Cổng làng Mông Phụ Trong mỗi làng, mỗi xóm lại có hàng trăm ngôi nhà cổ có niên đại lâu đời. Những ngôi nhà có mái ngói hình cánh diều xếp đều tăm tắp được phủ bóng rêu phong trầm mặc. Những ngôi nhà ấy là nơi sinh hoạt, trú ngụ của nhiều thế hệ. Có nhà còn hiện hữu cuộc sống của 3-4 thế hệ. Nhà được xây cất bằng những vật liệu truyền thống của địa phương xứ Đoài như: đá ong, đất nện, bùn, gỗ xoan, mít, tre, nứa, rơm, rạ, trấu. Nhà thường được kết cấu theo kiểu 5 gian hay 7 gian 2 dĩ. Gắn liền với nhà là những công trình phụ như: giếng khơi đá ong, vườn, bình phong, cổng có mái che, hai cánh có tay nắm then cài, chuồng trại nhỏ nuôi gia súc, gia cầm. Nhà cổ cũng là nơi bảo tồn, lưu giữ nhiều đồ vật, hiện vật sinh hoạt quý giá và cũng có cả những đồ dân dụng rất mộc mạc của gia đình, dòng họ. Các lễ hội diễn ra tại các di tích trong di sản văn hóa Làng cổ ở Đường Lâm cũng rất đa dạng, hội tụ bảo tồn các yếu tố truyền thống của dân tộc như: dịp mùa xuân có lễ hội ở đình Mông Phụ (mùng 8 đến mùng 10 tháng 1 âm lịch), lễ tưởng niệm ngày mất của Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng (mùng 8 tháng 1 âm lịch), lễ tế ở nhà thờ họ Phan (18/1 âm lịch), hội vật ở chùa Ón (3/3 âm lịch), lễ hội ở đình 51
Cam Thịnh (12/1 âm lịch), đình Đông Sàng (15/1), lễ Phật Đản ở chùa Mía (8/4), lễ tưởng niệm ngày mất của Sứ thần Thám hoa Giang Văn Minh (2/6 âm lịch), lễ tưởng niệm ngày mất của Vua Ngô Quyền (14/8), hay ngày mất của Bà chúa Mía ở đền Phủ đêm cuối năm 30 tháng chạp…. Song song với lễ hội là nhiều hoạt động khác được diễn ra như: các tiết mục văn hóa văn nghệ, trò chơi dân gian, thư pháp, cờ người, hội thi gà Mía, múa lân rồng, sư tử, tổ tôm điếm… Làng cổ ở Đường Lâm còn được thiên nhiên ban tặng cho một bức tranh cảnh quan môi trường vô cùng sinh động, thay đổi biến hóa theo mùa và khoảnh khắc thời gian của khí hậu vùng bán sơn địa như: cảnh quan của 36 gò đồi, 18 rộc sâu, vài chục giếng cổ, các cây, hàng cây cổ thụ, ao hồ, ngõ xóm tiêu biểu cổ kính, rồi cả dòng sông Tích uốn lượn trên đường vào “Ấp hai vua”, là những cái tên rất quen thuộc, gần gũi vẫn luôn được người dân thôn quê gọi lên như: Lồ Cang, Áng Độ, suối Mẻ, đồng Sấu, đồng Bường, mũi giáo. Rồi cả những cái tên gắn với thời hiện đại như: Lò phấn, Thương nghiệp. Chính những cảnh quan tài sản quý báu hội tụ yếu tố vô hình và hữu hình, đó đã là đề tài vô tận để tạo ra cảm hứng cho rất nhiều văn nghệ sỹ cho ra đời những tác phẩm văn học nghệ thuật hay như: thi, ca nhạc, họa, phim, nhiếp ảnh… Đến với Làng cổ ở Đường Lâm sau một chuyến hành trình tham quan các di sản, các du khách không thể bỏ qua những sản phẩm ẩm thực mang đậm hương vị của làng quê Việt Nam đang được những người dân nơi đây bảo tồn, gìn giữ và phát triển, đó là kẹo bánh các loại (như kẹo dồi, kẹo lạc, kẹo bột, kẹo vừng, chè lam, chè kho, bánh gai, tương nếp, tương ngô), các món ăn trong mâm cỗ (có: thịt gà Mía, thịt quay đòn lá ổi), những loại nông sản, vật nuôi, nguyên liệu để làm nên những món ngon, quý ở Làng cổ Đường Lâm được người dân nuôi nấng, chăm sóc từ chính đồng đất, ruộng vườn quê mình. Ngày nay, nó đang dần có những thương 52
hiệu và tạo dựng uy tín cao trong lòng mỗi thực khách giữa thời đại công nghiệp hiện đại và khoa học phát triển không ngừng ở giữa vô số sản vật, hàng ngày được thưởng thức, mỗi ai về với Đường Lâm một lần thì chắc chắn sẽ bị chinh phục bởi những sản phẩm ẩm thực của người dân nơi làng quê đất cổ có một không hai này. Quê hương Đường Lâm còn là nơi sản sinh và nuôi dưỡng rất nhiều anh hùng hào kiệt, danh nhân khoa bảng. Họ đã cống hiến công sức, trí tuệ, tài năng, làm rạng danh non sông đất nước. Thời nào cũng có người hiền tài, có thể kể đến các vị anh hùng kiệt xuất như: Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng (thế kỷ thứ VIII), Tiền Ngô Vương Ngô Quyền (thế kỷ X), Sứ thần Thám hoa Giang Văn Minh (thế kỷ XVI), Bà chúa Mía Nguyễn Thị Ngọc Dong (thế kỷ XVII), cụ Phó bảng Kiều Oánh Mậu (thế kỷ XIX – XX), Khâm sai đại thần – Phó Thủ tướng – Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phan Kế Toại, cố Bộ trưởng Bộ Thủy lợi Hà Kế Tấn, họa sỹ tài hoa Phan Kế An, cùng rất nhiều vị danh nhân khoa bảng hiền đức khác. Với những giá trị văn hóa lịch sử, kiến trúc nghệ thuật quý báu tiêu biểu đó, quần thể di tích Làng cổ ở Đường Lâm đã vinh dự được Nhà nước công nhận là Di tích Kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia vào ngày 28/11/2005. Cùng với rất nhiều di sản văn hóa của Thủ đô ngàn năm văn hiến, di tích Làng cổ ở Đường Lâm, thị xã Sơn Tây đang là điểm đến thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước. 53
Chùa Mía tọa lạc trên mảnh đất xứ Đoài giàu truyền thống, nơi hội tụ quần thể di tích gồm nhiều đền chùa, miếu mạo, phản ánh quá trình xây dựng và gìn giữ một vùng đất văn hiến lịch sử. Chùa Mía tên hiệu là “Sùng Nghiêm Tự”, nằm trên thế đất cao của làng Đông Sàng (xã Đường Lâm, Thị xã Sơn Tây), cách Hà Nội gần 50 cây số về phía tây theo đường Quốc lộ 32. Tòa bảo Tháp Cửu Phẩm Liên Hoa Từ tam quan theo một lối đi lát gạch cổ đến Bát Nhã môn để vào nội điện 54
Thế kỷ XVII, chùa bị hư hỏng nghiêm trọng. Năm 1632, Cung phi Nguyễn Thị Ngọc Dung - một người con của làng quê Đông sàng đã đứng ra khuyến mộ thiện nam tín nữ các làng Đông Sàng, Mông Phụ, Cam Thịnh, Cam Toàn… các làng thuộc Tổng Mía cùng tôn tạo lại. Cung phi Ngọc Dung còn gọi là Ngô Thị Ngọc Diệu, là phi tần trong phủ chúa Trịnh Tráng (1623-1657) vốn là người làng Nam Nguyễn (Nam An). Nhân dân trong vùng mến mộ uy đức của bà, đã tạc tượng đem thờ ở chùa. Người dân nơi đây tôn sùng bà là “Bà Chúa Mía”. Về sau, chùa được tu bổ nhiều lần, nhưng đến nay từ quy mô đến kiến trúc của chùa vẫn được giữ gần như nguyên vẹn. Tấm bia dưới gác chuông ghi năm Vĩnh Tộ thứ ba (1621) nói về việc tu sửa tôn tạo lại các hạng mục trong chùa. Với công lao to lớn với việc tu bổ chùa nói riêng và xây dựng các công trình của vùng quê nói chung, khi qua đời, bà đã được nhân dân tạo dựng để yên vị trong một nơi trang trọng (nhà Tiền đường) của chùa để cho khách thập phương và nhân dân mỗi lần đến thăm Chùa được có cơ hội tri ân công đức, tài năng của Bà. Sùng Nghiêm Tự (chùa Mía) còn tọa lạc trên vùng đất có tên là Kẻ Mía, gắn với một địa danh phát triển thương mại, giao lưu thời phong kiến (giống như Kẻ Lôi, Kẻ Sặt, Kẻ Mơ, Kẻ Bùng… ở các địa phương khác). Ngoài tên ngôi chùa cổ kính giá trị này còn có những tên công trình khác nữa như: rạch Phủ, đền Phủ, chợ Mía, gà Mía. Ngược dòng lịch sử, vùng đất này còn là nơi xuất xứ cội nguồn của cây Mía, gắn với một câu chuyện huyền thoại của công chúa- con Vua Hùng Vương thứ 6 – nàng Mị Ê (Sau khi dâng vua cha món quà của thiên nhiên trong một chuyến vi hành. Vua đã cảm kích mà đặt tên cho loài cây này bằng chính tên con gái của mình. Sau này, do truyền thống không phạm húy vào tên chính thức nên Nhân dân thường gọi chệch đi từ cây Mi Ê thành cây Mía. Theo nghiên cứu của một số nhà khoa học về vùng đất cổ, nơi đây có nghề trồng Mía kéo mật làm mạch nha phát triển, sản phẩm hấp dẫn nhiều thương lái xa gần và người Trung Quốc đến mua. Ngày nay, con đường đi vào chùa Mía đã được xây đắp lại, đẹp và sạch sẽ hơn. Từ trung tâm Thị xã Sơn Tây, đi khoảng 5 cây số là đến cổng chùa. Từ chùa 55
Du khách có thể nhìn thấy chợ Mía, xưa là ngôi chợ nhỏ, để người dân trong vùng buôn bán nông sản, cây giống, con giống cũng như các dụng cụ sản xuất nông nghiệp, đời sống sinh hoạt thường nhật của Nhân dân. Cấu trúc chùa Mía gồm các tòa tam quan, chính điện, thượng điện, nhà tổ, hành lang san sát, nối kề nhau theo hình chữ Mục. Bước qua cổng Tam quan, nhìn sang bên phải, du khách sẽ nhìn thấy cây đa cổ, gốc to khít vòng tay mấy người ôm, rễ cây rắn chắc nổi lên trên mặt đất cùng với gốc cây là một số giống thực vật tầm gửi khác. Đối đỉnh với ngọn đa già là tòa bảo tháp cử phẩm Liên hoa. Tòa tháp này mới được xây dựng để thờ vọng Xá lợi Phật. Đây cũng là ngọn Tháp bút, Kính thiên, được coi là trấn giữ cho mạch văn của làng quê được an lành và phát triển. Cũng như sự thành công của con đường đèn sách của làng. Đi vào bên trong là khu nội điện gồm tiền đường, đại hùng, bảo điện, thượng điện được cấu trúc theo kiểu “Nội công ngoại quốc” rất bề thế, uy nghiêm. Cổng Tam Quan đơn giản, mộc mạc được tán cây đa già che chở, hẳn nhiều người đều có cảm giác dường như mảnh đất này không hề chịu tác động từ thế giới bên ngoài. Chùa Mía giản dị ngay từ cái nhìn đầu tiên, để du khách khi bước vào mới thấy vẻ đẹp này mấy nơi có được. Chùa Mía không ồn ào bởi nhiều dịch vụ trong cúng lễ như ở các đền chùa khác, không sơn son thếp vàng như những ngôi chùa phương Nam, đặc biệt là có một số lượng lớn tượng cổ được tạc đắp bằng các loại vật liệu tiêu biểu vùng châu thổ sông Hồng.. 56
Theo thống kê hiện trong chùa Mía có rất nhiều tượng, có 287 pho tượng lớn nhỏ, trong đó có 6 pho tượng đồng, 106 pho tượng gỗ và 174 pho tượng bằng đất luyện được sơn son thếp vàng. Các pho tượng này dù được đúc, nặn, hay được chạm khắc cũng đều thể hiện tính nghệ thuật cao qua sự khéo léo, tài hoa của những người thợ xưa. Mỗi pho tượng mang tính nghệ thuật cao Tượng La Hán chùa Mía 57
Nhiều pho tượng được xem như những tác phẩm nghệ thuật tạo hình ở Việt Nam. Điển hình nhất là ở tòa thượng điện có một bộ tám pho tượng Bát Bộ Kim Cương làm bằng đất luyện. Mỗi pho tượng trong bộ này là hình tượng một võ tướng đang trong tư thế chuẩn bị chiến đấu để trừ tà bảo vệ phật pháp. Vị tượng Khuyến Thiện, Trừ Ác, Tượng Phật Tổ, Thích ca Niết Bàn, Quan Âm Tống Tử, Đức Phật Di Lặc. Chiêm ngưỡng những vị phật được bài trí (từ ánh mắt, nét mặt, dáng điệu, vầng trán…) thể hiện vai trò vị trí của mỗi vị trong cõi Phật: từ đáng tối cao đến hiền từ, đức độ, hoan hỷ, nghiêm khắc, nhân ái, hòa đồng cảm thông. Ngoài việc bài trí, lưu trữ tượng phật, các hiện vật, đồ thờ quí, trong không gian của chùa cong bảo tồn và lưu giữ một số hiện vật quý như: Chuông, bia đá ... Với những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc độc đáo, với quy mô bề thế và đẹp, chùa Mía đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1964 – trải qua quá trình tồn tại lâu dài chịu sự tác động của nhiều yếu tố như: các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, sự tác động của côn trùng, mối mọt, khí hậu thay đổi .... Chùa vẫn bảo tồn nguyên vẹn được các giá trị gốc và không gian cảnh quan. Hiện nay, di tích này đang là điểm đến thu hút sự tham quan tìm hiểu nghiên cứu của đông đảo du khách trong và ngoài nước. 58
Chùa Ón nằm ở giữa cánh đồng, cách cổng làng Mông Phụ vài trăm mét. Nhìn tổng thể di tích này giống một ngôi nhà nhỏ với mái ngói mũi ri rêu phong cổ kính, tường được xây bằng gạch chỉ mỏng, nung thủ công. Tên chữ Nôm của chùa là Ôn Hòa Tự. Không có tài liệu nào định mốc thời gian mà dân làng gọi tên chùa Ón. Cũng có nhiều câu hỏi tại sao gọi là chùa mà không có tượng Phật hay hiện vật quý nào được yên vị để thờ phụng. Vào ngày rằm, mùng 1 đầu tháng cũng hiếm khi thấy có người mang lễ vật ra cúng bái, hành hương (chỉ trừ ngày 3/3 và 1/4 âm lịch hàng năm). Trải qua nhiều lần tu bổ, trong đó lần gần đây nhất vào năm 2010, các hạng mục của chùa Ón được tu bổ tổng thể. Mỗi khi đến thăm nơi này, du khách thường được dân làng kể lại một giai thoại liên quan đến Chùa rằng: Ôn Hòa là tên một vị tướng người Tàu, khi mãn hạn làm quan ở Việt Nam, ông dành chút thời gian để đi vi hành đến đất Đường Lâm thì thấy cảnh đẹp. Ông bèn xin dân làng cho ở lại khai khẩn, trồng cấy nuôi thân. Sau nhiều năm chịu thương chịu khó tích lũy có bát ăn bát để, ông bèn dựng một ngôi nhà để trấn yểm long mạch cho làng. Vì xuất thân là một võ tướng, có tài võ nghệ nên vào những ngày rảnh rỗi, ông thường mời gọi thanh niên trai tráng trong làng ra để dạy truyền võ nghệ. Ngoài mục đích rèn luyện sức khỏe, còn là để đề phòng giặc giã, cướp bóc đến xâm hại làng xóm. Trước khi lâm chung, ông đã cho đúc quả chuông đồng khắc 4 chữ “Hồng chung ôn hòa”. Ngoài ra, trên 2 câu đầu của chùa, hiện vẫn còn lưu giữ những dòng chữ Hán Nôm, tạm đọc là “Khởi tạo Bính Dần niên, Quý xuân, Nhâm Tý nhật, Mão khắc động thổ, Bính cơ, Ất Mão nhật, Dậu thời, thu trụ thương lượng cát. Tạm dịch là: chùa 59
được khởi công năm Bính Thân, cuối mùa xuân, ngày Nhâm Tý, giờ Dậu bắc nóc và phú quý thọ khang (giàu sang, sống lâu, khỏe mạnh). Hội chùa diễn ra vào ngày 3/3 âm lịch hàng năm, cũng trùng với ngày tết Hàn thực của người dân nói chung ở các làng quê đồng bằng Bắc Bộ. Ngoài lễ vật được dân làng sửa soạn cũng lễ, bao gồm: xôi, gà thiến, oản quả, hương hoa thì nhất định trai làng Chùa Ón ở Đường Lâm phải khiêng quả chuông nặng 145kg từ trong đình Mông Phụ ra đây để đánh 3 hồi 9 tiếng (nhưng tổng cộng phải là 99 tiếng). Người nào được dân làng tín nhiệm sử đánh chuông phải dốc sức tâm niệm mà hoàn thành, nếu không là có lỗi với thánh thần. Sau khi cúng lễ xong, Ban tổ chức tiến hành các thủ tục để khai hội vật chàu Ón. Gọi là “hội” nhưng quãng thời gian tồn tại sôi nổi của nó chỉ kéo dài vài ba tiếng đồng hồ, từ 15h đến lúc xẩm tối là kết thúc. Thông thường, có nhiều người tham gia đấu vật, chủ yếu là trai làng và các vùng lân cận. Vào ngày 1/4 âm lịch, ở nhiều nơi khác, dân làng cũng tổ chức lễ vào hạ tại các di tích, tại làng Mông Phụ, song song với việc tổ chức cúng lễ trong đình Mông Phụ, có món lễ vật là cháo cũng được mang ra đây để dâng quan Thần Ôn. Cháo được múc ra những cái gọi là bù đài lá đa, cầm dọc từ chùa Ón ra đến đường cái chính. Xưa kia, mỗi dịp vào hè, khu vực làng quê thường phải gánh chịu những nạn dịch, sâu bệnh, gây nên thất thu hoa màu, thời tiết nóng bức dễ sinh bệnh, ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Thế nên, cũng lễ ở ngày này cũng thể hiện ý nghĩa là cầu mát (một mùa hè ít nóng nực) và cầu an (một mùa hạ an lành). Tuy di tích đơn sơ, nhỏ bé nhưng là tài sản văn hóa quý của dân làng, đã được bao thế hệ người dân gây dựng, gìn giữ. Trải qua những giai đoạn lịch sử, di sản nay vẫn tồn tại giữa cánh đồng với màu sắc trầm mặc rêu phong cổ kính chứng kiến biết bao đổi thay của cuộc sống, con người làng quê nơi đây. 60
Đền thơ vua Phùng Hưng Phùng Hưng quê ở thôn Cam Lâm, xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây. Tương truyền, ông là người có sức khỏe phi thường, đánh được hổ, vật được trâu. Cha ông là Phùng Hạp Khanh - một người hiền tài đức độ. Theo sự tích, ông bà sinh được ba người con trai khôi ngô khác thường, lớn lên ai cũng có sức khỏe, có thể kéo trâu, quật hổ. Anh cả là Phùng Hưng, là người có sức khỏe và khí phách đặc biệt. Phùng Hưng nối nghiệp cha trở thành hào trưởng đất Đường Lâm. Khoảng từ 61
766-779, Phùng Hưng tập hợp nghĩa quân, xưng là Đô Quân, đứng lên chống lại ách đô hộ của nhà Đường. Sau nhiều năm dấy binh, nghĩa quân của Phùng Hưng đã vây đánh và chiếm được thành Tống Bình. Ông giữ quyền tự chủ được 7 năm rồi mất (791). Ông được nhân dân suy tôn là Bố Cái Đại Vương. Để ghi nhớ công ơn vị anh hùng dân tộc, nhiều nơi nhân dân đã xây dựng đền, đình phụng thờ Ngài, nhưng được mọi người biết đến nhiều nhất là đền thờ tại thôn Cam Lâm, xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây ngày nay. Đền Phùng Hưng nằm ở vị thế đắc địa, có án tựa, tay ngai, trên gò đất cao giữa làng, xung quanh là làng xóm dân cư đông đúc; nhìn ra dòng sông Tích quanh năm êm đềm. Lối vào đền thờ vua Phùng Hưng - Bố Cái Đại Vương Bước vào đền chúng ta chúng ta bắt gặp đôi cột trụ dáng cao vút, trên thắt cổ bồng, đường gờ, ô đèn lồng, trên đắp đôi nghê chầu tạo dáng vẻ gần gũi với bản sắc văn hóa dân tộc; trên thân cột có ghi câu đối ca ngợi công đức của Phùng Hưng. Hai bên là tả hữu mạc. Qua một khoảng sân rộng, bước lên bậc tam cấp là vào tới đại bái của đền. Đây là tòa nhà 5 gian, xây theo kiểu tường hồi bít đốc, trên lợp ngói mũi hài. Vì nóc làm theo kiểu chồng rường giá chiêng. Có 08 đầu dư được chạm trổ tinh xảo, bờm thẳng mập, râu uốn vòng bay về phía sau, đôi mắt tròn, 62
sáng, mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XIX. Cửa ra vào làm kiểu cửa bức bàn bào trơn đóng bén. Gian giữa được bài trí một ban thờ có hương án, trên có bức đại tự ghi bốn chứ Hán (Trác lập đế vương), hai bên là đôi lọng thêu kim tuyến, phía trước là hai hàng bát bửu tạo nên sự uy nghiêm khi chúng ta chuẩn bị bước vào hậu cung nơi. Nằm song song, phí trong tòa Đại bái, đi qua một khoảng sân lọng là Hậu cung. Đây là tòa kiến trúc gồm 3 gian, được xây kiểu đầu hồi, bít đốc tay ngai, ngoài làm cột trụ đèn lồng, thể hiện sự bền chắc, thâm nghiêm, tôn kính. Đặc biệt trên đỉnh cột trụ đắp hình bầu rượu hứng nước trời để sự sống trường sinh bất tử. Nước – Trời - Đất thể hiện sự hòa hợp, cân bằng của tự nhiên, cho ta cảm giác thanh thản, tâm linh trong sáng. Phía trong hậu cung có đặt tượng thờ Bố Cái Đại vương Phùng Hưng uy nghi được tạo tác bằng đồng. Ngôi đền còn tồn tại hiện nay đã được trùng tu lớn vào thế kỷ XIX gồm các hạng mục: Nghi môn, tả - hữu mạc, đại bái, hậu cung. Xung quanh là vườn cây cổ thụ biểu thị cho sự trường tồn, vĩnh cửu. Đền Phùng Hưng hiện còn lưu giữ được nhiều đồ thờ có giá trị văn hóa, lịch sư như: 1 cuốn thần phả, 13 đạo sắc phong (trong đó có 1 đạo sắc năm Chính Hòa thứ 4 (1683), 1 đạo năm Cảnh Thịnh thứ 4 (1796), 1 đạo Chiêu Thống thứ Nhất (1787) và nhiều sắc phong vào các triều đại Gia Long, Tự Đức, Thiệu Trị, Minh Mệnh, Duy Tân…); 2 bức hoành phi, 1 cỗ kiệu bát cống, hương án…Đền đã được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia. Đền Phùng Hưng là một điểm di tích nằm trong quần thể di tích làng cổ ở Đường Lâm, đây là nơi ghé thăm không thể thiếu của du khách mỗi dịp đến Đường Lâm Đặc biệt vào dịp Tết đến, xuân về, với tấm lòng kính trọng và đạo lý uống nước nhớ nguồn, vào ngày giỗ của Ngài - mùng 8 tháng Giêng âm lịch, Nhân dân lại mở hội tưởng nhớ “Bố cái Đại Vương” Phùng Hưng. 63
Xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây là nơi Lăng mộ Ngô Quyền được mệnh danh là vùng đất “địa linh nhân kiệt”, “một ấp hai vua”. Nơi sinh ra hai vị anh hùng dân tộc là Đức Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng và vua Ngô Quyền. Nơi đây có đền thờ và lăng mộ vị vua lừng danh trong lịch sử dân tộc, người nổi tiếng với vai trò vị tổng tư lệnh chỉ huy trận Bạch Đằng lịch sử năm 938, đánh đuổi quân Nam Hán ra khỏi bờ cõi, mở ra một thời đại mới, độc lập, tự chủ cho dân tộc Việt Nam, đó là vua Ngô Quyền. 64
Đền và lăng Ngô Quyền được xây dựng trên một đồi đất cao, có tên là đồi Cấm, mặt hướng về phía Đông. Đền thờ được xây ở phía trên, cách lăng khoảng 100m. Phía trước lăng là một cánh đồng rộng nằm giữa 2 sườn đồi; một nguồn nước gọi là vũng Hùm chảy ra sông Tích; bên cạnh đó là đồi Hổ gầm, tương truyền xưa là nơi thuở nhỏ Ngô Quyền thường cùng bạn chăn trâu, cắt cỏ và tập luyện võ nghệ… Đây có lẽ là vị trí đẹp nhất của ấp Đường Lâm xưa. Đền thờ Ngô Quyền được xây dựng từ lâu đời gồm: Nghi môn, tả mạc, hữu mạc, đại bái và hậu cung. Đền được xây bằng gạch, lợp ngói mũi hài, có tường bao quanh. Đại bái đền thờ là một nếp nhà 5 gian, bộ khung bằng gỗ, được thể hiện chủ yếu thiên về sự bền chắc, tôn nghiêm; gian giữa có treo bức hoành phi đề bốn chữ Hán “Tiền vương bất vong”. Hiện nay, đại bái còn được dùng làm phòng trưng bày về trận chiến thắng trên sông Bạch Đằng và thân thế, sự nghiệp của Ngô Quyền. Hậu cung là một ngôi nhà dọc 3 gian, bộ khung nhà bằng gỗ được trang trí tứ linh, hoa, lá... Gian giữa bài trí tượng thờ Ngô Quyền, long ngai, bài vị, hương án, quanh năm nghi ngút khói hương.Lăng mộ Vua Ngô Quyền được xây dựng năm nào, hiện chưa tìm thấy một tấm bia đá nào khắc ghi chi tiết quan trọng này. Tấm bia đá duy nhất ở lăng ghi niên hiệu Tự Đức năm 27 (1873). Toàn bộ khu lăng mộ hình vuông, mỗi cạnh dài 9,89 m, được chia làm 2 phần: Lăng mộ và khuôn viên. Toàn bộ xung quanh riềm bức tường bao quanh và các thân trụ đỡ nhà che lăng mộ đều trang trí các hình tượng hoa văn cách điệu giản dị nhưng không kém phần trang trọng, vừa gần gũi, vừa tôn nghiêm. Nhà che lăng mộ cao khoảng 1,5m, dựng bằng gỗ quý, 4 mái lợp ngói mũi hài. Đầu đao mỗi mái đều uốn cong, trang trí cách điệu và được gắn mảnh sứ quanh riềm. Lăng hoàn toàn được xây kín, hình vuông, mỗi chiều dài 65
4m. Bức tường thân lăng bao xung quanh có chiều cao 2m. Trung tâm lăng mộ, phần linh thiêng nhất có gắn tấm bia đá khổ 54cm x 118cm, có khắc 4 chữ “Tiền Ngô Vương Lăng” với niên hiệu Tự Đức năm thứ 27 tháng 11 ngày 25. Hai bên là hai bức phù điêu hình tượng rồng bay đậm phong cách thời Nguyễn, có gắn các mảnh sành trang trí trên thân rồng, mặt sau được che chắn bằng bức phù điêu hình tượng mặt hổ phù. Nơi đây đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia. Hàng năm cứ đến ngày 14 tháng 8 âm lịch - ngày giỗ Vua Ngô Quyền - nhân dân trong vùng lại về đây để tưởng nhớ công ơn của ông - vị vua “đã mở nước xưng vương”, kết thúc hơn 1.000 năm Bắc thuộc, mở đầu một thời đại mới, độc lập, tự chủ cho lịch sử dân tộc. Tứ trụ tại Đền Ngô Quyền 66
Cổng làng Mông Phụ Từ thị xã Sơn Tây xuôi theo quốc lộ 32 khoảng 4,5km, rẽ trái theo con đường đã được trải nhựa mềm mại khoảng chừng 400m, ta bắt gặp cổng làng Mông Phụ một biểu tượng văn hóa của Đường Lâm nói riêng và Sơn Tây xứ Đoài nói chung. Đây là cổng làng cổ duy nhất còn tồn tại tương đối nguyên vẹn của Đường Lâm. Bước qua cổng làng, ta sẽ thấy những bờ tường đá ong đã rêu phong, những ngôi nhà cổ san sát nhau. Vào đến giữa làng ta sẽ bắt gặp một ngôi đình lớn, cổ kính, tọa lạc ở vị trí trung tâm của làng, trên một khoảng đất thoáng đãng, rộng rãi. Đó là đình Mông Phụ thuộc thôn Mông Phụ - một di tích đã được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia. Dân gian vẫn hay nhắc tới “Cầu Nam, chùa Bắc, đình Đoài” Đình ở xứ Đoài vốn nổi tiếng với kiến trúc đẹp, cổ kính. Đình Mông Phụ là một trong những ngôi đình cổ kính ấy. 67
Đình, chùa là nơi linh thiêng, tín ngưỡng. Ông cha ta khi xây dựng đình, chùa thường chọn thế đất đắc địa nhất, phong thủy tốt nhất. Tương truyền rằng đình Mông Phụ được xây dựng trên thế đất đầu rồng, ở vị trí cao nhất của Làng, hai bên có hai giếng là hai mắt rồng, hai lối nước chảy Đình Mông Phụ ngày nay là hai râu rồng, đuôi rồng vắt về phía xóm Sải. Có phải vì nằm ở vị trí đắc địa mà dân làng Mông Phụ luôn phồn thịnh và phát triển, đất địa linh sinh nhân kiệt. Đặc biệt, trước sân đình là một “ngã sáu” dù đi hay đến và bắt đầu từ đâu cũng không ai quay lưng lại với hướng chính của Đình, đó quả là sự tinh tế trong xây dựng đồng thời cũng là biểu hiện lòng thành kính về mặt tâm linh của làng. Điều đó cũng thể hiện sự tinh tế của người xưa khi chọn vị trí dựng đình thờ thành hoàng làng - vị thần bảo trợ cho dân làng nơi đây. Đình làng Mông Phụ thờ vọng Tản Viên Sơn Thánh - vị thần đứng đầu trong “Tứ bất tử” của người Việt làm Thành Hoàng làng cùng với thần làng phù trợ cho dân luôn bình an, thịnh vượng. Đình hướng Tây Nam, mang ý nghĩa đề cao đức Thành hoàng làng và hướng về cái đẹp, cái thiện trên nền tảng trí tuệ. Cùng với các di tích nổi tiếng khác như chùa Mía, nhà thờ Thám hoa Giang Văn Minh, đền và lăng Ngô Quyền, đền Phùng Hưng, đình Mông Phụ là một điểm sáng về văn hóa, một công trình kiến trúc cổ có giá trị nghệ thuật cao ở miền quê còn lưu giữ được đậm nét văn hóa của vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Theo nhiều nghiên cứu, thì đình Mông Phụ được xây dựng vào thời kỳ Hậu Lê. Đình đã qua nhiều lần tu bổ, tôn tạo và đến nay vẫn giữ nguyên dạng kiến trúc, điêu khắc đầu thế kỷ XIX. Đình được xây dựng theo kiểu chữ Công (I); gồm Nghi môn, Tả mạc, Hữu mạc và Đại đình. Tiêu biểu nhất là kiến trúc của tòa Đại đình. Đại Đình được xây dựng theo lối kiến trúc Việt Mường là lối nhà sàn kết hợp với những hàng lan can hình 68
con tiện bao quanh, phía trước và hai bên đình để trống. Đại bái gồm ba gian hai chái nối chuôi vồ với Hậu Cung theo kiểu “Thượng chồng rường, giá chiêng kẻ bẩy” với sáu hàng chân cột với 48 cột lớn nhỏ bằng gỗ lim, bưng sập gỗ. Đình còn lưu giữ được rất nhiều những bức trạm khắc có giá trị với những họa tiết rồng, lân, cá chép, chim, hoa lá sống động, mang đậm dấu ấn kiến trúc thời Lê - Nguyễn, chính giữa là cửa võng để thờ, trang trí hình “ lưỡng long chầu nguyệt” được sơn son thếp vàng cùng một ban thờ lớn trang trí hình rồng, hổ phù, chữ thọ, mây, lá... góc bên phải nổi bật là bức chạm khắc mang chủ để “Lão long huấn tử”. Là hình ảnh bốn chữ trong cuốn sách mở ra, như một sự trao truyền văn hóa, tinh thần hiếu học cho muôn đời sau. Mái đình to, hơi võng nhẹ, bờ nóc hơi cong, được lợp bằng ngói mũi hài; trên các góc mái được trang trí bởi các loài vật thuộc hàng “tứ linh” như rồng, lân… với những vân xoắn lớn. Nhìn chung, những họa tiết trang trí trên bộ mái đều gắn với vũ trụ; khiến cho mái đình, thân đình và dưới đất hợp thành một thể thống nhất, hòa hợp của Thiên (trời) - Địa (đất) - Nhân (con người). Hai bên sân Đình là hai nhà Tả, Hữu mạc. Một bên thờ quan ôn, quan đương niên và một bên thờ tổ tiên các dòng họ trong làng. Là hai dãy nhà ba gian hai dĩ với bốn mái lá, lợp ngói và được bưng sàn gỗ. Bên trong là Khánh Đồng, Khánh Đá đây là hai di vật còn lại của Văn Miếu Đường Lâm xưa hiện được lưu giữ tại Đình làng Mông Phụ. Nghi Môn được xây dựng theo kiểu cột trụ biểu kết hợp với các bức tường lửng bao quanh bằng gạch đá ong truyền thống. Hai cột lớn, trên đỉnh là hai con nghê đang nhìn xuống như kiểm soát tâm hồn kẻ hành hương. Hai cột nhỏ tạo tác hình hoa, bốn con rồng nhỏ chụm đầu vẫy đuôi, cùng với những câu đối bằng chữ Hán. Tất cả đều hướng lên gợi cảm giác thanh thoát, thoáng đãng. Đặc biệt đình Mông Phụ được xây dựng tại vị trí Trung tâm của làng, hai bên đình là hai cái giếng cổ được xây bằng đá ong, người dân nơi đây coi là hai giếng mắt rồng, phía trước đình là đường, ngõ lớn nhỏ tỏa đi các xóm trong làng, nhưng điều đặc biệt là tất cả mọi người khi qua lại các hướng không quay lưng vào phía cổng đình. Hàng trăm năm nay, đình Mông Phụ là niềm tự hào của người dân Đường Lâm nói riêng và Sơn Tây nói chung. Đứng trước ngôi đình này, chúng ta cảm thấy rõ ràng một dòng văn hóa xứ Đoài vẫn còn đang hiện hữu, như sự minh chứng của cái đẹp trường tồn trước thời gian. 69
Nhà thờ Thám hoa Giang Văn Minh 70
Giang Văn Minh sinh năm 1573 tại Ấp Mông Phụ. Ông thi đỗ Thám hoa khoá Mậu Thìn(Khoa thi không có Trạng Nguyên, Bảng Nhãn), đời Vua Lê Thần Tông năm 1628. Ông là người học rộng, tài cao, là nhà ngoại giao uyên bác, khảng khái, dũng cảm. Sau một thời gian được Triều đình cử đi trấn thủ ở vùng đất Nghệ An đến năm 1637, vua Lê cử Thám hoa Giang Văn Minh dẫn đầu đoàn đi sứ Trung Hoa. Trải qua một quãng đường hành trình vất vả, đoàn đi sứ đã đến được Bắc Kinh. Ông và những người tháp tùng phải ở lại dịch xá một thời gian dài. Nhờ vào tài thao lược thông minh nên ông mới được vào yết kiến vua Minh. Khi vào yết kiến, Vua Minh có ý thử tài sứ thần nước Việt nên ra một vế đối: “Đồng trụ chí kim đài dĩ lục” (Dịch nghĩa: Cột đồng đến nay đã phủ kín rêu phong). Vế đối của Vua Minh có ý ngạo mạn, nhắc đến việc Mã Viện xưa sang xâm lược nước ta, sau khi đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng đã cho dựng cột đồng khắc 6 chữ “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” (nghĩa là: cột đồng mà gãy thì dân Giao Chỉ diệt vong) như một lời nguyền Nhân dân ta. Nghe xong,Thám hoa Giang Văn Minh rất căm giận nhưng ông vẫn bình tĩnh đối lại: “Đằng giang tự cổ huyết do hồng” (Dịch nghĩa: Sông Bạch Đằng từ ngàn xưa máu vẫn còn đỏ). Vế đối đanh thép, tỏ rõ khí phách anh hùng và lòng tự hào dân tộc, nhắc cho Vua Minh nhớ lại ba lần sông Bạch Đằng nhuốm máu quân xâm lược phương Bắc: Chiến thắng quân Nam Hán của Ngô Quyền (năm 938), chiến thắng quân Tống của Lê Đại Hành (năm 981) và chiến thắng quân Nguyên Mông của Trần Hưng Đạo (năm 1288). Tưởng làm nhục được sứ thần nước Việt, ngờ đâu bị Giang Văn Minh làm nhục. Bất chấp luật lệ bang giao, vua Minh đã hèn hạ sai quân lính mổ bụng ông xem “Sứ thần An Nam to gan lớn mật thế nào”. Sau khi giết hại ông, vua Minh lại khen ông là người tiết tháo, bèn sai lấy thủy ngân ướp xác, cho ngậm nhân sâm và cho vào quan tài đóng kín giao cho phái bộ nước Nam chuyển thi hài ông về nước. Được tin Thám hoa Giang Văn Minh chết một cách anh dũng, Vua Lê và Chúa Trịnh vô cùng thương tiếc. Đích thân vua đã về quê ông ở làng Mông Phụ (Đường Lâm) dự lễ an táng và tặng ông mấy chữ: Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng có nghĩa là “Đi sứ mà chẳng làm nhục mệnh 71
vua, xứng đáng là bậc anh hùng thiên cổ” và truy phong cho ông chức “Công bộ Tả thị lang, tước Vinh quận công”. Hiện nay, ngôi mộ của Thám hoa Giang Văn Minh vẫn được họ tộc chăm chút cẩn thận tại xứ đồng Gò Đống - thôn Mông Phụ, được xây bệ gạch tay ngai, xung quanh có tường hoa bảo vệ. Cổng vào nhà thờ Thám hoa Giang Văn Minh Còn ngôi quán, nơi làm lễ an táng ông, được nhân dân địa phương gọi là quán Giang để ghi nhớ sự tích của vị sứ thần khảng khái đã làm vẻ vang cho đất nước. Năm 1845, Nhân dân trong vùng lập nhà thờ Thám hoa Giang Văn Minh để tưởng nhớ công lao của ông. Lần gần đây nhất Nhà thờ đã được tu sửa tổng thể bằng nguồn vốn của Nhà nước, công trình được thi công hoàn thành dưới sự giúp đỡ về kỹ thuật của các chuyên gia và tình nguyện viên thuộc cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản tại Việt Nam (JICA), công trình tu bổ này cũng vinh dự được nhận giải thưởng về kỹ thuật thi công chất liệu gỗ của Ủy ban UNESCO Châu Á – Thái Bình Dương trao tặng vào năm 2013. 72
Không gian đá ong đầy hoài niệm - Ảnh: Minh Hợp Nhà cổ ở Đường Lâm được xây cất bằng các vật liệu truyền thống đặc trưng của vùng xứ Đoài bao gồm đá ong, gỗ, tre, nứa, rơm rạ, bùn non, đất sét mịn, mùn cưa, trấu, gạch nung các loại. 73
Đá ong là loại vật liệu chính để xây các bước tường, đầu hồi, cổng hay tường rào, ngoài dùng để xây nhà ở, loại đá ong này còn được dùng để xây các công trình công cộng, văn hóa tín ngưỡng như: Cổng làng, đình, chùa, miếu, điếm, quán, giếng Tường đá ong ở Đường Lâm cổ…Với đặc điểm là nhà xây xong bảo đảm khí hậu thông thoáng, ấm áp về mùa đông, mát mẻ về mùa hạ, chính vì thế người ta còn gọi ngôi làng này là “làng Việt cổ đá ong”. Gỗ để làm nhà nếu xưa là nhà có kinh tế, vai vế trong làng thì họ cất bằng loại tứ thiết (đinh, lim, sến, táu). Còn thông thường những nhà có kinh tế vừa phải thì làm bằng gỗ xoan là chính. Nhà cổ thường quay mặt về hướng Nam, thiết kế theo kiểu 5 gian 2 dĩ, hay 7 gian 2 dĩ, được bố trí nhiều cửa quay vào trong. Cửa được làm chủ yếu 2 loại là bức bàn và cảnh phố. Loại kiểu bức bàn tạo cảnh tiện lợi khi nhà có việc lớn cần không gian thì gia chủ thường nhấc ra cho rộng rãi thêm và đặt cửa xuống làm phản ngồi, ăn cỗ. Nhà được bố trí 5 – 7 hàng chân, 2 cột cái và cái cột quân. Mỗi cột được đứng trên bệ kê đá xanh, phía giáp đất có hình vuông, phía đỡ cột có hình tròn (tượng trưng cho tư duy của người Á Đông – trời tròn đất vuông). Một số nhà cổ nhìn lên trần nhà cái dui, mè, đòn tay và kèo, xà nóc hay ngả màu, bồ hóng đen ấy là do xưa kia các nhà thường đốt lửa bằng bếp củi để sưởi ấm cho mùa đông, nhất là những dịp có người sinh nở, hay cụ già yếu, ốm… Nền nhà thường sử dụng chính là nền đất được nện, đầm cho chắc chắn, ngách cửa để thông cách ô cho thoáng nhà, cũng như dễ quan sát phòng bị khi có kẻ trộm (nhìn thấy chân của chúng) muốn đột nhập vào nhà. Gian giữa là nơi đặt các ban thờ người cao nhất trong 3 đời, 2 gian bên cạnh cũng đặt các ban thờ người quá cố trong dòng họ xếp theo thứ bậc (nếu là vị trưởng họ). Ban thờ có thể có nhiều bát hương và nhân vật hơn dưới bàn thờ các bộ sập hay phản bằng gỗ lim loại to bản, dày, 2 gian trái phải thường được kê các bộ 74
trường kỷ: 1 bàn 2 ghế dài để tiếp khách bằng ấm trà pha chè xanh, thường là tích nước ủ vào hũ kèm 6 cái bát xứ nâu, bình vôi, ăn trầu, cái điếu bát, ống đựng đóm. Phía dưới bàn là một vài thứ như cơi trầu, chén phụ, ấm pha trà tàu (chè búp khô), bình đựng vôi nhỏ, điếu bát hay một thùng gỗ nhỏ dựng chiếc điếu cày được làm bằng dóng tre giữ lại cái mấu. Hai gian buồng dành cho con gái hoặc con dâu, ngoài ra cũng là kho đựng thóc, nồi niêu, bát đũa, hòm rương nhỏ. Ngoài hiên nhà có đặt 1 hay 2 chõng tre (một vài nhà hiện còn giữ chiếc hòm gian kê ngay dưới bàn thờ chính). Hòm này xưa đựng 1 vài thứ quý, tư trang dụng cụ đắt tiền, nông sản giống (thóc nếp, tẻ, lạc đỗ…) tránh được chuột bọ xâm nhập. Các công trình khác liên quan đến nhà cổ cũng không thể không kể đến là nhà ngang, bếp, giếng nước, sân, vườn, bình phong, chuồng trại nuôi gia súc gia cầm, cổng vào, cây hương. Trong đó, bình phong và cây hương cũng có vai trò tâm linh quan trọng trong gia đình. Trong nhà cổ mỗi gia đình còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý như: Gia phả, tài liệu Hán Nôm, đồ thờ, hiện vật liên quan đến cuộc sống sinh hoạt như: đám cưới xưa, trang phục, tranh ảnh, dụng cụ sản xuất. Đặc biệt trên mái nhà hầu như nhà nào cũng có thước lỗ ban gác trang trọng ở gian giữa, ngoài vườn luôn xanh mát 4 mùa bởi những cây ăn trái lâu năm mùa nào thức ấy như lựu, doi, hồng xiêm, ổi, mít, bưởi, chanh, nhãn, vải, chuối. Làng cổ ở Đường Lâm hiện còn bảo tồn nhiều ngôi nhà cổ, trong đó nhiều nhất là ở thôn Mông Phụ và Đông Sàng. Những ngôi nhà này là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa đắc sắc ở Đường Lâm. Đường Lâm là làng cổ đầu tiên ở nông thôn trong cả nước được xếp hạng di tích quốc gia. 75
Ở làng cổ Đương Lâm ngoài những công trình giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể nổi tiếng quý báu trong đó có những giếng cổ đá ong nổi tiếng gắn với những ký ức không thể nhạt phai của các thế hệ dân làng, những kỷ niệm vui buồn, niềm kiêu hãnh, tự hào về quê hương, xứ sở địa linh nhân kiệt và cổ kính. Giếng đá ong ở Làng cổ Đường Lâm được phân bố ở khắp mọi nơi: nơi tín ngưỡng tâm linh (đình, đền, chùa, miếu, nhà thờ), nơi ở của các hộ gia đình. Từ xa xưa dân làng đã thăm dò nguồn nước và đào giếng. Tùy từng vị trí mà người ta thăm dò và cho đào giếng. Các mạch nước được lọc qua những tầng đá ong được kiến tạo tự nhiên của địa chất đặc biệt nơi đây, do đó giếng nước có độ trong, sạch, mát, lược bỏ được các tạp chất gây hại, đào đến đâu thì đất cứng đến đó, không vỡ hay bị méo hình tròn của giếng khi những thớ đất đã đào xong. Giếng của đình hay chỗ tâm linh thường rộng từ 3-5m, sâu 7-10m; miệng giếng được đặt những viên đá ong to nguyên khối hoặc từng tảng ghép lại vừa bền, chắc, sạch. Giếng tại gia đình thì có đường kính nhỏ hơn, chỉ từ 1,2 – 1,5m, độ sâu cũng tùy thuộc 5 – 7 – 9m. Giếng ở nơi công cộng như: đầu làng, xóm thì không có gầu múc, ai muốn sử dụng phải mang theo gầu. Giếng tại gia đình lúc chưa có tời kéo thì người ta phải dùng sức người kéo gầu (cũng mất nhiều sức). 76
Giếng ở nơi công cộng hay di tích thường đặt tên gắn với địa điểm như: giếng Đình, giếng Đồng, giếng Chùa. Giếng khơi, có một số tên giếng gắn với các xóm như: giếng xóm Đình, xóm Sui, xóm Sải, xóm Giang. Riêng giếng ở hai bên ngách đình Mông Phụ được ví như hai mắt rồng thiêng, giếng xóm Giang nổi tiếng là trong mát, pha trà ngon, uống ngọt “Nước giếng xóm Giang, khoai lang đồng Bường”. Giếng nằm ở trước cửa đình, chùa, miếu làm minh đường cho di tích theo thuyết phong thủy của đạo Nho, xung quanh thường được trồng một số cây cổ thụ như: đa, gạo, muỗm. Có những giếng xưa đào hình vuông (tượng trưng cho đất mẹ luôn nuôi nấng, thương yêu đàn con và in bóng những công trình cổ) và giếng hình tròn (giống hình mặt trời) có ý nghĩa ngày ngày luôn soi rọi ánh dương tỏa chiếu hòa khí âm dương. Việc đào giếng được người dân trong làng xem xét, bàn bạc rất kỹ, như phải xem vị trí địa lý, phong thủy nơi đặt thấu đáo để chọn được mạch nước trong mát, ngọt lành; mạch nước phải đảm bảo tuôn chảy quanh năm. Đầu năm, người ta có phong tục tát giếng để tiếp nhận sinh khí, thịnh vượng mới và cũng vào sáng sớm mồng 1 Tết, nhiều nhà ra giếng làng gánh nước đổ đầy các bể, chum, vại, thùng dự trữ để hy vọng vào một năm gia đình, dòng họ có thật nhiều phúc đức, đại lộc, vì theo phong tục 77
tín ngưỡng của làng thì giếng làng là nơi sâu nhất, nơi hội tụ, chứa đựng sức sống, tài lộc (mạch nước ngầm chảy mãi). Theo tâm sự của nhiều cụ già thì lòng giếng là tấm lòng của con người, của dân làng, cũng như bản chất là: con người bao dung, nhân ái, giếng làng không chất chứa thù hận với những gì đã trải qua. Ở làng cổ Đường Lâm còn có một giếng cổ rất nổi tiếng, đó là “Giếng sữa” hay còn gọi là giếng Chuông Sa ở thôn Cam Lâm. Vào thời loạn lạc, khi nơi đây vẫn là vùng núi hoang sơ, một em bé mới chào đời bị bỏ rơi khát sữa khóc ngằn ngặt dưới chân đồi. Một bà lão đi ngang qua chứng kiến nhưng không biết làm thế nào để cháu bé nín. Bà chỉ biết bế cháu bé trên tay đi dọc đường với hy vọng tìm được nhà dân để xin nước. Đi mãi cũng không thấy bóng người, tới một thung lũng dưới chân đồi Cấm, bà thấy một mạch nước róc rách chảy từ trong hang đá bèn mớm miếng nước cho cháu bé uống. Đứa bé bỗng nhiên ngừng khóc và thiếp ngủ trên tay bà. Từ đó, bà dựng lều ở tại đây nuôi đứa trẻ. Khi mất, người dân trong vùng lập miếu thờ bà và gọi là “miếu mẹ” bên mạch nước “giếng sữa” thiêng. Giếng Chuông Sa nằm dưới chân núi Cấm, là vùng đất của vua Ngô Quyền nên không ai dám làm nhà trên đất của vua, vì vậy nơi này vẫn còn nguyên vẹn sự cổ kính, rậm rạp. Ngày nay “giếng sữa” thôn Cam Lâm được nhiều người biết đến bởi nước giếng có khả năng chữa được bệnh mất sữa cho sản phụ. 78
Trang phục hàng ngày, nay còn gọi là “ văn hóa mặc” của người dân xưa cu trú tại làng cổ ở Đường Lâm cũng là 1 giá trị văn hóa quý cần được nghiên cứu – sưu tầm và bảo tồn. Qua những nội dung này nếu được làm sáng tỏ, trung thực, chính xác, thế hệ sau sẽ tìm hiểu và tiếp thu một giá trị văn hóa quí mà cha ông để lại. Trang phục phụ nữ xưa ở làng cổ Đường Lâm Từ những bộ trang phục đó chúng ta sẽ hiểu được: tinh thần lao động, sáng tạo tỉ mỉ, cẩn trọng của người phụ nữ xưa (chủ yếu bằng phương pháp thủ công) sự kiên nhẫn nâng niu những thành quả lao động, mỗi sản phẩm như tô đẹp thêm bản chất cốt cách tâm hồn của người phụ nữ thôn quê. Việc pha trộn tiếp thu kinh nghiệm ở các vùng miền làm nên màu sắc đa dạng, kiểu dáng. Có thể càng quý giá hơn khi chúng ta được chúng kiến các sản phẩm được sản xuất chế tạo ra từ chính những nguyên liệu được trồng cấy và thu hoạch tại vùng quê bán sơn địa này. Qua trình trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa và cho ra các sản phẩm đa dạng, phong phú phục vụ cho nhu cầu hàng ngày ….. 79
Ở đây, chúng ta nói đến một số trang phục phổ thông mà người dân làng cổ ở Đường Lâm xưa vẫn hay sử dụng trong các sự kiện lớn của gia đình, dòng họ và bản thân. + Đám cưới: Cô dâu mặc áo tứ thân, chú rể đội khăn xếp, áo the, cô dâu và chú rể chân đi guốc mộc. Sau khi cúng tơ hồng thầy cúng bổ đôi quả cau, lấy 2 lá trầu không rồi quyệt vào đó, một nửa quả cau để sấp, nửa còn lại để ngửa. Chú rể cầm miếng cau ngửa, cô dâu cầm miếng cau úp, hai người phải nhai xong ở trong buồng mới được ra ngoài chào khách. Phù dâu, rể ăn mặc cũng vậy (ngày trước còn có một cụ già râu dài, đôn hậu, gia đình yên bề, có đủ cháu trai, gái một tay cầm một bó nhang, một tay cầm một con dao quấm đi trước dẫn đường). Những người đi dụ đám cưới cũng ăn mặc đơn giản, đàn ông mặc áo the đội khăn xếp màu nâu, đàn bà vận áo tứ thân đi guốc. Ngoài ra cô dâu còn mặc áo mớ ba, bên trong vải màu trắng trứng gà, ngoài là vải the nâu cúc nhỏ được cài bằng cách đai vào vành vai bên kia, đầu đội khăn vấn, lúc ra khỏi nhà để về nhà chồng được mẹ đẻ tặng cho 7 chiếc kim cài đầu. + Trong hoạt động Lễ hội (đình, chùa, giỗ họ): Đàn bà mặc áo dài màu gụ (nhuộm, sẫm), quàng khăn nhung vận quần màu đen bằng vải phin (ngày trước bằng vải xoa) đi guốc mộc, quai mây (guốc ngày xưa được làm bằng gốc câu tre già nay được làm bằng gỗ xoan), đàn ông đi dép cao su, gần đây người ta dùng dép làm bằng Trang phục phụ nữ xưa ở làng cổ lốp xe. Các cụ già (thượng thọ) Đường Lâm thì chống gậy ( àm bằng cành tr nhỏ hay gỗ nhẹ), các cụ bà khi đi lễ chùa còn đeo tràng hạt, gánh lễ, ngoài ra lên đình các cụ ông còn có thể dùng loại giầy “Chí long”. Ông chủ tế mặc quần áo tế, đội mũ màu xanh, các tráng khiên kiệu mạc áo màu đen hoặc đỏ. Khi bước lên đình phải rủa chân sạch sẽ. Các cụ từ trong nhà có người ruột thịt mất thì không được làng giao cho nhiệm vụ trông coi đình, đền trong khoảng thời gian 3 năm. + Mừng thọ: Các cụ bước sang tuổi 90 gọi là lễ “ thượng thọ” được con cháu may bộ quàn áo màu đỏ. Bước sang tuổi 100 thì mặc quần áo màu vàng. + Đám ma: Trong nhà khi bố mẹ mất các con đều mặc áo xô mỏng màu trắng, thắt đai bằng bẹ chuối khô, chân đất (các con dâu rể cũng thực hiện như vậy). Con 80
trưởng đội khăn chít ngang bỏ chừa ra một giọt dài để ai đó nói chuyện với mình dùng để che miệng (lúc đáp lời người viếng thăm). Đội khăn tang giống nhau đến đời thứ 3 (cháu), sang đời thứ 4 là chắt sẽ phải đội khăn vàng, đời thứ 5 là chút sẽ đội khăn màu đỏ, đời thứ 6 sẽ đội khăn màu xanh (theo nhiều bậc cao niên, ở làng này thì chưa có ai được đội khăn xanh). Lúc khiêng linh cữu để an táng người mất, con trai trưởng và con trai thứ phải chống gậy tre đi giật lùi (gậy bằng đoạn tre chẻ ra hoặc cây vông nếu to phải chẻ có độ dài 80 -100cm), trên đầu vấn một lọn làm bằng rơm, lúc túc trực bên linh cữu tay chống gậy, trai trưởng cúi đáp lễ người phúng viếng, người viếng vái hai lễ phải tạ lại một lễ. + Lý trưởng, chánh, phó lý lúc lên làm lễ Đình thường mặc áo gấm thêu hoa vàng. + Ngày giỗ họ như chạp tổ 18/2 âm lịch, tế xuân 8/1 âm lịch của dòng họ Phan trong làng, ông trưởng họ mặc quần trùng, áo dài, áo thụng, khăn màu đen quấn tròn. Đội tế gồm 20 người, ngoài ra còn có các họ khác trong làng. + Các loại trang phục thường ngày: Đàn ông dùng quần gọi là chân què, rải rút, mặc ống rộng khoảng 40cm, nên không dúm quần, áo có màu trắng, nâu (vải do nhà tự dệt ra) khâu tay, nên bằng vải thì phải máy (nếu lụa mà dùng máy khâu thì sẽ bị dúm, vải quần không phẳng). Bên trong đóng khố rộng bề ngang bằng 40 cm, dài đến 10cm, loại này không cần khâu mép do miếng vải được định hình lúc bắt đầu dệt. Phụ nữ mặc váy hoặc quần (cách ngày nay khoảng 70 năm) áo chẽn cài cúc giữa, yếm Trang phục phụ nữ xưa ở làng cổ để che ngực. Ở nhà chỉ Đường Lâm mặc mỗi yếm để che ngực (yếm đào). Yếm có 2 loại là yếm cổ xay và yếm cổ xẻ. Loại yếm cổ xay làm rất khó vì đòi hỏi người khâu phải khéo léo, khâu thế nào cho ôm xít vào cổ. Hiên nay, loại yếm cổ này còm được các bà giữ khá Trang phục đàn ông xưa ở làng cổ Đường Lâm nhiều, cổ xẻ thì tương đối ít. Thanh niên dùng áo chẽn lá 81
sen đằng sau có 5 cúc, miếng vải lá sen phía sau làm cho áo không bị nát (lúc gánh để vận chuyển các thứ phục vụ cho sản xuất, thu hoạch mùa vụ) và áo luôn vuông. “Gái mông hài”, đôi hài thường có hình vuông nên phụ nữ (nhất là thời con gái) mông phải to ( khoe mông) thì mặc quần mới đẹp, miếng vải được may phía sau được khâu chéo có chiều dài 25cm sẽ làm cho mông quần phẳng, không co dúm, quần phẳng, miếng vải này sẽ thay ai đó bé gầy mà mặc thì nhìn người trông cũng khá cân đối không bị lệch thế và đảm nhận chỗ khiếm khuyết. Trang phục thời nay đã có sự thay đổi và thích ứng rất nhiều do điều kiện vật chất ngày càng phát triển, cuộc sống khá sung túc dồi dào. Trong đại bộ phận nhân dân ở khắp thành thị - nông thôn, văn hóa mặc mỗi ngày một đa dạng và phong phú hơn được mọi đối tượng sử dụng. Tất cả đều hướng tới mục tiêu là đẹp, sang trọng, lịch sự mà vẫn giữ được nét văn hóa kính đáo và vẻ đẹp của hình thể. Văn hóa mặc và trang phục đã và đang trở thành một ngành kinh tế - lĩnh vực văn hóa phát triển không ngừng. Nó đã và đang được hỗ trợ bởi sự tiến bộ của khoa học công nghệ mới. Từ màu sắc, thiết kế, sản xuất, giới thiệu … nhiều mô hình đã thành công khi biết kết hợp giữa nét đẹp truyền thống với kỹ thuật hiện đại … Qua tìm hiểu, những nét đẹp trong các bộ trang phục đó, đọc giả hiểu được nét thuần khiết, mộc mạc, giản dị, gần gũi của những người dân Việt Nam nơi thôn quê làng xóm. Với bản chất: hiền hậu, đảm đang, chất phát, chịu thương chịu khó, lao động miệt mài để phấn đấu cho cuộc sống gia đình ấm no, hạnh phúc. Làng xóm hòa thuận, yên vui. 82
Góc quê 83
Tương Đường Lâm Hình ảnh đầu tiên khi bước vào những ngôi nhà cổ hàng trăm năm tuổi ở Làng cổ Đường Lâm là những chum tương xếp trước sân nhà. Để làm tương đượm hương vị thơm ngon đặc trưng của Đường Lâm, công đoạn ủ tương, chọn nguyên liệu rất tỉ mỉ. Nước ngâm tương phải dùng nước giếng Giang - giếng nước đá ong ở gần nhà thờ Thám hoa Giang Văn Minh - nước trong và ngon, ngọt. Môi trường, thời tiết phải phù hợp. Vì tương ưa nắng nên càng phơi càng Nguyên liệu làm tương cực kì tỉ mỉ nắng càng ngon 84
Gà Mía – món “Đặc sản tiến vua” Là một sản vật nổi tiếng của Đường Lâm. Xưa kia, Đường Lâm còn có tên là Kẻ Mía, vì thế, giống gà quý nuôi tại đây được gọi theo tên làng là gà Mía. Gà Mía là giống gia cầm có vẻ đẹp độc đáo, phảng phất có nét của loài chim Công: “đầu Công, mình Cốc, cánh Trai, ngắn quản, dài đùi, diều Vịt, mã Lĩnh” nên mới được chọn làm vật tế lễ - đặc sản chỉ dâng cúng thần thánh và cung tiến vua. Gà Mía được người Đường Lâm nuôi rất kỳ công. Trước hết, phải có kinh nghiệm, chăn nuôi cẩn thận, sau đó chọn Gà Mía từng là món ăn để tiến cung vua con giống khỏe, đẹp, dáng chuẩn, thức ăn chủ yếu là ngô, thóc, các loại rau xanh... Về chất lượng thịt, gà Mía đẹp và ngon đệ nhất, da vàng ươm và giòn sần sật, thịt sáng màu và thơm, ngọt, đậm đà hiếm có. Ngày nay gà Mía là một trong những sản phẩm nông nghiệp cao cấp, được thị trường ưa chuộng. Được người dân Làng cổ Đường Lâm bảo tồn, phát triển giống gà quý và giữ cách nuôi truyền thống để đảm bảo chất lượng thơm ngon. Món thịt quay đòn Đường Lâm Đường Lâm rất nổi tiếng với món thịt quay đòn với hương thơm, vị ngon đặc trưng. Bởi cách chế biến truyền thống, công phu, tinh tế và độc đáo, mang giá trị văn hóa ẩm thực của làng quê Đường Lâm. Mỗi miếng thịt ba chỉ phải mất tới 6 tiếng chế biến mới được thành phẩm. Thịt quay đòn phải được lựa đúng phần thịt 3 chỉ, tươi ngon, tẩm ướp những gia vị quen thuộc như húng lìu, hạt tiêu, hành, mắm muối... Gia vị đặc biệt là lá ổi non giã nhỏ, ướp với thịt. Hương vị bùi, thơm của lá ổi khiến thịt quay đòn trở nên hấp dẫn. 85
Thịt sau khi tẩm ướp kỹ được cuốn gọn vào một chiếc đòn tre to, quay đều trên than hoa với mức nhiệt điều chỉnh phù hợp từng thời điểm. Khi thịt đã chín màu vàng ruộm hấp dẫn, bì phồng lên, dùng xiên bằng tre đâm lỗ ở bì tới khi nổ lốp đốp là được thành phẩm món thịt quay đòn, bì giòn rụm, thơm lừng hương lá ổi. Thịt ngọt, mềm, đượm hương vị, ăn không ngấy. Thịt được thái lát vừa, ăn kèm với nước tương Đường Lâm hoặc nước mắm chanh. Các loại kẹo truyền thống Đường Lâm Kẹo dồi, kẹo lạc, kẹo vừng… cùng được làm từ các nguyên liệu như lạc, đường (mật mía), mạch nha, vừng, bột gạo, là những sản phẩm nổi tiếng của làng cổ Đường Lâm. Tuy nhiên, hình thức và cách làm có khác nhau. Kẹo lạc, kẹo vừng được nấu lên, dàn trên mặt phẳng và cắt thành từng thanh. Còn kẹo dồi làm công phu hơn nhiều. Khâu làm kẹo đòi hỏi người làm có sức khỏe tốt và kinh nghiệm để làm kẹo thơm ngon nhất. Mạch nha và đường được đun trên bếp lửa đến độ keo nhất định sau đó sẽ được những người thợ quật kẹo vào một chiếc cột cho đến khi dẻo quẹo và chuyển màu trắng đục để nặn thành khối hình trụ. Kẹo ấy được dàn mỏng, cho lớp nhân lạc rang đã nhào đường vào sau đó cuộn tròn hình trụ. Đến công đoạn kéo kẹo cần ít nhất hai người, một người kéo phần vỏ kẹo, người khác phải nhanh tay cắt vì nếu để nguội kẹo sẽ giòn, vỡ. Kẹo sau khi hoàn thành sẽ được phủ một lớp bột nếp trắng tạo thành lớp áo mịn màng. Hương vị kẹo bùi, ngậy, thơm đặc trưng ở Đường Lâm. Cùng với các loại bánh truyền thống Đường Lâm như bánh gai, chè lam, chè kho… đều được dùng kèm với nước trà xanh tươi mát, tạo cảm giác rất ấn tượng. Củ cải khô Củ cải được trông chủ yếu ở khu vực gò Lồ Cang, Áng Độ được người dân phơi khô dưới nắng (không sấy bằng lò than). Những miếng củ cải khô được đóng vào túi ni lông cỡ từ 100 – 200g, khi ăn phải ngâm với nước cho miếng mềm và nở ra. Món này dùng xào với thịt bò, thịt lợn hay ngâm giấm. Ngoài những sản phẩm kể trên, khách du lịch còn có thể thưởng thức một số các sản phẩm khác do người dân chế biến để phục vụ nhu cầu hàng ngày cũng như các dịp lễ hội, sự kiện của lang như: Bánh gai, bánh rợm, bánh tẻ, chè nụ vối, hạt sen, chè lá sen,…. 86
Đặc trưng trong cơm quê làng cổ Đường Lâm là những món ăn truyền thống, dân dã, nhưng mang tính độc đáo, bản sắc trong một không gian thư thái, ấm áp tình người. Trong bữa cơm ấy thế nào cũng có gà Mía, thịt quay đòn, tương Đường Lâm, cá kho riềng, củ cải khô xào hoặc nộm, ốc hấp lá gừng, chè kho, bánh gai, rượu quê… và những sản vật địa phương. Mỗi món ăn truyền thống ở Đường Lâm đều mang những câu chuyện về văn hóa truyền thống làng cổ... đặc biệt là văn hóa ẩm thực, có sức hấp dẫn và ấn tượng khó quên, đã và đang góp phần tôn vinh, khẳng định giá trị của các di tích. Sự độc đáo, đa dạng trong văn hóa làng cổ ở Đường Lâm đang được bảo tồn và phát triển. 87
Đền Và nằm cách trung tâm thị xã Sơn Tây chừng 2km, cách thủ đô Hà Nội 45km. Đền còn có tên gọi là Đông Cung, thuộc phường Trung Hưng, thị xã Sơn Tây, Hà Nội. Từ trên cao nhìn xuống, toàn bộ khu vực đền tọa lạc trên một quả đồi thấp có hình con rùa đang bơi về phái mặt trời mọc. Xung quanh đền là những cánh đồng - nơi được tưới mát bởi dòng sông Hồng và sông Tích huyền thoại. Đền Và là nơi thờ tự có quy mô lớn nhất trong gần 200 di tích ở vùng xứ Đoài, là ngôi đền thờ một trong bốn vị thần Tứ Bất Tử theo truyền thuyết của Việt Nam, đó là Đệ Nhất Phúc Thần Tản Viên, vị tổ của bách thần, còn gọi là Nam Thiên Thánh Tổ. Đền có diện tích 2000m2, nằm trong khuôn viên 8000m2, được xây dựng theo kiểu nội công ngoại quốc, mang đậm bản sắc kiến trúc phương đông. Quần thể Đền Và gồm các công trình như: Nghi Môn, lầu Cô Chín, sân Long hóa, Gác Chuông, Gác Trống, Tả- Hữu mạc, Tiền Tế, Thượng Điện, Hậu Cung, Nhà kho, Nhà Kiệu. Lễ hội ở đền diễn ra từ ngày 14 đến ngày 17 tháng Giêng âm lịch. Cứ 3 năm 1 lần - năm âm lịch (Tý - Ngọ - Mão - Dậu), chính quyền địa phương và nhân dân hai vùng Sơn Tây - Vĩnh Tường (Vĩnh Phúc) mở hội chính, có rất đông nhân dân của 8 làng, khu phố tham gia. Lễ hội Đền Và được coi là lễ hội vùng lớn nhất. Ngày rước kiệu Thánh qua sông Hồng, mọi người, nhất là người già và trẻ nhỏ ở những nơi đoàn rước đi qua thường chui qua kiệu để lấy phước cầu may, các đình trên đường rước lập đàn nghênh lễ; các gia chủ cũng chuẩn bị mâm lễ trước cửa để nghênh đón. Với những giá trị văn hóa, lịch sử quý giá, năm 1964, Đền Và được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Năm 2016, lễ hội Đền Và đã vinh dự được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Đền Và cùng với Thành cổ Sơn Tây, quần thể di tích Làng cổ ở Đường Lâm đã trở thành điểm đến hấp dẫn du khách trong và ngoài nước khi về thăm vùng đất Sơn Tây - trung tâm của xứ Đoài xưa nói riêng và một vùng văn hóa đặc sắc của Thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến nói chung. 88
Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, trong dân gian đã sản sinh và lưu truyền về những vị thần linh gốc Việt, được bao thế hệ suy tôn, phụng thờ. Trong đó, đứng đầu hàng “Tứ bất tử” nói riêng, bách thần nói chung là “Nam Thiên Thánh Tổ - Tản Viên Sơn Thánh”. Người được phụng thờ ở hầu khắp các nơi trên vùng Đồng bằng Bắc bộ. Tín ngưỡng thờ Đức Thánh Tản Viên Sơn đã hình thành từ lâu, trải qua các thế hệ đã được lưu truyền và lan tỏa trong đời sống văn hóa người Việt. Đền Và là nơi thờ tự có quy mô lớn nhất trong gần 200 di tích vùng xứ Đoài thờ Đức Thánh Tản, nơi đây là một trong 4 hành cung của ngài. 89
Đền Và còn có tên gọi là Đông Trấn Cung, thuộc thôn Vân Gia, nay là Tổ dân phố 8 Vân Gia, phường Trung Hưng, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội. Đền nằm cách trung tâm thị xã Sơn Tây chừng 2 km, cách điểm du lịch Làng cổ Đường Lâm 1 km. Từ xưa, đã có một số người tìm cách lý giải về tên gọi Đền Và, nhưng cho đến nay tên gọi đó vẫn là ẩn số như những huyền thoại, cổ tích về nơi nghỉ chân của Thánh Tản. Truyền thuyết kể rằng sau khi đánh giặc trên đường trở về qua nơi đây, Thánh Tản hạ lệnh dừng chân, khi quân dừng và dựng trại thì thấy xuất hiện đám mây ngũ sắc (Vân Gia hay Vân Già) che cho Thánh và quân sĩ nghỉ ngơi. Cho đây là điềm lành, Thánh đã chọn nơi đây xây dựng hành cung làm nơi thiết triều, đặt là “Vân Già Đông trấn cung”, làm nơi ngự và nghe lời tâu bày, thỉnh nguyện của thiên hạ. Văn bia Vân Già đông trấn cung dựng ở đầu hồi nhà tiền bái được làm năm Tự Đức thứ 36 (1884) còn ghi lại sự kiện này. Trong không gian vừa thực lại vừa huyền thoại của khu vực đồi Lim nguyên sinh hơn 1,7 ha, ngôi đền hiện ra uy nghiêm với bố cục đăng đối, đẹp mắt, thể hiện sự uy nghi, trang trọng của nơi thờ tự. Từ trên cao nhìn xuống, toàn bộ khu vực đền tọa lạc trên một quả đồi thấp được bao bọc bởi hàng trăm cây lim cổ thụ hàng trăm năm tuổi cùng nhiều loài cây lấy gỗ khác bốn mùa xanh tươi. Quả đồi thấp này có hình con rùa đang bơi về phía mặt trời mọc. Xung quanh đền là những cánh đồng - nơi được tưới mát bởi dòng sông Hồng và sông Tích huyền thoại. Quy mô Đền có diện tích 2.000 m2, nằm trong khuôn viên 8.000 m2, được xây dựng theo kiểu nội công ngoại quốc, mang đậm bản sắc kiến trúc phương Đông. Quần thể Đền Và gồm các công trình như Nghi Môn, lầu Cô Chín, sân 90
Long Hóa, Gác Chuông, Gác Trống, Tả - Hữu mạc, Tiền Tế, Thượng Điện, Hậu Cung, Nhà kho, Nhà kiệu. Cách hạng mục công trình được sử dụng các loại vật liệu quý như gỗ lim, đá ong, gạch Bát Tràng, ngói mũi ri... Nhiều linh vật quý được trang trí như: bộ Tứ linh (Long-Ly-Quy-Phượng), tứ quý (Tùng- Trúc-Cúc-Mai), hoa sen, hoa lan; các bức chạm bong, chạm nổi cách điệu, thể hiện bàn tay khéo léo, sức sáng tạo của những người thợ, lòng thành kính của muôn triệu người Việt với các bậc Thánh nhân tiên tổ. Trải qua mấy thế kỷ, Đền Và qua 3 lần tu sửa lớn: 1829 (đời Vua Minh Mạng thứ 10) – sửa mang tính chất tu tạo; năm 1902 (đời Vua Thành Thái thứ 14) - sửa chữa mang tính chất đại tu tạo; và năm 1932 (đời Vua Bảo Đại thứ 7) – sửa chữa mang tính chất tu tạo. Hiện trong đền lưu giữ nhiều di vật quý ngàn năm 18 đạo sắc phong, 18 bức hoành phi, 2 bia đá, 3 chuông đồng, 4 biển gỗ, 5 bản thần tích, 47 câu đối (được viết trên vách, cột, trên gỗ và trong ngọc phả), 6 pho tượng cổ. Đền Và đã được Nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia vào năm 1964. Đền Và cùng với Thành cổ Sơn Tây, quần thể di tích Làng cổ ở Đường Lâm đã trở thành điểm đến hấp dẫn du khách trong và ngoài nước khi về thăm vùng đất Sơn Tây - trung tâm của xứ Đoài xưa nói riêng và một vùng văn hóa đặc sắc của Thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến nói chung. 91
Truyền thuyết Sơn Tinh được phát triển gắn liền với sự vận động chung của tâm thức dân gian, khá phong phú và đa dạng. Nhưng có lẽ không ở đâu những truyền thuyết về Sơn Tinh lại kỳ thú như ở vùng sông Đà, núi Tản, nơi ngài được tôn vinh là sơn thần của ngọn núi chủ thiêng liêng và được nhân dân gọi một cách kính cẩn là Đức Thánh Tản. Lai lịch của thần đã được ghi chép lại, nhưng có nhiều dị bản, cơ bản được tóm tắt như sau: Vào đời Hùng Vương thứ 13, ở động Lăng Xương, huyện Thanh Xuyên, phủ Gia Hưng; đạo Sơn Tây có gia đình ông Nguyễn Cao Hành và bà Đinh Thị Điên, cùng vợ chồng người em ruột là ông Nguyễn Ban và bà Tạ Thị Hoan đều đã ngoài ngũ tuần mà chẳng có con nối dõi tông đường, họ lấy làm phiền muộn lắm. Nhân ngày cúng giỗ tổ tiên, anh em bàn nhau bán hết gia sản làm việc tế bần cầu phúc. Cứ như vậy được ba, bốn năm thì động lòng trời đất, hai ông đã gặp được tiên ông ban phúc. Họ tiếp tục làm việc phúc, điều nhân, vừa được trăm ngày thì hai bà mang thai. Một năm sau, vào ngày mùng sáu tháng Giêng năm Đinh Hợi, vợ của người anh là Đinh Thị Điên sinh được một cái bọc có một người con trai, vợ của người em là Tạ Thị Hoan sinh một cái bọc có hai người con trai. Tất cả đều có phong thái thần tiên, khôi ngô tuấn tú kỳ lạ, rất khác người thường. Sinh được 100 ngày, con của người anh được đặt tên là Tuấn Công, con của người em, lớn là Sùng Công, nhỏ là Hiển Công. Ngày qua tháng lại, ba anh em khôn lớn đều được theo học thầy giỏi, chỉ trong vài ba năm đã tinh thông văn võ. Không may, đến năm 17 tuổi thì cha mẹ hai nhà theo nhau mất cả. Ba anh em rất đau lòng, tìm chỗ đất tốt làm lễ an táng. Ba năm trở tang, hương khói giữ gìn, gia tài đều cạn sạch. Họ phải kiếm củi sinh sống. Ba anh em lên núi thiêng Ngọc Tản xin làm con nuôi thần nữ Ma Thị Cao Sơn. Một hôm, ba anh em lên núi, chặt một cây cổ thụ to và dài, rồi về báo cho mọi người đến khiêng về. Hôm sau, lên đó thì thấy cây lại tươi tốt như cũ. Tuấn 92
Công lấy làm lạ, lại ra sức hạ cây sau đó nấp lại xem sự thể. Nhờ đó, Ngài đã gặp được Thái Bạch Thần Tinh Tử là Thiên tướng. Tuấn Công được Thiên tuớng trao cho gây thiêng có đầu sinh đầu tử và thần chú để cứu giúp sinh linh. Có gậy thiêng, Tuấn Công đã cứu giúp nhiều người, diệt trừ thú dữ... nên được nhân dân tôn làm Thần sư. Một hôm Thần sư đến bãi Trung độ, thuộc xã Mai Xá, bỗng thấy trẻ chăn trâu đang đánh một con rắn đen, động lòng thương hại, Ngài mua lại, rồi dùng gậy thần cứu sống được rắn. Chẳng ngờ rắn đen đó là Thái Tử con của Đế Quân ở Hồ Động Đình. Nhờ đó Ngài được Đế Quân tạ ơn bằng cuốn sách Ước. Nhớ công đức mẹ nuôi, ba anh em tìm cách báo đáp. Sau đó, được bà Ma Thị Cao Sơn di chúc cho ba anh em cai quản núi Tản và một vùng rộng lớn xung quanh. Tuấn Công nhận chúc thư và phân chia đất cho ba anh em, Sùng Công ở đất Non Sơn, Hiển Công ở đất Lãng Sơn. Từ đó danh tiếng ngày càng lớn, khắp trong thiên hạ đều tôn Tuấn Công là Tản Viên Sơn Thánh, Sùng Công làm Tả Kiên thần, Hiển công làm Hữu Kiên thần. Lại nói, bấy giờ vua Hùng Duệ Vương đang trị vì là người anh tài đại lược, bên trong lo tu sửa văn đức, bên ngoài lo phòng bị biên cương, dốc lòng lo việc thái bình thịnh trị. Tuy có nhiều con nhưng đều chết yểu, nên Duệ Vương chỉ còn lại hai người con gái xinh đẹp. Cô chị là Tiên Dung công chúa đã gả cho Chử Đồng Tử, em là Ngọc Hoa công chúa đang tuổi cập kê. Vua muốn chọn rể hiền tài nên cho xây lầu kén rể ở cửa thành Việt Trì. Bấy giờ Sơn Tinh và Thủy Tinh ở Đông Đình là bạn học của nhau, nên Sơn Tinh đã rủ Thủy Tinh cùng tới kinh thành để thi tài. Cả hai bài binh bố trận, gọi gió hóa mưa, chấn động cả một vùng, bất phân thắng bại... Vua bèn bảo hai người, hôm sau ai mang đồ sinh lễ tới trước sẽ gả con gái cho. Sơn Tinh Nguyễn Tuấn nhờ có sách ước đã có sơn cầm thú lạ và nhiều vật quý làm đồ sính lễ đến sớm và đón được Ngọc Hoa công chúa về núi Tản. Ngài cho hai người em ở lại để giúp vua. Vua rất yêu quý, trân trọng bèn phong cho Tả Kiến thần Sùng Công làm Tả đô đài đại phu, Hữu Kiên thần Hiển Công làm Hữu đô đài đại phu. Vua Hùng tuổi đã cao nên cho mời Sơn Thánh cùng hai em về triều, định nhường ngôi cho Sơn Thánh. Biết tin, Thục chúa đất Ai Lao định thừa cơ động binh cướp nước. Sơn Thánh cùng hai em đã dùng sách thần, đọc thần chú, làm xuất hiện một vị thần tướng thân dài 5 trượng, tay cầm một ống tiêu hình giống vỏ ốc thổi lên một hồi gọi gió, gọi mây làm trời đất mù mịt, quân Thục tan rã bỏ chạy tán loạn. Sau đó Sơn Thánh còn chỉ huy quân dân cả nước đánh thắng quân Thục lần thứ hai. 93
Tin thắng trận báo về triều, nhà vua đã gia phong cho Sơn Thánh làm Nhạc Phủ Thượng đằng Thần, Tả Kiên thần làm Cao Sơn Đại Vương, Hữu Kiên thần làm Quý Minh Đại vương. Sau đó, Đức thánh Lại biết vận nhà Hùng đã hết, Ngài đã khuyên Hùng Duệ Vương nhường ngôi cho Thục chúa (một vị thủ lĩnh trong tộc Bách Việt) để cùng Sơn Thánh và Ngọc Hoa công chúa vào cõi hóa sinh bất diệt. (Theo lý lịch di tích ghi tại đình Văn Gia). 94
Di sản văn hoá quý của VÙNG XỨ ĐOÀI Đền Và là một trong không nhiều di tích có dấu ấn kiến trúc nghệ thuật thời Mạc. Du khách đến đây sẽ được dạo bước trong rừng lim già xanh biếc, ngắm mái đền thoai thoải cong vút đầu đao, tưởng như lạc vào cõi bồng lai. Trên thực tế, quá trình biến đổi quy mô Đền Và gắn liền với giai đoạn phát triển thương nghiệp ở thời Mạc và đầu thời Lê Trung Hưng, sau này là sự ra đời và đô thị hóa tỉnh lỵ ở thời Nguyễn. Năm 1820, trụ sở tỉnh lỵ đặt tại xã Thuần Nghệ. Năm 1822, vua Minh Mệnh hạ lệnh xây thành Sơn Tây, đến năm 1831, tỉnh lỵ chuyển về thành Sơn - cách Đền Và 3km về phía Đông. Tới thế kỷ XIX, trước cảnh triều đình nhà Nguyễn bất lực trong việc cai trị đất nước, nạn ngoại xâm đe dọa, tầng lớn quan chức mất lòng tin vào các hệ 95
tư tưởng chính thống, họ đi tìm sự an ủi ở tín ngưỡng bản địa. Vì thế, sinh hoạt tín ngưỡng ở Đền Và thêm sầm uất. Năm 1883 - 1884 các quan đầu tỉnh đứng ra kêu gọi quyên góp tài lực để tổ chức tu bổ lớn Đền Và. Tuy bia Vân Già Đông thần cung không ghi rõ việc xây dựng, song căn cứ vào số tiền công đức là 2.566 quan, 4 đồng tiền vàng, 2 lượng vàng, 52 cây gỗ lớn và 3.000 phiến đá ong, có thể ước đoán việc xây dựng lại đã được thực hiện ở toàn bộ nhà tiền bái, sửa nhà chữ công, nghi môn, xây bức tường bao đá ong và một số công trình phụ khác. Trong số tiền công đức đó, các quan đầu tỉnh có 500 quan, một bá hộ tên là Lý Mậu Ký cung tiến 1.000 quan. Hiện nay, ngôi nhà chữ công vẫn còn các đầu kìm, đầu guột, rồng khúc nguỷnh, gạch bờ nóc... bằng gốm, thuộc thế kỷ XVI- XVII, chứng tỏ ngay từ cuối thời Mạc, tòa nhà này đã khá bề thế. Và kiến trúc hiện còn tất yếu mang phong cách nghệ thuật của nhiều thời kỳ từ cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII kéo dài đến cuộc đại tu vào đầu thế kỷ XX. Một minh chứng cụ thể là bốn chiếc cột nhà chính, chữ công, khắc rõ năm thay thế: Duy Tân cửu niên (1915) ở cột trái hậu cung và cột phải gian ống muống, Khải Định Kỷ Mùi (1919) ở cột phải hậu cung và cột gian nhà ngang ngoài. Ngoài ra, căn cứ vào dòng chữ trên câu đầu, thì ít nhất trong thế kỷ XIX và XX nhà tiền tế đã qua 3 lần tu sửa: Năm Minh Mệnh thứ 10 (1829) tu tạo, năm Thành Thái thứ 14 (1902) đại tạo, năm Bảo Đại thứ 7 (1932) tu tạo. Cũng năm 1932, nhân dân còn làm thêm hai dãy nhà tả vu và hữu vu kế tiếp gác chuông, gác trống kiểu chồng diêm hai tầng tạo thế đăng đối cho đền. Mặt khác, do người về dự lễ hội ngày một đông, cùng với nhu cầu phục vụ tín ngưỡng, nên nhà đền cùng nhân dân địa phương đã làm thêm hai tòa nhà sau tả vu và hai tòa nhà sau hữu vu để phục vụ khách hành hương. 96
Đền Và nằm giữa rừng lim nguyên sinh với diện tích khoảng 17.500 m2, hiện tượng này đã khẳng định về một mảnh đất lành, quang nhuận, đồng thời gợi ý cho người ta nghĩ về một dạng kết cấu làng xã cổ truyền. Quanh khuôn viên này cơ bản là cây lim, mít, thông, đại, muỗm... tồn tại qua các niên đại khác nhau. Cả không gian xanh mát giàu ô xy này còn là môi trường tốt cho các loài côn trùng trú ngụ và phát triển. Đền Và nhìn về hướng Nam. Theo đạo Phật quan niệm hướng Nam là hướng mặt trời lên cao, hay hướng của bậc Đế Vương, đồng nhất với trí tuệ (hướng của Bát nhã), mà đạo Phật lấy trí tuệ để diệt trừ ngu tối, tức mầm mống của tội ác. Hướng Nam còn mang dương tính, gắn liền với điều thiện, với hạnh phúc. Người phương Đông còn cho rằng: Thánh nhân ngồi quay mặt về hướng Nam để nghe lời tâu bày của thiên hạ, nghĩa là hướng của đế vương, sau đó là hướng của thần linh khi các ngài thành vua tinh thần của làng xã. Giữa không gian xanh mát của cây cối, ngôi đền như được ẩn vào trong tự nhiên. Khách hành hương đến Đền Và sẽ cảm thấy gần gũi hơn với thiên nhiên, với thế giới siêu nhiên. Đền xây dựng trên dải đồi thấp, bố cục dàn trải tương đối cân xứng theo trục linh đạo. Mở đầu cho kiến trúc của đền, ngay chân gò, trước đây là một sân đất (nay lát gạch lá nem) được bao bằng tường đá ong. Bước vào sân, người ta đã thấy chính trục trung tâm có một bình phong dạng tam sơn bằng xi măng mang vẻ tự nhiên với những hang hốc huyền bí, tĩnh lặng như quan niệm về cõi âm (cao 3,7m, rộng 3,67m). Sân này gọi là “sân Long Hóa\" rộng khoảng 300 m2. Mặt ngoài của bình phong thờ ngũ hổ trong hang, tượng trưng cho ngũ phương (đông phương màu xanh lá cây, tây phương màu trắng, nam phương màu đỏ, bắc phương màu đen và trung phương màu vàng). Hai bên của động ngũ hổ, người ta đã làm hai trụ lồng đèn có tiết diện vuông 37 x 37 cm, đỉnh trụ 97
là đôi lân được khảm sành sứ. Bức tường bao chạy ra được kết thúc bởi hai trụ lồng đèn tương ứng có tiết diện 49 x 49 cm, trên đỉnh trụ là bốn phượng lá lật. Phía ngoài, bên trái đền, ở dưới thấp có một cái giếng miệng hình chữ nhật (88 x 78 cm) quanh năm nước trong, người ta gọi là giếng \"Cửu tiên” (Giếng cô Chín). Trong mâm lễ dâng cúng tại đây, ngoài hương, hoa, đăng, trà, quả, người ta thường đặt thêm một bộ nón có màu xanh đỏ. Đây là cách mà nhiều người quan niệm xin cô phù hộ cho sức khỏe (tương truyền rằng Cô Chín xuất thần là một Tiên nữ Thiên Đình có nhiều quyền, phép, biết tiên đoán sự việc, biết bốc thuốc chữa bệnh cho dân lành). Là chỗ để mọi người sau khi hành hương thì xin múc nước để uống, rửa mặt hoặc xin một can mang về thờ. Đối diện bình phong ở sân Long Hóa là Nghi Môn của Đền Và, mở ra khung cảnh nội đền nguy nga phía sau. Ba gian cửa được làm không đều nhau, gian giữa rộng nhất, gần bằng hai gian bên cộng lại, tạo thành ba lối đi. Qua Nghi môn, vào khoảng sân rộng, được khuôn vuông bằng hệ thống công trình kiến trúc khép kín. Liền sát ngay Nghi môn, đăng đối hai bên theo chiều dọc là Gác chuông và Gác trống. Nghi môn chính được dựng trên nền cao, ban đầu có năm bậc lên, nhưng nay được bổ sung thêm 1/2 bậc nữa ở nấc trên cùng, lát gạch. Nghi môn này khá lớn, với mặt nền có chiều dài 9,5 m và chiều Tiền tế Đền Và rộng 5,6 m. Gian giữa rất lớn (4,8 m), hai gian bên nhỏ (2,15 m). Đặc điểm của Nghi môn này là có ba hàng chân gỗ, được làm khá cao, kê trên chân tảng đá ong (cột cái cao 4,95 m, cột quân 3,8 m). Nghi môn của Đền Và được làm theo kiểu tường hồi bít đốc, rõ ràng thông quan những mảng chạm có niên đại từ gần 98
300 năm nay thì đền là một kiến trúc có niên đại lâu năm, nhưng hình thức hiện tại đã cho thấy nó được tu bổ tôn tạo nhiều lần qua các giai đoạn lịch sử. Lưỡng long chầu mặt trời Ban Cửu Tiên (Cô Chín) Ngay sát sau Nghi môn, ở hai bên là Gác chuông và Gác trống - sản phẩm của đầu và giữa thế kỷ XX. Hai kiến trúc này tương đối giống nhau với kết cấu hai tầng mái, diện tích 4,8 m2, cao 6 m, tầng trên có thân như một tầng lầu, song được bổ ba mặt (phía trong, trước và sau) bằng các cửa tròn lớn, còn phía ngoài được làm cửa sổ đắp chữ Thọ. Kết cấu của hai tòa nhà này đều dưới dạng phương đình. Bao quanh tầng trên, một hệ thống lan can đơn giản có bổ trụ ở bốn góc. Từ trụ góc bốn bờ guột chạy ra đến góc mái rồi cong lên để thành guột và đầu đao dưới dạng lá hóa cách điệu. Trang trí cơ bản của hai tòa nhà này chỉ được thể hiện ở mặt nhìn vào sân với hình thức năm con dơi xòe rộng cánh đặt cân xứng ôm lấy cửa sổ tròn. Những nhà nghiên cứu về Dân tộc học nghệ thuật đã cho biết rằng đây là biểu tượng của ngũ phúc: Phú - Quý - Thọ - Khang - Ninh. Tiếp nối với gác chuông và gác trống là hai tòa Tả vu và Hữu vu (dài 8,25 m, rộng 4,3 m) với ba mặt xây gạch, mặt trước có cột vuông trên nền tam cấp, các nhà này để trống mặt trong, kết kiểu tường hồi bít đốc. Nhìn chung các chi tiết kiến trúc gỗ của Tả, Hữu vu đều thiên về xu hướng vuông và được bào trơn đóng bén. Hiện tượng xẻ vuông này đã cho chúng ta biết đây là sản phẩm của cuối thời Nguyễn. 99
Ban Long hóa Ban Ngũ dinh quan lớn Đằng sau nhà Tả, Hữu vu và nhà kho còn bốn nhà khác (mỗi bên hai nhà) cũng theo kiểu kết cấu gỗ bào trơn đóng bén, tường xây hồi bít đốc như hai tòa nhà Tả vu và Hữu vu. Đây là những nhà Tạo soạn - nơi chuẩn bị các đồ lễ và là chỗ nghỉ tạm của nhân dân - khách thập phương khi hành hưởng đến đền lễ Thánh. Nhà Tiền bái nằm song song với Nghi môn ở phía cuối sân, hai đầu nhà 100
Search
Read the Text Version
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 7
- 8
- 9
- 10
- 11
- 12
- 13
- 14
- 15
- 16
- 17
- 18
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23
- 24
- 25
- 26
- 27
- 28
- 29
- 30
- 31
- 32
- 33
- 34
- 35
- 36
- 37
- 38
- 39
- 40
- 41
- 42
- 43
- 44
- 45
- 46
- 47
- 48
- 49
- 50
- 51
- 52
- 53
- 54
- 55
- 56
- 57
- 58
- 59
- 60
- 61
- 62
- 63
- 64
- 65
- 66
- 67
- 68
- 69
- 70
- 71
- 72
- 73
- 74
- 75
- 76
- 77
- 78
- 79
- 80
- 81
- 82
- 83
- 84
- 85
- 86
- 87
- 88
- 89
- 90
- 91
- 92
- 93
- 94
- 95
- 96
- 97
- 98
- 99
- 100
- 101
- 102
- 103
- 104
- 105
- 106
- 107
- 108
- 109
- 110
- 111
- 112
- 113
- 114
- 115
- 116