lẽ với các thi sĩ, số từ \"ngàn năm\" là cách nói ước lệ để thể hiện khát vọng tình yêu trường tồn, vĩnh cửu với thời gian. Tất cả rồi cũng đi qua, cuộc đời và năm tháng đều sẽ trôi qua như mây kia vẫn bay qua biển để đi đến cõi xa xăm vô định. Tình yêu của mỗi con người thường chỉ gắn với cái hữu hạn của đời người. Muốn vượt qua ngoài giới hạn đó, người ta chỉ có cách là hòa tan tình yêu của mình vào thiên nhiên vĩnh cửu để ngàn vạn năm sau những con sóng ngoài đại dương vẫn ca hát về tình yêu bất diệt của con người. - Làm sao: Bao nhiêu mong muốn, ước vọng và khao khát thể hiện qua hai tiếng \"làm sao\". Nữ thi sĩ đã khát khao đến cháy bỏng được tan ra thành những con sóng gữa đại dương bao la để tình yêu bé nhỏ của mình trở nên bất tử. Sau những suy tư, cảm xúc trầm lắng ở khổ thơ 7,8 thì đến khổ thơ này tình yêu bỗng bùng lên mãnh liệt. Khát vọng 139
mãnh liệt, sôi nổi mà cũng rất khiêm nhường, nữ tính bởi đó là khát khao được dâng hiến, hi sinh góp cuộc đời mình và tình yêu bé nhỏ của mình vào tình yêu rộng lớn để được bất tử trong tình yêu. Khát vọng về một tình yêu đích thực, bền chặt, vĩnh viễn còn được nhà thơ Xuân Quỳnh nhắc đến một lần nữa trong thơ của chị: Em trở về đúng nghĩa trái tim em Là máu thịt đời thường ai chẳng có Vẫn ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa Biết yêu anh cả khi chết đi rồi Sự hòa nhập, hòa tan được nhắc đến trong khổ thơ còn là sự hòa nhập giữa các chung và cái riêng. Tình yêu của em ở đây còn được chan hòa trong tỉnh đồng bào, đồng chí. Đó là tình yêu cao thượng, lớn lao và khi cái riêng hòa vào cái chung thì cái riêng cũng tồn tại vĩnh hằng, bất diệt. Mỗi chữ, mỗi câu trong đoạn thơ đều được lựa chọn sắp xếp một cách rất khéo léo và có giá trị biểu cảm cao. Sự phối hợp các thanh bằng, trắc nhịp nhàng, các từ ở cuối câu là \"qua\", \" xa\", \"ra\" và \"nhỏ\", \"vỗ\" bắt vần với nhau tạo âm hưởng riêng và sức hấp dẫn cho đoạn thơ. III. ĐÁNH GIÁ CHUNG Bằng thể thơ 5 chữ cô đọng, súc tích; nhịp thơ linh hoạt, biến hóa; hình tượng sóng và em song hành; sắc điệu trữ tình được gợi ra từ âm hưởng của những con sóng ngoài đại dương, những con sóng lòng của tình yêu say đắm thiết tha mãnh liệt; cách lựa chọn, sắp xếp từ ngữ sáng tạo, biểu cảm; giọng thơ nhẹ nhàng, đằm thắm, dư ba và đặc biệt qua hình tượng sóng và hình tượng em, đoạn thơ đã giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu: táo bạo, mãnh liệt, dám bước qua mọi trở ngại để gìn giữ hạnh phúc, tình yêu. Dù có lo âu, phấp phỏng, bất an trước cái ngắn ngủi, hữu hạn của tình yêu, đời người so với sự vô hạn của trời đất ,vũ trụ, thời gian nhưng vẫn vững tin vào sức mạnh của tình yêu, luôn khao khát tình yêu đích thực, vĩnh cửu. Người đọc yêu mến và nhớ mãi bài thơ \"Sóng\" nữa vì nó không đơn thuần là thơ nữa mà là những gì tinh tế nhất, huyền diệu nhất của trái tim con người, của tâm hồn người phụ nữ luôn nhạy cảm và tha thiết muốn được yêu thương. Bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách thơ của Xuân Quỳnh, rất dịu dàng, nữ tính nhưng cũng rất táo bạo và đầy khát khao trong hạnh phúc đời thường. LUYỆN ĐỀ Đề bài 1: Phân tích vẻ đẹp hiện đại và truyền thống trong bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh I. MỞ BÀI - Xuân Quỳnh (1942 - 1988) , quê ở Hà Đông, một vùng dệt lụa the nổi tiếng. Xuân Quỳnh sớm mồ côi cha mẹ, sống chủ yếu với bà, lớn lên ở Hà Nội. Năm 13 tuổi, XQ trở thành một diễn viên múa xinh đẹp, nổi tiếng, đã từng đi nhiều nước biểu diễn. Nhưng với lòng đam mê thơ ca, năm 1963, XQ chuyển sang viết báo, làm thơ. Bởi với XQ: 140
\"Nếu ngày em không làm thơ nữa Cuộc sống trở về bình yên Ngày nối nhau trên đường phố êm đềm Không nỗi khổ không niềm vui kinh ngạc\" - Thơ Xuân Quỳnh in đậm một vẻ đẹp nữ tính, là tiếng nói của một tâm hồn giàu trắc ẩn, hồn hậu, chân thực và luôn âu lo, da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường. Sóng là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Quỳnh. - Tình yêu là một đề tài quen thuộc trong thơ ca. \"Thế giới một ngày không có người yêu nhau thì mặt trời sẽ tắt\" (Huy gô). Như một lẽ tự nhiên, tình yêu đi vào trong thơ ca như một nguồn đề tài miên viễn. Trong văn họcViệt Nam, nếu Xuân Diệu được coi là ông hoàng của tình yêu, một tình yêu nồng nàn, say đắm, ham hố đến vồ vập, si mê,... thì Xuân Quỳnh được coi là nữ hoàng của thơ tình. Bởi, phải đến Xuân Quỳnh, thơ tình VN mới có được tiếng nói trực tiếp bày tỏ khát vọng tình yêu của một trái tim phụ nữ mãnh liệt, chân thành, tự nhiên đến thế. Sóng là lời tự hát tình yêu của một trái tim chân thật, nồng nàn, thể hiện một tâm hồn người phụ nữ vừa mang nét đẹp truyền thống, vừa hiện đại. II. THÂN BÀI 1. Vẻ đẹp mới mẻ, hiện đại trong tình yêu: 1.1. Tình yêu là trạng thái tâm lí phong phú, đa dạng, luôn chứa đựng những biến động thao thức, bất thường; vừa nồng nàn, vừa tha thiết; vừa tỉnh táo, vừa đắm say: “Dữ dội ………, lặng lẽ”. - Thi sĩ khám phá ra 2 cặp trạng thái, tính chất đối lập cùng tồn tại trong một con sóng muôn đời: vừa Dữ dội vừa dịu êm, vừa ồn ào vừa lặng lẽ. Nhà thơ không dùng từ đối lập \"nhưng\" mà dùng từ \"và\" để tạo sự kết nối. Trên đại dương bao la, những con sóng vừa dữ dội ồn ào – mạnh mẽ đến cuồng nhiệt lại vừa dịu êm và lặng lẽ – sâu lắng, dịu dàng và đầy trăn trở, suy tư. - Cách miêu tả những trạng thái bất thường của sóng gợi liên tưởng đến khát vọng tình yêu đầy bí ẩn trong tâm hồn người con gái. Khi bồng bột sôi nổi, khi kín đáo sâu sắc , vừa đắm say vừa tỉnh táo, vừa nồng nàn vừa âm thầm, vừa mãnh liệt vừa ngàn lần yếu mềm. - Ca dao xưa đã từng diễn tả rất hay, rất kì diệu trạng thái đầy mâu thuẫn và đối lập ấy trong tâm hồn người con gái khi yêu: \"Đưa tay ngắt một cọng ngò Thương anh đứt ruột giả đò ngó lơ\" Hoặc: \"Mình em như cây thầu dầu Ngoài tươi trong héo giữa sầu tương tư\" - Như vậy, từ ngàn xưa đến nay, khi đã yêu và sống chân thật, trọn vẹn với tình yêu, biết bao người phụ nữ sống trong trạng thái đầy thổn thức, bồi hồi, xốn xang ấy. 141
- Điểm gặp gỡ đồng điệu kì lạ giữa sóng và nhân vật em cho thấy sóng là ẩn dụ của em, của khát vọng tình yêu nhiều thao thức nhưng hạnh phúc vô bờ. - Đây là 2 câu thơ tự bạch, tự thú táo bạo mà êm đềm. Táo bạo vì nó quá mãnh liệt và chân thực. Êm đềm vì sau những dữ dội, ồn ào, tình yêu vẫn đổ về phía cuối câu thơ để lắng vào dịu êm, lặng lẽ - đó là cái dịu dàng con gái làm mát cả bài thơ. Dẫu sao con sóng quen thuộc đã trở nên lạ lùng, khó lí giải. 2.2. Trong tình yêu, người phụ nữ không cam chịu, nhẫn nhục mà luôn chủ động, khao khát kiếm tìm một tình yêu mãnh liệt, đồng cảm, bao dung: - Sóng khao khát tự khám phá, tự nhận thức: “Sông ……… …………. bể”. + Sông – bể là những không gian. Sông là không gian chật hẹp, bể là không gian mênh mông rộng lớn vô hạn, vô cùng. Sóng được sinh ra từ lòng suối, lòng sông, lòng bể. Nên sóng là nhịp đập, là trái tim, là sự sống sông bể. Hành trình tự nhiên của những con sóng là từ suối về sông, từ sông về biển lớn. Đó là hành trình từ không gian chật hẹp, đến không gian rộng lớn bao la. Nếu “Sông” không hiểu nổi “mình”, không hiểu nổi sóng, không hiểu được trái tim tình yêu rạo rực, khao khát của mình thì sóng quyết tìm ra biển rộng bao la, rộng lớn, dữ dội, mãnh liệt hơn. Ra đến bể rộng con sóng mới thực sự tìm thấy mình, nhận thức được sức mạnh, khát khao của mình và sống đến tận cùng từng nhịp đập của một trái tim yêu. Tương tự thế, sóng như trái tim người con gái khi yêu cũng tự nhận thức được những biến động khác thường của lòng mình khao khát vượt ra giới hạn chật hẹp, cô đơn của cái tôi cá nhân tìm đến sự rộng lớn bao la của tình yêu thương giống như hành trình của sóng từ sông ra bể. - An - đéc - xen nhà viết truyện cổ tích nổi tiếng của thế giới đã từng viết: \"Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp hơn câu chuyện do chính cuộc sống viết ra\". Đọc Sóng của Xuân Quỳnh, soi chiếu vào đời và thơ Xuân Quỳnh, ta thấy người phụ nữ ấy đã yêu hết mình, yêu đến từng nhịp đập của một trái tim đau: “Những ngày không gặp nhau Biển bạc đầu thương nhớ Những ngày không gặp nhau Lòng thuyền đau rạn vỡ”. + Yêu hết mình, đốt cháy mình trong những xúc cảm của tình yêu, nhưng người phụ nữ không cam chịu, nhẫn nhục, mà quyết tìm đến tình yêu chân thành, đồng cảm, mãnh liệt, bao dung. Trái tim người con gái trong tình yêu cũng như trái tim của sóng đầy thao thức, rạo rực, khát khao trong hành trình tìm ra biển lớn. \"Bởi tình yêu muôn thuở/ Có bao giờ đứng yên\". Đây là một quan niệm rất mới mẻ, rất hiện đại mà rất chân thành, chân thật trong tình yêu của thi sĩ. Có lẽ, lần đầu tiên trong văn học VN, có một người phụ nữ 142
mạnh bạo, chủ động, tự tin bày tỏ, phơi trải lòng mình một cách mãnh liệt đến thế, đam mê đến như vậy. 2.3. Có ý thức khám phá cái tôi nội cảm và dám sống hết mình cho tình yêu: “Ôi con sóng ngày xưa Và ngày sau vẫn thế Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ\" - Thán từ \"ôi\" đứng ở đầu khổ thơ vừa như một tiếng lòng ngân rung, lại vừa như một khám phá phát hiện tuyệt diệu của nhà thơ về những bí ẩn kì diệu của sóng. - “Ngày xưa”, “ngày sau” là những trạng từ chỉ thời gian vô hồi, vô hạn, vô thủy, vô chung. Dù ngàn năm trước đã đi qua, dù ngàn năm sau chưa tới; ở thời gian nào, những con sóng “vẫn thế”, vẫn chẳng đổi thay, vẫn đam mê, khám phá mãnh liệt, vẫn sống với những trạng thái thao thức đầy biến động; vẫn háo hức, sôi nổi trong hành trình tìm ra bể lớn. Nỗi khát vọng của sóng, cũng là nỗi khát vọng của loài người, nỗi khát vọng tình yêu bồi hồi trong lồng ngực trẻ của muôn đời nhân loại.Từ muôn đời nay, con người đã đến với tình yêu và mãi đến với tình yêu cho đến ngày tận thế. - Nét riêng Xuân Quỳnh là tạo ra con sóng mãnh liệt mà đầy nữ tính, giàu trạng thái: Có cái bồi hồi rất trẻ trung, có cái dữ dội rất tương xứng với tình yêu, nhưng còn có cái dịu dàng rất sâu lắng, rất con gái. Xuân Quỳnh đã xoay trở ngọn sóng tình yêu đầy âu lo để cảm nhận nó trên nhiều chiều đối lập. Đó là cách cảm nhận nồng nàn mà có chiều sâu trên cả 2 bề cảm xúc và nhận thức. Từ những con sóng dữ dội, dịu êm của đời thường, Xuân Quỳnh đã gửi gắm một quan niệm mới mẻ, táo bạo về tình yêu: Tình yêu là trạng thái cảm xúc phong phú, đầy đam mê, khát vọng, chân thành, nồng nhiệt nhưng không cam chịu, nhẫn nhục. Nếu trong tình yêu không có sự đồng cảm, thì cần mãnh liệt, dứt khoát tìm đến một tình yêu đồng cảm, bao dung, sâu sắc hơn. Đó là những lời thơ, hay sự trải nghiệm của chính nhà thơ Xuân Quỳnh, trải nghiệm của bất kì ai trong số chúng ta khi đến với tình yêu nồng nàn, đắm say, tha thiết? d, Luôn trăn trở truy nguyên nguồn gốc của tình yêu - Tình yêu là một trạng thái tâm lí khác thường, đầy bí ẩn và huyền diệu. Nó có những lí lẽ riêng của con tim mà lí trí thông thường không thể lí giải được. Người phụ nữ trong bài thơ đã qua sóng, nhờ sóng để lí giải cắt nghĩa nguồn gốc của tình yêu: Trước muôn trùng sóng bể Em nghĩ về anh em Em nghĩ về biển lớn Từ nơi nào sóng lên. 143
- Người con gái trong bài thơ cũng thế. Trước biển, \"em nghĩ về anh, em\", \"em nghĩ về biển lớn\". Điệp ngữ \"em nghĩ\" diễn tả những thao thức, suy tư khôn cùng. Đó là những suy tư về tình yêu, về biển lớn cuộc đời. Tình yêu bắt đầu từ đâu? Em và anh đã yêu nhau từ khi nào? Câu hỏi muôn đời ấy đã khiến bao thi nhân từng trăn trở, thao thức. XD, ông hoàng của thơ tình yêu, người đã từng khao khát viết một cuốn từ điển tình yêu bằng thơ, người đã tự nhận mình là \"kẻ uống tình yêu dập cả môi\" nồng nàn, say đắm đã chẳng từng mượn cảm hứng lãng mạn để lí giải tình yêu đó sao: Làm sao cắt nghĩa được tình yêu Có khó gì đâu một buổi chiều Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt Bằng hương nhè nhẹ gió hiu hiu Hay Hàn Mặc Tử cũng thế, nhà thơ cắt nghĩa rằng: Xin hãy làm thinh chớ nói nhiều Để nghe dưới đáy nước hồ reo Để nghe tơ liễu run trong gió Và để nghe trời giải nghĩa yêu Là một người phụ nữ yêu và mà thơ, Xuân Quỳnh có cách lí giải riêng. Nhà thơ đã cắt nghĩa nguồn gốc của tình yêu qua quy luật rất tự nhiên của sóng biển, gió trời: \"Sóng bắt đầu từ gió Gió bắt đầu từ đâu? Em cũng không biết nữa Khi nào ta yêu nhau?\" - Với rất nhiều câu hỏi liên tiếp, thi sĩ như đang đối thoại với thiên nhiên, vũ trụ về tình yêu. Song, tình yêu là một tình cảm đẹp, rất thật nhưng rất khó nói nên lời. Cảm thấy rất rõ nhưng không dễ nắm bắt. Thiên nhiên bí ẩn còn có thể cắt nghĩa, nhưng tình yêu là một trạng thái tâm lí tự nhiên, hồn nhiên, nhiều bí ẩn, bất ngờ như sóng biển, gió trời, \"tình yêu đến trong đời không báo động\". Vì thế, “làm sao cắt nghĩa được tình yêu” (Xuân Diệu). - Tình yêu cần có lý trí, nhưng trước hết nó là câu chuyện của trái tim. Cho nên không thể dùng lí tí tỉnh táo để xác định thời điểm chính xác bắt đầu một mối tình. Chính sự bất lực của những câu trả lời góp phần kì ảo hóa tình yêu. Muôn đời nay, tình yêu vẫn mãi mãi là một phép nhiệm màu. Nào ai có thể biết chính xác ngày nào mũi tên của thần tình ái sẽ xuyên thấu trái tim với nhiều trăn trở, thao thức, nhưng hạnh phúc, thổn thức vô bờ. - Không thể lí giải, cắt nghĩa tình yêu, nhà thơ đi đến sự thú nhận thành thực, đáng yêu: “Em cũng không biết nữa/ khi nào ta yêu nhau” . 144
+ Câu thơ đem đến cho người đọc sự liên tưởng thú vị. Dường như, nhà thơ vừa lắc đầu, vừa mỉm cười bẽn lẽn như thú nhận: Em không biết đã yêu anh khi nào! Câu thơ không chỉ hay ở sức gợi cảm, gợi hình bởi những ngôn từ vô cùng giản dị, sâu sắc mà còn có giọng điệu độc đáo: + Thi sĩ viết \"Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau\" mà không viết: “Khi nào ta yêu nhau, em cũng không biết nữa”. + Cách viết của XQ không chỉ tạo nên âm hưởng nhịp nhàng của câu thơ, âm hưởng của những con sóng biển, sóng lòng đang trào dâng thao thiết mà còn đồng thời trả lời các câu hỏi về nguồn gốc của sóng biển, gió trời, nguồn gốc của tình yêu nhiều suy tư, bí ẩn. + Không những thế, nếu đảo lại trật tự, câu thơ sẽ lăn về phía lí trí tỉnh táo. Viết như Xuân Quỳnh , hiệu quả khác hẳn: + Em cũng không biết nữa: Là sự bất lực của lí trí khi lí giải tình yêu. + Khi nào ta yêu nhau: Là sự rung động, đồng cảm của hai trái tim, hai tâm hồn. => Cách viết của Xuân Quỳnh như diễn tả nỗi choáng váng của cô gái khi chạm phải vùng chói sáng của trái tim tình yêu làm cho lí trí phải dừng bước và trở thành vô nghĩa. Chính vì lẽ đó mà nhiều cô gái trong ca dao xưa thường thổn thức: “Thấy anh như thấy mặt trời Chói chang khó ngó trao lời khó trao”. e, Khát khao hòa nhập tình yêu cá nhân vào biển lớn tình yêu cuộc đời: “Cuộc đời tuy dài thế Năm tháng vẫn đi qua Như biển kia dẫu rộng Mây vẫn bay về xa\" - Trong đoạn thơ, nhà thơ đã đưa ra các phạm trù về thời gian và không gian: + Cuộc đời, năm tháng là phạm trù thời gian + Biển và mây là phạm trù không gian. + Cuộc đời là hoán dụ chỉ quỹ thời gian ngắn ngủi, hạn hẹp của cuộc đời mỗi con người. Năm tháng là hoán dụ chỉ dòng thời gian vô thủy, vô chung. Cuộc đời dài rộng bao nhiêu thì năm tháng vẫn đi qua cuộc đời. + Cũng như thế, biển là một khái niệm của không gian. Trong cảm nhận của chúng ta, biển là một không gian rộng lớn, bao la. Tuy nhiên, trong khoảng không gian của trời đất, vũ trụ, biển vẫn chỉ là một khái niệm gợi sự hữu hạn, bé nhỏ giữa sự mênh mông của trời đất. Mây biểu tượng cho sự miên viễn, vô biên, vô cùng của cuộc đời. Thi sĩ Thôi Hiệu đời Đường (TQ) đã từng cảm nhận những đám mây mang ý vị triết học về sự trôi chảy miên viễn của thời gian: \"Bạch vân thiên tải không du du\". Với Xanh Crôn Pécxơ: mây là \"Từng mảng thế kỉ ngao du đây đó\". Vì thế, 145
+ Biển tuy dài rộng bao nhiêu nhưng những đám mây sẽ bay qua biển, sẽ phiêu du từ vùng biển này sang vùng biển khác, từ không gian này đến không gian khác trong vũ trụ vô cùng, vô tận. => Như vậy, năm tháng gợi thời gian vô thủy, vô chung. Mây gợi không gian vô tận, vô cùng thì cuộc đời gợi khoảng thời gian ngắn ngủi, hữu hạn. Biển gợi giới hạn không gian nhỏ bé. Cuộc đời tuy dài nhưng không phải là vô tận. Biển tuy rộng nhưng không phải là vô cùng. Khổ thơ đã thấp thoáng cảm giác rất quen thuộc với XQ và các nhà thơ khác cũng như con người nói chung. Đó là con người luôn luôn có những trăn trở, lo âu về sự hữu hạn của đời người, năm tháng và cả sự hữu hạn của tình yêu. - Tuy nhiên, ở bài thơ “Sóng”, Xuân Quỳnh lo âu nhưng không bi quan, tuyệt vọng, trăn trở, thao thức nhưng không buồn nản, chán chường; ngược lại, nhà thơ càng thêm tin tưởng vào cuộc đời, vào một tình yêu vĩnh cửu. Khát vọng tình yêu thôi thúc nhà thơ vượt qua những giới hạn của đời người để bất tử hóa tình yêu: “Làm sao được tan ra Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ”. - Làm sao là một thoáng băn khoăn, trăn trở của thi sĩ. Tan ra là sự hòa nhập, là khát vọng được cống hiến, được sống hết mình, được hi sinh tận độ cho tình yêu. “Ngàn năm” là xu hướng vươn tới sự bất tử. \"Tan thành trăm con sóng nhỏ\" là khát vọng sống, khát vọng yêu, khát vọng hiến dâng trọn vẹn, mãnh liệt và thủy chung. Đó còn là khát vọng vĩnh cửu hóa tình yêu bằng cách hòa nhập tình yêu của cá nhân và tình yêu của cuộc đời để tình yêu đó trở nên rộng lớn hơn, mênh mông, vô tận, vô cùng hơn. Chỉ khi có sự hòa nhập và sẵn sàng dâng hiến, hi sinh, sống hết mình cho tình yêu thì tình yêu đó mới trường tồn vĩnh hằng với thời gian. Đó cũng là một cách làm cho tình yêu của mình còn sống mãi. 2. Vẻ đẹp mang tính truyền thống: 2.1. Tình yêu gắn liền với nỗi nhớ khi xa cách. Nỗi nhớ ấy chiếm lĩnh trọn vẹn mọi không gian, thời gian, đi sâu vào tiềm thức, giấc mơ của con người: “Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được - Hình ảnh con sóng điệp lại 3 lần trong 3 câu thơ liên tiếp như 1 điệp khúc của bản tình ca với giai điệu da diết ám ảnh thường trực về tình yêu và nỗi nhớ. Thủ pháp điệp diễn tả hình ảnh những con sóng gối lên nhau, hối hả vươn tới bờ. Dù con sóng dưới lòng sâu nhiều thao thức hay con sóng nổi trên mặt nước bao la vô tận, vô cùng thì tất cả mọi con sóng đều hướng tới bờ, nhớ về bờ. Sóng là hình ảnh ẩn dụ về nỗi nhớ của người con gái. Nỗi nhớ ấy nồng nàn với nhiều cung bậc. 146
- Nghệ thuật đối: + Dưới lòng sâu – Trên mặt nước: Sự vô biên. + Ngày - đêm: sự thường trực => Khổ thơ chính là tiếng lòng mà có lần XQ đã tâm sự Tôi có 1 tình yêu rất sâu, rất dữ dội nhưng không bào giờ yêu được hết. Luôn mang nó trong lòng đêm ngày không ngủ được. - Nghệ thuật nhân hóa: Sóng nhớ bờ, không ngủ được nhằm bộc lộ tâm trạng nhớ thương, nỗi nhớ cồn cào, da diết không thể nào yên, không thể nào nguôi, nó cuồn cuộn dào dạt như những con sóng triền miên vô hồi, vô hạn. * Nỗi nhớ được diễn tả gián tiếp qua hình ảnh ẩn dụ sóng đã da diết. Sóng nhớ bờ nên ngày đêm sóng ru, sóng vỗ, sóng vẫn thao thức với thời gian. Nỗi nhớ ấy tự nhiên, hồn nhiên say đắm nhưng dường như vẫn chưa đủ mà còn được thể hiện lần nữa trực tiếp qua nỗi nhớ của nhân vật trữ tình em: \"Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức\" - Nỗi nhớ không chỉ chiếm lĩnh trọn vẹn mọi không gian, thời gian mà còn xâm chiếm tâm hồn người phụ nữ ngay cả trong cõi vô thức, tiềm thức lẫn ý thức, cả khi tỉnh lẫn khi mơ: \"Cả trong mơ còn thức\". => XQ cho người đọc thấy 1 điều vô cùng thú vị: Thời gian sinh hoạt có giới hạn thức – ngủ còn thời gian của tình yêu thì phá vỡ mọi giới hạn ấy, thống trị tất cả và dường như cõi mơ mới là nơi tình yêu thao thức nhất. Trong bài thơ Thuyền và biển, XQ cũng đã dựng lên được 1 thế giới khác thường của tình yêu qua nỗi nhớ mãnh liệt, kì lạ: Những ngày không gặp nhau Biển bạc đầu thương nhớ Những ngày không gặp nhau Lòng thuyền đau rạn vỡ Nếu từ giã thuyền rồi Biển chỉ còn sóng gió Nếu phải cách xa em Anh chỉ còn bão tố - Trong đoạn thơ này, cấu trúc thơ có sự thay đổi. Cả bài là những khổ thơ 4 dòng. Riêng đoạn thơ viết về nỗi nhớ lại được diễn tả bằng khổ 6 dòng đã phơi lộ cái tôi riêng của thi sĩ, một nỗi nhớ tràn đầy lòng yêu. Nó nồng nàn đằm thắm hơn cả nỗi nhớ của sóng với bờ, phải chăng những rung cảm mãnh liệt của trái tim yêu đã khiến cho lời thơ dài thêm để diễn tả cho thỏa cái ngút ngàn của nỗi nhớ. Hay nỗi nhớ trong lòng da diết, mãnh liệt đã xô đẩy, phá vỡ giới hạn, trật tự thông thường của những dòng thơ. Nhịp thơ thay đổi 2/3 thành 3/2 như những nhịp sóng, nhịp lòng dào dạt của 1 tình yêu đang khao khát yêu thương. 147
=> Vẻ đẹp hiện đại của tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu: Chủ động nói lên tiếng lòng của mình trong tình yêu tha thiết, cháy bỏng 3.2. Tình yêu gắn liền với lòng chung thủy và khát vọng. - Tình yêu không chỉ gắn với nỗi nhớ mà còn gắn liền với lòng chung thủy: Dẫu xuôi về phương Bắc Dẫu ngược về phương Nam Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh một phương. + Phương Bắc, phương Nam là hai miền không gian xa đằng đẵng. Hai chữ “xuôi” “ngược” lại chỉ sự vận động trái chiều làm cho không gian hai miền Nam Bắc càng trở nên cách xa vời vợi hơn. Vì thế, phương Bắc và phương Nam trở thành biểu tượng của sự xa xôi, cách trở. - Cũng từ đó, hai từ xuôi ngược trở thành biểu tượng cho những khó khăn, thử thách, trắc trở trong tình yêu. Bình thường, người ta nói ngược Bắc, xuôi Nam, Xuân Quỳnh nói ngược lại xuôi về phương Bắc, ngược về phương Nam. Phải chăng sự xa cách trong tình yêu dù vì bất cứ lí do gì cũng đều là nghịch lí, vì thế mà ngược thành xuôi (xuôi về phương Bắc), xuôi thành ngược (ngược về phương Nam). - Điệp từ dẫu được lặp lại hai lần như khẳng định bao thử thách, khó khăn phải vượt qua. Tình yêu, không chỉ có hạnh phúc nhớ nhung thổn thức vô bờ mà còn trải qua bao thử thách, chông gai mới đến được bến bờ hạnh phúc. Là một người phụ nữ tinh tế, nhạy cảm, hơn ai hết, Xuân Quỳnh cảm nhận rất rõ những khó khăn, thử thách này: Lời yêu mỏng mảnh như màu khói/ Ai biết tình anh có đổi thay! (Hoa cỏ may) - Vì thế, câu thơ “Nơi nào em cũng nghĩ – Hướng về anh một phương” khẳng định cái bất biến giữa cái vạn biến – lòng thủy chung. Nếu ở khổ thơ 5, viết về nỗi nhớ, Xuân Quỳnh dùng từ \"Nhớ\" đến khổ thơ thứ 6, Xuân Quỳnh dùng từ \"nghĩ\". Tình yêu của người phụ nữ đã có một sự vận động rất tinh tế. Nếu nhớ có thể có thể là mơ hồ, chập chờn, cảm tính tự nhiên thì nghĩ là một cái gì đó ám ảnh, thường trực, sâu sắc với tất cả những chiêm nghiệm, suy tư. Tình yêu của người phụ nữ thật vô cùng sắt son, chung thủy. - Tình yêu không chỉ gắn liền với lòng chung thủy mà còn gắn liền với sự tin tưởng, khát vọng hạnh phúc. Dẫu đời có ngược xuôi đầy trắc trở, Xuân Quỳnh vẫn tin tưởng mãnh liệt vào sự chiến thắng của tình yêu: “Ở ngoài kia đại dương Trăm ngàn con sóng đó Con nào chẳng tới bờ Dù muôn vời cách trở\" + Khổ thơ là những quan sát, trải nghiệm giản dị nhưng tinh tế, sâu sắc của XQ. Ở ngoài đại dương bao la, mênh mông, vô tận có trăm ngàn con sóng. Theo quy luật tự nhiên, 148
mọi con sóng dù ở ngoài đại dương xa xôi bao nhiêu đều thao thiết hướng vào bờ, và nhất định phải vượt qua muôn vời cách trở để đến với bờ. - XQ mượn quy luật của sóng để khẳng định tình yêu thủy chung của mình: Con sóng dào dạt ngoài đại dương bao la kia dù có đi muôn phương nhưng điểm dừng chân vẫn là bờ cát trắng. Sóng khát khao tới bờ như em bước qua mọi khó khăn cách trở để cập bến bờ hạnh phúc, tình yêu. - Khổ thơ còn là một chút dự cảm mong manh của nhà thơ, 1 chút chạnh lòng nghĩ đến những cách trở trong tình yêu. Điều đó hoàn toàn hợp lí và có thể xảy ra. Bởi \"những lời tình tự trên ghế đá/ Hôm nay yêu, mai đã xa rồi\". Nhưng điều tuyệt diệu hơn cả là XQ đã vượt qua những suy nghĩ, những dự cảm, lo âu ấy để tin rằng hạnh phúc sẽ đến với trái tim biết yêu thực sự, biết gìn giữ, trân trọng và thủy chung trong tình yêu. => Vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu: Sóng khao khát tới bờ như em khao khát có anh, sóng vượt qua mọi trở ngại để đến với bờ như em bước qua mọi khó khăn để cập bến hạnh phúc. Hình tượng sóng bỗng sáng ngời lên vẻ đẹp của tâm hồn người phụ nữ với những khao khát về tình yêu chung thủy, 1 mái ấm hạnh phúc. + “Thơ là qui luật nội tâm” (Xuân Diệu), nhưng nội tâm ấy phải là sự kết hợp cảm xúc và lí trí. Những suy tư trên sóng của Xuân Quỳnh đạt được sự kết hợp ấy, nên vừa thổn thức vừa lắng sâu. III. KẾT LUẬN 1. Nghệ thuật thể hiện - Âm điệu của bài thơ (được tạo nên bởi thể thơ năm chữ và phương thức tổ chức ngôn từ, cách đan xen các thanh bằng trắc ở âm tiết cuối mỗi dòng thơ, hình ảnh) như âm điệu của những con sóng trên biển cả, nhịp của những con sóng liên tiếp, triền miên, vô hồi vô hạn, khi dạt dào sôi nổi, lúc êm dịu lắng sâu…nhằm thể hiện nhịp tâm hồn, nhịp tình cảm tha thiết, sôi nổi, mãnh liệt của người phụ nữ. - Hình tượng nghệ thuật độc đáo – hình tượng sóng- hình tượng trung tâm, xuyên suốt bài thơ tạo nên giá trị đặc biệt cho bài thơ. Qua hình tượng này tác giả diễn tả vừa cụ thể vừa sinh động nhiều trạng thái, tâm trạng, những cung bậc cảm xúc khác nhau trong trái tim của người phụ nữ đang rạo rực khao khát yêu thương. - Bài thơ được kết cấu trên cơ sở nhận thức sự tương đồng, hòa hợp giữa hai hình tượng trữ tình: sóng và em. Cấu trúc song hành này tạo nên chiều sâu nhận thức và nét độc đáo của bài thơ. - Các biện pháp điệp từ, điệp cú pháp, câu hỏi tu từ, so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, điệp từ,...được sử dụng tài hoa, sáng tạo góp phần tạo nên vẻ đẹp của hình tượng thơ và mối liên hệ giữa em và sóng.đặc biệt cách sử dụng 4 câu thơ trong một khổ, riêng khổ 5 gồm 6 câu góp phần tạo nên nhịp điệu nồng nàn,nhớ thương, say đắm… -Ngôn ngữ: trong sáng, giản dị nhưng có khả năng gợi nhiều liên tưởng phong phú sâu xa. 149
2. Nội dung: Bài thơ đã giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu: vừa hiện đại, mới mẻ vừa rất truyền thống Người đọc yêu mến và nhớ mãi bài thơ \"Sóng\" nữa vì nó không đơn thuần là thơ nữa mà là những gì tinh tế nhất, huyền diệu nhất của trái tim con người, của tâm hồn người phụ nữ luôn nhạy cảm và tha thiết muốn được yêu thương. Bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách thơ của Xuân Quỳnh, rất dịu dàng, nữ tính nhưng cũng rất táo bạo và đầy khát khao trong hạnh phúc đời thường. 150
Search
Read the Text Version
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 7
- 8
- 9
- 10
- 11
- 12
- 13
- 14
- 15
- 16
- 17
- 18
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23
- 24
- 25
- 26
- 27
- 28
- 29
- 30
- 31
- 32
- 33
- 34
- 35
- 36
- 37
- 38
- 39
- 40
- 41
- 42
- 43
- 44
- 45
- 46
- 47
- 48
- 49
- 50
- 51
- 52
- 53
- 54
- 55
- 56
- 57
- 58
- 59
- 60
- 61
- 62
- 63
- 64
- 65
- 66
- 67
- 68
- 69
- 70
- 71
- 72
- 73
- 74
- 75
- 76
- 77
- 78
- 79
- 80
- 81
- 82
- 83
- 84
- 85
- 86
- 87
- 88
- 89
- 90
- 91
- 92
- 93
- 94
- 95
- 96
- 97
- 98
- 99
- 100
- 101
- 102
- 103
- 104
- 105
- 106
- 107
- 108
- 109
- 110
- 111
- 112
- 113
- 114
- 115
- 116
- 117
- 118
- 119
- 120
- 121
- 122
- 123
- 124
- 125
- 126
- 127
- 128
- 129
- 130
- 131
- 132
- 133
- 134
- 135
- 136
- 137
- 138
- 139
- 140
- 141
- 142
- 143
- 144
- 145
- 146
- 147
- 148
- 149
- 150