Important Announcement
PubHTML5 Scheduled Server Maintenance on (GMT) Sunday, June 26th, 2:00 am - 8:00 am.
PubHTML5 site will be inoperative during the times indicated!

Home Explore Hướng dẫn an chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp

Hướng dẫn an chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp

Published by Chiec La Cuon Bay, 2022-03-08 05:37:09

Description: Hướng dẫn an chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp

Search

Read the Text Version

HƯỚNG DẪN ĂN CHAY NIỆM PHẬT CHO NGƯỜI KHẨU NGHIỆP Version 1.0 (Lưu hành nội bộ cộng đồng người khẩu nghiệp. Đây không phải là thuốc và không có tác dụng thay thế thuốc chữa bệnh) Truyền Đăng



Tổng biên tập: Nguyễn Quốc Bình Biên tập: Nguyễn Anh Tú Dịch giả: Nguyễn Quốc Bình Nguyễn Anh Tú Nguyễn Thành Sang.



GIỚI THIỆU VỀ QUYỂN SÁCH VÀ CÁC THÀNH VIÊN ĐÓNG GÓP Quyển sách này là một dự án của các cá nhân tại Việt Nam, không nhằm kỷ niệm hay tôn vinh ngày lễ nào, mà chỉ vì lợi ích thiết thực của người đọc, tức là ăn chay niệm Phật dành cho người khẩu nghiệp. Mục đích của dự án là phân phát quyển sách này miễn phí trên mạng, cũng như bất cứ nơi nào mà thí chủ muốn in, không cứ riêng gì ở các khách sạn; nhằm nêu theo khả năng chứ không phải đầy đủ các nguồn tài liệu Phật giáo liên quan đến các chủ đề được nêu. Qua đó, mục tiêu của nó không phải là phô trương lòng tự hào về di sản Phật giáo, mà là tìm kiếm sự lợi ích ở nơi bản thân người đọc. Nó không muốn phủ nhận các bất đồng làm nên sự đa dạng và sức sống của Phật giáo, hay truy tầm một sự đồng thuận trên cơ sở cội nguồn chung làm nền cho thống nhất Phật giáo; mà chỉ trình bày mọi thứ như nó vốn là. Quyển sách bao gồm các bản dịch được lựa chọn từ tiếng Pāli, tiếng Sanskrit, tiếng Hán, tiếng Tây Tạng, và nhất là cổ thư Việt Nam. Chúng tôi dựa trên những công trình dịch thuật đi trước làm cơ sở cho mình chứ không đạp đổ hết rồi làm lại nhằm thể hiện. Các thuật ngữ được điều chỉnh ít nhiều cho thống nhất nhưng vẫn giữ bản sắc trong nguyên bản, chứ không mong biến đây thành một chương trình bình dân học vụ. Các nguồn lực cần thiết cho dự án là do những cá nhân tham gia tự nguyện đóng góp, do đó công trình không nhằm quảng cáo cho ai, cũng không nhằm kêu gọi đóng góp gì cả. Người đề xuất và điều phối viên của dự án là tôi, Nguyễn Quốc Bình. Biên tập viên và dịch giả N.Q.B. Nguyễn Quốc Bình. N.A.T. Nguyễn Anh Tú. N.T.S. Nguyễn Thành Sang. Các chức danh, học hàm, học vị không có liên quan nên không cần kể để khoe mẽ.



vii MỤC LỤC Lời giới thiệu ......................................................................................ix CHƯƠNG 1: ĂN CHAY ........................................................................1 CHO PHÉP ĂN THỊT............................................................................. 1 Các loại thực phẩm được ăn................................................................... 1 Các loại thực phẩm không được ăn..................................................... 2 Bác bỏ cực đoan về ăn chay.................................................................... 3 KHÔNG CHO PHÉP ĂN THỊT ............................................................. 5 Nguyên nhân không ăn thịt .................................................................... 5 Đối với cư sĩ.................................................................................................... 7 Đối với sa-môn............................................................................................10 Đối với bồ-tát...............................................................................................12 Đối với du-già sĩ .........................................................................................15 CẤM RƯỢU VÀ NGŨ TÂN ................................................................ 17 KHUYÊN ĂN CHAY............................................................................. 19 ĂN THỊT LÀ PHƯƠNG TIỆN ........................................................... 22 BỎ PHƯƠNG TIỆN ĂN THỊT........................................................... 24 SIÊU XUẤT ĂN VÀ KHÔNG ĂN THỊT............................................. 25 CHƯƠNG 2: NIỆM PHẬT................................................................ 27 PHẬT..................................................................................................... 27 Các danh hiệu Phật ...................................................................................27 Phật và Pháp ................................................................................................28 Tam thân Phật.............................................................................................29 Phật tánh .......................................................................................................33 A-di-đà và Tịnh độ.....................................................................................36 QUY Y PHẬT........................................................................................ 41 Các loại quy y...............................................................................................41 Bàn về quy y.................................................................................................42 NIỆM PHẬT ......................................................................................... 45 Các tùy niệm.................................................................................................45 Niệm Phật và quả báo thế gian ...........................................................45 Niệm Phật vãng sanh ...............................................................................48 Niệm Phật và giới ......................................................................................50 Niệm Phật và định.....................................................................................51 Niệm Phật và tuệ........................................................................................54 Niệm Phật và giải thoát...........................................................................54 LIÊN HỆ THIỀN – TỊNH – MẬT....................................................... 56 TỊNH ĐỘ NHÂN GIAN ....................................................................... 69

viii CHƯƠNG 3: KHẨU NGHIỆP .......................................................... 79 NGHIỆP VÀ QUẢ ................................................................................ 79 Nghiệp.............................................................................................................79 Quả báo của nghiệp ..................................................................................81 Luân hồi .........................................................................................................87 THIỆN VÀ BẤT THIỆN ...................................................................... 90 Thiện và bất thiện hành .........................................................................90 Chi tiết 10 bất thiện hạnh......................................................................92 Chi tiết 10 thiện hạnh..............................................................................94 TÍNH CHẤT CỦA NGHIỆP ................................................................ 97 CHUYỂN HÓA NGHIỆP ...................................................................100 NÓI RIÊNG VỀ KHẨU NGHIỆP......................................................104 Tổng quan về khẩu nghiệp.................................................................104 Quả báo của khẩu nghiệp....................................................................106 CHI TIẾT VỀ KHẨU ÁC NGHIỆP ...................................................108 Vọng ngôn ..................................................................................................108 Ỷ ngữ.............................................................................................................111 Lưỡng thiệt................................................................................................112 Ác khẩu........................................................................................................113 CHÁNH NGỮ .....................................................................................115 ĂN CHAY NIỆM PHẬT ĐỂ TIÊU NGHIỆP....................................121 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................124

ix Lời giới thiệu Bạn đang đọc những dòng này vì cái tựa nực cười đến phát bực của quyển sách. Tôi cũng cảm giác y như vậy khi lần đầu bắt gặp nó như một meme hài trên mạng. Nhưng thay vì lướt qua nó một cách hả hê hay nguyền rủa mấy thằng báng bổ sẽ đọa địa ngục A-tì hay sáng tác thêm vài tấm tranh nhân quả ba đời thì tôi nghĩ tại sao lại không thử làm nghiêm túc về vấn đề này vừa pha một ly nước chanh để uống vừa để tạo một phương tiện hoằng pháp trong một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Người ta chỉ cần đến cái tựa là đủ để cười, nhưng nếu có cả nội dung thì cái cười này sẽ khắc cốt ghi tâm, tốt hơn hẳn mấy kiểu sinh hoạt dưới cờ, hay hát xướng ê a. Thế nên, vốn chúng tôi định múa bút vài đường, đem Phật giáo làm màu cho ba cái kiến thức góp nhặt và khoa học nửa mùa, nhưng trong sát-na chợt nghĩ bản thân mình tài sơ học thiển, sao dám đem cái vụng nơi ngọn bút làm trò cười cho thế nhân, lại chẳng dám cáo mượn oai hùm tuyên thuyết về những điều mình chưa thật thấu đạt. Thế nên chỉ dám mượn hoa kính Phật, đem lời người xưa để răn người đời nay, trích lục các lời dạy của những bậc hiền thánh để làm lợi lạc cho người hiện tại. Duyên khởi đầu đuôi là thế, chẳng phải là làm ra là để cà khịa sách Phật điển phổ thông: Dẫn vào tuệ giác Phật (Common Buddhist Text) nào đó. * Nhóm biên soạn gồm Nguyễn Anh Tú, Nguyễn Thành Sang và tôi, Nguyễn Quốc Bình; cả thảy chỉ có 3 người, không hề âm thầm xóa tên một ai. Chúng tôi soạn sách này trong khoảng một tháng từ hồi 2019, mỗi người phụ trách một phần trong một tuần, sau đó chuyển sang người tiếp theo; rồi mất thêm một tuần nữa để họp lại mà đọc cùng nhau. Cuối cùng, tôi là người tổng hợp bản thảo, sắp xếp chương mục, và viết lời tựa. Sách hoàn thành đã lâu nhưng “bộn bề Phật sự” nên tới giờ mới có dịp ra mắt. Trong việc biên soạn này, tất cả mọi người ở đây đều tự nguyện làm công đức, không cần phải lập cả một hội đồng tiêu tốn tới 10 năm mỡ máu của nhân dân. Như đã nói, các tài liệu đều được trích từ các kinh điển hay luận sớ hàng trăm hàng ngàn năm tuổi của các hệ phái để đảm bảo tính khách quan nhất. Tuy nhiên, ai học Phật cho đàng hoàng đều biết Phật giáo duy nhất mà chúng ta có không phải là một sự thống nhất về tư tưởng và hành động mà là một sự đa tạp các

x trường phái với những quan điểm kiến giải khác nhau về những chủ đề chuyên biệt. Một người sẽ có cảm tình với trường phái này hơn trường phái khác rồi bịa ra các lý do để hợp lý hóa, nhưng như vậy không có nghĩa là các quan điểm khác đều là vô giá trị. Vì tính tôn trọng sự đa dạng, chúng tôi cố gắng tập hợp các tài liệu với nhiều quan điểm khác nhau thay vì chỉ kể một câu chuyện duy nhất. Các tài liệu sẽ tự kể chính nó và người đọc phải tự chọn lấy niềm tin cho mình. Thế nhưng, bản thân việc chọn tài liệu, chọn trích đoạn, cách phiên dịch, và cách sắp xếp cũng đã là những phương thức diễn giải. Vì coi kinh là thuốc, không ai khoe mình uống thuốc nhiều, thuốc đắt bao giờ, chúng tôi sẽ không cố tỏ ra khách quan, kiện toàn, hay mang tính đại diện trong việc này. Sự sắp xếp không theo một trình tự tiến hóa để nhấn mạnh cho tính cổ sơ nguyên thủy của một hệ phái nào đó mà theo sự gom nhóm chức năng để tiện cho người đọc theo dõi, tức là các trích đoạn có nội dung tương đồng sẽ hợp với nhau thành 1 phần lớn hơn trong 3 chủ đề của quyển sách. Quyển sách này không phải thuộc loại khoa học hàn lâm, cho nên sẽ nới lỏng các quy tắc về văn bản. Các ghi chú nguồn dẫn sẽ được chúng tôi giản hóa ở mức tối đa, chỉ chi tiết mã số hay số trang khi thuận tiện. Vì các đoạn trích đều được cả 3 chúng tôi xử lý nên không ghi lại dịch giả từng đoạn. Đồng thời văn chương cũng không quá câu nệ việc dịch sát, giản lược bớt các chi tiết lặp đi lặp lại, dùng từ đơn giản, chủ yếu là để cho dễ đọc, nhưng tuyệt đối không phải kiểu bình dân học vụ kiểu Oa-xinh-tơn hay xưởng đẻ. Ngoài những đoạn phải dịch mới, chúng tôi đã chịu ơn nhiều bản dịch của các thế hệ đi trước được nêu trong phần tài liệu tham khảo. Nhưng do trùng trùng duyên khởi, không sao kể hết ơn đức của chúng sanh, nên dù đã cố gắng hết sức nhưng danh sách khó lòng cụ túc được. Để cho câu cú thống nhất và để cho khỏi dính bản quyền, chúng tôi cũng đã tích cực xào nấu câu chữ cho khác đi. Song, nhiều khi có những câu chữ mà bản thân cũng đồng quan điểm với tiền bối, đắn đo đổi đi đổi lại cũng không thấy ổn bằng bản cũ. Tự nhiên nghĩ không biết chúng mình đang làm trò gì với pháp công truyền của Phật vậy. Quay trở lại đề tài của quyển sách này, nếu tách riêng ra, chủ đề ăn chay, chủ đề niệm Phật, và chủ đề khẩu nghiệp không có gì là quá xa lạ ngay cả đối với người chỉ có kiến thức căn bản về đạo Phật. Vậy điều gì khiến sự kết hợp của ba thứ này trở nên thú

xi vị? Thôi thì cứ xem như đây là một công án mà tham, lỡ may có khi ngộ được tính giả hợp của mọi thứ thì coi như sách này có công đức. * Thay vì coi các câu châm ngôn trên lịch hoặc đọc các tin báo trên những ứng dụng coi bói thì ta có thể đọc mỗi ngày một đoạn trích trong sách cho tốt đời đẹp đạo. Ai e mình nghiệp dày phước mỏng, muốn tiến nhanh tiến mạnh trên con đường hoàn thiện bản thân thì có thể dùng sách như kinh nhật tụng cũng được. Và thật là ý nghĩa nếu ta xem đây là món quà để tặng những người ta yêu quý, không yêu quý, và chưa yêu quý. Người ta sẽ không thể trả nó lại, vứt bỏ nó, hay trách móc gì người tặng, vì đây đều toàn là những Phật ngôn, thánh ngữ. Thế thì vừa biến được can qua thành ngọc bạch vừa độ được chúng sanh nan độ. Và nếu lỡ họ không đọc mà đem sách đi biếu cho nhà chùa, thì thế lại càng là công đức vô lượng. Tất nhiên, các thánh đã sạch bụi đời không cần phải đếm xỉa đến cuốn sách này hay đọc đến dòng này làm gì. * Sách này được trích lục từ những di ngôn của các bậc tiền nhân đã quá vãng, những người chỉ muốn nghĩa lý được lưu truyền. Thế nên, dù có công lọc lựa và sắp xếp, nhưng là người có tàm có quý, chúng tôi không dám mở miệng nói chuyện bản quyền ở đây. Do đó, sách này xin được công bố rộng rãi trên mạng với định dạng cuối cùng và toàn bộ nội dung có thể sao chép được cho mọi người tùy nghi sử dụng. Mặt khác, việc in ấn, đòi hỏi phải tiêu tốn chi phí nhiều hơn. Các ấn bản cần có sự tham gia của những thí chủ hoặc nhà đầu tư. Việc từ thiện và việc kinh doanh không cản trở lẫn nhau, đôi khi kinh doanh còn hiệu quả hơn từ thiện ở nhiều mặt. Vì lợi ích số đông chư thiên và nhân loại, chúng tôi sẽ không dám lấy danh nghĩa việc công đức mà can thiệp vào các quá trình phân phối này, rồi lại đòi hỏi quyên góp nơi người nhận hay vòi vĩnh thêm các thí chủ khi cụt vốn. Điều này có nghĩa là mọi người đều có thể dùng file này để in ra sách giấy rồi tặng hay bán cho bất cứ ai tùy theo mong muốn. Trong bất cứ trường hợp nào, chúng tôi cũng sẽ không đời nào làm các việc đại loại như buộc phải để sách trong khách sạn, buộc người thỉnh phải tu, chụp những

xii người bán sách rêu lên mạng, hay khoa trương công đức về một danh sách ấn tống bí mật nào đó. * Đúng ra thì chúng tôi định đề tặng vài người quen, nhưng sau khi liệt kê ra thì thấy nhiều hơn cả nội dung sách nên thôi. Bởi thế, xin hồi hướng hết thảy cho toàn bộ chúng sanh. Sau rốt, trong lúc bối rối gấp gáp chỉnh lý cho kịp ngày lành tháng tốt ra mắt, có nhiều phần sơ suất, chưa được như ý, mong quý vị niệm tình tha thứ. Vì ý thức được sự thiếu tài kém đức của mình và vì lẽ lịch sự tối thiểu của thế gian, nên sau khi thị hiện đủ các loại khẩu nghiệp như trên, dù muốn hay không chúng tôi cũng phải dành những dòng cuối này để ngóng vọng sự chỉ dạy bổ khuyết của những bậc chân tu thạc học, những bậc long tượng ẩn mình, và những bậc bồ tát nhập thế để cùng nâng cấp phiên bản sau của sách. Truyền Đăng Các, ngày 01 tháng 4 năm 2021. Nguyễn Quốc Bình Tổng biên tập

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 1 CHƯƠNG 1: ĂN CHAY CHO PHÉP ĂN THỊT Các loại thực phẩm được ăn Tam tịnh nhục Có ba loại thịt tịnh nên ăn: không cố tình thấy, không cố tình nghe, không cố tình nghi. Nếu không thấy vì ta mà cố tình giết, không nghe vì ta mà cố tình giết, hoặc không thấy trong nhà có đầu, chân, da, lông, máu, và người kia không phải là người giết hại, cho đến thọ trì mười điều thiện, người ấy không bao giờ vì ta mà tước đoạn sinh mạng của chúng sanh. Ba thứ thịt như thế gọi là tịnh, được ăn. T.1428, Luật Tứ Phần, Chương Dược Kiền-độ, quyển 42. Các loại thức ăn tốt đẹp Này Đại Tuệ, nên biết những loại thức ăn tốt đẹp chính là gạo, lúa mì, lúa mạch, đậu, sữa, bơ dầu, đường… Những loại thức ăn này đã được chư Phật quá khứ cho phép dùng, là những điều mà ta đã diễn bày. Các thiện nam và thiện nữ trong chủng tánh của ta giữ tín tâm thanh tịnh, vun trồng thiện căn đã lâu, chẳng sinh lòng tham đắm đối với thân mạng và tài sản, thương xót tất cả loài như thân mình. Những người này nên ăn những món như vậy thì tâm sẽ không bị ngã ái thiên trọng những tính xấu ác của các loài cọp sói. T.671, Kinh Nhập Lăng-già, quyển 6, phẩm VIII: Đoạn thực nhục. Các loại thực phẩm chủ yếu của tỳ-kheo Thực phẩm mềm nghĩa là năm loại thực phẩm gồm có cơm, súp, bánh, cá, thịt. Các loại thực phẩm thượng hạng như là bơ lỏng, bơ đặc, dầu ăn, mật ong, đường mía, cá, thịt, sữa tươi, sữa đông... Các loại thực phẩm thượng hạng: Bơ lỏng nghĩa là bơ lỏng từ loài bò, hoặc là bơ lỏng từ loài dê, hoặc là bơ lỏng từ loài trâu, hoặc bơ lỏng từ các loài thú nào có thịt được phép dùng. Bơ đặc nghĩa là bơ đặc của chính các loài thú ấy. Dầu ăn nghĩa là dầu

2 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp mè, dầu hạt mù tạt, dầu có chứa mật ong, dầu cây eraṇḍa, dầu từ mỡ thú. Mật ong nghĩa là mật của loài ong. Đường mía nghĩa là được sản xuất từ cây mía. Cá nghĩa là loài di chuyển trong nước được đề cập đến. Thịt nghĩa là thịt của các loài thú nào có thịt được phép dùng. Sữa tươi nghĩa là sữa tươi từ loài bò, hoặc là sữa tươi từ loài dê, hoặc là sữa tươi từ loài trâu, hoặc là sữa tươi từ các loài thú nào có thịt được phép dùng. Sữa đông nghĩa là sữa đông của các loài thú ấy. Vin, Luật tỳ-kheo, chương pācittiya 4 về vật thực. Các loại thực phẩm không được ăn Tam bất tịnh nhục - 1 Này Jīvaka, những kẻ nào nói: ‘Vì cúng dường sa-môn Gotama, nên chúng tôi giết hại các động vật. Sa-môn Gotama dù biết như vậy nhưng vẫn thọ dụng các loại thịt động vật được giết và được làm cho mình,’ những kẻ ấy không nói đúng lời ta, họ xuyên tạc ta, chẳng nói chân, chẳng nói thật. Này Jīvaka, ta nói có ba trường hợp không được thụ dụng thịt là: thấy, nghe hoặc hoài nghi động vật ấy bị giết vì mình. Này Jīvaka, ta nói trong ba trường hợp đó, thịt không được thụ dụng. MN.55, Kinh Jīvaka. Tam bất tịnh nhục - 2 Từ nay về sau, nếu có thí chủ vì mình cố ý giết thì không được ăn. Vì mình cố ý giết ở đây nghĩa là cố ý thấy, cố ý nghe, cố ý nghi. Có ba nhân duyên này là thịt bất tịnh, ta nói không được ăn. Nếu thấy vì ta mà cố ý giết; hoặc nghe từ người đáng tin nói, vì ta mà cố ý giết; hoặc thấy trong nhà có đầu, có da, có lông, có máu, có chân; và người này có khả năng làm mười điều ác, thường là người sát hại, có thể vì ta mà cố ý giết; ba nhân duyên như vậy gọi là thịt không thanh tịnh, không được ăn. T.1428, Luật Tứ Phần, chương Dược Kiền-độ, quyển 42. Không ăn thịt nơi thờ tự Nếu là thịt làm ở nơi thờ tự thì không được ăn. Tại sao vậy? Người kia với dụng ý làm để đem đến cúng tế. Cho nên không được ăn, nếu ăn sẽ trị theo pháp. T.1428, Luật Tứ Phần, chương Dược Kiền-độ, quyển 42.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 3 Các loại thịt bị cấm đối với tỳ-kheo Phật Thế Tôn (…) khiển trách rồi thuyết pháp, bảo các tỳ-kheo rằng: “(…) Này các tỳ-kheo, không nên dùng thịt người, vị nào dùng thì phạm tội thâu-lan-giá; (…) không nên dùng thịt voi, vị nào dùng thì phạm tội ác tác; (…) không nên dùng thịt ngựa; (…) không nên dùng thịt chó; (…) không nên dùng thịt rắn; (…) không nên dùng thịt sư tử; (…) không nên dùng thịt hổ; (…) không nên dùng thịt beo; (…) không nên dùng thịt gấu; (…) không nên dùng thịt chó sói; vị nào dùng thì phạm tội ác tác.” Vin., Đại phẩm, Phẩm Dược Kiền-độ. Mười loại thịt không được ăn Vị tỳ-kheo không được dùng mười loại thịt: thịt người, thịt voi, thịt ngựa, thịt chó, thịt rắn, thịt sư tử, thịt hổ, thịt beo, thịt gấu, thịt chó sói. Vin., Đại Phẩm, Chương VI. Bác bỏ cực đoan về ăn chay Năm yêu cầu của Devadatta Devadatta đã nói với đức Thế Tôn rằng: “(…) Lành thay, thưa ngài, các tỳ-kheo nên là những người trọn đời trú A-lan-nhã1; vị nào cư ngụ trong làng thì phạm tội. Trọn đời là những người khất thực; vị nào hoan hỷ sự thỉnh mời thì phạm tội. Trọn đời là những người mặc y bằng vải phấn tảo2, vị nào hoan hỷ y của gia chủ thì phạm tội. Trọn đời là những người sống ở gốc cây; vị nào đi đến mái che thì phạm tội. Trọn đời không ăn cá thịt; vị nào ăn cá thịt thì phạm tội.” Vin., Phân tích giới tỳ-kheo, chương Mười ba pháp: Tăng tàn, điều thứ mười. Đức Phật trả lời năm yêu cầu của Devadatta Này Devadatta (Đề-bà-đạt-đa), thôi đi. Vị nào muốn trú A-lan- nhã thì hãy trú A-lan-nhã; vị nào muốn trú trong làng thì cứ trú trong làng. Vị nào muốn khất thực thì nên khất thực; vị nào muốn được mời dùng bữa thì cứ hoan hỷ sự thỉnh mời. Vị nào muốn mặc y bằng vải phấn tảo thì hãy mặc y phấn tảo; vị nào muốn nhận y của gia chủ thì cứ hoan hỷ nhận. Này Devadatta, ta 1 A-lan-nhã: Một loại rừng gần nơi cư trú của người dân. 2 Y phấn tảo: là y làm bằng nhiều mảnh vải được lượm từ bãi rác.

4 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp cho phép trú dưới gốc cây trong tám tháng; cũng cho phép dùng ba thứ cá thịt thanh tịnh là: không thấy, không nghe, và không nghi. Vin., Phân tích giới tỳ-kheo, chương Mười ba pháp: Tăng tàn, điều thứ mười.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 5 KHÔNG CHO PHÉP ĂN THỊT Nguyên nhân không ăn thịt Không tổn hại các chúng sanh khác Ai tìm cầu hạnh phúc, tổn hại chúng sanh khác, cũng mong ước hạnh phúc, thì chẳng vui đời sau. Dhp. 131. Tạo nghiệp sát hại là do ăn thịt Trong các ác nghiệp chỉ có sát sanh là nặng nhất. (…) Kết nghiệp sát hại là do ăn thịt rất là thê thảm. Tạo nghiệp sát, chỉ vì ăn thịt mà gây ra thảm cảnh. Tai họa ăn thịt vô cùng khốc liệt, không những hại đời này mà còn liên lụy đến nhiều đời sau. (…) Đạo Phật giải quyết nghiệp sát bằng cách niệm Phật, không sát sanh, ăn chay, phóng sanh. Muốn diệt nghiệp sát quá khứ và hiện tại, chúng ta phải ăn chay không sát sanh, lại chí thành niệm Phật A-di-đà và bồ-tát Quán Thế Âm thì nhất định tiêu trừ nhanh chóng, lại được tăng trưởng công đức và trồng căn lành. Ấn Quang đại sư toàn tập: “Niệm Phật, ăn chay và phóng sinh” Từ tâm thì không nên ăn thịt “Này Đại Tuệ! Những kẻ bày bán thịt trên lề đường hay phố chợ hoặc đem cả thịt chó, thịt ngựa, thịt người, thịt bò… vì cầu lợi nên đem ra mua bán, tạp nhạp nhơ bẩn như vậy sao có thể ăn được? Này Đại Tuệ! Tất cả các loại thịt đều được tạo nên bởi tinh huyết dơ bẩn, người cầu thanh tịnh sao cầm lấy mà ăn được? Này Đại Tuệ! Chúng sanh nhìn thấy những người ăn thịt thảy đều kinh sợ, người tu từ tâm sao có thể ăn thịt được?” T.671, Kinh Nhập Lăng-già, quyển 6, phẩm VIII: Đoạn thực nhục. Giữ giới vô úy thí cho các chúng sanh khác Này thiện nam tử, vô úy thí là loại bố thí tối thắng. Đó là nguyên nhân mà ta thuyết năm việc đại bố thí là năm giới để làm giảm bớt sự sợ hãi của chúng sanh. T.1488, Ưu-bà-tắc giới kinh, ch.22, p.1064a16–18.

6 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp Sáu nhân duyên không nên ăn thịt “Con người ăn thịt giống như ăn con cái của mình, các loài súc sanh đều đã làm cha mẹ, anh em, vợ con, không thể đếm hết. Cũng có sáu nhân duyên không nên ăn thịt: một là đừng tự mình giết; hai là đừng dạy người ta giết; ba là đừng đồng lòng với sự giết; bốn là đừng thấy việc giết chóc; năm là đừng nghe việc giết chóc; sáu là nghi cố ý giết vì ta. Không phải sáu ý này thì được phép ăn thịt, có sáu điều nghi kia thì không ăn. Người có thể không ăn thịt thì được phước báo không hoảng sợ.” Kinh Phật Y. Không ăn thịt vì chúng sanh với mình là như nhau “Thế sự lưu chuyển, đại thể như vậy, giống như múa hát biến tấu ảo diệu của người đang múa. Đã như thế thì nhục thân của chính mình với nhục thân của chúng sanh khác không có gì là số hai tách rời, vậy nên các bậc Như Lai cấm tuyệt sự ăn thịt.” Kinh Chỉ Man. Ăn thịt là nhân của sân si “Nếu ăn thịt thì sinh tâm sân, hơn nữa còn gieo ác nhân; nếu uống máu thì dẫn đến ngu si, hơn nữa còn gieo ác duyên. Tội lỗi của ăn một miếng thịt lớn hơn cả lỗi uống rượu.” Đại bi Quan Âm xuất Luân hồi căn tục. Ăn thịt và mê tín Lại nữa Văn-thù-sư-lợi! Thế gian có nhiều tà sư ngoại đạo, không biết rõ nhân quả thiện ác, không thấu hiểu báo ứng luân hồi, cứ đi theo tâm cuồng tín tà đảo kiến. Tôn thờ thần quỷ, thực hành giáo pháp của quỷ, lừa mị thế nhân, rộng giết thân mạng của những loài cầm thú súc sanh như heo, dê, bò, ngựa… Mình ham ăn thịt lại nói bậy là tế trời tế đất, tế thần tế quỷ, cầu phúc cầu thọ, bảo vệ nhà cửa và hộ thân, thác lý do cho quỷ để cướp lấy tài sản thức ăn của người, lại còn viết sách vở bùa phép của quỷ truyền thụ cho người đời, nói bậy là có công lực độ cho người sanh Thiên, đòi tài vật của người, tự sống bằng tà mạng. Nếu giết mạng mà có thể cứu mạng thì bậc vương hầu cứ sống mãi trên đời, hoặc bùa phép mà có thể độ người thì tà sư được lên trời rồi. Người mê trên đời tin theo tà kiến này, làm liên lụy mọi người, cùng đi vào địa ngục, hễ mất thân người thì muôn kiếp khó có lại… Luận Kim cương tâm Tổng trì, 17. Tà sư ngoại đạo luận.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 7 Sự ngụy biện về ăn thịt Nếu như kẻ thông minh có tài biện mà nói bậy về bát-nhã, mình ăn thịt cho no rồi đến tìm tăng nói thiền ấy là Ma. Kẻ ngu có phẩm chất quý giá của kẻ ngu, ta thành thật tự cân nhắc đấy. Thà làm ông cụ bà lão chay sạch chứ đừng làm con dân đàn bà của Ma. Liên Trì đại sư, Vân Thê pháp vựng: Tu hành ngữ lục. Mười loại nghiệp được phước báo nhân gian Lại nghiệp như thế nào được phước báo của nhân gian? Có mười loại nghiệp, những mười nghiệp gì? Một là lìa bỏ sát sanh, hai là lìa bỏ lấy của không cho, ba là lìa bỏ việc phi Phạm hạnh, bốn là lìa bỏ lời giả dối, năm là lìa bỏ lời nhơ tạp, sáu là không nói lời ly gián, bảy là lìa bỏ lời thô ác, tám là lìa bỏ uống rượu và ăn thịt, chín là lìa bỏ si ám, mười là lìa bỏ tà kiến, vững tin vào Tam bảo, tu những mười loại nghiệp mềm mại như vậy thì được phước báo nhân gian. T.81, Kinh Phân biệt Thiện ác Báo ứng, quyển thượng. Tội ăn thịt thì đọa địa ngục a-tỳ Lành thay! Lành thay! Tất cả chúng sanh những ai không ăn thịt là đứa con yêu để lại của ta, thì chẳng phải phàm phu. (…) Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh hoặc trụ một kiếp không cho phép ăn thịt. (…) Những kẻ ăn thịt thì đọa địa ngục A-tỳ (…) Tất cả chúng sanh những kẻ ăn thịt là đoạn mất giống đại từ, những ai không ăn thịt có công đức lớn, trăm ngàn muôn phần không bằng một của họ. T.2875, Kinh Đại Phương Quảng Hoa Nghiêm Thập Ác phẩm. Đối với cư sĩ Những người ăn thịt không nên thí bằng thịt Bấy giờ Ca-diếp Bồ-tát bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Những người ăn thịt không nên thí bằng thịt. Vì cớ sao? Con thấy những người không ăn thịt thì có công đức lớn. Phật khen Ca-diếp: Lành thay! Lành thay! Nay ngươi lại có thể khéo biết ý của ta, Bồ-tát hộ pháp phải nên như vậy. Hỡi thiện nam tử! Bắt đầu từ ngày nay, không cho đệ tử Thanh văn ăn thịt, hoặc khi thụ nhận tín thí của đàn việt, nên quán tưởng như ăn thịt con mình. Ca- diếp Bồ-tát lại bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Như Lai không

8 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp cho ăn thịt như thế nào? Này thiện nam tử! Kẻ nào ăn thịt là đoạn mất hạt giống đại từ. Kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển 4, phẩm Như Lai tính Không giết hại động vật để cúng dường Này Jīvaka, nếu có bất kỳ người nào vì Như Lai, hay vì đệ tử Như Lai mà giết hại động vật, người ấy trong năm trường hợp đã gây lỗi lầm. Khi người ấy nói rằng: ‘Hãy đi và dắt con vật này đến,’ đó là trường hợp thứ nhất, người ấy đã gây lỗi lầm. Khi con vật ấy bị dắt đi, vì cổ nó bị kéo lôi, nên phải chịu khổ ưu, đó là trường hợp thứ hai (…). Khi người ấy nói: ‘Hãy đi và giết con vật này,’ đó là trường hợp thứ ba (…). Khi con thú ấy bị giết, chịu đựng khổ ưu, đây là trường hợp thứ tư (…). Khi người ấy cúng dường những vật thực không được cho phép thụ dụng cho Như Lai hay đệ tử Như Lai, đó là trường hợp thứ năm, người ấy đã gây nhiều lỗi lầm. MN.55, Kinh Jīvaka. Không giết thú vật để hiến tế - Này bà-la-môn, trong lễ tế đàn này, không có trâu bò bị giết, không có dê cừu, gà heo bị giết, không có các loại sinh vật nào khác bị sát thương. Không có cây cối bị chặt để làm trụ cột tế lễ, không có loại cỏ cát tường bị cắt để rải xung quanh đàn tế. Và những người tỳ nữ hay gia bộc hay nhân công không bị dọa nạt bởi hình phạt hay sợ hãi và không làm việc trong than khóc với nước mắt tràn đầy mặt mày. Chúng muốn thì chúng làm, chúng làm những gì chúng muốn. Tế đàn này được hoàn tất chỉ với dầu, sanh tô, thục tô, mật và đường miếng.… - … con xin trả tự do và sự sống cho bảy trăm con bò đực, bảy trăm con bò cái, bảy trăm con dê và bảy trăm con cừu. Mong chúng được ăn cỏ xanh và uống nước mát, mong chúng được hưởng gió mát. DN.5, Kuṭadanta Sutta. Năm nghề phi Chánh mạng Này các tỳ-kheo, người cư sĩ không nên làm năm nghề buôn bán. Đó là năm điều gì? Buôn bán vũ khí, buôn bán chúng sanh, buôn bán thịt, buôn bán rượu và buôn bán thuốc độc. AN.5.177, Vanijjā Sutta.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 9 Các nghề phi Chánh mạng Này thiện nam tử, có năm nghề nghiệp mà người thọ trì Bồ-tát giới không nên làm. Vị ấy không nên buôn bán chúng sanh; vị ấy không nên buôn bán khí giới; vị ấy không nên buôn bán độc dược; vị ấy không nên buôn bán rượu; và vị ấy không nên ép mè lấy dầu3… Này thiện nam tử, lạic ó thêm ba việc mà người giữ giới Bồ-tát không nên làm. Vị ấy không nên làm nghề chài lưới; vị ấy không nên làm nghề nhuộm vải; và vị ấy không nên làm nghề thuộc da. T.1488, Ưu-bà-tắc giới kinh, ch.14, p.1048c02–08. Bát quan trai giới Ta thuyết phận gia chủ, để là trò hiền thiện. Còn sở hữu, khó thành, đầy đủ pháp tỳ-kheo. (1) Chớ giết hay bảo giết, hay tán đồng sát sanh. Từ bỏ các hành phạt, với mọi loài mạnh yếu. (…) (5) Cư sĩ mộ pháp này, chớ uống rượu, chớ rủ, chớ chấp thuận uống rượu, khi biết rượu làm điên. Vì say, ngu làm ác, còn khiến người phóng dật. Bỏ việc vô đức này, cuồng si làm ngu thích. (…) Buổi sáng hành trai giới, bậc trí tâm tịnh tín, tùy hỷ cúng dường tăng, thực phẩm hợp khả năng. Nuôi mẹ cha theo Pháp, làm buôn bán đúng Pháp, 3 Có lẽ vì điều này có thể giết những sinh vật nhỏ có trong các hạt.

10 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp gia chủ duy trì được, sanh trời ‘Tự quang minh’. Snp. 393–404, Dhammika Sutta. Đối với sa-môn Ăn thịt là sai Lại nữa thiện nam tử! Trong đời vị lai, bọn ác tỳ-kheo ở mọi nơi như từng quốc gia, từng thành thị, từng làng xóm, từng ngôi chùa giảng nói các kinh, luật, luận, tùy văn lấy nghĩa, không thấu hiểu yếu nghĩa thâm mật của đức Như Lai. Này thiện nam tử! Ta hiện ra nơi đời mà vì đại chúng nói là ăn thịt chúng sanh thì không có chuyện đó. Nếu kẻ nào ăn thịt thì đó là không có lòng từ bi, kẻ không có lòng từ bi không phải là đệ tử của ta, ta không phải là thầy bọn ấy. T.2896, Kinh Thị sở phạm giả Du-già Pháp kính, phẩm III: Thường Thí Bồ-tát sở vấn. Ăn thịt không có lợi cho tu thiền và tu từ bi Này A-nan, nếu chẳng dứt việc sát hại mà tu thiền định thì cũng giống như có người tự bịt lỗ tai mà kêu lớn tiếng rồi mong người khác không nghe. Đó gọi là muốn giấu mà càng lộ. Bậc tỳ-kheo thanh tịnh và chư bồ-tát, dù đi trong đường rẽ còn chẳng dẫm trên cỏ, huống là lấy tay nhổ cỏ. Sao người có lòng đại bi có thể lấy máu thịt chúng sanh để ăn no chứ? T.945, Đại Phật đỉnh Như Lai Mật nhân Tu chứng Liễu nghĩa chư Bồ-tát vạn hạnh Thủ-lăng-nghiêm Kinh, quyển 6. Tác động của xã hội đối với việc không ăn thịt Này Đại Tuệ! Nếu đệ tử của ta ăn thịt thì sẽ khiến cho người đời ôm niềm chê bai mà nói lời rằng: ‘Tại sao sa-môn là người tu tịnh hạnh, lại từ bỏ những vị thức ăn được các bậc thiên tiên dùng, còn du hành thế gian như loài ác thú ăn thịt đầy bụng, khiến các loài chúng sanh đều có nỗi kinh sợ, hủy hoại đi hạnh thanh tịnh và đánh mất lẽ sống của bậc sa-môn.’ Bởi vậy trong Phật Pháp không để người ta sinh lòng chê bai, bồ-tát thương xót vì che chở chúng sanh nên không để cho họ nảy sinh lòng nghĩ như vậy, do đó không nên ăn thịt. T.671, Kinh Nhập Lăng-già, quyển 6, phẩm VIII: Đoạn thực nhục.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 11 Ăn chay và khất thực Thượng tọa Ca-diếp đã từ bỏ những loại thức ăn ngon ngọt, bỏ thức ăn có mùi thịt, thọ trì tu hành theo pháp không ăn thịt, đi từng nhà khất thực không nghĩ ngợi điều xấu ác, thủy chung luôn một, khổ hay vui chẳng thay đổi. Những nơi ngài đã đi khất thực có nhiều loại người, hoặc nói không có đồ dâng, hoặc là chửi mắng, ngài trả lời một cách an lạc, sau đó bỏ đi, lòng không lay động. Nếu người ta nói có đồ dâng cúng ngài cũng chẳng sinh lòng tham vui, đáp lời một cách an lạc, nhận rồi mà đi, lòng không lay động. T.120, Kinh Ương-quật-ma-la, quyển 1. Ăn thịt sẽ rơi vào đạo quỷ thần Các ngươi tu tam-muội vốn là để ra khỏi trần lao. Nếu tâm sát hại chẳng trừ thì chẳng thể ra khỏi trần lao. Dù có nhiều trí thiền định hiện tiền mà chẳng dứt sát hại, thì cũng ắt phải rơi vào nẻo thần. Người hạng trên thì trở thành đại lực quỷ, hạng vừa thì thành phi hành dạ-xoa và các loại quỷ soái, hạng dưới sẽ thành địa hành la-sát. Các loài quỷ thần kia cũng có đồ chúng, tất cả đều xưng đã thành đạo vô thượng. Sau khi ta diệt độ, trong đời mạt pháp, loại quỷ thần này hiện khởi trên thế gian rất đông, nói dù ăn thịt vẫn được đạo bồ-đề. T.945, Đại Phật đỉnh Như Lai Mật nhân Tu chứng Liễu nghĩa chư Bồ-tát vạn hạnh Thủ-lăng-nghiêm Kinh, quyển 6. Quả báo địa ngục của sa-môn ăn thịt uống rượu “Bảo Đạt càng tiến lên trước đi vào một địa ngục có tên là địa ngục Phi Đao, những địa ngục khác rộng lớn mười lăm do-tuần, tường sắt bao quanh, lưới sắt phủ lên, bốn góc thành ấy lưới bằng lửa bừng cháy thổi gió đến Thiết sơn. Ngọn núi ấy mài sắc đến nỗi trở thành đao bén, dao có hai lưỡi cũng giống như mũi nhọn. Những cái máy dao cắt bay giữa hư không cũng như tiếng sét, từng lưỡi dao chém chát vào nhau cũng như sấm nổ, bay từ trên không đến xẻ ngay đầu tội nhân rồi từ đầu đâm vào, xuyên ra dưới chân, đâm vào từ lưng xuyên ra ngay óc, khói lửa cũng bừng lên theo ra bên trái vào bên phải, một ngày một đêm thọ tội muôn phần, ngàn lần sống ngàn lần chết, muôn lần sống muôn lần chết, nếu được làm thân người thì sinh những vết lở ghê gớm phủ khắp toàn thân. Bảo Đạt hỏi rằng: Những Sa-môn này làm những hạnh gì mà chịu khổ như vậy? Mã Đầu La-sát trả lời: Bọn Sa-môn này thọ tịnh giới của Phật mà không giữ cho thanh tịnh, lòng không có từ tâm đi uống rượu ăn thịt mà nói là

12 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp không có tội báo, tội ăn thịt lẽ không thể tha, do nhân duyên ấy nên chịu tội này.” Kinh Phật Danh, quyển 12. Người tu không ngại khó nhọc Chí dốc nên Phật tổ siêu thăng Lòng nguyện độ chúng sanh trầm nịch Đêm đông trường, khi mật niệm gióng tiếng chuông thánh thót lênh kênh Ngày hạ tiết, lúc tụng kinh nện dùi mõ khoan mau lịch kịch Chỉn chuộng một bề đạo đức miệng chẳng hiềm ăn đắng ăn cay Vốn yêu hai chữ từ bi thân nào quản mặc lành mặc rách. Chân Nguyên, Thiền tịch phú. Đối với bồ-tát Bồ-tát không nên ăn thịt Này thiện nam tử! Nếu các vị Bồ-tát khi sống ở trong đồi mả, đối với các loài chúng sanh luôn trú với tâm từ và tâm lợi ích, kiên trì tịnh giới, thu giữ oai nghi, làm trong sạch thân mình thì không nên ăn thịt. Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, quyển 34, phẩm Nhập Bất Tư Nghị cảnh giới giải thoát Phổ Hiền Bồ-tát hạnh nguyện. Bồ-tát không ăn thịt vì lòng từ bi Này Đại Tuệ! Tất cả các loại thịt có vô lượng duyên, Bồ-tát ở trong đó sinh lòng thương xót, không nên ăn nuốt, nay ta sẽ vì ngươi nói chút phần về nó. Đại Tuệ! Tất cả chúng sanh từ vô thủy kiếp nay ở trong sinh tử luân hồi mãi không thôi, không có ai không từng là cha mẹ, anh em, con cái, quyến thuộc, thậm chí là bạn bè đối đãi thân thương với ta, khác đời thì thụ những thân chim, thú, làm sao có thể bắt lấy trong số đó mà ăn được? Đại Tuệ! Bồ-tát Ma-ha-tát quán các loài chúng sanh giống như thân mình, nghĩ rằng thịt đều đến từ những loài có mạng sống, làm sao mà ăn? Này Đại Tuệ! Ngay đến bọn quỷ La-sát nghe những lời ta nói hãy còn chấm dứt ăn thịt, huống chi người ưa Pháp… T.671, Kinh Nhập Lăng-già, quyển 6, phẩm VIII: Đoạn thực nhục.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 13 Về việc ăn thịt Này Đại Huệ, ta sẽ giảng giải cho ông vô số lý do khiến bồ-tát từ bi mà không ăn thịt. Này Đại Huệ, trên đời này, từ vô thỉ đến giờ, trong luân hồi, không chúng sanh nào chưa làm cha, mẹ, anh, em, con cái của ông. Đến đời khác, họ sinh làm thân chim thú, hoặc thân thích. Thế thì, làm sao một vị bồ-tát ma-ha-tát, muốn tu tập Phật Pháp, xem chúng sanh như thân phần của mình, lại có thể ăn thịt?... Này Đại Huệ, cho nên không thích hợp cho bất kỳ chúng sanh nào ở bất kỳ đâu trong vòng luân hồi có bất kỳ khái niệm nào về thân thuộc lại ăn thịt. Họ phải trau dồi nhận thức rằng tất cả chúng sanh đều quý giá như con một của mình. Thật không thích hợp để một vì bồ-tát có lòng từ bi lại ăn thịt. Này Đại Huệ, ngay cả trong những hoàn cảnh ngoại lệ, một vị bồ-tát đang như thực tu tập mà lại ăn bất cứ loại thịt nào cũng là không thích hợp… Laṅkāvatāra Sūtra, ch.8. Bồ-tát phát bồ-đề tâm thì không ăn thịt Bồ-tát Ma-ha-tát phát bồ-đề tâm, không mất chánh niệm, đối với chúng sanh chẳng khởi tâm mưu hại, không ăn thịt, không lừa dối, thường đem thiện pháp giáo hóa chúng sanh. Chúng sanh không nhận ngài cũng không từ bỏ, không ưu sầu, có thể điều phục mình và cũng có thể điều phục kẻ khác. Tùy theo chỗ chúng sanh được giáo hóa ngài đều có thể khiến phước nghiệp thảy sanh trưởng. Nếu vì nhân duyên khách trần phiền não mà đọa ba đường ác thì có thể nhanh ra khỏi. Tuy cùng chịu khổ nhưng chẳng sinh đau đớn oán giận, thấy kẻ chịu khổ thì sinh tâm thương xót. Bậc Bồ-tát mới phát tâm Bồ-đề thành tựu vô lượng công đức như vậy. Kinh Bồ-tát Thiện giới, phẩm III: Bồ-tát địa phát Bồ-đề tâm Giới bồ-tát về việc ăn thịt Tất cả các loại thịt đều bị cấm, nếu Phật tử cố tình ăn thịt, thì vị ấy hủy hoại chủng tử của đại từ bi, và vị ấy sẽ bị tất cả chúng sanh xa lánh. Vì vậy, tất cả bồ-tát không được ăn tất cả thứ thịt của mọi loài chúng sanh. Ăn thịt thì phạm vô số tội. Nếu bồ-tát cố tình ăn thịt thì phạm tội khinh cấu. T.1484, Phạm võng kinh, p.1005b10–b13. Sát sanh ăn thịt là nghiệp nặng nhất Văn-thù bồ-tát bạch Phật:

14 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - Trong tất cả tội nghiệp, nghiệp nào là nặng nhất? Phật nói: - Trong tất cả tội, sát sanh ăn thịt nghiệp ấy là nặng nhất. Vì cớ sao? Một đao trả một đao, một mạng đền một mạng, trong ngàn muôn đời cứ nuốt lẫn nhau không ngừng. Bởi vậy Bồ-tát muốn ra khỏi luân hồi thì học từ bi trước hết, không ăn thịt không giết hại. Luận Kim cương tâm Tổng trì, 21. Thụ trì ngũ giới luận. Giới sát không ăn thịt ắt thành đạo bồ-đề Tất cả yêu con mắt, Yêu con cũng lại vậy, Yêu thọ mạng khôn cùng, Bởi vậy không sát sanh. Gọi là Phạm hạnh tột, Không giết không nghĩ giết, Cũng không dám ăn thịt, Thấy kẻ giết như giặc, Hẳn biết đọa địa ngục, Kẻ ăn thịt lắm bệnh, Đoạn mạng tự trang nghiêm, Thực hành tâm đại từ, Vâng gìn giới không giết, Ắt thành đạo Bồ-đề. T.1486, Kinh Thọ Thập thiện giới, phẩm II: Thập thí báo. Di-lặc Bồ-tát Pháp vương tử, Từ mới phát tâm không ăn thịt, Do nhân duyên đó tên Từ Thị, Vì muốn thành thục các chúng sanh. T.159, Kinh Đại thừa Bản sinh Tâm địa quán, quyển 3, phẩm II: Báo ân [hạ]. Thà tự hủy hoại mình chứ không ăn thịt Thà đem đốt thân bằm con mắt, Không nỡ giết hại ăn chúng sanh. Kinh từ bi lời chư Phật dạy, Trong kinh kia nói kẻ hành từ, Thà đập xương tủy móc óc não, Không nỡ nhai thịt ăn chúng sanh. Kẻ ăn thịt như lời Phật nói, Người này hành từ không tròn đủ,

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 15 Luôn chịu đoản mạng lắm bệnh thân, Mê chìm sanh tử không thành Phật. T.183, Kinh Nhất Thiết Trí Thăng Quang Minh tiên nhân từ tâm nhân duyên bất thực nhục. Đối với du-già sĩ Từ bỏ ăn thịt và tri túc Người thực hành Du-già dù lúc nào hay ở đâu đều phải từ bỏ ăn thịt, lượng thức ăn kia phải tương ứng với hành giả, chỉ lấy tiêu chuẩn bằng mức vừa phải. Liên Hoa Giới đại sư, Luận Tu tập Thứ đệ. Người tu du-già mật thừa về lý không ăn thịt Người tu Du-già Mật thừa về lý nên liễu tri rằng đức Thế Tôn chưa bao giờ cho phép ăn thịt, vì máu thịt cần phải nhờ sát hại chúng sanh mới có được. Nếu không có người ăn thịt thì sẽ không có người tổn hại chúng sanh để cung cấp thịt ăn; không có kẻ ăn thịt thì cớ đâu những loài vô tội phải bị giết hại? Không có kẻ ăn thịt thì bọn đồ tể sát sanh lại vì sao ứng hiện thế gian? Chỉ vì kẻ ăn thịt đông nên bọn sát sinh mới có khả năng nói xằng bậy. Đại sư Longchenpa, Thời luân Kim cương Vô Cấu Quang thích. Năm pháp cần thọ trì để dùng chú thuật “Bồ-tát Ma-ha-tát vì phá những loại ác của chúng sanh nên thọ trì thần chú, đọc tụng thông lợi để làm lợi ích chúng sanh. Vì chú thuật nên thọ trì năm pháp: một là không ăn thịt, hai là không uống rượu, ba là không ăn năm thứ hăng cay, bốn là không dâm dục, năm là không thụ thực ở trong nhà bất tịnh. Bồ-tát đầy đủ năm pháp như vậy, có thể làm lợi ích lớn cho vô lượng chúng sanh.” Kinh Bồ-tát Thiện giới, phẩm XIX: Bồ-tát địa trợ Bồ-đề số pháp dư. Tùng triêu dần đán trực chí mộ, nhất thiết chúng sanh tự hồi hộ, nhược ư túc hạ táng kỳ hình, nguyện nhữ tức thời sanh tịnh độ. Án-dật-đế-luật-ni-sa-ha.

16 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp (Dịch): Từ sáng giờ Dần suốt đến tối, hết thảy chúng sanh tự tránh giữ, nếu rủi mất mạng dưới chân tôi, cầu nguyện tức thời sanh tịnh độ. Án-dật-đế-luật-ni-sa-ha. X.1115, Tỳ-ni nhật dụng thiết yếu, hạ đơn.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 17 CẤM RƯỢU VÀ NGŨ TÂN Không nên dùng rượu thịt và ngũ tân Ta xem chú ng sanh như con, néu nghe lá y thiṭ là m thứ c ăn, cũ ng chả ng tù y hỷ, huó ng nữ a là tự ăn. Đạ i Tuẹ , tá t cả cá c loạ i ngũ tân: hà nh, hẹ , tỏ i, né n… thườ ng xông hơi xú ué bá t tịnh, là m chướ ng Thá nh đạ o, chướ ng cả chõ trú thanh tiṇ h củ a trờ i, ngườ i, thé gian… huó ng chi là Tịnh độ củ a chư Phạ t? Rượ u cũ ng thé , hay là m chướ ng Thá nh đạ o, gây tỏ n thiẹ n nghiẹ p, thườ ng khié n sinh nhiè u lõ i… Này Đạ i Tuẹ ! Thé nên ngườ i hà nh Thá nh đạ o thì cá c thứ đò mạ n, rượ u, thịt, hà nh, tỏ i… tanh hôi đè u chả ng nên dù ng. T.671, Kinh Nhập Lăng-già, quyển 6, phẩm VIII: Đoạn thực nhục. Ngũ giới của bồ-tát tại gia Đức Phật nói với trưởng giả Úc-già, ‘Bồ-tát tại gia phải thọ thiện giới, y cứ vào ngũ giới. Vị ấy nên vui với việc bất sát, từ bỏ dao gậy, và tàm quý, phát nguyện không giết hại bất cứ chúng sanh nào, không sân hận với bất kỳ chúng sanh nào, và luôn luôn tu tập tâm từ bi một cách bình đẳng với tất cả. (…) Vị ấy phải xa lìa việc uống rượu. Vị ấy không nên say sưa hay mê loạn; không nên quên những điều đã nói hay cuồng loạn; không nên nhạo báng hay đánh lộn. Vị ấy nên an trụ chánh niệm, rồi nhận biết rõ ràng. Nếu vị ấy muốn xả thí tài vật, thì nên bố thí thức ăn cho người cần ăn, nước uống cho người cần uống. Khi bố thí, vị ấy nên nghĩ rằng, ‘Khi nghĩ đây là bố thí ba-la-mật, tôi sẽ cho những thứ gì họ muốn, tôi sẽ làm người cầu xin thoả mãn ước muốn. Nếu cần thí rượu để nhiếp phục người trở nên chánh niệm, không mê hoặc, ta sẽ thí rượu. Vì sao? Vì đây là bố thí ba- la-mật, làm thoả mãn mong muốn của người khác. Này Trưởng giả, đó là bồ-tát tại gia bằng bố thí ba-la-mật mà hồi hướng vô thượng chánh đẳng bồ-đề.’ T.310, Đại bảo tích kinh, Pháp hội Úc-già trưởng lão, p.473c05–25. Không nên ăn ngũ tân Nếu là Phật tử thì không nên ăn ngũ tân: hành, hẹ, tỏi, nén, hưng cừ. Tất cả các thực phẩm có thêm những loại ngũ tân này vào đều không được ăn. Phật tử cố tình ăn phạm tội khinh cấu. T.1484, Phạm võng kinh.

18 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp Ăn ngũ tân gần Ma hơn gần Phật Này A-nan, mọi chúng sanh đều ăn thức lành thì sống, ăn thức độc thì chết. Vậy, các chúng sanh cầu tam-ma-đề nên xả ly năm thứ rau cay trên đời. Năm thứ rau-cay này nếu ăn chín thì phát dâm tâm, nếu ăn sống thì khởi sân tâm. Những người ăn rau cay đó trên đời dù biết giảng nói 12 bộ kinh, nhưng thiên tiên 10 phương ngại nó hôi nhớp nên đều tránh xa, còn các loài ngạ quỷ... nhân lúc người kia ăn rau cay thì liếm môi mép của họ. Cho nên người ấy với quỷ thường ở một chỗ, phước đức ngày càng tiêu, lâu ngày chẳng có lợi ích. Người ăn rau cay đó tu phép tam-ma-đề, thì các vị bồ-tát, thiên tiên, thiện thần 10 phương không đến hộ trì được; còn đại lực Ma vương được dịp đó liền hiện ra thân Phật, đến thuyết pháp cho người kia, hủy báng giới luật, tán thán dâm dục, sân hận, si mê. Đến lúc mệnh chung, thì người ấy tự mình làm quyến thuộc của Ma vương. Khi hưởng thụ phước ma hết rồi, thì đọa vào ngục Vô Gián. Này A- nan, người tu đạo bồ-đề, phải dứt trừ năm thứ rau cay này. T.945, Đại Phật Đỉnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ-Tát Vạn Hạnh Thủ-lăng-nghiêm Kinh, quyển 8.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 19 KHUYÊN ĂN CHAY Khuyên ăn chay để thảnh thơi Khuyên người giữ giới ăn chay Chí tâm niệm Phật có ngày thảnh thơi Toàn Nhật, Hoán tỉnh trần tâm khuyến tu tịnh độ vãn. Sám hối tội căn do lưỡi Nghiệp tội căn lỗ miệng ấy, tham muốn thảy thảy mọi vị ngon, muốn biết đường khéo, đừng vụng. Nếm hết bao nhiêu vị nọ vị kia, quen biết chưng giống gầy giống béo. Giết hại thửa loài chúng mà hằng nuôi nấng chưng nhà mình. Nướng nấu những cái giống phi tiềm. Mổ nấu chưng phô loài du tẩu. Những giống tanh tao hằng đầy trong miệng, hối hám hun chưng trong lòng. Ăn đoạn rồi lại đòi ăn nữa, chưa bao bấy lỗ miệng ngấy suốt. Hoặc ra chưng áng chay hội, lạy Phật cùng kỳ thần, thì chịu nhịn đói, lòng không. Chờ chưng đến lúc việc rồi, sớm mai bèn ăn chay trắng. Cơm thì ít, nước thì nhiều, khác nào người có bệnh gượng mà ăn lấy cháo, uống lấy thuốc. Của bùi béo đầy trước mặt, cười nói vui vẻ [hết] mức. Khuyên hết uống thì ăn, hết ăn thì uống, ấm đem lại, rét mang đi. Tiệc bày thết đãi khách cùng tiệc lo liệu gây dựng, lấy vợ gả chồng. Sát hại những bầy chúng sinh đều bởi muốn đầy ba tấc lưỡi. Kìa nên, làm những lời vọng ngôn, thâu dẹt bèn nên chưng lời ỷ ngữ. Hai lưỡi đua nói ra những điều chẳng có. Một lỗ miệng phun độc chửi càn, mắng mỏ chưng trong tam bảo, dối trá chưng đạo cha mẹ. Dối đạo thánh, dể người hiền tài, chê đấy vua chúa, dối giá cha mẹ. Nói những sự vắn dài của người ta, cái chẳng phải [của] mình ẩn đi. Bàn bạc những sự xua nay, cùng giở gương những sự đường nọ với nỗi kia. Khoe khoang rằng mình giàu có, lấn những kẻ khó khăn. Duồng dẫy chưng đạo sãi vải, chửi mắng thửa con đòi. Lời bỉnh tày thuốc độc; nói ngọt bằng phím thổi sênh đánh. Giồi [văn] sự lỗi nhầm người ta, nói nhửng lời không ra làm có. Hờn mắng trời làm rét cùng nóng, thổ chửi dưới sông cùng trong nước. Nói lếu hủy báng nơi phòng thầy, dức lác trong thửa điện Bụt ngự. Những phô tội ấy bằng dường ấy, chẳng lường được, chẳng có biên nào. Ví bằng số cát trần sa, kể đấy cũng chẳng có xiết. Chưng ngày trăm tuổi, mình cùng phải vào địa ngục lôi lưỡi, lại vào ngục thiết lê làm trâu cày, cùng vào dương đồng nước đồng

20 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp nung bắt rưới. Tội địa ngục mê rồi, muôn kiếp mới được sống lại làm người. Ví dầu có được làm người thì lại phải nghịu báo.4 Trần Thái Tông, Thiền tông Khóa hư ngữ lục, Sám hối thiệt căn tội. Tuệ Tĩnh dịch nôm. Ăn chay niệm phật cũng là một cách tu Ai mà có chí tu hành Một lòng tinh tiến tín thành chẳng sai Đã lòng niệm Phật ăn chay Tu đường nhân nghĩa thảo ngay làm đầu Sắc tài danh lợi mựa cầu Làm lành bỏ dữ mai sau mới nhờ Thoát nơi khổ não ta-bà Về miền Tịnh độ rất là vui thay. Toàn Nhật, Tam giáo nguyên lưu ký, câu 329-36. Chăm sóc tất cả chúng sanh Này chư Phật tử, khi bồ-tát sanh làm một vị vua, có thể ra sắc lệnh mình muốn, vị ấy ra lệnh cấm sát sanh. Việc sát sanh bị ngăn cấm ở mọi thị trấn và làng mạc trong vương quốc. Tất cả các loài vật – loài không chân, loài hai chân, loài bốn chân và loài nhiều chân – đều được thí cho sự vô úy, và chẳng ai có ý làm tổn hại chúng. Vị ấy đã tu tập tất cả hạnh bồ-tát, từ mẫn đối với động vật, không làm hại chúng dưới bất cứ hình thức nào. Vị ấy đã tu tập tâm diệu giác để mang lại an ổn cho tất cả chúng sanh. T.279, Đại phương quảng phật hoa nghiêm kinh, p.149b16–21. Không sát sanh mà phóng sanh 14. Nếu Phật tử có tâm địa xấu ác, cố ý phóng lửa đốt cháy núi rừng hoặc vùng hoang dã giữa tháng tư và tháng chín,5 hoặc nếu vị ấy cố ý đốt cháy nhà cửa, công trình, thôn xóm, thành phố, tự viện, cây trên đồng được da-xoa ngụ, hoặc tài sản của người khác mà mình không được phép đốt, vị ấy phạm tội khinh cấu. 20. Nếu Phật tử, với tâm bi mẫn, giải thoát động vật khỏi sự giam cầm, vị ấy nên nghĩ rằng, ‘Tất cả đàn ông là cha ta, tất cả phụ nữ là mẹ ta. Từ nhiều kiếp sống, ta chưa bao giờ sanh ra mà không có cha mẹ. Tất cả chúng sanh trong sáu cõi đếu đã từng là cha mẹ ta. Nếu ta giết hoặc ăn thịt một hữu tình, ta sẽ giết một trong 4 Quả báo điếc lác. 5 Tính theo âm lịch, đây là khi lửa có thể gây tổn hại lớn nhất đến động vật.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 21 những cha mẹ đã cho ta hình hài này. Đất và nước là thân thể ban sơ của ta. Lửa và gió là thân thể ban sơ của ta.’ Đó là tại sao, trong mỗi đời, việc phóng sanh là sự tu tập không đổi. Vị ấy cũng dạy người khác phóng sanh. Khi nhìn thấy ai đó giết một con vật, vị ấy sẽ cố gắng tìm cách giải thoát, cứu chúng khỏi đau khổ. Vị ấy sẽ hướng dẫn kẻ giết, và giải thích cho anh ta giới bồ-tát về phóng sanh. T.1484, Phạm võng kinh, p.1006a6–7, b9–18, p.1007b11-13. Vô úy thí cho người và vật Vô úy thí chỉ cho những hành vi như bảo vệ chúng sanh không được bảo vệ, che chở những kẻ không được che chở, hay ủng hộ những chúng sanh không được ủng hộ. Đặc biệt, vì Thế Tôn từng thuyết rằng trong tất cả các hữu vi thiện pháp, bảo vệ sanh mạng của hữu tình là công đức hơn cả, vậy ngươi nên gắng hết sức cứu hộ chúng sanh theo tất cả mọi cách thực tế, như là cấm chỉ săn bắt và ngư nghiệp ở nơi mình có quyền, chuộc lại dê cừu đang trên đường đến tay đồ tể, cứu ngay cả mạng ngư trùng sắp sửa bị giết hại, và các việc như vậy. ‘The Words of My Perfect Teacher’, p.387.

22 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp ĂN THỊT LÀ PHƯƠNG TIỆN Dùng thịt mình để cứu chúng sinh Cắt cặp vú bằng con dao bén, mặc hồng rơi ra khỏi chén vàng, chẳng lo khổ mọn nơi nàng, mà cho thiếu phụ đói đang giày vò. Haribhatta, Jātakamālā, chuyện Rūpyāvatī, đoạn 20. Cho phép dùng thịt sống khi bị mắc bệnh Lúc bấy giờ, có vị tỳ-kheo bị bệnh do phi nhân. Các vị A-xà-lê và hòa thượng tuy thường chăm sóc vị ấy nhưng không thể làm cho khỏi bệnh. Vị ấy đã đi đến lò mổ heo ăn thịt sống, uống máu tươi thì bệnh do phi nhân của vị ấy thuyên khỏi. Các vị đem chuyện này bạch lên đức Thế Tôn, (Thế Tôn đáp): - Này các tỳ-kheo, ta cho phép dùng thịt sống và máu tươi trong khi bị mắc bệnh do phi nhân. Vin., Đại phẩm, phẩm Dược Kiền-độ. Sự thọ bất tịnh nhục trong thất chúng “Có ba loại thịt không được ăn: hoặc thấy, hoặc nghe, hoặc nghi. Thấy là tự mình thấy, họ vì mình mà giết. Nghe là nghe từ người đáng tin cậy nói, họ vì mình mà giết. Nghi là nghi họ vì mình mà giết. Nếu không thấy, không nghe, không nghi thì đó là tịnh nhục, cho phép tùy ý nhận thực. Nếu vì Tỳ-kheo mà giết thì Tỳ- kheo và Sa-di không nên ăn; nhưng cho phép Tỳ-kheo-ni, Thức- xoa-ma-na, Sa-di-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di ăn. Nếu vì Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di mà giết thì cũng như vậy.” (Luật Ngũ Phần, quyển 22: chương VIII: Thực pháp) Bữa ăn cuối cùng của Phật Biết Thế Tôn đã nhận lời, thợ rèn Cunda từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về ngài, rồi ra đi. Sau khi đêm đã mãn, thợ rèn Cunda liền cho sửa soạn tại nhà của mình các món ăn loại cứng, loại mềm, cùng với nhiều thứ thịt heo

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 23 mềm6 thượng vị, và báo tin cho Thế Tôn về thời gian thọ thực, ‘Bạch Thế Tôn, giờ đã đến, cơm đã sẵn sàng.’ Rồi Thế Tôn, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, cùng với chúng tỳ- kheo đến nhà thợ rèn Cunda. Sau khi đến, ngài ngồi trên chỗ đã soạn sẵn và nói với thợ rèn Cunda, ‘Này Cunda, hãy dọn cho ta loại thịt heo mềm đã soạn sẵn, còn hãy dọn cho chúng tỳ-kheo các món ăn khác. ’ ‘Xin vâng, bạch Thế Tôn’, thợ rèn Cunda vâng đáp. Ông dọn cho Thế Tôn món thịt heo mềm, và cho chúng tỳ-kheo các món ăn đã soạn sẵn khác. Rồi Thế Tôn nói với thợ rèn Cunda, ‘Này Cunda, hãy đem chôn món thịt heo mềm còn lại, bởi ta không thấy một ai trên thế gian dù ở cõi trời, ở ma giới, hay ở Phạm thiên giới, và dân chúng, chúng sa-môn và chúng bà-la- môn, và mọi người, có thể ăn mà tiêu hóa được món thịt heo mềm này, trừ Như Lai.’ ‘Xin vâng, bạch ngài.’, thợ rèn Cunda vâng đáp. Ông đem chôn món thịt heo mềm còn lại xuống hố, rồi đi đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ và ngồi xuống một bên. Khi ông ngồi xuống, Thế Tôn thuyết giảng, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho ông hoan hỷ bằng Pháp thoại. Rồi ông từ chỗ đứng dậy và ra đi. Cunda Sutta: Udāna 81–85, Mahā-parinibbāna Sutta: Dīgha-nikāya II.126–129 và 135–136. 6 sūkara-maddava, nghĩa đen là ‘heo mềm’: chú giải của Udāna nói rằng ‘đại chú giải’ xem đây là thịt heo mềm có sẵn ở chợ, nhưng những chỗ khác coi đây là măng hoặc nấm mọc ở nơi bị heo dẫm đạp (maddita), hoặc một dạng linh dược.

24 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp BỎ PHƯƠNG TIỆN ĂN THỊT Dẹp bỏ phương tiện ăn thịt Sau khi ta diệt độ, trong đời mạt-pháp, có nhiều quỷ thần hiện khởi trong thế gian, nói rằng ăn thịt vẫn được đạo bồ-đề. Này A- nan, khi ta khiến hàng tỳ-kheo ăn năm thứ tịnh nhục, thì thịt kia đều do thần lực ta hóa ra, vốn chẳng có mạng căn. Xứ Bà-la-môn các ông, đa phần đất đai nóng ướt, lại thêm cát đá, rau cỏ không mọc được, nên ta dùng lực đại bi gia bị mà giả gọi là thịt và các ông cũng nếm thấy vị thịt. Thế thì làm sao sau khi Như Lai diệt độ, người ăn thịt chúng sinh lại gọi là Phật tử? Các ông nên biết những người ăn thịt đó, dù cho tâm được khai ngộ, giống như tam-ma-đề, thì đều là loài la- sát, quả báo hết rồi, phải chìm trong bể khổ, không phải đệ tử Phật. Họ giết nhau, nuốt nhau, ăn nhau chưa xong, làm sao lại ra khỏi ba cõi được. T.945, Đại Phật Đỉnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ-Tát Vạn Hạnh Thủ-lăng-nghiêm Kinh, quyển 6. Dứt ăn thịt như là một phương tiện Phật lại nói với Văn-thù-sư-lợi: Do kẻ không có sức từ bi với chúng sanh, ôm bụng giết hại, vì nhân duyên đó nên [ta mới răn] dứt sự ăn thịt. Này Văn-thù-sư-lợi! Có chúng sanh thích mặc y phấn tảo thì ta nói về y phấn tảo; như vậy với những ai khất thực, ngồi dưới gốc cây, ngồi nơi lộ thiên, ở trong hốc A-lan-nhã, không dùng bữa ăn quá giờ, ở trú xứ với ba tấm y, vì giáo hóa bọn họ nên ta nói đầu-đà. Như vậy, này Văn-thù-sư-lợi! Nếu chúng sanh có tâm sát hại, vì tâm của kẻ kia như thế nên đời này gây tội lỗi vô số, bởi vậy ta mới dứt ăn thịt. Nếu người nào có thể không ôm lòng sát hại, có tâm đại từ bi, vì giáo hóa tất cả chúng sanh nên [những người đó ăn thịt] không có tội lỗi. T.468, Kinh Văn-thù-sư-lợi vấn, quyển thượng, phẩm II: Bồ-tát giới.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 25 SIÊU XUẤT ĂN VÀ KHÔNG ĂN THỊT Ăn thịt và giải thoát không liên quan nhau Ta thấy Thượng Sĩ sống rất thế tục, nên sinh nghi ngờ, bèn giả khờ mà hỏi: - Chúng sanh vốn quen nghiệp uống rượu ăn thịt, thì làm sao tránh được tội báo. Thượng Sĩ giải rõ: - Giả sử có người đứng quay lưng lại, bỗng có nhà vua đi qua sau lưng, người kia tình lình ném một vật gì đó trúng vào người vua. Người ấy có sợ không? Vua có giận không? Như vậy nên biết hai việc không liên quan với nhau. Ngài bèn làm bài kệ để dạy: Vô thường các pháp hành Tâm nghi, tội liền sanh Xưa nay không một vật Chẳng giống cũng chẳng mầm. Lại nói: Ngày ngày khi đối cảnh Cảnh cảnh từ tâm sanh Tâm cảnh xưa nay chẳng Chốn chốn ba-la-mật. Ta hiểu ý, chặp lâu mới nói: - Tuy là như thế, nhưng chuyện tội phước đâu đã rõ. Thượng Sĩ lại làm tiếp bài kệ để chỉ: Ăn cỏ với ăn thịt Chúng sanh mỗi sở thuộc Xuân đến trăm cỏ sinh Chỗ nào thấy tội phước? Ta nói: - Chỉ như thế thì còn công phu giữ giới hạnh trong sạch không chút xao nhãng để làm chi? Thượng Sĩ chỉ cười mà không đáp. Ta lại thỉnh cầu. Thượng Sĩ lại làm thành hai bài kệ, để ấn chứng:

26 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp Trì giới cùng nhẫn nhục Chuốc tội chẳng chuốc phước Muốn biết không tội phước Chẳng trì giới nhẫn nhục. Lại nói: Như khi người leo cây Đang an tự tìm nguy Như người không leo nữa Trăng gió làm việc gì? Lại kín đáo dặn ta: - Chớ bảo cho người không đáng biết. Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục, Thượng sĩ hành trạng. Phật là Phật, ta là ta Trong một lần vào chầu, lúc thái hậu làm tiệc lớn đãi, ngài gặp thịt cứ ăn. Thái hậu lấy làm lạ nên hỏi rằng: - Anh tu thiền mà ăn thịt thì thành Phật sao được? Thượng sĩ cười đáp: - Phật là Phật, anh là anh. Anh chẳng cần làm Phật, Phật cũng chẳng cần làm anh. Em không nghe cổ đức nói rằng ‘Văn-thù là Văn Thù, còn giải thoát là giải thoát’ đó hay sao? Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục, Thượng sĩ hành trạng.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 27 CHƯƠNG 2: NIỆM PHẬT PHẬT Các danh hiệu Phật Phẩm tánh của đức Phật Ở đây, này các tỳ-kheo, vị thánh đệ tử thành tựu lòng tin bất động đối với đức Phật như vầy: ‘Thế Tôn là một bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.’ SN.55.1, Rājā Sutta. Giải thích các danh hiệu của Phật 1. Như Lai, từ quán bất tịnh cho đến thành tựu chánh đẳng chánh giác, từ địa vị trang nghiêm đến địa vị giải thoát, siêu việt các hàng thanh văn và bích-chi, nên được gọi là ‘Vô thượng sĩ’ (bậc không ai bằng). 2. Như Lai, đấng Thế Tôn, dạy các pháp tu Không định, Diệt Thọ Tưởng định, tứ thiền, từ bi, mười hai duyên khởi đều vì lợi ích chúng sinh. Các pháp Như Lai đã tuyên thuyết là không thay đổi. Do đó, ngài được gọi là ‘Như Lai’ (bậc đã đi như vậy). Lại nữa, Phật trước hết bắt đầu từ trang nghiêm địa rồi thành tựu quả vị vô thượng chánh đẳng chánh giác, nên được gọi là ‘Như Lai’ (bậc đã đến như vậy).7 3. Ngài đã thành tựu được những phẩm tánh vi diệu, chân thật nên được gọi là A-la-hán (đấng ứng cúng). Lại nữa, ngài xứng đáng nhận sự cúng dường của trời và người nên được gọi là ‘A- la-hán’. 4. Ngài đã giác ngộ nhị đế8 nên được gọi là ‘Chánh đẳng chánh giác’. 7 Hợp từ Tathāgata có thể được giải thích theo hai cách, hoặc là Tathā-gata (Như Khứ—Đã Đi Như Vậy), hoặc là Tathā-āgata (Như Lai—Đã Đến Như Vậy). 8 Sự thật mang tính quy ước (tục đế) và sự thật tối hậu (chân đế).

28 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp 5. Ngài đã thành tựu giới hạnh và đầy đủ tam minh9 nên được gọi là ‘Minh hạnh túc’ (bậc đủ trí tuệ và đức hạnh). 6. Ngài sẽ không còn tái sinh dưới bất cứ hình thức nào nên được gọi là ‘Thiện thệ’ (bậc đã khéo vượt qua). 7. Ngài đã hiểu thấu hai thế giới10 nên được gọi là ‘Thế gian giải’ (bậc hiểu rõ thế gian). 8. Ngài thiện xảo trong các phương tiện để điều phục chúng sinh nên được gọi là ‘Điều ngự trượng phu’ (bậc khéo điều phục). 9. Ngài có thể khiến cho chúng sinh không còn sợ hãi, khéo giáo hóa khiến cho họ ly khổ đắc lạc, nên được gọi là ‘Thiên nhân sư’ (bậc thầy của trời và người). 10. Ngài hiểu rõ mọi hiện tượng cũng như việc làm, nên được gọi là ‘Phật’ (đấng tỉnh thức). Lại nữa, ngài chiến thắng bốn loại ma,11 nên được gọi là ‘Bạc-già-phạm’ (bậc Thế Tôn). T.1488, Ưu-bà-tắc giới kinh, ch.16, p.1051b01–b16. Phật và Pháp Ai thấy Pháp, ấy là thấy Phật Thậm chí, này các tỳ-kheo, nếu tỳ-kheo sống xa đến bảy trăm dặm, nhưng là người không có tham ái trong các dục … hay với tâm không sân hận, … và là người với chánh niệm, tỉnh giác, định tĩnh, nhất tâm, có các căn được chế ngự, thì vị ấy thân cận ta … Vì cớ sao? Vì tỳ-kheo ấy thấy Pháp, và, do thấy Pháp nên thấy ta. Iti.91, Saṅghāṭikaṇṇe Sutta. Phật như là hiện thân của Pháp Này Vāseṭṭha, ai mà tín tâm nơi Như Lai có căn để và được an trí, chắc chắn và bất động với bất kì sa-môn, bà-la-môn, chư thiên, ma vương, hay phạm thiên hay bất kì ai trên đời, xứng đáng cho vị ấy nói rằng: “Ta là đích tử của Thế Tôn, được sanh ra từ miệng ngài, được sanh ra từ Pháp, được tạo ra do Pháp, là người thừa tự của Pháp”. Vì sao vậy? Bởi vì, này Vāseṭṭha, những điều này là mệnh danh của Như Lai, ‘người có Pháp thân’, ‘người 9 Ba loại trí tuệ, gồm thiên nhãn minh, túc mạng minh, và lậu tận minh. 10 Thế giới hữu tình và thế giới vật chất. 11 Bốn thứ được gọi là ma bao gồm: ngũ uẩn, cái chết, Thiên ma Ba-tuần (một loại chúng sinh ở cõi trời Tha hóa tự tại), và phiền não (tham, sân và si).

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 29 có tối thượng (Phạm) thân’, ‘tác thành Pháp’, ‘tác thành tối thượng (Phạm).’ DN.27, Aggañña Sutta. Bạch đấng Thiện Thệ, ta là mẹ của ngài; bạch đấng Anh Hùng, ngài là cha của ta; bạch đấng Bảo Hộ, ngài là người ban cho niềm an lạc trong Chánh Pháp, nên ta đã được sanh ra bởi ngài, thưa Gotama! Bạch đấng Thiện Thệ, sắc thân này của ngài đã nhờ ta mà được lớn mạnh. Còn Pháp thân thanh tịnh vô cấu của ta đã nhờ ngài mà được tăng trưởng. Therī-apadāna, section 17, vv. 31–32: Apadāna p.532. Chư Phật trở thành Pháp Thế Tôn biết những gì cần phải biết, ngài thấy những gì cần phải thấy, ngài đã trở thành vị có mắt, trở thành vị có trí, trở thành Chánh pháp, trở thành tối thượng, ngài là vị thuyết giả, vị diễn giả, vị đem lại mục tiêu, vị trao cho bất tử (niết-bàn), vị Pháp Chủ, Như Lai. MN.18, Madhupiṇḍaka Sutta. Tam thân Phật Như Lai là vô vi Nếu một thiện nam tử muốn hộ trì Chánh Pháp, thì không nên nói Như Lai đồng với các pháp hữu vi. Ngài không đồng với các pháp hữu vi. Người nói như thế nên tự trách rằng “tôi là kẻ ngu muội, không có tuệ nhãn.” Pháp của Như Lai là bất khả tư nghì, do đó không nên nói rằng Như Lai là hữu vi. Ngài là vô vi. Một người có chánh kiến nên nói rằng Như Lai là vô vi. Vì sao? Vì Như Lai có thể làm thiện pháp để lợi ích chúng sinh vì ngài có lòng từ bi với họ, ví như một nữ nhân nghèo xả thân trên sông Hằng vì thương con mình. […] Này thiện nam tử, bồ-tát hộ Pháp nên làm như vậy. Vị ấy thà hi sinh thân mạng chứ không nói rằng Như Lai đồng với pháp hữu vi. Vị ấy nên nói rằng Như Lai đồng với pháp vô vi. Vì nói rằng Như Lai đồng với pháp vô vi, vị ấy sẽ đạt được quả vị vô thượng chánh đẳng chánh giác, ví như nữ nhân kia xả thân vì con sẽ được sinh lên cõi Phạm thiên. Vì sao? Vì vị ấy hộ trì Chánh Pháp. Thế nào là hộ trì Chánh Pháp? Là bảo rằng Như Lai đồng với

30 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp pháp vô vi. Này thiện nam tử, giải thoát sẽ tự nhiên thành tựu cho vị ấy, dù chẳng tầm cầu, ví như nữ nhân kia xả thân vì con sẽ tự nhiên được tái sinh lên cõi Phạm thiên, dù không có tâm mong cầu. T.375, Đại bát niết-bàn kinh, chapter 2, p.613c10-23; cf. T.374, Đại bát niết-bàn kinh, p.374a19–28. Chư Phật không đến không đi. […] Pháp Thượng nói: “Đúng vậy, này thiện nam tử, đúng vậy. Người nào chấp trước vào hình sắc hay âm thanh của Như Lai và khởi ý tưởng Như Lai có đến có đi thì cũng như vậy. Nên biết, những ai mà khởi ý tưởng rằng Như Lai có đến có đi là người khờ dại, vô trí, ví như người quáng thấy nước ở nơi không có nước. Vì sao? Vì không thể thấy Như Lai qua sắc tướng; vì Như Lai là Pháp thân.” Aṣṭasāhaśrikā Prajñāpāramitā Sūtra, ch.31. Chư Phật phải được thấy bằng pháp thân Ai thấy ta bằng sắc, theo ta bằng âm thanh, người thực hành tà pháp, sẽ không thấy được ta. Chư Phật nên được nhìn theo Pháp, vì họ là các bậc Đạo Sư có Pháp thân. Tuy nhiên, Pháp tánh không phải là thứ có thể nhận thức được. nó không thể được nhận thức. Vajracchedikā Prajñāpāramitā Sūtra, section 26. Pháp thân lưu xuất từ những phẩm tính của Thánh Đạo Này chư thiện hữu, thân của Như Lai là Pháp thân, sinh ra từ bố thí, trì giới, thiền định, trí tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến; từ từ, bi, hỉ, và xả; từ bố thí, tự điều phục, và trì giới; từ nhẫn nhục và nhu hòa; từ thiện căn được thành tựu bởi cần hành tinh tấn; từ tĩnh lự, giải thoát, nhất tâm, và định; từ đa văn, trí tuệ, và phương tiện thiện xảo; từ ba mươi bảy phẩm trợ đạo;12 ; từ chỉ và quán; từ mười lực, bốn vô úy, và mười tám pháp bất cộng của Phật; từ tất cả các ba-la-; từ thần thông và diệu trí; từ sự đoạn trừ các bất thiện pháp và sự tích tập các thiện pháp; từ chân lý, thật lý; từ bất phóng dật;từ vô số nghiệp thanh tịnh. 12 Đây là những yếu tố giúp cho sự tu tập được phân loại theo hạng mục gọi làm ‘trợ đạo’, chẳng hạn như tứ niệm xứ… .

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 31 Này chư thiện hữu, nếu muốn chứng được thân của Như Lai để diệt trừ hết thảy bệnh chướng của tất cả chúng sinh, các người hãy phát tâm cầu vô thượng bồ-đề. […] Vimalakīrti-nirdeśa Sūtra, ch. 2, sec.12. Ngũ Báo Thân Phật như là ngũ chủng trí Hơn nữa, do bởi tuệ giác của trí tự khởi xuất hiện trong mọi loại hình thức, đó là thân của Tỳ-lô-giá-na (Vairocana, ‘Biến Chiếu’). Không thay đổi, đó là thân của A-súc-bệ (Akṣobhya, ‘Bất Động’). Không có trung tâm lẫn biên giới, đó là thân của A-di-đà (Amitābha, Vô Lượng Quang). Giống như châu báu mang lại tất cả những thành tựu phi thường lẫn bình thường, đó là thân của Bảo Sanh (Ratnasambhava). Và vì nó thành tựu mọi thứ, đó là thân của Bất Không Thành Tựu (Amoghasiddhi). Các vị không ngoài năng lực thể hiện của bản giác. Do bởi bản giác của trí vốn dĩ hiện bày sáng tỏ không ngừng, đó là đại viên kính trí. Do bởi nó biến mãn, đó là bình đẳng tánh trí. Do bởi vạn hữu sai biệt khởi sanh từ năng lực thể hiện của nó, đó là diệu quan sát trí. Do bởi nó thành tựu mọi thứ, đó là thành sở tác trí. Và do bởi tất cả các loại trí đều thuộc về thể tánh thanh tịnh ban sơ (của bản giác), đó là pháp giới thể tánh trí. Các loại trí này không tồn tại ngoài năng lực thể hiện của bản giác. Nếu ta chỉ cho các con thấy trực tiếp tam thân của một vị Phật – thể tánh, bản tánh và bi mẫn, và năm báo thân hay năm loại trí – bằng cách chỉ thẳng vào chúng, thì chúng ở đây ngay trong sát- na hiện tại bất tác vô hối của bản giác, không bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh, không bị nhiễm ô bởi chấp thủ. Chúng ở ngay tại đây trong sát-na tỉnh giác của bản giác; đây là nơi tất cả chư Phật quá khứ đã xuất sanh, tất cả chư Phật trong hiện tại khởi phát, và tất cả chư Phật tương lai sẽ xuất hiện. Đây là tâm của chư Phật trong ba thời, do vậy đừng bao giờ tách ly nó, hỡi những kẻ hữu hạnh của ta! ‘The Flight of the Garuda’, p.172. Đức Phật và các vị đại bồ-tát thị hiện dưới vô sô hình tướng Như Lai hiện vô lượng thân để độ thoát vô số chúng sinh. Hoặc hiện thân nam, hoặc hiện thân nữ, hoặc hiện thân thiên long,13 hoặc hiện thân quỷ thần; hoặc hiện núi, rừng, sông, ngòi, suối, hồ, ao, giếng để làm lợi mọi người và giải thoát tất cả. Lại có lúc 13 Một trong tám hạng trời rồng ủng hộ Phật pháp và thường theo Phật nghe pháp.

32 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp hiện thân Thiên đế Thích, hoặc hiện thân Phạm thiên, hoặc hiện thân Chuyển luân vương, hoặc hiện thân gia chủ, hoặc hiện thân quốc vương, hoặc hiện thân tể tướng, hoặc hiện thân đại thần, hoặc hiện thân tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ …, hoặc hiện thân thanh văn, a-la-hán, bích-chi-phật, bồ-tát… để thành tựu chúng sinh. Như Lai chẳng phải chỉ thị hiện duy nhất thân Phật. T.412, Địa tạng bồ tát bản nguyện kinh, ch.2, p.779b18–b26. Tam thân Phật như là bản tâm EMAHO14 Bây giờ, chư ái tử, hãy lắng lòng nghe.15 Tam thân của Phật: thể tánh, bản tánh và bi mẫn – cũng như ngũ (báo) thân hay ngũ chủng trí – đều viên mãn trong sự hiện diện bản giác cố hữu và tự quang minh này. Thể tánh của bản giác, tánh không của nó theo nghĩa là không có màu sắc, hình dạng hay bất kỳ thuộc tính nào khác, là Pháp thân. Sự tự biểu hiện quang mình của tánh không ấy là Báo thân. Và sự ứng hiện muôn trạng không ngừng là Hóa thân. Tam thân của Phật được dụ như gương. Chiếc gương pha lê chỉ cho Pháp thân, sự sáng trong của nó dụ cho Báo thân, và sự ứng hiện không ngừng các hình ảnh của nó tương tự như Hóa thân. Giá mà chúng sanh có thể nhận ra ba thân của Phật là vốn có trong tâm mình, họ sẽ tức thì thành Phật, mà chẳng cần hành thiền chút nào. Mặc dù ta đã nêu ra lần lượt ba thân Phật, nhưng chúng thực ra chỉ là một và cùng thể tánh,16 do vậy đừng lẫn lộn mà xem chúng là khác nhau, chư ái tử! Biết tam thân Phật là chân không thanh tịnh ngay từ đầu, một thực thể duy nhất là sự hiệp nhất của quang minh và tánh không, và luôn duy trì trạng thái ấy mà chẳng hề chấp thủ. Biết ba thứ thể tánh, bản tánh và bi mẫn lần lượt tương ứng với Pháp thân, Báo thân, và Hóa thân, và biết ba thứ ấy là sự hiệp nhất đầy đủ của quang minh và tánh không, hãy tự thể nghiệm trạng thái ấy mà chẳng hề chấp thủ! 14 Một cách thể hiện sự kinh ngạc trong truyền thống Dzogchen. 15 Giáo pháp này là số 7 trong chuỗi hai mươi ba ‘bài ca’ giáo huấn cho đệ tử của ngài, người mà ngài xem là các pháp tử. 16 Thuật ngữ này có thể là viết tắt từ ‘pháp giới thể tánh’, nhưng trong truyền thống Đại Thừa thì nó cũng là đồng nghĩa với Phật tánh.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 33 ‘The Flight of the Garuda’, pp.171–72. Phật tánh Ví dụ về Như Lai tạng […] (3) Lại nữa, này thiện nam tử, giống như hạt lúa chưa bóc vỏ, bị kẻ ngu xem thường bỏ đi, nhưng sau khi bóc sạch thì vẫn có thể dùng được.… (4) Lại nữa, này thiện nam tử, giống như vàng ròng rơi ở chỗ dơ, nằm khuất nhiều năm.… (5) Lại nữa, này thiện nam tử, giống như ngọc quý được cất trong nhà kẻ nghèo mà không ai hay biết.… (6) Lại nữa, này thiện nam tử, giống như hạt xoài chưa hư hoại, đem vùi dưới đất thì sẽ mọc lên cây lớn, vua trong các loài cây.… […] T.666, Đại phương đẳng như lai tạng kinh. Các tính chất của Như Lai tạng 28. … Tất cả chúng sanh đều có Như Lai tạng được phát triển từ chủng tử [Phật]. 45. Thực tế, không có sự khác biệt giữa phàm phu, thánh nhân và Phật chánh giác. Những ai đã thấy được Chân như sẽ thấy rằng tất cả chúng sinh đều có Chiến thắng tạng (Jina-garbha).17 … 47. Bất tịnh là chúng sinh; vừa tịnh vừa bất tịnh là bồ-tát; toàn tịnh là Như Lai. … 49. Như hư không bao trùm tất cả mà không có sự phân biệt, cũng vậy, tự tánh vô cấu của tâm thâm nhập khắp tất cả các pháp. … 155. Giới này (Như Lai tạng) vốn rỗng không các đặc tính khách trần khác với Phật tánh; nhưng nó chẳng rỗng không các phẩm tánh siêu việt vốn không dị biệt với Phật tánh. Ratnagotra-vibhāga of Sāramati or Maitreya, ch.1, v.28, 45, 47, 49, 155. 17 Chiến thắng (Jina) là một trong các danh hiệu của Phật.

34 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp Chư Phật Như Lai là thân pháp giới Chư Phật Như Lai là thân pháp giới, đi khắp vào trong tâm tưởng của tất cả chúng sinh; bởi vậy khi tâm các ngươi tưởng Phật thì tâm ấy tức là ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp kèm theo, tâm ấy làm Phật, tâm ấy là Phật. Biển Chánh biến tri của Phật, từ tâm muốn sinh, bởi vậy phải nên nhất tâm hệ niệm, quán kỹ Phật kia, A-đà-a-tha-độ, A-la-ha, Tam-miệu-tam Phật- đà. T.365, Phật thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh quyển 1. Ai cũng có Phật tánh Ta phải giải thoát bản thân mình ra khỏi vòng luân hồi18 mê loạn và chứng đắc vô thượng bồ-đề. Thế nhưng ta lại tự hỏi liệu những chúng sanh hạ liệt như mình, dù tinh cần nỗ lực, có thể thành tựu như vậy chăng? Nếu như ta chân chánh tinh cần nỗ lực, hà cớ gì chẳng thể thành tựu như vậy? Suy cho cùng, cũng như hết thảy hữu tình, ta cũng có Phật tánh, trong chính chúng ta – đây là nhân để thành tựu Phật quả. … Nếu thật vậy thì do bởi nguyên do gì mà hết thảy hữu tình đều có Phật tánh? Đó là (1) bởi vì hết thảy hữu tình được biến mãn Pháp thân, không tánh;19 (2) bởi vì pháp tánh chân như vô hữu sai biệt; và (3) bởi vì mỗi mỗi hữu tình đều thuộc một trong những loại (Phật tánh)20. Do bởi ba nguyên do này mà mỗi mỗi hữu tình đều có Phật tánh. Đây là điều được nói trong Vô Thượng Mật Tục (Uttaratantra)21, ‘Bởi toàn giác Phật thân viên mãn; bởi chân như vô hữu sai biệt; và bởi chúng thuộc các chủng loại; mọi chúng sanh luôn có Phật tánh’ (UT VII.28). Nguyên do thứ nhất là hết thảy hữu tình được biến mãn Pháp thân, không tánh. Điều này có nghĩa rằng chúng hữu tình có Phật tánh bởi vì Phật là Pháp thân, Pháp thân là không tánh, mà không tánh thì biến mãn hết thảy hữu tình. Nguyên do thứ hai là pháp tánh chân như vô hữu sai biệt. Điều này có nghĩa rằng chúng hữu tình có Phật tánh cũng bởi vì chân như của chư Phật chẳng tốt hơn, lớn hơn hay cao hơn chân như của chúng hữu 18 Luân hồi (saṃsāra) là vòng sanh tử từ vô thủy. Nó là ‘mê loạn’ bởi nó khởi căn từ vô minh hay bất tri chân đế và bởi nó tạo ra si mê (về thường trong khi chẳng có,…). 19 Bản tánh của chúng sanh là trống rỗng một bản chất cố hữu, nên họ rốt ráo chẳng khác chi Pháp thân của Phật. 20 三、一切众生皆悉具足佛种性故。and because all beings have a “family”. 21 Còn gọi là Bảo Tánh Luận (Ratnagotravibhaga, 寶性論).

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 35 tình. Nguyên do thứ ba là nhất thiết chúng hữu tình đều thuộc một trong những loại (Phật tánh). Điều này có nghĩa rằng mỗi mỗi hữu tình đều thuộc một trong năm loại Phật tánh: đoạn diệt chủng tánh, 22 bất định chủng tánh, 23 thanh văn chủng tánh, duyên giác chủng tánh, hay Đại Thừa chủng tánh. … Có hai loại (Phật tánh): loại giác tỉnh và loại chưa giác tỉnh. Loại giác tỉnh là quả (Phật) đã thành tựu viên mãn, có biểu hiện nhận thấy được. Loại chưa giác tỉnh là quả chưa được thành tựu, không có biểu hiện nhận thấy được. Vấn rằng do duyên gì mà Phật tánh có thể được giác tỉnh. Đáp rằng một khi những nghịch duyên được loại bỏ, và những thuận duyên được sẵn sàng, Phật tánh sẽ giác tỉnh. Ngược lại, Phật tánh vẫn chưa giác tỉnh. Có bốn nghịch duyên là: sanh nhằm nghịch cảnh, thiếu thiên hướng (hành Pháp), hành vi bất chánh, và tội nghiệp chướng đạo. Có hai thuận duyên là: ngoại duyên là có thầy dạy Pháp, và nội duyên là có tâm thái và chí nguyện chân chánh đối với thiện Pháp. (…) Trong số năm loại (Phật tánh), Đại Thừa chủng tánh là cận nhân (thành tựu) Phật quả. Thanh văn và duyên giác chủng tánh là viễn nhân bởi vì chúng rốt cuộc cũng dẫn đến Phật quả. Bất định chủng tánh có thể là cận hoặc viễn nhân. Còn đoạn diệt chủng tánh – không có nghĩa là vị ấy tuyệt đối chẳng thể thành tựu Phật quả, chỉ là vị ấy cần phải mất rất lâu mới được như vậy – là cực viễn nhân. Do đó, bởi vì hết thảy hữu tình đều thuộc một trong năm loại, mỗi mỗi hữu tình đều có Phật tánh. Do vậy, bởi ba nguyên do (giải thích ở trên) mà nói rằng mỗi mỗi hữu tình đều có Phật tánh. Điều này có thể ví dụ ra sao? Nó vốn đã trong ta cũng như bạc trong khoáng, dầu mè trong hạt mè, bơ trong sữa. Do đó, cũng như khoáng có thể thành bạc, mè thành dầu, và sữa thành bơ, hết thảy hữu tình đều có thể thành Phật. ‘The Jewel Ornament of Liberation’, pp.6–8, 13–16. 22 Đoạn diệt chủng tánh (Skt icchantika) là tạm thời đoạn diệt (hay cắt liên hệ) với Phật tánh của mình (xem bên dưới). 23 Bất định chủng tánh có thể trở thành bất kì loại nào còn lại trong ba loại tùy theo duyên.

36 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp A-di-đà và Tịnh độ Phật A-di-đà (Amitābha) và cõi Cực Lạc Khi đó, đức Thế Tôn nói với Xá-lợi-phất, ‘Về phương Tây, này Xá-lợi-phất, có một quốc độ gọi là Cực Lạc cách đây quá mười muôn ức cõi Phật. Hiện nay, đức Như Lai, A-la-hán, Chánh đẳng Chánh giác, tên Vô Lượng Thọ (Amitāyus), đang ở đó thuyết pháp… Lại nữa, Xá-lợi-phất, ở cõi Phật ấy, nhạc trời thường trỗi, đất bằng vàng ròng, mưa hoa trời mạn-đà-la đổ ngày đêm sáu thời. Chỉ trong thời gian một bữa ăn, các chúng sanh nơi đó lại du hành đến các cõi nước khác để cúng dường muôn ức đức Phật… Lại nữa, Xá-lợi-phất, ở cõi Phật đó… có các loài chim hót lên những lời Pháp được hóa hiện từ thần thông của Phật Vô Lượng Thọ. Này Xá-lợi-phất, cõi Phật đó được trang nghiêm bởi tất cả những thứ kỳ diệu khác nhau mà người ta tìm thấy trong một Cõi Phật. Lại nữa, Xá-lợi-phất, ở cõi Phật đó, khi gió nhẹ thổi lay động các hàng cây báu và động mành lưới chuông báu, phát ra âm thanh vi diệu làm dịu tâm trí… Khi chúng sinh ở đó nghe những âm thanh đó, họ đều sanh tâm niệm Phật, Pháp, Tăng… Này Xá-lợi-phất, ông nghĩ vì sao đức Như Lai đó có hiệu là ‘Vô Lượng Thọ’? Này Xá-lợi-phất, tuổi thọ của đức Như Lai đó và người dân ở cõi đó là vô lượng, nên hiệu là ‘Vô Lượng Thọ’. Vị Như Lai ấy đã thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đã được mười kiếp tính đến nay. Này Xá-lợi-phất, ông nghĩ sao, vì sao đức Như Lai đó hiệu là ‘Vô Lượng Quang’ (Amitābha)? Này Xá-lợi-phất, ánh sáng của đức Như Lai đó chiếu sáng vô lượng, soi suốt các cõi nước trong mười phương không bị chướng ngại, nên gọi là ‘Vô Lượng Quang’. Đức Như Lai đó có vô lượng vô biên tính đếm không hết các Thanh văn đệ tử đều là bậc A-la-hán. Này Xá-lợi-phất, cõi Phật đó được trang nghiêm bởi tất cả những thứ kỳ diệu khác nhau được tìm thấy trong một cõi Phật. Lại nữa, Xá-lợi-phất, những chúng sinh sinh về cõi Phật của Như Lai Vô Lượng Thọ, thành bồ-tát bất thối chuyển, nhất sanh bổ xứ; số bồ-tát này rất đông, chẳng thể tính đếm hết, chỉ có thể gọi là vô lượng vô biên vô số. Này Xá-lợi-phất, chúng sanh nên phát nguyện cầu sanh về cõi Phật đó. Vì sao? Vì ở cõi Phật đó, họ sẽ câu hội một nơi với các bậc Thượng thiện nhân như những bậc bồ-tát này.

Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp - 37 Này Xá-lợi-phất, chúng sanh có chút ít thiện căn phước đức thì không thể sanh về cõi của đức Như Lai Vô Lượng Thọ đó. Nếu có thiện nam tử hay thiện nữ nhân nào nghe đến danh hiệu của đức Thế Tôn Như Lai Vô Lượng Thọ, rồi chấp trì danh hiệu của đức Phật đó, trong một ngày đêm, hai ngày đêm, ba ngày đêm, bốn ngày đêm, năm ngày đêm, sáu ngày đêm, hoặc bảy ngày đêm, nhất tâm bất loạn, thì khi lâm chung, đức Như Lai Vô Lượng Thọ cùng hàng Thánh chúng và hội chúng bồ-tát ở trước người đó mà hiện thân. Lúc lâm chung, người ấy tâm không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi Phật của đức Như Lai Vô Lượng Thọ. Vì vậy, Xá-lợi-phất, vì những lợi ích như thế mà ta nói các thiện nam tử, thiện nữ nhân nên nhất tâm phát nguyện cầu sanh về cõi Phật đó. Này Xá-lợi-phất, ở về phương Đông… Nam,… Tây,… Bắc,… dưới,… trên, hằng hà sa số những đức Phật Thế Tôn, ca ngợi các cõi Phật của họ, cũng giống như ta ca ngợi cõi Cực Lạc vậy... Này Xá-lợi-phất, ông nghĩ vì sao kinh này được gọi là “Nhất thiết chư Phật sở hộ niệm”? Này Xá-lợi-phất, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe kinh này và thọ trì danh hiệu của chư Phật Thế Tôn đó, thị họ đều được tất cả các đức Phật hộ niệm, được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì vậy, này Xá-lợi-phất, ông nên có tín tâm nơi ta cũng như nơi những đức Phật Thế Tôn này. Sukhāvatī-vyūhaḥ (Saṃkṣipta-mātṛkā). Các đặc tính cõi Tịnh độ của Phật A-di-đà 1. Bạch Thế Tôn,24 con nguyện không chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nếu ở Phật độ của con còn cảnh địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ hoặc a-tu-la. 2. Bạch Thế Tôn, con nguyện không chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nếu còn có bất kỳ chúng sanh nào đã sinh ở Phật độ của con, sau khi mạng chung mà còn rơi vào địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ hoặc A-tu-la. 5. Bạch thế Tôn, con nguyện không chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nếu những chúng sanh đã sinh ở Phật độ của con mà hết thảy không có năng lực tối thượng thần thông Ba-la- 24 Cách xưng hô với một đức Phật quá khứ, người mà ngài Pháp Tạng (Dharmākara) đã phát nguyện trước đây.

38 - Hướng dẫn ăn chay niệm Phật cho người khẩu nghiệp mật,25 chỉ một sát-na có thể vượt qua trăm ngàn ức triệu quốc độ Phật. 6. Bạch Thế Tôn, con nguyện không chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nếu những chúng sanh đã sinh ở Phật độ của con mà hết thảy không có được túc mạng thông, nhớ biết túc mạng của trăm ngàn ức triệu kiếp. 7. Bạch Thế Tôn, con nguyện không chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nếu những chúng sanh đã sinh ở Phật độ của con mà hết thảy họ không đạt được thiên nhãn thông, có thể thấy trăm ngàn ức triệu thế giới. 8. Bạch Thế Tôn, con nguyện không chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nếu những chúng sanh đã sinh ở Phật độ của con mà hết thảy họ không đạt được thiên nhĩ thông, cùng một lúc có thể nghe được Chánh pháp trong trăm ngàn ức triệu cõi Phật. 9. Bạch Thế Tôn, con nguyện không chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nếu những chúng sanh đã sinh ở Phật độ của con mà hết thảy họ không có tha tâm thông, có thể biết tâm hành của những chúng sanh ở nơi trăm ngàn ức triệu cõi Phật. 10. Bạch Thế Tôn, con nguyện không chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nếu có bất kỳ những chúng sanh đã sinh ở Phật độ của con mà còn khởi bất cứ ý niệm nào về sợ sở hữu, ngay cả thân thể của họ. 11. Bạch Thế Tôn, con nguyện không chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nếu còn có bất kỳ chúng sanh đã sinh ở Phật độ của con mà không có được sự an trú vững chắc nơi ba- la-mật cho đến khi thể nhập Đại Niết-bàn. 15. Bạch Thế Tôn, con nguyện không chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nếu khi con đã đạt được giác ngộ, mà thọ mạng của con có hạn lượng, ngay cả khi là có hạn lượng chừng trăm ngàn ức triệu kiếp. 16. Bạch Thế Tôn, con nguyện không chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác khi con đã đạt được giác ngộ, nếu có bất kỳ chúng sanh nào ở Phật độ của con mà còn nghe đến cụm từ “bất thiện”. 25 Các năng lực thần thông và minh dựa trên thiền định thường đạt được khi sắp giác ngộ.


Like this book? You can publish your book online for free in a few minutes!
Create your own flipbook