Important Announcement
PubHTML5 Scheduled Server Maintenance on (GMT) Sunday, June 26th, 2:00 am - 8:00 am.
PubHTML5 site will be inoperative during the times indicated!

Home Explore Kỷ yếu 70 năm SPVK (sửa 24112021)

Kỷ yếu 70 năm SPVK (sửa 24112021)

Published by Huong Nguyen, 2021-11-24 04:06:46

Description: Kỷ yếu 70 năm ngày thành lập Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (bản sửa ngày 24/11/2021)

Keywords: Kỷ yếu, 70 năm SPVK

Search

Read the Text Version

vẫn nhận được những món quà tươi PGS.TS Đặng Thị Lanh sinh năm 1944, tại Nam Định. mới như thế. Đợt công tác nào tương Cô thuộc thế hệ giảng viên nữ đầu tiên của Khoa Ngữ văn đối rộng thời gian, cô ghé chơi nhà, ăn theo đuổi chuyên ngành nghiên cứu Ngữ âm - Âm vị học. Cô bữa cơm thân với gia đình tôi, và cô bảo vệ thành công luận án Phó TS năm 1980 tại Liên Xô (cũ) và như chiêu đãi chúng tôi vậy, với những năm 1996, được phong hàm Phó Giáo sư. món giò chả cổ truyền Hà Nội, và ô Năm 1967, cô làm việc tại Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư mai mơ, mận… Khi tôi làm nghiên cứu phạm Hà Nội. Cô đã từng đảm nhận chức vụ Trưởng Bộ môn sinh, phải ra Hà Nội đọc tư liệu, tôi đã Lí luận Ngôn ngữ. Cô cùng cán bộ của bộ môn phấn đấu xây ở nhà cô hàng tuần. Bấy giờ cô cũng dựng và đã được công nhận là Tổ Lao động Xã hội chủ nghĩa. đã chuyển ra Bộ Giáo dục và Đào tạo Năm 1990, cô là Phó Hiệu trưởng của trường. Năm 1993, cô công tác. Công việc hành chính chiếm được điều động về Bộ Giáo dục & Đào tạo làm Phó Vụ trưởng hết thời gian trong ngày. Hàng đêm Vụ Giáo dục phổ thông, sau đó là Phó Vụ trưởng Vụ Tiểu học. tôi thấy cô đều dậy từ bốn giờ sáng để Cô đã giúp Vụ trưởng chỉ đạo hoàn thành Phổ cập Giáo dục làm việc chuyên môn. Tôi nghe rõ từng Tiểu học cấp quốc gia và xây dựng trường chuẩn quốc gia. trang sách lật khi tất cả còn đang trong Tháng 8.2000, cô trở lại làm việc tại Khoa Văn. giấc ngủ say nồng, càng thêm cảm phục PGS.TS Đặng Thị Lanh giảng dạy Ngữ âm tiếng Việt, chuyên đề Âm vị học đại cương và tiếng và yêu mến cô hơn. Quê hương cô, làng Việt, chuyên đề Phương pháp nghiên cứu Ngôn ngữ học. Cô đã để lại ấn tượng sâu sắc trong nhiều Hành Thiện, Xuân Trường, Nam Định thế hệ học trò về những giờ học nghiêm túc, nhiệt tình và sinh động. Cô đã hướng dẫn thành công là làng quê có truyền thống hiếu học, 6 luận án tiến sĩ và khoảng 20 luận văn thạc sĩ. được mệnh danh là làng “khoa bảng” từ xưa. Ngày nay có rất nhiều nhà chính  MỘT SỐ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU: trị, trí thức thành đạt, nổi danh. PGS.TS Đặng Thị Lanh là tác giả (viết chung) ba cuốn Giáo trình tiếng Việt; là chủ biên SGK Cô đặc biệt yêu thích trẻ con. Bọn trẻ Tiếng Việt 1, tác giả SGK Tiếng Việt 5 (chương trình sau 2000); là tác giả sách xóa mù chữ lớp 1, lớp nhà tôi hay được cô mua sắm sách vở, 5 và là chủ biên, tác giả của một số sách, tài liệu tham khảo khác. quần áo, đồ chơi… Trong câu chuyện trực tiếp hay qua điện thoại bao giờ  KHEN THƯỞNG, DANH HIỆU: cô cũng dành một khoảng thời gian để hỏi chuyện về các cháu. Chuyển ra PGS.TS Đặng Thị Lanh được khen thưởng 5 năm nghiên cứu khoa học, Chiến sĩ thi đua, 2 giấy công tác ở Vụ Tiểu học, Bộ Giáo dục khen của Bộ trưởng. và Đào Tạo, tôi nghĩ, thật thích hợp với cô. Cô làm chủ biên sách giáo khoa Tâm sự với cô, cô luôn động viên cố gắng, “đừng bỏ cuộc”, và Từ nền tảng tri thức và nhân cách đó, Tiếng Việt lớp một (2002). Bộ sách ra luôn đồng cảm, thấu hiểu những vất vả của chúng tôi trong các thầy cô đã xây dựng Khoa Ngữ văn đời đánh dấu bước chuyển biến căn bản công việc. thành cơ sở giáo dục uy tín trong cả trong biên soạn sách giáo khoa Tiếng nước. Chúng tôi tự tin và tự hào được Việt lớp một. Bốn kỹ năng nghe - nói - Từ ngôi nhà Khoa Văn Đại học Sư phạm Hà Nội tỏa đi khắp đào tạo từ môi trường giáo dục tinh hoa đọc - viết được coi trọng, bài soạn đều mọi miền đất nước, chúng tôi không chỉ mang theo hành và nhân văn như thế l theo hướng tích hợp nội dung dạy học trang tri thức, những kỷ niệm thời hoa niên gắn với nhà A7, tiếng Việt với các môn học khác. Với bể nước, khoảng sân trường, thư viện… mà còn là hình bóng TP. Hồ Chí Minh, tháng 7/2021 chủ trương biên soạn nhiều bộ sách thầy cô. Những thầy cô với tầm cao tri thức và nhân cách, lẽ giáo khoa như hiện nay, tôi thấy cô sống đáng trân trọng, ngưỡng mộ. Đinh Phan Cẩm Vân đã phát biểu cách đây nhiều năm: “Cá nhân tôi cho rằng không nên có một bộ sách. Vì một bộ sách khó có thể phù hợp tất cả các vùng miền. Nên có ít nhất hai bộ sách. Cả nước một bộ sách, không tránh khỏi từ khó”(Vietnamnet, 9/12/2011). Nay tuổi cô đã cao, lại vừa qua một cơn bạo bệnh, sức khỏe suy giảm nhiều. Cô không còn đi lại nhanh nhẹn, tháo vát công việc như ngày xưa nhưng tinh thần vẫn sáng suốt, mẫn tiệp. Chúng tôi bây giờ lại bước vào con đường soạn sách giáo khoa gian nan như cô từng trải, nhiều lúc không khỏi nản lòng. 101

Những gương mặt thân thương Khi các thầy Nguyễn Đình BẬC HUYNH TRƯỞNG Chú, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Hoành Khung, cô “hiếmkhcóó tìm” Trịnh Thu Tiết đã nghỉ Trong học thuật, thầy là người uyên hưu, thầy Long trở thành bao nhiêu bài trong sách giáo Khoa Ngữ văn Trung học Phổ thâm, tư duy uyển chuyển. Thầy cổ vũ linh hồn của Bộ môn Văn học Việt thông, Trung học Cơ sở; các sách tham khảo, bồi dưỡng giáo cái mới nhưng không bao giờ cực đoan. Nam hiện đại. Không chỉ vì trong 12 viên, các bộ từ điển, các bài báo về Nguyễn Thi, Nguyễn Khải, Đến tận bây giờ, dù đã gần 80 tuổi năm thầy đảm nhiệm chức vụ Trưởng Chế Lan Viên, Nguyễn Minh Châu, Tô Hoài,... Tạp chí Văn rồi, thầy vẫn còn có hứng tìm đọc các Bộ môn, chúng tôi vẫn là một đơn vị nghệ Quân đội từng tặng thầy giải “Bài viết hay nhất năm” công trình nghiên cứu mới (tất nhiên hàng đầu, tiếp tục duy trì truyền thống hồi giữa những năm 80 thế kỉ trước (bài viết tổng kết về mấy là nghe đọc). Thầy bị hạn chế về thị oanh liệt của thế hệ đi trước với nhiều khuynh hướng vận động của văn xuôi giai đoạn 1945-1975). lực nhưng bù lại, trí nhớ của thầy quá thành tựu trong nghiên cứu và đào tạo, siêu. Và thầy nghe cực tinh, cho nên mà còn vì thầy thực sự là người anh cả Tôi đã nghe giáo viên ở các lớp tại chức nắc nỏm khen họ trong các sinh hoạt chuyên môn, các của chúng tôi, được chúng tôi yêu mến, thích các bài thầy phân tích về các tác phẩm Con cò, Sang thu, hội nghị, hội thảo khoa học,... những tin tưởng dựa cậy về bất cứ vấn đề gì. Bến quê... đến thế nào. ý kiến trao đổi, đối thoại của thầy đều rất được chú ý. Đám nhi nữ chúng tôi đã “thảo luận Tham gia hai đề tài cấp Bộ trọng điểm do thầy chủ trì, tôi kín” nhiều phen về các đấng mày râu vô cùng khâm phục tư duy sắc sảo và khả năng tổ chức của Hàng chục nghiên cứu sinh, hàng của tổ và đưa ra kết luận: “Chu Văn thầy. Thầy thuyết phục được các thành viên trong tổ, cả học trăm học viên cao học được thầy hướng Sơn tài hoa, Nguyễn Văn Phượng đào viên cao học tham gia, giao việc đúng sở trường từng người. dẫn đã “về đích”, nhận tấm bằng cùng hoa, Nguyễn Văn Long hào hoa”. Xếp Seminar đề tài, thầy mời rất nhiều chuyên gia ở các đơn vị bạn. bao nhiêu bài học ấm áp ân tình. Thầy vậy là đẹp ở thế chân kiềng “tam anh Thầy không tiếc chi phí cho khâu thu thập tư liệu. Nghiệm thu chưa bao giờ dễ dãi, xuề xòa để hạ thấp kiệt”, chứ chúng tôi tin rằng ở thầy đề tài xong là có sách ra. Rất thiết thực. Thầy biên tập kĩ lưỡng yêu cầu khoa học. Nhưng học trò thì Long nét tài hoa không thiếu và nếu lắm nên khi sách ra, không thấy phần nào non lép. có phải bao giờ cũng có tố chất hay có người nào bảo thầy không đào hoa điều kiện để đáp ứng đâu. Có khi phải thì đám đàn em chúng tôi không tin “cầm tay chỉ việc”. Một bản luận án từ mấy đâu! khi là ý tưởng đến lúc trình trước hội đồng là không biết bao lần xoay đi lật Thầy quê gốc Hưng Yên, khi thân lại đề cương, là ba bốn lần đọc, góp ý phụ thầy qua đời trong một hoàn cảnh bản thảo. Có được bản thảo “thô” rồi nghiệt ngã, thân mẫu thầy đưa cả đàn thì đưa ra seminar ở bộ môn (có khi con đông đúc lên Hà Nội kiếm sống. rách te tua luôn), rồi chỉ đạo trò tiếp Chúng tôi được nghe thầy tâm sự ít thu các ý kiến thế nào, chỉnh sửa thế nhiều về tuổi thơ vất vả, từng phải đi nào. Vẫn còn một lần chỉnh sửa nữa ở bán bánh mì dạo, đi nhặt than, củi phụ cuộc bảo vệ luận án cấp cơ sở, trước khi giúp gia đình. Cuộc sống nhà giáo một đủ điều kiện bảo vệ luận án cấp Bộ (nay thời dài đạm bạc thế nào, ai cũng biết. là cấp trường). Khi thị lực xuống quá, Thầy lại bị cận rất nặng, chỉ một mắt thầy thường phải làm việc tay đôi với nhìn được với thị lực có khi xuống đến học trò: trò đọc cho thầy nghe, thầy dưới 2/10. Thế mà lúc đầu tôi cứ nghĩ chỉnh tại chỗ từng câu từng chữ. Một thầy phải là người Hà Nội gốc, vì nhìn bản luận án Tiến sĩ, thường ban đầu trò thầy cốt cách phong lưu, ăn mặc cực viết đến trên 200 trang, bản cuối cùng, kì có gout, và độ galant hơn đứt nhiều theo quy chuẩn phải cô lại dưới 150 nam nhi lứa sinh sau thầy một vài ba trang. Có những case nan giải lắm. Thế thập kỉ. mà thầy chưa từng thất bại, chưa học viên nào phải nuối tiếc khi chọn thầy Thầy Mạnh nhắc đi nhắc lại: “Mình làm người hướng dẫn khoa học. rất kính trọng ông Long”. Là thầy thực sự khâm phục nghị lực phi thường và Từ lúc thầy nghỉ hưu đến giờ, cả chục bản lĩnh khoa học của thầy Long đấy. năm rồi, qua 3, 4 đời tổ trưởng rồi mà bộ môn chúng tôi vẫn muốn được dựa Chúng tôi không biết thầy lấy đâu vào thầy, vẫn coi thầy là một phần ra sức lực, thời gian để cứ đều đều ra sách, ra báo, làm đề tài khoa học… Mà công trình nào của thầy cũng có chất lượng. Thầy làm chủ biên Giáo trình Văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám, Phê bình văn học Việt Nam sau 1975... Thầy là tác giả của các cuốn: Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Văn học Việt Nam sau 1975 và việc giảng dạy trong nhà trường… Thầy đã viết 102 70 năm Sư phạm Văn khoa

PGS.NGND  KHEN THƯỞNG, DANH HIỆU: phục sức đâu, trong các chuyến tham quan hay công tác cùng thầy, chúng tôi Nguyễn Văn Long Nhà giáo Nhân dân, tặng thưởng Huy chương Kháng chiến chống Mỹ nhận ra ở thầy sự chi li, chu đáo khó (sinh năm 1945) hạng Nhất, Huân chương Lao động hạng Ba, Giải thưởng về Lý luận phê ai bì kịp. Hạnh Mai kể: \"Một nhóm bình của Tạp chí Văn nghệ Quân đội. mấy nữ giảng viên khoa bạn đi công tác cùng chuyến với thầy Long. Các cô đem Một trong những chuyên gia đầu ngành về nghiên cứu và giảng dạy táo ra định mời thầy nhưng quên mang văn học Việt Nam hiện đại; từng tham gia biên soạn sách giáo khoa Ngữ theo dao. Thầy lấy dao trong túi đưa văn THCS và THPT; chủ biên giáo trình Đại học, Trưởng Bộ môn Văn học các cô gọt. Ăn xong, thầy đưa gói khăn Việt Nam hiện đại từ năm 1995 đến 2007. ướt, các cô nháy nhau thầm kinh ngạc. Rồi có cô bị giắt răng, cần que tăm, lại  MỘT SỐ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU: chỉ thầy Long có\". Về trường, các cô hỏi Hạnh Mai: “Khoa chị có nhiều người Lịch sử văn học Việt Nam, T.4 (viết chung) (1980), Văn học Việt Nam như thế không?”. Hạnh Mai tranh thủ 1945 – 1975, T.2 (viết chung) (1990), Thơ Xuân Diệu (1994), Cuộc thảo luận “vơ vào”: “Đàn ông Khoa Văn đều như về tập thơ “Từ ấy” (1984), Tiếp cận và đánh giá văn học Việt Nam sau thầy Long cả”. Mấy cô bạn tròn mắt, Cách mạng tháng Tám năm 1945 (2001), Văn học Việt Nam trong thời đại xuýt xoa thán phục Khoa Văn không để mới: từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 (2002), Những vấn đề của phê đâu cho hết. bình văn học Việt Nam 1975-2005 (2009), Phân tích tác phẩm văn học hiện đại Việt Nam từ góc nhìn thể loại (2009), Văn học Việt Nam từ sau Cô nhà thầy mất sớm. Lúc còn tại Cách mạng tháng Tám 1945 (chủ biên) (2019), Lược sử văn học Việt Nam thế, cô thường làm quản lý nên bận bịu (viết chung) (2020)… nhiều. Cô bảo thầy sành điệu, làm gì cũng khéo. Các dịp lễ Tết, gia đình bên không thể thiếu. Làm lại giáo trình, xây dựng chương trình, PGS.NGND Nguyễn Văn Long (trái) và ngoại cứ phục lăn món quà ông rể Long tổ chức seminar học thuật, góp ý cho luận án của nghiên cứu GS.NGND Nguyễn Đình Chú đem tới. Thầy vẫn tự chăm sóc mình là sinh... ai cũng thấy cần có thầy tham gia. May là không mấy chính. Con gái thầy thuở nhỏ chỉ thích khi thầy nỡ từ chối. “cao thủ võ lâm” thế nào. Đỏ mặt ngay đồ ăn bố nấu... từ hớp rượu đầu tiên, nhưng cuối tiệc, Nghề dạy học, khi đứng trên bục giảng thì sự giao tiếp bằng khi đám đàn em đã líu cả lưỡi, thầy vẫn Thầy quá chu đáo với mọi người. ánh mắt với người nghe là rất quan trọng. Đó là tương tác hai thế, mặt không đỏ hơn, giọng nói và Đồng nghiệp nào có việc hiếu hỉ hay chiều, tạo cảm hứng cho người nói, sự chú ý cho người nghe. ngôn từ vẫn chuẩn. Vui đến đâu, rượu đau ốm, thầy đến tận nơi thăm hỏi. Mắt thầy kém, nhìn xuống chỉ thấy mờ mờ nhân ảnh, có khác ngon đến mấy cũng chưa bao giờ thầy Tham dự các cuộc vui nho nhỏ, thầy gì đang độc thoại! Trò thì nhất quỷ nhì ma, có phải đứa nào mất tự chủ. hay đem tới chai rượu, hộp bánh. cũng chăm học đâu. Nhiều sinh viên nói: Họ đi qua môn của Chúng tôi cần món quà kỉ niệm các bậc thầy rồi mới nuối tiếc nhận ra bài giảng của thầy luận điểm Con người thầy hài hoà giữa phong bô lão dịp thượng thọ hay mừng tân gia rất chặt chẽ, kiến thức rất chắc chắn, chỉ vì giọng thầy không thái lịch lãm, hào hoa với sự thân thiện, bạn hữu, cứ nhờ thầy tư vấn là yên tâm. hùng hồn hay du dương lên bổng xuống trầm, mắt thầy cứ cởi mở, đôn hậu. Thầy rất kĩ tính với Nhiều học trò ngoại tỉnh còn kéo được phải ghé sát vào trang sách, đâm ra trò lơ đãng. Thường đến mình nhưng độ lượng với người. Nhìn thầy về dự cưới. Bao giờ thầy cũng có khi quay lại học cao học hay nghiên cứu sinh, họ đã trưởng cách thầy ăn mặc, Giáo sư Mạnh hay quà mừng thích hợp, tế nhị. Thầy chân thành hơn, đã ít nhiều trải nghề, họ mới thật sự thích được ghé tai bọn trẻ hỏi: “Này, sao ông Long tình giúp đỡ học trò lúc họ khó khăn. học thầy. mắt mũi thế mà ông ấy lúc nào cũng Khoá Hạnh Mai, Hồng Xuân, Bắc Lý, tươm tất thế nhỉ?”. Không chỉ chuyện Dương Hương (sau thành cán bộ giảng Trong các giao tiếp thường nhật, trình tán chuyện của thầy dạy của trường), được Khoa thí điểm ở bậc thượng thừa. Hồi cô Tuyết nhà thầy còn khoẻ, thầy một lớp tài năng, chọn ra những sinh cần đi đâu, cô đèo thầy bằng chiếc xe babetta màu bạc. Thầy viên xuất sắc, học một mạch năm năm thường giới thiệu: “Đây là người cầm lái vĩ đại của tôi”. Thầy có bằng Thạc sĩ. Khoa giao thầy Long cũng có một kho giai thoại về đồng nghiệp, về Văn giới để lúc làm chủ nhiệm lớp. Ngày 8/3 thầy tới tụ bạ kể cho bọn tôi nghe. Giọng thầy lúc nhỏ nhẹ, khi sôi kí túc xá tặng cả phòng một bịch kẹo và nổi, bốc lên là vỗ đùi đen đét. Thầy làm thơ ứng khẩu, làm mỗi bạn một bông hồng đỏ thắm. câu đối cực tài. Dạo Văn Giá công bố cuốn sách về Vũ Bằng, vừa là công phu sưu tầm giới thiệu một di sản văn học vừa Thầy đã trải qua nhiều nỗi đau buồn như một nghĩa cử chiêu tuyết cho tác giả Thương nhớ mười hai, lớn, có khi tưởng như quá sức chịu đựng. thầy Long tặng Văn Giá vế đối: “Văn Giá đỡ Vũ Bằng, Vũ Bằng nâng Văn Giá. Giá văn văn Văn Giá ai bằng”. Tôi chỉ biết ngả Lạ là phong độ của thầy không thay đổi, nón bái phục. PGS.TS Trần Thị Trâm bên Phân viện Báo chí tâm hồn thầy vẫn rất gần với lớp hậu sinh. và Tuyên truyền kén được rể thảo, được bế cháu ngoại kháu khỉnh, mặt chị cứ nở như bánh phồng. Chúng tôi mời chị tham Nhà nước đã phong tặng thầy danh gia hội đồng chấm luận án, ai cũng trầm trồ khen chị “dạo này hiệu Nhà giáo Nhân dân. Một sự ghi nhuận sắc”. Thầy Long tủm tỉm rồi đọc luôn: “Từ ngày có cháu nhận xứng đáng những cống hiến của trẻ ra, ai mà chẳng muốn làm bà như em”... thầy cho giáo dục. Nhưng thời điểm Nhà nước phong tặng muộn hơn nhiều Đồng nghiệp và học trò quý tấm chân tình và sự thoải mái so với sự phong tặng của chúng tôi. của thầy, hay rủ rê lôi kéo thầy. Ngồi bên bàn nhậu mới thầy Và nội hàm khái niệm “Nhà giáo Nhân dân” chúng tôi dành cho thầy cũng rộng hơn l Nguyễn Thị Bình 103

cặp đôi vàng Tôi tin rằng trước khi thầy về NGUYỄN HOÀNH KHUNG nghỉ hưu thì ở Khoa Văn của tôi, thầy là người có lượng tưởng của thầy cứ nhảy thoăn thoắt từ Đông sang Tây, từ cổ giờ chủ - khách vẫn còn chưa “nói nốt fan hâm mộ đông đảo nhất. đến kim, từ văn ra đời... Cứ buổi nào học thầy về là kí túc xá chỗ dở” ở lối xuống cầu thang. Hình Không ai không bị mê hoặc lại râm ran toàn những lời ngưỡng mộ. như chưa có lần nào chị em tôi giữ bởi các giờ giảng của thầy. Thầy chậm được “kỉ luật giờ giấc” cả. Đấu hót với rãi, từ tốn, nhỏ nhẹ làm sống lại trước Tôi được thành đồng nghiệp cùng bộ môn với thầy thật sự thầy là niềm vui khôn tả. Thầy mà nhại chúng tôi bao thăng trầm thời cuộc, bao là một hạnh phúc. Thầy hiền, luôn nhỏ nhẹ, ân cần nhưng giọng nói, động tác của ai thì diễn viên vẻ đẹp của Thơ mới, của văn xuôi Nam khả năng hài hước là vô đối. Cô Thu Tiết bảo: “Ông Khung chuyên nghiệp cũng chào thua. Thầy Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân... nói hay nhất Khoa này”. Thầy Tá bảo: “Hình phạt nặng nhất hay ngắt lời chúng tôi một cách rất đối với ông Khung là cấm nửa ngày không cho nói. Chắc chắn hóm: “Xin phép được nghi ngờ”, “Bạn Thầy cũng là chuyên gia về Tự Lực hắn không chịu nổi đâu!”. Quả thật thầy rất hay chuyện, luôn không định ám chỉ tôi đấy chứ?”. Chỉ văn đoàn. Thầy Khung nói hay như cởi mở, thân thiện, vô cùng dễ gần. Nhu cầu chia sẻ thông tin thế thôi mà chuyện gì cũng ngập tràn viết. Những trang sách của thầy thật ở thầy rất lớn, theo ngôn ngữ bây giờ, chắc phải gọi thầy là tiếng cười nhẹ nhõm, tin cậy. hấp dẫn, mới mẻ, nhiều phát hiện sắc “người truyền cảm hứng” vĩ đại mới đúng. sảo, nhiều tính phản biện, lối diễn đạt Sức khỏe thầy không tốt, hay ốm, tinh tế, tài hoa, không lẫn với ai. Tôi đã Bản năng tinh tế hiếm có, lại thông kim bác cổ, thầy trò hay đi viện. Có lần bệnh tình thầy trầm chứng kiến bạn bè tôi ở kí túc xá, vừa chuyện mặn mà được với mọi đối tượng, chuyện không dứt trọng. Cả tổ lo lắng, xôn xao kéo vào đọc thầy vừa chốc chốc rền rĩ xuýt xoa, ra nổi. Cô Thu Hương vợ thầy cũng rất hiếu khách, quý trò. bệnh viện thăm thầy. Thầy chưa ngồi tay vớ lấy cuốn sổ, miệt mài chép lại Tôi và Hạnh Mai, mỗi lần đến nhà thầy, đều dặn nhau trước: dậy được. Mọi người đứng xung quanh những đoạn văn tâm đắc. “Hôm nay chỉ ngồi một lúc thôi nhé!”. Là vì chúng tôi đã giường. Thầy say sưa trò chuyện, vẫn nhiều lần ngồi với thầy cô “không nhổ rễ lên được”, thường hóm hỉnh và tinh tế như ngày thường. Chúng tôi thường nói với nhau: thì nếu đứng dậy chào để về lúc 10 giờ thì cầm chắc lúc 12 “Thầy Khung đúng là sinh ra để dành cho văn chương”. Thật khó hình dung thầy lại ở bên ngoài cái cõi chữ nghĩa mênh mông, sâu thăm thẳm bao nhiêu là trăn trở băn khoăn về phận người, về sự sống... được các ông/ bà nhà văn nhà thơ phổ hồn mình, cá tính mình, giọng điệu mình vào mà thành ra các hình tượng ám ảnh, có khi đến mất ngủ. Nói không ngoa, thầy làm đẹp, làm sang rất nhiều cho văn chương. Với tôi, thầy còn là hiện thân của nét thanh tao, lịch lãm của Hà Nội thời vang bóng... Hồi dạy bọn tôi, thầy gầy gò lắm, có lẽ gầy nhất Khoa. Thầy bảo: “Mình không thể gầy hơn được nữa đâu. Mọi người đừng lo”. Thầy da trắng xanh, dáng cao, môi đỏ như thoa son, trông rất thư sinh. Tôi mải mê vào lời thầy giảng, phục lăn cách thầy dẫn dắt vấn đề mạch lạc mà đầy bất ngờ, những liên 104 70 năm Sư phạm Văn khoa

Thầy bảo: “Mình đóng góp cho ngành Nhưng sự nhạy cảm với văn chương, tâm hồn tinh tế tài hoa, cất luôn vào cái ví đó. Đúng là đãng trí y còn nhiều hơn cho giáo dục đấy các khiếu hài hước của thầy thì có lẽ chưa ai học được. Có những bác học. Ai phải chịu thiệt không rõ còn ông ạ”. Chúng tôi lo thầy mệt nhưng phẩm chất trời chỉ cho riêng một ít người. chúng tôi chỉ thấy thầy đáng yêu hơn. thực lòng vẫn thích nghe thầy nói. Thầy Hoàng Dung lấy giọng nghiêm Thầy có trí nhớ tuyệt vời với những gì liên quan đến văn Nhiều năm, căn phòng chật chội của khắc bảo: “Này ông Khung, ở tổ này chương. Nhưng thầy nổi tiếng đãng trí trong đời sống thường gia đình thầy ở phố Bảo Khánh là địa ông chưa đến tuổi được nhận hoa của nhật. Cô Thu Hương “tố” với chúng tôi rằng thầy đi xe đạp chỉ thân thiết với bao nhiêu nhà văn, chúng tôi đâu nhé!”. Thầy Dung xua vào bệnh viện Việt Đức thăm bạn nằm viện (khá gần nhà nhà báo, đồng nghiệp, học trò khắp cả tổ: “Về! Về! Nếu ta không về nhanh, thầy), gửi xe ở bãi. Hàn huyên với bệnh nhân xong, thầy lững trong Nam ngoài Bắc. Đôi lúc tôi cứ tay Khung sẽ chết vì nói trước khi chết thững đi bộ về. Hôm sau gia đình phát hiện không thấy xe nghĩ giá căn phòng ấy đủ rộng chắc nó vì bệnh”. (hồi ấy cái xe đạp là tài sản đáng giá nhất của một gia đình), tá sẽ thành một salon Văn học hấp dẫn hoả hỏi han, tìm kiếm. Thầy bảo “không biết” vì thầy không lắm vì ông bà chủ có sức hút mạnh thế Thầy kém thầy Nguyễn Đình Chú nhớ gì cả. Hàng tháng sau, bất chợt thầy nhớ ra, chạy đến bãi cơ mà! Dù chật chội, ở đây đã diễn ra gần chục tuổi. Nhưng thầy gầy yếu, giữ xe bệnh viện. Ông giữ xe cau có cằn nhằn mãi về nỗi tối nhiều buổi toạ đàm, seminar học thuật mảnh khảnh trong khi thầy Chú lại nào cũng phải đem cái xe ấy cất vào kho, sáng hôm sau lại thú vị mà những ai may mắn có mặt trẻ dai nên có lần hai vị đến làm việc mang ra bãi đợi chủ. đều không thể quên. ở tỉnh nào đó, người ta nhầm lẫn. Thầy Khung khoái chí kể cho chúng tôi nghe: Tôi đi dạy tại chức ở Thái Bình, lúc về phải ra khỏi xe chờ Càng về già thầy càng đẹp lão. Ngoài “Họ bảo mình thầy ơi sao thầy già thế qua phà Tân Đệ. Bất chợt nghe thầy gọi. Hoá ra thầy xuống tuổi 80, thầy hồng hào tươi tắn và mà còn phải đi công tác xa, vất vả thế? dạy cho một lớp khác. Thầy hỏi tôi: “Cho mình vay tạm ít tiền, cốt cách thanh lịch vẫn như thuở nào Lẽ ra để người còn trẻ như thầy này đi mình vừa bị móc ví trên phà”. Ôi trời, thầy mất cắp là “chuyện dân Khoa Văn gọi thầy là “cậu ấm”, là thôi. Thế là đi đâu cùng ông Chú, mình thường ngày ở huyện”. Lắm khi nghe cứ như giai thoại ấy. Cô “công tử Bảo Khánh”. Mấy năm nay, cứ vỗ vai ông ấy: “Xin giới thiệu, anh Thu Tiết kể: Thầy bị móc túi nhiều lần trên xe bus. Tức quá gia đình thầy chuyển đến chỗ mới rộng bạn trẻ của tôi đây sẽ trao đổi lịch làm bèn quyết tâm lừa lại kẻ cắp. Thầy nhét mảnh giấy báo cho cái rãi khang trang nhưng xa trung tâm. việc”. Thầy Chú ngồi nghe, cười ha hả, ví căng phồng lên, bỏ túi quần sau. Lượt đi, ví vẫn còn. Lượt về Qua lại cầu Chương Dương nhiều khi chả đính chính gì. thì mất. Thầy khoe thế là đã cho bọn móc túi một vố tẽn tò, rất tốn thời gian vì tắc đường. Đã bao hoàn toàn không nhớ lúc vào trường, cô Thu Tiết đã đưa cho lần tôi và đàn em hẹn hò sang chơi với Đám hậu sinh chúng tôi có lẽ ai cũng thầy tem phiếu tiêu chuẩn mua hàng cả quý và thầy quen tay thầy cô mà rồi không thực hiện được. nhận được từ sự uyên bác của thầy những Tôi rất tiếc những lần lỡ hẹn với Ngô tri thức quý giá, cũng cố học ở thầy lối tư Văn Giá, Trần Văn Toàn, Lê Hải Anh... duy khúc chiết và sự nghiêm cẩn, mực thước trong câu chữ. Những buổi sinh Nhớ biết bao những buổi thầy trò vui hoạt học thuật hay bảo vệ luận văn, vẻ hàn huyên! Càng nhớ càng áy náy. luận án mà có thầy là cầm chắc không tẻ nhạt. Thầy khen hay chê đều xác Tôi biết thầy sống rất thanh bạch, đáng, cặn kẽ, ráo riết, thấu lý đạt tình. chẳng màng danh vọng, xa lạ với mọi Hơn thế, cách nói của thầy bao giờ cũng sự đố kị, bon chen. Thầy là một trong hóm hỉnh, thú vị. Thầy Nguyễn Đăng số những bậc đại sư đã làm nên thời Mạnh rất coi trọng ý kiến thầy Khung. hoàng kim của Khoa Văn - Đại học Sư Thầy Mạnh bảo: “Ông Khung tinh lắm. phạm Hà Nội, đã cho chúng tôi niềm Ông ấy thẩm định là mình tin tưởng”. hãnh diện vì được là học trò, là đồng Hai thầy thân nhau nhưng là hai phong nghiệp của thầy. cách. Thầy Mạnh gai góc, dân dã, quyết liệt. Thầy Khung thanh thoát, Cầu trời cho thầy cô mạnh khoẻ, nhẹ nhàng, chừng mực. Bất cứ khi nào trường thọ! l chúng tôi cần tới thầy, thầy đều tận tình chỉ bảo. Nhiều học viên cao học, Nguyễn Thị Bình nghiên cứu sinh tuy không làm luận văn, luận án với thầy cũng khoe đã đến 105 thầy “ăn mày” được bị nặng chữ nghĩa.

Những gương mặt thân thương 1. Thầy Hoàng Thung THẦY HOÀNG THUNG trong ký ức của sinh viên Điều đáng nói ở đây là cách trình bày, diễn giảng các nội Ngôn ngữ (khi GS Đỗ Hữu Châu làm tổ Trong ký ức của nhiều sinh viên Khoa dung kiến thức về Ngữ âm học, Ngữ pháp học của thầy rất trưởng). Qua thời gian, những công trình Văn khóa 1969 - 1973, thầy Hoàng nhẹ nhàng, vui vẻ nhưng cũng rất chặt chẽ, minh xác, khoa khoa học thầy đã công bố cũng không Thung là một nhà giáo có cách dạy dễ học. Bởi thầy cũng là một nhà giáo rất nghiêm cẩn, nghiêm ít, từ cuốn Giáo trình Tiếng Việt hiện hiểu, sinh động; có khả năng gây được, túc trong chuyên môn, khoa học. đại - phần Ngữ âm học (viết chung với tạo được ấn tượng thú vị, khó quên Cù Đình Tú, Nguyễn Nguyên Trứ) đến ở người học về tiết dạy, bài dạy. Môn 2. Cuộc đời, năm tháng... các giáo trình, chuyên luận về Ngữ pháp Ngôn ngữ (thời đó gọi là Ngữ ngôn) là tiếng Việt (viết chung với Diệp Quang môn học “khó nhằn” với không ít thuật Thầy Hoàng Thung (tên đầy đủ của thầy: Hoàng Văn Ban) được xuất bản sau này. Thầy còn ngữ, khái niệm khô khan, trừu tượng Thung) quê gốc ở xứ Nghệ. Thầy sinh năm 1934. Năm nay, là tác giả sách giáo khoa môn Tiếng Việt mà sinh viên nhiều thế hệ ngán ngẩm tuổi ta đã là 88. Ít người biết trước khi vào đại học (Khoa lớp 4, lớp 5 từ những năm 1984, 1985; gọi là môn “Khô, Khó, Khổ, Khóc”. Hai Văn, ĐHSPHN, khóa 1960 - 1963), thầy đã có 10 năm trong là tác giả của không ít sách tham khảo chuyên ngành ngôn ngữ học mà thầy quân ngũ (1950 - 1960). Trực tiếp cầm súng, thầy từng tham môn Tiếng Việt, Ngữ văn dành cho học Thung đảm nhiệm giảng dạy ở Khoa gia các chiến dịch Biên giới (1950), Hòa Bình (1951 - 1952) và sinh tiểu học, THCS và THPT. Có thể Văn là Ngữ âm học và Ngữ pháp học - Điện Biên Phủ (1954), cống hiến những năm tháng tuổi xuân nói về phương diện chuyên môn, khoa là những chuyên ngành điển hình về sự trong cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp của dân học, thầy Hoàng Thung không thiên về khô khan, trừu tượng, về sự “phong ba tộc. Rời quân ngũ, thầy về học đại học rồi được giữ lại làm nghiên cứu các vấn đề có tính lý thuyết, bão táp...”. Nhưng thật thú vị, khi dạy giảng viên ở Khoa Văn ĐHSPHN từ năm 1963. Ở Khoa Văn, mà đi sâu khám phá những vấn đề có môn này, thầy Thung đã có cách để “dễ ngoài công việc chuyên môn, thầy không nề hà bất cứ việc gì tính ứng dụng, tính thực hành. Những hóa”, “giản dị hóa”, lại còn “sinh động khi được đơn vị giao. Từ công tác công đoàn chăm lo đời sống kết quả, những thành tựu mà thầy đạt hóa” các kiến thức khô khan, trừu tượng cho các công đoàn viên trong những năm tháng bao cấp cực được trong lĩnh vực này là không nhỏ và ấy. Thầy có cách trình bày, diễn giải mộc kỳ gian khổ về đời sống vật chất, đến việc phụ trách đội tự vệ thật đáng trân trọng. Nhưng, dường như mạc, dễ hiểu. Đặc biệt, thầy sử dụng của Khoa, rồi chỉ huy lực lượng trực chiến phòng không trên số phận không mỉm cười với thầy. Thầy những dẫn liệu, dẫn chứng minh họa rất sân thượng nhà A7 tham gia bắn máy bay Mỹ năm 1972, tạo chịu nhiều thiệt thòi. Đến khi nghỉ hưu, độc đáo, sinh động, dễ nhớ. Dẫn chứng nên hình tượng “Con mắt phía tây” của Hà Nội trong những thầy vẫn chưa có học hàm, học vị, danh về “câu đặc biệt” là: “Chửi. Kêu. Đấm. năm tháng hào hùng đó. hiệu... tương xứng với những công lao Thụi. Bịch.” (Nguyễn Công Hoan). Dẫn đóng góp của thầy cho giáo dục. chứng về “câu mơ hồ” là: “Dứa thích Về phương diện chuyên môn, thầy là một nhà giáo, nhà Na hơn Mít.”... Ngôn ngữ diễn giảng khoa học say mê tâm huyết với nghề. Thầy từng là tổ phó tổ của thầy có màu sắc khẩu ngữ, cùng với cách nói hài hước, dí dỏm và khi “cù” sinh viên cười rúc rích, thầy vẫn giữ gương mặt “lạnh tanh”... đã khiến cho việc học, việc tiếp thu bài giảng của sinh viên trở nên nhẹ nhàng, thoải mái. 106 70 năm Sư phạm Văn khoa

Thầy Hoàng Văn Thung và phu nhân Gia đình cô Thu Tiết và gia đình thầy Thung hội ngộ tại nhà thầy ở Quần Ngọc áp Tết 2019 BCN Khoa Ngữ văn chúc Tết gia đình thầy tại thôn Quần Ngọc, 3. Thảnh thơi ở chốn thôn quê Cho đến hôm nay, nhờ giời, sức khỏe xã Cộng Hòa, Yên Mỹ - Hưng Yên 2020 “Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ thầy tương đối ổn định. Gương mặt thầy vẫn rạng rỡ, tươi tắn, hóm hỉnh Thầy Thung chụp ảnh với lớp Văn 5 năm đầu tiên Người khôn, người đến chốn lao xao...” như ngày nào... (Nguyễn Bỉnh Khiêm) Lời kết: Cho đến ngày hôm nay, Chả biết thầy Hoàng Thung có nghĩ nhắc đến, nghĩ đến thầy Hoàng Thung, như vậy không. Chỉ biết từ hơn 10 năm tôi vẫn không thể quên, thậm chí tới nay, thầy đã rời chốn phố phường đầy mức ám ảnh về tấm card visit (danh khói bụi, chen chúc, lộn xộn để về vui thiếp) ghi danh tính của thầy mà vào thú điền viên ở làng Quần Ngọc, xã khoảng những năm 80, 90 thầy cho Trung Hòa, huyện Yên Mỹ, Hưng Yên tôi. Tấm danh thiếp này gợi cho tôi (“Yên Mỹ” chắc là nơi vừa “đẹp” vừa nhiều suy nghĩ về cuộc đời thầy, cuộc “bình yên”). Nơi thầy nghỉ dưỡng là đời của một nhà giáo, nhà khoa học mà mảnh đất nhiều ý nghĩa. Thứ nhất, đây số phận đã không mỉm cười nên chịu là quê của cô Ngần, người bạn trăm năm nhiều thiệt thòi. của thầy. Thứ hai, làng này từng là nơi Khoa Văn ĐHSPHN sơ tán về những Trên tấm danh thiếp này, thầy ghi năm bom đạn 1967 - 1968. Như vậy, vẻn vẹn ba dòng: mảnh đất này đã “hóa tâm hồn” đối với thầy, bởi sự gắn bó nghĩa tình sâu nặng. Hoàng Văn Thung Cách đây vài ngày, tôi và anh bạn cùng Nhà giáo lớp đại học (lớp M) là Nguyễn Minh Hậu mới đến thăm thầy ở làng Quần Cựu chiến binh Ngọc nói trên, chứng kiến hai cụ hưu Trong khi, nhiều đồng nghiệp và học (thầy và phu nhân) sống thảnh thơi, thư trò của thầy có đầy đủ danh hiệu, học thái ở một ngôi nhà khang trang trong hàm, học vị... thì thầy Hoàng Thung chỉ một khuôn viên rộng chừng hai sào Bắc là một nhà giáo bình thường, một nhà bộ. Rau cỏ vườn nhà, gà chạy bộ, cây khoa học lặng thầm... Nhưng tôi hiểu, cối vườn tược mướt mát xanh... Chỉ có chữ NHÀ GIÁO và chữ CỰU CHIẾN điều, từ khoảng bốn năm nay, thầy mắc BINH trong tấm danh thiếp nhỏ nhoi một căn bệnh hiểm nghèo, phải hàng của thầy ẩn chứa một cái gì cao đẹp, ngày thuốc thang chống chọi với bệnh đáng trân trọng; ẩn chứa những năm tật. Theo định kỳ, thầy lên bệnh viện tháng hy sinh, cống hiến của thầy cho Hữu Nghị ở Hà Nội để kiểm tra, điều nền độc lập của dân tộc, cho nền giáo trị. Về phương diện này, thầy cũng nêu dục của nước nhà... một tấm gương về sự kiên cường chống Một cuộc đời chỉ có cống hiến, hy chọi với bệnh tật, vượt qua bệnh tật. sinh... Thế là quá đủ! l Lê Hữu Tỉnh Cựu SV Khoa Ngữ văn, khoá 19 (1969 - 1973) 107

Những gương mặt thân thương Bốn năm đại học, tôi không TRỊNH THỊ tôi khó tránh khỏi mặc cảm và chỉ chực được học cô, không biết gì co mình lại... về cô. THU TIẾT Khi tôi chính thức trở Thuở ấy mọi nhu yếu phẩm đều bán thành thành viên Bộ môn ấy phải phê bình, phải kiểm điểm chị em... nó trái với lòng phân phối qua công đoàn. Có thể hiểu Văn học Việt Nam hiện đại (quen gọi yêu quý của chúng tôi. Phiền lắm. Tổ chỉ có một nữ là cô Thu ngay vì sao cô Thu Tiết có thâm niên tắt là tổ Việt Nam 2, hoặc tổ Văn 2, Tiết. Nhưng đấy là ngoại lệ. Mấy ai được như cô Thu Tiết!”. làm Tổ trưởng Công đoàn ở tổ Văn 2. phân biệt với tổ Việt Nam 1/ Văn 1 Tôi không nhớ thầy Dung hay thầy nào đảm trách các mảng Văn học dân gian Thầy nói đúng quá, làm sao dám tự ái. Chỉ hoang mang. nhận xét vui: \"Tổ này có thể không cần và Văn học trung đại), thầy Hoàng Trong tâm trạng ấy, tôi nghĩ ngay: cô Thu Tiết sẽ là người tổ trưởng chuyên môn, nhưng thiếu cô Dung tổ trưởng thẳng thắn: “Tổ tôi 17 đầu tiên giúp tôi làm quen với cuộc sống mới đầy thách Thu Tiết thì không xong, không biết năm nay không nhận cán bộ nữ. Không thức, xung quanh toàn các thầy thuộc đẳng cấp, cây đa cây sự tình sẽ thế nào\". Đúng thế! Làm phải coi thường chị em mà là tôn trọng đề về học thuật. Dù gì cô cũng cùng phái nữ, dễ cảm thông, sao hình dung nổi các ông thầy vĩ đại chị em. Làm khoa học đòi hỏi hi sinh dễ bộc bạch... của tôi trong công việc “thỏn mỏn” mà nhiều, không thể cấm chị em sinh nở. nhọc nhằn của một Tổ trưởng Công Kinh tế khó khăn lại bận mọn, chị em Nói vậy nhưng những giao tiếp ban đầu với cô, tôi rất dè đoàn! (Chẳng đã có giai thoại rằng chưa lấy đâu ra thời gian mà nghiên cứu? Lúc dặt. Cô người Hà Nội gốc, giọng nói khoẻ, trong, sôi nổi, ngôn ai đối nổi vế đối của nhà thơ Thanh từ sắc sảo, bặt thiệp. Vóc dáng nhỏ bé nhưng cô làm gì cũng Tịnh ở Ban biên tập Báo Văn nghệ đấy nhanh nhoay nhoáy “chuẩn không cần chỉnh”: từ chuyện chợ thôi: “Cái cứt gì cũng phân mà phân thì búa, nấu nướng, may vá... đến việc tham dự các hoạt động như cứt”. Nghe đâu ông nhà thơ ra vế chuyên môn như tổ chức tham quan, thực tế, thực tập sư đối này vì quá nản với cái cung cách phạm... Tôi con nhà nông thô phác, tính vừa nhát vừa vụng phân phối hàng họ thời bao cấp, có khi đủ điều. Cô cũng nghiêm khắc, rạch ròi đâu ra đấy. Bởi thế cắc cớ hai ba gia đình được mua chung một cái màn). Tôi lặng lẽ quan sát sự tận tâm với việc chung, sự sâu sát và chí tình của cô trong cái mớ bòng bong những mặt hàng phân phối nhỏ giọt, từ cây kim, sợi chỉ, cái áo mưa, lạng kẹo đã ướt nhoẹt... đến cái lốp, cái xích xe đạp... Cô nhớ rất rõ ai đã được mua gì những lần trước. Cô biết rõ ai nên được ưu tiên mua gì lần này. Cô cứ nêu ý kiến nào là mọi người vui vẻ tán thành ngay. Tôi thật lòng tin: nhờ những người như cô mà câu chuyện về quyền lợi vật chất của Công đoàn viên (vốn rất dễ eo sèo ở cái thời khốn khổ ấy) không gây tổn thương cho ai cả. Và tôi bắt đầu thấy thương quý cô. Cô đã chia sẻ với tôi rất nhiều buồn vui làm vợ, làm mẹ, làm nghề... Tôi được cô an ủi, khích lệ nên quên dần mặc cảm. Cô mềm dẻo nhưng cứng cỏi. Nhiệm kì cô đảm nhiệm chức vụ Bí thư Đảng uỷ Khoa, chúng tôi đều thấy đã chọn đúng người. Cô xa lạ với sự trịnh trọng, kiêu ngạo. Lúc nào cũng sôi nổi, nhiệt tâm, tình - lý uyển chuyển, công - tư rành mạch. Cô thân chinh về quê thẩm tra lý lịch kết nạp Đảng cho tôi. Nhân 108 70 năm Sư phạm Văn khoa

chuyến tham quan của Khoa, buổi tối còn là mơ ước đường xa của cả trường. Gia đình cô hiếu khách, Khi đã nghỉ hưu, cô vẫn không ngừng đoàn về khách sạn nghỉ, cô rủ tôi bắt không bao giờ phiền lòng khi chúng tôi đến “quấy nhiễu”. Tổ quan tâm đến Tổ, đến Khoa. Hình như xe ôm về nhà tôi. Uỷ ban xã làm việc tôi toàn người ham vui, thích hội họp để bù khú. Cứ thấy lịch ai ốm đau cô đều biết, đều ân cần thăm đến 21 giờ. Sáng sớm hôm sau hai cô họp là đòi phải liên hoan. Thực ra cũng chỉ là bữa bún chả, hỏi. Cô hối thúc ban chủ nhiệm Khoa trò lại bắt xe ôm quay lại nhập đoàn. bún nem, phở phiếc gì thôi, nhưng chuẩn bị cho hơn chục kết nối và tổ chức mấy chuyến về thăm Sau trận mưa đêm, quãng đường đê hơn miệng ăn thì cách rách phải biết. Cô Thu Tiết đảm đương bà con ở Đại Từ (Thái Nguyên), Yên chục cây số trơn như đổ mỡ. Dạo đó xe tất. Nữ, sau tôi ít lâu còn thêm Hạnh Mai, Thanh Minh (Hải Mỹ (Hưng Yên), là những nơi Khoa Văn máy quê tôi còn hiếm lắm. Không sao Anh, Đặng Thu Thuỷ về khi cô nghỉ hưu rồi). Cô không cho sơ tán thời chống Mỹ. Bà con hai địa kiếm được cái thứ hai. Anh xe ôm cam ai động tay vào khâu chợ búa, nấu nướng. Nhặt rau thơm, gọt phương ấy cảm động lắm. đoan chở hai người đằm xe còn an toàn hoa quả, cô cũng chuẩn bị xong trước giờ họp. Đến rửa bát đĩa hơn chở một. Chiếc môkich lao như lại càng không. Ăn rồi, cả tổ người dựa lưng vào tường, người Đi qua một thời đạn bom loạn lạc, điên, đảo như rang lạc. Cô trò tôi nhắm ngả lưng trên giường, trên ghế... tiếp tục đấu hót. Còn chán một thời hậu chiến thiếu thốn đủ mắt phó mặc. Qua hết con đường “đất mới chịu giải tán. đường, đến khi con cái cô phương Thục”, tim mới đập lại bình thường... trưởng, lúc nào ở cô cũng toát lên vẻ Các thầy trong tổ tin cậy cô tuyệt đối. Cô giữ hộ tem phiếu, lạc quan, tự chủ. Bộ môn tôi đã tổ chức Trong một hội nghị khoa học, tôi đọc tiền lương cho những thầy hay quên như thầy Khung, thầy mừng cô thượng thọ 80 hai năm trước. tham luận chê thơ Tố Hữu. Hội trường Mạnh. Cô nhắc mọi người chuyện hiếu hỉ. Thầy Tôn Gia Các Tuổi tác và bệnh tật khiến thân hình cô sinh động hẳn lên. Nhưng sau, tại cuộc viết di chúc dặn con khi nào thầy chết thì “Một thằng phải tiều tuỵ, quá nhẹ, quá mỏng. Nhưng âm họp của một Chi bộ, tôi bị dẫn ra để phóng vào ngay. Báo cô Thu Tiết cha mày đứt hơi”. Thầy sắc giọng nói, sự minh mẫn, những mối phê phán thói “ngựa non háu đá”. Cô Mạnh có trí nhớ siêu phàm về Văn học nhưng những năm làm quan tâm nặng nghĩa tình thì vẫn vẹn đã kiên quyết bảo vệ tôi. Cô nói: “Cá Trưởng Bộ môn cứ bắt đầu họp tổ lại hỏi cô các số liệu, ngày nguyên như thế. nhân tôi có thể không đồng quan điểm giờ, thời hạn... liên quan đến công việc. Mọi người thường với bạn ấy nhưng bạn ấy có quyền đưa cười ồ và bảo đề nghị cử cô Thu Tiết làm Trợ lý Tổ trưởng. Tôi ước gì theo được cách sống của ra chính kiến của mình. Đây là học Phu nhân của các đấng bậc như Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn cô! l thuật cơ mà!”. Hoành Khung nhiều lần xuýt xoa: “Không có Thu Tiết, không hiểu các ông ấy làm thế nào!”. Nói nôm na, ở tổ tôi, Bình Nguyên Có một thế hệ thầy cô trong Khoa mọi người thích dựa dẫm vào cô. Tôi cũng thế. Càng thương, chịu nhiều thiệt thòi về học thuật. Cô càng quý, càng dựa dẫm. Chỉ vì tin. là một điển hình. Với trí tuệ mẫn tiệp và tinh thần lao động nghiêm túc, cô lẽ Trong Khoa có nhiều chị lứa trước tôi, đã sống cùng gia ra có thể cống hiến nhiều hơn cho khoa đình cô ở khu tập thể nhà lá (tục gọi “làng Mùi”) vẫn thường học. Nhưng khi nhà nước có các chương khoe con cái các chị thi nhau học giỏi có giấy khen để được trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ trong nước bác Thu Tiết thưởng. thì nhiều thầy cô đã quá tuổi. Theo tôi, người như cô Thu Tiết thừa khả năng đào tạo cao học, nghiên cứu sinh. Một sự lãng phí chất xám rất lớn. Tất nhiên thiệt thòi thuộc phía học trò nhiều hơn. Tôi chưa bao giờ nghe cô phàn nàn một lời về chuyện này. Cô dồn tâm lực vào những trang giáo trình, bài báo về Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Đà, Á Nam Trần Tuấn Khải, Nguyễn Tử Siêu; vào sách tham khảo; vào mỗi giờ lên lớp. Cô là mẫu nhà giáo say nghề và tự trọng. Có thể nói không ngoa rằng cô là kho kí ức về bộ môn, về “nhà khoa”. Cô có cả kho chuyện tiếu lâm về đồng nghiệp và cô kể thì hấp dẫn vô cùng. Căn hộ của gia đình cô suốt nhiều năm là “trụ sở” hội họp, là trạm thông tin của bộ môn khi văn phòng bộ môn 109

cặp đôi vàng Thầy Trần Lê Bảo và cô GIẢI MÃ VĂN HỌC Nguyễn Bích Hà là cặp đôi TỪ MÃ VĂN HÓA, vàng của Khoa Ngữ văn. Hai mươi tư năm nhìn lại, GIẢI MÃ NHÂN SINH với hai chúng tôi, mối nhân TỪ MÃ NHÂN TÂM duyên với thầy cô luôn món quà quý mà cuộc sống đã trao tặng. với nhau, giữa thầy và cô… và cũng luôn luôn có những ý tưởng Can trường mở lối bằng những trái mới mẻ được gợi ra từ những sự bất đồng ý kiến quý giá đó. Buổi tim Đan-kô: Khoa Ngữ văn là nơi chúng 1. Nhân duyên thiên y vô phùng tranh luận khoa học thường kết thúc khi cô lườm thầy và thầy tôi nhìn thấy ánh lửa từ những trái tim Chúng tôi là những sinh viên lứa cười sảng khoái bảo: “Vâng, thưa Thủ trưởng”. Chúng tôi thì Đan-kô. Thầy cô chúng tôi cũng là 1997-2001. Năm 1997, chúng tôi nhập sung sướng ra về no nê cả tri thức lẫn đồ ăn. những trái tim góp nên ánh lửa ấy. học vào nhà B, chính thức trở thành Kế tục lớp sư biểu, thầy lại tìm đường tân sinh viên lớp CLC K47 Khoa Ngữ Người Trung Hoa có thành ngữ “thiên y vô phùng” (áo trời nghiên cứu về Kinh thi, tản văn Tiên văn, khóa CLC đầu tiên thời kì đó. Cô không vết may) để chỉ sự hoàn thiện trong sắp đặt của sự vật, Tần, về tiểu thuyết cổ điển, Đường Nguyễn Bích Hà đã dạy chúng tôi môn của tự nhiên, không có chút dấu vết, như áo trời không lộ vết thi… giữa trăm bề thiếu thốn về tư liệu Văn học dân gian, thầy Trần Lê Bảo thì khâu. Dường như mối nhân duyên giữa bốn người chúng tôi cũng như phương pháp tiếp cận. Cô dạy môn Văn học Trung Quốc. Năm cũng tự nhiên, lặng lẽ và thấu suốt như vậy. Chúng tôi luôn tri Hà của chúng tôi còn gia nhập đội ngũ 2001, chúng tôi tốt nghiệp đại học, ở ân số phận đã trao tặng cho mình mối nhân duyên đẹp đẽ đó. tiên phong mở ngành học Việt Nam lại Khoa làm việc và học tiếp cao học học (năm 2001) khi khái niệm “Việt luôn. Trong quá trình đó, thầy Trần 2. Mã văn hóa và mã nhân tâm Nam học” vẫn còn vô cùng mới mẻ ở Lê Bảo đã hướng dẫn chúng tôi làm nước ta đầu những năm 2000. cả khóa luận tốt nghiệp lẫn luận văn Cũng giống như tất cả các thầy cô của các thế hệ Khoa Ngữ thạc sĩ. Chúng tôi ở lại làm việc tại văn, thầy cô chúng tôi là những nhà khoa học can trường và Chúng tôi nhiều lần muốn giải mã nhóm Văn học phương Đông, Bộ môn thông tuệ. Sự thông tuệ của thầy cô thể hiện sống động trong phẩm chất khoa học của thầy cô tôi Văn học nước ngoài. Do vậy, thầy vừa nhiều chục năm trên bục giảng, trong hàng loạt các công cũng như các thầy cô Khoa Văn. Và là người hướng dẫn khoa học, vừa là trình khoa học và kết tinh ở nhiều hướng nghiên cứu trong dường như đến nay chúng tôi đã tìm ra người phụ trách công việc. Nhưng đối đó có hướng nghiên cứu văn học từ mã văn hóa. Tuy vậy, điều câu trả lời dù không biết đã đích đáng với chúng tôi, nếu phải tìm cách diễn chúng tôi luôn thầm cảm nhận đó chính là sự can trường của hay chưa. Có lẽ thầy cô chúng tôi đã đạt nào chính xác nhất, thì chắc chắn thầy cô tôi và các thầy cô Khoa Ngữ văn của chúng tôi. dùng nhân tâm đối đãi với khoa học và chỉ có một cách: thầy Bảo và cô Hà là với cuộc đời - một nhân tâm mẫn tiệp, “sư phụ” và “sư mẫu” của chúng tôi! Can trường vượt lên nỗi áo cơm: những câu chuyện dầu trong sáng. Điều thú vị nhất là, nhờ có “sư phụ” củi mắm muối của những năm trong chiến tranh hay tái mà chúng tôi có được “sư mẫu”. Những thiết đất nước sau chiến tranh vẫn in hằn trong hồi ức Văn 3. Sinh mệnh tiếp nối gì mà một học viên, một trợ giảng bình khoa 70 tuổi. Chúng tôi gặp thầy khi thầy đã 52 tuổi, những thường nhận được từ người hướng dẫn, câu chuyện miếng cơm manh áo thời khốn khó chỉ còn lại Chúng tôi ra trường đã được hai chúng tôi nhận được gấp đôi, thậm chí là những mảnh hồi ức thầy cô kể nhưng cũng đủ ngậm ngùi. mươi năm. Tuy không thương hải tang là hơn thế. Cả thầy và cô đều là những Thương mến thầy cô, thương mến những con người Văn khoa điền, hai chúng tôi năm nay cũng đã người nghiêm cẩn trong nghiên cứu khoa một thời can trường không để “áo cơm ghì sát đất”. bước vào lứa tuổi trung niên, nhưng cứ học, thấu tình đạt lí trong công việc, mỗi lần quay trở lại, chúng tôi lại được nhưng mỗi người lại có cá tính rất riêng. Can trường vượt lên định kiến: những thiên kiến khoa học, làm hai học trò nhỏ của thầy cô, thư Thầy khoáng đạt, hóm hỉnh, uyên bác; cô những thiên kiến về người trẻ, những thiên kiến nghề nghiệp… giãn trong cái không khí ấm áp thoải quyết liệt, nghiêm khắc, cá tính. Chúng thời nào cũng tồn tại như một quy luật. Chúng tôi đã chứng mái xưa kia dường như chưa bao giờ tôi rất nhớ những buổi tối đến nhà thầy kiến thầy cô mình lần lượt vượt lên tất cả để làm khoa học, để thay đổi. Gian phòng khách, cho dù cô để xin ý kiến về công việc hay khóa đào tạo các thế hệ sinh viên. Mỗi lần nghĩ đến điều đó, chúng luận, luận văn, giáo án. Thông thường tôi đều lặng người xúc động. những buổi như vậy kéo dài đến vài ba tiếng đồng hồ. Những trao đổi giữa thầy cô với nhau, giữa thầy cô với chúng tôi cứ kéo từ chủ đề này sang chủ đề khác. Luôn luôn có sự bất đồng ý kiến, giữa chúng tôi với thầy cô, giữa hai chúng tôi 110 70 năm Sư phạm Văn khoa

thầy cô đã chuyển nhà mấy lần, luôn BÁ TƯỚC mang vẻ ấm cúng thoải mái như thể chính nhà mình. Đồ ăn thức uống đơn giản mà ngon lành. Và lúc nào thầy cô cũng bắt chúng tôi cầm cái gì đó mang về nhà, lần nào thầy cô cũng hỏi thăm tình hình bố mẹ, gia đình, con cái… của chúng tôi. Những điều nho nhỏ đó, phải là “sư phụ” và “sư mẫu” thực sự mới có thể làm được. Có lẽ, điều quan trọng nhất ở đây chính là cả thầy và cô đều có một tình cảm đặc biệt dành cho những người trẻ tuổi và trẻ lòng, đều có sự tôn trọng chân thành dành cho những ý tưởng khác biệt. Đó là phẩm chất chân chính của các nhà khoa học, các nhà giáo dục ở bất cứ thời đại và nền văn hóa nào. Chúng tôi hi vọng rằng, mình có thể học được điều đó từ “sư phụ” và “sư mẫu”! Nhiều người quan niệm, con cái là sự nối dài sinh mệnh của cha mẹ. Chúng tôi là học trò của thầy cô, luôn khát khao, nỗ lực nối dài sinh mệnh nghiêm khắc, khoan dung của thầy cô và mong muốn trao gửi trọn vẹn cho học trò của mình như cách thầy cô chúng tôi đã làm l Cầu Giấy, ngày 26 tháng 7 năm 2021 Trần Thị Thu Hương, Nguyễn Thị Diệu Linh Thầy bá tước” - đó là tên tôi tôi tự tin về vốn kiến thức mình có, tôi tự tin vào giọng nói còn là cả một pho kiến thức về Văn học và các bạn sinh viên cùng và khả năng diễn đạt truyền cảm của mình. Trung Quốc, Ấn Độ. Thật uyên bác! khóa tặng thầy với tất cả lòng Nghe thầy đọc thơ Đường mới tuyệt ngưỡng mộ kính yêu. Bởi Khi viết xong đề cương khoá luận, tôi chưa dám đưa thầy vời làm sao! thầy thực sự có phong thái xem ngay mà đưa cho ông chú, dịch giả những vở hài kịch của quí tộc, sang trọng, lịch lãm, hào hoa. W.Shakespeare, cũng là người thầy lớn của tôi. Chú đọc xong Như một mối lương duyên, tôi ở ngay Giọng thầy vang, mà dịu nhẹ, tôi đảm trong đọc một tối 32 trang tôi viết cả một tuần rồi gạch chéo gần nhà cháu gái ruột thầy nên mỗi lần bảo ai đang bức xúc chuyện gì, chỉ cần bằng bút đỏ, tôi hoảng, chú tôi đã sổ toẹt bản khoá luận của thầy sang Berlin tôi đều được gặp. Thú nghe giọng thầy nói là “hạ nhiệt” ngay. tôi rồi. Chú bảo tôi viết lại, một tuần sau tôi mới dám rụt rè vị nữa là chị Thu cháu gọi thầy là chú đưa cho thầy đọc. Thầy hẹn tôi một buổi chiều đến nhà, thầy ruột và chị cũng gọi thầy Lương Duy Tôi vốn say mê môn Văn học Phương ở căn biệt thự rất đẹp trên phố Thụy Khê cũng gần nhà tôi. Thứ, thầy Lương Duy Trung là cậu Tây thầy dạy, không phải đến khi học Ngập ngừng bấm chuông, Hoàng Linh, khi đó còn là một cậu ruột, vì vậy tôi đã được gặp các thầy ở thầy mới mê đâu, trước khi vào Khoa bé ra mở cửa cho tôi và hỏi chị có hẹn với bố em đúng không, Berlin. Thật là hạnh ngộ! Văn, tôi đã được ông chú là dịch giả, cũng chị vào đi. Hoàng Linh bây giờ là một nhà báo sắc sảo thông là người dạy Văn học Phương Tây “nhồi tuệ, chủ bút tờ Nhịp cầu thế giới. Tôi từng ước sẽ có một lần đi du lịch nhét” vào cái đầu chim sẻ của tôi khá cùng thầy, nhất là đi Hy Lạp. Đã có lần nhiều kiến thức có hệ thống về văn học Cả một buổi chiều thầy nhẹ nhàng chỉ dẫn cho tôi từng chi tôi đứng lặng trước đền thờ thần Zeus nước ngoài, đặc biệt là Văn học Phương tiết cần bổ sung, cơ bản là đạt, chỉ cần viết thêm vài ý. Tôi ở Athen và nhớ thầy xiết bao, khi đến Tây, đến khi học thầy tôi lại được khai không thể quên được cảm giác sung sướng nhẹ nhõm khi thầy Delphi, đền thờ thần Apollo hùng vĩ sáng thêm thật nhiều kiến thức. bảo: “Tốt rồi!”. Thầy nói, người phản biện trong buổi bảo vệ tôi cũng thầm nhớ đến lời thầy giảng, của tôi sẽ là cô Đặng Anh Đào. Cô Đào sẽ đọc trước bản khoá tôi muốn được nghe thầy kể về các vị Tôi là một trong số rất ít sinh viên làm luận của tôi. Cô đọc xong bảo: “Sao em không viết thành luận thần trên đỉnh Olympia thiêng liêng về William Shakespeare với thầy. Một văn nhỉ?”. Là người phản biện mà cô bổ sung cho tôi thật kia, để được nghe lại giọng nói của tác gia rất khó nhưng thầy luôn động viên nhiều kiến thức nữa. Như một cái duyên, tôi sẽ còn nhiều kỷ thầy đã làm biết bao thế hệ sinh viên tôi: “Cố gắng lên đi cô sinh viên nhỏ!”. niệm yêu quí rất thú vị với cô Đặng Anh Đào. văn khoa say sưa. Hồi sinh viên tôi rất nhát, nhiều Đường đời có ngã rẽ, tôi từ bỏ nghề giáo sang định cư ở Berlin… Tôi tin chắc rằng, cả thế hệ sinh viên khi không diễn đạt tự tin trước thầy, Một buổi chiều, bà chị cùng phố bảo sẽ có một điều bất ngờ Văn khoa trước đây và sau này, ai từng thầy khích lệ tôi: “Em có giọng nói rất cho tôi, chị dẫn thầy sang nhà tôi. Thật vui không để đâu cho được nghe người thầy bá tước hào hoa truyền cảm của cô giáo dạy Văn, phải hết, bao nhiêu năm thầy vẫn nhớ rất rõ về tôi. Thầy trò hàn dạy Văn học phương Tây ấy giảng bài phát huy chứ!”. Thế là thầy dạy tôi tập huyên bao kỷ niệm, tôi còn được gặp thầy nhiều lần ở Berlin đều không thể nào quên. diễn thuyết. Thầy đã làm tôi tự tin hơn nữa, thầy vẫn lịch lãm, quí phái, nhẹ nhàng. Và tôi bất ngờ nhiều, sau này khi đứng trên bục giảng, biết thầy không chỉ là chuyên gia về Văn học phương Tây mà Thầy Nguyễn Hoàng Tuyên yêu quí! l Lại Thái Hưng (cựu SV khoá 1979 - 1983) 111

Những gương mặt thân thương Không hiểu sao trong lòng THẦY TÔN GIA CÁC - tôi nỗi nhớ về thầy luôn gắn với những nhọc nhằn chăng? Hình ảnh thầy trong chiếc sơ mi phanh hết khuy mặc không ngờ lại được hai thục nữ của tổ thiếu thốn thời bao cấp. ngoài chiếc may ô trắng, ngả lưng vào ghế tựa, mắt dim lại Văn 2 mời chén thịt chó!”. Chúng tôi Có lẽ vì trong những bữa sau điếu thuốc lào, sao mà thân thiết, bình yên thế! quả cũng hơi ngượng ngượng, vẫn cãi ăn trưa đạm bạc mùa coi thi, chấm thi, thầy: “Thục nữ thì cũng phải ăn chứ ạ. đám nữ nhi cũng thường không đủ no, Thời gian trước, việc chấm thi tuyển sinh đại học chỉ giới Mà thời buổi này có món gì cung cấp tôi hay nhìn thầy ái ngại. Thầy dáng hạn ở số bài của thí sinh thi vào khối xã hội của trường, nếu cho chúng em protein rẻ như món mộc vóc cao lớn, nói oang oang, đi đứng tôi không nhớ nhầm thì hầu như không có chế độ thù lao. tồn đâu! Đến ông Xuân Diệu còn phải nhanh nhẹn, động tác mạnh mẽ, tiếng Cuối đợt chấm, chúng tôi được nhận một khoản tiền bồi cậy nhờ vào nó để có thơ, có công trình cười vang cả tầng nhà... dưỡng ít ỏi, chỉ đủ cho các mẹ nội trợ toan tính đãi chồng sáng giá Các nhà thơ cổ điển Việt Nam con bữa vịt xáo măng. Về sau, nhiều trường bạn có thi tuyển đấy thôi!”. Đầu thập kỉ 80, bộ môn tôi chưa khối C, D nhờ chúng tôi chấm Văn. Tiền công chấm có khá ai có xe máy. Một ngày hè nóng nực, hơn. Tôi và Hạnh Mai (đôi khi thêm vài bạn nữa) hay rủ thầy Thầy ơi, nếu thầy đừng đi sớm thế, thầy đạp xe từ nhà thầy, số 10 phố Các đến quán Nha Trang cạnh bến tàu điện Cầu Giấy để ăn... bảo đảm thầy sẽ được thấy chúng em Trần Hưng Đạo (gần bệnh viện Quân thịt chó. Bọn tôi mê cái món bánh đa chiên mỡ chó giòn tan, “phục hồi nữ tính”. Bọn em sẽ mời Y 108) vào trường làm gì đó. Xong việc béo ngậy. Quán chật, mái lá đơn sơ, ghế bàn xộc xệch nhưng thầy đến nhà hàng có chỗ ngồi rộng sớm, trên đường về, thầy ghé khu tập đông khách. Thầy cười ha hả bảo: “Tao đi ăn thịt chó, đi uống rãi khang trang, thưởng thức cái tinh thể Thành Công thăm tôi. Con trai tôi bia hơi lòng lợn nhiều lần. Toàn đám học trò tao dạy hồi ở tế của món ăn Hàn Quốc, Nhật Bản... mới hơn một tuổi, rất còi cọc. Thầy dỗ phổ thông giờ đều là tá, là tướng... Chúng chiêu đãi. Nhưng chứ không phải ăn chỉ để “lấy no”, để được nó ngồi lên lòng, vừa chơi đùa với chống suy dinh dưỡng như thuở đói dài nó vừa bày cho tôi tìm mua thuốc cam ấy đâu thầy ạ! Hàng Bạc hoặc thuốc bà lang làng Cót cho nó uống. Thầy cũng khuyên: “Em Ai cũng nghĩ thầy phải sống thọ vì thử làm thịt cóc cho nó ăn một đợt xem thầy vốn rất khoẻ mạnh xốc vác, hầu thử thế nào...” như vô bệnh tật. Thế mà mới 69 tuổi, thầy đã quy tiên khiến tất cả chúng tôi Dạo ấy nhà tôi nấu cơm sáng để ông bàng hoàng, hẫng hụt rất lâu. Khi sống, xã còn dỡ vào cặp lồng, theo xe tuyến thầy đem lại cho chúng tôi bao nhiêu cơ quan đến tối mới về. Con tôi vẫn tiếng cười sảng khoái. Thầy mất nhưng còn ăn cháo hạt. Trưa đã muộn, tôi tiếng cười ở lại. cứ thật thà mời: “Thầy khoan hẵng về, đang nắng lắm. Nhà em còn nhiều Trong Khoa tôi có nhiều nhà thơ. cơm nguội, em đi rang cơm, thầy ăn Chỉ riêng thầy nổi danh với thơ trào cùng em nhé!”. Thầy vui vẻ nhận lời. phúng. Thầy chưa bao giờ làm thơ để Chảo cơm rang đãi thầy chỉ sang hơn xuất bản. Quen xuất khẩu thành thơ, ngày thường quả trứng vịt đập vào. Hai thầy đọc cho mọi người nghe rồi... bỏ thầy trò ngồi bệt trên sàn nhà. Thế mà đấy. Mãi sau, bạn bè hối thúc, thầy câu chuyện gia đình, quê hương hôm cố nhớ và ghi lại, tất nhiên không nhớ đó còn ấm áp đến tận hôm nay. Có lẽ hết. Thầy mất được 2 năm, năm 2006 ai gặp thầy ngay lần đầu đã thấy thật cô Thu Tiết mới thực hiện được sự uỷ gần gũi, tin cậy. Thầy hay hỏi thăm con thác của thầy: in tập Thơ vui gửi lại cho trai Hạnh Mai, gửi bánh trái cho nó, đời (dạng lưu hành nội bộ gia đình, bè gọi nó là “ngài” (do cú phi thân ngoạn bạn và học trò). In đến đâu hết đến đấy. mục của thằng bé hồi đi trẻ). Họp bộ Người muốn xin nhiều quá! môn ở nhà cô Thu Tiết, thầy tóm được con mèo, nhét nó dưới áo bụng để trêu Đọc thơ thầy, tôi nhận ra nỗi muộn Hạnh Mai đang vác bầu lặc lè. Em trai phiền của một người bất đắc chí nhưng tôi phải chữa bệnh ở viện 108, tôi ghé nhà thầy mượn cái phích. Thế mà thầy nhớ rất lâu, thỉnh thoảng lại hỏi thăm: “Nó khỏi hẳn chưa? Lấy vợ chưa? Có mấy đứa con rồi?”... Một số sinh viên học thầy, bảo thầy dân dã xuề xoà như ông lái xe ấy. Các em ít biết về cái khí khái của thầy. Và thầy sống rất tình nghĩa. Đó là nét tính cách thường gặp ở những người nghèo mà giàu tự trọng 112 70 năm Sư phạm Văn khoa

ưu thời mẫn thế. Có những nguyên uỷ Thanh Chương/ Tóc bạc răng long nhưng ý chí kiên cường/ Có ưu ông Chú đừng chơi trống bòi”. Thầy làm sâu xa nào tôi không được biết. Chỉ điểm là vóc người to khoẻ/ Chỉ số đo đạt yêu cầu quốc tế/ Bụng giúp cô Thu Tiết văn khấn Thổ công biết thầy đã viết di chúc lần đầu khi 80, mông và ngực 100”. Thầy khấn bố của một đồng nghiệp: ngày cô về nhà mới. Thầy trêu thầy mới hai tư tuổi; “Kém sáu tuổi xuân “Đời con lắm lúc buồn thiu/ Chỉ vui chốc lát những chiều tổ tôm/ Phùng Văn Tửu đi du lịch Trung Quốc đầy ba chục/ Thầy sinh ra nước nhục Phải đâu cờ bạc cho cam/ Vui cùng các cụ hoàn toàn vô tư... bị lạc vợ, trêu cảnh đoàn Khoa Văn đến dân cùng/ Tính thầy vốn đã hơi ngông/ Mong cụ tổ chức hội già dưới kia/ Để khi hết tuổi con về/ Lại thăm Vạn Lý Trường Thành bị “Tào Đức thầy lại kém hơn ông cụ thầy... Nghĩ theo hầu cụ như khi cụ còn”. Thầy giãi bày tình cảnh yếu thế: Tháo đuổi”: “Cuộc du lịch mới bắt đầu/ quanh thầy vẫn thẹn thầm/ Muốn lo sự “Từ ngày mình đi chấm thi/ Mình thành ông chủ, vợ thì Ôsin / Xem ra đã lắm âu sầu xảy ra/ Các cụ ông, nghiệp mà làm chẳng nên... Chết là hết Mỗi khi mình được lĩnh tiền/ Đưa về cho vợ, vợ hiền như miu... các cụ bà/ Hai bên đều chạy rất là khẩn mỏi mòn một kiếp/ Thầy hôm nay chẳng Từ ngày hết việc chấm thi/ Vợ lại làm chủ, mình thì Ôsin...”. trương...”. Thầy nhân tên cô Đặng Anh tiếc gì đâu/ Đề vào mộ chí mấy câu/ Anh Trong các bài di chúc, thầy dặn con: “Thấy cha thẳng cẳng chỉ Đào (có phu quân làm tướng) mà giỡn này đã lỡ nhịp cầu sang ngang” (Di chúc nằm/ Để bông vào mũi không còn bay bay/ Một thằng phải phóng cô: “Bây giờ Mận mới hỏi Đào/ Vườn 1). Bài thơ đậm hơi hướng thơ Nguyễn đi ngay/ Báo cô Thu Tiết cha mày hết hơi/ Một thằng phi xuống hồng ông tướng có rào hay không?...” Khuyến - tác giả thuộc phần thầy đảm chơi trời/ Mua cho cỗ ván rộng dài bằng cha...”. Thầy bảo chết trách ở Khoa Văn Sư phạm và thầy là hết, công trạng mình chẳng có gì, nên “Việc đưa đám đừng Tiếng cười vui tự nó đã trẻ trung. rất ngưỡng mộ tiết tháo của cụ Tam mời ai cả/ Hoa ở Vinh đắt quá thì thôi/ Điếu văn cũng chớ nhiều Thầy còn thêm vào đó nét tinh nghịch nguyên Yên Đổ. Bốn bài di chúc tiếp lời/ Đừng đề công đức của người giáo viên...”. Rồi thầy lưỡng bằng hình ảnh ngộ nghĩnh, bằng lối theo rải rác từ 1980 trở đi cũng phảng lự: “Nhưng mà có lẽ con ơi/ Phải xin bác Mạnh một bài điếu nhái Bút Tre, nhái ca dao, thơ Nguyễn phất cái bi phẫn khi của Tú Xương, khi văn/ Khi truy điệu đọc một lần/ Đến khi hạ huyệt nếu cần đọc Bính..., bằng kiểu chêm xen ngoại ngữ. của Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương...: thêm...”. Đến giờ, đọc lại những bài thơ ngắn như Tức cảnh, Lúc thì chêm tiếng Pháp: “Một hồi thấy “Từ nay thôi hết thị phi/ Đổi mới, bảo Ngu... của thầy, tôi không chỉ cười thích thú mà còn thấy cay ông ấy/ Đủng đỉnh bước đi ra/ Mặt mày thủ kiểu gì cũng xong/ Văn chương chôn cay sống mũi: “Có tiền mà cho vợ vay/ Khác nào miệng cọp nhét lại hớn hở/ Thôi thế là xa-va” (khoẻ, ổn). chặt ngoài đồng/ Tung hê hồ thỉ tang tay mình vào/ Để cũng đau, rút cũng đau/ Ngu này còn có ngu Lúc lại tiếng Anh: “Tôi buồn cười lắm mà bồng mặc ai... Các con ơi thôi từ nay/ nào ngu hơn!”, “Hai con chó, một con mèo/ Yên tâm sống với chủ no dám cười”, “Và các anh coi đây là điều Âm dương cách biệt chúng mày thiếu nghèo xưa nay/ Chủ về nhảy nhót múa may/ Xem ra tình nghĩa than thở/ Của một người trước lúc ra đi/ cha/ Chúng mày sẽ mở mắt ra/ Trăm còn hay hơn người”... Vẫn băn khoăn to be or not to be”... năm trong cõi người ta nhọc nhằn/ Dễ gì kiếm được miếng ăn/ Cha còn sống nói Thơ đùa bạn bè, đồng nghiệp của thầy suồng sã mà hóm Được sinh hoạt cùng thầy không sợ bao lần chẳng nghe...”. hỉnh. Thầy làm 4 bài Vè ngã xe trêu thầy Chú 4 lần đi xe Chaly thiếu niềm vui. Giá mà trời cho thầy bị ngã phải vào viện: “Bỗng đâu trước mắt lờ mờ/ Hình như là có sống thêm mươi năm nữa, để thầy tiếp Thầy cập nhật rất nhanh những con bò đi ngang/ Phanh tay ông bóp vội vàng/ Chổng mông ông tục làm thơ! Những ngày này Khoa ta hiện tượng mới trong đời sống xã hội: ngã nằm ngang vệ đường/ Ông xích lô thấy cũng thương/ Chở ông đang chuẩn bị kỉ niệm 70 năm thành lập. karaoke, massage, trò chơi liên tỉnh, về trả cho nàng Thị Thâm”, “Bà Thâm ơi, bà Thâm ơi/ Phải ngăn bệnh tham quyền cố vị, nạn hối lộ, Nhớ thầy biết bao! l nịnh nọt... cái cười của thầy thiên về châm biếm nhẹ nhàng. Thí dụ: “Thời Mai Bình này chỉ có lấy Tây/ Mới mong kiến thiết dựng xây nước nhà/ Mới mong mát mặt 113 mẹ cha/ Mới mong tủ lạnh, Hon đa đàng hoàng/ Lấy Tây phải lấy Tây sang/ Loại Tây bóc lột da vàng da đen/ Còn Tây đồng chí anh em/ Thì kinh tế cũng èng èng như ta...”. Thầy giễu lòng tham của kẻ đi vay tiền bà Chúa Kho, xin lộc Thánh Phủ Tây Hồ: “Mừng năm nay thấy Thánh vui/ Đất nước đổi mới, Thánh cười giòn tan/ Con tri túc, con không tham/ Không muốn tiến chức thăng quan làm gì...”. Tuy nhiên hai mạch cảm hứng chính trong thơ thầy Các là mạch tự trào và mạch đùa vui bè bạn. Thầy vẽ chân dung mình, tự nhận mình là “Á hậu tổ Văn 2”: “Người quê hương nổi tiếng nhút

Những gương mặt thân thương Tôi “mắc nợ” Khoa Văn bởi NGUYỄN THỊ THÌN nơi ấy đã cho tôi được gặp bao Thầy Cô đáng kính, có thể họ chưa từng nhớ mặt, nhớ tên một sinh viên trầm tính và không có gì nổi bật như tôi nhưng chỉ cần là “người Khoa Văn” thì bất cứ khi nào Thầy Cô cũng đều sẵn sàng chìa tay nâng đỡ. Muốn nói thật nhiều, muốn viết thật nhiều về Thầy tôi, Cô tôi… Bài viết này, xin được viết về Cô - người mà mỗi lần nhớ đến, tôi lại thấy sống mũi cay cay, rưng rưng, nghèn nghẹn… - TS Nguyễn Thị Thìn. Tôi được học Cô từ năm ba, ấn tượng Từ trái: Nguyễn Bích Hà, Trần Hạnh Mai, Nguyễn Thị Thìn, Có lần, Cô vừa chữa bài cho hôm đầu tiên về Cô là một phụ nữ mộc mạc, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Thanh Minh trước, hôm sau tôi đã làm lại bản mới và giản dị và nghiêm túc với mái tóc uốn cầm sang. Thoáng nhìn thấy tôi ở cửa, ngắn đầy cá tính. Ở Cô không có vẻ chữa rất kĩ. Cô “bẻ câu, vặn chữ”, Cô sửa từng dấu chấm, dấu Cô mắng: “Làm gì mà nhanh thế, tôi còn nhẹ nhàng, duyên dáng như đa số các phẩy. Học chuyên Văn từ cấp hai nhưng chưa bao giờ bài viết chữa bài cho hai đứa kia nữa, đã xong cô giáo Văn khoa khác mà là sự thuần của tôi bị sửa nhiều như thế. Nhìn bản thảo đầy màu mực đỏ đâu”. Thấy tôi lúng túng, xấu hổ, Cô dịu phác, bộc trực, thẳng thắn. Lũ sinh viên của Cô, tôi có chút hoang mang nhưng lại tự nhủ lòng chắc giọng ngay: “Vào nhà đi, cô sợ em vất chúng tôi có gì không nên không phải làm về ngôn ngữ cần diễn đạt gọn gàng hơn như vậy. Khi tôi vả quá thôi”. Và Cô rơm rớm nước mắt. thường bị Cô mắng cho tới bến nên ban mang bài đến, Cô thường đọc và chữa luôn tại chỗ, nhiều hôm Lúc về, Cô nhất định bắt tôi phải cầm đầu các bạn đều rất sợ Cô. Sau này, khi quá cả giờ cơm nước, tôi cứ nhấp nhổm định xin phép đứng theo gói bột sắn mà cô đã nhờ người biết Cô là đồng hương, tôi mới vỡ lẽ vì lên vì sợ phiền Cô nhưng Cô say sưa đến nỗi tôi không tìm quen làm hộ để uống cho đỡ mệt… sao tôi luôn thấy Cô gần gũi và mang được một thời khắc nào phù hợp để ngắt lời Cô cả. Có hôm, đậm phong thái, khí chất của con người đã gần 1h trưa Cô mới dừng lại và kéo tôi đi ăn ở quán cơm Khóa luận hoàn thành, Cô lại chỉ chỗ đất cảng Hải Phòng. bình dân gần nhà. Tôi cứ nhìn Cô và thầm nghĩ liệu sau này cho tôi phải mang in đúng ở quán quen ra nghề, mình có tận tụy, hết lòng vì học trò được như Cô? mà cô tin tưởng. Vừa thấy tôi vào, chị Mỗi giờ giảng bài, Cô đều say sưa và chủ quán đã hỏi ngay: “Em là học trò tràn đầy năng lượng, dường như có bao cô Thìn à, lúc sáng cô vừa ghé qua đây, nhiêu chữ nghĩa là Cô muốn mang ra dặn chị phải in cẩn thận vì khóa luận để trao truyền bằng hết cho sinh viên. của em làm rất tốt”. Rồi Cô đích thân Nhiều lúc Cô say sưa đến mức chẳng chở tôi đến nhà thầy Hùng để gửi thầy cần nghe thấy tiếng chuông báo hết giờ. phản biện. Bảo vệ xong, Cô lại chở tôi Cô mạnh mẽ, cứng cỏi là thế nhưng khi đến nhà thầy Xuyền, thầy Thìn, thầy nhìn Cô mơ màng theo lời hát “Dưới Châu, cô Bích Hà, cô Phương Nga… để màu hoa như lửa cháy khát khao/ Bước giới thiệu vì Cô lúc nào cũng khăng lặng trên con đường vắng năm nao…” của khăng: “Em nhất định phải ở lại trường, các bạn lớp tôi trong giờ ra chơi, tôi phải làm giảng viên đại học”. Khi nghĩ hiểu, Cô cũng có những lúc yếu mềm ra cần phải đưa tôi đến gặp ai, Cô lại và trong ánh mắt Cô cũng chất chứa đi bộ sang chỗ tôi ở trọ (cũng trong bao tâm sự, bao nỗi niềm riêng… khu Đồng Xa, cách nhà Cô chừng hơn 100m) và báo: “Tối nay đúng 7 giờ sang Cuối năm tư, chẳng hiểu sao, lớp tôi cô chở đi có việc, đi đến đâu thì nhớ có ba đứa tên Hà đều đăng ký làm khóa nói năng cho rõ ràng, đừng có mà thỏ luận tốt nghiệp với Cô. Năm ấy, Cô thà thỏ thẻ”… hướng dẫn tôi làm về câu hỏi trong thơ trữ tình. Mang bản thảo đến nộp lần Trong thời gian nghỉ hè, Cô tự trích đầu tiên đã bị Cô mắng: “Viết tốt thế một phần khóa luận gửi đăng Tạp chí này sao năm ngoái không làm báo cáo Ngôn ngữ cho tôi. Tôi đã trân quý bài khoa học, tôi đang muốn tìm một sinh báo đầu tiên được in trong số 10/2002 viên làm ngôn ngữ nhưng lại cảm thụ ấy biết bao… Hồi đó, sau khi tốt nghiệp, thơ văn tốt như em đấy!” (Thực ra tôi tôi cũng đứng trước nhiều lựa chọn: cũng có một đôi lần làm báo cáo khoa bố mẹ và thầy giáo cấp ba muốn tôi học về văn học Việt Nam với thầy Chu về trường cũ - Chuyên Trần Phú, Hải Sơn nhưng không dám nói nói lại với Phòng; anh “bạn giai” xin cho đi dạy ở Cô). Cô khen thế thôi, nhưng Cô vẫn một trường cấp ba tại Hà Nội, Cô thì tìm mọi cách để tôi được ở lại trường… 114 70 năm Sư phạm Văn khoa

Một buổi chiều, tôi gặp Cô trên đường từ trường về, nhìn thấy tôi, Cô dừng vội xe, gọi sang, giọng vẫn đầy xúc động: “Tôi vừa cãi nhau với ông ấy. Ông ấy có dạy em đâu, có hướng dẫn em làm khóa luận đâu mà biết được…”. Hóa ra, vì muốn tôi được ở lại Khoa mà Cô đã to tiếng với cả thầy Xuyền - trưởng Khoa lúc ấy. Để rồi, có lần gặp tôi, Thầy bảo: “Lớn thế này rồi mà cô Thìn lúc nào cũng như bế trên tay”… Sau đó, tôi đã được cô Bích Hà tiếp nhận ở lại Bộ môn Việt Nam học - vừa thành lập thuộc Khoa Văn. Ngày tôi được kí hợp đồng với trường, cô Thìn lại một mực khuyên tôi phải từ bỏ ngôi trường cấp ba mà tôi đã dạy được gần một học kì, Cô bảo phải tập trung, toàn tâm toàn ý với công việc ở Khoa và học cao học… Thi thoảng, sáng sớm, trên đường tập thể dục, hoặc tối khuya, Cô lại ghé qua kiểm tra xem tôi ăn ở thế nào vì lúc đó tôi sống một mình, các bạn ở trọ cùng đã về quê công tác hết. Cô cười rất hiền: “Tớ phải sang xem nhỡ cậu cả nể lại cho tên nào… ngủ lại”. Sau vài lần như thế, Cô có vẻ yên tâm và không ghé nữa… Có lần Cô đùa: “Thằng Quỳnh (con trai cô lúc ấy đang du học ở Pháp) bên kia có bạn gái rồi, chứ không, tớ bắt cậu về làm con dâu”… Ngày cưới anh Quỳnh, Cô chọn tôi đi ngay. Không thể tin được! Cô ơi! Buổi sáng hôm ấy Cô còn mà, Cô đã kịp ở nhà mới ngày nào đâu… xin dâu cùng, Cô lại chở tôi bằng xe máy. vui vẻ gọi điện bảo tôi sang chơi, Cô vừa đi công tác miền Hai cô trò đi trước và lúc về phải tránh Nam về. Trong thời gian Cô đi vắng, chúng tôi đã giúp bác Cô đi rồi, tôi bỗng thấy mình bơ vơ, đường khác để không gặp đoàn đón dâu Quang - chồng Cô dọn hết đồ đạc sang nhà mới ở Mỹ Đình hụt hẫng và trống trải như gà con lạc đi sau. Về gần đến nhà, vì sợ còn sớm xong xuôi, chỉ chờ Cô về làm lễ nhập trạch. Cô hào hứng khoe mẹ. Tôi đã quen được Cô bao bọc, chở nên Cô chở tôi ghé qua trường. Dừng xe hết góc này đến góc kia trong căn chung cư mà Cô dành dụm che, Cô hướng dẫn, chỉ bảo, Cô lo cho ở trường ít phút, dường như Cô quên hẳn mãi mới mua được. Chia tay chúng tôi xong, trên đường về từ những việc nhỏ nhặt hàng ngày. Tôi công việc trọng đại của gia đình, Cô lại nhà cũ thì Cô gặp nạn. chỉ là một trong số rất nhiều học trò thao thao nói với tôi về chuyên môn và được Cô thương yêu, quý mến bằng định hướng cho tôi cần phải đọc thêm cái Nhà Cô neo người, trong suốt thời gian Cô nằm viện, tất cả tấm lòng chân thành như thế… này, phải nghiên cứu thêm cái kia… chúng tôi thay nhau túc trực cùng bác Quang, cầu mong một Cứ nhắm mắt lại là những năm tháng phép màu sẽ đến… Nhưng điều ước không thành, năm ngày bên Cô lại trở về như những kí ức trong Cô tôi là vậy, hồn hậu và yêu ghét rõ sau Cô mất ở tuổi 53, khi biết bao nhiêu dự định còn dang veo, tươi xanh và đẹp đẽ… Nếu không ràng, hết lòng vì học trò, sẵn sàng hi dở… Năm ấy, Cô đang chuẩn bị bảo vệ chức danh Phó giáo gặp Cô, chắc tôi đã không bén duyên sinh quyền lợi cá nhân mà không mảy sư. Trong đám tang Cô, nghe thầy Thiện đọc điếu văn kể về cùng ngôn ngữ và cũng không có cơ hội may toan tính. Và rồi mùa hè năm ấy những ngày gian khó, nhọc nhằn Cô đã trải qua, không ai cầm được gắn bó với ngôi trường Sư phạm - mùa hè mà tôi không bao giờ muốn được nước mắt… cho đến tận bây giờ… nhớ, đã mang Cô tôi đi mãi… Một buổi trưa nắng lửa, vừa từ nhà Cô sống trong một căn nhà tập thể thấp và nhỏ hẹp ở tầng Cô ơi, Khoa Văn mình đang náo nức Cô về thì tôi nhận được điện thoại của một ở khu Đồng Xa, lối đi, bếp và nhà vệ sinh chung với một kỷ niệm 70 năm thành lập. Ai cũng Xuân Hương K49 báo Cô bị tai nạn, gia đình khác. Nhiều lần tôi đến, thấy Cô đang lúi húi nhóm bếp bồi hồi nhớ lại ngày xưa... Còn Cô đã đang cấp cứu ở bệnh viện. Tôi hốt than tổ ong, khói bay nghi ngút. Ba đứa chúng tôi sau khi làm nhẹ bước vân du nơi nào, có hay chăng hoảng chạy vào bệnh viện 198, bác sĩ khóa luận đã góp tiền mua tặng Cô một chiếc bếp ga. Cô mắng: học trò vẫn thầm gọi Cô trong thương nói Cô bị thương rất nặng, máu đang “Sinh viên lấy tiền đâu mà tặng cô quà to thế”. Rồi Cô lại bảo: nhớ…!!! l chảy trong não nên phải chuyển viện “Cô chưa dùng ngay, cất đi, để dành ít nữa sang nhà mới”. Vậy Học trò: Phạm Thị Hà, lớp C – K48 115

NHƯ NHỮNG DÒNG SÔNG NHỎ Năm 1996, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội tuyển tầng tháp cổ, “Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”! sinh nhiều nhóm ngành và tổ chức đào tạo theo Cứ thế, niềm vui nhân lên qua niềm đồng cảm, sự mô hình Đại học đại cương của Australia. Chương trình học đại cương khá phong phú, ngoài các gần gũi, sẻ chia. Qua những lần sang Văn Chỉ, tôi biết môn khoa học xã hội như Văn học, Lịch sử, Địa Thầy có mấy năm đi làm giảng viên ở Đại học Quy lý, Tâm lý học, sinh viên còn được học thêm Logic học, Xác Nhơn. Xa Quy Nhơn nhưng trong đó vẫn còn bạn bè, suất thống kê… Trong các môn học đại cương, có chuyên đề học trò gắn bó, còn một thuở bình yên của ngày mới Khái quát Văn học Việt Nam do Thầy Chu Văn Sơn giảng dạy. ra trường. Tôi nhớ, có một hôm vào giờ giải lao, Thầy Chu Văn Sơn đề Năm học đại học thứ ba thật chật vật. Cha mẹ nuôi nghị, mỗi dãy cử đại diện lên hát một bài. Từ trái sang phải, tôi ăn học bằng năm sào lúa, nhưng năm ấy lúa trổ lần lượt dãy 1, 2, 3 và dãy 4 lên biểu diễn. Dãy 1,2,3 nhiều vào dịp gió Lào nên cả cánh đồng xác xơ hạt lép. Cái người là dân quan họ Bắc Ninh, hát xoan Phú Thọ và ca trù khó ló cái khôn, tôi bèn ra trước cổng Trường Đại học Nam Định, Thái Bình lên hát rất hay. Đến dãy 4 của chúng Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội bơm vá xe kiếm tiền ăn tôi, chẳng ai chịu lên cả. Ngồi một lúc cũng ê, thôi thì đành học. Tôi còn nhớ, có một hôm bơm xe xong, đang lúi liều mình giữ thể diện cho dãy 4 vậy. Tôi bèn lên bục giảng húi cho thêm nước vào cái chậu còn lưng nước thì bắt và hát bài Hành khúc ngày và đêm. Tôi hát không hay, nhưng gặp một giọng nói rất ấm: ở trên bục giảng có Thầy vỗ tay cổ vũ. Chuyên đề Khái quát Văn học Việt Nam kết thúc nhẹ nhàng, sâu lắng nhờ phong - Em có muốn vào Khoa Văn Đại học Sư phạm Quy cách giảng dạy rất sinh động của Thầy Chu Văn Sơn. Về Nhơn công tác không? Thầy sẽ nói các thầy trong đó phong cách giảng dạy của Thầy, tôi xin nói đến ở phần sau. giúp cho. Kết thúc một năm rưỡi đại cương, nhiều bạn chọn vào khoa - Vào đó sau hai năm, ra Hà Nội học văn (học cao Lịch sử, còn tôi vượt rào và may mắn đậu vào Khoa Ngữ văn. học) với Thầy. May mắn hơn nữa là tiếp tục được học chuyên đề Thơ mới của thầy Chu Văn Sơn. Có lần, cả mấy lớp theo Thầy về Côn Ngước mắt nhìn lên, tôi bắt gặp một nụ cười hiền Sơn - Kiếp Bạc. Thầy trò tôi hát cho nhau nghe bài Diễm xưa hậu. Lúc ấy, tôi chẳng cần chú ý là chậu nước đã đầy của Trịnh Công Sơn có “vết chim đi” và cơn mưa giăng trên hay chưa nữa. Tôi thả cái can nhỏ xuống làm nước văng tung tóe và cảm thấy có một chân trời hy vọng, một niềm vui mới mở ra trước mắt mình. Niềm hy vọng trong tôi bỗng nhân lên, nhưng vẫn thấy hơi 116 70 năm Sư phạm Văn khoa

lo vì chẳng biết mình có làm nên “trò còn ấn tượng hơn ở phong cách giảng an trú cho con người, vừa khắc khoải trống” gì hay không nữa. dạy, phong cách phê bình. Về phong giải thoát cho sinh mệnh cá thể. Đọc cách giảng dạy, mỗi bài giảng của Thầy tập tiểu luận phê bình Thơ - Điệu hồn Năm cuối cùng của thời đại học kết có một nội lực, một sức hút đặc biệt. và Cấu trúc, tôi nhận ra cái nhìn thơ ca thúc, tôi đến hỏi Thầy về việc làm ở Đó là lời giảng ấm áp, truyền cảm, tinh trên một giao diện rộng: ngôn ngữ, cấu miền Nam. Thầy cho tôi biết một tin tế; là sự mạch lạc của tư duy, sắc sảo tứ và siêu cấu tứ. Nói cách khác, đây tốt lành. của ngôn ngữ; là sự hấp dẫn học trò là cách cách đọc văn bản dựa trên thủ bằng nghệ thuật dẫn dắt, truyền cảm pháp “lạ hóa”, cộng hưởng - một cách Một buổi chiều mùa Hạ, tôi đạp xe rất riêng. Về phong cách phê bình, đọc tác phẩm khắc phục được cái nhìn qua khu ruộng nước và rón rén đến gõ ấn tượng đọng lại trong tôi là những suy diễn, võ đoán. Chẳng hạn, Núi Đôi cửa nhà Thầy. Sau tiếng gọi: “Thầy trang viết tinh tế, sâu sắc. Chẳng hạn, của Vũ Cao được trời đất sinh ra nhằm ơi!”, người đón tôi là cô Vân Anh - công trình Ba đỉnh cao Thơ mới nghiên chở che cho sự sống, tình yêu đôi lứa. Ý vợ Thầy. Với vẻ mặt lo lắng, cô nói, cứu phong cách của ba nhà thơ Xuân niệm “đôi” vỡ ra làm hai nửa khi người “Thầy bị ốm nặng em à!”. Tôi theo cô Diệu, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử. Nhà con gái bị giặc giết hại. Cấu tứ Nắng mới qua những bậc thềm đầy lá vào nhà. nghiên cứu cắt nghĩa Xuân Diệu, một của Lưu Trọng Lư được soi chiếu trên Căn phòng như im lặng, Thầy nằm bất tín đồ của tình yêu và tuổi trẻ. Lấy cái ba chiều quá khứ, hiện tại và siêu vượt động, gầy và xanh, ánh mắt rất mỏi. nhìn trẻ làm thước đo, lấy nguồn sống vĩnh viễn - vệt nắng hồi quang của tuổi Khi ấy, những điều mà tôi muốn nói về trẻ làm giá trị, Thầy lý giải một thế ấu thơ và tình mẫu tử. Đây thôn Vĩ Dạ chuyện đi làm giảng viên ở miền Nam giới nghệ thuật “xanh non” hoặc tươi của Hàn Mặc Tử được cắt nghĩa từ nỗi đã được ghìm lại, giấu kín ở trong lòng. mới, đẹp đẽ và hồn nhiên như những niềm thân phận, mặc cảm chia lìa và Tôi không thể làm phiền Thầy lúc này. gì tạo hóa sinh ra. Viết về Nguyễn ước mong gắn bó,… Vì thế, tôi đành bịa ra nào là: “Em đã Bính - “kiếp con chim lìa đàn” bơ vơ, xin được việc làm ở quê rồi, Thầy ạ!”, trơ trọi đến tội nghiệp, nhà nghiên Có thể nói, với năng lực cảm thụ tinh nào là: “Em ra Hà Nội lấy ít đồ còn gửi cứu Chu Văn Sơn cắt nghĩa tầm vóc tế và khả năng hội tụ vốn văn hóa tinh trong ký túc”, nào là: “Em ra Hà Nội của nhà thơ qua cơn biến thiên lịch sử, hoa, Thầy Chu Văn Sơn đã xác lập nên mua thêm sách tham khảo”… Trước những cọ xát, va đập giữa hai nền văn một cách đọc, một cách nhìn khoáng khi ra về, Thầy còn căn dặn hai năm hóa. Thầy nhận ra cái chênh vênh, lỡ đạt, một lối phê bình duy mĩ. Cũng nữa quay lại trường học cao học Văn. dở của con người cá nhân và niềm khát xin nói thêm rằng, duy mĩ ở đây không khao đau đáu tìm về đồng quê đất bãi, phải là chạy theo cái Đẹp, thoát ly mọi Năm năm sau, tôi theo một anh bạn về với hồn xưa đất nước qua ba phạm chuẩn mực xã hội, mà xem cái Đẹp như đồng môn quay về miền Trung học cái trù: cố nhân, cố hương và cố viên. Đặc một giá trị vĩnh hằng cần tô điểm, nâng chữ của “ông đồ xứ Nghệ” - học cao học biệt say đắm là những trang viết về niu trên con đường dấn thân của người tại Đại học Vinh. Lúc Khoa Văn phân Hàn Mặc Tử, thi sĩ của “cái tột cùng”, nghệ sĩ chân chính. công người hướng dẫn, một nửa học tức là nỗi đau tột cùng, về “thơ điên” viên được các thầy tại trường hướng - một trạng thái sáng tạo mãnh liệt và Thay cho lời kết, tôi xin mượn hai dẫn, nửa còn lại được Khoa giới thiệu quá trình vượt thoát vào cõi giới ước câu hát trong bài Tình xa của nhạc sĩ hoặc tự tìm các thầy ở Hà Nội (những mơ. Dựa vào niềm tin Thiên Chúa giáo Trịnh Công Sơn để khép lại bài viết này: nhà khoa học ở Viện Văn học và ĐHSP thiêng liêng, Hàn Mặc Tử vừa tìm chỗ “Ôi những dòng sông nhỏ/ Lời hẹn thề là Hà Nội). Thú thực, khi ấy, nếu cố gắng, những cơn mưa” l biết đâu tôi có thể xin được một thầy ở trường Vinh hướng dẫn luận văn, vì Lương Minh Chung mình là cán bộ lớp. Nhưng nghĩ đến các em sinh viên mới ra trường, chưa xin được việc làm, tôi thuyết phục nhiều anh chị chịu khó đi Hà Nội. Khi một nửa số bạn trong lớp chưa biết người hướng dẫn là ai, tôi lóe lên một ý nghĩ trong đầu, một tia hy vọng về lời dặn của Thầy ngày xưa. Tôi đến gặp Thầy Đinh Trí Dũng - Chủ nhiệm Khoa Ngữ văn. Khi ấy Thầy Trí Dũng nghe xong, chấp thuận, cho liền! Thế rồi, tôi cũng hoàn thành luận văn. Trong lòng dâng lên một niềm tự hào vì mình được làm học trò nhỏ của Thầy Chu Văn Sơn. Trong con mắt của những học trò trong Nam, ngoài Bắc, ấn tượng về Thầy Chu Văn Sơn không chỉ là nhà sư phạm giàu lòng trắc ẩn, lịch lãm mà 117

Những vân gỗ thời gian Những đường vân gỗ trải bao mưa nắng, gió sương, qua thời gian đắp dần nên dáng cây, ngày càng to lớn, vươn cao. Khoa Ngữ văn được thành lập từ những ngày đất nước còn gian khó, chiến tranh lửa đạn, đồng hành cùng sự cố gắng không ngừng của cả một dân tộc để có được ngày hôm nay. Nếu năm xưa những tổn thương do chiến tranh, những khắc nghiệt trong gian khó, những ấm nồng yêu thương đã in hằn tạo nên những vân gỗ cứng cáp, mạnh mẽ, thì những năng động, sáng tạo, những nghị lực và khát khao từ những lớp người Văn khoa trẻ trung hôm nay lại đắp thêm, tạo nên những đường vân gỗ mới tràn trề sức sống! 118 70 năm Sư phạm Văn khoa

(Tặng các thầy cô và các bạn Khoa Ngữ văn ĐHSPHN của “một thời đạn bom, một thời hòa bình”...) Nghe anh hát mà em cháy lòng Xao xuyến mãi một thời phượng đỏ Tuổi thơ cùng Khoa Văn sơ tán Nơi con đê dài uốn một nét mi cong Những tháng năm, Tiếng hát cất lên từ gốc nhãn già Lớp học dưới hầm, ngụy trang toàn lá Thầy tóc xanh, mắt đong đầy khát vọng Ăn bánh bột mì, vẫn mê mải say sưa Những “ánh trăng huyền diệu”, những “đêm trắng tỏ mờ” “Khát vọng tự do”, “dấn thân và tồn tại” ! Những tháng năm, Rô-mê-ô tỏ tình với Giu-li-et dưới ánh sáng đèn dầu Biệt ly ở sân đình là Thúy Kiều và Kim Trọng Câu hát lý lơi, “sân chùa táo rụng” Hội diễn tan, “trăng đã ngả ngang đầu” Thầy hát lên, cho tuổi trẻ trở về Để thấy mình chính là người thầy giáo Lặn lội thuở nào giữa đá rừng sắc buốt Mà hồn thăng hoa trong điệu hát “Cô giáo bản Mèo” Thầy hát đi, tuổi trẻ lại trở về Trong lời hát ta là “chàng du mục” Cũng “say mê”, “cuồng điên”, “ngạo nghễ” Dẫn sinh viên đi khắp nẻo đường Phục vụ chiến trường, đào đập, đắp đê Tiếng hát xuyên qua những đêm không ngủ, Miên man các cửa ô, cuộc di chuyển khổng lồ Pháo đài bay cháy bùng trên thành phố Trước mắt mình vẫn “lấp lánh một vì sao”! Nghe câu hát “thắt lưng hoa đào” Ký ức như dòng sông trôi về bến ấy, Phòng tuyến sông Cầu thầy trò lặn lội, Đào hầm trong đêm tiếng hát gặp sao trời Tiếng hát ai gợi nỗi nhớ bạn bè Hết chiến tranh khi tuổi đời còn rất trẻ “Giã biệt Apsara” anh quay về đất mẹ Lại mê say cắp sách tới sân trường Tiếng hát ai xao xuyến bồi hồi Ai cũng có một thời mắt biếc Bản “Tình ca” anh hát tặng ai đêm hội Cửa kính giảng đường lấp lánh nắng ban mai Mùa thu nay, hương cốm đậu bờ vai, Còn ai đợi mình bên khung cửa nhỏ, Ta vẫn nhìn nhau dịu dàng như thuở đó Thưở ánh mắt nụ cười còn rực sáng như sao ! “Tổ quốc - quê hương”, liên khúc ngọt ngào Ta lại hát mỗi lần gặp mặt Mái đầu xanh bên mái đầu đã bạc Tiếng hát ngân dài, bay trên sóng thời gian ! PGS.TS Lê Lưu Oanh 119

Những vân gỗ thời gian quan sát hướng máy bay địch bay vào, lượng và chủng loại máy Ca trực của bay, địa điểm chúng ném bom... và báo ngay qua điện thoại về Nguyễn Thị Thanh Huyện đội Từ Liêm. Cứ thấy “ùng, oàng” là đầu bên kia đã hỏi và Nguyễn Tiến Mâu “Nó đánh đâu?”. Báo động liên tục, có ngày chúng tôi bị hong trên đài quan sát nắng đến mấy tiếng đồng hồ trên sân thượng nhà A7. (A7. ĐHSPHN. 1972) Khoảng từ tháng 7 năm 1972, chiến sự trở nên căng thẳng hơn, máy bay địch quần đảo thường xuyên trên bầu trời Hà Nội. Địch bắt đầu đe dọa dùng B52 đánh ra miền Bắc, đặc biệt là Thủ đô. Tổ đài phải thay nhau đi học mấy ngày để nghe về chủng máy bay B52, các loại máy bay tiêm kích đi kèm, cách đánh và khả năng hủy diệt của nó... Nhận định của trên là địch ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI có thể dùng B52 đánh Hà Nội. Mọi người đều lo lắng 12 NGÀY ĐÊM gấp rút chuẩn bị đón B52. Tổ đài được bổ sung thêm bốn chiến sĩ là bộ đội, thanh niên xung phong được đơn vị cử về học và hai bạn sinh viên (Nguyễn Văn Phớn - Thanh Hóa, Nguyễn Tiến Mâu - Thái Bình, Nguyễn Xuân Vân - Nam Định và Dư Văn Lễ - Bắc Ninh). Sau khi đi họp về, thầy Thung - Đại đội trưởng tự vệ và cũng là thầy chủ nhiệm lớp, mang đến cho đài quan sát một cái trống đại, thầy bảo: “Nếu B52 đánh vào thì đài quan sát phải đánh trống báo động ngay!”. Tuy nhiên, đêm 18 tháng 12, khi B52 lần đầu tiên đánh Hà Nội, chúng tôi không nhận ra ngay và cũng chẳng kịp gõ trống báo động. Đêm 18 tháng 12 năm 1972, gió mùa Đông Bắc lạnh buốt,  Nguyễn Bích Hà mưa bụi mù trời làm cho cái lạnh còn như lạnh hơn. Tôi và Thanh trực đài. Hai đứa quấn áo mưa ngồi co ro gà gật trên T rong lịch sử 70 năm của sân thượng A7. Báo động! Chúng tôi nhanh chóng chạy lên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, có một khoảng thời nhà A7, còn sinh viên chúng tôi được ụ quan sát. Tiếng máy bay gầm rú quần đảo bầu trời. Súng gian không dài lắm nhưng vô cùng đặc biệt, đó là Huyện đội Từ Liêm phân công lập tổ các loại từ mặt đất bắn lên dữ dội, chát chúa, sáng rực cả trời thời gian từ 1970 - 1974, mà chúng tôi, những sinh viên thời đó gọi là Thời hoa đài quan sát, theo dõi máy bay địch hoạt đêm. Từ đài quan sát chúng tôi nhìn thấy những viên đạn lửa. Bởi trong bốn năm học đó, chúng tôi tham gia hai lần tổng động viên sinh động chủ yếu ở phía Tây Hà Nội. Những vạch đường đỏ lừ đan vào không trung như dệt lưới, đường viên lên đường đánh Mỹ (1971 và 1972). Hầu hết các bạn nam của các khóa học ngày đó, chúng tôi đã tham chiến thật đạn rất chụm. Những quả tên lửa bay lên kéo theo một đuôi 1969, 1970, 1971, 1972 xếp bút nghiên, khoác áo lính, đi khắp các chiến trường sự như những người lính, đặc biệt là 12 lửa sáng rực. Một lát, từ phía bờ sông Hồng rực sáng lửa và A, B, C để tham chiến. Chỉ một số ít bạn nam còn học tiếp vì không đủ tiêu chuẩn ngày đêm Điện Biên Phủ trên không. Tôi khói, những đụn lửa xanh lét lạ lùng bùng lên, rồi chạy dài lên đường. Những năm ấy, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội thành lập một tiểu muốn lưu lại thời khắc đặc biệt này như hàng cây số. Tôi lập tức báo cáo về Huyện: đoàn tự vệ mà Khoa Văn là một đại đội. Đại đội tự vệ Khoa Văn có nhiệm vụ bảo một dấu ấn trong 70 năm hoạt động của - Báo cáo, nó đánh dọc bờ sông Hồng, điểm nổ kéo dài, lửa vệ trường và trực chiến. Các thầy giáo Thành Thế Thái Bình, Hoàng Thung, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội - một rất xanh, không rõ vũ khí gì. Bùi Văn Ba, Nguyễn Đức Tín, Trần Văn Trà, Nguyễn Tiến Sơn, Bùi Công kỉ niệm tham gia chống Mĩ khó quên. - Bờ bên này hay bên kia? Minh... trực ụ pháo 12 ly 7 ở ngay sau Năm 1972, sau khi vừa kết thúc năm Đêm tối, ánh lửa kéo không gian gần lại, đám cháy như 120 70 năm Sư phạm Văn khoa học thứ hai tại nơi sơ tán ở Quần Ngọc, ngay trước mặt tôi. Lấy cột điện Chèm làm mốc, sau cột điện. Hưng Yên, chúng tôi chia lại lớp, những - Bên kia! Chắc chắn là bên kia! Tôi báo cáo: sinh viên lớp 3A - K20 Khoa Văn từ nơi - Bên kia sông, có lẽ Yên Nội. sơ tán Hưng Yên về trường. Chúng tôi - Yên Nội hả? Bom kéo dài hả? B52 chăng? vừa học, vừa bảo vệ cơ sở vật chất của Đã chuẩn bị đón B52, tuy nhiên lúc ấy chúng tôi chưa kịp trường và lập tổ Đài quan sát máy bay tin, địch đã dùng B52 đánh Hà Nội. Nhưng chỉ mấy phút sau Mỹ, theo yêu cầu của Bộ Tư lệnh Thủ Huyện đội báo về: đô. Đài quan sát đặt trên nóc nhà A7 - Đó đúng là B52, rải thảm Yên Nội, Đông Anh. (lúc ấy là địa điểm cao nhất ở phía Tây Thế là cả nước đã bước vào trận chiến đấu mới khốc liệt hơn. Hà Nội), Tổ đài chỉ có bốn nữ (Hương và Sau trận chiến đấu đêm 18, dù rất lạnh và mệt nhưng tôi không Bích Hà - Hà Nội; Thanh - Thái Bình; ngủ được. Tôi nằm nghe những tiếng chim xao xác, hốt hoảng Sớm - Phú Xuyên, Hà Tây). Chúng tôi vọng vào phòng trực, hình dung cuộc sống đang biến đổi.

Sáng hôm sau, thầy Hoàng Thung báo động liên tục, chúng tôi đứng trên trành như một chiếc thuyền trước mắt chúng tôi. Từ ụ súng lên thăm Tổ đài. Thầy báo tin: “Trường sân thượng A7 gần như suốt đêm. B52 12 ly 7 dưới chân nhà A7 cả băng đạn nổ đanh giòn găm thẳng được lệnh cấp tán. Trong ngày hôm nay đánh vào 68 điểm của Hà Nội, nặng vào thân máy bay. Máy bay chúi xuống, bay chậm hẳn lại và lớp sẽ tản vào làng Đồng Xa. Tối có lẽ nhất là ga Yên Viên. Từ 21 giờ đêm ngày rơi xuống khu vực Mễ Trì. Chúng tôi mặc kệ đang báo động, sẽ có một tổ về gác trường. Như vậy 20 đến sáng 21, rồi lại từ sáng ngày 21 nhảy lên reo tưng bừng “Cháy rồi! Cháy rồi!”. Trận ấy, Đại trụ lại ở đây chỉ còn tổ đài. Các em đã đến đêm... Địch đánh ga Hàng Cỏ, nhà đội tự vệ trường được biểu dương “góp phần bắn rơi một máy có kinh nghiệm quan sát, không ai có máy điện Yên Phụ, Sở Công an, ga Yên bay Mỹ”. thể thay các em lúc này. Hãy cố gắng Viên, ga Giáp Bát... Báo động, bom, tên để hoàn thành tốt nhiệm vụ”. lửa và các loại vũ khí bắn lên rực trời. Ngay sau ngày nghỉ lễ Giáng sinh, ngày 26 tháng 12, địch Các ca trực của chúng tôi nối từ sáng quay lại đánh phá Hà Nội dữ dội hơn, cả ban ngày và ban đêm. Tôi thay mặt tổ đài nói: “Thầy và các đến đêm, có ngày chúng tôi đứng trên Hàng loạt trận địa tên lửa bị ném bom, nhà máy điện, trạm bạn cứ yên tâm. Chúng em chắc chắn đài quan sát 8 giờ liền không nghỉ. biến thế, nhà ga, kho hàng bị đánh đi đánh lại... Và 22 giờ 44 không rời vị trí của mình”. Thầy bắt tay phút đêm ấy, phố Khâm Thiên, khu phố Hai Bà Trưng bị bom chúng tôi thật chặt. Chúng tôi chia tay Rạng sáng ngày 22 tháng 12, B52 rải B52 rải thảm hủy diệt. với các bạn thắm thiết và bịn rịn như là thảm hủy diệt sân bay Bạch Mai và sẽ xa nhau lâu lắm. bệnh viện Bạch Mai. Sau trận bom, Ngày 27, 28, 29 tháng 12 vẫn là những ngày căng thẳng, những đàn chim ráo rác, mệt mỏi bay quyết liệt đọ sức giữa ta và địch. Địch tàn phá các nhà ga, kho Nhà A7 sáng 19 trở nên lặng ngắt, cô kín bầu trời. Chiều 22, tôi đang trực bãi, cầu đường, nhà máy điện, đài phát thanh, các trận địa quạnh. Thế là trường mênh mông chỉ trên đài quan sát thì có tiếng chuông pháo, trận địa tên lửa, khu đông dân cư... Còn chúng ta chủ còn lại tám người ở tổ đài chúng tôi. Tôi điện thoại reo. động, kiên cường, sáng tạo, tiêu diệt địch bằng đủ loại vũ khí. chia lại ca trực, mỗi ca một nam một Trên đài quan sát ban đêm, chúng tôi không thấy rõ máy bay nữ để dựa vào nhau cho đỡ “sợ”. Cái - A lô, đài quan sát Đại học Sư phạm địch, nhưng nhìn những đường đạn rất căng, rất chụm đan lên tập thể nhỏ bé của chúng tôi đã chuẩn nghe. bầu trời, chúng tôi biết đó chính là nơi có địch. bị sẵn sàng để đón cuộc thử lửa. B52 chỉ đánh Hà Nội vào ban đêm, nhưng - Chú Chỉnh đây (chú là Chính ủy Đêm 27 tháng 12. Báo động! Đạn các loại đồng loạt réo ầm ban ngày các loại máy bay F4, F8, F105, Huyện đội). Các cháu giỏi lắm, báo ầm, sáng trời, một quả tên lửa bay vút lên, rồi một đụn lửa F111... quần đảo liên tục, dường như cáo rất chính xác, kịp thời. Thay mặt bung ra, to như đống rơm, cháy sáng rực cả bầu trời, soi rõ không cho chúng ta nghỉ ngơi. Huyện đội, chú biểu dương các cháu. từng lá cây ngọn cỏ, rồi tàn lửa rơi lả tả xuống ngay trước mắt Báo tin cho các cháu, cứ yên tâm làm chúng tôi. Thật là một cảnh tượng hi hữu, chúng tôi quên cả 15 giờ ngày 19 tháng 12, báo động. nhiệm vụ, nếu có hy sinh các cháu sẽ mệt, cả đói, reo lên giữa trời đêm “Cháy rồi! B52 cháy rồi”, Địch đánh đài phát thanh dữ dội. Cột được công nhận liệt sĩ! thấy hạnh phúc vô cùng. Sáng hôm sau mới biết, chiếc B52 ăng - ten của đài phát thanh phía Mễ đó đã rơi xuống ngay hồ Hữu Tiệp, làng hoa Ngọc Hà. Trực Trì mà chúng tôi vẫn dùng làm cột Nghe thông tin đó, tôi rất buồn cười, chiến, tham gia chiến đấu không phải chỉ có căng thẳng và mốc quan sát đã biến mất. Chúng tôi nói lại với các anh và các bạn mọi người nguy hiểm, chúng tôi còn cảm thấy mình vô cùng may mắn cảm thấy không gian im ắng, trống trải. cũng cười như tôi, bởi có ai nghĩ đến và hạnh phúc khi là những người đầu tiên được chứng kiến Nhưng ngay đêm 19, khi còi báo động cái chết lúc ấy, từ “liệt sĩ” thật là xa cuộc đọ sức trên không giữa ta và địch, chứng kiến sự phối vừa dứt, tôi xúc động đến trào nước mắt lạ. Nhiều năm sau nhớ lại, tôi mới hiểu hợp tuyệt đẹp của các loại vũ khí đất đối không trong đêm, nghe tiếng chị phát thanh viên nói qua rằng cuộc thử thách ngày đó thực sự cũng là những người đầu tiên và trực tiếp nhìn thấy B52 bốc làn sóng điện “Đồng bào chú ý, đồng bào căng thẳng, cận kề cái chết, các chú đã cháy ngùn ngụt giữa trời đêm Hà Nội. chú ý...”. Tiếng nói thân quen mà thiêng lo cho chúng tôi thật chu đáo. liêng như nối liền khoảng không gian Suốt ngày 30 tháng 12, không gian im ắng, chùng xuống, khiến chúng tôi thấy mình không lẻ loi. Trưa ngày 23, báo động. Tôi và anh cả ngày không có một đợt báo động. Chúng tôi không tin là Phớn trực trên đài quan sát thì thấy cuộc chiến đã chấm dứt mà nghĩ rằng sự yên tĩnh này chắc Đêm 19 đến rạng ngày 20 tháng 12, một chiếc máy bay địch từ phía Sơn là để chuẩn bị cho những ngày tới căng thẳng hơn. Chúng tôi Tây lao về. Nó đã bị thương, tròng sẵn sàng tư thế cho cuộc chiến đấu mới. Nhưng hôm sau, Mỹ tuyên bố ngừng ném bom và rút quân khỏi Việt Nam. Chúng Các thầy khoa Văn: ta cũng chấm dứt 12 ngày đọ sức quyết liệt giữ gìn nền độc lập Hoàng Thung, Thành Thế Thái Bình, của Tổ quốc, giữ bình an cho Thủ đô Hà Nội. Đỗ Đức Tín trên ụ súng 12 ly 7 phía sau nhà A7 Trong 12 ngày đêm Hà Nội chiến đấu, chúng tôi phải nghỉ học và không có thời gian nghỉ ngơi. Ngày và đặc biệt đêm nào cũng báo động, chúng tôi căng mắt quan sát các mục tiêu và liên tục báo cáo. Thông tin giữa đài quan sát và Huyện đội luôn được nối liền. Bộ Tư lệnh Thủ đô đã trực tiếp gọi điện biểu dương tổ đài ngay trong những giờ chiến đấu ác liệt. Các đồng chí ấy gọi tổ đài của chúng tôi là “Con mắt phía Tây Thủ đô”. Đài quan sát của chúng tôi đã tham chiến trong 12 ngày đêm Điện Biên Phủ trên không như thế đó. Sau cuộc chiến, chúng tôi học tiếp cho đến khi tốt nghiệp năm 1974. Ra trường mỗi đứa một nơi, mãi đến 14 tháng 10 năm 2020, kỷ niệm 50 năm ngày vào Trường Đại học Sư phạm Hà Nội chúng tôi mới có dịp thăm đủ gia đình các bạn liệt sĩ của khóa học và gặp lại thầy cô, các bạn bè, mừng mừng tủi tủi. Nhắc lại kỉ niệm xưa trên đài quan sát, chúng tôi hiểu rằng, chỉ có ở “Thời hoa lửa” cuộc sống sinh viên mới có khoảnh khắc kì lạ và hào hùng như vậy 121

Những vân gỗ thời gian N ăm 1972, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bước vào giai đoạn ác liệt, mang tính quyết định. Chiến dịch Thành Cổ Quảng Trị, sát vĩ tuyến 17 - giới tuyến quân sự tạm thời giữa hai chiến tuyến được coi là “Mùa hè đỏ lửa”, “cuộc đọ sức hai chế độ” một mất một còn. Tháng Chạp năm 1972, các pháo đài bay của Mỹ trút bom xuống Thủ đô Hà Nội “nắn gân Bắc Việt Nam”, theo cách nói của Tư lệnh Hạm đội 7 Hoa Kỳ. Năm 1970, từ Bộ Tổng Hành dinh ở Thủ đô Hà Nội, cả nước thực hiện lệnh Tổng động viên, với khẩu hiệu “Tất cả cho chiến thắng, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước”. Tuổi trẻ A7, Đại học Sư phạm Hà Nội tạm gác bút nghiên, nghe theo tiếng gọi của non sông, rời giảng đường, lên đường xung trận. Các anh chị, các bạn A7 tuổi 20 ngày ấy đã có một Thời Hoa Lửa! Nhớ về quá khứ của chúng mình, có lúc tôi tự hỏi: 50 năm trước ai đã “lập trình” cho thế hệ chúng tôi được sống những năm tháng đặc biệt nhất trong lịch sử dân tộc? Kýức “Những năm tháng sao mà trọng đại “Mỹ cút”, “Ngụy nhào”, Việt Nam Ngổn ngang thay mà rất đỗi oai hùng, toàn thắng! Cả thế giới vui mừng và THỜI HOA LỬA khâm phục nhưng không hết ngạc Trăm vạn khối mây trời cổ quái nhiên trước thắng lợi kỳ diệu của Việt  Chử Văn Lịch Nhưng chính lúc đẻ ra ngày và sinh hạ Nam. Nhiều người không thể hiểu nổi, nhưng chúng ta hiểu. Ý chí bất khuất 122 70 năm Sư phạm Văn khoa những hừng đông” kiên cường và khát vọng độc lập tự (Chế Lan Viên) do có trong huyết mạch của nòi giống Tiên Rồng đã truyền năng lượng, nâng Năm chúng tôi nhập trường (1970) tầm kích trí tuệ, sức mạnh, phẩm giá cũng là lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ của con người Việt Nam thời đại Hồ cứu nước chuyển sang giai đoạn quyết Chí Minh lên một tầm cao mới. liệt. Cả dân tộc ta bước vào cuộc đối đầu lịch sử với đế quốc Mỹ. Cha ông Thế hệ chúng ta có may mắn lớn ta từng đánh thắng nhiều đội quân được “đứng trên vai người khổng lồ” là xâm lược, nhưng chưa bao giờ kẻ thù chính truyền thống của cha ông mình, giàu mạnh và bạo tàn như lần này. Đế được trực tiếp tham gia vào cuộc chiến quốc Mỹ có cả một bộ máy chiến tranh đấu lịch sử này. Khát vọng của tuổi 20 khổng lồ, một đội quân nhà nghề và hoà vào khát vọng lớn của dân tộc. Tình những vũ khí tối tân, đặc biệt là pháo yêu thơ văn, yêu nghề hoà trong tình đài bay B52 - siêu vũ khí, lúc đó cả thế yêu đất nước. Tình yêu lớn, khát vọng giới chưa có lời giải. Chúng rắp tâm lớn trở thành lẽ sống của chúng ta, và hủy diệt sự sống, đưa Việt Nam trở về chính lẽ sống đó đã làm nên phẩm chất, thời đồ đá! nhân cách của cả một thế hệ. “Chúng muốn đốt ta thành tro bụi Trước ngày nhập ngũ, đi dạo bên Ta hóa vàng nhân phẩm, lương tâm bờ sông Văn Giang nơi giảng đường sơ tán, bạn Long tâm sự: “Nếu không Chúng muốn ta bán mình ô nhục đi chiến đấu giải phóng miền Nam thì Ta làm sen thơm ngát giữa đầm” sau này không thể giảng hay những bài (Tố Hữu) thơ, văn viết về cuộc kháng chiến này”. Đang học ở nơi sơ tán, nhận lệnh tham gia trực chiến bảo vệ trường, Bích Hà hăm hở khoác ba lô về nhận nhiệm vụ. Những đêm bão lửa 18, 19 tháng 12 năm 1972, Bích Hà cùng tổ đài quan sát đứng vững trên cao điểm Đại học Sư phạm và hoàn thành tốt nhiệm vụ. Mùa hè năm 1972, Ngô Thế Vinh chia tay bạn bè vào quân ngũ. Giữa lúc cuộc chiến ác

liệt, tin chiến sự dồn dập từ chiến trường miền Nam, người HẸN CUỐI lính sinh viên vừa bình thản, vừa háo hức, chỉ thấy phơi phới những bài ca lãng mạn hào hùng thôi thúc ra trận. Trong giá mùa thu rét căm căm, lửa đạn bời bời, tiếng bom dậy đất, nhà A7 rung lên theo những loạt bom nổ trên đầu, trước mặt và sau lưng Mặc cái nắng hè còn nóng nực đạn pháo. Tên lửa đan cài chi chít trên bầu trời, tổ trực chiến Có hề chi, cứ đúng hẹn thu về vẫn điềm nhiên đàng hoàng bên ụ pháo trên nóc nhà A7. Máy Trên đường thu có lá hoa chào đón bay Mỹ ào đến, thầy Bùi Công Minh xạ thủ chính của khẩu Lá ửng vàng cho say bước thu đi. pháo 12 ly 7 đã siết những đường đạn rất căng. Có ai ngờ trong Một ngày mai lá sen xanh cụp lại bão lửa rực trời Hà Nội thiêu cháy pháo đài bay B52 của giặc Cho hồ xanh mở mắt nhìn trời Mỹ, trận Điện Biên Phủ trên không có những loạt đạn 12 ly 7 Trời xanh biếc rơi vào hồ nước lặng của tổ tự vệ vệ thầy trò Khoa Văn Đại học Sư phạm chúng tôi! Thu đầy hồ thu thu khắp nơi nơi! Vào lúc ấy không còn covid nữa! Thật khó có thể hình dung mức độ khốc liệt của những trận Ta hẹn nhau gặp lại ở sân trường bom B52 ở thị trấn Đồng Mỏ - Lạng Sơn, nơi tiếp nhận hàng Tình cũ, chuyện xưa vàng như hoa cúc nở viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa. Liên tục 4 đêm 23, 27, Bối rối lòng... 28, 29 tháng 12 năm 1972 máy bay B52 và F4 ồ ạt trút bom Bảy mươi năm một sợi tơ vương. nhằm hủy diệt cả khu vực này. Vào những ngày vô cùng ác Bạn bè xưa hiện về trong kí ức liệt đó, Nguyễn Mậu Minh cùng trung đoàn 282, tiểu đoàn 177 Vẫn trẻ nguyên như buổi hôm nào Phòng không Không quân làm nhiệm vụ bảo vệ cứ điểm này. Này tóc bạc, da mồi, mắt khi mờ khi tỏ Biết hỏa lực của ta không đủ mạnh nên chúng sà xuống rất Chờ gặp nhau lòng vẫn nao nao ! thấp đội bom. Lúc đầu còn thấy lửa đỏ, lửa vàng trùm lên hầm. Em có về, men theo lối thu sang Lúc sau đó không còn thấy gì nữa, không nghe thấy gì, chỉ thấy Ngắt tặng Khoa bông hồng vàng, em nhé ! đất trời chao đảo, mùi khét lẹt và sức ép của bom. Bốn đêm, Khoa sinh vào mùa thu, nay còn rất trẻ 67 loạt bom như thế! Bảy mươi cánh vàng bay So với thời gian vĩnh cửu, nào có là gì! Hãy theo chân một chiến sĩ trinh sát - tác giả của câu thơ Về đi em! Về đi em ! nổi tiếng tràn đầy khát vọng - Vũ Đình Hùng. Sau 6 tháng Về trên lối thu đi! vượt Trường Sơn, qua Hạ Lào, Hùng cùng đơn vị về “nhổ” các chốt của địch dọc ven sông Vàm Cỏ Tây - Lá chắn thép Thanh Nhàn, ngày 3 tháng 7 năm 2021 phía Tây Sài Gòn. Đầu 1975, Hùng cùng đơn vị tiến về Đồng Trần Thanh Xuân Tháp. Một đêm, cùng đồng đội trinh sát, bị đạn giặc xuyên qua đùi, Hùng tự băng bó vết thương, ngất đi tỉnh lại, cố lết quê hương đất nước, góp phần bồi vào một bờ cỏ. Tối ngày thứ hai tiếp tục lết trên cánh đồng dưỡng thế hệ trẻ cường tráng về thể chất và tâm rộng. Nhìn bầu trời sao, cắt góc phương vị, theo hướng chòm hồn vượt lên những dông bão của thế kỷ XXI. sao Bắc đẩu lết về hướng đơn vị. Ngày thứ ba Hùng kiệt sức do máu ra nhiều và đói khát, ráng hết sức lết đi trong bụi cỏ Tôi đã kể cho các cháu nhỏ nghe chuyện về Thời Hoa Lửa, các cháu tròn xoe con mắt rồi ngất đi lúc nào không biết. Sáng sớm hôm sau tỉnh lại đã như được nghe một huyền thoại. Tôi cũng kể cho nhiều lứa học sinh của mình về Thời biết mình về được đơn vị! Hoa Lửa, các em thích thú hơn cả những bài giảng tôi chuẩn bị rất công phu. Sau khi ra trường, gặp lại, các em nói: \"Thầy đã cho chúng em niềm tin!\". Kể cho mọi người nghe Những gian khổ, hy sinh của người lính thời đó không thể nói cũng là kể cho chính mình. Nghe chuyện về khoảng đời Thời Hoa Lửa, cuộc sống như bớt hết bằng lời. Máu thấm rừng già, máu đổ dọc đường vào thành đi những bộn bề, không ít sự bon chen, trở nên đơn giản - tối giản và có ý nghĩa hơn  phố, hàng ngàn lính sinh viên các trường đại học ngày đó đã “lấy máu hồng làm hoa” ngày chiến thắng! Xin cảm ơn Thời Hoa Lửa! Xin cảm ơn Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP Hà Nội! *** Năm mươi năm trước, từ các vùng quê xa lạ, chưa Tp.Vũng Tàu, 12/07/ 2021 từng quen biết, không hẹn mà gặp, chúng ta cùng đến một trường, cùng ở một nhà, cùng học một 123 khoa, cùng trải nghiệm một khoảng đời đặc biệt. Ngày đó, độ “hot” của các trường đại học được xếp thứ tự: “nhất Y, nhì Dược, tam được Bách khoa, Sư phạm bỏ qua, Nông lâm xếp xó”. Ít ai biết được rằng, cái nơi bị “bỏ qua” là một địa chỉ đào tạo có uy tín nhất của cả nước - Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 1 - “Một lâu đài trí tuệ, thánh đường nhân văn”; nơi chúng ta cùng dạo bước trong “Đại ngàn văn chương”, thưởng thức những tác phẩm kết tinh những giá trị nhân văn của nhân loại; nơi có những người thầy, những nhà sư phạm nghiên cứu khoa học hàng đầu của cả nước – những con người bình dị nhưng giàu tâm huyết, tài năng và tình thương yêu đã chuyển hóa những giá trị cao đẹp của văn chương thành giá trị bản thân mỗi chúng ta, truyền cho chúng ta ngọn lửa yêu đời, yêu nghề, say mê, sáng tạo. Đến lượt mình, chúng ta lan tỏa những giá trị đó đến lớp lớp học trò trên khắp

ốt nghiệp hệ 4 năm Khoa Văn xe đạp chở vể rồi đi mua mấy miếng gỗ dán từ gian của mình ra đầu nhà theo hiên nhà đi ĐHSP Hà Nội, tôi được giữ lại trường làm CBGD. Xong thủ tục ở nhỏ và mét lưới chạn. Tôi đóng cửa phòng hì tiếp đến nửa gian thứ 6 để xin chén nước. Các phòng Tổ chức, tôi phải xin nhà ở. hục ghép gỗ, cắt lưới, đóng đinh, biến cái bàn cụ xưa nói “ăn một bát cháo chạy ba quãng T Có cô giáo nói nhỏ: còn gian của thành tủ bếp đa năng. Làm xong, chỗ ở trở nên đồng”, còn tôi “muốn uống chén nước, đi vòng thầy Huỳnh Lý đang để trống. Tôi tìm gặp thầy, chẳng đợi tôi trình bày nhiều, thầy đưa “tiện nghi”, gọn gàng. Có bếp dầu, tôi nấu ăn ở qua mười hai cái cửa”... ngay cho tôi chìa khoá gian phòng đó. Đấy là gian số 6 dãy K2, gian số 5 là gia đình thầy nhà mà không ăn ở bếp tập thể. Nước sinh hoạt Khi tôi mới vào ở nhà K, chị Kim Phong Phan Hữu Nghệ (tổ Hán Nôm), gian số 7 là gia đình thầy Lâm Quang Vinh (tổ Mỹ học). lấy ở máy có bể đầu dãy nhà, giữa K1 và K2, tối sinh cháu Thanh, cô Hai (vợ thầy Phùng Quý Dưới mái lá cọ, dãy nhà dài 12 - 13 gian, từng trữ trong một cái xô tráng men khoảng 20 lít, Nhâm) sinh cháu Kiên. Hai nhà thường qua lại ô có cửa ra vào, cửa sổ, đều lắp hai cánh gỗ mộc mạc, đóng cũng không thật kín. Mở cửa vào, dùng cả ngày. gửi con cho nhau. Có buổi trưa đi thư viện về, trong phòng có một giường đơn, một bàn làm việc tuy đã cũ nhưng còn tốt. Tường dọc được Nhà ở liền kề, nhưng chẳng cách âm tí nào. Lâu ghé qua nhà chị Phong thấy chị đang ngồi quạt chát tooc-xi, quét vôi trắng nên cũng phẳng phiu, “kiên cố”. Là độc thân nên tôi chỉ được dần ở quen nên cũng bớt căng thẳng. Nhiều lời cho hai cháu được đặt ngủ trên cùng cái võng. ở nửa gian (khoảng 8m2). Nửa gian kia là thầy Nguyễn Văn Tiến. Vì thầy Lý không thường nghe qua tường vách thật vui, khiến tôi nhớ Tôi nói đùa: “Giờ em có máy ảnh, chụp lại cái ở nên tấm liếp ngăn là cót (không phải cót ép như sau này) bị ẩm giãn lùng thùng, xộc xệch mãi. Con trai lớn của thầy Nghệ (tên là Giang) võng này, 15 năm sau chắc xem vui nhỉ”. Hai có chỗ hở xuyên thấu gian sau. Nhờ kiếm được hai quyển hoạ báo, khẩn trương chỉnh trang năm 1973 hình như học lớp 3 - 4. Một lần vào chị em bật cười nhưng phải bịt miệng, sợ bọn nơi ở, tôi xin cô Thoại mấy khúc tre (là củi đun), đem chẻ thành nan nhỏ để cài những bữa trưa, tôi nghe hai cha con đối đáp: trẻ giật mình. trang báo ảnh lên vách liếp. Xong việc, gian phòng đã kín đáo, sáng sủa hơn. Nơi ở chật - Bố biết một cân bông nặng hơn hay một cân Một buổi tối, ngọn lửa bùng lên từ gian đầu lại chưa có nhiều tiền để mua đồ đạc. Tôi xin được cái bàn gỗ vuông cũ của nhà bếp, mượn sắt nặng hơn? hồi cuối dãy. Đây là nơi ở của vợ chồng bác NGƯỜI \"LÀNG MÙI\" - Đã là một cân thì nặng bằng nhau. Phúng, người phụ trách điểm trống cho giờ Cứ râm ran nhắc nhỏm - Không, cân bông nặng hơn hay cân sắt nặng học. Đồng lương nhân viên ít ỏi, vì thế hai bác Nhắn bạn về cùng vui Gặp nhau kí ức thức hơn, bố?... cũng có bán thêm thuốc lá cuốn, vài đồ lặt vặt. Rổn rang chuyện \"Làng Mùi\" Cái nôi thời mình trẻ Tôi cười thầm: chắc cu cậu đang học về trọng Hôm ấy, hình như mẻ sao thuốc gây chập điện, Chia sẻ bao buồn vui Gom kỉ niệm hài hước lượng riêng của vật thể đây. Nhị Hà - con thầy bùng cháy, lửa bén rất nhanh lên mái lá. Mọi Thắp sáng lên nụ cười Chất \"Làng Mùi\" quá khứ Vinh rất xinh nhưng hiền, nhát nên chẳng bao người vội vàng gọi nhau: Các cô đưa các cháu In dáng hình mỗi người Từng mẩu chuyện xưa cũ giờ tôi nghe tiếng. chạy ra ngoài, các thầy cùng đội tự vệ lo phun Sống động nhấn nhá lời Già mà sao thấy trẻ Thầy Tiến ăn cơm trên bếp của cán bộ nhưng nước, dập lửa. Cái chăn chiên Trung Quốc của Như xưa, dân \"Làng Mùi\" Lại hẹn lần sau nhé vẫn có bếp dầu để nấu ăn thêm. Thực đơn tôi thầy Tiến được ai lấy ra dấp nước, phủ lên mái \"Làng Mùi\" tìm về vui... thường được nghe thông báo qua vách: chè bột nhà. May mà lúc ấy không có gió, đám cháy Nguyễn Bình Sơn mì, bánh bột rán, canh bánh đa... trước khi không lan rộng, nhanh chóng được dập tắt, thấy mùi mỡ rán, mùi nước mắm hay mùi khói chẳng chờ đến xe cứu hoả. Khu tập thể được bếp dầu lan toả... Thầy coi tôi như em út trong bữa sợ đứng tim. Cả đêm nhiều nhà không ngủ. tổ, thân tình, thỉnh thoảng gọi vọng sang: “Cô Hôm sau mất một ngày dọn dẹp. Tôi thấy ái Khang có uống trà không?” Mặc dù thích uống ngại khi thầy Tiến lôi cái chăn đẫm nước và tro nhưng tôi cứ từ chối: “Dạ, em không ạ” hoặc tranh cháy ra bể đầu nhà để giặt. Cũng chẳng “Em vừa uống rồi ạ”. Vì tôi ngại phải đi vòng nhớ mấy hôm cái chăn ấy mới khô. Ngày mùng 1 tháng 6 năm 1973, lần đầu tôi tham gia tổ chức đón Tết thiếu nhi, trao phần thưởng cho học sinh khá, giỏi. Sân giữa hai dãy nhà, ngang rộng chắc 4 m, nền đất nện. TÔI ĐÃ SỐNG ỞNền nhà cao hơn mặt sân khoảng hai gang tay. Ngày nắng, đi ngang qua sân nhanh và tiện, “LÀNG MÙI”  Đinh Thị Khang 124 70 năm Sư phạm Văn khoa

trẻ con chạy nô đùa. Trời mưa nước ngập và MỘT KỶ NIỆM trơn. Giữa sân có hai cây bàng trồng kế nhau, toả bóng mát. Tôi nhớ mãi câu “dưới bóng cây KHÔNG QUÊN bàng xoè hai K” nhưng chẳng biết có tự bao  Đặng Ngọc Hoàng giờ, chẳng biết của ai làm. Dưới gốc bàng kê sẵn hai bàn bóng bàn, các tay vợt thoải mái Tháng 3 năm 1979, đội thanh niên mỗi buổi chiều và ngày chủ nhật. Tối 1/6 và xung kích của trường ĐHSPHN 1, lên Rằm tháng 8 thì được chuyển thành sân khấu biên giới Lạng Sơn phục vụ văn nghệ cho các “diễn viên nhí”. Khoa Văn dần nhận các chiến sĩ. Một chiều muộn, tôi và thêm cán bộ nữ trẻ, Phạm Thu Yến và Nguyễn Hồng (lớp văn 1B) cùng mấy người Bích Hà đều về tổ tôi nhưng ở nhóm VHDG. khác được hai anh bộ đội dẫn lên Từ đó, một năm hai lần chúng tôi tổ chức thăm nơi các chiến sĩ hy sinh đã nằm đêm vui 1/6 và Trung thu. Các cháu (con các lại. Viếng các anh chẳng có gì ngoài thầy cô) cả trai cả gái háo hức chờ đón trước cảnh hoa lê trắng và chùm hoa vông cả tuần. Chờ được các cô trang điểm môi son đỏ em Hồng hái bên đường. Cảm xúc lúc ấy chỉ biết ghi lại bằng những lời má hồng, chờ được lên sân khấu biểu diễn để mộc mạc trong lòng! nhận kẹo. Kỳ phân chia hàng công nghệ phẩm tháng 6, tháng 9 ( tháng 8 âm lịch), số kẹo Hải Bây giờ chép lại, xin cũng là điều để nhớ về một trong những cảm xúc của Châu - kẹo Hoa hồng (vì bọc giấy có in hình năm tháng ấy đã qua... hoa hồng), được dành cho Tết của các cháu. GƯƠNG MẶT NGƯỜI ĐÃ KHUẤT Khi ấy Thanh (con lớn của thầy Mạnh) và Việt Hà (con thầy Đinh Việt Anh) lớn hơn Mộ các anh nằm trên đồi cao nên hăng hái nhất. Việt Hà đọc thơ Bà Huyện Những dãy bia thoáng nhìn như con mắt Thanh Quan. Đăng Thanh hát bài: Tôi là Lê anh nuôi rồi...“một tấc không đi một li không Đất đỏ bầm trong nắng chiều đã tắt rời” sân khấu, hát tiếp luôn. Cậu bé say sưa: “... Núi âm âm yên lặng cúi đầu... Này chim ơi, chim có biết không, hôm nay ta được ba điểm 10!” Mấy cháu gái: Quyên (con Chẳng một lời, chúng tôi đứng rất lâu thầy Thung), Hà (con cô Thu Tiết), Thuỷ (con Lá rời cây thoảng tiếng rơi rất nhẹ thầy Mạnh), mặc váy đẹp lên múa và hát tốp. Suối xa xăm vọng lời về rất khẽ Nhị Hà, nhát không dám lên biểu diễn, đứng cùng bố mẹ, mắt sáng long lanh. Hiếu (con thầy Gió miên man ngả dọc suốt khe dài... Tiệp) lại đòi bế cho lên sân khấu nhưng vẫn cầm tay bố... không sợ để hát. Vậy mà, vẫn vừa Anh nằm đây mà chẳng rõ mặt người run vừa ngọng nghịu. Dưới ánh đèn, những đôi Chỉ còn lại dòng họ tên, địa chỉ mắt sáng những khuôn mặt rạng rỡ. Tiếng hát, Nơi sinh anh gọi bao miền xứ sở tiếng cười trẻ thơ vang khắp sân. Đêm ấy thật vui! Mấy chục năm qua rồi, các cậu bé, cô bé Ngày hy sinh thì mộc mạc, bình thường... của Làng Mùi năm nào, giờ cũng đã ở tuổi trên dưới 50, phần lớn giỏi giang và thành đạt. Chưa rõ mặt người tôi vẫn hình dung Người chiến sĩ anh hùng, giữ chốt Tết Nguyên đán, ngoài tiêu chuẩn theo tem phiếu nhà nước quy định (được mua thịt, gạo Lúc chờ giặc, ngực nở căng tiếng hát nếp hoặc bột mì, mứt hoặc kẹo...), nhà bếp có Lũ giặc vào, một tấc đất không lui... mổ lợn. Chả là, cơm và thức ăn thừa, cuộng rau... được dùng tăng gia để cuối năm có chút Cảnh hoa lê nay kính cẩn tặng người cải thiện: bếp sinh viên có bữa liên hoan, nhân Cái trắng trinh cứ đầy trong nỗi nhớ! viên của trường được chia thịt trước ngày nghỉ Tết. Khoa Văn lúc ấy cũng đông CB, có Chùm hoa vông cháy bùng xé gió khi nhận được cả một con hoặc một con rưỡi Giục chúng tôi vào đường thế tiến công... thịt. Lợn chở về sân nhà K, những tấm vải mưa được trải ra, nhiều tay dao tay thớt nhanh Tiễn biệt anh, lòng dặn lại lòng chóng chặt, cắt chia thành các phần cũng đủ Sẽ nối tiếp con đường anh đã bước thịt, xương... khoảng 1-1,5 kg/nhà, tuỳ năm. Sẽ hồng lên mọi con người gương mặt Lúc ấy đón Tết thật háo hức, vui vẻ và hạnh Gương mặt các anh, gương mặt con người! phúc. Cuộc sống vất vả, nhiều cảnh ngộ vui buồn cứ thế.... Lạng Sơn, tháng 3/1979 Giữa năm 1975, tôi xây dựng gia đình, chuyển ra ở nhà chồng, trả lại trường gian nhà. Tạm biệt khu nhà lá sau bốn năm làm “cư dân Làng Mùi” ấm áp nghĩa tình... Dù có bao lâu... tôi vẫn không quên nơi này! Tháng 7/2021

 Nguyễn Thị Thái Vân - Bộ môn Ngoại Ngữ - K3 của Khoa Văn, một thời sơ tán ở lòng yêu nước nhưng không đủ khả Hưng Yên; cả những kỷ niệm đi tuần năng để làm một người anh hùng cứu TÔI VỐN LÀ tra ban đêm thời máy bay Mỹ oanh tạc, quốc. Cha tôi đành mượn ngòi bút gửi những kỷ niệm Đại hội Đoàn ở nơi sơ những tâm tư, tình cảm của mình vào người tán, những lần cùng sinh viên đi đắp đê những trang tiểu thuyết lịch sử. Cuốn CỦA KHOA VĂN ở Cống Thôn (Văn Giang - Hưng Yên), tiểu thuyết đầu tay của ông là Tiếng Nam Sách (Hải Dương)... Tất cả cứ ùa sấm đêm đông nói về sự kiện Ngô N ăm 1969, tôi từ Đại học Sư phạm Việt Bắc được về như mới hôm nào! Quyền đánh quân Nam Hán. Cuốn điều về khoa Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội. Khi tiểu thuyết vừa mới ra đời thì đã bị ấy, thầy Lê Trí Viễn đang là chủ nhiệm Khoa Văn Khi tôi về khoa Văn năm 1969, tổ thực dân Pháp cấm lưu hành ngay lập của trường. Tôi được phân công chủ nhiệm khối Ngoại ngữ của Khoa do chị Phạm Thị tức và tống cha tôi về quê quản thúc. lớp I - H gồm 120 sinh viên. Sở dĩ tôi xin được Hảo (vợ anh Trần Thanh Đạm - Phó Trong mười hai năm bị quản thúc ở về giảng dạy tiếng Nga ở Khoa Văn là bởi tôi rất yêu môn chủ nhiệm Khoa) làm tổ trưởng. Trong quê (Hương Ngải - Thạch Thất - Hà Văn, muốn được học thêm Văn học. Nhưng hồi đó, ở trường tổ có lực lượng cán bộ giảng dạy Hán Tây), cha tôi tiếp tục viết một số tiểu không có lớp học nào để theo học nên tôi mãi vẫn không - Nôm, có những cán bộ giảng dạy thuyết lịch sử và tiểu thuyết luân lý thực hiện được ước mơ của mình. Tuy vậy, tôi đã được bù Trung Văn và tôi là Nga Văn. Vì chiến như: Bố Cái Đại vương, Hai Bà đánh đắp bởi tình cảm của các anh chị em cán bộ Khoa Văn. Tình tranh, sinh viên ở rải rác nhiều nơi, giặc, Lý Nam Đế, Lê Đại Hành,... Sau đồng nghiệp, tình bè bạn, tình thầy trò sao mà ấm cúng đến tôi không biết và nhớ được nhiều. Chỉ đó cha tôi chuyển sang nghiên cứu như thế! Biết bao kỷ niệm đẹp một thời giữa nhà nội trú K2 nhớ rằng khóa sinh viên năm 1969 - Đông Y. Ông viết, dịch rất nhiều sách 1973, tôi đã chủ nhiệm lớp I-H. Năm Đông Y và chữa bệnh cứu người cho 126 70 năm Sư phạm Văn khoa 1973 là năm tiếng Nga được học nhiều đến khi qua đời.  nhất. Thầy Lê Trí Viễn cho năm lớp học tiếng Nga, mỗi lớp 10 tiết/tuần. Năm 1955, ở quê tôi diễn ra cuộc cải Tôi được phân dạy và chủ nhiệm lớp A cách ruộng đất, khi ấy cha tôi đang ở (lớp có Lê Lưu Oanh). Khi họ lên năm Hà Nội làm thuốc và viết sách Đông Y. thứ hai, số tiết tiếng Nga giảm, còn 4 Dân quân quê tôi đã ra Hà Nội bắt cha tiết/tuần. Tôi dạy ba lớp. Năm 1975, đưa về đấu tố. Họ gọi cha tôi là trùm miền Nam được giải phóng, chị Hảo và phản động, trùm Quốc dân Đảng. Sau anh Trần Thanh Đạm chuyển vào Sài tám tháng bị giam cầm ở Sơn Tây, ông Gòn. Sau đó thì tôi không rõ ai đã thay được trả tự do vì Nhà nước xét thấy chị Hảo quản lý tổ Ngoại ngữ.  cha tôi không có tội tình gì. Ông lại trở về Hà Nội sinh sống, dịch sách và Năm 1976, nhà trường chủ trương làm thuốc. Tuy vậy, dư âm của cuộc đưa tất cả giáo viên Ngoại ngữ về một cải cách ruộng đất ấy vẫn còn tồn tại đơn vị để sinh hoạt chuyên môn cho ngay cả trên đất Hà thành. Mọi người tiện. Thế là các cán bộ giảng dạy tiếng không hiểu nếp tẻ ra sao nên quan hệ Nga, tiếng Anh, tiếng Pháp về một đơn với cha tôi cũng dè dặt. Cha tôi sống vị gọi là “Bộ môn Ngoại ngữ”. Nhưng tôi những ngày cuối đời thật buồn. Với nỗi không hiểu tại sao số cán bộ dạy Trung buồn nhân thế, ông đã từ giã cõi đời vào cuối năm 1965. Văn và Hán Nôm vẫn ở lại khoa Văn. Sau này những người dạy Tôi luôn canh cánh một nỗi buồn: Trung Văn cũng chuyển sang không có cách nào để giải oan cho cha. Mình là một giáo viên tiếng Nga, biết dạy Hán Nôm và hình thành Bộ môn làm gì đây, làm như thế nào và bắt đầu Hán - Nôm như ngày nay.  từ đâu? Như vậy, tôi là người của Khoa Văn Năm 1978, một lần tôi gặp anh bảy năm từ năm 1969 đến 1976. Và đến Nguyễn Đình Chú (bây giờ là Nhà giáo năm 1995, một sự việc đã làm cho tôi nhân dân, Giáo sư Nguyễn Đình Chú) càng khẳng định được rằng tình cảm ở khu hiệu bộ. Anh Chú mắng tôi như của mình dành cho những người bạn ở mắng một đứa em gái: “Cô với ông Khoa Văn bấy lâu là đúng. Quyến nhà cô (anh trai tôi) là đồ vô tích sự! Ông cụ nhà cô là người có công Đến đây tôi lại phải xin đi ngược thời với dân với nước. Cụ là người viết tiểu gian một chút về gia đình mình. thuyết lịch sử Việt Nam nhiều nhất đầu thế kỷ XX đấy! Cho đến bây giờ hai anh Cha tôi sinh vào cuối thế kỷ XIX. em cô vẫn không làm được gì để phục Ông là một nhà nho nghèo có tấm hồi tên tuổi cho ông cụ. Tôi có viết bài về cụ Nguyễn Tử Siêu trong cuốn Văn học Việt Nam trên những chặng đường chống bành trướng. Tác phẩm của cụ mới được trích một phần rất nhỏ trong

tuyển tập Văn học Việt Nam 1930 - Hà Nội”). Ngày 27/12/1995, cuộc hội thảo khoa học về nhà Siêu - tác phẩm chọn lọc có cả một phần 1945 nhưng như thế chưa đủ. Cô phải văn - lương y Nguyễn Tử Siêu đã diễn ra ở ngay sân nhà tôi của Tiếng sấm đêm đông. Tuy không tìm tìm cách nào để phục hồi lại tên tuổi - làng Hương Ngải, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây. Cuộc thấy hết được các tác phẩm văn học của của ông cụ”. Tôi rất bất ngờ và chỉ trả hội thảo với nội dung rất phong phú (gồm 24 mục trong đó cha tôi nhưng như thế cũng đã đủ để lời gượng gạo: “Thưa anh, em rất muốn có 21 bản báo cáo) do nhà văn Phượng Vũ - giám đốc Sở Văn chứng minh phần đóng góp của ông đối làm việc đó nhưng khó quá! Năm 1953, hóa Thông tin tỉnh Hà Tây chủ trì. Những bản báo cáo khoa với đất nước, với dân tộc. nhà em bị Pháp bắn cháy, sách vở bị học được mọi người lắng nghe rất chăm chú, đặc biệt khi anh cháy hết. Đến năm 1955, trong thời kỳ Nguyễn Đình Chú đọc bản báo cáo tổng quan về Nguyễn Tử Sự kiện đó đã làm tôi nhớ và biết cải cách ruộng đất, có ít sách báo nào Siêu, nhiều người trong số cử tọa ở dưới đã khóc. Những bài ơn Khoa Văn mãi mãi. Các anh chị đã mẹ em cũng đem đốt nốt kẻo người viết của các anh chị khoa Văn chứa đựng đầy tâm huyết, với không quản ngại thời gian, không tiếc ta quy là sách báo phản động”. Sau đó một nguồn cảm hứng mãnh liệt.  công sức bỏ ra để tham gia hội thảo, mấy năm khi anh Nguyễn Đăng Na (bây giúp tôi hoàn thành một việc mà bản giờ là PGS.TS Nguyễn Đăng Na) làm Ngoài những bản báo cáo của các cán bộ Khoa Văn còn thân mình không thể tự làm được. Tôi luận án phó tiến sĩ, anh nói với tôi là có có các báo cáo của các cán bộ ở những đơn vị khác như giáo tin rằng ở dưới suối vàng, cha tôi cũng nhìn thấy quyển Tiếng sấm đêm đông ở sư Nguyễn Huệ Chi - Viện Văn học, GS Hoàng Thiếu Sơn, đã được thanh thản. Đối với cá nhân Thư viện Quân đội tại phố Lý Nam Đế, nghiên cứu sinh Bùi Văn Lợi (trường Đại học Sư phạm Quy tôi, ơn nghĩa của khoa Văn có lẽ tôi sẽ tôi liền khẩn cầu nhờ anh tìm giúp. Đến Nhơn), nhà thơ Ngô Quân Miện, họa sĩ Phan Kế An và rất không bao giờ trả hết được. gần cuối năm 1995, anh Na đã tìm thấy nhiều vị lương y lão thành. Hội thảo đề cập đến hai mảng 12 cuốn sách của cha tôi ở Thư viện chính: một là về Văn học, hai là về Y học bởi cha tôi vừa là Hàng năm, Khoa Văn cứ có việc gì Quốc gia. Tôi đã nhờ anh Na mượn của nhà văn, vừa là một thầy thuốc Đông Y. Buổi hội thảo đã phải lớn, tôi cũng đều muốn tham gia. Kỷ thủ thư một ngày để mang về phô-tô. cắt bớt nhiều bản báo cáo vì thời lượng không đủ nhưng tất niệm thành lập Khoa, những chuyện Mười hai quyển sách ấy tôi đem pho- cả những bản báo cáo còn lại đều được đưa vào phần Kỷ yếu vui buồn đều có cả. Mỗi dịp lễ Tết, tôi tocopy mỗi quyển 10 bản. Người đầu trong quyển Nguyễn Tử Siêu - tác phẩm chọn lọc do GS Nguyễn gặp gỡ những người ở Khoa Văn nhiều tiên tôi đem bộ sách ấy đến tìm gặp là Đình Chú chủ biên (sau này). Đến năm 1997, trước khi đưa hơn là người ở Bộ môn Ngoại ngữ, bởi GS Nguyễn Đình Chú. Tôi trình bày quyển Nguyễn Tử Siêu - tác phẩm chọn lọc đến nhà xuất bản đối với tôi, Khoa Văn luôn luôn và mãi nguyện vọng với anh và xin anh ý kiến. thì cậu học trò của anh Nguyễn Đình Chú đã tìm thấy tác mãi là gia đình thứ hai của mình  Anh Chú nói: “Được, tôi sẽ trao đổi phẩm Tiếng sấm đêm đông. Và thế là trong cuốn Nguyễn Tử với anh chị em ở tổ Văn học Việt Nam, chuẩn bị mỗi người một bản báo cáo GẶP LẠI Khi vào khoa Văn, tôi tròn mười tám khoa học. Nhưng chúng tôi chỉ có thể Nay là lão bà ngót nghét tám mươi chuẩn bị nội dung báo cáo thôi còn cách  Ngô Thúy Nga Ngần ấy năm qua, trải nghiệm cuộc đời thức tổ chức như thế nào thì cô phải Tôi càng hiểu nghề trồng người cao quý tự chịu trách nhiệm”. Tôi đồng ý. Và Trân trọng biết bao người xưa đã chỉ : thế là tôi bắt đầu liên hệ với huyện ủy “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư!” Thạch Thất, UBND huyện Thạch Thất Nhưng cũng nhiều người lặng lẽ suy tư: và Trưởng Phòng Văn hóa - Thông tin “Nghề chở đò ngang, ai quên ai nhớ?” huyện Thạch Thất, trao đổi về các bước Còn tôi có phải “trò ngoan” không nữa tiến hành một cuộc hội thảo. Rồi tôi Mà không thể quên những người thầy cũ : gặp Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin Thầy Viễn, thầy Châu, thầy Hạnh, thầy Chú tỉnh Hà Tây - nhà văn Phượng Vũ, đề Thầy Lạc, thầy Hà, cô Lê, thầy Tuệ... nghị anh nhân danh tỉnh đứng ra điều Những thầy cô thật vô cùng bình dị hành cuộc hội thảo cấp tỉnh. Ra về, tôi Kiến thức uyên thâm, gương sáng Làm Người đến gặp GS Nguyễn Đình Chú, anh Chú Dạy dỗ chúng tôi đứng vững giữa đời nói: “Tôi sẽ viết một bản báo cáo tổng Vượt bom đạn, vượt đói nghèo gian khó quan về nhà văn - lương y Nguyễn Tử Tấm gương các thầy luôn luôn tiếp lửa Siêu. Tôi đã đề nghị cô Thu Tiết viết Cho đàn em vun xới những mầm xanh báo cáo khoa học về tiểu thuyết lịch Cho những người cầm súng trong chiến tranh sử Việt - Thanh chiến sử, anh Nguyễn Xếp bút nghiên xông pha nơi tiền tuyến... Đăng Na viết về Trần - Nguyên chiến kỷ Nhớ thầy cô, nhớ bạn bè thương mến (sau này anh Na và chị Thu Tiết đổi đề Bao năm rồi, kí ức vẫn vẹn nguyên tài cho nhau), anh Nguyễn Văn Long Khoa Văn xưa là chiếc nôi luyện rèn viết báo cáo về Việt Nam lịch đại anh Dù mái trường nhà gianh vách nứa hùng cứu quốc ca, cô Lê Lưu Oanh viết Cơm sinh viên với muống và bí đỏ về tác phẩm tiểu thuyết luân lý Đỉnh Canh “toàn quốc” với nước chấm ”đại dương” núi cành mai... Lúc ấy, chúng tôi vẫn Nhưng chúng tôi luôn tự hào về trường chưa tìm được tác phẩm Tiếng sấm đêm Nơi gió thổi căng lộng những cánh buồm đông. Rồi tôi liên hệ với GS Nguyễn Nơi mảnh đất lành sinh hoa ngát hương ... Huệ Chi - Viện Văn học, nhạc sĩ Phan Tôi mong đợi 70 năm ngày gặp mặt Kế An và nhà thơ Ngô Quân Miện (tôi Để ngắm nhau và đầy ắp tiếng cười !!! đến gặp anh Phan Kế An và anh Ngô Quân Miện với tư cách là thành viên 29/7/2021 của câu lạc bộ “Văn nghệ sĩ xứ Đoài tại 127

Những vân gỗ thời gian Ở phạm vi của một Khoa, thực văn Cao học khóa 6 (2003 - 2006). Ấn tế hơn 40 năm xây dựng tượng nhất là đến phần hát karaoke, và phát triển của Khoa thầy đã làm mọi người vô cùng Ngữ văn trường Đại bất ngờ khi say sưa hát bài Cát học Quy Nhơn bụi của Trịnh Công Sơn và đạt (ĐHQN) sẽ là một minh chứng CÓ MỘT được 100 điểm (hôm đó, thầy sống động về điều ấy. Từ khi là “ca sĩ” duy nhất đạt được thành lập đến nay, Khoa đã số điểm tuyệt đối ấy). Trước nhận được sự hỗ trợ, giúp đó, cũng ở mảnh đất Quy sức rất lớn từ Khoa Văn của HÀ NỘI Nhơn này, những người các trường, đặc biệt là Khoa học trò như chúng tôi Văn Đại học Sư phạm Hà lần đầu tiên được chiêm Nội (ĐHSPHN). Đã có hàng ngưỡng khoảnh khắc chục cán bộ và sinh viên từ thăng hoa với âm nhạc chiếc nôi Ngữ Văn ấy vào LITTLE vô cùng đặc biệt của thầy nhận công tác tại khoa chúng Trần Đình Sử. Được xem tôi. Đó là các thầy - cô: Trần là “người không chịu ngồi Văn Thận, Huỳnh Văn Trứ, yên” trong nghiên cứu phê Nguyễn Khánh Nồng, Bạch Kim bình văn học, nhưng hôm ấy Dung… và các anh chị Thanh Ở Khoa Ngữ văn chúng tôi lại chỉ được thấy nụ Minh - Kim Nhung (K22), chị Lê TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN cười và tiếng hát trẻ trung đầy Thị Vân (K23), Chí Cương - Nguyễn đam mê của thầy! Thị Hạnh (K24), Vĩnh Hào - Nguyễn  Nguyễn Văn Đấu Một cô giáo khác giọng cũng trầm Thị Mai (K26), Quốc Khánh - Nguyễn hẳn xuống khi nói về một người thầy Đấu - Kim Hạnh (K27), Chu Sơn (K29), (Cựu SV K27: 1977 - 1981) đã đi xa - thầy Nguyễn Đăng Mạnh. Thầy Hồng Thủy (K30), Nhật Ký (K33), Nguyễn Thị cũng có mặt ở Khoa ngay trong những ngày Huyền (K43)… Trong hệ thống các trường Sư đầu thành lập. Thầy ở nhà khách thiếu thốn đủ Không những thế, từ những năm đầu mới phạm đào tạo giáo viên THPT, đường, mà mấy anh chị em trong Khoa cũng trường Đại học Sư phạm Quy Nhơn không có được một nơi tươm tất để tiếp đón thành lập Khoa cho đến nay, Khoa Ngữ văn thầy. Thế rồi nhà ai có gì thì mang theo, đến trường ĐHSPHN đã có những đóng góp vô cùng quan trọng và quý báu đối với Khoa (nay là Đại học Quy Nhơn) là cơ sở ngồi quây quần quanh thầy trong gian nhà chúng tôi trong công tác đào tạo và bồi dưỡng, giáo dục “sinh sau đẻ muộn”, được khách chật chội, nóng bức… Nhưng dường như ở cả hệ đào tạo đại học và sau đại học. Đã có rất thành lập vào cuối năm 1977. Nhà chỉ cần được gần thầy, được nghe thầy nói là cả nhiều thầy cô giáo từ Khoa Ngữ văn ĐHSPHN gian phòng ấy đã rộn rã tiếng cười suốt buổi… vượt qua cả ngàn cây số để vào “chia lửa” với trường sẽ khó tồn tại và phát triển Với thầy Phan Trọng Luận, cán bộ và sinh viên Khoa chúng tôi trong những lúc khó khăn tốt nếu thiếu đi sự giúp đỡ, sẻ chia Khoa Văn Quy Nhơn vô cũng ngưỡng mộ sự nhất. Đó là các thầy - cô: Nguyễn Đình Chú, về chuyên môn, về nguồn nhân lực trẻ trung đáng kinh ngạc ở thầy, từ lời nói đến Nguyễn Đăng Mạnh, Lưu Đức Trung, Phan trang phục (quần jean, áo kẻ ca rô cộc tay), từ Trọng Luận, Phùng Văn Tửu, Diệp Quang Ban, từ các cơ sở đào tạo đại học trong dáng đi nhanh nhẹn, hoạt bát đến thói quen Nguyễn Thái Hòa, Trần Đình Sử, Đặng Đức cả nước, trong đó không thể không không bao giờ ngồi sau xe máy người khác cầm Siêu, Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn, Lê nói đến “chiếc máy cái” Đại học Sư lái. Trong khi ấy, thầy Lưu Đức Trung lại cuốn Trường Phát, Trần Đăng Suyền, Chu Văn Sơn, phạm Hà Nội. hút chúng tôi bởi vẻ đẹp sâu lắng, nhẹ nhàng, Phạm Thu Yến, Hà Thị Hòa… Các thế hệ cán tinh tế của “đóa quỳnh lặng thầm”… bộ và sinh viên Khoa Ngữ văn ĐHQN không Ở Khoa Ngữ văn ĐHQN, như đã thành thông bao giờ quên những đóng góp thiết thực của nhắc lại kỉ niệm về thầy Nguyễn Đình Chú, lệ, sinh viên giữ lại Khoa, hoặc ở cơ sở đào tạo các thầy cô vào sự phát triển chung của Khoa vẫn không khỏi ngượng ngùng, bối rối. Vào khác về nhận công tác tại Khoa, thường phải trong suốt chặng đường hơn 40 năm qua. Đến năm học 1981 - 1982, khi biết tin thầy vào dạy học xong cao học mới bắt đầu lên lớp. Và trong giờ, anh chị em trong Khoa vẫn thường nhắc thỉnh giảng cho lớp sinh viên khóa 2 đúng phần hoàn cảnh đó, địa chỉ mà họ hướng tới chính lại những bài học quý giá cùng kỉ niệm thật chuyên môn mà cô đang đảm nhận (nhưng khi là Khoa Ngữ văn ĐHSPHN. Nơi đó, với một khó quên về những “ân sư” của mình. Các thầy học ở Hà Nội cô lại chưa được học thầy), cô đã số anh chị em là “Khoa mình”, “nhà mình”. cô của chúng em mỗi người một dáng hình, đến xin phép để được vào lớp nghe bài giảng Với những người còn lại thì đó cũng giống như một phong cách, nhưng có chung một nụ cười, của thầy. Những giờ giảng thật vô giá đối với “ngôi đền thiêng” dành cho những người thầy một ánh mắt bao dung, nhân hậu. Trên bục một cô giáo mới vào nghề như cô… Nhưng rồi thật đáng tôn kính! Những tinh hoa về tư tưởng giảng các thầy cô luôn là những nhà khoa học đến khi chia tay, cô chỉ có một chút “cây nhà lá và nghệ thuật của văn chương Đông Tây kim - nghệ sĩ, nhà sư phạm mẫu mực, nhưng giữa vườn” để gửi thầy: đó là gói “bông gòn” dùng cổ kết tinh trong bài giảng của các thầy cô cùng đời thường, thầy cô gần gũi bình dị như người làm gối mà lâu nay cô đã nhặt nhạnh từng quả với cuộc đời nhà giáo giàu lòng yêu thương, thân trong gia đình… rụng xuống từ cái cây mọc gần nơi ở của cô… nhân ái, thấm đượm tình người, lẽ đời của các Có một cô giáo của Khoa chúng tôi, mỗi khi Rồi có người nhớ về thầy trong buổi bảo vệ luận thầy cô đã thấm dần trong con người của lớp 128 70 năm Sư phạm Văn khoa

lớp sinh viên, học viên các thế hệ trong đó Giảng đường có chúng em, những người đã và đang sống ở mái nhà chung Khoa Ngữ văn ĐHQN. Và CỦA TÔI “như hoa hướng dương hướng về mặt trời”, lúc này đây, cần phải “tầm sư học đạo” với  Phạm Thu Hương khát vọng được học tập để trưởng thành, họ lần lượt đổ về “khoa mình”, về “ngôi đền Có một giảng đường trong tim tôi Trên hành trình đi về phương Tây thiêng” ấy… Và sự thật là ngôi nhà Ngữ văn Nơi “những người bay có chân trời”. “Tồn tại hay không tồn tại” đây? ĐHSPHN đã chắp cánh cho rất nhiều giảng Không gian phóng chiếu vào vô tận Nhân loại đã qua bao thế kỷ viên Ngữ văn của trường ĐHQN trở thành Nâng cánh tâm hồn vươn xa khơi. Vẫn trầm luân trước câu hỏi này. những nhà giáo, nhà khoa học có đóng góp thiết thực cho sự phát triển của Khoa Ngữ Tiếng thầy trầm ấm UNICEF, - Đáp án không hiện hữu văn nói riêng và trường ĐHQN nói chung: Giáo trình nhoè mực Rô-nê-ô: Trên tấm biển chỉ đường. Võ Xuân Hào, Nguyễn Thị Vân Anh (Phó Hãy đọc chậm giữa hai hàng chữ Những khúc quanh bất chợt giáo sư - Tiến sĩ); Nguyễn Ngọc Quang, Bùi Văn chương đâu phải thứ xô bồ? Rực rỡ. Và bi thương. Văn Lợi, Trần Văn Phương, Mai Xuân Miên, Cũng không phải tháp ngà, điện ngọc Lịch sử không lặp lại Nguyễn Quang Cương, Nguyễn Thanh Sơn, Ngạo nghễ ngắm mình trong hư vô. Trên những thân phận người. Lê Thị Vân, Nguyễn Quốc Khánh, Nguyễn Văn chương dự cảm và khai phóng Shakespeare cũng bất lực Quý Thành, Nguyễn Khắc Hóa, Nguyễn Mở ra ngàn chiều kích mênh mông. Trước trò chơi không lời. Văn Lập, Nguyễn Văn Đấu, Bùi Thị Kim Hạnh, Võ Lý Hòa, Lê Nhật Ký, Châu Minh Trên hành trình đi về phương Đông Nàng Rạng đông đan ngón tay hồng Hùng, Trần Thị Giang… (Tiến sĩ); Nguyễn Tiếng chày đập lụa vọng thu không. Soi trận chiến Agamemnon Thị Mai, Lê Từ Hiển, Trần Thanh Bình, Vó ngựa chinh phu dằng dặc lắm, Quả táo vàng lăn trên bàn tiệc Trần Xuân Toàn, Trần Thị Diệu Nữ, Phạm Mai kia môi thiếp có còn nồng? Ôi mỹ nhân, di họa chất chồng. Hồng Thủy, Mai Việt Trung, Nguyễn Đức Tuấn, Nguyễn Thị Huyền, Lê Minh Kha… Kẻ giấc quân vương, kẻ lãnh cung Ngươi biết chăng, cây sồi mùa đông? (Thạc sĩ). Thuyền rồng đêm ấy... đóa phù dung. Ta đã ôm giấc mộng Toulon. Nhan sắc chưa tàn ân tình hết Dưới bầu trời xanh Austerliz, Sau cả một quá trình “tầm sư học đạo” Nàng Ban, ả Tạ cũng bằng không. Ta nằm, rất dài, gắn bó máu thịt cùng các thầy cô Nhất phiến tài tình thiên cổ luỵ Nghe vỡ vụn thinh không! giáo của khoa Văn ĐHSPHN (không ít giảng Con tạo xoay vần nghiệt ngã thay! viên có trên dưới 10 năm), thì dường như Bao giờ mới trả xong tiền kiếp Có ai ao ước tình yêu ấy các thầy cô đã trở thành người cha, người Để quay về ngủ dưới bóng cây? Cuộn sóng cả đôi bờ sông Đông? mẹ của rất nhiều giảng viên: Thầy Nguyễn Sân hoè gốc quế còn xanh mát Có ai thổn thức vòng tay ấy Đình Chú với các học trò Bùi Lợi - Thanh Còn chở che cho kẻ đoạ đày? Xiết chặt để rồi mãi biệt ly? Sơn, thầy Nguyễn Hoành Khung với học Có ai khao khát chân trời lạ trò Lê Vân, cô Đặng Anh Đào với học trò Hoàng hạc vút bay, lầu trơ bóng Đảo vắng bên chàng Robinson? Kim Hạnh, thầy Phan Trọng Luận với học Tầm Dương rượu uống chẳng buồn say. Có ai lệ ướt nhoè trang sách trò Xuân Miên, thầy Nguyễn Văn Long với “Long lanh tiếng sỏi vang vang hận” Khóc cho Fucik, cho Ruồi trâu? học trò Trần Phương, thầy La Khắc Hòa với Giang Châu Tư Mã lệ đầm vai. Cho cả mối tình Juliet học trò Nguyễn Đấu, thầy Lưu Đức Trung Thì thôi, ta vớt trăng làm mộng Cái Đẹp vẫn thường mang nỗi đau. với học trò Từ Hiển, thầy Lê Trường Phát Mài gươm cho thoả chí làm trai! Biết bao bi kịch rồi hài kịch với học trò Xuân Toàn… Những “Vòng phấn...” trắng, những “Don Juan”. Giảng đường bỗng bừng lên ánh sáng Biết bao tự sự, đại tự sự Trong không gian của các trường đại học Khi thầy trò cất cao lời ca Phương Đông tiếp biến với phương Tây... mà chủ nhân của nó là những sinh viên Đường vào Vân Đồn núi lại núi tuổi đôi mươi, thì không thể thiếu tiếng Côn Sơn tùng bách vẫn bao la. Có một thánh đường ở nơi đây hát. Nhưng có lẽ, không ở đâu, bài hát Nhớ Lớp bên vang động tiếng gõ bảng Vẫn luôn nguyên vẹn những mê say. về Hà Nội lại được vang ngân nhiều như ở Điểm nhịp cho “Nam quốc sơn hà”. Thầy cô nâng cánh bao thế hệ Khoa Ngữ văn trường Đại học Quy Nhơn: Cho “những chân trời có người bay”. “Dù có đi bốn phương trời, lòng vẫn nhớ về Hà Nội! Hà Nội của ta, Thủ Đô yêu dấu, một Hà Nội, tháng 6.2021 thời đạn bom, một thời hòa bình…”. Và điều khác biệt là những người hát bài hát ấy ở đây lại không phải là sinh viên, mà thường là các thầy cô đã qua cái tuổi để lên sân khấu. Trong thẳm sâu tâm hồn của những người hát bài hát ấy, có một Hà Nội ba sáu phố phường. Và một Hà Nội là “nhà mình”, “Khoa mình” - Khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 1 129

Những vân gỗ thời gian C ó lẽ bức ảnh bể nước và nhà  Ngô Quốc Túy bao nhiêu lá rách bươm trên đất nện nhẵn thín. Nhãn không A7 có khuôn hình của bạn còi mới là lạ. Hạnh Mai và bạn Trần Hà là Trước nhà A7 là khoảng sân rộng, chân dung long lanh nhất về trồng nhãn. Những cây nhãn tuổi trăng Đầu sân nhà A7 có bể nước máy công cộng nửa chìm nửa ký túc xá tuổi hoa của sinh tròn, mê mải trổ hoa nhưng chẳng chịu nổi, dung tích cỡ 50 mét khối, mỗi ngày được bơm đầy ba lần. viên khoa Văn cách nay khoảng 40 năm. kết trái. Sáng sớm, chiều tà, quanh bể nước nhộn nhịp như cái chợ Dãy nhà A bốn tầng của Trường Đại Mỗi đầu hạ, đàn ong thợ bâu về vần chồm hổm. Xô, chậu, ca, bát, ăng gô cùng cục múc. Trai trẻ, học Sư phạm Hà Nội xây dựng đầu thập vũ trên nhũ hoa run rẩy non tơ. Chúng gái non vừa đánh răng, rửa mặt, giặt giũ, vừa buôn dưa lê. niên 1960 được xem là một trong số ít vội vã hút mật rồi bay đi. Không được cụm kiến trúc cao ốc hiện đại ở miền thụ phấn đúng cách, những cánh hoa Cách A7 một con đường nhỏ là nhà ăn tập thể. Gần nhà ăn, Bắc lúc bấy giờ. nhãn đói tình, rơi rụng, rải dưới tán cây dân A7 tới bữa không phải đi xa, suốt ngày lại được hít hà mùi lớp lụa nâu non nhàu nhĩ. hành phi, mỡ rán. Năm lô đầu dành cho thư viện, phòng thí nghiệm, giảng đường. Hai lô cuối là Những thế hệ sinh viên sau này hay Tuy ngày ấy lý tưởng cao xa, ai cũng tỏ ra coi thường vật ký túc xá của sinh viên khoa Văn, Địa, nhắc đến hình ảnh “nhãn còi” A7. Tại chất nhưng vấn đề cơm áo thì muôn thuở không phải chuyện Toán, Lý, Hoá. Sinh viên khoa Sinh, sao cùng trang lứa, cùng thổ ngơi mà ở đùa. Cái bao tử thường xuyên quay quắt thì bộ nhớ của nó chỉ Sử, Tâm lý, Mác Lê-nin ở các dãy nhà khu hiệu bộ nhãn xum xuê, xanh tươi lòng vòng trên đường tròn ẩm thực. lá xen giữa các lô A. thế. Thủ phạm chính là ta đó. Khi chưa mở rộng khuôn viên trường về phía sau, A7 như Phong thủy A7 rất hợp với sĩ tử bút Tối nào cũng từng đôi núp bóng thể biên cương cách trở, “hậu cung” heo hút, cách xa văn nghiên. Không gì tuyệt hơn với lứa tuổi nhãn. Chân di qua di lại, tay với lá giựt phòng Khoa, văn phòng Hiệu bộ. hoa niên khi sở hữu một không gian giựt. Nói vậy chứ, khi hai trái tim còn thoáng đãng, tĩnh mịch, biệt lập để học, treo hai cái chuông chờ giờ chính ngọ Xa lửa đỡ rát mặt lại né được những ánh nhìn xét nét của để chơi, để ngủ và để hẹn hò. thì hẹn hò nào mà chẳng di di, giựt giựt. người qua kẻ lại. Gần như một mình một mâm, cư dân A7 mặc sức xông xênh, tha hồ tung tẩy. A7 hai mặt giáp cánh đồng, tầm nhìn Những đêm gió nín, họ hàng muỗi từ xa đến tận Hồng Hà, Tản Viên, Tô Đồng Xa hít hà được mùi da thịt tươi Trong thế giới tâm linh, số 7 không nghiệt ngã như số 3 số Lịch. Bởi vậy, đứng trên sân thượng A7 non, chúng lẻn vào châm chích. Để 6, không may mắn như số 8 số 9, không ma mị như số 4 số là già nửa thủ đô lọt vào tầm mắt. chứng tỏ với nửa kia, chàng bẻ nguyên 5, nhưng nó là con số huyền bí, độc đáo, vi diệu và ấn tượng cả cành nhãn bằng chiếc quạt mo để nhất trong mọi con số. Sân thượng nhà A7 như thể công xua muỗi cho gót hồng, vừa ngầm viên địa đàng, không cổ thụ, ghế đá thông điệp với nàng nếu tình thế phải Số 7 không tròn trịa, không dễ phân thân, không dễ bị nhưng ngập tràn mây gió, trăng sao. “leo cây” thì đây cũng gan lì cóc tía. khuất lấp. Trong dãy số từ 1 đến 10, số 7 là số duy nhất không chia hết cho số nào và cũng không có số nào chia hết cho nó. 130 70 năm Sư phạm Văn khoa Sáng ra nhìn những gốc nhãn thấy Với đạo Hindu, lương duyên lứa đôi của con người kéo dài tới 7 kiếp bởi 7 vòng tròn lửa thiêng, vũ trụ có 7 thiên đường dành

cho cái thiện, 7 địa ngục dành cho cái ác, mồng 7. Eva được tạo ra từ cái xương sườn thứ 7 của Adam... lịch) hàng năm Ngưu Lang được Ngọc số 7 tượng trưng cho Trái Đất... Sự ngẫu nhiên của số 7 trong văn hóa loài người cũng khá thú Hoàng cho qua cầu Ô Thước đoàn viên cùng Chức Nữ... Với đạo Phật, đức Phật Tổ đạt tới vị : 7 sắc cầu vồng (đỏ, vàng, lam, lục, cam, chàm, tím), 7 nốt cảnh giới ngay sau khi ngài đi 7 bước, nhạc (đồ, rê, mi, pha, son, la, si), 7 tâm trạng (hỷ, nộ, ái, ố, lạc, Phong thủy A7, nội thất giường tầng 7 bước nở 7 đóa hoa sen. Bội số ngày ai, dục), 7 vị ẩm thực (chua, cay, ngọt, đắng, mặn, chát, nồng), 7 A7, công viên sân thượng A7, cánh của 7 là 49. 49 ngày là thời gian cần và loại hình nghệ thuật (văn, nhạc, họa, múa, điêu khắc, sân khấu, đồng ngoại thành A7 mỗi năm đóng gói đủ để người chết siêu thoát phần hồn... điện ảnh), 7 quân cờ trên bàn cờ (tướng, sỹ, tượng, xe, pháo, muôn vàn kỷ niệm cho hàng trăm lữ mã, tốt), 7 chu kỳ trong bảng tuần hoàn nguyên tố hóa học của khách đăng trình. Với đạo Thiên Chúa, đức Chúa Trời Mendeleev, 7 vị thần may mắn của tín ngưỡng đất nước Phù mất 7 ngày để tạo ra vũ trụ. Kinh thánh Tang, 7 kỳ quan thế giới, 7 ngày một tuần, ngày 7 tháng 7 (âm Quá vãng đó có tiếng guốc nữ sinh chia làm 7 phần. Adam hiện diện vào ngày “Giờ lên lớp nhịp cầu thang vồi vội”, có cánh đồng “Hoa muống trắng bâng khuâng chiều tím ngát”, có “Nồm Nam cốm Vòng, heo may phương Bắc. Chiều tầng ba chợt gió tóc em bay”... Quá vãng đó có “Những đêm mất điện trăng sáng thay đèn”, không loa kẹo kéo mà bản tình ca hay nhất của Soloviov Sedoi bỗng dưng ngân lên “Chiều thanh vắng là đây, âm thầm gió rì rào. Rừng cây, chim muông vắng suốt canh thâu. Kìa em ngước nhìn ai, đôi màu mắt nâu huyền…” MIỀN KÍ ỨC (Thân yêu tặng các bạn A7 tuổi 20 Thời Hoa Sân thượng tầng cao A7 hẹn hò Bến đò Nghĩa Xuyên cả lớp tiễn bạn mình Ai giận dỗi, ai ôn bài, ai mộng tưởng Thư trở lại mà người không về nữa Lửa Khoa Ngữ văn ĐHSPHN) Phạm Thu Yến Tuổi cao vọng ngỡ sao trời hái được “Cây thùy dương” tím thẫm phía chân trời Màu áo thanh thiên đốt lòng câu hát cũ Năm tháng trôi nhanh như giấc mơ dài Tuổi hai mươi lòng thổn thức “Xa khơi” Hồn hóa mây trời bất tử tuổi hai mươi Tiếng hát hoa niên xôn xao miền kí ức “Đường lên mỏ” Hà Tu đắm say tiếng hát A7 mộng mơ bỗng chốc hóa pháo đài Biển Hạ Long mênh mang “Chiều hải cảng” Dĩ vãng như cuốn phim quay chậm “Khăn xanh trên bờ, tàu lướt nhớ em”… Người ở lại đào hầm, gặt lúa Khuôn mặt bạn bè yêu dấu tuổi hai mươi Rồi chiến tranh như cơn bão học đường Tổ trực chiến mắt phía Tây thành phố Xao xác những binh đoàn sinh viên ra trận Họ làm thơ tình chỉ gửi gió và trăng Bỡ ngỡ tựu trường, tứ xứ xa xôi Cô gái hoa khôi bỗng nặng lòng với lính Rồi hòa bình, rồi thấm thoát bốn năm Thêm thương mến “bài ca sư phạm” Khăn thêu trao nhau dưới gốc nhãn già Lại đến lúc chia tay bâng khuâng bao dự cảm “Rèn đức tài” lời thầy ân cần dặn Đan Phượng Hà Tây, tiễn bạn đêm hè “Hạnh phúc ở đâu”? Câu trả lời xa thẳm Trăng huyền thoại, ao làng, cỏ biếc… Khúc du ca cuộc đời, mỗi đứa một phương “Chỉ trở về khi nết tốt văn hay” Tụi con gái rưng rưng hát lời chia biệt Không ít lần ta khắc khoải nhớ thương Giảng đường đơn sơ, hồn mở đến chân trời Con trai giấu buồn trong diệu khúc ghi ta “Đừng giận dỗi” em ơi, anh sẽ trở về Ước trở lại ngồi bên nhau say đắm Đỉnh núi Olympia, nữ thần trí tuệ “Giàn hoa lý” chờ cô dâu ngày cưới Chỉ để hát không nguôi về miền xanh thẳm Chàng Andray “Cây sồi và tuổi trẻ” Anh đi nhé “Tuổi thanh xuân sôi nổi” Để hiểu một điều: hạnh phúc giản đơn thôi “Tôi yêu em chừng có thể”…mỹ nhân ơi Cuộc đời ta “vang mãi khúc quân hành” Giường dưới giường trên rộn rã nói cười Bao kiếp tu để được phận con người Cơm tập thể, xoong nồi bày giữa lối Bao hạnh ngộ để nên duyên bè bạn Đêm đông mơ bánh mỳ “đen” nóng hổi Hát lên đi hỡi hồn xanh đầu bạc Vẫn “chiều Matxcơva”, thương nhớ “Đôi bờ” Cám ơn cuộc đời đem bạn đến cùng tôi./. 131

CÁC LIỆT SĨ K20  Nguyễn Bích Hà - Trưởng BLL K20 Cho đến hôm nay, những cảm xúc xót xa, nhớ tiếc, trân trọng đối với các bạn liệt sĩ Khóa mình dần lắng xuống tôi mới có thể ngồi nhớ và viết lại những điều chúng tôi đã nghĩ, đã làm cho mình, cho các bạn Khóa mình và các bạn đã ngã xuống vì độc lập của Tổ quốc chúng ta. 1. Bắt đầu từ ý tưởng Tháng 10/2017, chúng tôi chúng tôi da diết nhớ các bạn 2. Để chuẩn bị cho những chuyến đi thăm quê hương 5 tấn. Đó là thân yêu của mình đã có những một chuyến đi vui và đầy ấn năm tháng cùng đèn sách, cùng Khóa tôi vào Khoa Văn, Trường ĐHSPHN năm 1970 gồm 4 lớp A,B,C,D. tượng. Nhưng ấn tượng và cảm chia sẻ khó khăn thiếu thốn ở Đó là khóa đầu tiên không xét tuyển mà thi vào đại học. Vì vậy, khóa học động nhất chính là cuộc đến Trường ĐHSPHN. Các bạn đã tập trung những người yêu văn chương, có năng khiếu văn chương và chủ thăm đền thờ, tri ân 52.000 liệt bỏ lại bao ước mơ còn dang dở, động lựa chọn làm thầy cô giáo dạy Văn. Nhưng chúng tôi vào trường khi sĩ của tỉnh Thái Bình. Rồi tháng bao người thân cần chăm sóc để cuộc chiến tranh chống Mĩ đến hồi quyết liệt nhất, lệnh tổng động viên, 10/2018, chúng tôi thăm Vũng lên đường vì tiếng gọi còn khẩn “cả nước lên đường”. Tất cả các bạn nam mạnh khỏe nhất, tài năng và Tàu - Côn Đảo, theo lời mời của thiết hơn: Cứu nước. Chúng nhiệt huyết nhất của khóa lần lượt nhập ngũ. Trong số đó năm bạn đã hai bạn cùng khóa Bùi Thị Loan, tôi thật có lỗi vì chừng ấy năm nằm lại mãi mãi với mảnh đất phương Nam. Đó là Phạm Như Ý, Trần Văn Chử Văn Lịch. Ấn tượng nhất bạn mình nằm xuống, chưa một Tiến, Nguyễn Văn Long, Nguyễn Duy Dư, Nguyễn Văn Phúc. chuyến đi chính là đêm 17/10 lần thăm hỏi cha mẹ bạn, thắp thăm nghĩa trang Hàng Dương - cho bạn nén hương, cũng chẳng Khi quyết định tìm thăm gia đình năm liệt sĩ, thông tin chúng tôi Côn Đảo. Theo phong tục ở đây, biết bạn đã nằm lại nơi nào. Nỗi có được rất sơ sài: Long ở Nghĩa Hưng, Nam Định; Ý ở Vĩnh Bảo, Hải chúng tôi thăm nghĩa trang lúc niềm ấy cũng chính là tình cảm Phòng, Tiến ở Vĩnh Yên, Dư ở Phú Thọ, Phúc ở Hà Nội. Tất cả đều là 23 giờ. Chia nhau thắp hương ở chung của tất cả các bạn A7 những địa danh rộng lớn, bắt đầu từ đâu? Nhưng đã quyết thì khó cũng bạt ngàn các ngôi mộ, rồi chúng Tuổi 20 Thời Hoa Lửa. Vì vậy phải làm! Chúng tôi chia nhau đi tìm. Nhóm Sơn Nam Hạ hăng hái nhất, tôi tập trung làm lễ trước mộ mà ý tưởng đi tìm, thăm lại gia đưa ảnh Long hỏi khắp, may anh Thủy, phu quân Hằng (cũng dân Sư chị Võ Thị Sáu. Khi Đinh Hồng đình các liệt sĩ của Khóa liền phạm HN) nhận ra, bảo “Long là bạn học cùng trường phổ thông và ở Thái bập bùng những nốt nhạc được hưởng ứng ngay, trở thành ngay cùng xã Nghĩa Hồng”. Thế là tìm thấy địa chỉ đầu tiên “ngon lành”! đầu tiên, chúng tôi đứng sát bên hành động tích cực, nhiệt tình Sau đó Thủy, Hằng liên hệ với địa phương để tiền trạm cho chuyến đi nhau và hát vang bài Nhớ ơn chị của cả tập thể K20. của cả đoàn. Võ Thị Sáu trong cảm xúc thấm thía và thiêng liêng đến vô hạn. Thuận là rể Hải Phòng, nhận lời tìm nhà Ý chỉ với thông tin rất chông Từ cuộc gặp gỡ Thái Bình, chênh: Ý ở Vĩnh Bảo! Lục lọi trong cái đầu bề bộn của mình, chàng bỗng cuộc tri ân Hàng Dương, nhớ ra tên một học trò tại chức người Vĩnh Bảo, vội điện hỏi “… Có biết anh Ý, liệt sĩ, trước học khoa Văn không?” - “Em biết, em cùng học với Ý hồi phổ thông. Em sẽ đưa thầy đến tận nhà Ý”. Trời ơi, tưởng là rất xa mà gần ngay trước mặt! Thế là yên tâm với địa chỉ thứ hai. Sau đó Trịnh Nam Dương từ Thái Bình sang, Phùng Văn Thức từ Hà Nội về cùng Nguyễn Đức Thuận tiền trạm để tổ chức cuộc tri ân ở gia đình Phạm Như Ý. Khi Trần Văn Tiến ngã xuống ở Quảng Trị thì quê bạn vẫn là tỉnh Vĩnh Phú. Nhưng sau đó Vĩnh Phú chia ra: Phú Thọ, Vĩnh Yên, Phúc Yên. Lập Thạch quê Tiến cũng chia ra, thuộc ba huyện mới, thật khó để tìm gia đình bạn. Vũ Đình Hùng bảo “Nếu ở Vĩnh Phúc, mình phải tìm cho ra!”. Từ một người quen ở cơ quan tỉnh, Hùng đã tìm địa chỉ và số di động của Vận, em Tiến. Thì ra chẳng ở đâu xa, Vận thờ cha mẹ và anh Tiến ngay 132 70 năm Sư phạm Văn khoa

3. Tri ân. Gặp lại tuổi thanh xuân của các bạn ngõ 38, đường Khúc Thừa Dụ, Cầu Giấy, Hà Nội. Mừng quá, Nguyễn Bích Chuyến thăm đầu tiên là nhà Long ở Nghĩa Hưng, Nam Định. Nhóm Hà và Đinh Hồng Thái đã thăm gia đình Tiến và tiền trạm cho cuộc gặp Sơn Nam Hạ do anh Nguyễn Mạnh Hùng là thủ lĩnh đã cùng địa phương gỡ của đoàn. và gia đình tổ chức cuộc gặp gỡ. Gần 50 năm, hôm ấy chúng tôi vô cùng cảm động vì được đặt chân lên chính mảnh đất, ngôi nhà Long đã sống, Trong cuộc thăm gia đình Long, em Ngọ (em gái Long) khi biết chúng đã trải qua tuổi thơ của mình cùng với bố mẹ và các chị em. Khi tấm di tôi đang tìm gia đình Dư đã cho số di động của người đồng đội của Long ảnh được mở ra, tất cả mọi người trong gia đình đều trầm trồ “Đúng là và Dư: anh Nguyễn Hải Trung - ở Nam Định. Hùng nói chuyện với anh Long đây rồi, đây mới đúng ảnh nó…”. Ảnh Long vốn chụp chung với Trung, qua anh biết địa chỉ gia đình Dư, rồi một mình tìm thăm nhà bạn. Dư, được gửi về cho các bạn cùng lớp và được bạn bè gìn giữ đến bây giờ. Ngay sau đó, Chí Cương từ Hà Nội cùng Hùng đi Lâm Thao tiền trạm Lễ tri ân đã diễn ra rất ấm áp, ân tình và rất cảm động. Anh Hùng trao chu đáo để chuẩn bị cho đoàn. di ảnh Long cho gia đình, cùng chúng tôi làm lễ dâng hương trước di ảnh bạn. Phan Thị Sử đã ngâm một bài thơ Long viết trong những ngày đầu Địa chỉ gia đình Phúc là một dấu hỏi lớn với chúng tôi. Bởi sau khi nhập ngũ. Trong đó có đoạn: …Thu sẽ xa, qua đông, sang xuân/ Đào nở bạn hi sinh một thời gian, gia đình cũng chuyển khỏi 39A Lí Quốc Sư, hoa gọi nắng vàng về trải/ Ngôi sao xanh lại sáng màu chói lọi/ Sẽ đón ta Hà Nội. Chúng tôi gần như không có manh mối nào để tìm. Một hôm về như buổi đầu tiên... Thơ Long viết hay đến thấm thía, lay động những bất ngờ Thức gọi, giọng rất vui “Hà ơi, tìm được nhà Phúc rồi!”. Thì ra xúc cảm mong manh, riêng tư nhất. Giá không có chiến tranh, giá Long bạn Dung ở khóa tôi lại là chị dâu Phúc, qua mấy cầu đứt nối chúng tôi không nằm lại nơi chiến trường, giá Long trở về như các bạn tôi, chắc đã biết được địa chỉ nhà bạn: Ngõ 126, Hoàng Quốc Việt. chắn Long đã có một gia đình đầm ấm, sẽ làm thơ và trở thành nhà thơ tài năng. Tiếc quá Long ơi! Hãy an lành, thanh thản ở nơi mây trắng trời Thế là chúng tôi đã hoàn thành cả năm cuộc tiền trạm lịch sử chuẩn bị xanh ấy với mãi mãi tuổi 20, Long nhé! cho những chuyến đi về nguồn, tri ân các liệt sĩ, bạn của chúng tôi. Cũng qua năm cuộc tìm kiếm, chúng tôi cảm nhận chắc chắn sự hiển hiện của Cuộc hội ngộ thứ hai là ở nhà liệt sĩ Phạm Như Ý, ngày 24/6/2020. các liệt sĩ bạn mình. Chắc chắn các bạn đồng cảm được tình bạn giữa Khác với Long, gia đình Ý rất đông đúc. Ý là anh cả của bảy người em, chúng tôi trong suốt 50 năm qua, chắc chắn các bạn cũng muốn gặp lại sáu trai một gái. Ngày chúng tôi về, địa phương đã đứng ra tổ chức lễ bạn bè và biết chúng tôi đang thành tâm tìm các bạn… Vậy nên các cuộc tri ân. Đến đây, chúng tôi gặp một vùng quê thân thương và quen thuộc tìm kiếm lúc đầu tưởng rất khó khăn, bế tắc nhưng ngay sau đó đều diễn với con đường gạch nhỏ, những cây nhãn cổ thụ che rợp bóng... Bức ảnh ra khá suôn sẻ, cứ như có người đưa đường dẫn lối vậy. Hơn nữa, vừa Phạm Như Ý phủ quốc kì, được trân trọng mở ra trong cảm xúc vỡ òa của chấm dứt giãn cách Covid-19 (30-4), chúng tôi thăm gia đình bạn liệt sĩ bạn bè, anh em, họ hàng, làng xóm. Sau lễ trao di ảnh, cả đoàn đứng mặc đầu tiên và kết thúc cuộc thăm viếng cuối cùng thì dịch bùng phát trở niệm và làm lễ dâng hương. Tôi đã thắp ba nén hương thứ nhất thay mặt lại. Chỉ chậm một ngày thôi có thể sẽ lỡ dở chương trình thăm viếng liệt cho các bạn trong đoàn đi và thắp tiếp ba nén thứ hai giúp cho các bạn sĩ mà chúng tôi đã chuẩn bị công phu. A di đà Phật, có phải các bạn liệt thương nhớ Ý mà không đến được. Anh Nguyễn Mạnh Hùng đọc Văn tế sĩ đã giúp chúng tôi không? liệt sĩ Khoa Văn với giọng trầm sang sảng. Thìn đọc bài thơ viết tặng Ý, có câu: Dáng dấp trẻ trung của một thời/ Nụ cười tươi mãi tuổi hai mươi/ Để chuẩn bị cho những chuyến đi chu đáo và có ý nghĩa hơn, Trịnh Những ngày ôn luyện chung đèn sách/ Chỉ còn trong kí ức xa xôi... Trong Nam Dương lặng lẽ làm di ảnh, đưa vào khung trang trọng tặng cho gia màn khói hương bảng lảng, chúng tôi thấy như Phạm Như Ý đang có mặt đình các bạn liệt sĩ. Dương tách ảnh của các bạn khỏi những ảnh chụp nơi đây. Bạn vẫn sống mãi tuổi 20 trong niềm thương nỗi nhớ của gia chung, làm sáng rõ chiều sâu tinh thần từ đôi mắt của mỗi người… Nhờ đình, quê hương và bè bạn. những tấm ảnh đã được các bạn gìn giữ gần 50 năm, qua bàn tay “phù thủy” của Dương mà lễ trao di ảnh trở thành một nghi thức thiêng liêng Cuộc hội ngộ thứ ba là ở gia đình Trần Văn Tiến. Tìm bạn ở tận đâu và cảm động đối với gia đình các liệt sĩ. Còn có hai nhà tổ chức không đâu, nhưng gặp bạn lại ở ngay gần Trường ĐHSPHN. Tiến là con đầu thể thiếu, đó là Phùng Văn Thức - người chuyên lo hậu cần cho đoàn và trong gia đình có ba anh em trai và chàng cũng là người nhập ngũ sớm Lương Kim Nga, người vô cùng chu đáo chuẩn bị các lễ sơ, lễ trọng cho như Ý, Phúc. Bố mẹ Tiến ở với em Vận tại Hà Nội, sau khi các cụ mất các cuộc đi. Đoàn chỉ cần thông báo số người và số lễ là cứ việc yên tâm thì Vận thờ bố mẹ và anh Tiến tại tầng 4 nhà mình. Chúng tôi đến ngôi không thiếu bất cứ thứ gì. nhà trong ngõ nhỏ 38 đường Khúc Thừa Dụ. Trong không khí gia đình đầm ấm mà trang trọng, chúng tôi đã thắp hương trên bàn thờ gia tiên, trước di ảnh các cụ thân sinh và ảnh Tiến. Em Vận khấn báo với gia tiên về sự thăm viếng của đoàn trong nước mắt, chúng tôi cũng không cầm lòng được. Lễ trao di ảnh và tưởng niệm bạn diễn ra ở tầng một. Chúng tôi mở quốc kì phủ ảnh Tiến, trao di ảnh cho gia đình. Tiến trẻ măng, rất hiền và hơi buồn nhìn chúng tôi. Giá không có chiến tranh, giá không 133

Những vân gỗ thời gian CÁC LIỆT SĨ K20 thờ Phúc. Thức và anh Quốc thay di ảnh mới vào khung ảnh bạn. Chàng trai Hà Nội thư sinh, hào hoa, vận quân phục, đội mũ cứng sao vàng, đôi mắt sáng trong nhìn chúng tôi như muốn nói điều gì. Phúc chỉ học với chúng Liệt sỹ Liệt sỹ Liệt sỹ Liệt sỹ Liệt sỹ tôi hơn một năm, nhưng đã ở trong Nguyễn Văn Long Phạm Như Ý Trần Văn Tiến Nguyễn Duy Dư Nguyễn Văn Phúc trái tim bạn bè suốt 50 năm qua. Thắp hương tưởng niệm bạn, chúng tôi nhớ về Quảng Trị, mảnh đất nóng bỏng, nơi ấy Ý, Phúc và Tiến đã nằm lại ở tuổi hai mươi. Trong khói hương mờ ảo, chúng ngã xuống quá sớm ở Thành cổ Quảng Trị thì bây giờ Tiến đoàn chỉ có thể đi mươi người, Việt từ tôi ôn lại kỉ niệm về bạn và thầm nói cũng như chúng tôi, tóc bạc, da mồi, xúm xít quanh mình Bắc Giang về, Dương từ Thái Bình lên. với Phúc: Hãy yên nghỉ thanh thản những con cùng cháu. Bạn đã dừng lại ở tuổi 20 và mãi mãi Gia đình Phúc có tám anh chị em, bốn bạn nhé, chúng mình mãi mãi là bạn tuổi 20 trong sáng, trẻ trung. Tôi nhìn các bạn từng là đồng trai nên Phúc cũng nhập ngũ ngay từ bè! Những gian khổ và đau thương mà đội của Tiến hôm đó: Cương, Thức, Thiết, Việt, Hùng, Vinh, cuối năm 1971, khi sự nghiệp học hành chiến tranh khiến bạn phải gánh chịu, thầm cảm ơn Trời Phật đã cho các bạn lành lặn trở về, càng để thành thầy giáo dạy Văn mới được chúng mình hiểu và cùng bạn sẻ chia trân quý và tin cậy ở các bạn mình hơn. Họ đã mấp mé bên bờ 1/4 chặng đường. Anh Quốc là anh cả cái sống và cái chết, họ tất cả đã lao vào lửa đạn không có ai của Phúc rất mừng khi đoàn chúng tôi hèn nhát thoái lui, và họ đã may mắn trở về. Mỗi người trong đến thăm. Nhà anh Quốc cao 4 tầng, họ sống giữa đời thường, nhưng mang trong mình một kho tầng 4 thờ gia tiên và có một ảnh nhỏ đầy ắp những kỉ niệm, những kinh nghiệm chiến trường chưa được khai thác và ít bộc lộ. Cuộc thăm viếng thứ tư của chúng tôi là gia đình liệt sĩ Những điều còn mãi. Lời nhắn gửi mai sau. Nguyễn Duy Dư ở Lâm Thao, Phú Thọ ngày 26/7/2020. Nhớ lại, ngày đến nhà Long thấy đoàn đông và rất khí thế, chúng tôi lo không biết những chuyến tiếp theo có được như thế không? Thế là đến ngày 13 tháng 9 năm 2020, chúng tôi đã hoàn thành một tâm nguyện Nhưng thật cảm động, đoàn càng đi càng đông, mà đông nhất nghĩa tình, thăm gia đình và tri ân tất cả các bạn liệt sĩ của K20, nhập trường 1970, là cuộc đến thăm nhà Dư. Thuận từ Hải Phòng, Trần Hòa từ Khoa Ngữ văn, ĐHSPHN. Tuyên Quang cũng có mặt trong chuyến đi này. Bố mẹ Dư đều Chúng tôi đã đặt chân đến nơi các bạn tôi đã sinh ra, lớn lên, đã từ đó bước chân đã mất, chị Điển (chị gái Dư) cùng chồng và hai con trai sống vào đại học để cùng chúng tôi trở thành bạn bè. Chúng tôi đã đến thăm ngôi nhà của trong căn nhà Dư từ đó, thờ cúng các cụ và “cậu Dư”. Gia đình bạn, thắp cho bạn một nén nhang cầu mong cho các bạn an giấc mãi mãi tuổi 20 chị Điển đón chúng tôi, mừng mừng tủi tủi. Chúng tôi làm lễ ở nơi cao xanh ấy. Mỗi cuộc đi như làm xong một việc tâm linh, trả được phần nào trao di ảnh Dư cho gia đình, rồi dâng hương và mặc niệm trước món nợ ân tình khiến lòng chúng tôi nhẹ bớt và thanh thản. di ảnh bạn. Không khí gặp gỡ thân mật và thật trang trọng. Dư ở trên kia như hơi mỉm cười dõi theo chúng tôi. Thuận nhắc Những chuyến đi đó cũng khiến chúng tôi gắn bó với nhau hơn, trân trọng và lại kỉ niệm giường tầng, nhiều đêm khi các bạn đã ngủ, Dư bật yêu quý nhau hơn. Bởi chúng tôi, những người còn sống đến hôm nay cũng từng trải đèn cá nhân ngồi viết đến rất khuya. Tạ Kim Toàn xúc động qua nhiều khó khăn vất vả, những sóng gió cuộc đời không hề nhỏ. So với các bạn, kể lại điều ước của Dư “Làm cây thông đứng giữa trời mà reo” chúng tôi sống đã là một may mắn! Cho dù cuộc sống còn nhiều điều chưa thật ưng khiến chúng tôi đều rơi nước mắt. Trong tim chúng tôi luôn có ý, cho dù hôm nay chưa hẳn chúng ta đã hết những ưu tư, nhưng các bạn ơi, cuộc một chỗ nhỏ bé, sâu xa dành cho các bạn. Vị trí ấy cứ bị những sống đang thay đổi theo hướng tôt đẹp hơn, rộng rãi khang trang hơn, cùng với xu ưu tiên khác chồng chất lên, nhưng nó chưa bao giờ mất. Mấy hướng đổi thay của đất nước. Chúng tôi yêu quý đất nước này và những ngày tháng chục năm qua nhanh, đến lúc tạm nghỉ ngơi mới nhớ lại và tìm bình yên hôm nay. Cầu cho chiến tranh lùi xa và các con, cháu, chắt của chúng tôi đến với các bạn để tri ân và tạ lỗi. mãi mãi được sống trong đất nước thanh bình. Chúng tôi đến thăm gia đình Phúc ngày 13 tháng 9, trong ngõ nhỏ 126 Hoàng Quốc Việt. Vẫn phải giãn cách Covid nên 134 70 năm Sư phạm Văn khoa

CÓ MỘT quanh mình. Để rồi trong giây phút bùi ngùi chia xa ta mới bồi hồi nhận ra rằng Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn. Nhớ con đường tình yêu là nhớ cả cái nắm tay khe khẽ của mối tình vụng dại. Ta dắt tay nhau qua mùa lá vàng rơi, qua cơn mưa hạ còn vương hương lộc vừng êm dịu. Dưới bóng MANG TÊN  Nguyễn Thị Phương Thảo, C - K69 cây, có chàng trai ngập ngừng ngỏ lời yêu bấy lâu vẫn giấu kín, có cô gái đỏ mặt bối rối gật đầu, lòng xao xuyến mà biết nói chi đâu. Tình yêu dường như sẽ bớt đẹp khi thiếu đi một chút gia vị của những lần giận hờn vu vơ: Em bảo anh đi đi Sao anh không dừng lại Em bảo anh đừng đợi Sao anh vội về ngay Con đường nơi hẹn ước da diết như bây giờ. Con đường tình yêu Lời nói gió thoảng bay Tháng ba nhuộm sắc vàng của chúng tôi vẫn nằm đó, bình yên bên Đôi mắt huyền đẫm lệ chùa Thánh Chúa linh thiêng, vẫn chờ Sao mà anh ngốc thế Xào xạc thảm lá hát chúng tôi tới dạo bước, vẫn yên lặng mà Chẳng nhìn vào mắt em ! Khúc hồi ức âm vang lắng nghe đôi ba lời thở than hay vài câu chuyện vu vơ của đám sinh viên, vẫn là S. Kaputikyan (Xuân Diệu dịch) Một chiều hạ ghé ngang nơi chúng tôi ghé chân ăn vội chiếc bánh Lá thư tình viết dở mì cho kịp giờ thư viện mở cửa trong Con gái Khoa Văn là thế đấy, dịu dàng, đằm thắm mà thủy mỗi mùa ôn thi vội vã. Trong sâu thẳm chung vô ngần. Tôi vẫn còn nhớ thầy giáo dạy môn Văn học Sắc hoa đỏ miên man trái tim, tôi vẫn luôn coi con đường tình dân gian đã từng nói với chúng tôi rằng: “Con gái Khoa Văn Cho lòng ai nhung nhớ! yêu là một người bạn tri âm tri kỉ chứng yêu vào là mụ mị lắm. Trái tim toàn đặt trên đầu”. kiến hành trình tôi ngày một trưởng Thu đã về trong cơn gió se lạnh mỗi thành dưới sự dìu dắt của thầy cô, trong Dẫu biết trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt, nhưng ai bảo tình sớm mai, trong hương hoa sữa đầu mùa vòng tay sẻ chia của bạn bè. yêu là đặc quyền của tuổi trẻ. Ta dám yêu và dám mơ, ta dám thoang thoảng ru lòng ai xao xuyến. say trong mối tình đầu đời non dại. Ta gieo vào lòng nhau Vậy là đã ngót nghét ba tháng kể từ Cũng chẳng phải tự nhiên mà biết những hạt mầm hạnh phúc, để nó ngày đêm lặng lẽ sinh sôi. khi chúng tôi tạm xa Sư phạm vì dịch bao thế hệ sinh viên đã từng lớn lên bệnh. Nhớ trường, nhớ Văn khoa, nhớ dưới mái nhà chung Sư phạm mỗi khi Thú thực, khi đặt bút viết về con đường tình yêu tôi luôn thầy cô và cả những người bạn đã cùng có dịp về thăm trường lại không quên tâm niệm phải viết sao cho thật hoa mĩ, thật lãng mạn, sao cho nhau gắn bó suốt nửa quãng đời sinh tìm đến con đường tình yêu như đang xứng với danh xưng mĩ miều ấy. Nhưng một người bạn - người viên. Hà Nội mùa này chắc hẳn là đẹp tìm kiếm bóng hình mình trong những tôi vẫn luôn coi là chị gái đã đồng hành cùng tôi từ những ngày lắm, nhưng đẹp nhất trong lòng các năm tháng xưa cũ ấy. Phải chăng, chính tôi còn là cô sinh viên năm nhất bỡ ngỡ đã tâm sự với tôi rằng: cô, cậu sinh viên chúng tôi thì phải kể cuộc sống hối hả và cái cảm giác thân “Em hãy cứ viết bằng cả trái tim, cứ viết những điều dung dị đến “Con đường tình yêu” trong khuôn thuộc quá đỗi khiến ta đôi khi quên và bình thường nhất. Viết như thể ngày mai em phải xa chị, viên Đại học Sư phạm. đi giá trị của những điều bình dị xung xa Sư phạm”. Và thực sự tôi đã viết bằng tất thảy những rung cảm từ sâu thẳm trái tim ấm nóng và tràn đầy thương yêu này. Có lẽ, xa nhau cũng chính là cơ hội để con người ta nhớ về nhau. Những ngày Cảm ơn Văn khoa đã cho tôi những năm tháng thanh tháng sải bước trên con đường quen xuân rực rỡ đến thế. Cảm ơn con đường tình yêu đã lặng lẽ thuộc ấy tôi chẳng mảy may nhớ về nó nhìn tôi lớn lên từng ngày. Cảm ơn thầy cô đã truyền cho tôi trái tim say mê Văn học, biết khóc cùng nỗi đau nhân vật và cười khi đọc được một áng thơ hay. Cảm ơn những người bạn đã luôn dành cho tôi một niềm tin yêu vô bờ. Dẫu mai này đây, khi phải thực sự chia xa, tôi sẽ mỉm cười thật hạnh phúc mỗi khi nhớ về, hạnh phúc vì đã từng là một mảnh ghép nhỏ của Văn khoa 135

Những vân gỗ thời gian V ới những sinh viên mới vào BỤI VÀNG MANG TÊN trường như tôi, ấn tượng nhất có lẽ vẫn là con đường nhưng vòm trời lại xanh hơn, cao hơn  Nguyễn Ngọc Hà Phương, A6 - K70 tình yêu nằm gần phía thư và trong hơn rất nhiều. Từ phía cửa viện Đại học Sư phạm Hà Khoa ra đến chỗ đài phun nước trước muồng hoàng yến trở nên rực rỡ, lấp lánh hơn bao giờ hết. Tựa Nội. Ấy là con đường lãng mạn mà tôi cửa nhà Hiệu bộ, nhìn chếch sang một như đang tỏa ra chính tia nắng của riêng nó vậy. liệt vào dạng bậc nhất trong các con góc 60 độ, tôi bỗng thấy lấp ló một đường tôi từng đi qua. Dẫu mỗi mùa sắc vàng rực… Nhìn ra mới biết ấy là Một vầng mặt trời ngay trước cửa Văn khoa, một vầng mặt mỗi khác, con đường đó vẫn hấp dẫn muồng hoàng yến - cái cây mà ngày đó trời ngay giữa khuôn viên Đại học Sư phạm những ngày giữa hè. đến lạ: từ những ngày cây vẫn xanh tôi đã lướt qua vô tình. tươi, tỏa bóng mát làm rợp một quãng Bất chợt, tôi nghĩ đến một áng thơ xưa mà ngày đó, một đường, che cho sinh viên nghỉ trưa ăn Cây đang vào mùa trổ hoa, tỏa ra thứ người bạn tôi trong lúc dạo quanh hồ Tây, ngắm nhìn muồng uống cho đến những ngày cuối đợt dịch ánh sáng vàng rực làm ngợp cả một góc hoàng yến vào độ ra hoa đã nói. Dẫu chỉ là một bài thơ được thứ hai, cây ngả vàng, tô vào không đường. Từng chùm hoa dài khẽ đung cóp nhặt, chỉ là khoảnh khắc vu vơ khi hai đứa ngắm nhìn gian một gam màu ấm tựa như mùa đưa theo gió. Chưa bao giờ tôi được muồng hoàng yến nhưng tôi vẫn nhớ nó đến lạ. thu đang gõ cửa. Tôi còn nhớ cả những chứng kiến cảnh tượng đẹp đến nao ngày vu vơ, chẳng rõ hàng cây đó ra hoa lòng vậy, dẫu cho đây không phải là “Muồng hoàng yến rực vàng trong nỗi nhớ tự lúc nào mà bất chợt đang đi, nhận ra lần đầu tôi biết đến muồng hoàng yến. Mùa hạ nào nức nở cuộc chia ly mũi giày mình bám đầy những sợi đỏ Nhưng sắc vàng của muồng hoàng yến của hoa lộc vừng bé li ti… Văn khoa thật khác lạ. Nếu đã từng đọc Con đường xưa nghe tiếng gió thầm thì Bụi quý của Pautopxki, có lẽ bạn sẽ hiểu Nếu có duyên kiếp sau mình gặp lại.” Đó là cho đến khi tôi bắt gặp hình điều tôi muốn nói. Đó là thứ bụi vàng ảnh của muồng hoàng yến rực vàng gần lấp lánh như kim sa, phả vào không gian Tôi bắt gặp muồng hoàng yến của Văn khoa vào một ngày cửa Văn khoa. một thứ ánh sáng đến kì ảo, mà ở đây hạ tình cờ, trong một khoảnh khắc ngắn ngủi và bất chợt. chỉ có trích dẫn ý văn của Pautopxki Dịch bệnh khiến chúng tôi không thể lên giảng đường cho Ngày nhập học, tôi còn nhớ đó là một mới làm rõ: “Anh còn nhớ nó sáng lấp kỳ học thứ ba nên sẽ khó cho tôi bắt gặp sắc vàng đẹp mê ngày hè tháng 8 có mưa nhè nhẹ, trời lánh như thế nào, mặc dù bên ngoài cửa người của hoa vào mùa hè này nữa. Đến khi đi học lại, có lẽ không chút oi bức. Tôi thích thú đi ngắm sổ không có nắng và cơn bão buồn thảm đã vào tháng 8, mà tháng 8 thì mùa hoa cũng tàn… Hóa ra nghía đủ mọi chi tiết quanh Khoa, từ bức đang sục sôi ngoài eo biển. Càng về sau “Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt” là vậy. Gặp thoáng qua để tượng của GS, nhà phê bình Đặng Thai càng rõ hơn cái lấp lánh ấy, giống như mấy rồi thương nhớ vì sớm biết chia lìa. Mai; cho đến tấm biển trước Khoa; đến ngọn lửa nhỏ cháy sáng dưới một trần nhà cái hành lang dài thật dài có tấm gương thấp.” Trời hôm đó tắt nắng, chỉ có vòm Ra về mà mắt tôi vẫn ươm một sắc vàng muồng hoàng yến, đặt ở phía cuối;... Ngày đó, tôi có lướt trời quang mây xanh nên ánh vàng của tâm trí tôi vẫn nhớ mãi khôn nguôi. Một khoảnh khắc, tuy qua một cái cây nhưng nó nhạt nhòa quá. ngắn ngủi mà rực rỡ, chói lòa, sống động. Tôi tự hỏi biết bao Lướt qua mà chẳng khác nào người dưng thế hệ sinh viên Văn khoa đã từng ngắm nhìn thứ sắc đẹp không đem lại cho nhau chút cảm tình. diệu kỳ này; liệu họ có nao lòng như tôi hay không, liệu trong số đó có ai vì rung động với muồng hoàng yến mà ra đời cho Mới tháng trước, tôi có dịp lên Khoa mình những áng thơ, áng tản văn hay không? Có thể lắm chứ, để nộp một số giấy tờ quan trọng. Giữa vì Văn khoa mà. Chúng tôi luôn có những rung cảm đặc biệt tháng 6, thời tiết tuy nóng bức là vậy với cái đẹp, mà ở đây là sắc đẹp mê hồn của muồng hoàng yến độ vào hè…  136 70 năm Sư phạm Văn khoa

T ôi đã đặt những bước chân đầu tiên Hai năm gắn bó với Sư phạm, hai năm tôi được học tập và sinh hoạt dưới vào Văn khoa trong một ngày mùa mái nhà Văn khoa - một thời gian quá ngắn ngủi, chẳng thể nào với so đông năm 2017. Vội vàng và gấp sánh được với biết bao thầy cô giáo đã học tập và trưởng thành, công tác gáp đôi chút, bởi lẽ kì thi học sinh giỏi quốc gia đang thật gần, chúng tại nơi đây. Nhưng hai năm qua đi, những đổi thay của mái tôi khi đó chỉ tập trung vào học tập. Nhưng trường này, tôi đã may mắn được chứng kiến. dẫu sao, trong cảm nhận của những đứa trẻ 16, 17 tuổi năm đó, việc trải nghiệm sớm cảm giác  Nguyễn Hồng Ánh, CLC - K69 của các anh chị sinh viên trên giảng đường vẫn thật mới lạ và thú vị. Hai lời nhắn gửi thân thương ấy được chia trên giảng đường vì dịch bệnh đã không còn có sẻ khắp các trang mạng. Những lời nói ấy đã thể liệt kê hết; nhưng lần nào cũng vậy, những Mùa hè 2019, đứng trước cổng trường đại khiến bao sinh viên Sư phạm, dẫu vẫn còn bức tâm thư, những tấm ảnh vườn trường vẫn học bấy lâu nay mình mơ ước, cầm trên tay tập chút vấn vương muốn ở bên gia đình, người mãi được những sinh viên Văn khoa và sinh viên hồ sơ nhập học, tôi vẫn choáng ngợp biết mấy thân thêm nữa vẫn sẽ có động lực biết bao khi toàn trường truyền tay nhau, cùng nhau chia sẻ. vì sự rộng lớn, bề thế của khuôn viên trường trở lại trường, sửa soạn để bắt đầu hành trình Những tấm ảnh lung linh, xinh xắn, những nụ đại học giáo dục hàng đầu cả nước. mới với thầy cô, bè bạn. cười tỏa rạng cũng từ đây mà thêm thắm sắc… Sư phạm đã, đang và sẽ ngày càng nuôi dưỡng Năm 2021, cô học sinh năm nào giờ đã là đàn Hai năm ở Sư phạm, số lần phải tạm dừng học tâm hồn, trí tuệ cho biết bao nhiêu thế hệ bằng chị, đã chuẩn bị bước sang năm thứ ba, vậy là chính những quan tâm và yêu thương của các đã đi được nửa chặng đường. Và trong quãng thầy cô từ những điều rất nhỏ như thế. thời gian ấy, Sư phạm đã khoác lên mình tấm áo mới về diện mạo. Là một sinh viên gắn bó với Sư phạm, chứng kiến những thay đổi ngoạn mục của nơi đây: Có một sự thay đổi khiến bao người mê mẩn. từ diện mạo đến những thay đổi trong phương Có một sự thay đổi mà bao người tấm tắc. Sự pháp dạy và học, chúng ta có quyền hy vọng và thay đổi ấy khiến cánh cổng Sư phạm mỗi một tự hào về một tương lai đầy ánh sáng của mái lần mở ra là tựa như ta đang được bước vào một trường này. khu vườn muôn sắc hương. Đó là sự thay đổi của vườn hoa trước cửa nhà Hiệu bộ. “Thầy cam kết rằng, nơi đây sẽ tạo ra sự bình đẳng, tạo ra không gian thoáng đãng, không gian Mọi người đã có kỷ niệm gì với địa điểm này sáng tạo và phục vụ tốt nhất cho các em. Nơi đây chưa? không có chỗ cho sự sợ hãi, chỉ có yêu thương và trách nhiệm, chỉ có lòng tin và giá trị - các em là Một bức ảnh tập thể...? chủ nhân của mái trường này”. Những khung hình nên thơ…? Với bản thân tôi, vườn hoa Sư phạm luôn Với một tấm lòng yêu thương, chăm chút gắn liền với những bức tâm thư từ thầy Hiệu từng góc nhỏ của ngôi trường này, mái trường trưởng đáng kính. Chúng ta đang sống trong Sư phạm mãi là nơi đong đầy những kỉ niệm những ngày không thể quên, có lẽ là mãi về sau tuyệt vời của mỗi sinh viên trong thước phim này, chúng ta vẫn sẽ không thôi nhắc nhau về tuổi hoa niên rạng rỡ đại dịch đã đi qua. Nhưng sau tất cả những đớn đau, mất mát; cái đọng lại lâu nhất phải chăng 137 chính là những yêu thương trao gửi, những lời quan tâm, dặn dò ấm áp hay sao? “Sang tuần, thầy mời các em quay lại trường nhé. [...] Thầy đã nhờ các cô chú trồng một luống hồng thật đẹp trước đài phun nước để đón các em…”. “Chiều nay thầy vào trường. Dưới những hàng cây ngày nào các em nô đùa nhộn nhịp, giờ vắng hoe và xao xác lá vàng rơi. Cụm hồng đã cắt tỉa để chờ đón các em trở lại nên hoa còn rất thưa vắng, cây đào thì trơ trọi một mình. Không có các em thì trường mình đơn độc lắm, chẳng để cho ai…”.

Những vân gỗ thời gian K hoa Ngữ văn Trường Đại Nhà B vốn không có căng tin, việc mua đồ ăn đối với mấy vặt như bim bim, bánh quẩy. Việc mua học Sư phạm thuộc nhà đứa hay đi học sát giờ lại lười chèo cầu thang như tôi thật hàng ở “căng tin trường bạn” dần trở B của khuôn viên Trường sự nản. Thế mà tình cờ, ngay sát tầng 4 của nhà B chính là thành một thói quen với mỗi giờ nghỉ Đại học Sư phạm. Chiếc căng tin của trường Đại học Quốc gia. Và không biết từ bao của sinh viên nhà B nói chung và Văn áo vàng nhợt nhạt là kết giờ, sinh viên các khóa của nhà B coi đó như là căng tin Khoa khoa nói riêng. Tôi nghĩ lại cũng thấy quả của vài lần sơn sửa vẫn là không mình vậy. Khoảng thời gian hết tết 1 và tiết 6, âm thanh quen ngộ ngộ cái cảnh sinh viên thì cố vươn chống lại được sức mạnh của thời gian. thuộc vang lên rõ ràng: “Bác ơi, bác ơi”. Mới đầu, bác bán người đưa tiền qua lỗ hổng nhỏ của hàng bên đó còn chưa quen, gọi mãi mới ra. Nhưng dần dà, nó hàng rào sắt, còn bác bán hàng thì cố Ngày ngày tháng tháng đến Khoa học trở thành phản xạ với bác, chỉ cần ới một tiếng, bác xuất hiện gắng khom người đưa đồ ăn cho chúng tập, một sinh viên năm 4 như tôi đã ngay. Sinh viên nhà B cũng theo đó trở thành khách hàng tôi. Thậm chí, một năm trở lại đây, bác gần như trở thành “thổ địa” của nhà B. quen thuộc của bác. Những “combo thần thánh” của sinh bán hàng còn dán một tấm giấy A4 với Quá trình khám phá nhà B, điều làm tôi viên nhà B có thể kể đến như: bánh ruốc và sữa Fami, bánh nội dung là có bán đồ ăn và để lại cả số ấn tượng nhất đó là tầng 4 của tòa nhà. kẹp và nước lọc và không thể không kể đến “7749” loại đồ ăn điện thoại nữa. Chắc bác muốn những Từ ngoài trông vào, ai cũng nghĩ tòa khách ruột của bác khỏi phải chờ lâu. nhà này có 5 tầng. Tôi cũng đinh ninh CĂNG như thế cho đến khi được phân việc lên TIN Thật tình không thể phủ nhận sự tồn tầng 5. Cầu thang cao và khá dốc làm tại cực kì duyên và hữu ích của cái căng tôi mệt bở hơi tai, đếm từng tầng một tin được trưng dụng ấy. Tưởng tượng để mong đến nơi. Thế mà 1, 2, 3,… tầng sáng đi học sát giờ, chưa kịp ăn sáng, 4 đâu mất rồi? Nhà B không có tầng 4 giữa các tiết chỉ được nghỉ 10 phút, làm mà chỉ có một đoạn cầu thang để nối sao có thể chạy kịp đi ra khu kí túc để lên tầng 5. Nghĩ thì cũng chẳng có gì mua đồ ăn lót dạ. Hay những lớp học ở đặc biệt, thế mà một trong những kí ức tầng 5, hôm nào quên mua nước lọc cho tôi muốn lưu giữ lâu dài cho sau này thầy cô, hay khát nước bất ngờ, chạy từ của mình lại chính là về nơi ấy. tầng 5 xuống sảnh để gặp bác Nga đúng là ác mộng. Những lúc như thế cái căng Tầng tin nằm ở tầng 4 chính là một sự cứu cánh hoàn hảo. Tôi đi tìm thời thiếu nữ xa xôi Nơi gửi gắm 4 năm thanh xuân Nơi mái trường nghèo, cánh đồng rau ngập nắng thời đại học của mình, tôi chọn Cứ thế, nơi ấy tuy không thuộc sở Khoa Ngữ văn Trường Đại học hữu của nhà B nhưng sinh viên nhà B, Con đường nhỏ mơ màng đêm trăng sáng Sư phạm Hà Nội. sinh viên Văn khoa lại coi đó là “đối tác Tiếng nói cười con gái cứ lao xao... tri kỷ”. Cái dáng vẻ với với, kiễng chân hết mức để có thể gửi tiền và lấy đồ ăn, A7 Khoa Văn những năm tháng khát khao lúc đầu trông cùng kì kì thế rồi lại trở Trái tim no nê sách Đông - Tây kim cổ thành một hình ảnh hết sức đáng yêu Tình bạn, tình yêu đong đầy thương nhớ nằm gọn trong kí ức của tôi. Cơn đói cồn cào hạt muối nhỏ trao nhau... Nhân kỷ niệm 70 năm thành lập Niềm vui thật nhiều bên cạnh nỗi đau Trường Đại học Sư phạm nói chung và Đêm tháng Sáu muôn sắc màu ly biệt Khoa Ngữ văn nói riêng, thương gửi lại mảnh kí ức tươi vui Bên nhau dưới sân trường nghêu ngao lời tha thiết Nước mắt hòa biêng biếc ánh trăng xanh...  Lê Bích Phương, C - K68 Bạn cũ đâu rồi? Ai đã hát về anh? Người con trai ôm đàn ca nồng nàn ngày ấy Gió cuốn, mây bay, cuộc đời đưa đẩy \"... Rồi đây ra trường ai biết về đâu...\" Mấy chục năm rồi... thời thiếu nữ qua mau Gốc nhãn không còn, đường sau thành đại lộ Rực rỡ sân trường sắc màu bỡ ngỡ Tôi đi tìm một thuở... ngẩn ngơ tôi... - Bùi Thanh Hà - (15/8/2017)

Dáng cây Vươcnao Những sinh viên tốt nghiệp từ Khoa Ngữ văn đã luôn cố gắng trong mọi công việc đảm nhiệm, từ giảng dạy, nghiên cứu, cho đến cầm súng bảo vệ Tổ quốc, làm công tác quản lí, sáng tác âm nhạc, sáng tác thơ văn… Họ là những Dáng cây vươn cao. Có những dáng cây đã vươn cao, tỏa bóng, thực sự khẳng định được những đóng góp to lớn. Có những dáng cây vẫn đang nỗ lực vươn cao, không ngừng cố gắng cống hiến một phần công sức nhỏ bé của mình cho đất nước. Không thể kể hết được những Dáng cây vươn cao như thế trong hàng vạn cựu sinh viên đã và đang cống hiến ở khắp nơi, cả trong nước và nước ngoài…

Dáng cây vươn cao Nhà văn, nhà nghiên cứu phê VĂN TÂM bình văn học, nhà giáo ưu tú Nguyễn Văn Tâm sinh cuộc chiến ngày 5/9/1933 - và qua đời ĐỂ GIÀNH TỪNG PHÚT... ngày 24/6/2004 là giảng  Vũ Thanh viên thuộc thế hệ các nhà giáo đầu tiên của Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư cũng trở nên lạc điệu khi con người và văn chương Tản Đà chương và tình người. Văn Tâm bênh phạm Hà Nội. Cuộc đời ông, đặc biệt là không phải là tâm điểm chú ý của dư luận đương thời. Văn vực Vũ Trọng Phụng khi nỗi oan ức của từ khi mắc căn bệnh hiểm nghèo - tai Tâm chính là người đầu tiên đã nghiên cứu Vũ Trọng Phụng nhà văn lên đến đỉnh điểm, khẳng định biến mạch máu não, bị liệt nửa người, và Tản Đà một cách toàn diện và công phu nhất. tài năng và nhân cách của nhà văn; ông không tự đi lại được - thực sự là một đánh giá cao giá trị văn chương và tinh cuộc chiến. Chiến đấu để bảo vệ sự Sau những “tai nạn nghề nghiệp” đó, Văn Tâm dường như thần yêu nước đặc thù của Tản Đà giữa trung thực trong khoa học và trong “ở ẩn”. Ông buộc phải chuyển sang dạy văn ở trường phổ lúc mà người ta có những quan điểm cuộc đời, để giành giật sự sống, vượt thông trung học. Nhà nghiên cứu trẻ tài hoa sau bao ngày không công bằng về nhà thơ; ông “làm lên hoàn cảnh, để có thể có được những buồn bã đã tìm thấy trong công việc mới của mình những sống dậy” “từ trong bóng tối”1 - một giây phút được cầm bút làm việc trở lại ích lợi thiết thực hơn cho cuộc đời sau khi rời xa chốn “đao Đoàn Phú Tứ tài hoa tuyệt vời; ông có và để chứng tỏ mình vẫn đang tồn tại. bút”. Ông cống hiến cả tuổi trẻ của mình cho công việc một thái độ trân trọng trước sau như “trồng người”: đã có rất nhiều thế hệ học trò, trong đó có một đối với bộ phận văn học lãng mạn, Năm 1951, Trường Đại học Sư phạm nhiều học sinh giỏi văn Hà Nội, miền Bắc và toàn quốc đã đặc biệt là Thơ mới, bị coi là tiêu cực; Văn khoa của nước Việt Nam Dân chủ bước vào đời và trở thành những người tài giỏi có ích cho ông bênh vực tác giả Vàng lửa và Kiếm Cộng hòa được thành lập, Văn Tâm xã hội từ sự dìu dắt tận tình và từ những bài giảng sâu sắc sắc, chứng minh tính cao cả trong hồn là lứa sinh viên đầu tiên của Trường, của ông. thơ Phùng Quán - một nhà thơ còn cùng lớp với thầy Nguyễn Đình Chú và chưa được đánh giá đúng mức v.v... nhiều giáo sư nổi tiếng khác sau này. Bẵng đi vài chục năm, cây viết sung sức ấy im hơi, lặng Ông xứng đáng với danh hiệu mà nhà Văn Tâm tốt nghiệp loại Ưu và được tiếng. Tưởng rằng thời gian và sự nặng nề của cuộc đời đã bào văn Xuân Cang dành riêng gọi ông là giữ lại Trường làm công tác giảng dạy. mòn sức lực ông. Bởi có nhiều người rơi vào hoàn cảnh tương “Người rũ bụi đường trường văn học”2. Vào tuổi 24, ông cho xuất bản công tự ông đã trở nên mòn cũ, mất thói quen viết, chào thua cuộc trình nghiên cứu, phê bình đầu tay đời. Nhưng thật mừng là Văn Tâm đã “tái xuất” văn đàn với Văn Tâm là một trong những người xuất sắc Vũ Trọng Phụng, nhà văn hiện một bút lực còn sung mãn, mới mẻ, táo bạo và một vốn tri đi tiên phong góp phần tích cực đổi thực (NXB Kim Đức, 1957). Ông nhanh thức được nhân lên nhiều lần. Chính công cuộc đổi mới của mới nghiên cứu và phê bình văn học, chóng bị cuốn hút vào không khí đấu toàn xã hội đã đem lại cho những người trí thức tâm huyết với đổi mới cách tiếp nhận, cách tân các tranh tư tưởng và học thuật đang diễn công việc như Văn Tâm một vận hội mới. Ông như được hồi tiêu chí thẩm mỹ, bổ sung công cụ cho ra sôi nổi và gay gắt lúc bấy giờ trên các sinh bởi khát vọng đổi mới nền văn học, đổi mới cách nhìn việc nhìn nhận và đánh giá văn học, giảng đường đại học. Với sự chân thành nhận và đánh giá các giá trị văn hóa dân tộc, cũng như mong cũng như đổi mới cách giảng dạy văn và hăng hái của tuổi trẻ, ông đứng ra muốn phục hồi và khám phá trở lại những giá trị văn chương học trong nhà trường. Những bài viết phê phán những biểu hiện không trung đã bị dập vùi hoặc quên lãng một thời đã trở thành máu thịt, của ông vừa mang tính phương pháp thực trong học thuật và dám bênh vực cũng là điều tâm huyết mà ông đã phải chờ đợi bức xúc bao luận, vừa có tính thuyết phục cao bởi những tư tưởng mới, động chạm đến năm trời. Niềm say mê sáng tạo trở lại với Văn Tâm. Ông tự những lập luận sắc bén và những tư ngay cả những người thầy của mình. Và tìm lại mình và giúp bạn đọc tìm lại Tản Đà, Vũ Trọng Phụng, liệu đáng tin cậy mà ông chỉ ra cho bạn sự chân thành đã phải trả giá. Ông buộc Đoàn Phú Tứ, Phùng Quán, Thơ mới và Xuân thu nhã tập..., đọc. Ông là một trong những khuôn phải rời vị trí giảng viên đại học - một khám phá trở lại nhiều nhà văn, nhà thơ khác nữa. Có lẽ, do mặt không thể thiếu của văn học thời vị trí lý tưởng đối với những người làm có sự đồng cảm sâu sắc, nên Văn Tâm thích quan tâm đến kỳ đổi mới. Chỉ trong vài năm quay khoa học lúc bấy giờ để chuyển sang những tài năng mà số phận cuộc đời hoặc số phận tác phẩm lại văn đàn, ông đã cho ra đời vài cuốn công việc khác. Nhà phê bình có cá tính của họ phải chịu sự long đong, vất vả, tìm đến những trào lưu sách gây ấn tượng trong bạn đọc như mạnh mẽ, cương trực, “uy vũ bất năng văn học chịu thiệt thòi do những quan điểm còn cực đoan, Giảng văn văn học lãng mạn (NXB Giáo khuất”, một tài năng đã được thể hiện phiến diện một thời của chúng ta. Qua những hiện tượng văn dục, 1991), Góp lời “thiên cổ sự” (NXB ngay từ tác phẩm đầu tay, tiếc thay, chương đó, ông đã phát hiện ra những vấn đề lớn lao của Văn học, 1992. Tặng thưởng của Hội từ đó cũng bắt đầu một số phận long văn học và xã hội Việt Nam, khám phá ra vẻ đẹp của văn đong, chìm nổi như văn nghiệp nhà văn họ Vũ mà ông yêu quý. Quyết không chịu lùi bước, năm 1964 Văn Tâm cho ra đời công trình dày dặn thứ hai của mình Tản Đà - khối mâu thuẫn lớn (NXB Khoa học, 1964) dưới một bút danh khác: Tầm Dương, nhưng tiếc thay cuốn sách này 140 70 năm Sư phạm Văn khoa

Nhà văn Việt Nam, 1993), Đoàn Phú Một số cuốn sách đã đóng góp của Vũ Trọng Phụng cho sự Tứ - con người và tác phẩm (NXB Văn xuất bản của ông phát triển của thể ký trong văn học Việt học, 1995), Vườn khuya một mình (NXB Nam hiện đại, bài Thơ trong gió của Bằng Văn hóa thông tin, 2001)... Giữa lúc nhà năng lực không chịu đầu hàng hoàn cảnh. Một lần nữa Văn Việt, trong đó nhà phê bình đề cập đến phê bình, nghiên cứu đang hăng hái với Tâm lại chiến thắng số mệnh, nhưng lần này rõ ràng là trong sự trở lại thành công của Bằng Việt và những kết quả học thuật đã đạt được, một hoàn cảnh khắc nghiệt hơn rất nhiều. Ông thuộc vào số dự báo một cuộc cách tân trong thơ ca lúc mà tư duy, trí tuệ của ông dường những người cầm bút hy hữu trên đất nước ta đã viết văn đang tới gần, bài Khuynh hướng cao cả như đã được giải phóng thì bệnh tật lại trong một hoàn cảnh thật đặc biệt. Tôi chợt hiểu ra rằng, bên của hồn thơ Phùng Quán ca ngợi vẻ đẹp cướp đi của ông sức khỏe cần thiết. cạnh sự phóng khoáng, hào hoa, Văn Tâm còn muốn chứng đầy nhân cách của con người và thơ ca tỏ cho bạn bè chiến hữu gần xa - những người đã nghĩ rằng Phùng Quán... Mặc dù bị bạo bệnh, thời kỳ đầu trong hoàn cảnh của ông, có lẽ chỉ tồn tại được đã là khó lắm tưởng như không qua nổi, luôn phải rồi, còn nói gì đến viết lách - biết rằng, Văn Tâm vẫn đang Tôi bỗng hiểu ra rằng, mọi nỗ lực của nhờ người chăm sóc, nhưng Văn Tâm tồn tại đây và không chỉ tồn tại mà còn viết một cách “ngon ông từ luyện tập, chạy chữa để thoát không ngừng làm việc bằng cánh tay lành” nữa. Ông thường ký bên cạnh lời đề tặng chữ Tâm theo khỏi sự tàn phế, ngồi thiền hàng ngày yếu ớt còn chưa bị liệt của mình. Một mẫu tự Hán đã được cách điệu: gồm “Một vầng trăng khuyết để hồi phục sức khỏe, đến việc đọc rất ngày bình thường của ông cũng hết sức ba sao giữa trời”. nhiều sách Phật cuối cùng không phải bận rộn. Ông dành nhiều thời gian để để tồn tại một cách bình thường mà đọc sách, nhất là sách Phật học, đặc Văn Tâm viết thành công ở rất nhiều lĩnh vực nghiên cứu chính là để giành giật lấy từng phút quý biệt là Thiền. Và cũng nhờ có tri thức như: thơ, văn xuôi cả cổ lẫn kim, sân khấu (kịch, chèo), hát báu cho khát vọng được viết, được làm sâu rộng về mặt này mà Văn Tâm đã nói, hội họa, điện ảnh... Những bài viết của ông về hề chèo việc, được say mê tìm kiếm cái đẹp của viết được một loạt bài về ảnh hưởng (Hề chèo - một mảnh hồn dân tộc), hội họa (Tranh hồn quê Việt văn chương. Phật giáo trong văn hóa, văn học Việt Trương Đình Hào), hát nói (Thể phách và tinh anh hát nói - ca Nam. Mỗi phát hiện của Văn Tâm đều trù) là những kỳ công mà người viết chắc chắn phải thâm Ngày cuối cùng trước khi ông mất, gắn với những trải nghiệm của cuộc nhập và nhập thân một cách hết sức sâu vào lĩnh vực mà tôi tới thăm ông. Văn Tâm nắm chặt đời ông và nhiều khi đó là những trải mình tìm hiểu mới có thể viết được. Ông luôn đặt đối tượng bàn tay tôi xúc động ứa nước mắt khi nghiệm cay đắng phải đánh đổi bằng nghiên cứu vào bề rộng và chiều sâu văn hóa dân tộc và nhân tôi báo cho biết đã có nơi nhận in sách một giá rất đắt... loại để làm bật ra những chiều kích mới. Ở bài viết nào sự của ông, ông phải gắng vượt qua đợt hiểu biết của ông cũng đến mức thấu đáo, cặn kẽ và mới mẻ. này để nhìn thấy đứa con tinh thần Văn Tâm viết khá vất vả, như vật Đó là những bài viết cô đọng, tài hoa, giàu thông tin và hết của mình. Văn Tâm khẽ gật đầu, trong lộn với trang giấy. Ông ngồi gò bó trên sức công phu. Đó cũng là những bài viết ngồn ngộn tư liệu đôi mắt không còn linh hoạt của ông, ghế, dùng chiếc ba-toong nối dài thêm nhưng lại mang đậm phong thái lịch lãm, đầy chất nghệ sĩ của tôi bỗng đọc thấy niềm tha thiết được cánh tay mình để khều những dụng cụ người viết. trở dậy tiếp tục làm việc, được tiếp tục cần thiết cho việc viết như chiếc bút viết và hưởng niềm vui từ những trang xóa, thước kẻ, cái kính... Bàn tay phải Ông Kawaguchi Kenichi, Giáo sư Trường Đại học Ngoại ngữ sách của mình. Ông giơ bàn tay yếu ớt run run cầm bút, mỗi khi viết xong Tokyo, khi giới thiệu bài Thể phách thơ Việt Nam - khát vọng tự trên cơ thể đã trở nên bất động vẫy vẫy một bài, thường là mất một thời gian do trên tạp chí Tổng hợp Văn hóa nghiên cứu, số 3/1999 xuất như khích lệ, động viên và vĩnh biệt khá dài, mái tóc bạc của ông càng trở bản tại Tokyo, Nhật Bản đã gọi đó là \"một văn phẩm tuyệt tôi… Đêm ấy Hà Nội nóng kinh khủng, nên bơ phờ hơn, sự mệt mỏi hiện rõ tác\". Những tháng cuối cùng của cuộc đời mình, Văn Tâm người ta thông báo có vài trạm điện trên khuôn mặt. Tôi chợt nhận thấy ở còn căng sức ra để hoàn thiện một loạt bài viết dài hơi, công trong thành phố bị nổ do quá tải và trong con người đang phải gồng mình phu như Ông vua phóng sự đất Bắc với thể ký viết về những con người chiến đấu để giành giật từng để chiến thắng bệnh tật ấy tiềm tàng phút sự sống ấy đã ra đi. một nghị lực phi thường, một sự đam mê cháy bỏng đối với công việc, một Mỗi lần được chứng kiến sự gắng sức của Văn Tâm để được sống, được viết, nước mắt tôi lại trào dâng, thương, phục và tự hào về ông hơn. Sau lúc ông mất tôi luôn nghĩ đến một viễn cảnh để tự an ủi mình: ở phía sau bầu trời có vầng trăng khuyết và những ngôi sao lấp lánh kia, giờ này chắc Văn Tâm đang trò chuyện tâm tình với những nhà văn thân yêu của ông. Họ: Tản Đà, Vũ Trọng Phụng, Đoàn Phú Tứ, Hồ Dzếnh, Phùng Quán... và các nhà thơ Mới, mỗi người một kiểu, đang hồ hởi chào đón nhà phê bình dũng cảm và nhân ái của mình l 1 Chữ dùng của Đỗ Đức Hiểu khi viết về Văn Tâm với cuốn Đoàn Phú Tứ - con người và tác phẩm trong Đổi mới đọc và bình văn, NXB Hội Nhà văn, 1999, tr. 137. 2 Xuân Cang. Tám chữ hà lạc và quỹ đạo đời người, NXB Văn hoá thông tin, 2000, tr. 543. 141

Dáng cây vươn cao TRẦN HÒA BÌNH NHẠC SĨ NGUYỄN TRỌNG BẰNG Ba mươi Trọng Bằng tên đầy đủ là Nguyễn Trọng về Bằng, sinh năm 1931. Ông tốt nghiệp Đại học Sư phạm Văn khoa (nay là Đại học Sư phạm  Châu Hồng Thủy (tức Trần Quý Phúc) Hà Nội) khoá 1 vào năm 1953. Năm 1963, ông trở thành người Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp Sinh viên Văn lớp C, khóa 1972-1976. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Nhạc viện Trai-cốp-xki, là một trong những Chủ tịch Hội VHNT Việt Nam tại LB Nga. TBT Tạp chí Người Bạn Đường nhạc trưởng đầu tiên tại Việt Nam, sáng lập Dàn nhạc Giao hưởng Quốc gia Việt Nam C hưa bao giờ xuất bản thơ thành tập, nhưng Bình và Dàn nhạc Giao hưởng Nhạc viện Hà Nội. rất nổi tiếng trong làng thơ, làng báo, quan hệ Không chỉ là một nhạc trưởng tài ba, ông còn bạn bè lại rộng, vì thế báo chí từ Nam chí Bắc đều sáng tác rất nhiều bài hát với phong cách có bài tiếc thương về sự ra đi đột ngột của Bình. đa dạng: Tây Bắc sáng lại, Tình quê hương, Cách nửa vòng Trái Đất, tôi nhắn con trai thay Những dũng sĩ Núi Thành,... trong thời kỳ mặt ba đi dự tang lễ chú. Giờ đây một mình trong đêm, tôi kháng chiến chống Mỹ; những tác phẩm khí nhạc: Vũ khúc (cello và piano), bồi hồi tưởng nhớ đến Bình. Khúc giai điệu (dàn nhạc nhẹ),... được biểu diễn nhiều nơi cả trong và ngoài nước; và nhiều ca khúc nhạc phim. Đầu những năm 70 của thế kỷ trước, hai chúng tôi cùng Ngoài ra, ông cũng từng đảm nhiệm các vị trí như Tổng Thư ký Hội Nhạc học ở Khoa Văn Đại học Sư phạm Hà Nội I. Bình học sau sĩ Việt Nam, Ủy viên và Trưởng Ban biên tập Hội đồng Quốc gia biên soạn Từ tôi một lớp. Chúng tôi cùng tham gia sinh hoạt “Câu lạc bộ điển Bách khoa Việt Nam, Ủy viên Hội đồng lý luận phê bình văn học nghệ Thơ” của Trường, thường hay tổ chức những đêm sinh hoạt thuật Trung ương, đại biểu Quốc hội khóa X,... và nhiều vị trí quan trọng khác. thơ ca, mời các nhà thơ về nói chuyện. Khi còn là sinh viên, Trần Hoà Bình đã nổi tiếng, thông minh và năng động. Trong CAO HUY ĐỈNH lúc các sinh viên khác chỉ trông chờ vào học bổng, hoặc tiền chu cấp của gia đình, thì Bình đã viết bài cho các báo, tự nuôi Cao Huy Đỉnh (1927 - 1975) là sinh viên khóa 1 Khoa được bản thân một cách dư dật. Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Không chỉ là một chuyên gia lớn về văn học Ấn Độ, ông còn là Ngoài tài làm thơ, làm báo, Bình còn có năng khiếu hội họa. người mở đường cho nghiên cứu văn học dân gian ở Vốn có đầu óc hài hước, hóm hỉnh, Bình vẽ biếm họa từ lúc nước ta với những công trình nghiên cứu lớn: Tìm hiểu còn là học sinh cấp ba, gửi đăng các báo, lấy bút danh Bình thần thoại Ấn Độ, Người anh hùng làng Gióng, Tìm Phủ Quảng. Cùng say mê hội họa, Bình và tôi lại cùng học hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, được Nhà chung lớp Vẽ do Khoa Văn mở. Thầy của chúng tôi là họa nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 1996. sĩ, nhà điêu khắc Phạm Xuân Thi, người có bức tượng Nắm đất miền Nam và Tổ chiến đấu ba người đặt ở Viện bảo tàng Ông từng làm Hiệu trưởng Trường Tiểu học Diễn Mỹ thuật. Hàng tuần, thầy trò ngoài những giờ học vẽ, còn Châu, Nghệ An (1947 - 1949), giáo viên văn học và chính trị tại Trường Thiếu tổ chức đi Văn Miếu và các đình chùa quanh Hà Nội, nghiên sinh quân Liên Khu 4 (1950 - 1952), trợ lý giảng dạy Trường Đại học Sư phạm cứu các hoa văn, họa tiết thời xưa. Cuối khoá, chúng tôi cùng Hà Nội (1956 - 1957). Sau đó, ông công tác tại Viện Văn học từ năm 1959 với các có tranh treo triển lãm. Rất tiếc, chúng tôi sau đó chẳng có ai chức vụ như Trưởng phòng Văn học nước ngoài, Trưởng phòng Văn học dân theo đuổi con đường hội họa nữa. gian. Năm 1973, ông là Trưởng Ban Nghiên cứu Đông - Nam Á, tiền thân của Viện nghiên cứu Đông Nam Á thuộc Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (nay là Tuy vậy, hồi đó chúng tôi cũng chưa thân nhau lắm. Ra Viện Khoa học xã hội Việt Nam). trường, tôi đi Cao đẳng Sư phạm Tây Bắc, Bình về Đại học Sư phạm Hà Nội 2, quen gọi là Đại học Xuân Hoà. Mãi đến năm 142 70 năm Sư phạm Văn khoa 1988, về Hà Nội học sau Đại học Văn khóa 12, khu Ký túc xá A9 tôi ở, chỉ cách nhà Bình vài bước chân, tôi và Bình mới thật sự gần gũi hàng ngày. Hồi ấy, một tuần Bình đạp xe lên dạy Khoa Văn Đại học Sư phạm Xuân Hoà vài buổi, cuối tuần lại về Hà Nội. Quỳnh Liên, vợ Bình làm cán bộ phòng Tuyên huấn của Trường Sư phạm I, được phân một nửa phòng tại tầng 1 khu tập thể nhà B2. Căn phòng khoảng 18 mét vuông, được ngăn ra làm đôi bằng vách nứa cho hai gia đình. Trong điều kiện thời ấy, cả

năm trước… Matxcơva 18/19 tháng 8, 2008, viết ngay sau khi nghe tin bạn mất gia đình có vẻ bằng lòng với không gian nhỏ hẹp đó. Nơi đây, Nhà thơ Trần Hòa Bình (ngoài cùng bên trái) đã có bao nhiêu bạn bè cả hai miền Nam Bắc tụ họp. Bình hay thích những buổi bạn bè bù khú. Những năm ấy, Nguyễn Nhà thơ Trần Hòa Bình (1956 - 2008) là một sinh viên đa tài của Khoa Ngữ Anh Tuấn (đạo diễn điện ảnh), Phạm Công Trứ, Hoàng Thế văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội khóa 1973 - 1977. Ngay từ khi còn là sinh Sinh, Nguyễn Hiền Lương, Vũ Phương, Chu Văn Sơn, Đăng viên, ông đã để lại nhiều tác phẩm gây tiếng vang. Sau khi tốt nghiệp, ông trở Vũ, Ngô Văn Giá, Phạm Gia Mạnh… thường xuyên tụ tập tại thành giảng viên tại các trường đại học, làm thơ và tham gia viết báo. Có thể nhà Bình. Nghèo, nhưng vui. Mỗi tay góp một thứ thành cuộc kể đến các sáng tác tiêu biểu của ông như Thêm một, Bài hát ru hoa sen, Mai nhậu. Chỉ cần một chai rượu, vài gói lạc rang, hoặc vài bìa đậu em về nhà chồng, Không đề, Khau vai,... Đời thơ của ông có thể chia làm hai phụ, hoặc mấy lạng vó bò chấm tương, lai rai bàn chuyện thơ chặng: chặng thứ nhất từ những năm 70 đến năm 86 của thế kỉ XX, chặng thứ ca suốt đêm. Không hiểu tại sao hồi đó chúng tôi có sức chịu hai từ năm 1986 cho đến khi qua đời. Nếu như ở chặng đầu tiên, hồn thơ ông khổ dẻo dai và “ngây thơ” đến thế. Chưa có chuyện lo xin đất đầy “thanh khiết trẻ trung” thì ở chặng thứ hai lại lui về với những ưu tư và làm nhà, chưa phải lo sổ đỏ, chưa mở lò luyện thi, chưa có những bài thơ tình thành công hơn hết thảy. Ngoài sáng tác thơ, ông còn được chuyện chạy đi buôn, người nào nhanh nhạy hơn một tý thì biết đến với tài năng hội họa, viết báo. Ông từng vẽ tranh biếm họa; là giảng tìm cách cuốn thuê thuốc lá, dán vỏ hộp thủ công… Điểm lại, viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền; là một nhà báo tài năng, nổi tiếng trên những ai có mặt tại căn phòng ấy, giờ cũng đều thành những chuyên mục Một trăm câu hỏi thường ngày của Báo Tiền phong với bút danh người có tên có tuổi trong làng văn, làng báo. Tầm Thư. Bình là người làm báo rất “mả”. Đó là từ mà chúng tôi Tiếng nói Việt Nam… Bình “bày mưu” trên cột điện đường Cầu Giấy phát đi dùng để khen cho những tay nhà báo có tài, trong đầu cho phòng truyền thống nhà trường bài Ave Maria, chúng tôi dừng xe để luôn xuất hiện những ý tưởng độc đáo, có cách làm cho đóng một quyển sổ lớn, để tất cả các nghe. Bài hát đã hết lâu rồi, mà chúng bài báo của mình, cho tờ báo mình đang cộng tác sinh động hội viên tự tay chép thơ của mình vào, tôi vẫn còn ngơ ngẩn. và hấp dẫn. Bình nghĩ ra cách kiếm tiền cho anh em bè bạn: có chân dung từng người do Chu Văn Nhận với báo Người giáo viên nhân dân ra số đặc biệt, phân Sơn ký họa. Nổi tiếng trong làng thơ là thế, cho tôi và Thế Sinh viết giới thiệu các nhà văn là nhà giáo, nhưng Bình chưa bao giờ tập hợp thơ nhận với Nhà xuất bản Văn hoá tham gia Almanach Người mẹ Tôi và Bình thường có những cuộc mình để in thành tập. Không phải và phái đẹp (dạng từ điển), chia mỗi người phụ trách một mục rong ruổi trên đường. Có hôm, từ sáng Bình không có tiền để in. Có rất nhiều từ… Chính từ sáng kiến ấy của Bình, mà tôi có bài viết giới sớm, hai đứa đạp xe đạp từ Hà Nội lên người hâm mộ Bình, sẵn sàng bỏ tiền thiệu Nguyễn Huy Thiệp trên báo Người giáo viên nhân dân Đại học Sư phạm Xuân Hoà. Vừa đi vừa ra in giúp, Bình cũng không chịu. khi ông còn chưa gây tranh cãi ồn ào trên báo chí. Nhà thơ về hàng trăm cây số, lẽ ra phải đi tàu Bình cũng không nghĩ đến chuyện gia Vũ Xuân Hoát lúc ấy rất nghèo, cố gắng xoay sở ra được tập hoả, nhưng chúng tôi quyết định đi xe nhập Hội Nhà văn Việt Nam. Đó cũng thơ Cơn giông Hồ Gươm, in trông rất “lem nhem” (thời ấy kỹ đạp để thưởng thức hương đồng gió là một điểm khác biệt của Bình. Dẫu thuật in và điều kiện giấy khó khăn). Bình nghĩ kế, bảo tôi và nội. Có những đêm thơ tổ chức ngoài chưa có tập thơ, nhưng Bình vẫn là Hoàng Thế Sinh ôm thơ đi bán giúp bạn để gỡ lấy vốn. Nhân Hà Nội, lúc về trời đã khuya, chúng tôi nhà thơ đích thực. Nhớ đến Bình, là đêm thơ của Trường, chúng tôi mang thơ Vũ Xuân Hoát đến, còn thong thả đạp xe đi dạo để thưởng người ta nhớ tác giả của bài thơ Thêm đặt ở cửa ra vào, vận động các bạn sinh viên mua ủng hộ. thức mùi hoa sữa và không khí tĩnh một - bài thơ “trời cho” theo cách nói lặng của phố phường. Nhớ nhất đêm của Bình. Đời thơ, chỉ cần được một Trong những năm ở Hà Nội, Thế Sinh và tôi nối tiếp nhau thơ mồng 8 tháng Ba 1989, trên đường bài ở lại trong lòng độc giả, ấy đã là làm Chủ nhiệm Câu lạc bộ Thơ Đại học Sư phạm, Bình luôn từ Hà Nội về, bất chợt loa phát thanh hạnh phúc… là người đứng sau mách nước sao cho các hoạt động sôi nổi và rôm rả: Tổ chức kết nghĩa với Câu lạc bộ Thơ Bách khoa, giao 143 lưu thơ ca với Đại học Tổng hợp, tổ chức đêm thơ các trường Đại học tại Cung Văn hoá Hữu nghị Việt Xô, đọc thơ trên Đài

Dáng cây vươn cao Trước khi là người lính, Vũ Đình Văn là sinh viên Khoa Văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I. CAO XUÂN HẠO Khác với nhiều bạn bè, Văn có một tình yêu say đắm với thơ. Vì yêu thơ mà bài thi vào Khoa Văn, Cao Xuân Hạo (1930 - 2007) là sinh viên năm 1969 của Vũ Đình Văn là một bài thơ dài khóa 4 của Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư viết về người tù, chiến sĩ Cách mạng Nguyễn Đức Thuận phạm Hà Nội. Ông là một giáo sư uyên bác trong tác phẩm Bất khuất; trong khi đề thi yêu cầu “Phân với những công trình nghiên cứu về ngôn ngữ tích một nhân vật yêu thích trong những tác phẩm đã học học nổi tiếng như Tiếng Việt - Sơ thảo ngữ hoặc đã đọc” nên bài làm của Văn đã bị để lại đợt đầu. pháp chức năng (1991), Tiếng Việt - Sơ thảo ngữ pháp chức năng (2006), Tiếng Việt - Mấy Tháng 1 năm 1972, từ giảng đường đại học cùng nhiều vấn đề ngữ âm, ngữ pháp và ngữ nghĩa (1998), sinh viên khác, Vũ Đình Văn vào bộ đội. Cuộc sống của Tiếng Việt - Văn Việt - Người Việt (2001)... người lính vốn vất vả, gian khổ nhưng không làm mất đi cái náo nức, say mê mà làm cho trái tim nhạy cảm của Văn Ngoài ra ông còn là một dịch giả văn rung động để một “đêm gác miền Trung”, một dải núi nơi chương. Tên tuổi của ông gắn liền với nhiều đóng quân, một tiếng tắc kè và ngay cả người thủ trưởng tác phẩm văn học dịch như Người con gái viên đại đội cũng vào thơ anh. đại uý (truyện, 1959), Chiến tranh và hòa bình (tiểu thuyết, dịch chung, 1962), Truyện núi đồi và thảo nguyên (tập truyện Nhớ những ngày đầu trong quân ngũ, GS.TS Trần Đăng ngắn, dịch chung, 1963), Trên những nẻo đường chiến tranh (tiểu thuyết, 1964), Xuyền - nguyên Chủ nhiệm Khoa Ngữ văn, Trường Đại Truyện ngắn Goócki (1966), Con đường đau khổ (tiểu thuyết, 1973), Tội ác và học Sư phạm Hà Nội, người cùng nhập ngũ, vào cùng một hình phạt (tiểu thuyết, dịch chung với Cao Xuân Phổ, xuất bản năm 1983 với đơn vị với Vũ Đình Văn. Ông không quên được những ngày tên Tội ác và trừng phạt do BTV tự ý sửa), Đèn không hắt bóng (1986), Papillon đầu trong quân ngũ với nhiều bỡ ngỡ. Phải làm quen với (1988), Khải Hoàn Môn (tiểu thuyết, 1988)... Năm 1985, ông được trao tặng giải kỷ luật quân đội, với những buổi tập luyện vất vả nhưng ai thưởng về dịch thuật của Hội Nhà văn Việt Nam. nấy đều tự giác vì “thao trường đổ mồ hôi để chiến trường bớt đổ máu”. MA VĂN KHÁNG Ngày ấy, những lá thư ắp đầy thương yêu, mong nhớ của Ma Văn Kháng tên khai sinh là Đinh Trọng người thân, của bè bạn mỗi chiều lại đến, để khi đêm về, Đoàn, sinh ngày 1 tháng 12 năm 1936. Ông là nhất là những đêm người lính Vũ Đình Văn đứng gác, “Sao sinh viên khóa 10 của Khoa Ngữ văn Trường mà thấy nhớ”. Anh nhớ căn phòng nhỏ tầng 2, cái tổ ấm của Đại học Sư phạm Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp gia đình anh. Nơi ấy có người cha vất vả thay mẹ ngày tháng năm 1964, ông về Lào Cai dạy học và viết tảo tần. Và nơi ấy có 13 bậc cầu thang đã có lần “em lên, chạy truyện ngắn. một hơi mà không nóng mặt”. Nơi ấy còn giữ những kỷ niệm của quãng đời thơ bé và cả những ước hẹn bâng khuâng. Từ cuối năm 1976, ông trở về công tác tại Hà Nội, đã từng là Tổng biên tập, Phó Giám Mười ba bậc cầu thang đốc Nhà xuất bản Lao Động và Tổng biên tập tạp chí Văn học nước ngoài của Hội Nhà văn Mười ba bậc cầu thang - em lên Việt Nam (1995). Chạy một hơi mà không nóng mặt Các tác phẩm đã làm nên tên tuổi ông trong Thế rồi khi gặp anh, em quên nền văn học đương đại Việt Nam có thể kể Chẳng nói được, và anh phải nhắc. đến: Xa Phủ (tập truyện ngắn, 1969) Người con trai họ Hạng (tập truyện ngắn, Bước một bước chập chừng em chắc 1972), Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết, 1979), Mưa mùa hạ (tiểu thuyết, 1982), Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983), Võ sỹ lên đài (tiểu thuyết, 1983), Trăng Mẹ giờ đang vá áo cho anh non (tiểu thuyết, 1984), Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết, 1985), Vệ sĩ của Và có lẽ… Thế nào chẳng gặp Quan Châu (truyện ngắn, 1988), Trái chín mùa thu (truyện ngắn, 1988), Côi cút Cha của anh - cha của chúng mình. giữa cảnh đời (tiểu thuyết, 1989), Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989), Giữa dòng đời cuộn chảy (tiểu thuyết, 1991), Heo may gió lộng (truyện ...... ngắn, 1992), Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn, 1994), Ngoại thành (truyện ngắn, Mười ba bậc cầu thang, sang năm 1996), Vòng quay cổ điển (truyện ngắn, 1997), Cỏ dại (tập truyện ngắn, 2005), Bà ngoại (tập truyện ngắn, 2005), Một mình một ngựa (tiểu thuyết, 2007), Năm Mẹ tính đón em về rồi sửa tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (hồi ký, 2009), Mùa thu đảo chiều (tập Cho gần hơn ca tối em làm truyện ngắn, 2012), Chuyện của Lý (tiểu thuyết, 2014), Nỗi nhớ mưa phùn (tiểu Tiếng guốc đêm về khuây bóng cửa. thuyết, 2015), Chim én liệng trời cao (tiểu thuyết, 2017), Mãi mãi một thời thiếu Phút giáp trận bao giờ cũng nhớ sinh quân (kí sự tiểu thuyết, 2019)... Mười ba bậc cầu thang - em lên. Ông đạt được nhiều giải thưởng về văn học như: Giải thưởng Văn học ASEAN năm 1998, Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2001, Giải thưởng ...... Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật. Cũng theo những cánh thư, cái khoảng đời đầu “ai còn nhớ 144 70 năm Sư phạm Văn khoa nữa” đã đến với anh. Anh luôn có cái khoảng đời ấy trên tay. Cụ thể đấy, nhưng cũng lại thật ảo mờ. Anh muốn mang theo trên đường hành quân đánh giặc, rồi lại muốn gửi nó cho người anh yêu. Bài thơ Nửa sau khoảng đời Vũ Đình Văn viết trong “đêm Hà Trung” đầu năm 1972, sau khi tạp chí Văn nghệ Quân đội đăng.

Nửa sau khoảng đời Cùng một dòng thư - mà hai khoảng đời Khoảng trước xa rồi. Ai còn nhớ nữa Cái khoảng có những người đồng đội của tôi Là khoảng đời hôm nay tôi nhớ. Nếu phải chia cho người yêu một nửa Nhớ Thì em ơi, nhận lấy khoảng đời đầu Cái khoảng đầu vời vợi nhìn nhau Đằm thắm thời gian không mùa ranh giới. Ôi cái đêm hành quân rất vội Mắt em, mắt anh ngần ấy vì sao Còi lên đường. Những vì sao xôn xao - Thôi về đi em. Hai đứa cười nóng mặt VŨ ĐÌNH VĂN --- Đêm hành quân, anh nhớ em quá thể Khoảng đời đầu có nhớ khoảng đời sau.  Nguyễn Phương Thảo Ở đây rừng xanh, lại nghe xanh sóng biển Đố em tìm, em chẳng thấy anh đâu. Điếu thuốc Sầm Sơn bảo rằng đêm rất sâu Nhà thơ Vũ Đình Văn (1951 - 1972) là sinh viên khóa 19 Khoa Ngữ văn, Trường Người Hà Trung bảo anh đừng sợ lạc Đại học Sư phạm Hà Nội. Ông cũng là một chiến sĩ đã hi sinh anh dũng trong Ai gọi dải núi trước nhà là Giăng Hạc chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” khi chỉ mới 21 tuổi. Các sáng tác thơ của Để ấm lưng mình một dải Cù Êu. nhà thơ được bạn bè vô cùng yêu thích và ngưỡng mộ. Ông để lại hai tập thơ Ôi cái khoảng đời nửa sau đáng yêu nổi tiếng là Thơ tuổi hai mươi (in chung với Hoàng Nhuận Cầm, xuất bản năm Có những đêm miền trong đầm đậm. 1974) và Nửa sau khoảng đời (xuất bản năm 2007). Thơ ông là tiếng nói của Biển ở Nga Sơn vỗ vào rất ấm: một trái tim giàu tình yêu, sự say mê và nhiệt thành của thế hệ trẻ xông pha nơi chiến trường. Nhiều câu thơ của ông đã trở thành tuyên ngôn cho những - Bọn mi lên đường, tau nhớ mần răng? người lính trẻ lúc bấy giờ, để họ sẵn sàng lên đường chiến đấu cho cuộc kháng Những ngày xưa, một nửa của chúng mình Đằng trước đằng sau Cù Êu, Giăng Hạc Ước gì những lá thư đừng thất lạc chiến vệ quốc vĩ đại của dân tộc. Nối khoảng đời này với khoảng đời xưa. Đêm miền trong là đêm của dừa Dừa vỗ lòng anh ngủ như vậy đó Ôi cái khoảng đời đêm nay cháy đỏ Đình Văn đã nhận khí tài, tổ chức hành Vũ Đình Văn hi sinh, khi niềm vui quân triển khai chiến đấu trên trận địa chiến thắng trong đêm 26/12 đang làm Đợi ngày về anh chia lửa cho em. Mậu Lương (Hà Đông), để đêm 18 rạng nức lòng nhân dân cả nước. Trong số ngày 19/12/1972, cùng với các đơn vị pháo đài bay bị hạ, cùng chiến công bảo vệ bầu trời phía Tây Nam Hà Nội, của đơn vị anh còn chiến công của những con rồng lửa đã bay lên đánh tiểu đoàn Tên lửa 72 đã bắt pháo đài đúng những tốp máy bay B52 vào ném bay B52 phải phơi xác ở làng hoa Ngọc bom Đài Phát thanh Mễ Trì, làm chúng Hà, bên đường Hoàng Hoa Thám. Và, hoảng loạn không ném trúng mục tiêu. không chịu nổi những tổn thất quá Nó đã được bao người lính yêu thích, truyền tay nhau đọc. Nhờ vậy “Tiếng nói Việt Nam” đã đến nặng nề, từ Nhà Trắng những tín hiệu Gần 1/2 thế kỷ đã qua, người đọc cũng như thời gian vốn với nhân dân cả nước và bè bạn năm thừa nhận thất bại, chấp nhận ngồi vào khắt khe và công bằng đã dành cho Nửa sau khoảng đời một châu, tố cáo tội ác dã man của kẻ thù bàn đàm phán đã được phát đi. Để đúng vị trí nhất định. Với Nửa sau khoảng đời, đâu chỉ những người và truyền đi tin chiến thắng. một tháng, sau ngày Vũ Đình Văn hi lính trẻ ngày ấy đã gặp trong đó tâm tình và chân dung của Sau trận đầu, tiểu đoàn của Vũ sinh - ngày 27/1/1973 đế quốc Mỹ phải mình, mà nhiều bạn trẻ từ ngày ấy đến hôm nay vẫn đem lòng Đình Văn được lệnh cơ động về trận ký Hiệp định Paris. yêu mến. địa Thanh Sơn, Ứng Hòa. Ở đây, đêm Biết bao liệt sĩ đã ngã xuống để có Trong một đời thơ có được dù chỉ là một “đứa con tinh 26/12 - đêm chiến thắng oanh liệt của những chiến công, để xây lên truyền thần” như Nửa sau khoảng đời quả là niềm ước của không ít bộ đội Tên lửa - trong số 6 pháo đài thống vẻ vang “Quyết tử cho Tổ quốc thi nhân. bay B52 bị bắn rơi có 1 chiếc B52 bị tiểu quyết sinh” cho các thế hệ sau kế tục, Sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu trong đội đoàn của anh tiêu diệt. giữ vững và phát huy trong sự nghiệp hình quân binh chủng hiệp thành ở chiến trường Quảng Trị, Sáng ngày 27/12, giữa lúc cán bộ, cách mạng mới. Bên những giá trị vĩnh với thành tích bắn rơi 10 máy bay trong đó có 2 máy bay chiến sĩ đang củng cố ngụy trang, cộng hằng ấy, thơ văn của những nhà thơ, B52, tiểu đoàn của Vũ Đình Văn cùng các tiểu đoàn của Đoàn sự chuẩn bị chiến đấu, máy bay Mỹ nhà văn, trong đó có nhà thơ liệt sĩ, Tên lửa Quang Trung “hành quân qua phà Long Đại” ra bảo đã bất ngờ oanh tạc vào trận địa của chiến sĩ Tên lửa Vũ Đình Văn còn góp vệ Hà Nội. Và chỉ 3 ngày, trước khi đế quốc Mỹ cho pháo tiểu đoàn. Vũ Đình Văn cùng 2 cán bộ, phần làm phong phú đời sống tinh thần đài bay B52 ném bom Hà Nội, Hải Phòng, tiểu đoàn của Vũ chiến sĩ của đại đội bệ phóng hi sinh. của đất nước hôm nay  145

TÔ NHUẬN VỸ C hưa rõ nhạc sĩ Dương Thụ xem quãng đời Văn khoa Sư phạm có ý nghĩa gì với âm nhạc của Tô Nhuận Vỹ, tên thật là Tô Thuế Quảng, mình. Nhưng chắc chắn Khoa Ngữ văn - Trường sinh ngày 25 tháng 8 năm 1941, là người Thừa ĐHSP HN luôn coi Dương Thụ là một người Thiên Huế. Ông là sinh viên khóa 10 của Khoa thân trong gia đình, người đã mang lại vinh dự Ngữ văn Đại học Sư phạm Hà Nội. Sau khi tốt cho Khoa, cho Trường. Dù chốn này không phải là nơi đào nghiệp năm 1964, ông về dạy văn ở Thanh Hóa. tạo những nhạc sĩ chuyên nghiệp, và sau một quãng thời gian dạy Văn không dài, Dương Thụ đã tỏa sáng bằng âm Ông từng giữ nhiều chức vị cao trong lĩnh vực nhạc, nhưng cái tên Dương Thụ vẫn luôn là một niềm tự hào văn học như Ủy viên Thường vụ, Phó Chủ tịch Hội của người Sư phạm. Văn chương có thể không trực tiếp tạo Văn nghệ Bình - Trị - Thiên (1976 - 1985), Tổng nên những giai điệu, Sư phạm có thể không trực tiếp tạo nên Biên tập tạp chí Sông Hương (1986 - 1990), Chủ những nhạc phẩm, nhưng nét Sư phạm Văn khoa có lẽ đã lặn tịch Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế (1989),... Ngoài sâu vào cốt cách con người và hồn cốt âm nhạc của ông. Đâu ra ông cũng từng làm Giám đốc Sở Ngoại vụ Thừa phải ngẫu nhiên, trong bộ tứ âm nhạc lừng danh của Hà Nội Thiên Huế và hiện nay đang làm Ủy viên Thường cùng trang lứa, Dương Thụ có biệt danh “giáo sư”. Có “biệt vụ Hội Hữu nghị Việt - Trung Việt Nam. danh” ấy đâu chỉ do ông xuất thân nghề giáo, mà chủ yếu do Cả cuộc đời ông đi, viết, sáng tạo liên tục bằng bút lực dồi dào, giọng văn cái cốt cách lịch lãm nho nhã của con người, cái phong cách mạnh mẽ, để lại nhiều tác phẩm văn học có giá trị như: Người sông Hương (1970), thanh thoát tao nhã của âm nhạc Dương Thụ. Em bé làng đảo (tập truyện ngắn, 1971), Dòng sông phẳng lặng (3 tập, tiểu thuyết, 1974 - 1981), Ngoại ô (tiểu thuyết, 1982), Phía ấy là chân trời (tiểu thuyết, 1988)… Với hồn cốt ấy, Dương Thụ đã đem đến cho âm nhạc của Ông vinh dự giành nhiều giải thưởng văn học lớn của nước nhà và là cầu nối mình một phong vị riêng. Người ta có thể thấy trong mỗi quan trọng giữa trung tâm William Joiner Center (Mỹ) với Việt Nam. nhạc phẩm của ông từ giai điệu đến tiết tấu, từ khúc thức đến cấu trúc một chút dân gian, một chút nhạc nhẹ, một chút NGUYỄN KHOA ĐIỀM thính phòng. Nhưng, tất cả đều đã nhu nhuyễn Nguyễn Khoa Điềm (tên khác là Nguyễn trong một hồn nhạc đượm một chất thơ Hải Dương), sinh năm 1943, là sinh viên khóa tinh trong, trang nhã, trẻ trung, phảng 11 của Khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phất nét quý phái. Những điều ấy khiến phạm Hà Nội, cùng khóa với Phạm Tiến Duật, người ta nhận ra gương mặt âm nhạc Lê Anh Xuân. đặc sắc của Dương Thụ bên cạnh điệu hào huê của Phú Quang, tạng khoáng Sau khi tốt nghiệp Đại học vào năm 1964, đạt của Phó Đức Phương, chất hào ông vào miền Nam, tham gia phong trào học sảng của Nguyễn Cường, vẻ mộc sinh, sinh viên Huế, gia nhập quân đội, viết sáng của Trần Tiến… Và những báo và làm thơ. Những tác phẩm tiêu biểu nét riêng ấy là gì, nếu không trong gia tài thơ ca của ông có thể kể đến: phải là những tinh chất trường ca Mặt đường khát vọng, tập thơ Ngôi được lắng lại thành nhà có ngọn lửa ấm, Cõi lặng,... một cốt cách âm nhạc riêng đủ Năm 1975, ông trở thành hội viên Hội Nhà để bạn hữu văn Việt Nam và sau đó có mặt trong Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa 3. định danh ông là Dương Thụ Ngoài ra, ông cũng từng nắm giữ rất nhiều chức vị quan trọng trong bộ máy giáo sư ? nhà nước như Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin (1996), Ủy viên Bộ Chính trị, Bí Sẽ là thiếu sót thư Trung ương, Trưởng Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2001 - 2006),... PHẠM TIẾN DUẬT Phạm Tiến Duật (1941 - 2007) là sinh viên khóa 11 của Khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Năm 1964, sau khi tốt nghiệp Đại học, ông quyết định không theo nghề giáo mà nhập ngũ, sống và chiến đấu chủ yếu trên tuyến đường Trường Sơn. Đây là khoảng thời gian ông sáng tác nhiều tác phẩm nổi tiếng: Vầng trăng quầng lửa (thơ, 1970, nổi tiếng nhất với Bài thơ về tiểu đội xe không kính), Ở hai đầu núi (thơ, 1981), Vầng trăng và những quầng lửa (thơ, 1983), Thơ một chặng đường (tập tuyển, 1994), Nhóm lửa (thơ, 1996), Tiếng bom và tiếng chuông chùa (trường ca, 1997), Vừa làm vừa ghi (tập tiểu luận, 2003)... Chiến tranh kết thúc, ông về làm việc tại Ban Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam, về sau trở thành Phó trưởng Ban Đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam. Phạm Tiến Duật được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001 và được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2012. Năm 2007, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã ký tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhì cho nhà thơ. 146 70 năm Sư phạm Văn khoa

DƯƠNG THỤ Trởvề SƯ PHẠM VĂN KHOA  Chu Văn Sơn, Đỗ Hải Phong nếu không nói đến ca từ trong các ca nguồn sống âm nhạc và nguồn sống thi Nhạc sĩ Dương Thụ, sinh năm 1943, được mọi người khúc Dương Thụ. Nói rằng ca từ của ông ca. Chúng ta cũng thật vui khi tin rằng biết đến với những bút danh khác như Trần Xuân đẹp như thơ, thì cầm bằng chưa nói gì. nếu không có con người Văn khoa ẩn Nam, Vân Đình, Ái Nhạc. Vì những nhạc sĩ nổi tiếng về ca khúc, sau mỗi một thao tác của lao động ngôn ít ai không có ca từ giàu chất thơ. Điều từ, có lẽ ca từ của Dương Thụ chưa hẳn Năm 1965, ông tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Trường Đại cần nói là cái vị riêng của mỗi chất thơ đã dậy lên một sắc điệu như vậy. Những học Sư phạm Hà Nội, sau đó ông về Tuyên Quang ấy. Chất thơ của Dương Thụ tươi tắn điều ấy góp phần làm nên vẻ đẹp riêng dạy học. mà da diết, bay bổng mà sâu đằm. Đó của âm nhạc Dương Thụ, tạo nên một là chất thơ vẫn còn lưu giữ được từ một vị trí nổi bật của ông trong đời sống âm Năm 1972, ông thi đỗ vào Khoa Sáng tác của Nhạc tuổi thơ tươi đẹp gắn với thiên nhiên nhạc hiện đại. viện Hà Nội. Theo học được một năm, đến năm thứ thôn dã, từ một tuổi trẻ đầy đam mê và hai thì ông phải nghỉ học vì một số lí do hành chính. khát vọng mà những thăng trầm của đời Con đường từ Sư phạm Văn khoa Dương Thụ trở về Tuyên Quang làm giáo viên dạy người không thể làm cho nó phôi pha, đến với âm nhạc của Dương Thụ không Văn. Năm 1978, ông vào miền Nam làm giảng viên biến dạng, trái lại chỉ làm cho nó thêm dễ dàng. Đó là hành trình đấu tranh Khoa Lí luận Đại học Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí thắm đượm, tươi ròng. Đó là chất thơ để được sống đúng với đam mê, khát Minh. Cuối cùng, ông chuyển sang hoạt động âm khi vào điệu ru thì thổn thức, vào tình vọng của mình, hành trình tìm đến với nhạc chính thức vào năm 1982, vừa sáng tác vừa chỉ ca thì xốn xang, tạo vũ điệu cho tiết tấu, cái tôi của chính mình. Đáng nể trọng đạo nghệ thuật cho nhiều đoàn biểu diễn, rồi làm tạo mê hoặc cho âm thanh. Và chất thơ nhất là nhạc sĩ đánh giá phần đời đã trải biên tập cho Nhà xuất bản Âm nhạc và Ðĩa ấy khi hóa thân vào ngôn ngữ thì biết nghiệm cho đến nay với tất cả những hát Việt Nam, Tạp chí Âm nhạc của tìm cho mình những lời trong, dịu, khúc buồn vui, sướng khổ của mình “là một Hội Nhạc sĩ Việt Nam. chiết mà súc tích, vừa giàu chất tạo hình phép tính cộng”. Chúng tôi tự hào rằng vừa đầy dư ba. Vì thế, chúng ta thật vui Sư phạm Văn khoa đã để lại một “dấu 147 khi thấy mỗi ca khúc của Dương Thụ cộng” không nhỏ trong cuộc đời của đều là một bài thơ có hai nguồn sống: người nghệ sĩ (16/11/2016)

Dáng cây vươn cao “TRỊNH CÔNG LỘC - LẶNG LẼ MỘT ĐỜI THƠ” Trong lịch sử 70 năm Sư phạm Văn khoa, có hai lần giải Nhất thơ toàn quốc được vinh danh ở đây: Lần thứ nhất là dành cho cựu sinh viên - nhà thơ Phạm Tiến Duật năm 1970, ai cũng biết. Lần thứ hai, sau tròn nửa thế kỷ, vinh dự đó dành cho cựu sinh viên - nhà thơ Trịnh Công Lộc ở cuộc thi Sáng tác về biên giới, biển đảo toàn quốc năm 2020. Nhà thơ Trịnh Công Lộc sinh năm 1952, quê ở Thái Bình, sinh viên Khoa Văn khoá 1970 - 1974 của chúng tôi. Chúng tôi gọi khoá mình là “A7 Tuổi 20, Một thời hoa lửa”. Chúng tôi tự hào vì Khoa mình, Khoá mình đã góp phần sinh ra một Nhà thơ - giải Nhất thơ toàn quốc! Chúng tôi gọi bạn là “Trịnh Công Lộc, lặng lẽ một đời thơ”! Đạo diễn, Trung tá Phạm Hồng Thắng - PGS.TS Vũ Thị Phương Hậu - Viện trưởng Viện Văn hóa và Phát triển Điện ảnh Quân đội nhận giải Cánh diều Bạc - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh 148 70 năm Sư phạm Văn khoa Tháng năm luôn là hờ hững của hiện tại, có lẽ là vậy, nên cái luôn tha thiết nhớ lại thuộc về quá khứ. Và thời gian đã biến những cô cậu sinh viên ngày ấy thành các thầy các cô, những người giữ nhiều trọng trách ở nhiều cơ quan, đơn vị khác nhau của hai mươi lăm năm sau. Có dịp gặp lại là rưng rưng, ngậm ngùi: “Vẫn thế, chẳng thấy già”!!! (Chắc khen nhau cái “tâm hồn”, chứ khi cùng xem lại ảnh, đều bảo: “ngày xưa…”). ... Nhớ thật đấy, ngày xưa… Một trăm ba hai cả thảy, mà giờ… đã có người đi mãi chẳng về. Có người ốm, người đau, nan y cũng không từ một ai, vậy nên nhớ đến nhau nhiều ngậm ngùi, đắng xót. Riêng về chuyện gia đình thì sướng khổ, vui, buồn, thân ai phận nấy. Bạn vui - mừng, bạn buồn - thương mà không phải lúc nào cũng chia sẻ được. Chẳng ai có lỗi, vì công việc bận rộn, vì khoảng cách địa lý, lại cũng vì đôi khi bặt cả tin nhau… Có người thành đạt lắm, dù rời nghề giáo đã lâu: bà Phó Chủ tịch HĐND tỉnh Tuyên Quang Lê Thị Thanh Trà; ông Chủ tịch huyện Phúc Thọ (Hà Nội) Doãn Trung Tuấn, bà PGĐ Sở KHCN thành phố hoa phượng đỏ PGS.TS Nguyễn Thị Hiên; ông PGĐ Đài Truyền hình Phú Thọ Lê Hồng Khanh; Ông Giám đốc Công ty Đào tạo và Truyền thông Bạch Kim Nguyễn Thanh An. Đạo diễn Phạm Hồng Thắng giờ nổi như cồn bởi những tác phẩm báo chí đạt giải Nhất, Nhì toàn quốc. Ước mơ nhận giải Bông sen bạc của bạn ấy đã trở thành hiện thực khi bộ phim khoa học do Thắng làm đạo diễn trình làng với cái tên gây sốt: Nuôi cấy tinh tử từ tế bào… ĐA SỐ CÒN LẠI VẪN THẮM VỚI NGHỀ CHÈO ĐÒ Có bạn đã là PGS, TS, giữ những trọng trách lớn trong ngành giáo dục. Phùng Kiên lãng đãng giờ đã là PGS.TS, một nhà nghiên cứu có tiếng tại Viện Văn học. Bạn Vũ Phương Hậu, PGS.TS, Viện trưởng Viện Văn hóa và phát triển, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Một số bạn ở các trường đại học địa phương cũng giữ những vị trí trọng yếu về quản lý và chuyên môn. Rất nhiều bạn giờ là Hiệu trưởng, Hiệu phó các trường, cấp II có, cấp III có, như bạn Ngọc Thúy (Hiệu trưởng THCS Nguyễn Phong Sắc, Hà Nội), Phạm Thị Ngân, (THPT chuyên Biên Hoà, Hà Nam), Phạm Thị Hải Vân (Phó HT trường THCS Gia Thuỵ, Hà Nội), Xuân Đảng (Hiệu phó THCS Hải Bối, Hà Nội), Bùi Hồng Thủy (Hiệu trưởng THCS Khương Thượng, Hà Nội), Trần Hằng (Hiệu trưởng THCS Tam Đồng, HN), Nguyễn Thị Hiền (Hiệu phó THPT Chuyên Thái Bình), Phan Hồng Hiệp (Hiệu trưởng THPT Tam Dương, Vĩnh Phúc), Nguyễn Thanh

Chủ tịch UBND Huyện Phúc Thọ Doãn Trung tuấn phát biểu tại kỳ họp - Ảnh: Tú Mai Thừa ủy quyền của Chủ tịch UBND thành phố, Phó Chủ tịch UBND thành phố Lê Khắc Nam trao Quyết định bổ nhiệm cho tân Hiệu trưởng, PGS.TS Nguyễn Thị Hiền Nhà báo Lê Hồng Khanh - Phó Giám đốc, Phó Tổng biên tập Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh Phú Thọ (đứng) phát biểu tại Hội nghị giao ban công tác báo chí tháng 08/2020 Còn mãi VỚI THÁNG NĂM…  Nguyễn Thị Thúy Hằng Hải (Hiệu phó THCS tại huyện Lục Ngạn, Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang Chẩu Văn Lâm tặng hoa chúc mừng Bắc Giang), Bùi Thanh Hà (Hiệu phó THPT ở bà Lê Thị Thanh Trà được bầu giữ chức vụ Phó Chủ tịch HĐND tỉnh huyện Tam Nông, Phú Thọ), Đặng Yến (Hiệu trưởng THPT Vân Nội, Đông Anh), Hồ Thị Giờ cũng có thể coi là đã chín với người, với xa, thế mà đỡ đần nhau được khối. Và nếu có Bích Thuỷ (Phó Hiệu trưởng Trường Dự bị nghề. Nhiều người con cái đã lớn, sắp lên chức được gặp, đôi chút suồng sã cũng đủ dễ chịu Đại học Trung ương, Việt Trì), Đỗ Hương Vân ông, chức bà. Có thể cái tuổi thêm đông, con chứ không chạnh lòng hay tự ái. Càng nhiều (Hiệu trưởng THPT Phạm Quang Thẩm, Thái cái rảnh rang hơn, lại có Zalo, Facebook nên ới tuổi, càng chín chắn, càng thấy cái cần giữ, Bình), Nguyễn Thị Hải Yến (Hiệu phó trường nhau thường xuyên, dù chỉ là nhóm, là phòng cần trọng, bỏ qua những khách sáo, rườm rà. Hữu Nghị T78), Mai Nguyệt (Hiệu phó THPT cũ KTX trước đây. Gặp nhau chớp nhoáng - vì Chúng tôi gọi đó là chữ TÌNH. Lương Thế Vinh, Điện Biên), Phạm Thị Giang ít khi qua đêm được lắm - vội vàng nhưng tha (Hiệu trưởng THPT Nho Quan B, Ninh Bình), thiết. Cũng có khi một cuộc điện thoại từ nơi Hẹn hò cho 70 năm, chắc cũng không cần Hồ Thị Thuý (Hiệu phó THPT Quang Trung, nhắn nhủ nhiều. Vì chính nỗi nhớ sẽ tìm về… Hà Đông (Có người chỉ chuyên dạy, đắm đuối với nghề, trò nào cũng thương, cũng nhớ… ). 149

GS.TS BAE YANG SOO GS.TS Bae Yang Soo, sinh năm 1959, bảo vệ thành công Luận án Tiến sĩ tại Khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 2001. GS.TS Bae Yang Soo là Giáo sư của Trường ĐH Ngoại ngữ BUSAN, Hàn Quốc. Giáo sư đã và đang đảm nhận nhiều trọng trách: Trưởng Khoa Tiếng Việt, Trưởng phòng Phòng khai thác cách giảng dạy và học tập, Trưởng Khoa Đông Nam Á, Viện trưởng Viện giáo dục ngôn ngữ đặc biệt, Viện trưởng Viện Nghiên cứu ASEAN, Ủy viên Ủy ban thẩm định Giáo trình ngôn ngữ thứ II của Bộ Giáo dục, Giáo sư thỉnh giảng Trường Texas Tech University. NGUYỄN VĂN SONG ĐẦU LÀNG Sinh năm 1974, sinh viên Khoa Ngữ văn Đầu làng một gọng vó bè - Khóa 46. Hiện đang làm Phó Hiệu trưởng Kĩu cà kéo cả bốn bề trăng trong Trường THPT Phù Cừ, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên. Túp lều nằm nép mé sông Ông ngồi vớt những ước mong đời thường Đạt Giải Trăng vàng cuộc thi thơ lục bát “Tổ quốc và đạo pháp” 2018; Giải Khuyến khích Điếu cày rít xé đêm sương cuộc thi thơ Haiku Việt Nhật 2019; Giải Nhì Gió khuya tiếng cá quẫy vương lưới mềm (không có giải Nhất) cuộc thi thơ Báo Văn nghệ 2019-2020; Giải Ba cuộc thi thơ “Tổ quốc và Sao trời thức đáy sông đêm Mẹ” của tạp chí Văn nghệ Thái Nguyên 2020; Lòng ông thức với những niềm đầy vơi Giải Ba cuộc thi thơ lục bát Hải Phòng 2020; Giải Nhất cuộc thi thơ lục bát “Quê hương và Bạn đời sớm bỏ theo người tình yêu” của tạp chí Áo trắng 2020… Con thơ nheo nhếch, miệng đời mỉa mai NGUYỄN THỊ MINH THÚY Gia tài ắp tiếng thở dài Mái buồn vách thủng gió hoài canh thâu “Người Khoa Văn” là hiệu trưởng đưa ngôi trường thuần Việt ra biển lớn. Bến quê tay kéo khoan mau Bốn mùa con nước dòng sâu cuộn dềnh Nguyễn Thị Minh Thúy là sinh viên lớp Văn A K47 Khoa Ngữ văn - Đại học Sư phạm Hà Nội. Đôi khi gọng vó lặng thinh Năm 2013, Minh Thúy được bổ nhiệm làm Hiệu Nằm nghe cây gạo giật mình rụng hoa trưởng Trường THCS - THPT Nguyễn Siêu. Bây giờ mỗi độ tháng ba Ngôi trường Nguyễn Siêu được Minh Thúy Đầu làng vẫn gạo đỏ hoa rụng đầy dìu dắt bằng những cách thức, phương pháp Bóng người khuất nẻo chân mây đột phá, nay đã vươn tầm mạnh mẽ, trở thành Chỉ còn gọng vó trơ gầy nằm khô. một trường song ngữ quốc tế hàng đầu, kết quả đào tạo chương trình Cambridge của nhà trường có đầu ra luôn cao hơn trung bình chung của thế giới. 150 70 năm Sư phạm Văn khoa


Like this book? You can publish your book online for free in a few minutes!
Create your own flipbook