SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BẮC GIANG TRƯỜNG THPT HIỆP HÒA SỐ 1 CHUYÊN ĐỀ VĂN HỌC ĐOẠN TRÍCH “ĐẤT NƯỚC” -Nguyễn Khoa Điềm- Họ và tên: Đặng Hương Giang Lớp: 12D1 1
Năm học: 2021-2022 MỤC LỤC Phần 1: Khái quát về thời đại Phần 2: Tác giả Nguyễn Khoa Điềm I. Những nét chính về tiểu sử II. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Khoa Điềm 1. Phong cách sáng tác 2. Tác phẩm chính 3. Vinh danh Phần 3: Trường ca “Mặt đường khát vọng” và đoạn trích “Đất Nước” A. Trường ca “Mặt đường khát vọng” I. Tìm hiểu chung 1. Hoàn cảnh sáng tác 2. Nội dung 3. Thể loại B. Đoạn trích “Đất Nước” I. Vị trí II. Bố cục 2
III. Phân tích Phần 4: Tổng kết 1. Giá trị nội dung 2. Giá trị nghệ thuật Phần 5: Liên hệ mở rộng Phần 6: Luyện đề Phần 7: Mở bài- Kết bài 3
Phần 1: Khái quát về thời đại Nguyễn Khoa Điềm được coi là một trong những đại diện tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Lịch sử đã ghi nhận, 10 năm (1954 - 1964), Mỹ thế chân Pháp nhảy vào miền Nam Việt Nam và sau 4 năm (1961 - 1964) tiến hành chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, mặc dù đã bỏ ra nhiều tiền của và công sức, thi hành nhiều thủ đoạn và biện pháp, nhưng phía Mỹ vẫn không dập tắt được phong trào cách mạng miền Nam. Từ năm 1964 đến đầu năm 1965, cuộc đấu tranh cách mạng của đồng bào, chiến sĩ ở miền Nam phát triển nhanh chóng, thu được những thắng lợi ngày càng to lớn, khiến cho chiến lược \"Chiến tranh đặc biệt\" của đế quốc Mỹ bị thất bại nghiêm trọng. Trước tình hình ấy, đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược \"Chiến tranh cục bộ\", ồ ạt đưa quân Mỹ và chư hầu vào miền Nam; đồng thời, mở rộng hoạt động không quân và hải quân, ném bom bắn phá miền Bắc để gây áp lực hòng làm giảm sự chi viện về sức người, sức của từ hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam. Bản thân Nguyễn Khoa Điềm thấm nhuần tư tưởng từ gia đình trí thức có truyền thống yêu nước và còn sớm tham gia cách mạng nên đề tài mà ông thường đưa vào những tác phẩm của mình chính là về đất nước và con người Việt Nam. Gần 10 năm kháng chiến chống Mỹ đã có rất nhiều nhà thơ ghi được dấu ấn trong nền văn học Việt Nam và để rồi mai sau có người từng nhận định: “Bên cạnh một Phạm Tiến Duật sôi nổi, trẻ trung phong trần với những lối thơ lấm bụi Trường Sơn đầy chất phong sương. Một Nguyễn Duy mộc mạc chân chất mà đằm thắm ngọt ngào với những âm điệu lục bát ca dao vọng về… Là một Nguyễn Khoa Điềm tài hoa uyên bác, truyền thống hiện đại không ồn ào tinh nghịch, lãng đãng bất chợt”. Hiện tại, Nguyễn Khoa Điềm đang sống trong thời đại phát triển 4.0 của xã hội tại quê hương của ông - Huế 4
Phần 2: Tác giả Nguyễn Khoa Điềm I. Những nét chính về tiểu sử - Nguyễn Khoa Điềm (tên khác là Nguyễn Hải Dương) sinh ngày 15 tháng 4 năm 1943 - Quê quán: sinh tại thôn Ưu Điềm, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên- Huế (quê gốc làng An Cựu, xã Thủy An, thành phố Huế) - Gia đình: xuất thân trong một gia đình trí thức có truyền thống yêu nước và cách mạng. Thân sinh của ông là nhà báo, nhà phê bình, lí luận văn học Nguyễn Khoa Văn (Hải Triều)- người được biết đến với những cuộc tranh luận có tầm ảnh hưởng rộng khắp cả nước trong những năm 30 của thế kỉ XX - Bản thân: + Ông là một nhà thơ, nhà chính trị Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng khóa IX, Trưởng ban Tư tưởng- Văn hóa Trung ương, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X, Bộ trưởng Bộ Văn hóa- Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) + Lúc nhỏ, Nguyễn Khoa Điềm học ở quê + Năm 1955, ông ra miền Bắc học tại trường học sinh miền Nam + Năm 1964, ông tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội, cùng thời với Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân + Sau đó, ông vào miền Nam hoạt động phong trào học sinh, sinh viên Huế; tham gia quân đội, xây dựng cơ sở của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, viết báo, làm thơ… cho đến năm 1975 5
+ Nguyễn Khoa Điềm từng bị giam tại nhà lao Thừa Phủ. Đến chiến dịch Mậu Thân 1968, ông được giải thoát, tiếp tục trở lại hoạt động. Vào thời điểm này, Nguyễn Khoa Điềm mới bắt đầu làm thơ + Năm 1975, Nguyễn Khoa Điềm trở thành hội viên Hội nhà văn Việt Nam + Sau giải phóng, ông tham gia công tác Đoàn thanh niên Cộng sản; Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Thừa Thiên-Huế. Ông có mặt trong Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa III + Năm 1994, Nguyễn Khoa Điềm ra Hà Nội, làm Thứ trưởng Bộ Văn hóa- Thông tin + Năm 1995, ông được bầu làm Tổng thư kí Hội Nhà văn Việt Nam khóa V + Năm 1996, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII, Nguyễn Khoa Điềm bầu vào Ban Chấp hành Trung ương. Ông là Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá X và từ tháng 11 năm 1996 là Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin. + Năm 2001, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX, Nguyễn Khoa Điềm trở thành Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương, Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (2001 – 2006) + Sau Đại hội X của Đảng, ông về nghỉ hưu và sống tại thành phố Huế, tiếp tục làm thơ II. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Khoa Điềm 1. Phong cách sáng tác - Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất trong thời kì kháng chiến chống Mỹ. Vì ông là người trực tiếp tham gia trong trận chiến với đế quốc Mỹ thế nên 6
thơ của ông rất chân thật và giàu tính chiêm nghiệm, đặc biệt là cảm xúc vô cùng sâu lắng mang đậm màu sắc trữ tình - Thơ của Nguyễn Khoa Điềm lấy chất liệu từ văn học Việt Nam và cảm hứng từ quê hương, con người, và tình thần chiến đấu của người chiến sĩ Việt Nam yêu nước - Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước và con người Việt Nam - Trong kháng chiến chống Mỹ, thơ của Nguyễn Khoa Điềm thể hiện rõ được con người Việt Nam và bản chất anh hùng bất khuất của chiến sĩ Việt Nam => Thơ ông giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén, mang màu sắc chính luận 2. Tác phẩm chính - Đất ngoại ô (1972) - Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974) - Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (thơ, 1986) - Thơ Nguyễn Khoa Điềm (tuyển chọn, 1990) - Cõi lặng (thơ, 2007) 3. Vinh danh - Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam với tập thơ Ngôi nhà có ngọn lửa ấm. - Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Cố đô (giải B) với tập thơ Cõi lặng năm 2010. - Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật 7
Phần 3: Trường ca “Mặt đường khát vọng” và đoạn trích “Đất Nước” A. Trường ca I. Tìm hiểu chung 1. Hoàn cảnh sáng tác - Hoàn thành ở khu Trị Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974, giữa không khí sục sôi chống Mĩ của cả dân tộc, khi phong trào đấu tranh của tuổi trẻ miền Nam diễn ra sôi nổi với phong trào: Dậy mà đi, hát cho đồng bào tôi nghe 2. Nội dung: viết về thức tỉnh của tuổi trẻ thành thị ở các vùng tạm chiến ở miền Nam (trước năm 1975) nhận rõ bộ mặt xâm lược, tội ác của đế quốc Mĩ, hướng về nhân dân, đất nước; ý thức sâu sắc về vai trò của nhân dân và sứ mệnh của thế hệ mình. Từ đó, kêu gọi, khích lệ mọi người đứng lên, xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc 3. Thể loại - Trường ca: + Nội dung: tính đại tự sự, thường đề cập đến những vấn đề trọng đại liên quan đến vận mệnh của cộng đồng, dân tộc + Cốt truyện: xoay quanh cuộc đời của một nhân vật + Tính trữ tình: cảm xúc là tính cốt yếu của trường ca + Nghệ thuật: dung lượng lớn, hình thức ngôn ngữ phức hợp - Trường ca mặt đường khát vọng: 8
+ Không đi theo cốt truyện cụ thể mà kết cấu theo sự vận động của ý thức, tâm lí + Không xoay quanh cuộc đời của các nhân vật anh hùng, mà ca ngợi tập thể nhân dân anh hùng B. Đoạn trích I. Vị trí: phần đầu chương V, có tên là Đất Nước trong trường ca Mặt đường khát vọng. Là một trong những đoạn thơ hay nhất về đề tài đất nước trong thơ Việt Nam hiện đại. Đóng vai trò trung tâm vì đặt điểm tựa, tư tưởng cho toàn tác phẩm đó là Đất Nước của nhân dân II. Bố cục - Phần 1: câu 1 đến câu 43: Những nét riêng trong cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, khơi dậy ý thức trách nhiệm của mọi người - Phần 2: câu 44 đến câu 90: Tư tưởng Đất Nước của nhân dân III. Phân tích 1. Những cảm nhận về đất nước trên nhiều phương diện 1.1: Đất Nước được cảm nhận từ phương diện thời gian ( 9 câu đầu) a. Cảm nhận chung Trong đoạn thơ có chín câu, được viết theo thể thơ tự do, hình ảnh thơ giàu sức liên tưởng,… nhà thơ giúp cho người đọc có những suy nghĩ, cảm nhận về cội nguồn và sự hình thành của Đất Nước một cách sâu sắc. “Đất Nước” được viết hoa để thể hiện sự trang trọng. Cấu trúc đoạn thơ viết theo cách nhìn về sự trưởng thành của Đất Nước: “Đất Nước có trong…Đất Nước bắt đầu…” Biện pháp nhân hóa đã hình tượng hóa Đất Nước như một con 9
người, được cảm nhận trong quá trình hình thành và phát triển qua những hình tượng cụ thể, sinh động gợi cảm sôi nổi và thiết tha. b. Cảm nhận về sự hình thành, phát triển của đất nước “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể. Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn” Mở đầu bài thơ, chủ thể nhận thức xưng “ta” vừa cụ thể vừa khái quát với nội dung nhận thức về “Đất Nước đã có rồi”: Đất Nước đã có từ rất lâu đời rồi, không ai biết rõ thời điểm chính xác nó ra đời. Điều đó thể hiện sự tự hào về lịch sử Đất Nước của tác giả. Ở câu thơ tiếp theo, mô típ “ngày xửa ngày xưa” được nhắc đến gợi ra những câu chuyện cổ tích. Tham vọng tính tuổi Đất Nước của nhà thơ thật khó bởi chính cái “ngày xửa ngày xưa” (thời gian nghệ thuật thường thấy trong truyện cổ tích) có tính phiếm chỉ, trừu tượng, không xác định. Đó là thời gian huyền hồ, hư ảo, thời gian mang màu sắc huyền thoại. Song chính ở cái “ngày xửa ngày xưa” đó, nhà thơ đã giúp cho chúng ta nhận thức được: Đất Nước đã có từ rất lâu, rất xa, từ bao giờ chẳng biết. Chỉ biết rằng: Khi ta cất tiếng khóc chào đời, thì Đất Nước đã hiện hữu. Và chính những câu chuyện cổ và những bài hát ru thuở ta còn nằm nôi là dòng sữa ngọt lành chăm bẵm cho ta cái chân thiện mỹ và lớn lên ta biết yêu Đất Nước con người. Về ý nghĩa của truyện cổ với đời sống tinh thần con người, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động mà viết nên: “Tôi yêu truyện cổ nước tôi Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa Thương người rồi mới thương ta Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần” 10
(Truyện cổ nước mình) Không chỉ dừng lại ở khát vọng đo đếm tuổi của Đất Nước, nhà thơ còn nỗ lực hình dung về quá trình hình thành phát triển của Đất Nước. Phải chăng, khởi thủy của Đất Nước là văn hóa được kết tinh từ tâm hồn và tính cách anh hùng của con người Việt Nam. Ở đây, chi tiết “miếng trầu” là một hình tượng nghệ thuật giàu tính thẩm mỹ từng xuất hiện trong các câu chuyện cổ tích, ca dao, tục ngữ. Đây còn là hình ảnh gắn liền với trầm tích văn hóa của người Việt: tục ăn trầu là câu chuyện cổ tích Trầu cau và nét đẹp trong giao tiếp của người Việt, là tập tục của người Việt. Như vậy là thẩm thấu vào trong miếng trầu dung dị ấy là 4000 năm phong tục, 4000 năm dân ta gìn giữ phong tục ăn trầu. Miếng trầu là biểu tượng của tình yêu, lòng thủy chung, vật chứng cho lứa đôi cũng là biểu tưởng tâm linh của người Việt. Từ phong tục ăn trầu, phong tục nhuộm răng đen cũng ra đời: “Những cô hàng xén răng đen Cười như mùa thu tỏa nắng” (Hoàng Cầm) => Qua đó người đọc có thể củng cố rõ hơn về nhận thức Đất Nước có từ rất lâu, cùng thời với cổ tích, với miếng trầu. Từ đó phát triển nhận thức về sự hình thành Đất Nước đó là được hình thành từ những điều tốt đẹp, những giá trị bền vững. Truyện cổ tích có từ xa xưa nhưng bây giờ mẹ vẫn kể, miếng trầu rất lâu đời nhưng bây giờ bà vẫn ăn. Quá khứ của đất nước rất dài và xa nhưng không bao giờ mất đi. Đất Nước luôn hiện hữu trong hiện tại cũng như quá khứ và Đất Nước sẽ không bao giờ bị mất đi. c. Sự trưởng thành của Đất Nước “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc Tóc mẹ thì bới sau đầu Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn 11
Cái kèo, cái cột thành tên Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng” Ở câu thơ thứ tư, thi nhân đã sử dụng hai chữ “dân mình” vừa gợi mối quan hệ gần gũi, vừa mở rộng phạm vi tồn tại của Đất Nước. Ở câu thơ này, nhà thơ còn diễn tả sự trưởng thành của Đất Nước từ truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc. “Trồng tre đánh giặc” gợi nhớ về truyền thuyết Thánh Gióng, chàng trai Phù Đổng Thiên Vương vươn vai lớn dậy và nhổ tre làng Ngà đánh giặc để bảo vệ quê hương đất nước. Câu thơ là suy ngẫm, kiểm nghiệm về Đất Nước, Đất Nước lớn lên trong gian lao thử thách và lớn lên bằng truyền thống yêu nước của nhân dân ta. Và cũng chính câu thơ này đã gợi lên vẻ đẹp khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, bất khuất: “Ta như thuở xưa thần Phù Đổng Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân Sức nhân dân khỏe như ngựa sắt Chí căm thù ta rèn thép thành roi Lửa chiến đấu ta phun vào mặt Lũ sát nhân cướp nước hại nòi” (Tố Hữu) Truyền thống vẻ vang ấy đã theo sát chặng đường dài của lịch sử dân tộc mãi đến tận hôm nay, trong thời đại chống Mỹ, bao tấm gương trẻ đã anh dũng chiến đấu bảo vệ giống nòi. Phải chăng, đó chính là vẻ đẹp của các chị, các anh đã tạc vào lịch sử Việt Nam dáng đứng kiêu hùng, bất khuất: Võ Thị Sáu, Nguyễn Văn Trỗi, Trần Văn Ơn…Vẻ đẹp ấy song hành với hình ảnh cây tre Việt Nam, cây tre hiền hậu trên mỗi làng quê. Nó như là sự đồng hiện những phẩm chất trong cốt cách con người Việt Nam thật thà chất phác, đôn hậu thủy 12
chung, ưa chuộng hòa bình nhưng cũng kiên cường bất khuất trong đấu tranh. Tre đứng thẳng, hiên ngang bất khuất cùng chia lửa với dân tộc “Một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ” bởi: “Nòi đâu tre chịu mọc cong Chưa lên đã nhọn như chông mọc thường” Không chỉ vậy, trong quá trình trưởng thành, Đất Nước còn gắn liền với đời sống văn hóa tâm linh, bằng phong tục tập quán lâu đời còn truyền lại và bằng chính cuộc sống lao động cần cù vất vả của nhân dân. Ở các câu thơ 5 và 8, các chi tiết được lấy từ kho tàng văn hóa văn học dân gian. Đó là hình ảnh búi tóc của mẹ, là gừng cay muối mặn, là tập quán canh tác, dựng nhà dựng cửa, cái kèo cái cột, phong tục đặt tên cho Việt. Cùng với đó là hình thức dài ngắn tự nhiên kể cho ta nghe về sự lớn dần lên của Đất Nước, Đất Nước lớn lên bằng văn hóa, phong tục, từ cuộc sống bình dị hàng ngày. Đoạn thơ với những ý thơ giàu sức liên tưởng, nhà thơ đã đưa người đọc trở về với những nét đẹp văn hóa một thời của người phụ nữ Việt Nam. Không ai khác là những người mẹ với phong tục “búi tóc sau đầu” (tóc cuộn thành búi sau gáy tạo cho người phụ nữ một vẻ đẹp nữ tính, thuần hậu rất riêng), gợi tả một nét đẹp thuần phong mỹ tục của người Việt. Nét đẹp ấy khiến người đọc gợi nhớ đến câu ca dao: “Tóc ngang lưng vừa chừng em bới Để chi dài cho rối lòng anh” Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục gắn dòng suy tưởng đến con người ngàn đời cư trú, lao động, chiến đấu trên mảnh đất Việt để giữ gìn tôn tạo mảnh đất thân yêu. Ở đó đạo lí ân nghĩa thủy chung đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Ý thơ được toát lên từ những câu ca dao đẹp: “Tay bưng đĩa muối chén gừng 13
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ nhẹ nhàng mà thấm đượm biết bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy chung ở đời: gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn, con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa càng đong đầy. Có lẽ chính vì vậy mà Đất Nước còn ghi dấu ấn của cha mẹ bằng Hòn Trống Mái, núi Vọng Phu… đi vào năm tháng. Câu thơ “Cái kèo cái cột thành tên” gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt. Đó là tục làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió, thú dữ.Đó cũng là ngôi nhà sử dụng kèo cột để làm ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau, siêng năng tích góp mỡ màu dồn thành sự sống. Từ đó, tục đặt tên con “cái Kèo, cái Cột” cũng ra đời. Đâu chỉ có những vẻ đẹp trên, dân tộc ta còn có truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó. Thành ngữ “một nắng hai sương” gợi nên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta những ngày long đong, lận đận trong đời sống nông nghiệp lạc hậu. Các động từ “xay- giã-giần-sàng” là quy trình sản xuất ra hạt gạo. Để làm ra hạt gạo ta ăn hàng ngày, người nông dân phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã, giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của giai cấp nông dân. Bởi vậy, ăn hạt gạo dẻo thơm ta phải nhớ công ơn người đã làm ra nó: “Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần” Câu thơ cuối khép lại một câu khẳng định với niềm tự hào: Đất Nước có từ ngày đó…”. “Ngày đó” là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn “ngày đó” là ngày ta có truyền thống, có phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa nghĩa là có Đất Nước. Đúng như lời Bác dặn trước lúc đi xa: “Rằng muốn yêu Tổ quốc mình, phải yêu những câu hát dân 14
ca”. Dân ca, ca dao là đặc trưng của văn hóa Việt Nam, muốn yêu Đất Nước trước hết phải yêu và quý trọng văn hóa nước nhà bởi văn hóa chính là Đất Nước. Thật đáng yêu, đáng quý, đáng tự hào biết bao lời thơ dung dị, ngọt ngào của Nguyễn Khoa Điềm. * Nghệ thuật: - Có thể nói, đoạn thơ mở đầu trả lời cho câu hỏi về cội nguồn của Đất Nước-một câu hỏi quen thuộc, giản dị bằng cách nói cũng rất giản dị, tự nhiên nhưng cũng rất mới lạ: Nhà thơ không tạo ra khoảng cách sử thi để chiêm ngưỡng và ca ngợi Đất Nước hoặc dùng những hình ảnh mĩ lệ, mang tính biểu tưởng để cảm nhận và lý giải, mà dùng cách nói rất đỗi giản dị, tự nhiên với những gì gần gũi, thân thiết, bình dị nhất - Giọng thơ thâm trầm, trang nghiêm, cấu trúc thơ theo lối tăng cấp: “Đất Nước đã có; Đất Nước bắt đầu, Đất Nước lớn lên, Đất Nước có từ…” giúp cho người đọc hình dung ra cả quá trình sinh ra, lớn lên, trưởng thành của Đất Nước trong thời gian trường kỳ của con người Việt Nam qua bao thế hệ. Đặc biệt là cách nhà thơ viết hoa hai từ Đất Nước (vốn là một danh từ chung) cũng đã giúp ta cảm nhận tình yêu và sự trân trọng của nhà thơ khi nói về Đất Nước, quê hương mình. - Ngoài ra, nhà thơ còn vận dụng khéo léo chất liệu văn hóa dân gian như phong tục ăn trầu, tục búi tóc, truyền thống đánh giặc, truyền thống nông nghiệp. Nhà thơ sáng tạo thành ngữ dân gian, ca dao tục ngữ, thành ngữ…Điệp ngữ “Đất Nước” được nhắc lại nhiều lần * Tiểu kết: Chín câu thơ mở đầu cho đoạn trích Đất Nước đã thật sự để lại những ấn tượng và cảm xúc sâu sắc cho người đọc về sự sinh thành và trưởng thành của Đất Nước. Bởi lẽ, đoạn thơ đã giúp cho tất cả mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ, những ai mà còn có những nhận thức mơ hồ về Đất Nước mình thật sự phải suy ngẫm. Qua đoạn thơ, tác giả đã mang đến cho người đọc vẻ đẹp của một Đất Nước giàu văn hóa cổ truyền, Đất Nước của truyền thống, phong tục tươi đẹp mang đậm dấu ấn tư tưởng Đất Nước của nhân dân. Hơn thế nữa, đoạn thơ còn cho chúng ta hiểu được Đất Nước thật thân thương và gần gũi biết 15
nhường nào. Từ đó, đoạn thơ bồi dưỡng thêm cho chúng ta về tình yêu Đất Nước, quê hương mình và biến tình yêu ấy thành thái độ, hành động để bảo vệ, xây dựng Đất Nước ngày càng văn minh, giàu mạnh và phát triển. 1.2: Cảm nhận về Đất Nước trên phương diện không gian * Khái quát: Đoạn trích Đất Nước thâu tóm ý nghĩa của cả chương V, sự cảm nhận về Đất Nước một cách toàn diện, cụ thể, sâu sắc, cốt lõi là tư tưởng Đất Nước của nhân dân. Từ đó nhà thơ bộc lộ niềm yêu quý, tự hào, sự gắn bó và trách nhiệm với Đất Nước thân yêu. Tư tưởng chủ đạo này đã được Nguyễn Khoa Điềm triển khai ở nhiều bình diện: địa lý, lịch sử, văn hóa và thể hiện bằng hình thức thơ trữ tình chính luận, giọng thơ tâm tình, lời thơ đậm đà giàu sắc thái dân gian nhưng đặc biệt gợi cảm, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc * Phân tích: a. Đất Nước là không gian riêng tư nhỏ bé với mỗi con người “Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm Đất Nước là nơi ta hẹn hò Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” Ý thơ ở đây rất mới mẻ cụ thể. Trước tiên về mặt không gian địa lý, tác giả tách riêng hai yếu tố “đất” và “nước” để suy tư một cách sâu sắc, để lí giải cụ thể ý nghĩa của từng từ. Đây có thể coi là sự tinh tế và đầy thi vị của Nguyễn Khoa Điềm. Nhưng dù được tách ra thì đất nước vẫn là một khái niệm trọn vẹn và đầy ý nghĩa. Đất Nước đã trở nên rất gần gũi thân thương, gắn bó với mỗi người. Đất Nước là không gian riêng tư quen thuộc gắn với không gian hẹn hò, sinh hoạt, học tập của anh và em. Đó là mái trường nơi anh đi học, là dòng sông nơi em tắm, là giếng nước gốc đa nơi ta hò hẹn. Một không gian nhỏ chỉ hai 16
người biết, hai người hay, rất riêng tư nhưng cũng đầy hồn quê hương xứ sở. Những không gian chứa đựng bao tình thương nỗi nhớ ấy là sự hiện hữu cụ thể nhất, gần gũi nhất những giá trị tinh thần đạo lí, góp phần làm nên Đất Nước. Những nghĩa tình không phải chỉ anh và em trong hiện tại mà còn của bao thế hệ đã qua trong quá khứ; bao thế hệ sắp tới trong tương lai. Câu thơ Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm, tác giả đã vận dụng ý thơ của bài ca dao Khăn thương nhớ ai để vừa nói lên tình cảm lứa đôi; vừa nói lên không gian riêng tư của đôi lứa và của đất nước. b. Đất Nước còn là không gian của núi rừng sông bể “Đất là nơi “con chim phượng hòn bay về hòn núi bạc Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi” Thời gian đằng đẵng Không gian mênh mông Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ” Nhà thơ đã sử dụng những câu ca dao cả vùng Bình-Trị-Thiên để xây dựng hình tượng thơ khác với cách nói thông thường. Lấy ý từ những câu ca dao Huế mượt mà, câu thơ đưa người đọc về với không gian Đất Nước thân thương, những từ “núi bạc”, “biển khơi” mang âm hưởng thành ngữ dân gian gợi ra một đất nước mênh mông giàu đẹp. Đất Nước mình bình dị, quen thuộc nhưng đôi khi cũng rộng lớn, tráng lệ và hùng vĩ vô cùng, nhất là đối với những người đi xa. Dù chim ham trái chín ăn xa, thì cũng giật mình nhớ gốc cây đa lại về. Gia đình Việt Nam là như thế, lúc nào cũng hướng về quê hương, về nguồn cội. Và sự mênh mông giàu đẹp đó không tự nhiên mà có được, nó phải trải qua thời gian đằng đẵng, dài lâu, liên tục, bền bỉ, nhân dân ta đã đổ bao mồ hôi, nước mắt và cả máu để xây dựng, bảo vệ bở cõi đất nước, thành giải đất chữ S cho dân mình đoàn tụ, đoàn tụ trong yêu thương tự hào. Nguyễn Khoa Điềm tạo nên đất nước gắn với văn học dân gian khiến 17
những câu thơ vừa quen vừa lạ tạo cách nói độc đáo về lãnh thổ, lãnh hải của Đất Nước Việt Nam. c. Đất Nước là không gian cội nguồn, không gian sinh tồn của bao thế hệ người Việt “Đất là nơi Chim về Nước là nơi Rồng ở Lạc Long Quân và Âu Cơ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng Những ai đã khuất Những ai bây giờ Yêu nhau và sinh con đẻ cái Gánh vác phần người đi trước để lại Dặn dò con cháu chuyện mai sau Hằng năm ăn đâu làm đâu Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.” Không gian cội nguồn đầu tiên là nơi chim về, rồng ở, là nơi Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra dân tộc ta trong bọc trứng, sinh ra trăm người con, 50 xuống biển, 50 lên rừng để khai phá, xây dựng lập nước khiến cho núi rừng, sông biển không đơn thuần là cảnh sắc thiên nhiên mà là những không gian thiêng liêng, gần gũi trong quá trình hình thành chứng tích người dân Việt Nam, là cội nguồn ấm áp cho cội nguồn đất nước. Đồng thời, những hình tượng quen thuộc này đã hội tụ về trong sự liên tưởng của nhà thơ. Sự hội tụ ấy làm bật lên ý thơ có tầm khái quát cao: Dân tộc ta là con Rồng cháu Tiên, trai tài gái sắc. Đất Nước ta là nơi đánh lành Chim về, đất thiêng Rồng ở, dân tộc Việt Nam là anh em một nhà, cùng 18
sinh ra từ bọc trăm trứng của cha Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ. Một Đất Nước có cội nguồn văn hóa, có truyền thống lâu đời, rất đỗi thân thương và tự hào như thế, chính là Đất Nước của Nhân dân. Đất Nước qua cách cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm không khô khan trìu tượng mà tươi sáng cảm xúc Đất Nước gắn liền với đời sống, số phận của từng cá nhân ở mọi phương diện: lịch sử, địa lý, văn hóa. Đất Nước còn là không gian sinh tồn, là sự kết tinh, thống nhất sau sắc những giá trị tinh thần từ quá khứ. Đó là ngôi nhà lớn của đại gia đình người Việt qua bao thế hệ, với những ai đã khuất, bất cứ nơi đâu cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ. “Những ai đã khuất”, đến hiện tại “những ai bây giờ” và tương lai “yêu nhau” và “sinh con đẻ cái”, mỗi thế hệ, mỗi cá nhân đều gắn bó với Đất Nước. Nhất là trách nhiệm của thế hệ hôm nay vô cùng nặng nề nhưng vinh quang. Chúng ta vừa phải gánh vác những công việc nhọc nhằn, nặng nề mà ông cha ta giao lại, vừa phải dặn dò con cháu chuyện mai sau một cách ân cần chu đáo để các thế hệ sau sẽ tiếp tục đưa Đất Nước đi xa đến một chân trời hòa bình hạnh phúc, ấm no giàu mạnh. Đó là mơ mộng, là ước mơ khát vọng của thời đại nhà thơ, nhưng lại là hiện thực tất yếu của tương lai. Ước mơ ấy ngày nay đã thành sự thực. Lời thơ trong sáng, ấp ủ niềm tin giữa những ngày đánh Mỹ của nhà thơ, của ông cha ta. Vì sự mưu sinh, mỗi người có thể làm ăn lập nghiệp ở bất cứ nơi đâu, nhưng trong thẳm sâu tâm hồn của mỗi chúng ta đều mang trong mình dòng máu Việt nên những giờ khắc thiêng liêng nhất, niềm tự hào gắn bó với Đất Nước lại trỗi dậy nồng nàn: Hằng năm ăn đâu làm đâu/Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ. Hai dòng thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã mượn ý tứ của câu ca dao xưa: “Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba Dù ai buôn bán gần xa Nhớ ngày giỗ tổ tháng ba mùng mười” 19
Chỉ một câu ca dao cũng đủ nói lên sự gắn bó máu thịt của người Việt với quê hương đất nước. Dù có bộn bề công việc, dù có ngược xuôi nơi nào, họ cũng luôn hướng về cội nguồn, miền đất tổ linh thiêng đã trở thành biểu tượng, thành linh hồn của đất nước. Hai chữ “cúi đầu” thể hiện tấm lòng đầy thành kính của nhà thơ đối với Đất Nước thân yêu. * Nghệ thuật: - Bằng cách sử dụng sáng tạo các yếu tố ca dao, truyền thuyết dân gian, các chất liệu văn hóa văn học dân gian, nhà thơ đã lí giải một cách sinh động, cụ thể cho câu hỏi: Đất Nước là gì? Từ đó, hình ảnh Đất Nước hiện lên qua đoạn thơ vừa gần gũi - cụ thể, vừa thiêng liêng - khái quát trên cả bề rộng không gian địa lý mênh mông và thời gian lịch sử đằng đẵng của dân tộc - Sử dụng lối chiết tự để định nghĩa Đất Nước. Nếu theo tư duy khoa học không được định nghĩa như vậy; nhưng đây là tư duy nghệ thuật trở thành sự sáng tạo của nhà thơ. Về hình thức đây là lối chơi chữ toát lên chiều sâu suy tưởng của thi sĩ; Đất Nước là sự thống nhất của riêng và chung, cá nhân và cộng đồng, nhỏ bé-lớn lao, cụ thể - trừu tượng * Tiểu kết: Có thể nói, đoạn thơ là những định nghĩa đa dạng, phong phú về Đất Nước từ chiều sâu văn hóa dân tộc, xuyên suốt chiều dài của thời gian lịch sử đến chiều rộng của không gian đất nước. Nhà thơ vận dụng rộng rãi các chất liệu văn hóa dân gian để cảm nhận và định nghĩa về Đất Nước. Từ đó, đoạn thơ cho chúng ta hiểu và gắn bó hơn với Đất Nước, quê hương bằng một tình yêu và ý thức trách nhiệm sâu sắc 1.3: Đất Nước được cảm nhận trên phương diện bề dày truyền thống (Mối quan hệ riêng-chung, cá nhân-cộng đồng, sự tiếp nối của các thế hệ trong Đất Nước) Khi nói về thời gian, không gian, các nhà thơ thường sử dụng chất liệu văn học dân gian xây dựng hình tượng truyền thuyết, thần thoại, cổ tích, ca dao dân ca. Nhưng sáng tạo của Nguyễn Khoa Điềm ở chỗ ông linh hoạt có thể trích cả câu thơ hoặc lấy vài từ, lấy ý của câu ca dao để gợi nhắc. Sự sáng tạo ấy tạo nên những câu thơ vừa quen, vừa lạ giàu chất 20
suy tưởng, mở rộng trường nghĩa. Điều đó có tác dụng khiến người đọc tự hào về đất nước không chỉ bởi có lịch sử dài đằng đẵng, bởi không gian mênh mông mà còn có chiều sâu về dày văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam-một phương diện quan trọng xác lập sự tồn tại của Việt Nam. Với tư tưởng Đất Nước của Nhân dân, củ ca dao thần thoại và cách chọn điểm nhìn gần gũi, bình dị, nhà thơ gửi lời nhắn nhủ tâm tình về sự gắn bó và trách nhiệm của mỗi người với Đất Nước: “Trong anh và em hôm nay Đều có một phần Đất Nước Khi hai đứa cầm tay Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm Khi chúng ta cầm tay mọi người Đất Nước vẹn tròn, to lớn Mai này con ta lớn lên Con sẽ mang Đất Nước đi xa Đến những tháng ngày mơ mộng Em ơi Đất Nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời…” Sau những cảm nhận mới mẻ và sâu sắc của nhà thơ về Đất Nước qua những phương diện không gian-địa lý, thời gian-lịch sử, phong tục-văn hóa… Nguyễn Khoa Điềm đã đi 21
đến khẳng định Đất Nước trong ta không ở đâu xa mà kết tinh hóa thân trong cuộc sống mỗi người, quanh ta và xung quanh ta: “Trong anh và em hôm nay Đều có một phần Đất Nước” “Hôm nay” là hiện tại, “anh và em” là những người trẻ tuổi, ở đây tác giả đã nói đến người trẻ của cuộc kháng chiến chống Mỹ và mở rộng ra là các thế hệ đều phải ý thức điều ấy trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Đất Nước. Đây là một sự thực mà mỗi người Việt Nam ai cũng đều cảm thấy. Đất Nước đã hóa thân vào mỗi con người, bởi chúng ta đều là con Rồng, cháu Tiên, đều sinh ra và lớn lên trên đất nước này. Mỗi người dân Việt Nam đều đã và đang thừa hưởng những giá trị vật chất, tinh thần của Đất Nước thành máu thịt, tâm hồn, nếp cảm, nếp nghĩ và cách sống của mình. Từ việc khẳng định Đất Nước hóa thân và kết tinh trong cuộc sống của mỗi người, nhà thơ tiếp tục nói về mối quan hệ gắn bó sâu sắc của mỗi người với Đất Nước bằng những giòng thơ giàu chất chính luận: “Khi hai đứa cầm tay Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm Khi chúng ta cầm tay mọi người Đất Nước vẹn tròn, to lớn” Hai câu trên nói đến tình cảm cá nhân, tình cảm, sự gắn bó của anh và em còn hai câu dưới chính là tình cảm cộng đồng. Với những cảm nhận tinh tế, mới mẻ về sự hòa quyện giữa cái riêng và cái chung, giữa tình yêu và niềm tin, đồng thời kết hợp sử dụng các tính từ “hài hòa, nồng thắm, vẹn tròn, to lớn” đi liền nhau; đặc biệt là kiểu câu cấu tạo theo hai cặp đối xứng về ngôn từ (Khi/Khi; Đất Nước/Đất Nước) đã mang đến sự suy tư sâu lắng. Đất Nước là sự kết nối cuộc đời của cá nhân riêng lẻ và sự sống của Đất Nước là sự sống của mỗi cá nhân ấy. Đất Nước sẽ hài hòa nồng thắm khi ta cầm tay nhau, Đất Nước sẽ vẹn tròn 22
to lớn khi ta cầm tay mọi người. Tất cả sẽ cùng nhau nối vòng tay lớn để thống nhất giang sơn thành một dải, và nhân dân là khối thống nhất không chia phôi. Hơn thế nữa, nhà thơ còn muốn gửi đến cho người đọc một thông điệp: Đất Nước là sự thống nhất hài hòa giữa tình yêu đôi lứa với tình yêu Tổ quốc, giữa cá nhân với cộng đồng. Không chỉ khẳng định mối quan hệ gắn bó giữa Đất Nước và nhân dân, giữa tình yêu cá nhân với tình yêu lớn của Đât Nước, nhà thơ còn thể hiện niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng của Đất Nước: “Mai này con ta lớn lên Con sẽ mang Đất Nước đi xa Đến những tháng ngày mơ mộng” Ba dòng thơ đã mở ra một tầng ý nghĩa mới, đó là niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng của đất nước. Thế hệ con ta, thế hệ mai sau sẽ mang Đất Nước đi xa, đi tới những chân trời mới thật đẹp đẽ với cuộc sống hòa bình, no ấm, hạnh phúc, đến những tháng ngày thật thơ mộng và vui vẻ. Ở đây, tầm nhìn cũng đã được mở rộng hơn, Đất Nước được nhìn với thế giới. Không chỉ nối vòng tay trong đất nước mà còn nắm tay với bạn bè quốc tế. Đó là trách nhiệm của thế hệ mai sau, mang Đất Nước sánh với thế giới. Khi đã hiểu hết ý nghĩa thiêng liêng của Đất Nước, nhà thơ muốn nhắn gửi tới mọi người rằng mỗi người phải có trách nhiệm với Đất Nước, đó là trách nhiệm gìn giữ, phát triển và truyền lại đất nước cho thế hệ mai sau: “Em ơi Đất Nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời…” 23
Đất Nước được làm nên từ trong quá trình xây dựng, bảo vệ của nhân dân. Trong quá trình đó bao thế hệ đã hi sinh sương máu của mình, vậy nên những thế hệ hôm nay phải có trách nhiệm phát huy những phẩm chất quý giá ấy. Mỗi người đều được thừa hưởng những giá trị tinh thần, vật chất của Đất Nước. Bởi thế, Đất nước hiện diện và tồn tại trong ta, gới với ta như máu xương. Với giọng văn trữ tình kết hợp với chính luận, bằng cách sử dụng câu cầu khiến, điệp ngữ “phải biết” nhắc lại hai lần cùng các động từ mạnh “gắn bó, san sẻ, hóa thân…” nhà thơ như nhắn nhủ mình, đồng thời cũng là nhắn nhủ với mọi người, nhất là thế hệ trẻ về trách nhiệm thiêng liêng của mình với Đất Nước. Cái hay là lời nhắn nhủ mang tính chính luận nhưng lại không giáo huấn mà vẫn rất trữ tình, tha thiết như lời tự dặn mình- dặn người của nhà thơ. * Nghệ thuật: - Giọng văn trữ tình kết hợp với chính luận, giọng điệu sôi nổi, sâu lắng - Các biện pháp nghệ thuật được sử dụng linh hoạt, hợp lí - Hình ảnh thơ chân thực, sinh động, gần gũi, các chất liệu của văn học dân gian được sử dụng hết sức khéo léo và tài tình * Tiểu kết: Đây là một trong những đoạn thơ hay và sâu sắc trong đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm. Bởi lẽ, qua đoạn thơ, nhà thơ đã giúp cho chúng ta hiểu hơn về sự gắn bó giữa mỗi người với Đất Nước. Từ đó, chúng ta ý thức hơn về trách nhiệm của mỗi người với quê hương đất nước. Đồng thời, đoạn thơ cũng giúp ta thấy được vẻ đẹp trong phong cách thơ trữ tình-chính luận của nhà thơ 2. Tư tưởng Đất Nước của Nhân dân 2.1: Những phát hiện sâu sắc, mới mẻ của tác giả về thiên nhiên Đất Nước 24
* Khái quát: Hình ảnh Đất Nước đã khơi nguồn cảm hứng vô tận cho biết bao thi sĩ Cách Mạng để sáng tạo nên những vần thơ đẹp tuyệt vời. Nhà thơ Chế Lan Viên đã nhìn suốt chiều dài lịch sử oanh liệt để khẳng định: Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?, Lê Anh Xuân đã tạc vào thơ một dáng đứng Việt Nam với hình ảnh: Từ dáng đứng của anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất/Tổ Quốc bay lên bát ngát mùa xuân. Tố Hữu với hình ảnh đất nước sáng ngời: Ôi! Việt Nam từ trong biển máu/Người vươn lên như một thiên thần. Với chương Đất Nước trong Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên những cảm nhận sâu sắc về Đất Nước, về nhân dân, về dân tộc và trách nhiệm lớn lao của tuổi trẻ Việt Nam trước non sông đất nước. Tư tưởng Đất Nước của Nhân dân là một tư tưởng rất tiến bộ của thơ ca thời đại Cách mạng. * Phân tích a. Cách khám phá, phát hiện của Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên Hòn Trống Mái Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đồng để lại Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm” Mười hai câu thơ mở đầu phần hai của đoạn trích Đất Nước với nội dung ngợi ca, khẳng định mãnh liệt tư tưởng Đất Nước của nhân dân. Tác giả nêu ra một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu địa lý về những danh lam thắng cảnh trên khắp các miền đất nước. Nhà thơ 25
đã kể, liệt kê một loạt kì quan thiên nhiên trải dài trên lãnh thổ từ Bắc vào Nam như muốn phác thảo tấm bản đồ văn hóa đất nước. Đây là những danh lam thắng cảnh do bàn tay tự nhiên kiến tạo nhưng từ bao đời nay, ông cha ta đã phủ cho nó tính cách, tâm hồn, lẽ sống của dân tộc. Những ngọn núi, những dòng sông kia chỉ trở thành thắng cảnh khi nó gắn liền với con người, được cảm thụ qua tâm hồn, qua lịch sử dân tộc. Đặc biệt ở đây, nhà thơ đã rất thành công trong việc kết hợp từ chỉ địa danh với số từ “những”. Thi sĩ đã sắp xếp đầy dụng ý nghệ thuật khi đề cập đến lịch sử, địa lý khắp ba miền Bắc Trung Nam rồi đến văn hóa. Số từ “những” số đếm không xác định thể hiện nhận thức của người viết. Những người dân khi sống họ là những người bình thường nhỏ bé, những cá nhân riêng lẻ, cảnh đời và số phận riêng. Nhưng khi chết đi họ hòa vào thành những người vợ, những người học trò, những người dân để làm nên địa danh và Đất Nước. Thật sự, nếu không có những người vợ mòn mỏi chờ chồng cả thời chinh chiến thì không có sự cảm nhận về núi Vọng Phu. Cũng như nếu không có truyền thuyết Hùng Vương dựng nước thì không thể có sự cảm nhận nét hùng vĩ của núi đồi quanh đền Hùng. Trên khắp dải đất hình chữ S không chỉ có một nàng Tô Thị, một Thánh Gióng, một người học trò mà ở bất kì vùng đất nào cũng có những người thủy chung son sắt, bất khuất kiên cường, giàu tinh thần hiếu học. Họ góp phần làm nên và mở mang đất nước, viết lên những trang sử truyền thống, sáng tạo và bồi đắp truyền thống văn học dân tộc. Dưới góc nhìn của nhà thơ, các địa danh như núi Vọng Phu, những Hòn Trống Mái, những núi Bút, non Nghiên… không vô chi, vô giác, không đơn thuần chỉ là thắng cảnh mà nó là hiện thân của những cuộc đời, số phận nhân dân, kết tinh vẻ đẹp tâm hồn nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của những người không tên, không tuổi. Qua đó cho thấy sự nhận thức về vai trò vĩ đại của nhân dân đó là làm ra đất nước từ cuộc đời cá nhân chứ không phải điều xa vời lớn lao. Không chỉ thành công trong việc sử dụng các từ chỉ địa danh kết hợp với từ chỉ số từ “những”, nhà thơ còn tài tình trong việc sử dụng chất liệu văn hóa văn học dân gian. Hiện lên đậm đặc trong hệ thống các từ chỉ địa danh cho thấy Việt Nam là đất nước giàu có, phong phú về truyền thống văn hóa. Nó được hình thành, bồi đắp trong cả sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc. Những chi tiết của văn học dân gian được sáng tạo tài tình để nhắc đến tác phẩm. 26
Ngoài ra, nhà thơ còn tinh tế chắt lọc các chi tiết, sự kiện, những lời nói tiêu biểu để vận dụng vào trong thơ của mình Đoạn thơ khép lại bằng bốn dòng thơ có sức khái quát cao: Đất Nước là hóa thân của nhân dân. Sự khái quát ấy có được nhờ vào sự quan sát và trải nghiệm thực tiễn cùng với vốn tri thức sách vở của nhà thơ. Vậy nên khi nhìn vào thiên nhiên và những thắng cảnh địa lý, nhà thơ nhận thấy Đất Nước do nhân dân làm ra- Đất Nước của nhân dân: “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm ta đi đâu cũng thấy Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…” Thiên nhiên đất nước qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhan dân. Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước này, đã đặt tên, ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất này. Với cấu trúc quy nạp (đi từ liệt kê các hình ảnh, địa danh… đến khái quát mang tính triết lí), dường như nhà thơ không thể kể ra hết những danh lam thắng cảnh và những nét đẹp văn hóa dân tộc vô cùng phong phú, đa dạng trên khắp đất nước. Nên cuối cùng, nhà thơ đã khẳng định: trên không gian địa lý đất nước, mỗi địa danh đều là một địa chỉ văn hóa được làm nên bằng sự hóa thân của bao cuộc đời, bao tâm hồn người Việt. * Nghệ thuật: - Đoạn thơ có kết cấu chặt chẽ, tự nhiên và được viết theo thể thơ tự do. Câu thơ mở rộng kéo dài nhưng không nặng nề mà biến hóa linh hoạt làm cho đoạn thơ giàu sức biểu hiện và sức khái quát cao. 27
- Đoạn thơ thể hiện được đặc điểm tiêu biểu của trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm: chất chính luận hài hòa chất trữ tình, giọng thơ tự sự, ngôn từ, hình ảnh đẹp, giàu sức liên tưởng * Tiểu kết: Đoạn thơ thể hiện tư tưởng Đất Nước của nhân dân - nhân dân đã hóa thành đất nước. Bởi trên khắp ruộng đồng gò bãi, núi sông, đâu đâu cũng là hình ảnh của văn hóa, của đời sống tâm hồn, của cốt cách Việt Nam. Viết về đề tài Đất Nước-một đề tài quen thuộc nhưng thơ Nguyễn Khoa Điềm vẫn mang những nét riêng, mới mẻ, sâu sắc. Những nhận thức mới mẻ về vai trò của nhân dân trong việc làm nên vẻ đẹp của đất nước ở góc độ địa lý-văn hóa càng gợi lên lòng yêu nước, tinh thần trách nhiệm với đất nước của mỗi người. 2.2: Lời nhắc nhở thế hệ hôm nay và những thế hệ mai sau phải biết giữ gìn và phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc Viết về lịch sử, nhiều nhà văn thường nhắc tới những triều đại vàng son, những vĩ nhân được lưu danh trong sử sách. Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi từng tạ hào khẳng định: Từ Triệu Đinh Lý Trần bao đời gây nền độc lập/ Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương. Nhà thơ Chế Lan Viên cũng từng đặt câu hỏi Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng? và cũng tự trả lời: “Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc Nguyễn Du viết Kiều và đất nước hóa thành văn Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa bắc Hưng đạo đại vương diệt quân Nguyên trên sông Bạch Đằng” Còn ở đây, Nguyễn Khoa Điềm muốn hướng người đọc đến một đối tượng khác, đó chính là vô vàn những con người vô danh bình dị. Chính họ là người làm nên đất nước 4000 28
năm là 4000 lớp người: là nhân dân vô tận, chính họ đã đóng góp vai trò to lớn trong quá trình kiến tạo lịch sử: “Em ơi em Hãy nhìn rất xa Vào bốn nghìn năm Đất Nước Năm tháng nào cũng người người lớp lớp Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta Cần cù làm lụng Khi có giặc người con trai ra trận Người con gái trở về nuôi cái cùng con Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh Nhiều người đã trở thành anh hùng Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ Nhưng em biết không Có biết bao người con gái, con trai Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên 29
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước” Sau khi đã khẳng định vai trò của nhân dân trong việc làm nên bức tranh địa lý - văn hóa muôn màu, muôn vẻ, nhà thơ tiếp tục bày tỏ những suy tư, nhận thức của mình về vai trò của nhân dân trong việc làm ra lịch sử và truyền thống của đất nước. Nghĩ về bốn ngàn năm của Đất Nước, nhà thơ đã nhận thức được một sự thật đó là: Người làm nên lịch sử không chỉ là những anh hùng nổi tiếng mà còn là những con người vô danh bình dị. Ông cha ta ngày trước đã luôn đặt quyền lợi của Tổ quốc lên trên hết, họ sẵn sàng hy sinh những tình cảm riêng tư của mình như tình yêu, tình cảm vợ chồng để đi đánh giặc cứu nước với một thái độ dứt khoát mà không hề so đo, tính toán, phân bì, hơn thiệt. Hơn nữa, chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng của dân tộc ta là một chủ nghĩa yêu nước, anh hùng tập thể, bất phân già trẻ, đàn ông hay đàn bà. Thật sự trong bề dày bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, có biết bao thế hệ cha ông dũng cảm chiến đấu, hi sinh và trở thành anh hùng mà tên tuổi của họ “cả anh và em đều nhớ”. Đúng là nhiều người đàn bà anh hùng cả anh và em đều nhớ. Chúng ta làm sao quên được những người đàn bà đã đi vào lịch sử của dân tộc trong quá khứ như bà Trưng, bà Triệu... Và trong cái chiều dài của lịch sử dân tộc ấy, có biết bao lớp người con gái, con trai giống như lớp tuổi chúng ta bây giờ, họ đã sống và chết một cách giản dị và bình tâm, không ai nhớ mặt đặt tên, nhưng nhà thơ đã khẳng định vai trò của họ đối với đất nước thật vô cùng to lớn. Họ chính là những con người bình thường, giản dị, nhưng có một tình cảm sâu đậm đối với đất nước. Khi đất nước lâm nguy, bị kẻ thù xâm chiếm, họ tạm gác lại những tình cảm riêng tư, lên đường đi chiến đấu, đem máu xương của mình hiến dâng cho Tổ quốc. Chính họ là những con người đã \"làm ra Đất Nước\".Có thể nói, đây là một quan niệm mới mẻ về Đất Nước của nhà thơ. Và từ quan niệm này, Nguyễn Khoa Điềm đã hết lời ca ngợi và tôn vinh lòng yêu nước của nhân dân. Với tư tưởng Đất Nước của Nhân dân, tác giả đã khẳng định tất cả những gì do nhân dân làm ra, những gì thuộc về nhân dân như “hạt lúa, ngọn lửa, giọng nói, tên làng tên xã…”cũng như chính những con người vô danh bình dị đó đã góp phần giữ và truyền lại 30
cho thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước. Chính họ đã tạo dựng nên nền móng cho sự sống của đất nước, cho nhân dân: “Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái” Họ truyền cho nhau ngọn lửa mang tên sức sống của dân tộc Việt Nam. Họ bảo vệ đất đai, xứ sở từ thời vua Hùng cầm gươm đi mở cõi. Họ đã gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh, tinh thần, vật chất và cả tình yêu đất nước của lớp lớp con người. Hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, cả tên xã, tên làng. Để rồi khi đọc đến đây, từ trong trái tim của mỗi người yêu văn chương vọng lại những vần thơ cùa Hoàng Trung Thông trong Bài thơ báng sún”: “Ta lại viết bài thơ trên báng súng Con lớn lên đang viết tiếp thay cha Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống Người hôm nay viết tiếp người hôm qua” (Hoàng Trung Thông) Chính nhân dân đã viết lên những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, để viết lên trang sử vẻ vang của dãn tộc Việt Nam thì đó là máu, là mồ hôi, là nước mắt của nhân dân. Cũng như vậy, ta lại nhớ đến hình ảnh anh giải phóng quân trong bàỉ thơ Dáng đứng việt Nam của Lê Anh Xuân: 31
“Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhứt Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng Và Anh chết trong khi đang đứng bắn Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng. Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công” (Lê Anh Xuân) Người lính đã ngã xuống nhưng tư thế chiến đấu của anh mãi mãi đi vào lịch sử. Đó là dáng đứng Việt Nam, là biểu tượng của tinh thần bất khuất, kiên trung của dân tôc Việt Nam. Kẻ thù có thể giết chết họ nhưng không thể nào hủy diệt được tinh thần và lòng yêu nước của họ. Chính họ đã làm nên đất nước thiêng liêng: “Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh trước lúc lên đường Chỉ để lại cái dáng-đứng-Việt-Nam tạc vào thế kỷ: Anh là chiến sỹ Giải phóng quân. Tên Anh đã thành tên đất nước” ( Dáng đứng Việt Nam - Lê Anh Xuân ) Không một dòng địa chỉ cùng chẳng có một tấm hình trước lúc hy sinh nhưng những con người ấy vẫn nguyện ra đi để bảo vệ đất đai, xứ sở. Họ nguyện ngã xuống để Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân đến muôn đời. Để mặt đất không còn bóng giặc và trên bầu trời không còn khói lửa của chiến tranh. Chính máu, mồ hôi và nước mắt của biết bao con người đã kết tụ thành tinh anh đất nước. 32
Vai trò cụ thể của nhân dân không chỉ dừng lại ở việc lưu giữ và truyền lại cho thế hệ mai sau về giá trị vật chất tinh thần mà còn cả trong quá trình bảo vệ đất nước. Khi đất nước có chiến tranh, nhân dân sẵn sàng xả thân, hi sinh mình, sẵn sàng vùng lên chống ngoại xâm, đánh nội thù để giữ gìn sự sống và bảo vệ đất nước thân yêu, bảo về nền độc lập dân tộc: “Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm Có nội thù thì vùng lên đánh bại” Việc kết hợp hài hòa các động từ mạnh “chống, vùng lên, đánh bại” và biện pháp nghệ thuật điệp cấu trúc “Có…thì…” cùng với giọng thơ mạnh mẽ, đanh thép thể hiện rõ tinh thần tự nguyện cao độ của nhân dân trong sự nghiệp giữ nước. Ở đây, người đọc có thể nhận thấy rõ công lao vĩ đại của nhân dân đối với đất nước. Mỗi thành quả của đất nước hôm nay là sự kết tinh thừa hưởng tiếp nối quá trình lao động sáng tạo cần cù, bền bỉ của nhân dân và tinh thần chiến đấu không mệt mỏi để bảo vệ đất nước. Nhân dân đã làm nên bản sắc dân tộc, viết lên trang sử hào hùng bằng sức mạnh của tình yêu, bằng ý chí kiên cường quyết tâm đánh đuổi giặc để gây dựng nên nền độc lập hòa bình cho đất nước. 2.3: Khẳng định Đất Nước là của Nhân dân và niềm tin vào tương lai huy hoàng của Đất Nước Hiếm có một giai đoạn văn học nào mà hình ảnh Tổ quốc – Dân tộc – Đất nước lại tập trung cao độ như giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tố Hữu với Ôi Việt Nam! Yêu suốt một đời/ Nay mới được ôm Người trọn vẹn, Người ơi! ( Vui thế hôm nay ), Chế Lan Viên với Sao chiến thắng, Lê Anh Xuân từ hình tượng anh giải phóng quân đã tạo nên Dáng đứng Việt Nam. Và Nguyễn Khoa Điềm gắn liền với Tổ quốc qua “\\Đất Nước - một chương thơ trong trường ca Mặt đường khát vọng. Chương thơ đã thể hiện một cách sâu sắc vẻ đẹp của Đất Nước và tư tưởng lớn của thời đại Đất nước của nhân dân. Tư tưởng ấy được thể hiện đậm nét qua đoạn thơ sau: 33
“Để Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân Đất nước của Nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi” Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội Biết trồng tre đợi ngày thành gậy Đi trả thù mà không sợ dài lâu Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi” Đoạn thơ mở đầu bằng một lời khẳng định, lời khẳng định ấy là cảm hứng chung cho cả đoạn thơ: “Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân Đất nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại” Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là một khúc ca- sự nhận thức về nguồn gốc sâu xa của nhà thơ về đất nước, về trí tuệ, tâm hồn và ý chí của nhân dân. Để từ đó, nhà thơ khẳng định: Nhân dân chính là người- là chủ thể làm nên đất nước. Lời khẳng định ấy đã thể hiện một cách chân thành, mãnh liệt tình cảm của nhà thơ đối với dân tộc. Hơn ai hết, nhà thơ hiểu rằng, để có được Đất Nước trường tồn, vĩnh cửu thì nhân dân hơn ai hết là những 34
người đã đổ máu xương, đổ công sức của mình để làm nên hình hài đất nước. Vì thế Đất Nước không của riêng ai mà là của chung, của nhân dân và mãi mãi thuộc về nhân dân.Câu thơ “Để Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân” chính là sự thể hiện cảm hứng chủ đạo bao trùm toàn đoạn trích và cả chương V của bản trường ca “Mặt đường khát vọng”. “Đất Nước,Nhân dân” được viết hoa trang trọng tô đậm công lao to lớn của nhân dân, tạo mối quan hệ mật thiết giữa nhân dân đối với đất nước. Đây chính là lời kết, là sự khái quát từ những gì đã được nhà thơ triển khai trên cả chiều dài của trang thơ và trong cả chiều sâu của dòng cảm hứng trữ tình- chính luận. Ở câu thơ thứ hai, nhà thơ lại một lần nữa khẳng định Đất nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại. Câu thơ được tách thành hai vế đẳng lập và điệp ngữ chuyển tiếp “Đất nước của nhân dân” được lặp lại như thêm một lần nữa nhấn mạnh về cái sứ mệnh thiêng liêng của nhân dân đối với Đất Nước. Vế thứ hai, nhà thơ nhấn mạnh “Đất Nước của ca dao thần thoại”. Nhắc đến ca dao thần thoại ta lại càng nhớ đến nhân dân, vì hơn ai hết, Nhân dân lại là người tạo ra văn hóa, tạo ra ca dao thần thoại. Mà đất nước của “ca dao thần thoại” nghĩa là Đất Nước tươi đẹp vô ngần như vầng trăng cổ tích, ngọt ngào như ca dao, như nguồn sữa mẹ nuôi ta lớn nên người. Và không phải ngẫu nhiên tác giả nhắc tới hai thể loại tiêu biểu nhất của văn học dân gian. “Thần thoại” thể hiện cuộc sống qua trí tưởng tượng bay bổng của nhân dân. Còn “ca dao” bộc lộ thế giới tâm hồn của nhân dân với tình yêu thương, với sự lãng mạn cùng với tinh thần lạc quan. Đó là những tác phẩm do nhân dân sáng tạo, lưu truyền và có khả năng phản chiếu tâm hồn, bản sắc dân tộc một cách đậm nét nhất. Đặc biệt qua đây tác giả còn muốn gửi gắm một tư tưởng thấm thía: Đất Nước của Nhân dân vì Đất Nước được tạo dựng, giữ gìn, bảo vệ bằng tình yêu và nỗi đau của Nhân dân, bằng mồ hôi nước mắt, bằng sương máu của Nhân dân. Và cũng qua ca dao, thần thoại, nhà thơ gửi gắm những bài học cao đẹp về cuộc sống đó là biết yêu thương, biết tôn trọng nghĩa tình hơn là vật chất, biết căm ghét cái ác và cái xấu, biết kiên trì bền bỉ và phục thù chiến đấu. Và khi nói đến Đất nước của Nhân dân, một cách tự nhiên, tác giả trở về với cội nguồn phong phú đẹp đẽ của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là trong ca dao. Vẻ đẹp tinh thần của nhân dân, hơn đâu hết, có thể tìm thấy ở đó trong ca dao, dân ca, truyện cổ 35
tích. Ở đây tác giả chỉ chọn lọc ba câu để nói về ba phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, dân tộc: “Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi” Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội Biết trồng tre đợi ngày thành gậy Đi trả thù mà không sợ dài lâu” Chức năng của ca dao, nói như Nguyễn Khoa Điềm là “dạy”. Chức năng ấy cùng với ý nghĩa của nó được thể hiện qua ba phương diện. Phương diện thứ nhất, Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh về tình cảm thủy chung trong tình yêu của con người Việt Nam. Từ ý thơ trong ca dao Yêu em từ thuở trong nôi/ Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru. Nhà thơ đã viết nên lời chân tình của chàng trai đang yêu “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi”. Tình yêu của chàng trai ấy không phải là ngọn gió thoáng qua, không phải là lời của bướm ong mà là lời nói là nghĩ suy chân thật. Ý thơ đã khẳng định được một tình yêu thủy chung bền vững không gì có thể đếm đong được. Nhân dân dạy ta biết yêu thương lãng mạn, đắm say thủy chung với những câu ca dao ấy. Đây là phát hiện mới của Nguyễn Khoa Điềm. Bởi lẽ từ xưa đến nay nói đến nhân dân người ta thường nghĩ đến những phẩm chất cần cù chịu khó, bất khuất kiên cường. Còn ở đây tác giả lại ngợi ca vẻ đẹp trẻ trung lãng mạn trong tình yêu, những mối tình từ thưở ấu thơ cho đến lúc trưởng thành. Ở phương diện thứ hai, Nhân dân gìn giữ và truyền lại cho ta quan niệm sống đẹp đẽ, sâu sắc, ca dao đã “dạy anh biết” – Sống trên đời cần đậm nghĩa, vẹn tình, quý trọng tình nghĩa hơi cả vàng: “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”. Câu thơ ấy lấy ý từ câu ca dao một thời đi vào đời sống tâm hồn dân tộc: Cầm vàng mà lội qua sông/Vàng rơi không tiếc tiếc công cầm vàng. Nhân dân đã dạy ta rằng: ở đời này còn có thứ quý hơn vàng bạc, châu báu ngọc ngà… Đó là tình nghĩa giữa con người với con người. Bởi vậy, nghĩa với tình còn nặng hơn nhiều lần giá trị vật chất. 36
Ở phương diện thứ ba, nhân dân đã dạy ta phải biết quyết liệt trong căm thù và chiến đấu “Biết trồng tre đợi ngày thành gậy/ Đi trả thù mà không sợ dài lâu”. Hai câu thơ đã gợi lại biết bao cuộc kháng chiến oanh liệt, trường kì của nhân dân trong biết bao cuộc chiến vệ quốc vĩ đại. Từ thuở lập nước, ông cha ta đã luôn phải đương đầu với nạn ngoại xâm. Cuộc chiến đấu giành độc lập tự do nào cũng kéo dài hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm. Sau cả nghìn năm Bắc thuộc nhân dân vẫn đứng lên giành chủ quyền, rồi đến 100 năm đô hộ giặc Tây… thử hỏi nếu không có sự kiên trì bền bỉ và khát vọng tự do mãnh liệt, dân tộc bé nhỏ này làm sao có thể vượt qua bao nhiêu khó khăn gian khổ, mất mát hi sinh để đến ngày toàn thắng. Để từ đó có thể khẳng định: nhân dân đã làm ra văn hóa, làm ra đất nước bằng chính tính cách, lẽ sống tâm hồn mình. Khép lại đoạn trích là 4 câu thơ tái hiện hình ảnh người chèo đò, kéo thuyền vượt thác cất cao tiếng hát, là một biểu tượng nói lên sức mạnh Nhân dân chiến thắng mọi thử thách, lạc quan tin tưởng đưa Đất Nước đi tới một ngày mai vô cùng tươi sáng: “Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi…” Câu thơ gợi cho ta hình ảnh của những dòng sông, những dòng sông không biết đến từ bến bờ nào nhưng khi hòa vào đất Việt lại vang lên biết bao câu hát điệu hò. Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm làm ta nhớ đến những điệu hò hùng tráng trên sông Mã, điệu ca Huế ngọt ngào trên sông Hương và điệu hò kéo lưới mạnh mẽ ở miền Trung, hay đờn ca tài tử tha thiết trên sông Tiền, sông Hậu ở miền Nam. Và “dòng sông” ấy vừa có ý nghĩa là dòng sông của quê hương đất nước nhưng vừa có ý nghĩa là dòng sông Văn Hóa, dòng sông Lịch sử. Dân tộc ta có 54 dân tộc anh em, là 54 dòng chảy văn hóa đa dạng “trăm màu, trăm 37
dáng”. Và đó chính là sự đa dạng và phong phú của văn hóa Việt Nam đã vun đắp phù sa qua bao năm tháng thăng trầm để làm nên một đất nước đậm đà bản sắc dân tộc. * Nghệ thuật: - Đoạn thơ đã để lại âm hưởng ca dao, dân ca đặc sắc nhưng không lấy lại nguyên văn mà sáng tạo làm nên một ý thơ riêng mềm mại, tài hoa và giàu tính triết lý. Điệp ngữ “Đất Nước” được nhắc lại nhiều lần cùng với việc nhà thơ luôn viết hoa hai từ “Đất Nước” tạo nên một tình cảm thiêng liêng xiết bao tự hào về non sông gấm vóc Việt Nam - Giọng thơ nhẹ nhàng, tha thiết, trang trọng; ý thơ giàu chất chính luận, ngôn ngữ thơ mộc mạc, cách sử dụng sáng tạo chất liệu văn hóa, văn học dân gian…từ những suy tư cảm xúc của nhà thơ, đoạn thơ đã khắc sâu cho chúng ta những nhận thức sâu sắc và mới mẻ về đất nước, nhân dân - Chất trữ tình kết hợp với chính luận, cảm xúc kết hợp với suy ngẫm tạo nên sự sâu lắng thiết tha * Tiểu kết: Tư tưởng Đất Nước của Nhân dân là nội dung quan trọng được nhà thơ triển khai bởi không gian nghệ thuật riêng, đó là không gian gần gũi, thân thuộc mà bay bổng lấp lánh huyền thoại của văn học dân gian nhưng được thể hiện qua tư duy thơ hiện đại tạo nên hình tượng vừa quen thuộc những cũng vừa mới lạ bất ngờ. Tuổi trẻ Nguyễn Khoa Điềm đã nhận thức sâu sắc Nhân dân là người làm nên lịch sử, làm ra văn hóa đất nước bằng tất cả tình cảm trân trọng và yêu thương. Suy tư và nhận thức này của nhà thơ là tư tưởng nghệ thuật đã trở thành truyền thống trong văn học Việt Nam. Từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiều, Phan Bội Châu…đã từng nói lên nhận thức về vai trò của nhân dân trong lịch sử. Đến các nhà thơ, nhà văn trong thời kì kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, nhận thức ấy đã được nâng lên thành một tư tưởng có tầm cao mới. Từ đó, đoạn thơ bồi dưỡng thêm tình yêu Tổ quốc và niềm tự hào về con người Việt Nam cho mỗi người, đặc biệt là thế hệ trẻ trong thời đại hôm nay 38
Phần 4: Tổng kết 1. Giá trị nội dung - Đất Nước được cảm nhận ở nhiều phương diện: từ văn hóa - lịch sử, địa lí - thời gian đến không gian của đất nước. Đồng thời, tác giả cũng nêu lên trách nhiệm của các thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ với đất nước mình. - Cái nhìn mới mẻ về đất nước với tư tưởng Đất Nước của Nhân dân là cốt lõi. Đất Nước là sự hội tụ, kết tinh bao công sức và khát vọng của Nhân dân, Nhân dân chính là người làm ra Đất Nước 2. Giá trị nghệ thuật - Tác giả lựa chọn thể thơ tự do, phóng khoáng không bị bó buộc về số chữ trong một câu, số câu trong một bài vừa tạo ra nét độc đáo về hình thức cho bài thơ, vừa là cơ hội để dòng chảy của cảm xúc được phát triển một cách tự nhiên - Sử dụng các chất liệu văn hóa dân gian với đa dạng các thể loại: từ phong tục-tập quán sinh hoạt của nhân dân đến các thể loại của văn học dân gian như ca dao-dân ca, truyện cổ tích, truyền thuyết, sự tích…Điều đặc biệt là tác giả sử dụng một cách sáng tạo, không trích dẫn nguyên văn mà chỉ trích một vài từ nhưng người đọc cũng có thể hiểu về thi liệu dân gian ấy - Giọng thơ trữ tình - chính luận, là sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước và con người 39
Phần 5: Luyện đề ĐỀ 1: Trong cuốn Nhà văn nói về tác phẩm, Nguyễn Đình Thi có viết: Tác phẩm văn học lớn hấp dẫn người ta bởi cách nhìn nhận mới, tình cảm mới về những điều, những việc mà ai cũng biết cả rồi (Sách đã dẫn – NXB Văn học 1988, trang 260) Anh/chị hãy giải thích và làm sáng tỏ ý kiến trên bằng việc phân tích sức hấp dẫn của 9 câu đầu đoạn trích Đất Nước (trích trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm. Gợi ý: 1. Giới thiệu vấn đề - Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trích - Dẫn dắt, trích dẫn ý kiến 2. Triển khai vấn đề * Giải thích nhận định: - Đây là một hình thức định nghĩa tác phẩm văn học lớn, mà sâu xa cũng chính là định nghĩa về nhà văn lớn ( Chỉ có các tài năng lớn mới tạo ra những nét nghệ thuật độc đáo, có ý nghĩa lớn, thể hiện trong hình tượng, chi tiết, cách nhìn, giọng điệu ) - Cách nhìn nhận là sự bộc lộ thái độ, quan điểm, lập trường tư tưởng… của nhà văn; tình cảm là thế giới tâm hồn đa dạng, phức hợp với những rung động thẩm mĩ của người cầm bút 40
- Cách nhìn nhận mới, tình cảm mới về những điều, những việc mà ai cũng biết cả rồi là sự nhấn mạnh vào cá tính sáng tạo của nhà văn lớn-vốn là nhân tố quyết định, làm cho đời sống văn học luôn phong phú, đa dạng, mới mẻ, khoog rập khuôn, sáo rỗng => Nhận định trên vừa nêu lên vai trò của cái nhìn, tình cảm trong hành trình nghệ thuật của nhà văn, vừa xác định giá trị của cá tính sáng tạo mà nhà văn ấy để lại trong đời sống văn học * Phân tích tác phẩm (9 câu đầu trong đoạn trích Đất Nước ) - Cách nhìn nhận mới, tình cảm mới được nhà văn thể hiện trong cả nội dung và hình thức tác phẩm: + Nội dung: Đất nước lớn lên bằng văn hóa, phong tục tập quán, từ cuộc sống bình dị hàng ngày • Luận điểm 1: Sự sinh thành của Đất Nước • Luận điểm 2: Quá trình trưởng thành của Đất Nước + Hình thức: • Cấu trúc theo lối tăng cấp về Đất Nước: Đất nước đã có; Đất Nước bắt đầu; Đất Nước lớn lên,Đất nước có từ • Dù khai thác đề tài quen thuộc là Đất Nước nhưng không bị nhàm chán mà hết sức mới mẻ bởi quan niệm khác biệt về Đất Nước của tác giả với tư tưởng Đất Nước của Nhân dân • Sử dụng các chất liệu của văn hóa, văn học dân gian nhưng không trích nguyên bản mà sử dụng một vài câu, vài từ để gợi nhắc 3. Đánh giá và kết thúc vấn đề 41
ĐỀ 2: Phân tích điểm mới về tư tưởng và hình thức biểu hiện trong quan niệm về Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm trong đoạn trích Đất Nước trích từ trường ca Mặt đường khát vọng Bài làm Đất nước chính là nguồn cảm hứng vô tận của thi ca, của tâm hồn người nghệ sĩ. Từ xa xưa, ta bắt gặp hình ảnh đất nước trong những cánh cò trắng trên cánh đồng làng vào những chiều quê yên ả. Rồi ta bắt gặp đất nước \"lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa\", trong thơ Huy Cận, một đất nước “rũ bùn đứng dậy sáng lòa\", đất nước của những mùa thu xưa và nay trong thơ Nguyễn Đình Thi. Và khi đọc “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm ta lại bắt gặp hình ảnh Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoạỉ ở toàn bộ chương “Đất nước” của bản trường ca này. Đoạn trích Đất Nước thuộc phần đầu chương V trong trường ca Mặt đường khát vọng. Là một trong những đoạn thơ hay nhất về đề tài đất nước trong thơ Việt Nam hiện đại. Đóng vai trò trung tâm vì đặt điểm tựa, tư tưởng cho toàn tác phẩm đó là Đất Nước của nhân dân. Đoạn trích đã kết tinh nhiều tư tưởng cũng như hình thức biểu hiện mới trong quan niệm về Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm mà tiêu biểu và xuyên suốt tác phẩm chính là tư tưởng Đất Nước của Nhân dân, nhân dân chính là người làm ra Đất Nước, đã có công giữ gìn, bảo về và truyền lại cho lớp lớp thế hệ sau. Hình ảnh “Đất Nước của Nhân dân, của ca dao thần thoại” được tác giả thể hiện bằng hình thức thơ trữ tình, chính luận. Đậm đà cảm xúc mà cũng giàu chất triết lí sâu xa, vừa đem đến cho người đọc những cảm nhận mới mẻ về Đất Nước vừa giúp mỗi người yêu hơn, thương hơn Đất Nước mình. Theo Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước không là của riêng ai mà là của toàn thể nhân dân. Hàng triệu người vô danh từ thế hệ này sang thế hệ khác đã đổ bao mồ hôi và xương máu để bảo vệ và xây dựng đất nước: “Có biết bao người con gái, con trai, 42
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi Họ đã sống và chết, Giản dị và bình tâm, Không ai nhớ mặt đặt tên, Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.” Trong suốt bốn nghìn năm dựng nước, nhân dân ta đã chiến đấu, lao động, làm nên bộ mặt lãnh thổ, nền văn hoá dân tộc, những mối quan hệ gia đình, tổ tiên, quan hệ với thiên nhiên, lịch sử: “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi, Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha. Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy, Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.” Đất Nước không phải là những gì xa xôi trừu tượng mà thật cụ thể, gắn bó mật thiết với tình cảm và sinh hoạt hằng ngày của chúng ta: “Đất là nơi anh đến trường, Nước là nơi em tắm, Đất Nước là nơi ta hò hẹn, Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” Thậm chí, Đất Nước còn hiện hữu ngay trong bản thân mỗi người chúng ta: “Trong anh và em hôm nay. 43
Đều có một phần Đất Nước, Khi hai đứa cầm tay, Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm.” Quan niệm về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm có điểm khác với quan niệm phong Kiến ngày xưa - đất nước là của nhà vua: “Nam quốc sơn hà nam đế cư Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư” (Lý Thường Kiệt) Quan niệm của Nguyễn Khoa Điềm cũng có điểm khác với quan niệm của các nhà yêu nước đầu thế kì XX- Đất Nước là của những bậc anh hùng làm nên lịch sử: “Nợ thuở trước đánh tàu mấy lớp, Cõi trời Nam cơ nghiệp mở mang. Sông Đằng lớp sóng Trần Vương, Núi Lam rẽ khói mở đường nhà Lê. Quang Trung để từ khi độc lập, Khí anh hùng đầy lấp giang sơn” (Phan Bội Châu) 44
Về hình thức biểu hiện đất nước, bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm cũng có điểm mới mẻ, sáng tạo. Thơ ca cổ điển thường dùng tiếng cuốc kêu tượng trưng cho lòng nhớ thương nước nhà: “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc” (Bà Huyện Thanh Quan) Hay: “Có phải tiếc xuân mà đứng gọi, Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ.” (Nguyễn Khuyễn) Chịu ảnh hưởng của văn học phương Tây vào những năm 20 của thế kỉ này, Tản Đà đã dùng hình ảnh bức dư đồ để đặc trưng cho đất nước: “Nọ bức dư đồ thư đứng coi Sông sông, núi núi khéo bia cười” Khi Cách mạng tháng Tám thành công, Xuân Diệu viết Ngọn quốc kì ca ngợi đất nước: “Việt Nam! Việt Nam! Cờ đỏ sao vàng! Những ngực nén hít thở “Ngày độc lập”!” Riêng Nguyễn Khoa Điềm sử dụng những hình ảnh trong ca dao, tục ngữ, truyền thuyết muôn màu, muôn vẻ trải dài trong không gian, xuyên suốt cả thời gian, lắng đọng 45
trong tâm tưởng ta qua những liên tưởng kì thú để tượng trưng cho đất nước. Trước hết, Đất Nước đã có từ rất lâu đời, qua sự tích Trầu cau, truyền thuyết Thánh Gióng: “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn, Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” Qua những mĩ tục thể hiện lối sống giàu nặng nghĩa tình: “Tóc mẹ thì bới sau đầu, Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” Qua đời sống lao động gian nan, vất vả để lo cái ăn, cái ở: “Cái kèo, cái cột thành tên Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng” Đất Nước được coi là phần hay nhất của trường ca Mặt đường khát vọng. Nó tạo nên những tình cảm tha thiết sâu lắng, những ngân rung trong lòng người đọc. Đoạn trích còn tạo nên một tượng đài về Tổ quốc Việt Nam bằng thơ, tượng đài ấy vĩnh hằng qua thời gian, năm tháng và trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Và cũng qua Đất nước người đọc có thể nhận thấy những tư tưởng, hình thức hết sức mới mẻ và đặc sắc về quan niệm Đất Nước, về một tư tưởng hết sức đúng đắn theo suốt hành trình lịch sử dân tộc từ xa xưa đến nay đó là tư tưởng Đất Nước của Nhân dân Đối với chúng ta, khi nhắc về Đất Nước, ta thường đồng nhất khái niệm ấy với những điều thiêng liêng, to lớn, xa xôi, trừu tượng. Nhưng khi đọc Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm trích trong trường ca Mặt đường khát vọng ta nhận ra rằng đất nước không trừu tượng, xa xôi như thế; đất nước gần gũi, bình dị, thân thương, ân tình và mỗi người đều tìm thấy đất nước trong chính mình. Nó không chỉ là mảnh đất đã ấp ủ, chắt chiu, nuôi ta lớn mà hơn thế, đất nước đã trở thành một phần hòa chảy cùng dòng máu nóng trong cơ thể, thành 46
những nhịp đập trong trái tim ta và từ đó trong mỗi chúng ta đều có một phần đất nước. Và mỗi cá nhân con người nên có ý thức sâu sắc về trách nhiệm của bản thân đối với đất nước, hãy luôn cố gắng sống, cống hiến và hi sinh hết mình cho Tổ quốc nếu có thể. Mỗi chúng ta hãy nên ghi nhớ rằng: “Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta Mà hãy hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay?” ĐỀ 3: Cảm hứng về Đất Nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm qua phần một của đoạn trích Đất Nước Bài làm Đoạn Đất Nước trích gần chọn chương V của trường ca Mặt đường khát vọng, thể hiện khá tập trung những cảm nhận sâu sắc và có phần mới mẻ về đất nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Nếu không đọc kĩ trọn vẹn trường ca Mặt đường khát vọng dễ nhầm tưởng rằng dường như chương V này không đề cập trực tiếp đến các vấn đề của thanh niên trí thức miền Nam, không nói đến hiện thực sôi động trong cuộc chiến đấu trong các thành thị miền Nam thời Mĩ - Ngụy, do đó nó không thật gắn bó chặt chẽ với toàn bộ tác phẩm. Song, thực ra chương này lại là hạt nhân quan trọng nhất của tác phẩm: Sự ý thức về đất nước, về nhân dân đâ dẫn đến sự ý thức về trách nhiệm của thế hệ trẻ, trong cuộc chiến tranh oanh liệt vì đất nước, vì nhân dân. Trong văn học Việt Nam, đất nước vốn là một đề tài lớn. Điều đó có thể giải thích bằng đặc điểm quá trình lịch sử đấu tranh sinh tồn của dân tộc. Trải qua hàng ngàn năm phải liên tục chiến đấu gìn giữ đất nước, hơn ai hết, người Việt Nam luôn luôn gắn bó sâu nặng với đất nước, với đồng bào. Trong văn học viết thời phong kiến đã có những kiệt tác viết về đất nước như bài thơ Thần được tương truyền của Lý Thường Kiệt, Bài cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi. Từ sau Cách mạng tháng Tám, đề tài này thường xuyên xuất hiện 47
trong văn học: Nguyễn ĐìnhThi viết bài Đất nước nổi tiếng chủ yếu thời kì chống Pháp. Cùng thế hệ với Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh... đều có những tác phẩm thể hiện đề tài đất nước, ở đề tài này, các tác giả ghi nhận những thành công nhất định. Nhưng đoạn trích Đất Nước nói riêng, và trường ca Mặt đường khát vọng nói chung vẫn chiếm được cảm tình của người đọc bời nhà thơ Nguvễn Khoa Điềm đã mang đến cho đề tài này một số nội dung có phần mới mẻ và một cách phô diễn khá độc đáo, hấp dẫn, không giống bất kì cây bút nào đi trước. Cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm bắt đầu thật bình dị. Dưới cách nhìn và cảm nhận cùa nhà thơ trẻ (khi viết trường ca này Nguyễn Khoa Điềm mới 28 tuổi, nhưng có học vấn cử nhân văn khoa), đất nước là những gì vô cùng gần gũi, bình dị, gắn thật sâu nặng với mỗi con người, mỗi gia đình. Đất nước hiện diện từng giây, từng phút trong cuộc sống thường nhật vừa là trừu tượng, song lại hết sức cụ thể đối với từng thành viên. Theo tác giả, đất nước chẳng có gì xa lạ. Đất nước có trong những câu chuyện mà mỗi bà mẹ thường kể cho con nghe hay bắt đầu bằng câu “Ngày xửa ngày xưa..”. Đất nước còn là những tập quán lưu giữ từ ngàn đời nay, biểu hiện ở miếng trâu bà ta vẫn ăn, hay thói quen “bới tóc sau đầu” của mẹ. Đất nước còn là mối quan hệ thủy chung son sắt giữa người với người cùng sống trên dải đất Việt Nam này Điều này, trước hết được chứng minh bằng quan hệ bền vững trước sau của mẹ với cha - của vợ với chồng. Trong căn nhà đơn sơ, bao thế hệ người Việt Nam đã sinh con đẻ cái, cần mẫn, lam lũ sớm trưa không bao giờ thiếu mái rạ, cây tre. Trong căn nhà rất đỗi quen thân ấy không thể thiếu cái kèo, cái cột... Đây cũng chính là Đất Nước! Cái mới lạ, sức hấp dẫn ở đoạn thơ này chính là cách nói hết sức bình dị cùa nhà thơ. Điều này đã khơi dậy trong tiềm thức sâu xa của người đọc những kì niệm, những ấn tượng về một quê hương Việt Nam, con người Việt Nam quen thuộc gần gũi mà bất kì một người đọc nào cũng đã từng chứng kiến khiến họ không khỏi bồi hồi xao xuyến nhận ra: Trong đất nước có một phần máu thịt của mình. 48
Tiếp tục mạch cảm hứng ở khổ đầu, đến khổ thơ tiếp theo, nhiều khi Nguyễn Khoa Điềm tách riêng hai yếu tố đất và nước. Đất Nước chính là sự hợp thành của hai yếu tố đất và nước. Nó luôn gần gũi với cuộc sống mỗi người: Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm Đất Nước là nơi ta hò hẹn Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi Tiếp theo, nhà thơ cảm nhận đất nước qua độ dài vô tận của “thời gian đằng đẵng” lẫn độ dài vô tận của “không gian mênh mông”. Và thời gian không chỉ dài mà điều quan trọng hơn là trên nền thời gian ấy đã có bao biến thiên lịch sử vừa chân thực vừa phảng phất huyền thoại. Đồng bào ta vẫn tự hào là con Rồng cháu Tiên, cha là Lạc Long Quân và mẹ là bà Âu Cơ. Như vậy thời gian chủ yếu được cảm nhận trong chiều sâu của lịch sử hình thành và phát triển của đất nước, của dân tộc. Không gian vừa là núi cao sông rộng, muôn trùng núi bạc, bát ngát biển khơi, lại vừa là nơi sinh sống của bao nhiêu người Việt Nam từ thế hệ này qua thế hệ khác: Những ai đã khuất, Những ai bây giờ, Yêu nhau và sinh con đẻ cái, Gánh vác phần người đi trước để lại. Dặn dò con cháu chuyện mai sau, 49
Hằng năm ăn đâu làm đâu. Cũng biết cúi đầu nhở ngày giỗ tổ. Đất nước gắn bó thân thiết với mỗi con người, khi tuổi ấu thơ (“Đất là nơi anh đến trường - Nước là nơi em tắm”) cũng như khi ta lớn hơn bước vào đời \"Yêu nhau và sinh con đẻ cái”). Bởi vậy, như một tất yếu, mỗi thành viên phải có nghĩa vụ đối với đất nước. Nhờ sự dẫn dắt ở phần trên, nhờ xúc cảm chân thành, lời nhắn nhủ có vẻ như là “hô khẩu hiệu” của tác giả, ở phần sau được người đọc chấp nhận một cách khá tự nhiên, rất ít có cảm giác sống sượng. Em ơi em, Đất Nước là máu xương của mình, Phải biết gắn bó và san sẻ, Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời... Như vậy, đất nước được cảm nhận một cách khá phong phú, có sự kết hợp hài hòa trên nhiều lĩnh vực: những phong tục lâu đời, những truyền thống văn hóa, giữa không gian và thời gian, giữa cá nhân và cộng đồng, giữa cái to lớn, hùng vĩ với những sinh hoạt thường nhật của mỗi một con người. Nếu một số tác phẩm trước đây, đất nước được biểu hiện bằng một giọng điệu trang trọng, uy nghi, chủ yếu với những hình ảnh lớn lao, thì ở Mặt đường khát vọng đất nước được thể hiện bằng những hinh ảnh gần gũi với một giọng thơ thiết tha lắng đọng, ý thơ phát triển một cách khá tự do, tự nhiên: nhưng đoạn thơ vẫn đảm bảo được kết cấu hợp lí. Điều đặc biệt đáng lưu ý là tác giả đã sử dụng một cách hết sức linh hoạt, sáng tạo vốn hiểu biết phong phú về văn hóa dân gian. Chẳng hạn, muốn diễn đạt ý tưởng đất nước 50
Search