Important Announcement
PubHTML5 Scheduled Server Maintenance on (GMT) Sunday, June 26th, 2:00 am - 8:00 am.
PubHTML5 site will be inoperative during the times indicated!

Home Explore CÁC ĐỀ ÔN TẬP VỀ CHÍNH LUẬN &THƠ

CÁC ĐỀ ÔN TẬP VỀ CHÍNH LUẬN &THƠ

Published by Nguyễn Thị Vân Trường THPT Hiệp Hòa 1, 2021-10-31 15:23:10

Description: CÁC ĐỀ ÔN TẬP VỀ CHÍNH LUẬN &THƠ

Search

Read the Text Version

định nguồn gốc của những con sông là ở đâu mà chỉ cần biết một hiện thực là tất cả các dòng sông khi chảy đến mảnh đất quê hương đều \"bắt lên câu hát\", đều trở nên có hồn, có sinh khí và sức sống mới. - Vẻ đẹp của con người Việt Nam trên các dòng sông: Khi về đến đất nước mình, các dòng sông bỗng chốc như trở nên tươi đẹp và người thổi hồn, thổi sinh khí và sức sống vào những con sông ấy chính là những người dân đất Việt. Các dòng sông \"bắt lên câu hát\" bởi nó hòa theo tiếng hát của những con người đang lao động. Họ vừa hăng say lao động, chèo đò, kéo thuyền vượt thác vừa ca hát ngợi ca quê hương, đất nước; ca hát về tình yêu lao động và khao khát đóng góp công sức của mình để xây dựng, làm giàu cho đất nước. Vẻ đẹp của con người Việt Nam trong lao động đã được nhà thơ Huy Cận miêu tả đầy cảm xúc trong bài thơ \"Đoàn thuyền đánh cá\": Ta hát bài ca gọi cá vào, Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao. Biển cho ta cá như lòng mẹ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào. Đó là tiếng hát của con người trên dòng sông Lô trong thơ Tố Hữu: Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca... (Ta đi tới - Tố Hữu) Vẻ đẹp của con người lao động trên sông nước cũng từng được nhà văn Nguyễn Tuân thể hiện rất sâu sắc qua nhân vật ông lái đò trong tùy bút \"Người lái đò Sông Đà\". Cuộc đời người lái đò vô danh nơi ngọn thác hoang vu khuất nẻo giữa núi rừng Tây Bắc đã trở thành bức tượng đài sừng sững về con người trong công cuộc chinh phục thiên nhiên để giành lấy cuộc sống. - Đất nước có trăm núi, ngàn sông và mỗi dòng sông mang một dáng hình, màu vẻ khác nhau. Trên mỗi dòng sông là hình ảnh con người Việt Nam với những vẻ đẹp khác nhau. Các câu thơ cho thấy, mỗi con người Việt Nam trong công cuộc lao động mưu sinh lại bộc lộ ra những vẻ đẹp khác nhau để rồi cuối cùng tạo nên một dòng chảy văn hóa kéo dài suốt 4000 ngàn năm văn hiến, tạo ra vẻ đẹp trăm màu của non sông đất nước. Từ những vẻ đẹp ấy của con người Việt Nam, chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng đất nước sẽ đi đến một ngày mai tươi sáng. Tiểu kết: Đoạn thơ sử dụng chất liệu chính là ca dao, dân ca. Điều đáng chú ý là nhà thơ không trích dẫn nguyên văn câu ca dao mà chỉ lấy lại ý để thể hiện những liên tưởng, suy ngẫm vừa độc đáo vừa sâu sắc. Từ “Đất Nước” được viết hoa và nhắc lại nhiều lần cùng giọng thơ chính luận trữ tình đã bộc lộ suy nghĩ sâu sắc và nói lên những tình cảm tha thiết đối với đất nước làm cho nội dung chính luận vốn khô khan trở nên mềm mại, ngọt ngào thấm sâu vào lòng người, góp phần bộc lộ tư tưởng bao trùm, xuyên suốt ấy là tư tưởng đất nước của nhân dân. III. ĐÁNH GIÁ CHUNG - Nghệ thuật: Thể thơ tự do, phóng túng với những câu thơ dài ngắn khác nhau, co duỗi hợp lí, không cần vần để liên kết. Nhịp điệu linh hoạt, phát huy tối đa tính nhạc, giọng thơ trữ tình chính luận với nhiều đoạn thơ nhẹ nhàng, 51

êm ái, trữ tình ngọt ngào đậm chất Huế. Cảm xúc kết hợp với suy tưởng, chính luận kết hợp với trữ tình và đặc biệt sử dụng sáng tạo các chất liệu văn hóa, văn học dân gian như ca dao dân ca, cổ tích, truyền thuyết, thần thoại, thành ngữ... nối quá khứ với hiện tại và tương lai, từ đó để thức tỉnh thanh niên. Điều đáng nói là những suy tưởng ấy không được phát biểu thành các mệnh đề, triết lí, châm ngôn mà được thể hiện một cách đầy cảm xúc qua những lời thủ thì, tâm tình của đôi lứa yêu nhau. Vì thế mà nó không giáo điều, khô khan mà dễ đi vào lòng người. - Nội dung: Đoạn trích \"Đất nước\" đã thể hiện những cảm nhận, suy ngẫm rất mới mẻ của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm về đất nước. Nhà thơ đã cảm nhận về đất nước một cách có chiều sâu trên nhiều bình diện như địa lí, lịch sử, văn hóa... Đóng góp nổi bật nhất của đoạn trích là nhấn mạnh tư tưởng \"Đất Nước của Nhân dân\". LUYỆN ĐỀ Đề bài 1: Đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích “Đất nước” (Trích trường ca “Mặt đường khát vọng”) của Nguyễn Khoa Điềm. 1. MỞ BÀI: - Giới thiệu về: nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, tác phẩm “Mặt đường khát vọng” và đoạn thơ Đất Nước: + Nguyễn Khoa Điềm là một trong những cây bút tiêu biểu trong nền thơ ca kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người Việt Nam. + Trường ca \"Mặt đường khát vọng\" được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. + Đoạn thơ trên thuộc chương V - chương \"Đất nước\" của bàn trường ca; thể hiện những nhận thức sâu sắc về đất nước, trong đó nổi bật là hình ảnh đất nước hiện lên trong quan hệ gắn bó với mỗi con người. - Dẫn dắt: Chất liệu văn hóa dân gian trong đoạn trích “Đất Nước” được sử dụng vừa quen thuộc vừa mới lạ. II. THÂN BÀI 1. Sử dụng sáng tạo chất liệu văn hóa, văn học dân gian 1.1. Khái niệm văn hóa, văn học dân gian Văn học dân gian là linh hồn dân tộc, kết tinh ở đó những giá trị tinh thần của biết bao thế hệ người dân lao động đã sáng tạo ra nó. Văn học dân gian đã nuôi dưỡng tâm hồn 52

biết bao thế hệ người dân Việt Nam một cách kỳ diệu và đã góp phần làm nên một nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc. Trong đoạn trích “Đất Nước” nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng chất liệu văn hóa văn học dân gian để thể hiện những cảm nhận, suy ngẫm của mình về đất nước. Đất nước được cảm nhận một cách toàn diện ở nhiều phương diện là chiều dài về lịch sử, chiều rộng về địa lý và chiều sâu về mặt văn hóa phong tục. Từ đó tạo ra những rung động thấm thía, khiến hình ảnh đất nước trở nên gần gũi thân thiết với mỗi con người, khơi dậy tình cảm và trách nhiệm của mỗi người với đất nước, nhân dân. 1.2. Nhà thơ đã vận dụng sáng tạo chất liệu văn hóa dân gian * Chất liệu dân gian được sử dụng rất đa dạng, phong phú, tất cả đều gần gũi, quen thuộc với mỗi con người Việt Nam - Nhắc đến cổ tích: Cách mở đầu của cổ tích “ngày xửa, ngày xưa” - Nhắc đến truyền thuyết: Thánh Gióng, Lạc Long Quân và Âu Cơ - Nhắc đến những phong tục, lối sống, tập quán sinh hoạt: hình ảnh miếng trầu, tóc bới sau đầu - Nhắc đến những vật dụng quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày: cái kèo, cái cột, hạt gạo xay, giã, giần, sàng, hòn than, con cúi,.... - Sử dụng thành ngữ: Gừng cay muối mặn, một nắng hai sương - Sử dụng lại ca dao, dân ca: + Về tình nghĩa sâu nặng:“Tay bưng chén muối đĩa gừng Gừng cay muối mặn ta đừng quên nhau” + Về tình yêu đôi lứa, không gian hò hẹn của tình yêu: Khăn thương nhớ ai… + Về lãnh thổ, núi rừng, sông bể: Con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi bạc Con cá ngư ông móng nước ngoài khơi + Về phẩm chất say đắm, chung thủy trong tình yêu: Yêu em từ thuở trong nôi Em nằm em khóc anh ngồi anh ru + Về sự quý trọng công sức lao động: Cầm vàng mà lội qua sông Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng + Về sự quyết liệt chống giặc ngoại xâm: Thù này ắt hẳn còn lâu Trồng tre thành gậy gặp đâu đánh què - Ngoài ra tác giả còn nhắc đến những tích truyện về núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, đất tổ Hùng Vương, thắng cảnh Hạ Long, núi Bút, non Nghiên để nói đến sự hóa thân của nhân dân thành đất nước. * Cách vận dụng độc đáo, sáng tạo: - Vận dụng ca dao, tục ngữ nhưng dẫn dắt khéo léo, linh hoạt, lúc lấy nguyên vẹn toàn bài khi thì chỉ mượn ý mượn tứ để khẳng định, tôn vinh những nét đẹp trong sinh hoạt và tâm hồn con người Việt Nam. Đó là sự chăm chỉ chịu thương, chịu khó; là tấm lòng thủy chung son sắt trong tình yêu; là sự duyên dáng, ý nhị trong từng lời ăn tiếng nói... Ví dụ: trích nguyên các câu thành ngữ, lấy ý các bài ca dao: + \"Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn\" lấy ý từ bài ca dao \"Tay nâng chén muối đĩa gừng/ Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau\" hay \"Muối ba năm muối 53

hãy còn mặn, gừng chín tháng gừng hãy còn cay/ Đôi ta tình nặng nghĩa dày/ Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa\" + \"Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng\" + \"Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm\" lấy ý từ bài ca dao \"Khăn thương nhớ ai/ Khăn rơi xuống đất...\" + Chỉ lấy các từ mở đầu quen thuộc trong truyện cổ tích “Ngày xửa, ngày xưa” - Liệt kê hàng loạt những câu chuyện từ xa xưa trong truyền thuyết, cổ tích dân tộc để làm nổi bật vẻ đẹp trù phú của đất nước, những truyền thống quý báu của nhân dân ta đồng thời khẳng định vai trò to lớn của nhân dân trong việc \"làm ra Đất Nước\" Ví dụ: Truyền thống đoàn kết, tinh thần cảnh giác cao độ trước kẻ thù \"dân mình biết trồng tre mà đánh giặc\", tinh thần uống nước nhớ nguồn \"Hằng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ\". Hoặc tô đậm sự trù phú tươi đẹp của quê hương: \"Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu ... Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm\" => Những chất liệu ấy vừa quen thuộc (gần gũi với cuộc sống của mỗi con người Việt Nam) vừa mới lạ (với những sáng tạo mới mẻ, hấp dẫn) 2.3. Tác dụng nghệ thuật của chất liệu văn hóa, văn học dân gian - Nối quá khứ hiện tại và tương lai một cách sâu sắc. Từ đó, thấy được truyền thống tốt đẹp của dân tộc đã được hình thành gìn giữ từ bao đời. Vì thế mà nó có ý nghĩa thức tỉnh thế hệ trẻ, giúp họ thấy được trách nhiệm của mình đất nước. - Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng đậm đặc đã tạo nên một không gian nghệ thuật riêng của đoạn trích, vừa bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa giàu tưởng tượng, bay bổng, mơ mộng. - Bằng việc sử dụng đậm đặc chất liệu văn hóa dân gian, bên cạnh việc lí giải, định nghĩa Đất Nước ở nhiều bình diện [không gian, thời gian lịch sử, truyền thống văn hóa], đoạn trích đã thể hiện một cách có chiều sâu tư tưởng đất nước của nhân dân. Đất nước này không chỉ là đất nước của nhân dân mà còn là đất nước của ca dao, thần thoại. Trong đó, văn hóa văn học dân gian chính là sản phẩm của người dân lao động, của tâm hồn người dân qua bao nhiêu thế hệ. Đó chính là một cách để khắc sâu hơn nữa tư tưởng đất nước của nhân dân. => Đây là cách cảm nhận mới lạ độc đáo về đất nước tạo nên một nét rất riêng, một vẻ đẹp riêng cho thơ Nguyễn Khoa Điềm, nhất là khi viết về đề tài đất nước vốn đã rất quen thuộc. Đoạn thơ khẳng định tài năng sáng tạo, sự am hiểu tường tận về văn hóa dân gian của tác giả. Mặt khác, văn hóa văn học dân gian là một cơ sở quan trọng để khám phá, tìm hiểu tác phẩm nói chung và đoạn thơ nói riêng. 2. Thể loại, nhịp điệu Thể thơ tự do phóng túng với những câu thơ dài ngắn không đều co duỗi hợp lý, không cần vần để liên kết kết hợp với nhịp điệu thơ linh hoạt đã phát huy tối đa tính nhạc, tạo ra những đoạn thơ câu thơ nhẹ nhàng êm ái đậm chất Huế như: - “Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình” 54

- “Em ơi em Hãy nhìn rất xa Vào bốn nghìn năm đất nước” 3. Chính luận kết hợp với trữ tình, cảm xúc kết hợp với suy tưởng 3.1. Chất chính luận - Khẳng định tư tưởng đất nước của nhân dân - Thức tỉnh thanh niên vùng đô thị tạm chiếm miền Nam, giúp họ nhận ra vai trò trách nhiệm của mình trước đất nước, nhân dân, từ đó xuống đường tham gia ra vào cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc. - Kết cấu của tác phẩm để trả lời 3 câu hỏi về Đất Nước: + Đất nước có từ bao giờ? + Đất nước tồn tại như thế nào? + Đất nước của ai? - Nguyên tắc lập luận trong đoạn trích: Tác giả luôn đưa ra những phân tích lý giải cụ thể, để rồi từ đó đi đến khái quát, nâng cao. Ví dụ trong đoạn “Những người vợ nhớ chồng … những cuộc đời đã hóa núi sông ta” tác giả đã kể tên một số địa danh, danh lam thắng cảnh… để ca ngợi vẻ đẹp của non sông đất nước và cho thấy đó là do hóa thân của nhân dân mà thành. Để rồi từ một số các địa danh cụ thể ấy, tác giả đi đến khẳng định tất cả mọi hình sông, thế núi, mỗi tấc đất, con sông, ruộng đồng, gò bãi trên đất nước tươi đẹp này đều là do nhân dân hóa thân, khắc ghi công lao, dấu vết của những người dân vô danh, bình dị. 3.2. Chất trữ tình - Chất trữ tình thể hiện rõ nhất, đậm nét nhất ở kết cấu như một lời tâm sự, thủ thỉ, tâm tình của đôi lứa yêu nhau. - Thể hiện ở lối xưng hô anh – em, đặc biệt là qua lời tâm tình ngọt ngào “Em ơi em”. - Thể hiện gián tiếp qua việc sử dụng các hình ảnh ảnh gần gũi, quen thuộc, thân thiết với con người như hạt gạo, miếng trầu, chiếc khăn… - Từ ngữ thể hiện tình cảm một cách trực tiếp như là nhớ. yêu nhau, quý… 3.3. Chất suy tưởng - Chất suy tưởng cũng là một thế mạnh tạo nên thành công của đoạn trích, thể hiện rõ nhất qua những phát hiện mới mẻ sâu sắc của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm như: nhìn vào mỗi hình sông, thế núi, tên địa danh… mà tác giả suy ngẫm và nhận ra đất nước là máu thịt của nhân dân dân do nhân dân tạo nên, cũng chính nhân dân đã làm nên, gìn giữ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Từ những cái quen thuộc như truyện cổ tích, ca dao, những tên địa danh, hình sông thế núi…ấy mà tác giả cảm nhận được những khát vọng, ao ước, lối sống của cha ông. - Điều đáng nói là những suy tưởng ấy không được phát biểu thành những mệnh đề triết lý châm ngôn mà được thể hiện qua những hình ảnh độc đáo áo đầy cảm xúc của chủ thể trữ tình 3.3. Tác dụng nghệ thuật 55

Cách kết hợp chính luận với trữ tình, cảm xúc kết hợp với suy tưởng đã khiến đoạn thơ không còn là lời giáo huấn, răn dạy khô khan mà ý thơ từ chỗ đầy chất chính luận bỗng trở lên mềm mại như một lời nhắn nhủ thủ thỉ tâm tình đầy yêu thương, dễ đi vào lòng người, giúp thế hệ trẻ tự ý thức được vai trò trách nhiệm của mình với đất nước. III. KẾT BÀI - Qua đoan trích, ta thấy được tư tưởng sâu sắc, mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm. Đoạn thơ kết tinh tư tưởng yêu nước, niềm tự hào dân tộc của nhà thơ, cũng là đóng góp lớn của ông đối với thơ ca dân tộc. Thành công đòi hỏi ở nhà thơ Nguyễn Khoa Điểm một vốn sống, vốn văn hóa phong phú, một sự nhận thức sâu sắc, mới mẻ về Đất nước, về Nhân Dân. Đồng thời cho thấy ở nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có một tài năng, một bản lĩnh vững vàng của người cầm bút và đặc biệt cảm xúc mãnh liệt đã làm mềm mại những vấn đề tưởng rất cứng nhắc, khô khan để nó trở nên đi vào lòng người. - Qua đó, nhà thơ đã để lại bài học sâu sắc về cuộc sống: biết trân trọng những giá trị văn hóa dân gian; bài học về sáng tạo nghệ thuật: đem đến những sáng tạo, mới mẻ từ những giá trị gần gũi, quen thuộc. Đề số 2: Những cảm nhận mới mẻ, sâu sắc của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm trong đoạn trích “Đất nước” (Trích trường ca “Mặt đường khát vọng”). I. MỞ BÀI - Giới thiệu tác giả, tác phẩm - Tình cảm đối với đất nước, đối với nhân dân cũng là một trong những nguồn cảm hứng bất tận trong thơ ca Việt Nam, đặc biệt là trong các sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm. - Được trích trong trường ca “Mặt đường khát vọng”, với “Đất nước”, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa chúng ta đến với những khám phá cực kỳ mới mẻ về đất nước. II. THÂN BÀI 1. Khái quát - Hoàn cảnh ra đời: Tk bài phân tích - Đề tài đất nước: Là đề tài lớn, quen thuộc, đặc biệt trong những năm tháng đất nước có chiến tranh. - Giới thiệu về cảm nhận mới mẻ, sâu sắc của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước: + Cảm nhận đất nước ở ba chiều trong khi các nhà thơ khác thường viết về đất nước ở một thời gian nhất định: Tk bài phân tích + Nếu các nhà thơ khác thường viết về một đất nước bằng các hình ảnh kì vĩ, hoàng tráng… thì Nguyễn Khoa Điềm lại cho thấy một đất nước gần gũi thân thiết đến không ngờ: Tk bài phân tích + Thể hiện tư tưởng đất nước của nhân dân 56

2. Nhà thơ cảm nhận đất nước ở ba chiều lịch sử, địa lý và văn hóa và cho thấy đất nước gần gũi thân thiết với mỗi con người (Phân tích đoạn từ đầu … làm nên đất nước muôn đời) - Thời điểm ra đời của Đất nước + Đất nước có trước khi mỗi con người, mỗi thế hệ lớn lên, đó là một đất nước có từ ngàn xưa từ rất lâu đời (Khi ta lớn lên/Đất nước đã có rồi). + Đất nước có từ khi nhân dân ta biết đến tục ăn trầu, phụ nữ ta biết búi tóc sau đầu, con người biết yêu thương nhau thủy chung tình nghĩa, biết đặt tên cho \"cái kèo\", \"cái cột\" rồi biết làm ra hạt gạo để nuôi sống chính mình. + Đất nước trong những câu chuyện cổ đặc biệt là truyện cổ tích, những câu chuyện vốn rất thân quen và gần gũi đối với mỗi con người ngay từ thuở ấu thơ, từ trong những lời kể thiết tha, ngọt ngào của mẹ, thậm chí có trong những đồ vật bình thường bình dị nhất trong cuộc sống con người như cái kèo, cái cột… => Nguyễn Khoa Điềm gợi lên một hình tượng Đất Nước có từ rất xa xưa, từ rất lâu đời và gần gũi thân thiết với con người. - Phạm vi tồn tại của Đất nước + Đất nước không chỉ là không gian sống của mỗi con người mà Đất Nước còn tồn tại hiện diện ngay trong bản thân của mỗi cá nhân: \"Đất Nước là máu xương của mình\", “Trong anh và em hôm nay/Đều có một phần đất nước”. => Đất nước không phải là khái niệm mơ hồ, bí ẩn mà Đất nước mang một vẻ gần gũi, thiết tha hòa mình với con người, với cuộc sống của nhân dân ta từ bao đời nay. - Sự lớn lên của Đất nước: + \"Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc\" => Chính quá trình đấu tranh bền bỉ, kiên cường đấu tranh chống giặc ngoại xâm đã giúp cho Đất nước trưởng thành vững chãi hơn. + Trong quá trình lao động lam lũ để làm ra hạt gạo, của cải vật chất - Những định nghĩa độc đáo về Đất nước + Đất nước là sự thống nhất của ba phương diện chiều rộng không gian địa lý, bề dày thời gian lịch sử và chiều sâu văn hóa. + Đất nước có trong mỗi con người và chính là sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung, là sự tiếp nối của các thế hệ. 3. Tư tưởng đất nước của nhân dân (Phân tích đoạn còn lại) - Nhân dân đã hóa thân làm ra Đất Nước: Hình ảnh \"những người vợ nhớ chồng\", \"cặp vợ chồng yêu nhau\", \"người học trò nghèo\" và \"những người dân nào\". 57

- Nhân dân lao động đã dựng xây và chiến đấu hết mình để bảo vệ Đất Nước \"Nhiều người đã trở thành anh hùng/Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ\". - Nhân dân còn chính là người đã tạo ra truyền thống văn hóa lịch sử của Đất Nước, lịch sử Đất Nước không phải là sự thay đổi triều đại hay nối tiếp ngôi báu của các ông hoàng bà chúa mà lại là sự nối tiếp của các thế hệ nhân dân. - Nhân dân chính là người đã sáng tạo ra dòng chảy văn hóa cho cả một dân tộc, nhiều giá trị vật chất và tinh thần đã được nhân dân giữ lại và truyền đạt cho đời sau, để con cháu phát huy và kế thừa những truyền thống tốt đẹp của cha ông xây dựng bao đời. III. KẾT BÀI - Điểm mới trong sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm đều xuất phát từ tư tưởng tiến bộ trong thời kỳ Cách mạng ấy là tư tưởng “Đất Nước của dân”, do dân và vì dân. - Giọng thơ thủ thỉ tâm sự, ngọt ngào bộc lộ những cảm xúc chân thành, thiết tha phối hợp với cách sử dụng chất liệu văn hóa dân gian nhuần nhuyễn, sáng tạo đã làm cho bài thơ trở thành tác phẩm viết về đề tài đất nước tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. VIỆT BẮC Tố Hữu I. MỞ BÀI Tố Hữu là lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam. Từ đầu đến cuối ông đều là nhà thơ của lí tưởng cộng sản. Con đường thơ của ông luôn song hành và phản ánh chân thật các chặng đường gian khổ, hi sinh nhưng cuối cùng đi đến thắng lợi vẻ vang của dân tộc. Thơ Tố Hữu dễ thuộc, dễ nhớ và đậm đà bản sắc dân tộc, giọng điệu tâm tình ngọt ngào dễ đi vào lòng người. Bài thơ \"Việt Bắc\" được đánh giá là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu, là một trong số các bài thơ hay nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ in trong tập thơ cùng tên năm 1954. II. PHÂN TÍCH 1. Giới thiệu về bài thơ 1.1. Hoàn cảnh sáng tác - Sau 9 năm kháng chiến đầy gian khổ, hi sinh dân tộc ta đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Hiệp định Giơnevơ được kí kết, hoà bình được lập lại, một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Tháng 10-1954, các cơ quan của Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. – Miền Bắc bước vào thời kì xây dựng đất nước. Cuộc sống thay đổi có tính chất bước ngoặt, từ chiến tranh sang hoà bình, từ núi rừng về thành thị. Biết bao lưu luyến ân tình với những nơi đã từng đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi. =>Nhân sự kiện có tính thời sự và lịch sử ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc” vào tháng 10-1954. 58

Hơn nữa, trong hoàn cảnh ấy, người ta chó nhu cầu muốn nhìn lại chặng đường lịch sử đã đi qua, lí giải chiến tháng và xác định con đường đi tiếp. Hoàn cảnh ấy đã chi phối đến cảm hứng sáng tác và nội dung của bài thơ. 1.2. Kết cấu bài thơ: - Nhà thơ đã chọn hình thức thể hiện là lối đối đáp của ca dao dân ca nhưng nếu trong ca dao, dân ca là đối đáp giữa đôi lứa yêu nhau thì bài thơ là lời đối đáp giữa người đi là những người cán bộ cách mạng miền xuôi với người ở là người dân Việt Bắc. Hình thức đối đáp làm cho bài thơ mang âm hưởng của những bài hát giao duyên vừa đằm thắm, thiết tha vừa sâu nặng nghĩa tình. - Thực ra, bên ngoài là đối đáp, còn bên trong là lời độc thoại, là biểu hiện tâm tư tình cảm của chính nhà thơ, của những người tham gia kháng chiến. 1.3. Đề tài: - Đề tài của bài thơ là đề tài chia li, tiễn biệt là một đề tài quen thuộc trong thơ ca xưa nay. Thế giới văn học tuyệt vời đã lưu giữ cho ta bao cuộc chia ly bất tử. Nhớ cuộc chia ly Lý Bạch với Mạnh Hạo nhiên trên lầu Hoàng Hạc. Cuộc từ biệt Thúc Sinh của Thúy Kiều sau những ngày mặn nồng, thắm thiết. Cuộc chia li chói ngời sắc đỏ trong thơ Nguyễn Mĩ …Và đến \"Việt Bắc\" của Tố Hữu người đọc không thể quên cuộc chia tay lịch sử giữa những người cách mạng miền xuôi với người Việt Bắc. - Thơ ca về chia li, tiễn biệt thường chất chứa buồn đau, sầu muộn: \"Người lên ngựa, kẻ chia bào Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san (Truyện Kiều - Nguyễn Du) “Cùng trông lại lại cùng chẳng thấy Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu Ngàn dâu xanh ngắt một màu Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai” (Chinh phụ ngâm) Nhưng trong \"Việt Bắc\" Tố Hữu đã thể hiện những sắc điệu mới bởi bài thơ được sáng tác trong ngày chiến thắng, chia tay để rồi gặp lại, cả người đi người ở đều hướng đến một viễn cảnh tươi đẹp của đất nước. Điều này cũng cho thấy Tố Hữu luôn là nhà thơ của lẽ sống lớn, niềm vui lớn, tình cảm lớn. Thơ ông không đi vào những tình cảm cá nhân riêng tư mà chỉ hướng đến những cảm xúc lịch sử của lòng người, của thời đại. Khúc ca về cuộc chia tay của nhân dân VB với cán bộ về xuôi đã minh chứng cho điều Xuân Diệu nói: “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình” 1.4. Cặp từ mình - ta 59

- Mình - ta vốn là cách xưng hô quen thuộc trong đời sống hàng ngày, là cách xưng hô của vợ chồng hoặc giữa những người có mối quan hệ thân thiết, gắn bó. - Trong ca dao, dân ca cặp từ mình - ta thường xuất hiện trong các bài ca dao giao duyên như: Mình nói với ta mình hãy còn son Ta đi qua ngõ thấy con mình bò Con mình những trấu cùng tro Ta đi lấy nước tắm cho con mình Hay: Mình về có nhớ ta chăng Ta về ta nhớ hàm răng mình cười Hoặc: Mình về ta chẳng cho về Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ - Cách xưng hô mình - ta gần gũi thân thương được Tố Hữu vay mượn trong ca dao, dân ca. Sáng tạo của nhà thơ là ở chỗ nếu trong ca dao, dân ca mình - ta là đôi lứa yêu nhau với một nam một nữ thì trong bài thơ mình - ta là người đi (người cán bộ miền xuôi) và kẻ ở (nhân dân Việt Bắc). Sáng tạo hơn nữa là trong bài thơ mình - ta có sự chuyển hóa, hòa quyện thành sự đồng vọng diễn tả chung tâm tư của cả người đi, kẻ ở. Cả mình và ta đều chung những kỉ niệm gắn bó, chung một nỗi niềm tâm trạng, nay phải chia tay biết bao lưu luyến, bịn rịn. Bài thơ đã vượt ra khỏi những cảm xúc riêng tư để chuyển tải một vấn đề rất lớn của đời sống cách mạng – đó là vấn đề ân nghĩa thủy chung của cách mạng với nhân dân. 1.5. Bố cục và vị trí đoạn trích - Bố cục: Tác phẩm được chia làm hai phần: Phần đầu tái hiện giai đoạn gian khổ nhưng vẻ vang của cách mạng và kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc nay đã trở thành những kỉ niệm sâu nặng trong lòng người cán bộ kháng chiến. Phần sau nói lên sự gắn bó giữa miền ngược với miền xuôi trong viễn cảnh đất nước hòa bình và kết thúc là lời ngợi ca công ơn của Bác, của Đảng đối với dân tộc. - Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần một của bài thơ là nỗi nhớ về một Việt Bắc gian khổ và nghĩa tình trong kháng chiến. 1.6. Nội dung chính của đoạn trích Gồm hai nội dung: - Ôn lại một thời kì lịch sử hào hùng, vẻ vang của dân tộc. Có thể đánh giá bài thơ là bản tổng kết bằng thơ về 15 năm kháng chiến trên chiến khu Việt Bắc. 60

- Mười lăm năm kháng chiến cũng là 15 năm gắn bó giữa những người cán bộ cách mạng miền xuôi với nhân dân Việt Bắc. Đoạn trích là cuộc chia tay đầy lưu luyến bịn rịn, bâng khuâng, từ đó thể hiện tình cảm gắn bó, thủy chung, son sắc giữa người đi và kẻ ở. => Việt Bắc vừa là bản anh hùng ca vừa là bản tình ca về 15 năm kháng chiến chống Pháp. 2. Phân tích 8 câu thơ đầu 2.1. Khái quát - Kết cấu đối đáp được thể hiện rất rõ ngay từ tám câu thơ đầu tiên của bài thơ. Người ta đã có lý khi nói thơ Tố Hữu là thứ thơ \"đốt cháy trái tim để trở thành trí tuệ\", với ý tưởng trữ tình hoá sự kiện chính trị cũng như đời sống chính trị của đất nước, viết \"Việt Bắc\", Tố Hữu đã sáng tạo nên một cấu tứ rất độc đáo-khúc hát đối đáp trong cuộc chia tay giữa người ở và người về xuôi để khơi gợi những kỉ niệm gắn bó trong những ngày kháng chiến gian khổ mà vẻ vang. - Cặp từ mình - ta: gợi tình cảm gắn bó thiết tha, mặn nồng (Tk phần giới thiệu bài thơ) 2.2. Bốn câu thơ: “Mình về mình có nhớ ta Mười năm năm ấy thiết tha mặn nồng. “Mình về mình có nhớ không Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?” Lời ướm hỏi ngọt ngào của người ở lại - Bốn câu thơ đầu của bài thơ là lời ướm hỏi ngọt ngào của người ở lại. Trong cuộc chia tay nhà thơ đã để cho người ở lại là người lên tiếng trước bởi trong cuộc chia tay những người ở lại thường là người nhạy cảm hơn. Đoạn thơ có hai câu hỏi tu từ \"Mình về mình có nhớ ta\" và Mình về mình có nhớ không\", hỏi không phải để được trả lời mà hỏi để nhắn nhủ, nhắc nhở người đi, ra về hãy nhớ. Con người đang đứng trước cuộc biệt li nên hình thức câu thơ cũng nhuốm màu li biệt. Tác giả đã đặt hai từ mình - ta ở vị trí đầu và cuối câu tạo cảm giác xa xôi, cách biệt. Còn ở giữa là cụm từ \"mình có nhớ\" thể hiện tâm trạng băn khoăn, nhớ thương của người ở lại. - Cụm từ \"mình có nhớ\" được lặp lại 2 lần, riêng từ nhớ được lặp lại 4 lần trong thể hiện nỗi nhớ da diết, khôn nguôi của người ở lại. Họ lo sợ mai này bạn mình về nơi phồn hoa đô hội đầy cám dỗ sẽ không giữ được tình cảm son sắt, thủy chung. \"Việt Bắc\" là bài ca tình nghĩa. Câu hỏi vang lên dồn dập như nhắc nhở, như khắc sâu những tình cảm tốt đẹp của quân dân, của cách mạng và kháng chiến, của mình với ta. Nỗi niềm, tình cảm ấy của người ở lại còn được nhà thơ Tố Hữu nhắc đến trong đoạn thơ sau của bài thơ: Mình về thành thị xa xôi Nhà cao còn nhớ núi đồi nữa chăng Phố đông có nhớ bản làng Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng 61

- Lời người ở lại khơi gợi lại thời gian gắn bó trong suốt 15 năm. Câu thơ phảng phất âm hưởng của một câu Kiều về 15 năm tình nghĩa sâu nặng, thủy chung của Thúy Kiều và Kim Trọng: Những là dày ước mai ao Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình Mười lăm năm ấy là mười lăm năm gắn bó giữa những người cách mạng miền xuôi với nhân dân Việt Bắc trên chiến khu cách mạng. Mười lăm năm ấy được tính từ khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940, từ khi Hồ Chí Minh về nước bắt tay vào xây dựng khu căn cứ địa cách mạng tại chiến khu Việt Bắc để làm thủ đô kháng chiến của dân tộc: Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt Trắng rừng biên giới nở hoa mơ Bác về im lặng con chim hót Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ Cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc đã cùng ăn, cùng ở, cùng chiến đấu gắn bó khăng khít và làm nên chiến thắng lẫy lừng của dân tộc “vang dội năm châu, chấn động địa cầu” và rồi là một cuộc chia tay lịch sử, người cán bộ cách mạng rời Việt Bắc về xuôi. Mười lăm năm \"Mình đây ta có đắng cay ngọt bùi\", mười lăm năm \"bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng\", ...làm sao kể xiết biết bao ân tình. Bốn từ \"thiết tha mặn nồng\" cho thấy tình cảm giữa Việt Bắc và cán bộ thật thủy chung sâu nặng, keo sơn bền chặt. Hỏi không chỉ để nhắn nhủ người đi mà đây cũng là cách để người ở lại bày tỏ tình cảm của mình. Không biết ra về mình có nhớ không, còn ta không thể nào quên những ngày tháng ấy. - Lời người ở lại còn gợi nhớ cả không gian Việt Bắc qua các hình ảnh chỉ thiên nhiên như cây, núi, sông, nguồn. Ra về rồi, thấy cây hãy nhớ đến núi rừng chiến khu, nhìn sông hãy nhớ đến suối nguồn Việt Bắc. Cách gợi nhắc như lời dặn dò kín đáo mà chân thành. Việt Bắc là cội nguồn cách mạng, \"Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa\", là trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến. Câu thơ này là sự vận dụng linh hoạt và tài tình của nhà thơ Tố Hữu với câu tục ngữ \"Uống nước nhớ nguồn\". Phải chăng người ở muốn khẳng định có những ngày tháng gian khổ ở Việt Bắc mới có ngày chiến thắng về ta, để hôm nay mình được về thủ đô Hà Nội. Nên dù có đi đâu, về đâu hãy nhớ đến mảnh đất Việt Bắc, cái nôi của cách mạng làm nên chiến thắng, là cội nguồn của dân tộc. Đó là đạo lý làm người, là truyền thống văn hóa của người Việt Nam. Qua đó nhà thơ cũng nhắc nhớ các thế hệ con cháu phải biết hướng về gốc gác, về nơi bén rễ, về cái nôi cho ta hình hài. => Bốn câu thơ như một bài ca dao đầy chất trữ tình thể hiện những băn khoăn, trăn trở của người ở lại, của Việt Bắc thuỷ chung với cách mạng. Tố Hữu đã chọn được cách nói để khơi nguồn cho cảm xúc, mạch thơ trong những câu mở đầu này cứ thế tuôn chảy suốt bài thơ. 2.3. Bốn câu thơ: Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi Áo chàm đưa buổi phân ly Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay... 62

Tiếng lòng của người ra đi *Hai câu đầu: - Trước những lời tha thiết của người ở lại, người ra đi không trực tiếp trả lời những câu hỏi của người ở lại mà lắng nghe, rồi như tự nói với chính mình như một lời độc thoại nội tâm trữ tình đầy sâu lắng. Đại từ \"ai\" tuy phiếm chỉ nhưng rất cụ thể, gần gũi, thân thương và chỉ người ở lại. Cồn là hình ảnh gợi không gian núi rừng Việt Bắc. Trong câu thơ hình ảnh người Việt Bắc hiện lên giữa không gian thiên nhiên quen thuộc cất lên những lời tha thiết, nhớ thương. Người ra cũng cảm được nỗi lòng của người ở lại nên trong lòng họ cũng trào dâng bao tình cảm nhớ thương, quyến luyến... Bởi vậy, đoạn thơ trở thành lời đồng vọng của người đi và kẻ ở. - Tố Hữu đã thể hiện thật tinh tế tâm trạng người về xuôi bằng hai từ láy: Bâng khuâng và bồn chồn. +“Bâng khuâng” là nhớ thương, lưu luyến, bịn rịn. + “Bồn chồn” diễn tả tâm trạng hồi hộp, day dứt, nôn nao. Trong lòng cồn lên bao nỗi nhớ thương, không nỡ chia xa nên bước chân người ra đi trở nên ngập ngừng, dùng dằng vừa muốn đi lại vừa muốn ở. Ai đó cũng đã diễn tả thật hay tâm trạng ấy của người ra đi \"Bước đi một bước lâu lâu lại dừng\". Nghệ thuật tiểu đối kết hợp với đảo ngữ vừa tạo chất nhạc, chất thơ ngọt ngào, vừa nhấn mạnh vào tâm tư với nhiều cảm xúc rối bời trong lòng người ra đi. *Hai câu sau: - Lời người gợi lên cảnh một cuộc chia tay đầy lưu luyến bịn rịn. Trong đó \"áo chàm\" là biện pháp nghệ thuật hoán dụ dùng hình ảnh chiếc áo màu chàm để chỉ người Việt Bắc, là cách dùng bộ phận để chỉ toàn thể vì người Việt Bắc thường nhuộm và mặc áo màu chàm. Màu chàm là màu sắc của núi rừng, bền bỉ, không hề phai nhạt như tình cảm mãi không bao giờ nhạt phai. Màu áo chàm thể hiện phẩm chất của người Việt Bắc giản dị, mộc mạc, chịu thương chịu khó và ân tình, thủy chung: Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn Chàm nâu thêm đậm phấn son chẳng nhòa Cuộc chia tay có những người dân Việt Bắc đầy ân nghĩa đưa tiễn, giãi bày tình cảm nhớ thương. Người ra đi cũng chưa đi đã nhớ nhớ tiếng ai tha thiết, nhớ áo chàm, cồn nhỏ, nhớ cảnh nhớ người và tình cảm của người ra đi cũng thật son sắc, thủy chung. - Câu thơ “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” là câu thơ gợi nhiều cảm xúc, là hình ảnh có giá trị biểu cảm cao cho thấy người đi kẻ ở đều chung một nỗi niềm lưu luyến bịn rịn khiến cảnh chia tay hiện lên thật cảm động. Cả người đi và kẻ ở đều có bao nhiêu điều muốn nói, bao nhiêu tình cảm muốn giãi bày nhưng nghẹn ngào không cất nổi thành lời. Và có lẽ ngôn ngữ cũng không đủ để diễn đạt bao nỗi nhớ thương nên im lặng cũng là cách thể hiện 63

tình cảm. Họ cầm tay nhau mà không biết nói gì nhưng trong cái cầm tay ấy hẳn có bao nhiêu xúc động, nghẹn ngào. Đôi khi chỉ cần một cái cầm tay thôi đã đủ nói lên tất cả. Giống như những người lính trong bài thơ của Chính Hữu vì thương nhau mà nắm lấy tay nhau: Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn tay. (Đồng chí - Chính Hữu) Cái nắm tay trong bài thơ “Đồng chí” là để xiết chặt tình đồng đội, để cùng nhau vượt lên trên gian khổ. Còn cái cầm tay trong cuộc chia ly này là tình cảm quân dân cá nước, là mối quan hệ chân thành, bền chặt của cách mạng và nhân dân. Ba dấu chấm lửng đặt ở cuối đoạn thơ giống như một nốt lặng trong một khuôn để tình cảm cứ ngân dài, sâu lắng. Tiểu kết: - Đoạn thơ thể hiện rõ đề tài của bài thơ là đề tài chia li, tiễn biệt: (Tk giới thiệu bài thơ) - Bằng thể thơ lục bát êm dịu, kết cấu đối đáp của ca dao, dân ca, ngôn ngữ, hình ảnh giản dị, quen thuộc, đậm chất ca dao, dân ca, giọng điệu thơ ngọt ngào, truyền cảm, đặc biệt thể hiện qua việc sử dụng cặp từ mình - ta thân mật cùng với các biện pahsp tu từ như điệp từ, hoán dụ, tiểu đối... đoạn thơ đã trở thành một khúc trữ tình, sâu lắng thể hiện tình cảm son sắc, thủy chung giữa người đi và kẻ ở, giữa những người cán bộ cách mạng miền xuôi và nhân dân Việt Bắc. Tình cảm trong sáng ấy là tình cảm cách mạng. tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp, là cội nguồn sức mạnh để Việt Bắc trở thành quê hương cách mạng, cội nguồn chiến thắng. 3. Mười hai câu thơ tiếp theo: \"Mình đi có nhớ những ngày ... Tân trào, Hồng Thái ,ái đình cây đa\" Lời người ở lại gợi nhắc về những ngày tiền khởi nghĩa, cách mạng tháng Tám 3.1. Khái quát - Cặp từ mình - ta: + Tk giới thiệu bài thơ + Từ mình lúc được ghép thành \"mình đi\", lúc lại thành \"mình về\" có thể hiểu một cách đơn thuần là chỉ người cán bộ cách mạng nhưng cũng có thể hiểu theo một hướng khác là mình đi hôm nay liệu ngày mai mình có trở về và khi về còn nhớ. 64

Từ \"mình\" còn được ghép thành các cụm từ \"Mình đi, có nhớ\", \"mình về, còn nhớ\" thành lời ướm hỏi, gợi nhắc, nhắn nhủ người ra đi ra về hãy nhớ. - Trong đoạn thơ 12 câu có 4 câu thơ đầu tái hiện những ngày tháng gian khổ trên chiến khu Việt Bắc, 4 câu thơ tiếp theo là những ngày tháng nghĩa tình và 4 câu thơ cuối khẳng định những ngày tháng trên chiến khu Việt Bắc đã làm nên những trang sử vẻ vang của đất nước. 3.2. Bốn câu thơ: - Mình đi, có nhớ những ngày Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù? Mình về, có nhớ chiến khu Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai? Những ngày tháng gian khổ - Bốn câu thơ trước hết gợi lên bức tranh thiên nhiên Việt Bắc dữ dội, khắc nghiệt với mưa nguồn, suối lũ, mây mù. Núi rừng Việt Bắc có những cơn mưa rừng dầm dề tê buốt, những trận bão rừng đá nghiêng, cây đổ, những con suối róc rách, hiền lành bỗng dưng thành dòng nước lũ cuốn phăng tất cả, rừng núi Việt Bắc thương bị mây mù bao phủ bởi nó rất cao so với mực nước biển. Cảnh sương mù ở vùng rừng núi miền Bắc nước ta cũng được nhà thơ Quang Dũng tái hiện trong \"Tây Tiến\" để nói về những khó khăn, gian khổ của người lính: Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Cách nói tăng tiến “những mây cùng mù” càng nhấn mạnh khung cảnh hoang sơ, đầy thách với người cán bộ cách mạng. Những ngày đầu lập căn cứ địa cách mạng ấy, người cán bộ từ miền xuôi chưa quen với cái khắc nghiệt của thiên nhiên rừng núi nên bao nhiêu khó khăn gian khổ. Nhưng cũng từ buổi ấy, nhân dân và cán bộ đã cùng nhau đồng cam, cộng khổ, gắn bó chia sẻ cùng nhau. - Không chỉ đối diện với sự khắc nghiệt của thiên nhiên, những người cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc còn phải sinh hoạt trong điều kiện vật chất vô cùng thiếu thốn, kham khổ. Thiếu thốn nên chỉ có miếng cơm chấm muối, bát cơm cũng phải chia đôi, không có cơm thì ăn trám, ăn măng, cùng đắp chăn làm từ vỏ cây sui. Mặc dù khó khăn gian khổ là thế nhưng họ vẫn cùng nhau vượt qua bởi cùng khắc sâu mối thù với giặc. “Mối thù nặng vai” là hình ảnh hoán dụ có tác dụng vật chất hóa, cụ thể hóa mối thù sâu nặng của nhân dân đối với bè lũ cướp nước và bán nước. Nghệ thuật đối lập giữa miếng cơm nhỏ bé với mối thù to lớn đè nặng trên vai đã nâng cao tầm vóc con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Với ý chí quyết tâm, người Việt Nam đã vượt qua mọi khó khắn gian khổ để chiến đấu và chiến thắng quân thù. 3.3. Bốn câu thơ: Mình về, rừng núi nhớ ai Trám bùi để rụng, măng mai để già Mình đi, có nhớ những nhà Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son Những ngày tháng nghĩa tình *Hai câu thơ đầu: 65

- Chính những ngày tháng khó khăn, gian khổ ấy đã làm nên nghĩa nên tình, khiến cho những người cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc xích lại gần nhau, yêu thương gắn bó với nhau hơn. Bởi vậy mà những ngày tháng gian khổ cũng là những ngày tháng nghĩa tình. Nghĩa tình sâu nặng nên khi phải chia tay mới lưu luyến, bịn rịn, bâng khuâng, không cầm nổi lòng mình mà cất lên lời giãi bày, thổ lộ tình cảm. - Trong cuộc chia tay người ở lại đã lên tiếng giãi bày, thổ lộ tình cảm nhớ thương, tha thiết qua hai hình thức gián tiếp và trực tiếp: + Ban đầu, người ở lại giãi bày tình cảm một cách gián tiếp, tế nhị bằng cách mượn các hình ảnh thiên nhiên như rừng núi, trám bùi, măng mai. Đây là cách nói lấp lửng, giãi bày tình cảm đầy ý nhị, khéo léo mà nhà thơ Tố Hữu học được từ ca dao: Bây giờ mận mới hỏi đào Vườn hồng đã có ai vào hay chưa Mận hỏi thì đào xin thưa Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào Nghệ thuật nhân hóa kết hợp với nghệ thuật hoán dụ “rừng núi nhớ ai”, trong đó hoán dụ \"rừng núi\" chỉ Việt Bắc và người Việt Bắc, đại từ phiếm chỉ \"ai\" chỉ người cán bộ về xuôi đã diễn tả trong cuộc chia tay này, dường như cả thiên nhiên và con người Việt Bắc đều thương nhớ người cán bộ về xuôi. Người ở lại còn khéo léo bày tỏ tình cảm chân thành, mộc mạc của mình qua hình ảnh trám bùi, măng mai vốn sản vật của núi rừng Việt Bắc. Đây là các món ăn thường nhật của cán bộ kháng chiến, cũng được Hồ Chí Minh nhắc đến trong bài thơ \"Tức cảnh Pác Bó\": Sáng ra bờ suối tối vào hang Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng Khi những người cán bộ cách mạng ở Việt Bắc, người Việt Bắc lấy măng, hái trám để nuôi cán bộ. Vì thế bài thơ mới có những câu thơ tuyệt bút: Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Tình cảm quân dân thắm thiết nên khiến hình ảnh cô gái hái măng một mình trong rừng mà không hề gợi cảm giác lẻ loi, đơn chiếc. Nhưng bây giờ khi những người cán bộ cách mạng về xuôi trám và măng không có người thu hái nên để trám rụng, măng già. => Nhìn chung, việc mượn các hình ảnh thiên nhiên để giãi bày tình cảm đã thể hiện tình cảm nhớ thương, cảm giác lẻ loi, trống vắng đến thẫn thờ, ngẩn ngơ của người ở lại. Mình về ta nhớ và nỗi lòng của con người lan tỏa cả ra thiên nhiên,cảnh vật khiến cả núi rừng dường như cũng ngẩn ngơ, trống trải, buồn bã đến lạ thường. *Hai câu thơ sau: 66

- Gợi ra cảnh vật Việt Bắc với những mái nhà tranh, vách đất, những bờ lau xám hiu hắt. Đây vẫn là những hình ảnh được sử dụng để bộc lộ gián tiếp tình cảm của người ở lại trong cuộc chia tay. Từ láy\"hắt hiu\" kết hợp với màu lau xám càng làm nổi bật lên khung cảnh hoang vắng, đơn sơ, buồn bã của cảnh vật. - Nhưng dường như diễn tả tình cảm một cách gián tiếp chưa đủ, chưa thỏa, chưa diễn tả hết được tình cảm sâu nặng nên người Việt Bắc sau đó không cần mượn hình ảnh gián tiếp mà khẳng định trực tiếp, rõ ràng tình cảm của mình là \"đậm đà lòng son\". \"Lòng son\" là từ ngữ rất đắt để thể hiện tình cảm sâu sắc, thủy chung, kết hợp thêm với từ láy \"đậm đà\" cùng nghệ thuật đối lập, đối lập giữa \"hắt hiu lau xám\" với \"đậm đà lòng son\"càng góp phần khẳng định tấm lòng sắc son, cao quý của nhân dân Việt Bắc. 3.4. Bốn câu thơ: Mình về, còn nhớ núi non Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh Mình đi, mình có nhớ mình Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa? Việt Bắc là cội nguồn cách mạng, làm nên những trang sử vẻ vang của dân tộc - Người ở lại một lần nữa nhắn nhủ người đi nhớ về Việt Bắc. \"Núi non\" ở đây là hoán dụ chỉ thiên nhiên, con người Việt Bắc. Núi non này đã từng chở che và cùng cán bộ kháng chiến, nhân dân Việt Bắc đánh giặc: “Nhớ khi giặc đến giặc lùng Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây Núi giăng thành lũy sắt dày Rừng che bộ đội rừng vây quân thù” Lời người ở lại gợi nhắc lại những ngày còn là Việt Minh kháng Nhật, là những ngày đầu đầu gian khổ của cuộc kháng chiến, người ở lại mong người về xuôi nhớ ghi những thời khắc lịch sử ấy, bởi “mình – ta” đã gắn bó với nhau từ khi đó để làm nên chiến thắng hôm nay. - Ở đoạn thơ 12 câu này cặp từ mình - ta được lặp đi lặp lại 8 lần. Trong đó, mười câu thơ đầu của đoạn thơ \"mình\" chỉ người ra đi nhưng đến câu thơ \"Mình đi, mình có nhớ mình\" thì từ mình chỉ cả người đi và kẻ ở. Mình với ta chuyển hóa, tuy hai mà một thể hiện tình cảm gắn bó, mặn nồng. - Người ở lại còn nhắc đến các tên địa danh Tân Trào, Hồng Thái nay đã trở thành hai di tích lịch sử nổi tiếng, gắn với hai sự kiện quan trọng của cách mạng. Cây đa Tân Trào là nơi làm lễ xuất quân của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội Việt Nam. Đình Hồng Thái là nơi họp quốc dân đại hội phát động khởi nghĩa cách mạng tháng Tám. Những sự kiện lớn lao ấy đã làm nên thắng lợi của cách mạng tháng Tám, mở ra là những trang sử vẻ vang của dân tộc. Nhắc đến các địa danh này, người ở lại muốn nhắn nhủ người ra đi nhớ về Việt Bắc là nhớ về quê hương cách mạng. Tiểu kết: 67

- Nét đặc sắc trong đoạn thơ này là ở chỗ tiết tấu rất giàu nhạc điệu. Tố Hữu đã sử dụng nghệ thuật đối một cách triệt để trong các câu thơ tám chữ làm cho nhạc điệu của đoạn thơ trở nên réo rắt và tạo nên những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc với người đọc 4. Đoạn thơ gồm 22 câu thơ tiếp: “Ta với mình, mình với ta …Chày đêm nện cối đều đều đều suối xa” Người ra đi gợi nhắc tình cảm gắn bó 4.1. Khái quát - Nếu như đoạn thơ trước nói về nỗi lòng kẻ ở người đi, tái hiện cảnh chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn rồi sau đó người ở lại đã hỏi và gợi nhắc người ra đi hãy nhớ về 15 năm gắn bó, nhớ về những ngày tháng gian khổ mà nghĩa tình thì đoạn thơ này đến lượt người ra đi thổ lộ, giãi bày tình cảm của mình. Lời người ra đi gợi lại nỗi nhớ về cuộc sống sinh hoạt trên chiến khu Việt Bắc, khẳng định tình cảm son sắc, chưa về đã nhớ. Nhớ thiên nhiên Việt Bắc thơ mộng, thanh bình, yên ả và nhớ người Việt Bắc nghèo về vật chất nhưng sâu nặng nghĩa tình, nhớ những ngày tháng gian nân mà vẫn lạc quan, yêu đời, tỉnh cảm vẫn gắn bó keo sơn. - Cặp từ mình - ta: Tk phần giới thiệu bài thơ 4.2. Bốn câu thơ đầu: - Ta với mình, mình với ta Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh Mình đi, mình lại nhớ mình Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu... Người ra đi khẳng định tình cảm mặn nồng, trước sau như một - Trước nỗi lòng của người ở lại, người ra đi cũng khẳng định tình cảm son sắc thủy chung. “Ta – mình”, “mình – ta” được lặp đi lặp lại, quấn quýt, quyện hoà làm một. Câu thơ là sự vận dụng sáng tạo câu ca dao về tình cảm lứa đôi: Ta với mình tuy hai mà một Mình với ta tuy một mà hai \"Đinh ninh\" là sự khẳng định chắc chắn, mãi mãi gắn bó, thuỷ chung. Như vậy, người ra đi ở đây đã khẳng định tình cảm của mình với Việt Bắc và người Việt Bắc trước sau như một, lúc nào cũng mặn mà đinh nình, dù có thế nào cũng không thay lòng đổi dạ. - Câu thơ \"Mình đi, mình lại nhớ mình” là sự hô ứng, để trả lời cho câu hỏi đặt ra của đồng bào Việt Bắc “Mình đi mình có nhớ mình\". Người cán bộ kháng chiến về nơi đô thành nhưng vẫn nhớ đến những ngày sống ở chiến khu Việt Bắc. Đây cũng chính là lời khẳng định phẩm chất đạo đức của người cán bộ kháng chiến, luôn nhớ về cội nguồn cách mạng. - Biện pháp nghệ thuật so sánh “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” đã khẳng định một lần nữa sự 68

chung thuỷ son sắt, tình cảm bền chặt của người cán bộ kháng chiến với Việt Bắc. Nhà thơ Tố Hữu có lẽ đã sáng tạo câu thơ dựa trên hình ảnh ca dao: Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Trong ca dao, tình mẹ vô bờ bến được so sánh với nước trong nguồn, tuôn chảy bất tận không bao giờ cạn. “Bao nhiêu” thành cặp với “bấy nhiêu” là cái vô tận đi liền với một cái vô tận khác. Câu thơ chính là tiếng lòng được thốt lên từ một trái tim tràn đầy xúc động của kẻ ở người về trong giây phút li biệt, thể hiện tình cảm nhớ thương gắn bó của những người cách mạng về xuôi với cảnh và người Việt Bắc cũng như nước trong nguồn không bao giờ vơi cạn. 4.3. Câu thơ \"Nhớ gì như nhớ người yêu\" Nhớ Việt Bắc và người Việt Bắc như nỗi nhớ của tình yêu đôi lứa: - Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo, nhà thơ đã diễn tả nỗi nhớ về một mảnh đất như nỗi nhớ người yêu, một mối quan hệ chính trị lại giống như một tình yêu đôi lứa. Tình yêu luôn đi liền với nỗi nhớ và nỗi nhớ trong tình yêu thì luôn là nồng nàn, da diết, cháy bỏng nhất. Thơ ca xưa nay viết về nỗi nhớ trong tình yêu rất nhiều. Ca dao cũng có những câu như: Nhớ ai bổi hổi bồi hồi Như đứng đống lửa như ngồi đống than Hoặc: Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ Nhớ ai, ai nhớ bây giờ nhớ ai Ông hoàng thơ tình Xuân Diệu cũng thể hiện một nỗi nhớ mãnh liệt: Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh Anh nhớ em, anh nhớ lắm em ơi Nỗi nhớ trong tình yêu của người phụ nữ lại được nữ thi sĩ Xuân Quỳnh miêu tả: Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức Nỗi nhớ người yêu là nỗi nhớ có khi ngẩn ngơ, ngơ ngẩn; có khi có khi bồn chồn, bối rối, bổi hổi, bồi hồi, mãnh liệt và thường trực... Nỗi nhớ Việt Bắc và người Việt Bắc phải chăng hàm chứa mọi cung bậc cảm xúc ấy. Với hình ảnh so sánh này, Tố Hữu đã thể hiện được tình cảm rất sâu đậm của người đi bởi có nỗi nhớ nào thổn thức, thường trực và mãnh liệt hơn nỗi nhớ trong tình yêu. 69

- Điệp từ \"nhớ\" được lặp lại hai lần trong câu thơ đã nhấn mạnh nỗi nhớ cồn cào, da diết khôn nguôi. Cuộc đời mỗi con người đều không tránh được chuyện đi và ở, hội ngộ và chia li. Những mảnh đất đã từng qua, ngững con người đã từng gắn bó đều để lại niềm thương và nỗi nhớ như nhà thơ Chế Lan Viên đã khái quát: Khi ta ở chỉ là nơi đất ở Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn Mười lăm năm trên chiến khu Việt Bắc đã để lại bao tình cảm luyến thương nên trong giờ phút chia tay tất cả kỉ niệm trong suốt 15 năm gắn bó bỗng chốc ùa về với những ấn tượng, tình cảm sâu đậm nhất. Và người ra đi cũng nhu cầu được bày tỏ nỗi lòng. 4.4. Đoạn thơ: Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương Nhớ từng bản khói cùng sương Sớm khuya bếp lửa người thương đi về. Nhớ từng rừng nứa bờ tre Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy Nhớ thiên nhiên việt Bắc yên ả, thanh bình, thơ mộng - Trong nỗi nhớ của người ra đi thiên nhiên Việt Bắc rất đẹp và thơ mộng. Đó là Việt Bắc vào những đêm trăng. “Trăng lên đầu núi\" là vầng trăng mới lên, mới lấp ló nơi đầu núi thật đẹp và lãng mạn. Khung cảnh Việt Bắc có ánh trăng chiếu rọi rất nên thơ còn được nhà thơ Tố Hữu miêu tả một lần nữa trong bài thơ: Rừng thu trăng rọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung \"Nắng chiều lưng nương” cũng là khoảnh khắc đẹp của thiên nhiên Việt Bắc, ánh nắng dịu nhẹ trải vàng cả núi rừng và nương rẫy trong buổi chiều tà. Các hình ảnh thiên nhiên thơ mộng ấy còn gợi hình ảnh con người Việt Bắc trong những khoảnh khắc đẹp, gợi những đêm trăng hò hẹn, những buổi chiều lao động trên nương rẫy. - Nỗi nhớ không chỉ trải dài theo thời gian “trăng lên – nắng chiều – sớm – khuya” mà còn trải rộng khắp không gian: Bản khói cùng sương – bếp lửa – rừng nứa – bờ tre – ngòi Thia – sông Đáy – suối Lê... Nghệ thuật liệt kê đã tái hiện nỗi nhớ vơi đầy của người cán bộ kháng chiến đồng thời khắc họa được vẻ đẹp của quê hương Việt Bắc. Những đồi tre bát ngát, những dòng suối mát trong, con sông hiền hòa, những bếp lửa ấp iu nồng đượm, tất cả cứ in sâu trong nỗi nhớ người về. Nhắc đến dòng sông, đồi núi, rừng nứa, bờ tre là rưng rưng bao kỉ niệm, đong đầy bao yêu thương. Những cái tên: Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê có lẽ không đơn thuần chỉ là những địa danh mà còn ẩn dấu bao kỉ niệm, cảm xúc. Có thể nói mỗi thời gian, không gian này với người về xuôi đều lung linh kỉ niệm, cham chứa yêu thương. - Câu thơ “Sớm khuya bếp lửa người thương đi về” là một điểm nhấn của nỗi nhớ với sự xuất hiện của hình ảnh con người Việt Bắc. Hai chữ “người thương” thật hay, đó là những con người gắn bó với nhau bằng tình sâu nghĩa đậm. “Người thương” ấy là những ai? Đó có thể là người em liên lạc “Sớm bản Na chiều em qua bản Bắc, mười năm tròn không mất một phong thư”, có thể là người anh du kích với “Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách”, là 70

người mế “Lửa hồng soi tóc bạc/ năm con đau mế thức một mùa dài” như trong bài thơ “Tiếng hát con tàu” Chế Lan Viên cũng đã từng nói đến. Họ là những người đã cưu mang, đùm bọc, che chở cán bộ kháng chiến, là những người mà cán bộ kháng chiến coi như máu thịt, như gia đình. Hai chữ “người thương” vì vậy mà chất chứa biết bao ân tình của người về xuôi. - Các điệp từ: nhớ gì, nhớ từng, nhớ những cùng với nghệ thuật so sánh (như nhớ người yêu), các tên địa danh ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê và tiểu đối đều góp phần thể hiện thành công những cung bậc cảm xúc phong phú của nỗi nhớ quê hương cách mạng, tạo nên chất nhạc chất họa mê li, say đắm cho khổ thơ. 4.5. Đoạn thơ: Ta đi, ta nhớ những ngày Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi... Thương nhau, chia củ sắn lùi Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng Nhớ người mẹ nắng cháy lưng Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô Nhớ người Việt Bắc nghèo về vật chất nhưng sâu nặng nghĩa tình - Hai câu thơ “Ta đi ta nhớ những ngày/ Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi” đã khái quát và khẳng định được tình cảm của người ra đi, ta về là ta luôn nhớ. Cụm từ “đắng cay ngọt bùi” là ẩn dụ, trong đó “đắng cay” là ẩn dụ cho những gian khổ, vất vả; “ngọt bùi” tượng trưng cho niềm vui, hạnh phúc. Trong nỗi nhớ của người ra đi có những kỉ niệm về những ngày tháng khó khăn, gian khổ những cũng có nhiều kỉ niệm ngọt ngào, có niềm vui chiến thắng, có hạnh phúc tình yêu. - Nếu hai câu thơ trước có ý nghĩa khái quát, thì hai câu thơ “Thương nhau chia củ sắn lùi/ bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng” đã cụ thể hóa những đắng cay, ngọt bùi trong cuộc sống kháng chiến. Bao nhiêu gian khổ đã cùng nhau nếm trải như thiên nhiên khắc nghiệt, thiếu thốn kham khổ về vật chất, giặc đến giặc lùng... Khó khăn gian khổ lại làm người cán bộ kháng chiến và người dân Việt Bắc yêu thương, đùm bọc nhau hơn. Nghệ thuật đảo ngữ với từ \"Thương nhau\" được đặt lên đầu cặp lục bát cho thấy đó là căn nguyên, cội nguồn để dẫn đến những hành động nhường cơm, sẻ áo. Sắn lùi là món ăn bình dị, dân dã. Chăn sui được làm từ vỏ cây sui, thô ráp nhưng là thứ duy nhất họ có để xua đi cái giá lạnh của vùng núi cao. Họ phải chia nhau từng củ sắn, bát cơm sẻ làm đôi, đắp cùng chăn sui để tỏa cho nhau hơi ấm. Các động từ “chia”, “sẻ”, “đắp cùng” thể hiện những hành động đầy ân nghĩa của người Việt Bắc, làm người ra đi mãi ghi nhớ, khắc sâu. - Người Việt Bắc nhường cơm, sẻ áo, nuôi giấu người cán bộ cách mạng còn được thể hiện qua hình ảnh người mẹ Việt Bắc “nắng cháy lưng, địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”. Đây có lẽ là một trong những hình ảnh in đậm nhất trong lòng người ra đi. Người mẹ địu con lên nương rẫy trong cái nắng đến cháy da, cháy thịt để vừa trông nom, che chở cho đứa con thơ bên mình vừa kiên trì, cần mẫn “bẻ từng bắp ngô” để nuôi con, nuôi cán bộ. Sự tương phản, đối lập giữa cái dữ dội của thiên nhiên với ý chí nghị lực của con người càng làm tôn lên vẻ đẹp cần cù, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh của người mẹ dân tộc. Hình ảnh những người mẹ tuyệt vời, kì diệu trong những cuộc kháng chiến còn được gặp lại trong bài thơ \"Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ\" của Nguyễn Khoa Điềm: 71

Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng” Chính người mẹ Việt Bắc, những người mẹ Việt Nam anh hùng với tình mẫu tử và tình cảm cách mạng thiêng liêng đã góp phần to lớn làm nên chiến thắng của dân tộc, trở thành những nhân vật lịch sử trong các cuộc kháng chiến vĩ đại. 4.6. Đoạn thơ: Nhớ sao lớp học i tờ Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan Nhớ sao ngày tháng cơ quan Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo. Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều Chày đêm nện cối đều đều suối xa... Nhớ cuộc sống kháng chiến gian khổ nhưng đầy niềm vui - Nhớ về những ngày ấy là nhớ về không khí của những lớp học i tờ, những ngày tháng vừa làm cách mạng vừa diệt giặc dốt. Trước khi cách mạng đến, dân ta có biết bao cuộc đời tủi cực, tăm tối, bị nô lệ và thiếu ánh sáng văn hóa, đa số nhân dân mù chữ. Muốn làm cách mạng phải dạy dân học chữ vì vậy mà những lớp bình dân học vụ ra đời. Cụm từ \"đồng khuya đuốc sáng\" cho thấy đêm đêm giữa mênh mông núi rừng Việt Bắc vang lên tiếng học i tờ, làm nên một sức sống mới trên quê hương cách mạng. Cụm từ \"những giờ liên hoan” trong câu thơ cho thấy lớp học tuy có những vất vả gian khổ nhưng vẫn đầy niềm vui, tưng bừng náo nức nhất là trong những giờ liên hoan sôi nổi. - Những ngày tháng ấy là những ngày tháng cơ quan đầy gian nan, thử thách. Nhưng với tinh thần lạc quan cách mạng người cán bộ miền xuôi và nhân dân Việt Bắc vẫn vượt qua, họ vẫn yêu đời nên tiếng hát vẫn bay cao, vang xa giữa núi đồi. Tinh thần lạc quan vốn là truyền thống của người Việt Nam, càng khó khăn gian khổ phẩm chất ấy càng được bộc lộ rõ ràng. Tinh thần ấy đã được những người những người cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc phát huy cao độ trong cuộc kháng chiến chống Pháp, góp phần cổ vũ, nâng đỡ, chắp cánh niềm tin để ta có đủ sức mạnh đi đến chiến thắng. - Trong nỗi nhớ của người ra đi còn có những âm thanh quen thuộc, bình dị, thân thương là âm thanh tiếng mõ tiếng chày vang lên giữa núi rừng Việt Bắc. Đó là tiếng mõ trâu buổi chiều trở về bản làng, là tiếng chày nhịp nhàng của cối giã gạo bên suối. Mỗi một âm thanh lại gợi mở bức họa bình dị mà thơ mộng. Tiếng giã gạo đêm khuya bình dị mà ghi dấu bao nghĩa tình sâu nặng. Tiếng suối róc rách nơi rừng xa lại gợi cái trong ngần, thơ mộng của cảnh vật. Những âm thanh của cuộc sống lao động thường ngày, khi sống cùng có lẽ chẳng mấy ai để ý, nhớ nhung, nhưng khi xa rồi thì những âm thanh ấy lại khiến con người bồi hồi, xao xuyến, thổn thức. Lời thơ dứt mà những âm thanh ấy cứ ngân vang mãi trong lòng người chia xa Việt Bắc. Từ láy \"đều đều\" không chỉ thể hiện âm thanh đều đều của tiếng mõ tiếng chày vào các buổi chiều và vào ban đêm hòa quện giữa âm thanh của rừng núi mà còn thể hiện nhịp sống đều đều, êm ả thanh bình trên chiến khu. 72

Tiểu kết: Qua nỗi nhớ của người ra đi, đoạn thơ gợi ra trước mắt người đọc bức tranh thiên nhiên, con người Việt Bắc vừa thơ mộng vừa giàu chất hiện thực, diễn tả sâu sắc tình cảm ân tình thủy chung son sắc giữa những con người đã cùng đồng cam cộng khổ, là những kỉ niệm in đậm trong lòng nhà thơ cũng như bao người trong cuộc kháng chiến. Việt Bắc tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu có sự hòa quyện giữa chất trữ tình chính trị và nghệ thuật biểu hiện đậm đà tính dân tộc. 5. Đoạn thơ: Ta về mình có nhớ ta ... Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung Bức tranh tứ bình về Việt Bắc 5.1. Khái quát: - Trong quan niệm mĩ học thời cổ điển, tứ bình là cấu trúc nghệ thuật đạt đến sự hài hòa, cân xứng. Chẳng hạn, khi miêu tả thiên nhiên người xưa thường sử dụng mô-típ Tùng - cúc - trúc - mai, Xuân - hạ - thu - đông; khi miêu tả người thì theo mô-típ ngư - tiều - canh - mục; khi miêu tả các con vật thì là Long - ly - quy - phụng... Trong đoạn thơ này Tố Hữu đã sử dụng cấu trúc nghệ thuật tứ bình để thể hiện một cách cô đúc nhất vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Bắc. - Ở những đoạn thơ trước, người cán bộ cách mạng miền xuôi và người Việt Bắc đã lần lượt nhắc lại những kỉ niệm gắn bó trong suốt 15 năm và khẳng định tình cảm son sắc thủy chung. Đến đoạn thơ này người ra đi tiếp tục gợi nhắc những kỉ niệm gắn bó bằng những ấn tượng sâu đậm nhất, kết tinh nhất về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Đây được coi là 10 câu thơ tuyệt bút đạt đến độ toàn bích trong bài thơ. Trong đó, hai câu thơ đầu được đánh giá là chủ đề, khái quát được nội dung của cả đoạn thơ là nỗi nhớ về thiên nhiên con người Việt Bắc trong bốn mùa theo thứ tự Đông - Xuân - Hạ - Thu. - Tố Hữu viết bài thơ “Việt Bắc” vào tháng 10 năm 1954, khi ấy miền Bắc nước ta đang vào mùa đông. Cho nên, mùa đông là mùa trong hiện tại, cũng là mùa mở ra bộ tranh tứ bình. Cũng có ý kiến cho rằng, sở dĩ mùa đông là mùa bắt đầu trong đoạn thơ này là vì Tố Hữu lấy cảm hứng từ thắng lợi của chiến dịch Việt Bắc thu đông. 5.2. Hai câu thơ đầu: Ta về, mình có nhớ ta Ta về, ta nhớ những hoa cùng người Hai câu thơ chủ đề cho cả đoạn - Cặp từ mình - ta: Tk phần giới thiệu bài thơ - Câu thơ thứ nhất là lời ướm hỏi của người ra đi với người ở lại. \"Ta về\" được lặp lại hai lần như xác nhận hoàn cảnh chia li tiễn biệt, trong đó ta chỉ người ra đi. Nhưng người ra đi ở đây đặt câu hỏi với người ở lại không phải để được trả lời bởi đến đoạn thơ này cả người đi kẻ ở đều đã cảm nhận được tình cảm sâu sắc, mặn nồng mà họ dành cho nhau. Bởi vậy, câu thơ chỉ là cái cớ, là cây cầu để người ra đi dẫn dắt, thổ lộ tình cảm của mình là ra về mà lòng đầy thương nhớ. 73

- Câu thớ thứ hai đã cụ thể hóa nỗi nhớ của người về xuôi. Ra về là ta nhớ, nhớ hoa và nhớ người. Hoa ở đây là ẩn dụ chỉ vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc. Nhớ hoa là nhớ những gì đẹp nhất, tinh túy nhất, tươi sáng nhất về thiên nhiên Việt Bắc. \"Nhớ hoa cùng người\" nghĩa là cùng với nỗi nhớ về thiên nhiên là nỗi nhớ về con người Việt Bắc. - Tố Hữu lựa chọn thật đắt hai hình ảnh đối xứng: hoa - người. Hoa là vẻ đẹp tinh tuý nhất của thiên nhiên, tương xứng với hoa là con người như người ta thường nói \"Người ta là hoa của đất\". Sựn đối xứng ấy khiến bốn cặp lục bát còn lại được cấu tạo với phương thức miêu tả khá thống nhất là cứ câu lục nói đến thiên nhiên, câu bát nói tới con người. Tả thiên nhiên thì gắn với màu sắc đặc trưng của từng mùa, tả con người thì gắn với công việc lao động, thể hiện những phẩm chất tốt đẹp của người Việt Bắc. 5.3. Mùa đông: Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng - Vẻ đẹp của thiên nhiên: Qua con mắt tinh tế của nhà thơ, thiên nhiên mùa đông gắn với hai màu sắc xanh và đỏ thể hiện qua các hình ảnh rừng xanh và hoa chuối đỏ tươi. + Rừng xanh: Mùa đông rừng núi hiện lên trong màu xanh bạt ngàn của cây rừng, bao phủ cả một không gian rộng lớn tạo thành cái nền cho bức tranh cảnh vật. Chính cái màu xanh của núi rừng Việt Bắc đã: Núi giăng thành lũy sắt dày Rừng che bộ đội rừng vây quân thù + Hoa chuối đỏ tươi (nhãn tự): Trên cái nền xanh ấy có điểm xuyết những bông hoa chuối đỏ tươi, thắp sáng cả cánh rừng đại ngàn. Màu đỏ tươi của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng như ngọn lửa ấm thắp sáng lên bức tranh cảnh vật, xua tan bớt cái lạnh giá, u ám, hiu hắt của rừng núi vào mùa đông. Hai chữ \"đỏ tươi\" không chỉ là từ ngữ chỉ sắc màu, mà chứa đựng cả một sự bừng thức, một khám phá ngỡ ngàng, một rung động rất thi nhân. Hình ảnh bông hoa chuối đỏ tươi còn hiện lên như một biểu tượng của niềm tin, của tình yêu, của sự lạc quan như Nguyễn Mỹ cũng hướng đến trong “Cuộc chia li màu đỏ”: Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người Nghĩa là màu đỏ ấy sẽ theo đi Như chưa hề có cuộc chia li - Hình ảnh con người: Hình ảnh con người trong bức tranh cảnh vật mùa đông là hình ảnh người với công việc lên rừng hái củi, phát nương làm rẫy góp công góp sức cho cuộc chiến đấu. Bước chân đã tới lưng đèo, hình ảnh con người đứng giữa đèo cao, giữa núi đồi đầy vững chãi, tự tin, mang tâm thế của người làm chủ núi rừng, làm chủ cuộc sống. Tư thế và tâm thế ấy còn được thể hiện một lần nữa trong bài thơ \"Lên Tây Bắc\" của Tố Hữu thể hiện rõ quan niệm của nhà thơ về con người kháng chiến, trở thành một nét thi pháp đặc sắc trong thơ của ông: Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều 74

Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo Núi không đè nổi vai vươn tới Lá ngụy trang reo với gió đèo Tâm thế là chủ ấy còn được thể hiện trong nhiều bài thơ của các nhà thơ cùng thời với Tố Hữu như Nguyễn Đình Thi: Trời xanh đây là của chúng ta Núi rừng đây là của chúng ta Những cánh đồng thơm mát Những ngả đường bát ngát Những dòng sông đỏ nặng phù sa - Hình ảnh người lên rừng lấy củi, phát nương, làm rẫy còn được miêu tả với con dao giắt cạnh sườn, ánh nắng mùa đông phản chiếu vào sáng lấp lánh. Ở đây, câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như một tụ điểm của ánh sáng. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc. - Hình ảnh con người trong hai câu thơ không chỉ mang vẻ đẹp sử thi, tiêu biểu cho con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp mà còn gợi lên phẩm chất tốt đẹp của người Việt Bắc cũng là phẩm chất tốt đẹp của người Việt Nam cần cù, chăm chỉ, chịu thương, chịu khó. 5.4. Mùa xuân: Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang - Vẻ đẹp của thiên nhiên: + Cụm từ chỉ thời gian \"ngày xuân\" : Nhà thơ không viết là mùa xuân mà là ngày xuân đầy tinh tế thể hiện sự ngỡ ngàng trước vẻ đẹp lộng lẫy của đất trời, vạn vật khi vào xuân và tác giả đã chớp lấy khoảnh khắc đẹp nhất, có thần nhất của mùa xuân Việt Bắc. + Màu sắc, hình ảnh: Nếu màu sắc của mùa đông là hai sắc màu xanh, đỏ thì bức tranh mùa xuân gắn với sắc trắng. Cùng với sự chuyển mùa, mùa đông sang mùa xuân, là sự chuyển màu trong bức tranh thơ. Màu xanh trầm tĩnh, lạnh giá của rừng già chuyển sang màu trắng tinh khôi của hoa mơ khi mùa xuân đến. Cụm từ \"trắng rừng\" cho thấy hoa mơ nở trắng, bao phủ cả khu rừng. Núi rừng Việt Bắc ngập tràn một sắc trắng tinh khôi, dịu nhẹ, ngọt ngào và mang sức sống bất diệt, xôn xao, rạo rực của mùa xuân. Hiện thực đầy mơ mộng này còn được nhà thơ Tố Hữu nhắc đến một lần nữa trong trường ca \"Theo chân Bác\": Ôi sáng xuân nay xuân 41 Trắng rừng biên giới nở hoa mơ Bác về im lặng con chim hót 75

Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ - Hình ảnh con người: Nhớ sắc trắng hoa mơ nơi xuân rừng Việt Bắc không thể không nhớ đến con người Việt Bắc vào mùa xuân. Trong dân gian từ ngàn xưa cho đến nay luôn cho rằng mùa xuân là mùa của các lễ hội thế nên mới có câu ca “tháng giêng là tháng ăn chơi”. Nhưng trong những năm tháng mùa xuân khi đất nước có chiến tranh, quê hương còn bóng giặc thì dù mùa xuân nhân dân gác lại việc vui chơi để miệt mài với, say mê với công việc. Vào mùa xuân con người xuất hiện trong công việc đan nón. Hình ảnh người đan nón được tập trung miêu tả qua đôi bàn tay. Hai chữ \"chuốt từng\" gợi liên tưởng về đôi bàn tay tỉ mỉ, dường như bao yêu thương đợi chờ mong ngóng đã gửi vào từng sợi nhớ, sợi thương kết nên vành nón; gợi phẩm chất của người Việt Bắc kiên trì, khéo léo, cẩn trọng, tài hoa. Sự khéo léo và tài hoa của người đan nón, của con người Việt Nam cũng được nhà thơ Nguyễn Đình Thi miêu tả: Tay người như có phép tiên Tranh tre nứa lá cũng dệt nghìn bài thơ Một chiếc mũ nan, một vành nón lá nhưng chứa đựng trong đó bao ân tình thắm thiết, mặn nồng của người dân Việt Bắc. Và bao chiến sĩ đã đội những chiếc mũ ấy để vượt qua mưa bom, bão đạn của cuộc chiến đấu. Hơn thế nữa chiếc mũ ấy đã trở thành người bạn trên đoạn đường hành quân trùng điệp: Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan 5.5. Mùa hè: Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình - Vẻ đẹp của thiên nhiên: Có thể nói bức tranh cảnh vật mùa hè là bức tranh gợi cảm nhất. Bởi vì nếu như trong bức tranh của hai mùa đông và xuân chỉ gắn với những đường nét và màu sắc thì đến bức tranh mùa hè, tác giả đã đánh thức thêm giác quan mới. Bức tranh cảnh vật mà hè không chỉ gắn với màu vàng của rừng phách mà còn làm thính giác choàng tỉnh bởi âm thanh rộn rã, tưng bừng của tiếng ve. Mùa hè đến tiếng ve kêu râm ran trong vòm lá như tiếng đàn, tiếng nhạc. Cái hay của câu thơ là ở chỗ nó thể hiện được một phản ứng có tính dây chuyền. Cây phách nở hoa vàng vào mùa hè và khi ve kêu báo hiệu mùa hè đến cũng là lúc nhưng bông hoa phách ẩn hiện trong tán lá nở rộ. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng sắc vàng trong câu thơ \"Ve kêu rừng phách đổ vàng\" không phải là màu vàng của hoa như những người soạn sách nhiều năm lầm tưởng mà là màu vàng của lá. Trong cuốn Hồi kí nhớ lại một thời khi nói về vẻ đẹp nên thơ của Việt Bắc cùng những gì là \"luyến tiếc ngẩn ngơ\" khi rời Việt Bắc, nhà thơ Tố Hữu đã chép lại đoạn thơ đặc sắc về thiên nhiên bốn mùa của Việt Bắc, đồng thời cũng đã chú thích rất rõ ràng về cây phách: Phách là loại cây gỗ cao, cuối hè đầu thu thì lá vàng rực lên (Nhớ lại một thời - Hồi kí - NXB Hội Nhà văn, 2000, trang 302). Từ \"đổ\" là được dùng thật chính xác, tinh tế khi nó gợi sự thay đổi đột ngột và đồng loạt của màu sắc. Và chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động khi tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến, rừng phách đột ngột, đồng loạt đổi sang màu vàng rực rỡ. - Câu thơ miêu tả mùa hè Việt Bắc gợi ta nhớ đến hai câu Kiều của Nguyễn Du, 76

cũng thể hiện một phản ứng dây chuyền và sự chuyển màu đồng loạt của lá rừng. Khi Thúc Sinh lên ngựa, Thúy Kiều phải buông áo và đúng lúc Kiều buông áo Thúc Sinh thì rừng cây phong đồng loạt đổi màu sang màu đỏ của chia li. Có điều để diễn tả sự động loạt đổi màu của rừng phong, đại thi hào Nguyễn Du đã dùng từ \"nhuốm\": Người lên ngựa, kẻ chia bào Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san - Hình ảnh con người: Hai câu thơ mùa hè càng trở nên gợi cảm hơn với hình ảnh cô em gái hái măng một mình. Cách gọi \"Cô em gái\" thể hiện rõ cách sử dụng ngôn từ rất tinh tế của Tố Hữu thể hiện rõ sự gần gũi, thân thương, trìu mến. Cô gái Việt Bắc hái măng một mình trong rừng không gợi sự cô đơn, lẻ loi bởi vì cô hái măng để nuôi cán bộ, nuôi bộ đội thể hiện tình cảm sâu nặng của người Việt Bắc với người cán bộ cách mạng miền xuôi, thể hiện tình quân dân thắm thiết. Bởi vậy nên khi cán bộ về xuôi, cả rừng núi dường như cũng ngẩn ngơ: “Trám bùi để rụng, măng mai để già”. - Có ý kiến cho rằng hai câu thơ về mùa hè rất đẹp, gợi cảm nhưng ít nhiều chưa hợp lí vì cô em gái không thể tìm kiếm, hái măng trong rừng phách. Thế nhưng ta hoàn toàn có thể chấp nhận được vì cảnh vật, con người Việt Bắc ở đây là những vẻ đẹp ấn tượng, kết tinh nhất trong mùa hè và có thể chúng được cảm nhận ở những không gian, vạt rừng khác nhau trên chiến khu cách mạng. 5.6. Mùa thu: Rừng thu trăng rọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung Khép lại bộ tứ bình là cảnh mùa thu. Đây là cảnh đêm thật phù hợp với khúc hát giao duyên trong thời điểm chia tay giã bạn. Nếu như bức tranh mùa hè được đánh giá là gợi cảm nhất thì bức tranh mùa thu lại thơ mộng và được miêu tả bằng cách thức khác biệt nhất. Bức tranh cảnh vật không được miêu tả vào ban ngày mà được miêu tả vào ban đêm, không được miêu tả qua màu sắc mà gắn với vẻ đẹp của ánh trăng, con người không xuất hiện qua công việc lao động mà xuất hiện qua tiếng hát. - Vẻ đẹp của thiên nhiên: Ấn tượng đẹp nhất về mùa thu Việt Bắc là những đêm trăng. Ánh trăng sáng trong, mát dịu chiếu rọi khắp núi rừng gợi một không gian huyền ảo, thơ mộng, thanh bình. Ánh trăng Việt Bắc ấy cũng được Hồ Chí Minh nhắc đến trong bài thơ được sáng tác trên chiến khu cách mạng: Trăng vào cửa sổ đòi thơ Việc quân đang bận xin chờ hôm sau - Hình ảnh con người: Đại từ phiếm chỉ \"ai\" thể hiện cách nói bóng gió, lấp lửng của ca dao, dân ca và ở đây chỉ người Việt Bắc. Trong không gian mờ ảo, thơ mộng, thanh bình của đêm trăng vang lên tiếng hát của người Việt Bắc. Tiếng hát về tình cảm ân nghĩa, thủy chung hòa quyện vào bức tranh cảnh vật không chỉ làm cho bức tranh mùa thu thêm gợi cảm mà còn thể hiện phẩm chất ân tình, thủy chung của người Việt Bắc nói riêng, của người Việt Nam nói chung. Tiểu kết: Bằng những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc, Tố Hữu đã tái hiện bức tranh cảnh vật, con người bằng những ấn tượng đẹp nhất, sâu đậm nhất. Trong đó người và cảnh không thể tách rời, thiên nhiên không thể thiếu bóng dáng con người và con người được đặt trong khung cảnh thiên nhiên. Chúng hỗ trợ, bổ sung cho nhau làm tôn lên vẻ đẹp của nhau. Bức tranh tứ bình về thiên nhiên, con người Việt Bắc trong bốn mùa đã xóa bỏ cách nghĩ thông thường về thiên nhiên Việt Bắc, cho rằng đó 77

là vùng rừng núi xa xôi, heo hút, hoang vắng, rừng thiêng, nước độc và cho thấy một Việt Bắc tươi đẹp, thơ mộng, đáng yêu biết bao. Đoạn thơ cũng như bài thơ vì thế đã bồi đắp thêm cho ta tình yêu thiên nhiên, quê hương đất nước tươi đẹp. 6. Đoạn thơ: Nhớ khi giặc đến giặc lùng ... Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng. Khí thế chiến đấu, chiến thắng của quân và dân ta trên chiến khu Việt Bắc 6.1. Khái quát: - Nếu như các đoạn thơ trước của bài thơ đã thể hiện nghĩa tình trong kháng chiến giữa những người cán bộ cách mạng miền xuôi với nhân dân Việt Bắc trong suốt 15 thì đoạn thơ này lời người đi đã làm sống lại khí thế chiến đấu và chiến thắng của quân và dân ta trên chiến khu Việt Bắc từ những ngày đầu gian khổ đến khi chiến thắng về ta. - Đoạn thơ thể hiện cảm hứng sử thi đậm nét khi tái hiện khí thế dũng mãnh, cảnh tượng hào hùng, sôi nổi của quân và dân ta trong chiến đấu. Từ đó ca ngợi chiến thắng, thể hiện niềm tự hào dân tộc. \"Việt Bắc\" vì thế không chỉ là bản tình ca mà còn trở thành bản anh hùng ca về cuộc kháng chiến chống Pháp. 6.2. Mười câu thơ: Nhớ khi giặc đến giặc lùng ... Nhớ từ Cao Lạng, nhớ sang Nhị Hà. Khí thế chiến đấu và những trận đánh, chiến thắng bước đầu - Những ngày kháng chiến trên chiến khu Việt Bắc là những ngày tháng đầy gian khổ. Những ngày đầu ấy quân và dân ta không chỉ phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt là mưa nguồn, suối lũ, mây mù, với điều kiện sinh hoạt vật chất vô cùng thiếu thốn chỉ có miếng cơm chấm muối, chia sẻ với nhau từng củ sắn, bát cơm, cùng đắp chăn làm từ vỏ cây sui... mà còn có cả những ngày giặc đến giặc lùng. \"Giặc đến\" là thời điểm nguy kịch, \"giặc lùng\" là cảnh nguy biến, hoảng loạn, tan tác, loạn lạc. Cảnh giặc đến gây bao tang thương đã được nhà thơ Hoàng Cầm khắc họa: Quê hương ta từ ngày khủng khiếp Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn Ruộng ta khô Nhà ta cháy Chó ngộ một đàn Lưỡi dài lê sắc máu Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang Hiện thực của những ngày đầu ta yếu, địch mạnh ấy cũng giống như khi Lê Lợi mới gây dựng khởi nghĩa Lam Sơn được Nguyễn Trãi viết trong \"Bình Ngô đại cáo\": Ta đây! 78

Núi Lam Sơn dấy nghĩa Chốn hoang dã nương mình. Nghệ thuật chiến tranh du kích là phải dựa vào là phải dựa vào địa hình hiểm trở, rừng núi để đánh giặc. Bởi vậy mà núi đá, rừng cây cũng tham gia đánh giặc. Núi rừng Việt Bắc tươi đẹp, hiền hòa trong bức tranh tứ bình nay bỗng trở thành những chiến sĩ thực thụ trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược. + Núi đá tham gia đánh giặc: Những dãy núi trùng điệp dàn trải như thành lũy kiên cố bất khả xâm phạm che chở bộ đội, dân quân, du kích,… Tư thế hiên ngang kiêu hùng của những vách núi làm cho kẻ thù bất lực. + Rừng cây cũng tham gia đánh giặc: Rừng cây vừa bao vây quân thù, vừa chở che bộ đội. Rừng núi vốn là những vật vô tri, song dưới con mắt của nhà thơ, trong cuộc kháng chiến trường kì toàn dân, toàn diện cũng trở nên có ý chí, có tình người. Chúng cùng quân dân ta tham gia chiến đấu và trở thành đồng đội với quân và dân ta trong cuộc chiến. Với nghệ thuật nhân hóa, Tố Hữu đã biên núi rừng, thiên nhiên thành những người lính anh dũng kiên cường. + Bốn mặt sương mù: Khung cảnh chiến đấu vừa hào hùng vừa thơ mộng, đất trời bao la chìm trong sương mù dày đặc. Màn sương ấy như che chở cho quân ta và cản bước quân thù. + \"Cả chiến khu một lòng\": Cả núi rừng Việt Bắc giờ đây đang cùng chung một nhịp đập trái tim. Tất cả đang hướng về cuộc chiến đấu, hướng về sứ mệnh bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ quê hương yêu dấu. Cụm từ này đã nhấn mạnh tình đoàn kết quân dân, sự gắn bó giữa con người và thiên nhiên. Tất cả bừng lên ngọn lửa căm hờn, ngọn lừa hừng hực tinh thần quyết chiến, quyết thắng. Qua những câu thơ này, Tố Hữu thế hiện lòng tự hào trước sức mạnh của dân tộc ta. Khi Tổ quốc, quê hương cần, tất cả thiên nhiên và con người đều sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng hi sinh. Ngay từ những ngày đầu vất vả, gian khổ nhất khí thế chiến đấu của quân và dân ta trên chiến khu Việt Bắc đã cao ngất trời, không khác gì khí thế của quân đội nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông: Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu Ba quân tì hổ khí thôn ngưu (Múa giáo non sông trải mấy thâu - Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu) - Câu thơ \"Ai về ai có nhớ không?\": Đại từ \"ai\" lặp lại 2 lần, tuy phiếm chỉ nhưng kết hợp thành \"ai về\" rõ ràng là chỉ người đi. Cả câu thơ là một câu hỏi. Câu hỏi ấy cũng không phải để được trả lời mà là một câu hỏi tu từ để cho thấy người ra đi đang tự nhìn vào lòng mình và sử dụng câu hỏi như một cây cầu nối để dẫn dắt vào nỗi nhớ về những trận đánh, chiến thắng. - Với quyết tâm đánh giặc, cả chiến khu từ thiên nhiên đến con người đều một lòng chiến đấu nên ta đã có những trận đánh, những chiến thắng bước đầu. Điệp từ \"nhớ\" được lặp lại 4 lần trong 4 câu thơ khẳng định sâu sắc nỗi nhớ niềm thương của người cán bộ về xuôi. Cũng trong 4 câu thơ, nhà thơ còn sử dụng nhiều tên địa danh. Nhưng đó không phải 79

những địa danh đơn thuần mà là những địa danh diễn ra những trận đánh, những chiến thắng của quân và dân ta. Nhà thơ Quang Dũng trong bài thơ \"Tây Tiến\" cũng nhắc đến rất nhiều tên địa danh như Sài Khao, Mường Lát, Mai Châu, Pha Luông, Mường Hịch... Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Những tên địa danh ấy gợi lên trong lòng người đọc bao nhiêu niềm thương nỗi nhớ về một thời Tây Tiến. Nhưng ở đây, các địa danh trong thơ Tố Hữu không chỉ gợi niềm thương, nỗi nhớ mà còn là niềm tự hào chiến thắng. Đoạn thơ là lời khẳng định đầy tự hào rằng ta vẫn có thể chiến đấu và chiến thắng trong những ngày đầu khó khăn, gian khổ nhất. 6.3. Hai câu thơ: Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung Nét tả khái quát: Những con đường ra trận trên chiến khu Việt Bắc - Nếu như đoạn thơ 10 câu trên là những ngày đầu khó khăn, gian khổ mới chỉ có những trận đánh, chiến thắng bước đầu thì đoạn thơ tiếp theo đã tái hiện khí thế chiến đấu, chiến thắng ngút trời của quân và dân ta. Đoạn thơ được kết cấu theo cấu trúc mà trong đó nét tả khái quát là miêu tả những con đường ra trận trên chiến khu Việt Bắc làm hiện lên khí thế ra trận của quân và dân ta. Sau đó là miêu tả cụ thể những đoàn quân, đoàn dân công và những đoàn xe cơ giới ra chiến trường trên những nẻo đường Việt Bắc. Và cuối cùng là nêu các tên địa danh là những chiến thắng trên khắp mọi miền tổ quốc, khẳng định chiến thắng về ta. - Khí thế chiến đấu và chiến thắng ấy được thể hiện trước hết qua nét tả khái quát về những con đường ra trận trên chiến khu Việt Bắc. Hai câu thơ mở ra một không gian rộng lớn, hùng tráng là trên khắp các ngả đường Việt Bắc. Thời gian được thể hiện qua từ láy \"đêm đêm\" không chỉ thể hiện quãng thời gian lặp đi lặp lại là hàng đêm mà còn xác nhận một hiện thực thời đó là quân ta chủ yếu hoạt động và kiểm soát về đêm. Mặt khác, trong cuộc kháng chiến thần tốc ấy, để tiếp tế, chi viện cho chiến trường đủ cả về nhân lực và vật lực thì quân và dân ta phải hoạt động cả trong đêm. Hiện thực ấy được nhắc tới trong rất nhiều thi phẩm ra đời cùng thời như: Những đêm dài hành quân nung nấu Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu (“Đất nước” - Nguyễn Đình Thi), Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống Bộ đội bên sông đã trở về” (“Bên kia sông Đuống” - Hoàng Cầm) - Khí thế chiến đấu dũng mãnh của quân và dân ta được thể hiện rõ qua từ láy \"rầm rập\" và biện pháp nghệ thuật so sánh \"như là đất rung\": + Từ láy \"rầm rập\": cho thấy sự chuyển động của những bước chân trên con đường ra mặt trận và hơn nữa cho thấy sức mạnh, nhịp độ khẩn trương của quân ta. 80

+ Nghệ thuật so sánh có phần cường điệu \"như là đất rung\" càng nhấn mạnh khí thế chiến đấu, sức mạnh quân và dân ta, là sức mạnh nhân nghĩa của mấy ngàn năm lịch sử. Khí thế chiến đấu và chiến thắng ấy tưởng chừng có thể làm rung chuyển trời đất, lay động cả càn khôn. Mặt đất tưởng chừng rung chuyển dưới bước chân của những người khổng lồ đầu đội trời, chân đạp đất trong cuộc ra quân vĩ đại. + Từ \"của ta\" một lần nữa khẳng định tâm thế làm chủ. Đó là tâm thế của cả dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Tâm thế ấy còn được Tố Hữu nhắc đến một lần nữa trong \"Hoan hô chiến sĩ Điện Biên\": Của ta trời đất đêm này Sông kia, đồi nọ, núi này của ta Cũng là tâm thế được thể hiện trong thơ Nguyễn Đình Thi về thời ấy: Trời xanh đây là của chúng ta Núi rừng đây là của chúng ta Những cánh đồng thơm mát Những ngả đường bát ngát Những dòng sông đỏ nặng phù sa Nhìn chung, hai câu thơ thể hiện rõ niềm tự hào làm chủ và khí thế chiến đấu chiến thắng cao ngất trời của những con người chưa ra trận mà như đã nắm chắc phần thắng trong tay. Truyền thống yêu nước đã kết tinh thành sức mạnh, thành khí thế hào hùng của cả dân tộc trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược như \"Bình Ngô đại cáo\" của Nguyễn Trãi miêu tả: Đánh một trận sạch không kình ngạc Đánh hai trận tan tác chim muông Nổi gió to quét sạch lá khô Thông tổ kiến sụt toang đê vỡ 6.4. Hai câu thơ: Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan Hình ảnh đoàn quân ra trận - Hình ảnh đoàn quân được miêu tả trong sự trưởng thành, lớn mạnh, đội ngũ đông đảo, hùng hậu. Nghệ thuật trùng điệp với hai từ láy “điệp điệp\" và “trùng trùng\" đi liền nhau ở câu thơ có sức gợi tả đó, nó vừa gợi lên hình ảnh đoàn quân với sức mạnh vô song, tầng tầng, lớp lớp như sóng cuộn. Đoàn quân ra mặt trận hùng tráng, mang cả sức mạnh của lòng yêu nước, của lí tưởng cách mạng, khát khao chiến đấu và chiến thắng quân thù. 81

- Câu thơ thứ hai \"Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan\" đầy sáng tạo, được ngắt theo nhịp 4/4 càng làm tăng thêm vẻ đẹp của người lính - một vẻ đẹp vừa hiện thực vừa mộng ảo, gợi lên những ấn tượng đẹp về anh bộ đội cụ Hồ. Câu thơ trước hết tả thực hình ảnh những người lính trong cuộc hành quân đêm, súng khoác trên vai, ánh sao chênh chếch trên đầu mũi súng. Nhưng câu thơ không chỉ có ý nghĩa tả thực mà còn gợi nhiều liên tưởng. Trong đó, ánh sao là biểu tượng cho lí tưởng của người chiến sĩ, là ánh sáng cách mạng, là ý chí đánh giặc của người lính. Những người lính chiến đấu vì lí tưởng cao đẹp, vì độc lập tự do cho đất nước. Cụm từ \"ánh sao đầu súng\" đã nâng tầm vóc những người lính khiến họ vươn tới tận sao trời. Từ \"bạn cùng\" đã nhấn mạnh sự hài hòa giữa vẻ đẹp và lí tưởng ngời sáng của người chiến sĩ với cái bình dị, đời thường của người lính được gợi ra từ hình ảnh \"mũ nan\". Chiếc mũ nan ấy có thể được đan bởi những người dân Việt Bắc, họ gửi vào chiếc mũ bao nhiêu tin yêu cho chiến trường: Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Như thế, hình ảnh “Ánh sao đầu súng\" ở đây cũng có nét giống với hình ảnh \"Đầu súng trăng treo” trong bài thơ \"Đồng chí\" của Chính Hữu. Ánh sao đầu súng ấy cũng có thể là ánh sáng của ngôi sao gắn trên chiếc mũ nan của người lính, ánh sáng của lí tưởng cách mạng soi cho người lính bước đi, như nhà thơ Vũ Cao trong bài \"Núi đôi\" đã viết: Anh đi bộ đội sao trên mũ Mãi mãi là sao sáng dẫn đường 6.5. Hai câu thơ: Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay. Hình ảnh đoàn dân công - Trên các nẻo đường Việt Bắc còn có những đoàn dân công bền bỉ tải lương thực, súng đạn để phục vụ cho chiến trường. Hình ảnh của họ cũng thật đẹp, thật hào hùng và đầy lạc quan không kém những người lính. Cụm từ \"từng đoàn\" thể hiện đội ngũ rất đông đảo, hùng hậu. Điều đó khẳng định cuộc kháng chiến chống Pháp của ta là cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, là cuộc chiến tranh nhân dân mà cả nước đều dốc lòng, dốc sức cho tiền tuyến lớn. - Hình ảnh đoàn dân công đi trong đêm cũng là hình ảnh rất thực ở thời ấy. Họ đi dưới ánh sáng của những ngọn đuốc và từ những ngọn đuốc bay ra muôn tàn lửa tạo nên một hình ảnh rất đẹp, đậm chất lãng mạn, thậm chí có thể liên tưởng muôn tàn lửa bay ra từ những bó đuốc ấy như đã tạo ra một đêm hội hoa đăng. Nghệ thuật cường điệu “dấu chân nát đá” đã tạo nên hình ảnh thơ đầy chất thần thoại. Bước chân đoàn dân công như bước chân của những con người đội đá, vá trời, làm rung chuyển vũ trụ. Biện pháp nghệ thuật này có tác dụng nhấn mạnh sức mạnh và ý chí của đoàn dân công sẵn sàng đạp bằng mọi chông gai để đi tới. Bởi thế nên mới có những câu thơ, lời hát: Bác thương đoàn dân công Đêm nay ngủ ngoài rừng Rải lá cây làm chiếu Manh áo phủ làm chăn 82

6.6. Hai câu thơ: Nghìn đêm thăm thẳm sương dày Đèn pha bật sáng như ngày mai lên. Đoàn xe cơ giới ra chiến trường - Trên những con đường Việt Bắc không chỉ có đoàn quân, đoàn dân công mà còn có những đoàn xe cơ giới chở lương thực, đạn dược, chở bộ đội ra chiến trường. Hai câu thơ với bút pháp chủ đạo là nghệ thuật tương phản, đối lập đã cho ta cái nhìn toàn diện về cuộc kháng chiến của dân tộc. Hình ảnh thơ ở đây vừa có nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa biểu trưng: + Nghĩa thực: Những đoàn xe đi trong đêm giữa bóng tối nghìn đêm thăm thẳm của núi rừng Việt Bắc với đèn pha bật sáng xua tan bóng tối sương dày để soi rõ con đường ra tiền tuyến cho đến ngày mới sẽ có hừng đông ló rạng. + Nghĩa biểu trưng: Cụm từ thời gian “nghìn đêm thăm thẳm sương dày” như gợi lại cả một thời kì dài đất nước ta chìm trong ách nô lệ, tăm tối, hết nghìn năm Bắc thuộc lại Pháp thuộc. Đồng thời là muôn vàn những gian khổ, hi sinh, thử thách, khó khăn trên con đường cách mạng, kháng chiến. Cụm từ“ngày mai lên” chỉ một tương lai tươi sáng. Con đường ra trận trên chiến khu Việt Bắc là con đường đầy khó khăn gian khổ, hi sinh nhưng cũng chính là con đường đi tới ngày mai tươi sáng. - Nghệ thuật tương phản, đối lập càng bộc lộ rõ cảm hứng lãng mạn, thể hiện khát vọng và niềm tin cháy bỏng của nhân dân ta vào một ngày mai tất thắng. vẻ đẹp của đoàn xe cơ giới ra chiến trường và niềm tin chiến thắng ấy còn được thể hiện trong một bài thơ ra đời trong cuộc kháng chiến chống Mỹ là bài thơ \"Tiểu đội xe không kính\" của Phạm Tiến Duật: Không có kính, rồi xe không có đèn, Không có mui xe, thùng xe có xước, Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước: Chỉ cần trong xe có một trái tim. 6.7. Bốn câu thơ: Tin vui chiến thắng trăm miềm Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về Vui từ Ðồng Tháp, An Khê Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng. Tin vui chiến thắng Với khí thế chiến đấu và chiến thắng mạnh mẽ, với sức mạnh, ý chí to lớn nên cuối cùng ta đã chiến thắng. Tin vui thắng từ khắp các mặt trận dồn dập ùa về. Gọi tên các địa danh để nói đến chiến thắng trở thành một nét riêng của thơ Tố Hữu. Nghệ thuật liệt kê, trong đó mỗi địa danh được liệt kê ra là một chiến thắng. Vì vậy, gọi tên địa danh là thể hiện niềm tự hào dân tộc, niềm tự hào chiến thắng. (Mở rộng về cách sử dụng địa danh trong thơ: Xem ở trên) - Với các địa danh được liệt kê ở khắp mọi miền đất nước cùng với cách sử dụng ngôn ngữ như \"trăm miền\", cấu trúc \"...vui về...vui từ...vui lên...\" càng thể hiện rõ hơn chiến thắng vẻ vang của dân tộc. Chiến thăng liên tiếp báo về Việt Bắc cũng được Hồ Chí Minh khẳng định trong bài thơ Báo tiệp\": Trăng vào cửa sổ đòi thơ, 83

Việc quân đang bận xin chờ hôm sau Chuông lầu chợt tỉnh giác thu Ấy tin thắng trận liên khu báo về Tiểu kết: Âm hưởng chung của đoạn thơ là rất hùng tráng khi miêu tả cuộc ra quân vĩ đại của dân tộc. Có thể nói \"Việt Bắc\" là thơ trữ tình chính trị và đoạn thơ này mang đầy cảm hứng anh hùng ca, đậm màu sắc sử thi lãng mạn. Đoạn thơ là âm vang của cuộc kháng chiến thần thánh, là bản tổng kết bằng thơ về mười lăm năm chống Pháp nhưng vẫn nằm trong mạch cảm xúc về nỗi nhớ Việt Bắc, ân tình ân nghĩa của người cán bộ cách mạng miền xuôi với Việt Bắc và nhân dân việt Bắc. 7. Đoạn thơ: \" Ai về ai có nhớ không? ... Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào Việt Bắc là quê hương của cách mạng 7.1. Khái quát Đoạn thơ này tác giả lại chuyển sang giọng điệu thơ trang trọng, thiêng liêng để diễn tả nỗi nhớ của người về đối với Trung ương Chính phủ – Cụ Hồ. Và hình ảnh của Việt Bắc trong trí nhớ của người về là quê hương cách mạng, căn cứ địa kháng chiến, là niềm tin,hi vọng của cả dân tộc. 7.2. Hình ảnh Trung ương chính phủ ở Việt Bắc - Câu thơ \"Ai về ai có nhớ không?\": Đại từ phiếm chỉ “ai” được điệp lại hai lần trong câu thơ sáu tiếng như nốt luyến láy đầy vấn vương. “Ai” vừa là người đi cũng vừa là nhân dân Việt Bắc nên câu hỏi ấy như nỗi niềm băn khoăn, tha thiết của cả người đi và kẻ ở khi nhớ về những tháng ngày nơi thủ đô gió ngàn. - Khung cảnh Việt Bắc: Khi quyết định rời thủ đô Hà Nội, thực hiện kế hoạch vườn không nhà trống thì đồng thời cơ quan đầu não của TƯ của đảng và chính phủ kháng chiến cũng di chuyển lên chiến khu Việt Bắc nên mới có khung cảnh: Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang. Nắng trưa rực rỡ sao vàng Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công + Hình ảnh ngọn cờ đỏ sao vàng: Khi thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân cũng là lúc lá cờ đỏ sao vàng được lấy làm quốc kì của dân tộc ta. Lá cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay trên cửa hang lộng gió, phải chăng đó là hang PắcPó, nơi lãnh tụ HCM kính yêu của chúng ta sống và làm việc. Hình ảnh này không chỉ mang ý nghĩa tả thực mà nó còn mang ý nghĩa tượng trưng cho tinh thần, ý chí quyết tâm cao độ trong cuộc kháng chiến của quân và dân ta và niềm tin tất thắng vào cuộc kháng chiến của dân tộc. + Ánh nắng trưa rực rỡ: Khung cảnh Việt Bắc nơi chiến khu hiện lên rực sáng bởi sự xuất hiện ánh nắng chói chang của mặt trời. Hãy nhớ lại những tháng năm dân tộc ta phải đi qua “nghìn đêm thăm thẳm sương dày” mới hiểu hết giá trị của ánh nắng mặt trời khi chiếu rọi đến nơi đây. Phải chăng điều nhà thơ Tố Hữu muốn nói thật giản dị nơi nào có Đảng, có chính phủ 84

nơi đó có ánh sáng mặt trời, có sự sống, có độc lập tự do. Đó là chân lí mà chàng thanh niên trẻ tuổi Nguyễn Kim Thành đã nhận ra từ tuổi đôi mươi. Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lí chói qua tim Khung cảnh nơi chiến khu hiện lên thật rực rỡ, làm tấm phông nền tươi sáng cho \"Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công\". Có lẽ không có hình ảnh nào tuyệt mĩ hơn ánh sáng lí tưởng cách mạng đang tỏa khắp chiến khu, ngọn gió của tự do đang phần phật thổi trên lá cờ tổ quốc. Tất cả vì ngày mai chiến thắng. - Từ Việt Bắc phát động ra mọi phong trào thi đua, yêu nước trong cả nước: + Trên tiền tuyến: Ðiều quân cho chiến dịch thu đông. + Hậu phương: Trong khi tiền tuyến nổ súng thì cũng là lúc hậu phương phải tập trung cao độ cho sản xuất để hoàn thành vai trò tiếp viện cho chiến trường với các phong trào: phát động phong trào ở nông thôn như phong trào ba tốt, ba đảm đang, chị hai năm tấn, phong trào mở đường giao thông, giỡ đê, phòng hạn, thu mua lương thực, mở trường ở các khu... 7.3. Vai trò của Bác Hồ: Ở đâu u ám quân thù Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi Biện pháp nghệ thuật đối lập làm nổi bật vai trò của vị lãnh tụ kính yêu và tài ba của dân tộc. Bác chính là người soi đường dẫn lối cho kháng chiến. Bóng tối và sự u ám của quân thù không thể lấn át được ánh sáng tỏa rạng từ Cụ Hồ. Đó không chỉ đơn thuần là ánh sáng của vị lãnh tụ mà còn là linh hồn, trái tim của cuộc chiến đấu nuôi dưỡng niềm tin của cả dân tộc. 7.4. Vai trò của chiến khu cách mạng Ở đâu đau đớn giống nòi Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền. - Khi giống nòi dân tộc đang quằn quại, đau khổ dưới ách nô lệ lầm than, hãy hướng trái tim thì Việt Bắc chính là nơi hội tụ cội nguồn sức mạnh, là nơi đặt niềm tin và hi vọng của đồng bào cả nước. Cả nước hướng về Việt Bắc để nuôi ý chí chiến đấu quyết giành lại độc lập tự do cho đất nước. Mười lăm năm ấy ai quên Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hoà - Thời gian mười lăm năm được nhắc lại lần thứ hai trong đầy ắp ân tình và kỉ niệm. Và một sự khẳng định như lời thề son sắt \"Mười lăm năm ấy ai quên\". Hơn nữa, hai câu thơ còn là một khái quát về ý thức cội nguồn, lòng biết ơn quê hương cách mạng, đó là lẽ sống, lẽ làm người chân chính. Một Việt Bắc gian lao, bền bỉ, một Việt Bắc nghĩa tình và yêu nước – sẽ mãi còn là nỗi nhớ và tình cảm sắt son. Mười lăm năm trên chiến khu Việt Bắc đã khiến Việt Bắc trở thành quê hương, thành cái nôi của cách mạng, trở thành cội nguồn chiến thắng. 7.5. Hai câu thơ cuối: Mình về mình lại nhớ ta Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào. - Khúc hoàn ca: 85

- Hai câu thơ là tiếng ân ca tha thiết của khúc hát giao duyên của ta và mình lại cất lên như lời thủy lời chung. Mình và ta lại quấn quýt giao hòa trong nỗi nhớ thương. Đây cũng chính là câu trả lời của người ra đi cho câu hỏi “Mình đi mình có nhớ mình” của người ở lại. Nghĩa là người về muốn nhắn nhủ với Việt Bắc là dù xa cách dù về thành thị xa xôi thì người các bộ kháng chiến năm xưa vẫn giữ gìn và phát huy phẩm chất tốt đẹp của người cán bộ cách mạng. - Một lần nữa những địa danh thiêng liêng như Tân Trào, Hồng Thái được nhắc lại tạo thành kết cấu vòng tròn để thể hiện tình cảm son sắt thủy chung của người đi kẻ ở rằng tình cảm với 15 năm trên chiến khu Việt Bắc mãi vẹn nguyên như thuở ban đầu. III. ĐÁNH GIÁ CHUNG “Việt Bắc” là một kiệt tác của Tố Hữu mà cũng là kiệt tác của thơ ca cách mạng, thơ ca kháng chiến. Bài thơ thể hiện tài hoa nhiều mặt của nhà thơ Tố Hữu. Thể thơ lục bát được tác giả phô diễn những tình cảm, tư tưởng mới mà vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu phong phú cho bài thơ. Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo. Ngôn ngữ trong sáng, nhuần nhị, và có nhiều nét cách tân. Tiếng nói yêu thương – nét nổi bật trong phong cách thơ Tố Hữu – không có bài nào thấm thía hơn “Việt Bắc”. Bài thơ còn thể hiện tư tưởng mới mẻ với những dự báo sáng suốt được biểu hiện bằng hình ảnh phong phú và tấu lên băng âm nhạc làm say mê lòng người. Cảm ơn người con của xứ Huế đã để lại cho hậu thể một bản hùng ca về ân tình cách mạng trong lịch sử thơ ca dân tộc. LUYỆN ĐỀ Đề bài 1: Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc I. MỞ BÀI - Giới thiệu tác giả, tác phẩm - Tính dân tộc trong bài thơ II. THÂN BÀI 86

1. Giải thích khái niệm tính dân tộc - Tính dân tộc được hiểu là một đặc tính nhưng đồng thời cũng là thước đo giá trị của một tác phẩm văn họ, thể hiện sự gắn bó của văn học với văn hóa tinh thần dân tộc. Mỗi dân tộc trên thế giới đều có đời sống riêng, cách cảm thụ riêng, hệ giá trị riêng…do truyền thống văn hóa, tâm lí, phong tục tập quán và ngôn ngữ tạo thành sự biểu hiện tập trung của các phương diện ấy vào nội dung và hình thức tác phẩm, tạo thành tính dân tộc trong tác phẩm văn học. Những tác phẩm văn chương lớn từ trước cho đến naythường vừa mang tính nhân loại, vừa mang tính dân tộc sâu sắc. - Trong văn học, tính dân tộc được thể hiện ở cả nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Về nội dung, một tác phẩm mang tính dân tộc phải thể hiện được những vấn đề nóng bỏng liên quan đến vận mệnh dân tộc, thể hiện được khát vọng, tình cảm và ý chí của một dân tộc. Về hình thức, tác phẩm đó tiếp thu một cách sáng tạo tinh hoa văn hóa của dân tộc. Nếu hiểu như thế thì thơ Tố Hữu mang phong cách nghệ thuật “đậm đà bản sắc dân tộc”. 2. Tính dân tộc thể hiện qua nội dung 2.1. Đề tài giàu tính dân tộc: Cuộc chia tay lịch sử của những cán bộ cách mạng miền xuôi và các đồng bào dân tộc được tác giả ví như đôi bạn tình. (Hoàn cảnh ra đời – Đề tài chia li: Tham khảo bài phân tích) 2.2. Việt Bắc” đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên đậm đà tính dân tộc, mang bản sắc riêng của thiên nhiên đất nước Việt Nam: + Bức tranh thiên nhiên Việt Bắc đầy khắc nghiệt với mưa nguồn suối lũ trong những ngày đầu trên chiến khu Việt Bắc. + Bức tranh thiên nhiên Việt Bắc với những hình ảnh thiên nhiên thơ mộng: trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương, bản khói cùng sương, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê nin vơi đầy.. + Bức tranh thiên nhiên bốn mùa thơ mộng: Cảnh sắc mùa đông với sắc đỏ của những bông hoa chuối rừng, mùa xuân với sắc trắng bung nở của rừng hoa mơ, mùa hè được cảm nhận bằng cả màu sắc và âm thanh - màu vàng của rừng phách, của nắng hè và âm thanh của tiếng ve, mùa thu đẹp đẽ, êm đềm, mơ mộng với ánh trăng vàng - ánh trăng hòa bình đang chiếu rọi khắp núi rừng. 2.3. Bài thơ thể hiện đậm nét hình ảnh, con người Việt Nam, Tổ quốc Việt Nam trong thời đại cách mạng. + Những con người vất vả, lam lũ, chịu thương, chịu khó. + Những con người thủy chung, tình nghĩa, luôn đồng cam, cộng khổ cùng nhau của con người Việt Nam trong kháng chiến. + Tình nghĩa của cán bộ và đồng bào Việt Bắc với cách mạng và kháng chiến - đó cũng chính là mạch cảm xúc xuyên suốt toàn bộ bài thơ và cũng một phẩm chất truyền thống của dân tộc. => Tư tưởng và tình cảm cách mạng hòa nhập và tiếp nối với truyền thống tinh thần, tình cảm, đạo lí của dân tộc. 2.4. Tất cả hướng tình cảm về Lãnh tụ kính yêu và công ơn của Đảng. 3. Tính dân tộc thể hiện ở phương diện nghệ thuật 87

3.1. Tính dân tộc thể hiện ở thể thơ lục bát: Thể lục bát là thể thơ truyền thống của dân tộc với giọng thơ mềm mại, uyển chuyển, giàu tính nhạc, dễ đi vào lòng người: Nhớ gì như nhớ người yêu Trăng lên đầu núi năng chiều lưng nương Nhớ từng bản khói cùng sương Sớm khuya bếp lửa người thương đi về 2. Tính dân tộc thể hiện qua hình thức hát đối đáp trong ca dao trữ tình truyền thống: Trong ca dao đó thường là hát đối đáp giữa nam và nữ qua đó bộc lộ tình yêu quê hương đất nước con người. Ở đây, là lời đối đáp của những người cán bộ cách mạng về xuôi và người dân Việt Bắc. 3. Sử dụng lời ăn tiếng nói của nhân dân, giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, tha thiết: Thể hiện rõ ở ngôn từ cách xưng hô ta – mình: Đây là lối xưng hô mộc mạc, dân dã, thấm đượm nghĩa tình quân dân. Người Việt Bắc và người cán bộ cách mạng giống như một đôi bạn tình => Thể hiện cái hồn Huế đằm thắm và cốt cách, tâm hồn dân tộc. 4. Tính dân tộc mang đậm hồn ca dao và truyện Kiều, thể hiện qua so sánh ví von: + Ca dao: Người về ta chẳng cho về Ta nắm vạt áo ta đề bài thơ … Qua đình ngả nón trông đình Đình bao nhiêu ngói nhớ thương mình bấy nhiêu Trong VB Tố Hữu viết: Mình đi mình lại nhớ mình Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu + Truyện Kiều: Những là rày ước mai ao Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình Tố Hữu viết: Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng 5. Tính dân tộc thể hiện qua ngôn ngữ thuần Việt, giản dị, dễ thuộc, dễ nhớ. Hình ảnh thơ gần gũi đời thường nhiều sức gợi. - Ngôn từ, vần điệu khiến bài thơ dễ đọc dễ nhớ và dễ đi vào lòng người. Hệ thống từ láy: tha thiết, bâng khuâng,.. tạo nhạc tính. - Các hình ảnh quen thuộc trong tâm thức người Việt như sông, núi, cồn, áo chàm, trám bùi, măng mai, bắp ngô… III. KẾT BÀI - Không có một nhà văn, nhà thơ đích thực nào lại từ bỏ đi quá khứ, từ bỏ truyền thông văn hóa của dân tộc vì từ bỏ văn hóa dân tộc cũng có nghĩa là từ bỏ nguồn sữa quy báu nuôi dưỡng hồn thơ mình. Như nhà thơ Hen-rich Hai-nơ đã có lần nói rất hay rằng, nếu nhà thơ xa rời hiện thực thì anh ta sẽ “lơ lửng trên không” tựa như Thần Ang-tê bị 88

nhấc khỏi thần Mẹ Đất. Và cũng có thể nói về số phận nhà thơ như thế nếu từ bỏ truyền thống văn học quý báu của ông cha. - Trên con đường sáng tạo nghệ thuật thì người nghệ sĩ luôn luôn được ví von với hình ảnh con ong cần mẫn vậy. Tố Hữu cũng đã tiếp thu những tinh hoa nghệ thuật của dân tộc và việc tiếp thư truyền thống còn gắn liền với sự sáng tạo không mệt mỏi. Chế Lan Viên cho rằng, Tố Hữu đã khéo léo kết hợp được “cái hơi dân tộc” với “màu sắc hiện đại” để tạo nên sự kết tinh mới cho thơ ông. Và có thể nói tính dân tộc đã tạo lên một Tố Hữu thành công. => Việt Bắc thể hiện tính dân tộc đậm đà từ nội dung trữ tình tới nghệ thuật trữ tình. Vì thế, bài thơ dễ dàng tạo được tiếng nói đồng ý, đồng tình của người đọc. Đề số 2: Phong cách thơ Tố Hữu qua bài “Từ ấy” và “Việt Bắc” I. MỞ BÀI - Giới thiệu nhà thơ Tố Hữu cùng phong cách thơ rất đặc trưng của ông. - Vẻ đẹp trong phong cách cũng như ngôn ngữ thơ Tố Hữu được thể hiện điển hình qua hai tác phẩm Từ ấy và Việt Bắc. II. THÂN BÀI 1. Khái quát: 1.1. Khái niệm phong cách (Lí luận) 1.2. Những nét chính về nhà thơ Tố Hữu - Tố Hữu sinh tại thị xã Hội An (tỉnh Quảng Nam) nhưng quê gốc của ông lại thuộc làng Phù Lai (nay thuộc xã Quảng Thọ), huyện Quảng Điền, tình Thừa Thiên – Huế. Mặc dù cuộc sống gia đình thuở ấu thơ của Tố Hữu phải trải qua những ngày tháng chật vật vì nỗi lo cơm áo nhưng điều đó không thể ngăn cách được Tố Hữu với niềm yêu thích thơ ca. - Một điều may mắn mà Tố Hữu có được chính là việc thân sinh của nhà thơ vốn là một nhà nho có kiến thức uyên thâm về thơ ca cổ điển. Nhờ vậy, Tố Hữu cũng đã ít nhiều học tập được cách làm thơ ngay từ nhỏ từ người cha đáng kính của mình. Không chỉ vậy, ông còn có một người mẹ có vốn hiểu biết rất sâu sắc với ca dao, dân ca xứ Huế, điều này giúp chúng ta có thể dẫ dàng hiểu được vì sao thơ ông lại thường có những dòng viết dạt dào cảm xúc đến như vậy. - Tố Hữu bước vào tuổi trưởng thành trong thời điểm Mặt trận Dân chủ đang diễn ra những phong trào sôi nổi. Là một trí thức nhận thức rất rõ về lí tưởng cao đẹp của cách mạng dân tộc. Tố Hữu đã nhanh chóng trở thành một người chiến sĩ và ít lâu sau đã đảm nhiệm nhiều vai trò lãnh đạo quan trọng. Chính vì sự kiên trì và sự chín chắn trong công tác, Tố Hữu đã có những đóng góp rất quan trọng và về sau ông liên tục giữ những cương vị trọng yếu trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. 89

- Thành tựu trong trang đời Tố Hữu còn được viết bởi những đóng góp của ông trong lĩnh vực thơ ca. Đặc biệt, với sự nghiệp thơ cách mạng đồ sộ, ông đã được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996. 2. Phong cách thơ Tố Hữu qua bài Việt Bắc và Từ ấy 2.1. Thơ Tố Hữu mang khuynh hướng trữ tình và chính trị sâu sắc - Cái tôi trữ tình trong phong cách thơ Tố Hữu chính là cái tôi chiến sĩ, là cái tôi nhân danh đảng và nhân danh cộng động dân tộc. Thơ Tố Hữu thường không đi sâu vào cuộc sống hay những tình cảm riêng tư mà tập trung thể hiện những tình cảm lớn cũng như mang tính chất tiêu biểu, phổ biến của con người Cách mạng. Niềm vui trong thơ Tố Hữu thường không nhỏ bé tầm thường mà là niềm vui lớn, sôi nổi hay hân hoan, rực rỡ và tươi sáng, là những vần thơ chiến thắng. + Tố Hữu vốn là một chiến sĩ – thi sĩ nên thơ của ông chính là thơ của lí tưởng cộng sản và mang đậm khuynh hướng trữ tình chính trị. Trong suốt quãng đời sáng tác, ông luôn xác định chính lí tưởng cách mạng và quan điểm chính trị sẽ là ngọn đuốc soi đường dẫn lối cho cảm xúc để ông viết thành thơ. Chế Lan Viên cũng đã có một nhận định đúng đắn về Tố Hữu khi nhắc đến vấn đề này: Với Tố Hữu dù “tả tình hay tả cảnh, kể chuyện mình hay kể chuyện của người, viết về các vấn đề lớn hay về một sự việc nhỏ […] là để nói cho được cái lí tưởng cộng sản ấy thôi”. + Tố Hữu viết thơ nhưng thực chất những điều ông viết chẳng khác gì dòng nhật kí chân tình ông ghi lại những bước ngoặt quan trọng trong lịch sử của cuộc cách mạng dân tộc. Trong thơ ông, ta luôn cảm nhận được từng giai đoạn trong đời sống chính trị của đất nước. Minh chứng rõ nhất cho điều nói trên đây là những tập thơ giàu giá trị mà Tố Hữu để lại cho đời như: “Từ ấy” (1937-1946), “Việt Bắc” (1947-1954), hay “Gió lộng” (1955- 1961), “Ra trận” (1962-1972), “Máu và hoa” (1972-1977), Một tiếng đờn” (1992) và “Ta với ta” (1999). + Mặc dù viết về các chặng đường cách mạng nhưng phong cách thơ Tố Hữu không phải là những dòng viết phản ánh những con số, những sự kiện một cách khô cứng. Trong các sáng tác của nhà thơ, người đọc sẽ thấy được ở đó có sự biểu hiện của những tình cảm tốt đẹp của dân tộc. Đó là tình yêu dành cho lí tưởng cao đẹp của cách mạng dân tộc cất lên thành tiếng hát say mê, vui sướng: “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lí chói qua tim Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim” (Từ ấy) Là tình cảm cách mạng, nghĩa đồng bào gắn kết thân tình mà lúc chia xa cả người đi và kẻ ở đều xúc động, bịn rịn, quyến luyến. Kẻ ở ướm hỏi: “Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng Mình về mình có nhớ không 90

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn” Và tâm trạng người về đã nói lên hết tình cảm dành cho đồng bào ở lại: “Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong dạ bồn chồn Áo chàm đưa buổi phân li Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” (“Việt Bắc”) Đó là những tình cảm đẹp đẽ và quý giá mà những người chiến sĩ như Tố Hữu có được trong quá trình làm cách mạng của mình. 2.2. Phong cách thơ Tố Hữu gắn liền với khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn Cách mạng - Trong thơ Tố Hữu thường thấy những sự kiện chính trị của đất nước là đối tượng thường thể hiện chủ yếu, đồng thời cũng đề cập những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và mang tính chất toàn dân. Cảm hứng chủ đạo trong phong cách thơ Tố Hữu chính là cảm hứng lịch sử dân tộc, bên cạnh đó nổi bật là vấn đề vận mệnh cộng đồng. Thơ Tố Hữu thương có các nhân vật trữ tình mang tầm vóc lịch sử và thời đại. + Sự kiện chính trị của đất nước là đối tượng thường thể hiện chủ yếu, đồng thời cũng đề cập những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và mang tính chất toàn dân: Việt Bắc là bản tổng kết bằng thơ, là bản anh hùng ca về cuộc kháng chiến chống Pháp. Bài thơ ra đời nhân sự kiện lớn có tính lịch sử của thời đại, thể hiện tình cảm cách mạng sâu sắc giữa những người cán bộ cách mạng miền xuôi với người dân Việt Bắc và căn cứ địa cách mạng. Điểm nhìn thiên về khuynh hướng sử thi, trữ tình, chính trị trong bài thơ Việt Bắc được thể hiện qua đề tài, chủ đề của bài thơ khi tái hiện thành công một giai đoạn lịch sử đầy gian khổ nhưng vẻ vang của cách mạng và kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc nay đã trở thành kỉ niệm sâu nặng trong lòng người. Sự gắn bó giữa miền ngược và miền xuôi trong một viễn cảnh hòa bình tươi sáng của đất nước và kết thúc bằng lời ca ngợi công ơn của chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng đối với dân tộc. Nói cách khác, các sự kiện, các vấn đề của đời sống cách mạng, lí tưởng và chính trị trong “mười lăm năm ấy” qua trái tim nhạy cảm của nhà thơ đều trở thành cảm hứng thực sự. + Chính điểm nhìn nghệ thuật mang tính sử thi của nhà thơ đã nâng các nhân vật trữ tình trong bài thơ thành những con người nhân danh cộng đồng, nhân danh Đảng và dân tộc mà tiêu biểu là hình ảnh Bác Hồ: “nhớ ông cụ mắt sáng ngời, áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường, nhớ người những sáng tinh sương, ung dung yên ngựa trên đường suối reo, nhớ chân người bước trên đèo, người đi rừng núi trông theo bóng người”. Ngoài ra, một hình ảnh thường thấy trong thơ Tố Hữu là hình ảnh người chiến sĩ cách mạng có lý tưởng cao đẹp, sẵn sàng chiên đấu hi sinh vì độc lập tự do của tổ quốc, vì những người dân nghèo khổ bị áp bức: Tôi đã là con của vạn nhà Là em của vạn kiếp phôi pha Là anh của vạn đầu em nhỏ Không áo cơm cù bất cù bơ 91

- Cảm hứng lãng mạn đậm nét trong thơ Tố Hữu khi thể hiện niềm vui phơi phới và tinh thần lạc quan cách mạng: Nhớ sao lớp học i tờ Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan Nhớ sao ngày tháng cơ quan Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo Hoặc: Nghìn đêm thăm thẳm xương dày Đèn pha bật sáng như ngày mai lên 2.3. Phong cách thơ Tố Hữu có giọng điệu ngọt ngào và tâm tình đầy mến thương. - Bên cạnh điểm nhìn nghệ thuật mang tính sử thi- cách mạng, phong cách nhà thơ Tố Hữu trong bài thơ Việt Bắc còn được biểu hiện ở một giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, tha thiết. Không khó để lí giả điều này bởi bản thân Tố Hữu có sự thừa hưởng từ những làn điệu tâm hồn của con người nơi xứ Huế mộng mơ. + Phong cách thơ Tố Hữu thường sử dụng những cách xưng hô bình dị của đời sống thường nhật nhưng lại tạo cảm giác thân thương, gần gũi vô ngần. Người đọc đến với thơ Tố Hữu vì vậy mà như đến để được nghe trò chuyện, giãi bày tâm tư. Tìm đến đọc thơ ông, người đọc sẽ lắm lần nghe ông gọi đối tượng trò chuyện bằng những tiếng gọi rất tha thiết, tự nhiên như: “Bạn đời ơi”, hay “Anh vệ quốc quân ơi”, “Anh chị em ơi”, và “Đất nước ta ơi”, “Hương giang ơi”… Điển hình như: “Giọt giọt mồ hôi rơi Trên má anh vàng nghệ Anh vệ quốc quân ơi Sao mà yêu anh thế!” (Cá nước) “Việt Nam đất nước ta ơi! Mênh mông biển lúa đâu trười đẹp hơn Cánh cò bay lả rập rờn Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều” (Việt Nam quê hương ta) Trong “Từ ấy” là cách xưng hô “anh”, “em”, “con” và trong “Việt Bắc” là cách xưng hô mình – ta thân mật gần gũi: 92

“Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng. Mình về mình có nhớ không”. Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn? + Tố Hữu kế thừa giọng điệu trữ tình ngọt ngào của ca dao: Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi” Hoặc: Ta với mình mình với ta Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh Mình đi mình lại nhớ mình Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu + Nét phong cách này còn được thể hiện qua việc sử dụng từ ngữ tình cảm, gây thương nhớ khi tái hiện những kỉ niệm trong “mười mấy năm ấy” gian khổ mà nghĩa tình: “Ta đi ta nhớ những ngày Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi Thương nhau chia củ sắn lùi Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng…” + Phong cách thơ trữ tình ngọt ngào của Tố Hữu còn ảnh hưởng bởi quan niệm thơ là chuyện đồng điệu, đồng thời cũng là tiếng nói đồng ý, đồng chí, đồng tình. Với bạn đọc, nhà thơ luôn quan niệm “Thơ là chuyện đồng điệu”. Phải chăng trong những tác phẩm của mình, nhà thơ luôn mong muốn độc giả có thể cảm được tấm chân tình của nhà thơ mà đặc biệt là những tình cảm mà ông dành cho cách mạng, cho sự nghiệp cứu nước, bởi thế, nên nhà thơ cũng xác định “Thơ là tiếng nói đồng ý và đồng tình, tiếng nói đồng chí”. Do vậy, khi phân tích phong cách thơ Tố Hữu, ta thấy tác giả đã sử dụng giọng điệu tâm tình, tha thiết nhà thơ cũng muốn thể hiện thật tự nhiên và chân thành những rung động của ông với tình nghĩa cách mạng và ân nghĩa đồng bào. 2.4. Thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc - Nội dung: + Tính dân tộc thể hiện qua đề tài, chủ đề: cuộc chia tay lịch sử và hình ảnh thiên nhiên, con người Việt Nam. + Phong cách thơ Tố Hữu cũng tiếp nối tinh thần, tình cảm, đạo lí dân tộc. 93

- Nghệ thuật: Phong cách thơ Tố Hữu luôn thấm đượm tính dân tộc đậm đà, đặc biệt là trong cách ông sử dụng hình thức, từ ngữ dân gian để truyền tải tư tưởng, quan niệm của mình. Tố Hữu đã sử dụng thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc, vốn là một hình thức rất hiệu quả để thể hiện những cảm xúc dạt dào, tự nhiên nhất. + Tố Hữu sử dụng thành công thể thơ truyền thống như thơ lục bát thơ thất ngôn. + Thơ ông cũng sử dụng từ ngữ, lời nói quen thuộc hay những ước lệ so sánh ví von truyền thống: Nhớ gì như nhớ người yêu Trăng lên đỉnh núi, nắng chiều lưng nương” Cách chuyển nghĩa và cách diễn đạt quen thuộc với tâm hồn người Việt: Áo chàm đưa buổi phân li Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay… + Thơ Tố Hữu giàu tính nhạc, ông có tài dùng từ lái, phối thanh. Thơ Tố Hữu có cách tạo nhạc điệu độc đáo: Đề cao và vận dụng tối đa tính nhạc phong phú trong tiếng Việt. Đặc biệt, phong cách thơ Tố Hữu sử dụng từ láy cùng với cách ngắt nhịp, phối thanh và phối vần. Nhà thơ đã tạo tính nhạc bên trong chiều sâu tâm hồn con người (đặc biệt những người chiến sĩ). III. KẾT LUẬN Có thể thấy, phong cách thơ Tố Hữu rất riêng biệt và độc đáo. Thơ chính là người, và thơ Tố Hữu không chỉ phản ánh tư tưởng cái tâm và cái tài của ông, mà những vần thơ ấy còn tái hiện rõ nét quá trình lịch sử và cách mạng của dân tộc. VIỆT BẮC Tố Hữu I. MỞ BÀI Tố Hữu là lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam. Từ đầu đến cuối ông đều là nhà thơ của lí tưởng cộng sản. Con đường thơ của ông luôn song hành và phản ánh chân thật các chặng đường gian khổ, hi sinh nhưng cuối cùng đi đến thắng lợi vẻ vang của dân tộc. Thơ Tố Hữu dễ thuộc, dễ nhớ và đậm đà bản sắc dân tộc, giọng điệu tâm tình ngọt ngào dễ đi vào lòng người. Bài thơ \"Việt Bắc\" được đánh giá là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu, là một trong số các bài thơ hay nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ in trong tập thơ cùng tên năm 1954. II. PHÂN TÍCH 1. Giới thiệu về bài thơ 1.1. Hoàn cảnh sáng tác - Sau 9 năm kháng chiến đầy gian khổ, hi sinh dân tộc ta đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Hiệp định Giơnevơ được kí kết, hoà bình được lập lại, một trang sử 94

mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Tháng 10-1954, các cơ quan của Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. – Miền Bắc bước vào thời kì xây dựng đất nước. Cuộc sống thay đổi có tính chất bước ngoặt, từ chiến tranh sang hoà bình, từ núi rừng về thành thị. Biết bao lưu luyến ân tình với những nơi đã từng đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi. =>Nhân sự kiện có tính thời sự và lịch sử ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc” vào tháng 10-1954. Hơn nữa, trong hoàn cảnh ấy, người ta chó nhu cầu muốn nhìn lại chặng đường lịch sử đã đi qua, lí giải chiến tháng và xác định con đường đi tiếp. Hoàn cảnh ấy đã chi phối đến cảm hứng sáng tác và nội dung của bài thơ. 1.2. Kết cấu bài thơ: - Nhà thơ đã chọn hình thức thể hiện là lối đối đáp của ca dao dân ca nhưng nếu trong ca dao, dân ca là đối đáp giữa đôi lứa yêu nhau thì bài thơ là lời đối đáp giữa người đi là những người cán bộ cách mạng miền xuôi với người ở là người dân Việt Bắc. Hình thức đối đáp làm cho bài thơ mang âm hưởng của những bài hát giao duyên vừa đằm thắm, thiết tha vừa sâu nặng nghĩa tình. - Thực ra, bên ngoài là đối đáp, còn bên trong là lời độc thoại, là biểu hiện tâm tư tình cảm của chính nhà thơ, của những người tham gia kháng chiến. 1.3. Đề tài: - Đề tài của bài thơ là đề tài chia li, tiễn biệt là một đề tài quen thuộc trong thơ ca xưa nay. Thế giới văn học tuyệt vời đã lưu giữ cho ta bao cuộc chia ly bất tử. Nhớ cuộc chia ly Lý Bạch với Mạnh Hạo nhiên trên lầu Hoàng Hạc. Cuộc từ biệt Thúc Sinh của Thúy Kiều sau những ngày mặn nồng, thắm thiết. Cuộc chia li chói ngời sắc đỏ trong thơ Nguyễn Mĩ …Và đến \"Việt Bắc\" của Tố Hữu người đọc không thể quên cuộc chia tay lịch sử giữa những người cách mạng miền xuôi với người Việt Bắc. - Thơ ca về chia li, tiễn biệt thường chất chứa buồn đau, sầu muộn: \"Người lên ngựa, kẻ chia bào Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san (Truyện Kiều - Nguyễn Du) “Cùng trông lại lại cùng chẳng thấy Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu Ngàn dâu xanh ngắt một màu Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai” (Chinh phụ ngâm) Nhưng trong \"Việt Bắc\" Tố Hữu đã thể hiện những sắc điệu mới bởi bài thơ được sáng tác trong ngày chiến thắng, chia tay để rồi gặp lại, cả người đi người ở đều hướng đến một viễn cảnh tươi đẹp của đất nước. Điều này cũng cho thấy Tố Hữu luôn là nhà thơ của lẽ sống lớn, niềm vui lớn, tình cảm lớn. Thơ ông không đi vào những tình cảm cá nhân riêng tư mà chỉ hướng đến những cảm xúc lịch sử của lòng người, của thời đại. Khúc ca về cuộc chia tay của nhân dân VB với cán bộ về xuôi đã minh chứng cho điều Xuân Diệu nói: “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình” 95

1.4. Cặp từ mình - ta - Mình - ta vốn là cách xưng hô quen thuộc trong đời sống hàng ngày, là cách xưng hô của vợ chồng hoặc giữa những người có mối quan hệ thân thiết, gắn bó. - Trong ca dao, dân ca cặp từ mình - ta thường xuất hiện trong các bài ca dao giao duyên như: Mình nói với ta mình hãy còn son Ta đi qua ngõ thấy con mình bò Con mình những trấu cùng tro Ta đi lấy nước tắm cho con mình Hay: Mình về có nhớ ta chăng Ta về ta nhớ hàm răng mình cười Hoặc: Mình về ta chẳng cho về Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ - Cách xưng hô mình - ta gần gũi thân thương được Tố Hữu vay mượn trong ca dao, dân ca. Sáng tạo của nhà thơ là ở chỗ nếu trong ca dao, dân ca mình - ta là đôi lứa yêu nhau với một nam một nữ thì trong bài thơ mình - ta là người đi (người cán bộ miền xuôi) và kẻ ở (nhân dân Việt Bắc). Sáng tạo hơn nữa là trong bài thơ mình - ta có sự chuyển hóa, hòa quyện thành sự đồng vọng diễn tả chung tâm tư của cả người đi, kẻ ở. Cả mình và ta đều chung những kỉ niệm gắn bó, chung một nỗi niềm tâm trạng, nay phải chia tay biết bao lưu luyến, bịn rịn. Bài thơ đã vượt ra khỏi những cảm xúc riêng tư để chuyển tải một vấn đề rất lớn của đời sống cách mạng – đó là vấn đề ân nghĩa thủy chung của cách mạng với nhân dân. 1.5. Bố cục và vị trí đoạn trích - Bố cục: Tác phẩm được chia làm hai phần: Phần đầu tái hiện giai đoạn gian khổ nhưng vẻ vang của cách mạng và kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc nay đã trở thành những kỉ niệm sâu nặng trong lòng người cán bộ kháng chiến. Phần sau nói lên sự gắn bó giữa miền ngược với miền xuôi trong viễn cảnh đất nước hòa bình và kết thúc là lời ngợi ca công ơn của Bác, của Đảng đối với dân tộc. - Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần một của bài thơ là nỗi nhớ về một Việt Bắc gian khổ và nghĩa tình trong kháng chiến. 1.6. Nội dung chính của đoạn trích Gồm hai nội dung: - Ôn lại một thời kì lịch sử hào hùng, vẻ vang của dân tộc. Có thể đánh giá bài thơ là bản tổng kết bằng thơ về 15 năm kháng chiến trên chiến khu Việt Bắc. - Mười lăm năm kháng chiến cũng là 15 năm gắn bó giữa những người cán bộ cách mạng miền xuôi với nhân dân Việt Bắc. Đoạn trích là cuộc chia tay đầy lưu luyến bịn rịn, bâng khuâng, từ đó thể hiện tình cảm gắn bó, thủy chung, son sắc giữa người đi và kẻ ở. => Việt Bắc vừa là bản anh hùng ca vừa là bản tình ca về 15 năm kháng chiến chống Pháp. 2. Phân tích 8 câu thơ đầu 2.1. Khái quát 96

- Kết cấu đối đáp được thể hiện rất rõ ngay từ tám câu thơ đầu tiên của bài thơ. Người ta đã có lý khi nói thơ Tố Hữu là thứ thơ \"đốt cháy trái tim để trở thành trí tuệ\", với ý tưởng trữ tình hoá sự kiện chính trị cũng như đời sống chính trị của đất nước, viết \"Việt Bắc\", Tố Hữu đã sáng tạo nên một cấu tứ rất độc đáo-khúc hát đối đáp trong cuộc chia tay giữa người ở và người về xuôi để khơi gợi những kỉ niệm gắn bó trong những ngày kháng chiến gian khổ mà vẻ vang. - Cặp từ mình - ta: gợi tình cảm gắn bó thiết tha, mặn nồng (Tk phần giới thiệu bài thơ) 2.2. Bốn câu thơ: “Mình về mình có nhớ ta Mười năm năm ấy thiết tha mặn nồng. “Mình về mình có nhớ không Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?” Lời ướm hỏi ngọt ngào của người ở lại - Bốn câu thơ đầu của bài thơ là lời ướm hỏi ngọt ngào của người ở lại. Trong cuộc chia tay nhà thơ đã để cho người ở lại là người lên tiếng trước bởi trong cuộc chia tay những người ở lại thường là người nhạy cảm hơn. Đoạn thơ có hai câu hỏi tu từ \"Mình về mình có nhớ ta\" và Mình về mình có nhớ không\", hỏi không phải để được trả lời mà hỏi để nhắn nhủ, nhắc nhở người đi, ra về hãy nhớ. Con người đang đứng trước cuộc biệt li nên hình thức câu thơ cũng nhuốm màu li biệt. Tác giả đã đặt hai từ mình - ta ở vị trí đầu và cuối câu tạo cảm giác xa xôi, cách biệt. Còn ở giữa là cụm từ \"mình có nhớ\" thể hiện tâm trạng băn khoăn, nhớ thương của người ở lại. - Cụm từ \"mình có nhớ\" được lặp lại 2 lần, riêng từ nhớ được lặp lại 4 lần trong thể hiện nỗi nhớ da diết, khôn nguôi của người ở lại. Họ lo sợ mai này bạn mình về nơi phồn hoa đô hội đầy cám dỗ sẽ không giữ được tình cảm son sắt, thủy chung. \"Việt Bắc\" là bài ca tình nghĩa. Câu hỏi vang lên dồn dập như nhắc nhở, như khắc sâu những tình cảm tốt đẹp của quân dân, của cách mạng và kháng chiến, của mình với ta. Nỗi niềm, tình cảm ấy của người ở lại còn được nhà thơ Tố Hữu nhắc đến trong đoạn thơ sau của bài thơ: Mình về thành thị xa xôi Nhà cao còn nhớ núi đồi nữa chăng Phố đông có nhớ bản làng Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng - Lời người ở lại khơi gợi lại thời gian gắn bó trong suốt 15 năm. Câu thơ phảng phất âm hưởng của một câu Kiều về 15 năm tình nghĩa sâu nặng, thủy chung của Thúy Kiều và Kim Trọng: Những là dày ước mai ao Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình Mười lăm năm ấy là mười lăm năm gắn bó giữa những người cách mạng miền xuôi với nhân dân Việt Bắc trên chiến khu cách mạng. Mười lăm năm ấy được tính từ khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940, từ khi Hồ Chí Minh về nước bắt tay vào xây dựng khu căn cứ địa cách mạng tại chiến khu Việt Bắc để làm thủ đô kháng chiến của dân tộc: Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt Trắng rừng biên giới nở hoa mơ Bác về im lặng con chim hót 97

Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ Cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc đã cùng ăn, cùng ở, cùng chiến đấu gắn bó khăng khít và làm nên chiến thắng lẫy lừng của dân tộc “vang dội năm châu, chấn động địa cầu” và rồi là một cuộc chia tay lịch sử, người cán bộ cách mạng rời Việt Bắc về xuôi. Mười lăm năm \"Mình đây ta có đắng cay ngọt bùi\", mười lăm năm \"bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng\", ...làm sao kể xiết biết bao ân tình. Bốn từ \"thiết tha mặn nồng\" cho thấy tình cảm giữa Việt Bắc và cán bộ thật thủy chung sâu nặng, keo sơn bền chặt. Hỏi không chỉ để nhắn nhủ người đi mà đây cũng là cách để người ở lại bày tỏ tình cảm của mình. Không biết ra về mình có nhớ không, còn ta không thể nào quên những ngày tháng ấy. - Lời người ở lại còn gợi nhớ cả không gian Việt Bắc qua các hình ảnh chỉ thiên nhiên như cây, núi, sông, nguồn. Ra về rồi, thấy cây hãy nhớ đến núi rừng chiến khu, nhìn sông hãy nhớ đến suối nguồn Việt Bắc. Cách gợi nhắc như lời dặn dò kín đáo mà chân thành. Việt Bắc là cội nguồn cách mạng, \"Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa\", là trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến. Câu thơ này là sự vận dụng linh hoạt và tài tình của nhà thơ Tố Hữu với câu tục ngữ \"Uống nước nhớ nguồn\". Phải chăng người ở muốn khẳng định có những ngày tháng gian khổ ở Việt Bắc mới có ngày chiến thắng về ta, để hôm nay mình được về thủ đô Hà Nội. Nên dù có đi đâu, về đâu hãy nhớ đến mảnh đất Việt Bắc, cái nôi của cách mạng làm nên chiến thắng, là cội nguồn của dân tộc. Đó là đạo lý làm người, là truyền thống văn hóa của người Việt Nam. Qua đó nhà thơ cũng nhắc nhớ các thế hệ con cháu phải biết hướng về gốc gác, về nơi bén rễ, về cái nôi cho ta hình hài. => Bốn câu thơ như một bài ca dao đầy chất trữ tình thể hiện những băn khoăn, trăn trở của người ở lại, của Việt Bắc thuỷ chung với cách mạng. Tố Hữu đã chọn được cách nói để khơi nguồn cho cảm xúc, mạch thơ trong những câu mở đầu này cứ thế tuôn chảy suốt bài thơ. 2.3. Bốn câu thơ: Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi Áo chàm đưa buổi phân ly Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay... Tiếng lòng của người ra đi *Hai câu đầu: - Trước những lời tha thiết của người ở lại, người ra đi không trực tiếp trả lời những câu hỏi của người ở lại mà lắng nghe, rồi như tự nói với chính mình như một lời độc thoại nội tâm trữ tình đầy sâu lắng. Đại từ \"ai\" tuy phiếm chỉ nhưng rất cụ thể, gần gũi, thân thương và chỉ người ở lại. Cồn là hình ảnh gợi không gian núi rừng Việt Bắc. Trong câu thơ hình ảnh người Việt Bắc hiện lên giữa không gian thiên nhiên quen thuộc cất lên những lời tha thiết, nhớ thương. Người ra cũng cảm được nỗi lòng của người ở lại nên trong lòng họ cũng trào dâng bao tình cảm nhớ thương, quyến luyến... Bởi vậy, đoạn thơ trở thành lời đồng vọng của người đi và kẻ ở. - Tố Hữu đã thể hiện thật tinh tế tâm trạng người về xuôi bằng hai từ láy: Bâng khuâng và bồn chồn. 98

+“Bâng khuâng” là nhớ thương, lưu luyến, bịn rịn. + “Bồn chồn” diễn tả tâm trạng hồi hộp, day dứt, nôn nao. Trong lòng cồn lên bao nỗi nhớ thương, không nỡ chia xa nên bước chân người ra đi trở nên ngập ngừng, dùng dằng vừa muốn đi lại vừa muốn ở. Ai đó cũng đã diễn tả thật hay tâm trạng ấy của người ra đi \"Bước đi một bước lâu lâu lại dừng\". Nghệ thuật tiểu đối kết hợp với đảo ngữ vừa tạo chất nhạc, chất thơ ngọt ngào, vừa nhấn mạnh vào tâm tư với nhiều cảm xúc rối bời trong lòng người ra đi. *Hai câu sau: - Lời người gợi lên cảnh một cuộc chia tay đầy lưu luyến bịn rịn. Trong đó \"áo chàm\" là biện pháp nghệ thuật hoán dụ dùng hình ảnh chiếc áo màu chàm để chỉ người Việt Bắc, là cách dùng bộ phận để chỉ toàn thể vì người Việt Bắc thường nhuộm và mặc áo màu chàm. Màu chàm là màu sắc của núi rừng, bền bỉ, không hề phai nhạt như tình cảm mãi không bao giờ nhạt phai. Màu áo chàm thể hiện phẩm chất của người Việt Bắc giản dị, mộc mạc, chịu thương chịu khó và ân tình, thủy chung: Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn Chàm nâu thêm đậm phấn son chẳng nhòa Cuộc chia tay có những người dân Việt Bắc đầy ân nghĩa đưa tiễn, giãi bày tình cảm nhớ thương. Người ra đi cũng chưa đi đã nhớ nhớ tiếng ai tha thiết, nhớ áo chàm, cồn nhỏ, nhớ cảnh nhớ người và tình cảm của người ra đi cũng thật son sắc, thủy chung. - Câu thơ “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” là câu thơ gợi nhiều cảm xúc, là hình ảnh có giá trị biểu cảm cao cho thấy người đi kẻ ở đều chung một nỗi niềm lưu luyến bịn rịn khiến cảnh chia tay hiện lên thật cảm động. Cả người đi và kẻ ở đều có bao nhiêu điều muốn nói, bao nhiêu tình cảm muốn giãi bày nhưng nghẹn ngào không cất nổi thành lời. Và có lẽ ngôn ngữ cũng không đủ để diễn đạt bao nỗi nhớ thương nên im lặng cũng là cách thể hiện tình cảm. Họ cầm tay nhau mà không biết nói gì nhưng trong cái cầm tay ấy hẳn có bao nhiêu xúc động, nghẹn ngào. Đôi khi chỉ cần một cái cầm tay thôi đã đủ nói lên tất cả. Giống như những người lính trong bài thơ của Chính Hữu vì thương nhau mà nắm lấy tay nhau: Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn tay. (Đồng chí - Chính Hữu) Cái nắm tay trong bài thơ “Đồng chí” là để xiết chặt tình đồng đội, để cùng nhau vượt lên trên gian khổ. Còn cái cầm tay trong cuộc chia ly này là tình cảm quân dân cá nước, là mối quan hệ chân thành, bền chặt của cách mạng và nhân dân. Ba dấu chấm lửng đặt ở cuối đoạn thơ giống như một nốt lặng trong một khuôn để tình cảm cứ ngân dài, sâu lắng. Tiểu kết: 99

- Đoạn thơ thể hiện rõ đề tài của bài thơ là đề tài chia li, tiễn biệt: (Tk giới thiệu bài thơ) - Bằng thể thơ lục bát êm dịu, kết cấu đối đáp của ca dao, dân ca, ngôn ngữ, hình ảnh giản dị, quen thuộc, đậm chất ca dao, dân ca, giọng điệu thơ ngọt ngào, truyền cảm, đặc biệt thể hiện qua việc sử dụng cặp từ mình - ta thân mật cùng với các biện pahsp tu từ như điệp từ, hoán dụ, tiểu đối... đoạn thơ đã trở thành một khúc trữ tình, sâu lắng thể hiện tình cảm son sắc, thủy chung giữa người đi và kẻ ở, giữa những người cán bộ cách mạng miền xuôi và nhân dân Việt Bắc. Tình cảm trong sáng ấy là tình cảm cách mạng. tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp, là cội nguồn sức mạnh để Việt Bắc trở thành quê hương cách mạng, cội nguồn chiến thắng. 3. Mười hai câu thơ tiếp theo: \"Mình đi có nhớ những ngày ... Tân trào, Hồng Thái ,ái đình cây đa\" Lời người ở lại gợi nhắc về những ngày tiền khởi nghĩa, cách mạng tháng Tám 3.1. Khái quát - Cặp từ mình - ta: + Tk giới thiệu bài thơ + Từ mình lúc được ghép thành \"mình đi\", lúc lại thành \"mình về\" có thể hiểu một cách đơn thuần là chỉ người cán bộ cách mạng nhưng cũng có thể hiểu theo một hướng khác là mình đi hôm nay liệu ngày mai mình có trở về và khi về còn nhớ. Từ \"mình\" còn được ghép thành các cụm từ \"Mình đi, có nhớ\", \"mình về, còn nhớ\" thành lời ướm hỏi, gợi nhắc, nhắn nhủ người ra đi ra về hãy nhớ. - Trong đoạn thơ 12 câu có 4 câu thơ đầu tái hiện những ngày tháng gian khổ trên chiến khu Việt Bắc, 4 câu thơ tiếp theo là những ngày tháng nghĩa tình và 4 câu thơ cuối khẳng định những ngày tháng trên chiến khu Việt Bắc đã làm nên những trang sử vẻ vang của đất nước. 3.2. Bốn câu thơ: - Mình đi, có nhớ những ngày Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù? Mình về, có nhớ chiến khu Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai? Những ngày tháng gian khổ - Bốn câu thơ trước hết gợi lên bức tranh thiên nhiên Việt Bắc dữ dội, khắc nghiệt với mưa nguồn, suối lũ, mây mù. Núi rừng Việt Bắc có những cơn mưa rừng dầm dề tê buốt, những trận bão rừng đá nghiêng, cây đổ, những con suối róc rách, hiền lành bỗng dưng thành dòng nước lũ cuốn phăng tất cả, rừng núi Việt Bắc thương bị mây mù bao phủ bởi nó rất cao so với mực nước biển. Cảnh sương mù ở vùng rừng núi miền Bắc nước ta cũng được nhà thơ Quang Dũng tái hiện trong \"Tây Tiến\" để nói về những khó khăn, gian khổ của người lính: Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Cách nói tăng tiến “những mây cùng mù” càng nhấn mạnh khung cảnh hoang sơ, đầy thách với người cán bộ cách mạng. Những ngày đầu lập căn cứ địa cách mạng ấy, người cán bộ từ miền xuôi chưa quen với cái khắc nghiệt của thiên nhiên rừng núi nên bao nhiêu khó khăn gian khổ. 100


Like this book? You can publish your book online for free in a few minutes!
Create your own flipbook