Important Announcement
PubHTML5 Scheduled Server Maintenance on (GMT) Sunday, June 26th, 2:00 am - 8:00 am.
PubHTML5 site will be inoperative during the times indicated!

Home Explore Kỷ yếu 70 năm SPVK (sửa 24112021)

Kỷ yếu 70 năm SPVK (sửa 24112021)

Published by Huong Nguyen, 2021-11-24 04:06:46

Description: Kỷ yếu 70 năm ngày thành lập Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (bản sửa ngày 24/11/2021)

Keywords: Kỷ yếu, 70 năm SPVK

Search

Read the Text Version

đảm nhiệm các chương trình đào tạo của DANH SÁCH CÁN BỘ CỦA BỘ MÔN Khoa, gồm: HIỆN ĐANG CÔNG TÁC 1. Cử nhân: gồm Cử nhân chính quy (4 năm), Cử nhân chất lượng cao (4 năm) PGS.TS PGS.TS Dương Tuấn Anh Cử nhân tại chức (Vừa làm vừa học), Cử - Phó Trưởng Khoa, nhân văn bằng hai, Cử nhân từ xa, Cử nhân Hà Văn Minh Chủ tịch Công đoàn Khoa, Lưỡng quốc (Việt - Hàn),... - Phó Bí thư Bí thư Chi bộ Ngữ văn 3 Đảng ủy Khoa; Phó Trưởng Khoa; - Nguyên Phó Trưởng khoa 2. Thạc sĩ: Cao học hệ chính quy (2 năm). Ủy viên Hội đồng biên tập Tạp chí Hán Nôm. Việt Nam học 3. Nghiên cứu sinh: tập trung (4 năm - Nguyên: Trưởng Bộ môn (2008 - 2017); cho Cử nhân, 3 năm cho Thạc sĩ); không Phó Trưởng Bộ môn (2004 - 2008); Giám đốc tập trung (5 năm cho Cử nhân, 4 năm cho Trung tâm Nghiên cứu và Giảng dạy Hán Thạc sĩ). Nôm - ĐHSPHN (2008 - 2018); Phó Giám đốc Đến đầu thế kỉ 21 này, các môn học Ngữ Trung tâm Nghiên cứu và Giảng dạy Hán văn Hán Nôm và Cơ sở văn hóa Việt Nôm - ĐHSPHN (2004 - 2008); Bí thư Chi bộ Nam  đã có được vị trí quan trọng trong Ngôn ngữ - Hán Nôm (2012 - 2017); Bí thư chương trình đào tạo giáo viên Ngữ văn Đoàn Thanh niên (1998 - 2001); Bí thư Chi trong các trường Cao đẳng và Đại học Sư đoàn Cán bộ (1998 - 2001) phạm của cả nước. Với những thành tựu như trên, bộ môn đã góp phần khẳng định NCS Đỗ Thu Hà vai trò không thể thiếu của môn học đối với - Nguyên Bí thư Chi đoàn Cán bộ những người giảng dạy, học tập và nghiên cứu các ngành thuộc khoa học xã hội. PGS.TS Nguyễn Thị Thanh Chung - Trưởng Bộ môn III. ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU - Nguyên: Phó Trưởng Bộ môn (2010 - 2020); KHOA HỌC VÀ HƯỚNG PHÁT Bí thư Chi đoàn Cán bộ TRIỂN CHUYÊN NGÀNH TS Nguyễn Thị Tú Mai Điểm nổi bật của bộ môn là tinh thần đoàn - Nguyên: Phó Giám đốc Trung tâm kết, ý chí phấn đấu vươn lên, không ngừng Nghiên cứu và Giảng dạy Hán Nôm - nỗ lực tự hoàn thiện về mọi mặt. Truyền ĐHSPHN (2017 - 2018); thống đoàn kết và truyền thống tự lực là hai Bí thư Chi đoàn Cán bộ giá trị cơ bản đã được tạo dựng, trao truyền, gìn giữ từ thế hệ đầu tiên đến các thế hệ tiếp theo. Tiếp nối những thành tựu đó, bộ môn xác định hướng nghiên cứu khoa học và phát triển chuyên ngành như sau: - Định hướng phát triển nghiên cứu chuyên sâu về Hán Nôm học, Văn hóa học ở các hướng tiếp nhận như văn bản học, văn tự học, nhân học... Đồng thời, phát triển hướng nghiên cứu liên ngành Hán Nôm, Văn học, Văn hóa, Lịch sử, Ngôn ngữ… - Định hướng nghiên cứu chuyên sâu về khoa học cơ bản gắn với giáo dục phổ thông. Hướng nghiên cứu này nhằm giúp cho các sinh viên sau khi tốt nghiệp có thể vận dụng được những tri thức Hán Nôm, hướng tiếp cận và vận dụng tri thức chuyên ngành Văn hóa trong dạy học Ngữ văn tại nhà trường phổ thông. - Định hướng xây dựng và phát triển nhóm nghiên cứu mạnh về Hán Nôm, Văn hóa với những đặc thù trong nghiên cứu và giảng dạy. Những thành viên trong các nhóm nghiên cứu đồng thời kết hợp, hỗ trợ nhau trong nghiên cứu và giảng dạy l GVC.TS Phùng Diệu Linh - Nguyên Bí thư Chi đoàn Cán bộ 51

PGS.NGƯT Đặng Đức Siêu Thầy thuộc thế hệ đầu tiên của nhóm Cổ văn (tiền thân Bộ môn Hán Nôm, sau là Bộ môn (1934 - 2008) Hán Nôm - Cơ sở văn hóa Việt Nam), giữ cương vị Trưởng Bộ môn từ năm 1978 đến 2004. Nguyên quán: Thầy là người có công mở mã ngành đào tạo Tiến sĩ chuyên ngành Hán Nôm đầu tiên trên cả nước tại Khoa Ngữ văn từ năm 1976. Hành Thiện, Xuân Trường, Nam Định Thầy là người tiên phong của Khoa Ngữ văn Trường ĐHSPHN trong việc nghiên cứu và giảng dạy môn Cơ sở văn hóa Việt Nam. Năm 1992, thầy được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo giao kiêm nhiệm Giám đốc Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam mới thành lập. Năm 1996, thầy cùng các nhà nghiên cứu danh tiếng Trần Quốc Vượng, Trần Ngọc Thêm… triển khai đưa môn Cơ sở văn hóa Việt Nam vào dạy học trong các trường Đại học và Cao đẳng.  CÔNG TRÌNH TIÊU BIỂU: Giáo trình cổ văn (1970), Sổ tay văn hoá Việt Nam (1978), Chữ viết trong các nền văn hoá (1982), Thực hành ngữ văn Hán Nôm (1990), Việt Nam di tích và thắng cảnh (1991), Ngữ văn Hán Nôm (1995), Tổng tập văn học Việt Nam (tập 14, 1997), Ngữ liệu văn học (1998), Dạy và học từ Hán Việt ở trường phổ thông (2001), Hành trình văn hóa Việt Nam: Giản yếu (2002), Giáo trình cơ sở văn hóa Việt Nam (2003), Văn hóa cổ truyền phương Đông: Trung Quốc (2004), Văn hóa Trung Hoa: Giản yếu (2005), Giáo trình ngữ văn Hán Nôm (2007), Tinh hoa văn hoá Phương Đông: Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản (2007)….  DANH HIỆU, GIẢI THƯỞNG Thầy được phong danh hiệu Nhà giáo Ưu tú năm 1997, tặng Huân chương Lao động hạng Ba năm 2001. DANH SÁCH CÁN BỘ TỪNG CÔNG TÁC TẠI BỘ MÔN 1 GS.NGND Lê Trí Viễn Nguyên Trưởng Khoa; Bí thư Đảng ủy Khoa; Trưởng Bộ môn; Giảng viên Đại học Sư phạm TP.HCM (Mất năm 2012) 2 Nhà giáo Phạm Thị Hảo Nguyên Phụ trách Nhóm Cổ văn, Giảng viên Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh (Mất năm 2012) 3 PGS.NGUT Đặng Đức Siêu Nguyên Trưởng Bộ môn; Phó Trưởng Bộ môn Văn hóa học (ĐHQG Hà Nội); Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Giảng dạy Hán Nôm - ĐHSPHN (Mất năm 2008) 4 GS.TS.NGND Nguyễn Ngọc San Nguyên Trưởng nhóm ngoại ngữ kiêm biên dịch Trung văn, Phó Trưởng Bộ môn; Giải thưởng Nhà nước (Hưu trí) 5 Nhà giáo Đoàn Thị Mai Nguyên Phó Chủ tịch Công đoàn; Bí thư Chi bộ (Hưu trí) 6 Nhà giáo Bùi Thanh Hùng Nguyên Trưởng Bộ môn (Hưu trí) 7 Nhà giáo Lê Thanh Bình Hưu trí 8 Nhà giáo Vương Mộng Bưu Hưu trí 9 Nhà giáo Phạm Văn Liệu Giáo viên Ngữ văn, Ninh Bình (Hưu trí) 10 Nhà giáo Kiều Lục Hưu trí 11 Nhà giáo Phan Hữu Nghệ Hưu trí 12 Nhà giáo Phạm Thuý Nghi Hưu trí 13 Nhà giáo Lê Văn Sơn Hưu trí 14 Nhà giáo Lê Tiến Sơn Hưu trí 15 Nhà giáo Trần Phương Thi Hưu trí 16 Nhà giáo Nguyễn Văn Thiệu Hưu trí 17 Nhà giáo Phạm Anh Tuấn Hưu trí 18 Nhà giáo Huỳnh Văn Trứ Hưu trí 19 NCS Vũ Huy Vĩ Giảng viên Đại học Thủy Lợi (Giảng viên Khoa Ngữ văn - ĐHSPHN, 2010 - 2015) Cán bộ nghiên cứu ĐHQG Hà Nội (Giảng viên Khoa Ngữ văn - ĐHSPHN, 2013 - 2016) 52 20 ThS Lê Tùng Lâm 70 năm Sư phạm Văn khoa

BỘ MÔN PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NGỮ VĂN I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH Lễ kỉ niệm ngày Nhà giáo Việt Nam năm 2020 Quang Ninh C, thầy Nguyễn Tiến Mâu, VÀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ thầy Nguyễn Quang Ninh B, cô Nguyễn sống gian nan của cán bộ giảng dạy và sinh viên có được sự Thị Ngọc Diệu, cô Tạ Thanh Kim, cô Có thể nói Khoa Ngữ văn Trường ổn định. Một thời gian sau, thầy Phan Sĩ Tấn được cử làm Ngô Thị Thắng… Sau đó bộ môn được ĐHSP Hà Nội được khai sinh từ lúc nào Chủ nhiệm Khoa Giáo dục chính trị. Giải phóng miền Nam, bổ sung lực lượng với các thầy cô như: thì chỉ sau đó ít lâu đã có sự xuất hiện thầy Trần Thanh Đạm từ Tổ phó lên Phó Chủ nhiệm Khoa, thầy Lê A, cô Phan Thị Hồng Hạnh, của Bộ môn Phương pháp giảng dạy. sau đó về công tác ở Viện Khoa học Giáo dục rồi được cử vào cô Phan Thị Hồng Xuân. Nhiều thầy Các thầy Nguyễn Hữu Tảo, Nguyễn tiếp quản và làm Hiệu trưởng Trường ĐHSP Thành phố Hồ cô trong bộ môn đã giữ những trọng Lân, Vũ Đình Liên, Nguyễn Tài Cẩn, Chí Minh. Thời gian này, bộ môn được bổ sung thêm một trách trong Trường và trong Khoa như: Hoàng Tuệ - thế hệ những nhà giáo đi số cán bộ có năng lực, gắn bó nhiều với sự nghiệp giáo dục thầy Lê A sau này là GS.TS Tổng biên đầu, là những gương mặt thủy chung và phổ thông như thầy Phan Trọng Luận, thầy Nguyễn Tiến tập NXB ĐHSP, thầy Nguyễn Quang với nghề văn, sáng tạo và tái tạo văn Hùng, thầy Nguyễn Thanh Hùng, thầy Nguyễn Thanh Bình, Ninh là PGS.TS, Phó Chủ nhiệm Khoa chương (dạy văn) làm say mê bao thế cô Nguyễn Thị Thanh Hương, thầy Trần Phú, thầy Hoàng Ngữ văn ĐHSP HN, cô Trịnh Thị Lan là hệ học trò. Dư, thầy Trần Thanh Xuân, thầy Nguyễn Bình Sơn, thầy PGS.TS, Đảng uỷ viên Khoa Ngữ văn. Nguyễn Viết Chữ... Bộ môn Phương pháp dạy học Ngữ Sự sáp nhập hai bộ môn thành Bộ văn hiện nay của Khoa Ngữ văn là Bộ môn Giáo học pháp Văn cũng là nơi tập hợp được những môn Phương pháp dạy học Ngữ văn sự hợp nhất của hai bộ môn: Bộ môn người có khả năng toàn diện, nhiều người trưởng thành và thực sự tạo ra thế mạnh về chuyên Phương pháp dạy học Văn (vốn là Bộ giữ những trọng trách cao hơn: từ Chủ nhiệm khoa Tại chức môn và các mặt công tác khác. Biên chế môn Giáo học pháp Văn) và Bộ môn Đại học Huế - thầy Nguyễn Tiến Hùng, đến Hiệu trưởng sau khi sáp nhập được bổ sung thêm Phương pháp dạy tiếng Việt (vốn là Trung học Sư phạm Thái Bình - thầy Nguyễn Thái Bình, từ cô Phạm Thị Thu Hương, cô Trịnh Thị Bộ môn Tiếng Việt - Làm văn cũ). Vào Chánh - Phó Chủ nhiệm khoa lớn ở các trường đại học như Lan, sau này là cô Lê Thị Minh Nguyệt, những năm 1996 - 1997, đứng trước thầy Quách Hy Dong, thầy Phan Sĩ Tấn đến Hiệu trưởng Đại cô Đoàn Thị Thanh Huyền và tiếp tới tình hình mới của cải cách giáo dục và học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh như thầy Trần Thanh là cô Trần Hoài Phương, thầy Nguyễn sự thay đổi trong tinh thần đào tạo, Ban Đạm. Đến nay, các thầy đã nghỉ hưu và đóng góp cho xã hội Thế Hưng. Việc vận dụng nghiên cứu lãnh đạo Trường ĐHSP Hà Nội và Khoa theo cách riêng của mình. khoa học liên ngành, việc nghiên cứu Ngữ văn quyết định sáp nhập hai bộ về sự tích hợp trong dạy học văn và dạy môn trên thành Bộ môn Phương pháp Bộ môn Phương pháp dạy học tiếng Việt được hình thành học tiếng, việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn. Người đảm nhiệm vị trên cơ sở của nhóm Tiếng Việt - Làm văn (hay nhóm Tiếng giảng dạy ở trường đại học, chuyển trí Trưởng Bộ môn hiện nay là PGS.TS Việt thực hành thuộc bộ môn Ngôn ngữ). Đây là nhóm do GS hướng mạnh vào trau dồi lý thuyết cơ Phạm Thị Thu Hương. Lê Trí Viễn kiên trì đề nghị thành lập. Tới những năm đầu 80 bản, hiện đại, rèn luyện khả năng tự của thế kỉ XX, sau Hội nghị toàn quốc về “Dạy tiếng Việt trong học, kĩ năng giảng dạy cho sinh viên Bộ môn Giáo học pháp Văn vào nhà trường”, được sự đồng ý của Bộ Giáo dục và Chủ nhiệm cũng như việc nghiên cứu thận trọng những năm 1963 - 1964 là lớp thế hệ Khoa Ngữ văn ĐHSP Hà Nội - GS Đỗ Hữu Châu, Bộ môn giáo trình phương pháp giảng dạy thế của các nhà phương pháp: thầy Hoàng Phương pháp dạy học Tiếng Việt đầu tiên trong cả nước đã giới là bước chuẩn bị khoa học để xây Lân, thầy Bùi Hoàng Phổ… Người ra đời. Nhắc đến quá trình hình thành Bộ môn Phương pháp dựng bộ giáo trình và sách tham khảo quản lí bộ môn lâu năm nhất là thầy dạy Tiếng Việt cần ghi nhận công lao của một thế hệ các thầy cập nhật, hiện đại, hướng đến nhiệm vụ Bùi Hoàng Phổ (từ năm 1962 cho đến cô gắn bó với bộ môn ngay từ những ngày đầu tiên như: thầy đào tạo đội ngũ giáo viên Ngữ văn đáp khoảng 1988). Thầy là người có khả Nguyễn Xuân Khoa, thầy Nguyễn Đình Cao, thầy Nguyễn ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện năng tổ chức, tập hợp đội ngũ bằng sự giáo dục nước nhà. đoàn kết chân thành và chú ý tới việc phát triển đội ngũ. Từ năm 1967 đến II. THẾ MẠNH TRONG năm 1975, đội ngũ cán bộ đã ít, lại bị CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU trưng dụng điều chuyển công tác. Thầy VÀ ĐÀO TẠO CỦA BỘ MÔN Quách Hy Dong nhận trách nhiệm Phó Chủ nhiệm khoa Văn. Nhờ thầy, những Là bộ môn nghiệp vụ gắn bó với việc năm sơ tán chống Mỹ cứu nước, cuộc đào tạo sinh viên và giáo viên các cấp nên vị trí khoa học của bộ môn rất quan trọng. Cùng với sự trưởng thành của từng cán bộ giảng viên, các Giáo sư, Tiến sĩ như GS Phan Trọng Luận, GS.TS Nguyễn Thanh Hùng, GS.TS Lê A, PGS.TS Nguyễn Quang Ninh, PGS. TS Nguyễn Thị Thanh Hương, PGS.TS Nguyễn Viết Chữ, GVC Trần Phú, GVC 53

54 70 năm Sư phạm Văn khoa

CÁC CÁN BỘ ĐƯƠNG NHIỆM Hoàng Dư, GVC Nguyễn Bình Sơn, PGS.TS PGS.TS Trịnh Thị Lan PGS.TS GVC Nguyễn Tiến Mâu, GVC Trần Phạm Thị Thu Hương Phó Trưởng Bộ môn PPDH Ngữ Phan Thị Hồng Xuân Thanh Xuân, GVC Nguyễn Thị Ngọc Trưởng Bộ môn PPDH Ngữ văn, văn, Đảng uỷ viên Khoa Ngữ văn, Diệu, GVC Phan Thị Hồng Hạnh… cho Phó bí thư Chi bộ Ngữ văn 4 Tổ trưởng công đoàn tới lớp kế cận như PGS.TS Phạm Thị Bí thư Chi bộ Ngữ văn 4 Thu Hương, PGS.TS Phan Thị Hồng Xuân, PGS.TS Trịnh Thị Lan, TS Lê GVC.TS GVC.TS GVC.TS Trần Hoài Phương NCS Nguyễn Thế Hưng Thị Minh Nguyệt, TS Đoàn Thị Thanh Lê Thị Minh Nguyệt Đoàn Thị Thanh Huyền Nguyên Bí thư Liên chi Đoàn Bí thư Liên chi Đoàn Huyền, TS Trần Hoài Phương..., bộ Khoa Ngữ văn môn tiếp tục trở thành một đơn vị có Cố vấn học tập Cố vấn học tập Khoa Ngữ văn, uy tín trong đào tạo về phương pháp Ủy viên BTV Đoàn dạy học, có nhiều nhà khoa học đầu Trường ĐHSP Hà Nội ngành. Nhiều công trình khoa học thường xuyên được xuất bản, trong Ninh, có thầy là Chủ tịch Hội đồng nghiệm thu như GS.TS cho sinh viên và nghiên cứu sinh Lào, đó có những công trình tiêu biểu như: Nguyễn Thanh Hùng… Với chương trình 2018, tất cả các thầy Campuchia ở Hà Nội và ở Phnôm Pênh, Phân tích tác phẩm văn học, giáo trình cô đang công tác tại bộ môn đều là tác giả của các bộ sách Viêng Chăn. Phương pháp dạy học Văn (chủ biên), giáo khoa, sách tham khảo, là thành viên của hội đồng thẩm Có thể thấy, Bộ môn Phương pháp dạy Xã hội - văn học - nhà trường, Đổi mới định sách giáo khoa. Đóng góp của các thầy cô trong Bộ môn học Ngữ văn ngày nay đã trở thành bộ giờ học tác phẩm văn chương, Rèn luyện Phương pháp dạy học Ngữ văn đối với sự nghiệp giáo dục là môn giữ vị trí quan trọng trong việc đào tư duy qua giảng dạy văn học của Giáo điều hoàn toàn có thể khẳng định được. tạo nghiên cứu sinh, thạc sĩ và cử nhân sư Phan Trọng Luận; Văn học và nhân cũng như nghiên cứu các công trình cách, Văn học, tầm nhìn biến đổi, Hiểu Bộ môn Phương pháp dạy học Ngữ văn là một trong những khoa học chuyên ngành trong cả nước. văn dạy văn; giáo trình Phương pháp bộ môn mạnh về tiềm lực nghiên cứu và đào tạo của Khoa. dạy học Văn của GS.TS Nguyễn Thanh Hiện nay lực lượng của bộ môn tham gia đào tạo NCS, Thạc sĩ III. NHỮNG THÀNH TÍCH Hùng; Phương pháp tiếp nhận tác phẩm và Cử nhân có: 1 GS, 6 PGS, 3 TS và 1 NCS đang chuẩn bị bảo NỔI BẬT CỦA BỘ MÔN văn học ở trường phổ thông của PGS.TS vệ luận án TS. Tất cả các thành viên trong bộ môn đều có dự Nguyễn Thị Thanh Hương; giáo trình định và kế hoạch nghiên cứu riêng, hàng năm thường xuyên Tính đến nay, bộ môn đã cùng với Làm văn của GVC Nguyễn Đình Cao và có những công trình nghiên cứu, những bài báo, những sách Khoa đào tạo thành công hàng nghìn GS.TS Lê A, giáo trình Phương pháp dạy tham khảo xuất bản. Sinh hoạt học thuật của bộ môn theo giáo viên các cấp, rất nhiều Thạc sĩ và học Tiếng Việt của GS.TS Lê A , PGS. sát những vấn đề thời sự giáo dục và những trọng tâm đặt ra Tiến sĩ cho ngành giáo dục. Hiện số TS Nguyễn Quang Ninh và GS.TS Bùi trong nghiên cứu và giảng dạy của bộ môn. Trong bối cảnh Tiến sĩ, Thạc sĩ và sinh viên theo học Minh Toán, giáo trình Tiếng Việt thực đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục hiện nay, bộ môn đã thực chuyên ngành phương pháp dạy học hành A của PGS Nguyễn Quang Ninh, hiện các hướng nghiên cứu sau đây: Ngữ văn rất đông. Nhiều năm gần đây, giáo trình Tiếng Việt thực hành B của bộ môn đã thu hút được nhiều sinh GS.TS Lê A,... Tiếp nối truyền thống - Phát triển chương trình nhà trường viên khá giỏi, thậm chí xuất sắc và các đó, năm năm trở lại đây, thế hệ kế cận - Dạy học đọc hiểu theo hướng phát triển năng lực giáo viên ưu tú của chuyên ngành về tiếp tục tham gia biên soạn nhiều giáo - Dạy học tạo lập văn bản theo hướng phát triển năng lực học tập, nghiên cứu. trình, sách, tài liệu tham khảo có giá - Đổi mới kiểm tra, đánh giá trong môn Ngữ văn theo trị phục vụ cho việc dạy học Ngữ văn ở hướng phát triển năng lực Về giáo trình cũ và mới đã có 10 bộ trường phổ thông. Có thể kể đến cuốn - Dạy học văn bản đa phương thức ở trường phổ thông hoàn thành. Số đầu sách của bộ môn giáo trình Thực hành dạy học Ngữ văn ở Bên cạnh đó, bộ môn đã xúc tiến xây dựng phòng rèn luyện tính đến nay đã có 50 cuốn, không kể trường phổ thông do tất cả thành viên nghiệp vụ thường xuyên cho sinh viên để nâng cao hiểu biết các tài liệu khác in ở địa phương. bộ môn tham gia xây dựng; Đọc hiểu và và năng lực vận dụng kĩ năng giảng dạy cho họ. Từ đó, bộ chiến thuật đọc hiểu văn bản trong nhà môn có thể xây dựng, phát triển thành một trung tâm tư vấn Trong những hội thảo quan trọng, trường phổ thông của PGS.TS Phạm Thị về phương pháp giảng dạy của cả nước. Ngoài ra trong nhiều trước những vấn đề khoa học nổi bật Thu Hương; Văn bản và việc dạy học văn năm, các giảng viên của bộ môn còn tham gia dạy tiếng Việt trong ngành văn và ngành giáo dục bản ở trường trung học (Vận dụng vào dạy đều xuất hiện tiếng nói của các cán bộ học truyện dân gian) của PGS.TS Trịnh Thị Lan; Dạy học phát triển năng lực môn 55 Ngữ văn THPT, Hướng dẫn dạy học môn Ngữ văn THCS theo Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 của TS Lê Thị Minh Nguyệt (đồng tác giả). Ngoài ra cũng cần phải khẳng định đóng góp của bộ môn đối với việc biên soạn SGK phổ thông. Với chương trình hiện hành, có thầy là Tổng chủ biên sách THPT như GS Phan Trọng Luận, có thầy là chủ biên từng phần như GS Lê A (Chủ biên phần làm văn sách THPT), có thầy là tác giả như PGS.TS Nguyễn Quang

Khung trời Văn khoa THÀNH TÍCH VÀ KHEN THƯỞNG bộ môn. Bộ môn đã tổ chức được hội HUÂN CHƯƠNG nghị khoa học tầm cỡ quốc gia, hội nghị “Dạy tiếng Việt trong nhà trường”  Huy chương Kháng chiến chống Pháp: Nguyễn Đình Cao tiến hành trong 3 ngày 23, 24, 25 tháng  Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất: 12 năm 1982 (với sự góp mặt của Thứ Nguyễn Đình Cao, Nguyễn Xuân Khoa, Nguyễn Thanh Hùng, Phan Trọng Luận trưởng Bộ Giáo dục GS Nguyễn Cảnh  Huân chương Chiến sĩ vẻ vang: Nguyễn Bình Sơn Toàn, Viện trưởng Viện ngôn ngữ học  Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì: Trần Thanh Xuân, Nguyễn Tiến Mâu GS Hoàng Tuệ, Cục phó Cục Đào tạo  Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Ba: Nguyễn Thị Thanh Hương, Trần Phú bồi dưỡng Đỗ Bình Trị…). Ngoài ra còn  Huân chương Ăngko của Campuchia: Phan Trọng Luận, Nguyễn Tiến Mâu nhiều Hội thảo khác với các chủ đề như  Huân, Huy chương hữu nghị và bằng khen của Chính phủ Lào: Đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn Nguyễn Quang Ninh, Nguyễn Đình Cao, Nguyễn Ngọc Diệu, Phan Thị Hồng Xuân hoặc Đổi mới phương pháp dạy học ở đại học…, cán bộ của bộ môn đều đóng vai THÀNH TÍCH GIẢNG VIÊN trò nòng cốt. Công tác nghiên cứu và tự nâng cao trình độ của bộ môn đi vào NHÀ GIÁO NHÂN DÂN: chiều sâu, hình thành từng hướng ng- PHAN TRỌNG LUẬN hiên cứu khoa học khác nhau và đã có những khác biệt về phong cách nghiên NHÀ GIÁO ƯU TÚ: cứu lĩnh vực phương pháp dạy học Ngữ NGUYỄN THANH HÙNG, NGUYỄN THỊ THANH HƯƠNG văn, làm phong phú đa dạng diện mạo khoa học phương pháp. Bộ môn cũng GIẢI THƯỞNG KHOA HỌC NHÀ NƯỚC: luôn đóng góp phần quan trọng vào các PHAN TRỌNG LUẬN mặt công tác của Khoa và Trường như công tác Đảng, công đoàn, chủ nhiệm, GIẢI THƯỞNG SALVADOR ALLENDE CỦA BỘ GIÁO DỤC CỘNG HOÀ DÂN CHỦ ĐỨC: thực tập sư phạm, hội đồng khoa học, NGUYỄN THỊ THANH HƯƠNG công nghệ giáo dục và các công tác ngoài trường. BẰNG KHEN CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ: NGUYỄN THANH HÙNG Số đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ vẫn được bộ môn thực hiện đều BẰNG KHEN CỦA BỘ TRƯỞNG BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO: đặn, nghiêm túc. Các đề tài đều được NGUYỄN THỊ THANH HƯƠNG, TRẦN PHÚ, NGUYỄN BÌNH SƠN nghiệm thu và đánh giá cao. Bộ môn đảm bảo một khối lượng lớn về việc BẰNG KHEN CỦA TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM, CỦA CÔNG ĐOÀN GIÁO DỤC VIỆT NAM, viết giáo trình, soạn chương trình, CỦA UỶ BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI: giảng dạy hệ chính quy và các hệ đào TRẦN PHÚ tạo ngoài trường như hệ từ xa, hệ chính quy địa phương, hệ tại chức, hệ chuyên NGOÀI RA CÒN CÓ NHIỀU HUY HIỆU, KỈ NIỆM CHƯƠNG VÀ NHIỀU LOẠI GIẤY KHEN KHÁC… tu. Trong xu thế đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục hiện nay, bộ môn đã tham gia biên soạn các tài liệu phục vụ cho việc bồi dưỡng giáo viên phổ thông cốt cán và đại trà. Các thành viên trong bộ môn đã trực tiếp biên soạn các mô đun tập huấn: Mô đun 1 - Hướng dẫn thực hiện Chương trình Giáo dục phổ thông 2018, Mô đun 3 - Kiểm tra, đánh giá học sinh THCS/THPT theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực môn Ngữ văn. Ngoài ra, các thành viên trong bộ môn đã tham gia tập huấn cho giáo viên phổ thông trong cả nước các vấn đề: đổi mới chương trình, đổi mới phương pháp và kĩ thuật dạy học; đổi mới kiểm tra, đánh giá l 56 70 năm Sư phạm Văn khoa

Thầy thuộc thế hệ nhà giáo, nhà khoa học đặt nền móng đầu tiên cho chặng đường hình thành, phát triển và khẳng định vị thế của bộ môn tại Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Thầy nhiều năm là Trưởng Bộ môn, chuyên gia hàng đầu về lĩnh vực phương pháp dạy học Văn ở Việt Nam, có công đào GS.NGND tạo, phát triển đội ngũ cho các trường đại học, Phan Trọng Luận cơ quan nghiên cứu trong nước và bạn bè quốc tế, là Tổng chủ biên bộ sách giáo Khoa (1927 - 2013) Ngữ văn phổ thông hiện hành (Ban Cơ bản). GS Phan Trọng Luận được phong hàm Giáo sư năm 1992, được tặng Giải thưởng Nhà nước năm 2000 và phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân năm 2010, Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất,… Tư tưởng khoa học nổi bật trong các công trình nghiên cứu của GS.NGND Phan Trọng Luận - Học sinh là bạn đọc sáng tạo - đã phát huy tiềm năng của tuổi trẻ học đường, góp phần quan trọng vào quá trình đổi mới mạnh mẽ trong dạy học Ngữ văn.  CÔNG TRÌNH TIÊU BIỂU: Các thầy cô tổ PP, năm 1980. Hàng trước từ trái sang: Thầy Thanh Hùng, thầy Bình Sơn, cô Thanh Hương. Rèn luyện tư duy học sinh qua giảng dạy văn học (1969), Con đường Hàng sau từ trái sang: Thầy Trần Phú, thầy Thanh Xuân, thầy Phan Trọng Luận, nâng cao hiệu quả văn học trong nhà trường phổ thông (1978), Cảm thụ văn học - Giảng dạy văn học (1983), Phương pháp dạy học văn (chủ thầy Hoàng Dư, thầy Bùi Hoàng Phổ biên) (1987), Học sinh - bạn đọc sáng tạo - Con đường đổi mới phương pháp dạy học tác phẩm văn chương ở phổ thông (1996), Xã hội - Văn học - Nhà trường (1996), Văn học Giáo dục thế kỉ XXI (2002), Văn học nhà trường những điểm nhìn (2011),… Thầy có những đóng góp nổi bật trong Thầy là một trong số ít người có công thành lĩnh vực nghiên cứu chuyên ngành Lí luận lập Bộ môn Phương pháp dạy học Tiếng Việt. và phương pháp dạy học Ngữ văn, thuộc thế Đóng góp của thầy luôn gắn với những bước hệ đầu tiên biên soạn hệ thống giáo trình của đi, với sự trưởng thành của bộ môn, giúp bộ chuyên ngành. Những công trình nghiên cứu môn từng bước khẳng định được vị thế trong tiên phong và chuyên sâu về đọc hiểu, dạy Khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội học đọc hiểu của thầy đã đồng hành cùng và trong khối các trường đại học sư phạm trên quá trình đổi mới dạy học Văn ở nước ta theo cả nước. hướng hiện đại, hội nhập. GS.TS Nguyễn Thầy Nguyễn Quang Ninh là một trong Thanh Hùng Thầy bảo vệ luận án Tiến sĩ tại Viện hàn lâm (sinh năm 1940) những chuyên gia hàng đầu ở Việt Nam về Khoa học Sư phạm CHDC Đức năm 1979, được phong hàm Giáo sư năm 1996, làm Thực tập Phương pháp dạy học Tiếng Việt, là một trong PGS.TS sinh cao cấp tại CHLB Đức năm 1997. Thầy ba tác giả của cuốn giáo trình Phương pháp Nguyễn Quang Ninh dạy học tiếng Việt đầu tiên ở Việt Nam. (sinh năm 1947) từng đảm nhiệm các chức vụ: nguyên Trưởng Bộ môn Phương pháp Thầy được phong học hàm Phó Giáo sư năm 1996. Thầy đã từng đảm dạy học Ngữ văn, nguyên Chủ tịch Hội đồng Chức danh Giáo sư liên nhận các chức vụ: Trưởng Bộ môn, Phó trưởng Khoa Ngữ văn. ngành Tâm lí giáo dục; nguyên Ủy viên Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước; Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Thầy đã vinh dự nhận được  CÔNG TRÌNH TIÊU BIỂU: danh hiệu Nhà giáo ưu tú, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Huân Ngữ pháp văn bản và việc dạy học Làm văn (viết chung), NXBGD (1982) Phương pháp dạy học Tiếng Việt (viết chung), NXBGD (1993), Giáo trình chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất… Ngữ pháp văn bản, NXBGD (1994). Giáo trình Rèn luyện kĩ năng sử dụng Tiếng Việt, NXBGD (1996), Một số vấn đề dạy ngôn bản nói và viết ở tiểu  CÔNG TRÌNH TIÊU BIỂU: học theo hướng giao tiếp, NXBGD (1998), Giáo trình Tiếng Việt thực hành, NXBGD (2001, Giáo trình Rèn luyện kĩ năng sử dụng Tiếng Việt và từ Hán Giáo trình Phương pháp dạy học Văn (viết chung, 1980), Văn học và Việt (chủ biên), NXBGD (2005), Giáo trình Phương pháp dạy học Tiếng nhân cách (1994), Văn học tầm nhìn biến đổi (1996), Đọc và tiếp nhận Việt ở Tiểu học, NXBGD (2007), Giáo trình Quê Việt (Tài liệu dạy Tiếng văn chương (2002), Hiểu Văn - dạy Văn (2003), Giáo trình Phương pháp Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài, 2010), nhiều giáo trình dạy Tiếng dạy học Ngữ văn ở THCS (2007), Phương pháp dạy học Ngữ văn THPT - Việt ở đại học và SGK phổ thông dạy học Tiếng Việt do Bộ Giáo dục Hàn những vấn đề cập nhật (2007), Đọc - hiểu tác phẩm văn chương trong nhà Quốc in ấn và phát hành. trường (2008), Mô hình đọc hiểu tác phẩm văn chương (2011), Kĩ năng đọc hiểu Văn (2011), Lý luận và phương pháp dạy học Văn - Cội nguồn, bản sắc, giá trị (2021)… 57

Những t hGâƯnƠNtGhMươẶnTg Khoảng trời Văn khoa cao rộng, đã đào tạo hàng chục thế hệ sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh ra trường, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp xây dựng đất nước. Chính những người thầy, người cô của Văn khoa đã đổ bao mồ hôi, tâm sức, dày công vun xới, chăm sóc, truyền dạy tri thức và đạo lí làm người cho các thế hệ học trò để làm nên thành công này. Bởi thế, hình ảnh các thầy các cô Văn khoa mãi mãi in sâu trong trái tim bao thế hệ học trò suốt 70 năm qua... 58 70 năm Sư phạm Văn khoa

GIÁO SƯ ĐẶNG THAI MAI NHỮNG KỶ NIỆM uý danh gồm ba chữ Đặng Thai VỀ ttáhi ầsinyh, đời tôi Mai đã in vào tâm trí tôi từ ngày tôi bước chân vào trường người trung học (THCS ngày nay). nói: “Cậu học trò Nghệ này có khác”. Thi tốt nghiệp tôi là thủ về giảng đường Thầy có nói thế không Bởi ở xứ Nghệ của tôi ngày khoa, duy nhất là hạng bình trong tứ hạng ưu bình thứ liệt, ạ?” Thầy nghiêm mặt lại và nói: “Sao trước, các bậc phụ huynh, các thầy giáo lại gặp được không khí sửa sai cải cách ruộng đất nên được lại không”. Tôi sợ không dám nói tiếp. thường hay kể chuyện những tài danh giữ lại làm cán bộ giảng dạy của trường. Có ba thầy chọn tôi Nhưng suốt mấy chục năm sau tôi vẫn học vấn của quê hương cho con em, làm trợ lý. Thầy Nguyễn Lân chọn làm Giáo dục học. Tôi từ cứ nghĩ về ý kiến của Thầy về câu Kiều cho học trò nghe. Thời Tây học là Cao chối. Thầy Đặng Thai Mai chọn tôi làm Văn học Trung Quốc. hay nhất và nhân dịp mười năm Thầy Xuân Huy, Đặng Thai Mai, Tạ Quang Thầy Trần Đức Thảo chọn tôi làm Lịch sử tư tưởng (Triết qua đời (1994), tôi đã viết bài “Giáo sư Bửu. Nguyễn Đức Bính, Hoài Thanh, học). Tôi đã nói với Tổ chức là hai thầy, hai môn này, tôi đều - học giả Đặng Thai Mai chọn câu Kiều Lê Thiệu Huy… Chuyện về Đặng tiên quý trọng, đều thích thú, tùy trường xếp đâu tôi ở đấy. Sau hay nhất” đăng báo Văn Nghệ. Tôi coi sinh là mới mười hai, mười ba tuổi đã đó, tôi được xếp làm trợ lý thầy Thảo, rồi về lại Khoa Văn đó như là một đề luận Thầy ra cho tôi ngốn gần hết tủ sách chữ Hán của gia làm trợ lý cho nhà văn Hoài Thanh vốn là chú vợ tôi… Tưởng mà sau 36 năm tôi mới làm xong, tiếc đình vốn có tiếng là tủ sách lớn thứ hai thế là yên chuyện. Nhưng mấy lần, nhà văn Hoài Thanh nói là Thầy không còn để chấm bài cho tôi.  sau tủ sách của gia đình cụ Thượng Cao với tôi, cụ Mai vẫn bảo trả anh cho Cụ. Tôi nghe vậy nhưng (Cao Xuân Dục - Thượng thư Bộ Học vẫn cứ nấn ná ở lại, vì ngại là trước đó Thầy đã chọn mình mà Tôi được phân công về Văn học Việt của triều đình Huế) trên đất Nghệ An. mình không dứt khoát… Nhưng rồi hôm đó, tôi đến họp Tổ Nam cận đại, theo quan niệm bấy giờ, Văn kỳ thanh về thầy Đặng Thai Mai thì nhà văn Hoài Thanh nói: “Dứt khoát từ hôm nay anh Chú từ 1858 đến 1960. Nhưng việc đầu tiên là thế. Nhưng kiến kỳ hình thì phải đến không làm việc ở đây nữa vì hôm qua cụ Mai lại đòi trả anh Thầy giao là soạn một bài tổng quát văn năm 1950. Bấy giờ, Thầy là Giám đốc cho Cụ”. Thế là chiều hôm đó, tôi đành phải đến gặp Thầy và học Việt Nam. Tôi lo quá vì kiến thức giáo dục liên khu Bốn đến thăm trường không ngờ được nghe Thầy nói những lời quá đỗi thương yêu. của mình mới ra trường còn lom lem cấp III Huỳnh Thúc Kháng và thăm Thầy nói: “Mình biết cậu có những điều buồn còn mình thì như thế sao mà soạn được bài tổng quát hai con gái là Đặng Thanh Lê và Đặng không à. Một thằng bé mới 5 tuổi, bố làm cách mạng bị đày này. Nhưng không dám từ chối. Đành Anh Đào đang cùng học với tôi tại đây. chung thân Côn Đảo, mẹ bỏ đi lấy người khác, không buồn liều mạng mà làm và sau đó đưa vào Lần đầu thoáng trông thấy Thầy, tôi à. Cải cách ruộng đất đối với cậu như thế, chứ với mình là bệnh viện Việt - Xô nơi Thầy đang điều rất mừng, ban đầu thấy Thầy xấu giai, tốt à. Thôi gác lại tất cả, cố gắng làm việc, tôi dìu dắt”. Thầy trị để Thầy duyệt. Không ngờ tôi được nhưng ngay sau đó lại thấy đây là một còn hỏi hoàn cảnh gia đình. Tôi kể xong. Thầy nói: “Cố viết Thầy nói: “Thế này là tốt rồi, cứ thế mà gương mặt rất hấp dẫn, càng nhìn càng đôi bài, mình đưa in để kiếm đôi đồng gửi về cho gia đình. lên lớp”, nhưng thực tế thì tôi đang là thích bởi có một cặp mắt tinh anh, sâu Nhưng viết gì thì cũng phải tính đường rút lui”. Lời dặn này tập sự trợ lý chưa được lên lớp. Sau này thẳm vô cùng. Trong dịp này, tôi bắt đã hướng dẫn ngòi bút của tôi hơn sáu mươi năm nay. tôi hiểu tại sao tôi làm Văn học cận đại đầu biết thế nào là trí nhớ tuyệt vời và mà Thầy lại bắt tôi soạn bài tổng quát tri thức uyên bác của Thầy so với nhiều Bắt đầu trợ lý cho Thầy, việc đầu tiên là tôi được nhà trường văn học Việt Nam. Ấy là bởi Thầy tránh học giả khác mà về sau tôi biết. Cuối giao nhiệm vụ đưa Thầy đi nghỉ mát Sầm Sơn một tuần. cho tôi tình trạng nhìn cây mà không năm 1954, tôi là sinh viên Đại học Sư Chiều nào thầy trò cũng ra bãi biển ngồi chơi và trò chuyện thấy rừng, đi vào điểm mà không có phạm Văn khoa Hà Nội do Thầy làm thoải mái. Có hôm, tôi hỏi Thầy câu Kiều nào hay nhất. Thầy diện. Quả thật, đây là một kinh nghiệm Giám đốc. Trong khi thi vào tuy đơn nói câu ấy mà cậu không biết à. Tôi thưa lại: “Câu nào ạ?”. vô cùng quý báu có tính định hướng giản nhưng vì lẽ này nọ, tôi vẫn nơm Thầy đọc ngay hai câu tả nàng Kiều khỏa thân: “Rõ ràng trong của một bậc đại sư đã truyền cho tôi để nớp sợ hỏng, không ngờ lại cao điểm ngọc trắng ngà/ Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên”. Tôi nói: thành hướng đi của nghề nghiệp nghiên nhất và lọt vào mắt xanh của Thầy. “Đây là Thầy nói với em giữa bãi biển Sầm Sơn lộng gió. Chứ cứu văn học suốt đời của tôi... Theo chị Hà (phu nhân của Võ Đại tướng) cùng thi nói lại với tôi và vài 59 bạn khác thì khi chấm bài tôi Thầy đã

Những gương mặt thân thương Tôi làm việc với Thầy một thời gian Nguyễn Trác lại không được mời. Tôi được mời thì vừa mừng nhất của tồi về Thầy trong những ngày thì có thêm anh Lê Trí Viễn được điều vừa lo. Lo trèo cao ngã đau, nên tôi đến Viện Văn gặp Viện sắp lâm chung là một tư thế rất bình từ Ban Tu thư của Bộ Giáo dục về Khoa phó Hoài Thanh xin rút lui thì được Viện phó Hoài Thanh thản trước tử thần nhưng ít nhiều cũng Văn Đại học Sư phạm Hà Nội. Hàng bảo muốn thôi phải đến cụ Mai mà xin. Hôm sau, tôi đến nhà mang một nỗi buồn nhân thế. Thầy qua tuần, hai anh em tôi vẫn có vài buổi đến Thầy để xin thôi thì bị Thầy mắng. Thầy nói: “Có làm sao tôi đời, tang lễ được tổ chức tại trụ sở Mặt nghe Thầy hướng dẫn soạn bài và viết mới chọn cậu. Cậu đúng là đồ Nghệ, gàn. Thôi không nói gì trận Tổ quốc Việt Nam. Tôi được túc giáo trình. Nhưng kiến thức của Thầy nữa. Làm đi, tôi hướng dẫn”. Thế là tôi làm. Tôi còn bị Thầy trực bên cạnh quan tài của Thầy và sau mênh mông uyên bác quá, trong khi yêu mắng lần thứ hai. Dạo ấy, tôi sơ tán ở Hưng Yên, vì bị hỏng đó cùng tiễn đưa Thầy đến nghĩa trang cầu của các bài giảng thì phải rất cụ thể xe đạp nên không về họp Ban Biên soạn mà không báo. Hôm Mai Dịch. Đêm đó, tôi cứ trằn trọc khó và cũng vừa phải. Nếu theo hẳn những sau, chập tối về ghé qua nhà Thầy, Thầy hỏi hôm qua sao bỏ ngủ vì cứ nghĩ đến công ơn tái sinh của gì Thầy truyền cho thì không hợp với họp. Tôi thưa xe đạp bị hỏng. Thầy mắng ngay: “Tôi đã bảo là Thầy cho cuộc đời mình. bài giảng. Cho nên chúng tôi một mặt mỗi lần cần về họp thì báo để cho xe đón, sao không nghe?”. thì cố ghi chép hết những gì Thầy nói, Tôi thưa: “Em ngại”. Thầy mắng ngay: “Cậu là đồ Nghệ gàn, Phúc bảy mươi đời với tôi là có chiến coi như là của quý dùng ngay được thì là khuyển Nho”. Nghe Thầy mắng, tôi nói ngay: “Đúng, em thắng Điện Biên “chấn động địa cầu”, dùng, còn thì để làm vốn về sau. Chúng là đồ Nghệ. Mà đồ Nghệ là thế này ạ: Ai hiểu mình, thương có Hiệp định Giơnevơ, nửa nước hòa tôi phải chủ động. Từ đó mà có giáo mình thì mình đội lên đầu. Còn ai khinh mình thì mình kéo bình, Thủ đô Hà Nội được giải phóng trình về Văn học Việt Nam cận đại để xuống thấp”. Nghe tôi nói, Thầy thay đổi thái độ ngay và vào mà cuộc đời tươi tắn lại dù trên mình phục vụ việc học tập cho sinh viên Văn phòng trong lấy ra một cốc nước và bảo tôi: “Cậu uống nước vẫn còn rỉ máu. Tôi được là sinh viên của hai trường Đại học Sư phạm HN và đi. Chịu khó chờ tôi ăn cơm xong ta làm việc nhé”. Và sau đại học, học hành thi cũng có kết quả, Đại học Tổng hợp HN trong năm học đó, thầy trò lại nói chuyện với nhau rất vui vẻ. Riêng tôi, mãi được giữ lại trường làm cán bộ giảng 1958 – 1959 và nhiều năm sau. cho đến bây giờ vẫn hối hận về cách nói năng bồng bột, hỗn dạy, được trợ lý cho một đại sư triết láo với Thầy. Trong thời gian biên soạn công trình, tôi đã đến gia duy nhất của Việt Nam. Để hôm Cuối năm 1959, Viện Văn học thành làm việc với Thầy ở các nơi sơ tán Hiệp Hòa (Hà Bắc), Vân nay sau hơn 60 năm trời, tôi có được lập. Thầy được cử làm Viện trưởng. Đình (Hà Đông). Tôi thường được Thầy tin tưởng. Ban Biên gì để đỡ xấu hổ khi đứng trước bàn thờ Thầy rủ tôi sang Viện Văn. Tôi từ chối soạn Văn học sử lúc đầu có chín người. Sau rút bớt còn bốn tiên tổ, đỡ hổ thẹn trước anh linh của vì rất thích dạy học. Như thế là thầy người thì tôi vẫn còn và có người lại thắc mắc sao còn dùng thân phụ, Người “Sinh: nhân đức tuyệt trò chia tay nhau. Tuy thế, tôi cũng tôi. Nhưng lúc này Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Xã hội Việt nhiên thế nhân ái mộ/ Tử: tai ương bất là cộng tác viên của Viện Văn ngay Nam Nguyễn Khánh Toàn đã thay Thầy do kém sức khỏe, trắc thiên địa sầu bi”, đã truyền dạy tôi từ ngày mới thành lập. Do đó, vẫn có điều khiển công việc, đã nói: “Đây không phải là chuyện xôi thuộc lòng từ lúc 5, 6 tuổi lời dạy của dịp được gặp Thầy. Dĩ nhiên là không thịt ở đình làng mà là chuyện khoa học”. Dưới sự chỉ đạo của tiền nhân: “Hoàng thiên bất phụ hảo tâm được Thầy trực tiếp dìu dắt sát sao Giáo sư Nguyễn Khánh Toàn, chúng tôi làm lại đề cương tư nhân”, “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”, như trước nữa. Nhưng có điều đặc biệt tưởng của công trình. Trong đề cương này, theo yêu cầu của “Cần kiệm liêm chính bất đắc dĩ công là đến năm 1967, Nhà nước sau khi đã tập thể, tôi làm thêm phần của anh Vũ Đức Phúc (giai đoạn vi tư”, “tri túc tri chỉ”(1)… Tôi thực sự có bộ Sử Quốc gia, chủ trương viết bộ 1930 – 1945) và được đánh giá tốt nhất (văn bản vẫn còn).  tin vào âm phù nhưng không thể thiếu Văn học sử Quốc gia. Không ngờ tôi dương trợ. Tôi được nhiều Thầy, nhiều được mời tham gia. Danh sách những Đúng là quan hệ giữa hai thầy trò tôi về sau lỏng lẻo dần. quý nhân phù trợ mà người đầu tiên người biên soạn bộ Văn học sử này Có lần gặp tôi trong đám cưới con chị Đặng Anh Đào, Thầy quyết định nhất chính là sư phụ (Thầy được Ban Tổ chức Trung ương duyệt nhếch mép và nói với tôi: “Quên nhau rồi há”. Tôi nghe mà mà cũng là cha) Đặng Thai Mai mà trọn và Chính phủ ra quyết định có chữ ký hối hận. Tự thấy là mình ăn ở chưa phải đạo. Nên ngày Thầy đời tôi chịu ơn. của Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị. Tôi vào bệnh viện Việt - Xô trước lúc về cõi thiên thu, tôi đã được mời tham gia trong khi ở Khoa xin được lập đội sĩ tử vào phục vụ Thầy. Nhưng gia đình Năm nay, nhân dịp Kỷ niệm 70 năm Văn có những bậc đàn anh như Lê Trí cho biết đã có kế hoạch chu đáo rồi. Tôi chỉ còn cách khác là thành lập Trường Đại học Sư phạm Hà Viễn, Trương Chính, Bùi Văn Nguyên, vào một số buổi, cứ 5 giờ sáng, từ Mai Dịch đi xe hàng vào Nội, thánh địa của tôi, đất hứa của tôi, bệnh viện để giúp Thầy làm vệ sinh, ăn sáng, thuốc men theo sinh địa của tôi, trong đó có Khoa Văn 60 70 năm Sư phạm Văn khoa bệnh viện. Sau đó, ngồi chơi với Thầy đến gần trưa mới ra về. trăm quý ngàn yêu mà đến nay tôi đã Trong dịp này, mặc dù Thầy đã yếu nhiều nhưng thầy trò vẫn từng có mặt 67 năm trong tình thương lai rai với nhau nhiều chuyện, chuyện đất nước, chuyện giáo của đồng nghiệp của bao thế hệ sinh dục, chuyện văn chương, chuyện các giáo sư, các cán bộ giảng viên mà nay người còn người mất, tôi dạy bị xử lý thời Nhân văn - Giai phẩm. Ấn tượng rõ nét viết những dòng chữ này để thêm một lần tạ ơn thầy Đặng Thai Mai, nhân đức tuyệt trần, danh nhân văn hóa của đất nước, vị Hiệu trưởng kiêm Chủ nhiệm Khoa Văn đầu tiên của nhà trường, người tái sinh đời tôi. Xin Thầy nhận cho, vị Đại sư phụ vạn vạn lần kính yêu và biết ơn của con! l (Yên Hòa thư trai, 7/2021. Chờ đón lễ Vu lan) GS.NGND Nguyễn Đình Chú

Tôi không đọc báo Nhân tBừÀnI HgưỌờCi tQhUầÝy của Nhân dân, của Cách mạng mà thầy Dân hằng ngày, mà báo Sài xem như công việc thiết thân của chính Gòn Giải Phóng thì có khi ĐÃ KHUẤT mình. Trước thái độ như vậy, bất cứ ai không đăng các cáo phó và ai có thiện chí, có lương tâm không tin buồn ở Hà Nội, nên Giáo tôi không gặp mấy trở ngại. bao giờ từ chối nhiệm vụ của mình khi sư Nguyễn Lương Ngọc (1910-1994) Tôi vui vẻ nhận lời. Vì yêu được ủy thác, dù nhiệm vụ khó khăn qua đời một thời gian sau, đọc báo Văn nghề dạy học, yêu khoa học đến mấy. Tôi mường tượng như phong Nghệ có đăng tin, ảnh và bài viết của sư phạm cũng có, song cũng cách ấy của thầy Ngọc cũng là phong nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh, tôi mới có phần cảm động trước thái cách của Bác Hồ, của cả một lớp cán bộ biết. Niềm thương tiếc, xót xa xen nỗi độ ân cần và lý lẽ thiết tha cách mạng ưu tú thời mở nước. Ngoài ân hận, ngậm ngùi. Một hình bóng thân của thầy. Có lẽ từ cuộc trò công việc dạy học, có một thời kỳ tôi yêu của một bậc hiền nhân đã lặng lẽ đi chuyện đó mà suốt cả cuộc làm công tác lãnh đạo, quản lý nhà vào vĩnh viễn. Trong muôn vàn tưởng đời về sau, thầy trò chúng trường. Tôi nghiệm ra rằng: không lần niệm về người thầy đáng kính ấy, tôi tôi tương đắc. Riêng tôi, đối nào tôi học theo cách làm việc của thầy ghi lại sau đây một bài học quý từ đạo với công việc giáo dục, ngoài tình cảm ra, có nhiều điều tìm Ngọc mà tôi không gặp thuận lợi và đức, nhân cách của thầy đã từng khắc tòi, suy nghĩ. Có cái gì như ngẫu nhiên mà lại như do số phận thành công. Bởi vì bản thân tôi, tôi đã đậm nét trong cuộc đời tôi, trong mối xếp đặt: Khi thầy Ngọc kiêm Viện trưởng Viện Khoa học được thuyết phục, động viên cũng bởi nhân duyên thầy trò đã hơn 40 năm, Giáo dục thì tôi là cán bộ nghiên cứu của Viện, khi tôi trở về một phong cách làm việc đầy tinh thần cho đến ngày kẻ còn người khuất… làm cán bộ giảng dạy của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội nhân ái như thế. không lâu thì Bộ lại điều thầy trở về làm Hiệu trưởng Đại học Năm 1950, Trường Đại học Quốc gia Sư phạm Hà Nội. Đó là những năm tháng gian lao, hào hùng Trong bao nhiêu bài học thầy để lại Việt Nam chia làm hai: Đại học Tổng của cuộc kháng chiến cứu nước không bao giờ quên. Sau 1975, cho thế hệ sau, tôi muốn trân trọng hợp ở lại trung tâm thành phố, Đại học tôi lại được đặt vào nhiệm vụ y như thầy trước kia: làm Hiệu khắc ghi một bài học trên đây, mong Sư phạm chuyển ra ngoại ô Cầu Giấy, trưởng Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, rồi làm Phân Viện nó có ích cho nhiều người hôm nay và cây số 8 đường Hà Nội - Sơn Tây. Ở đó, trưởng Phân Viện Khoa học Giáo dục tại TP. Hồ Chí Minh. mai đây. Trường Trung cấp Sư phạm Trung ương Ở cương vị công tác của mình, rất nhiều lần trước các quyết chuyển từ khu học xá về, giải thể và hòa định khó khăn trong công tác, tôi thường tự hỏi: trong trường Những năm tôi phụ trách Trường Đại nhập vào Trường Đại học Sư phạm. Tôi hợp này, nếu là thầy Ngọc, thầy sẽ xử lý như thế nào đây? Và học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, thầy là giáo viên của trường này được chuyển tôi đã xử lí công việc theo cái mẫu mà tôi tưởng tượng ra là Nguyễn Lương Ngọc đã về hưu, sống thành cán bộ giảng dạy của Khoa Văn Sử thầy Ngọc sẽ xử lý như thế. Và thường thường thì tôi thấy thanh bạch ở căn gác nghèo phố Châu do Giáo sư Nguyễn Lương Ngọc, người đó là các cách giải quyết hợp lý, hợp tình nhất, thuận lợi cho Long, Hà Nội. Lần nào ra công tác ở thầy cũ của tôi, làm chủ nhiệm, dưới công việc lẫn con người. Mỗi lần gặp thầy, tôi kể chuyện ấy Thủ đô, tôi cũng ghé thăm thầy. Tôi có quyền của Giáo sư Phạm Huy Thông, cho thầy nghe, thầy chỉ cười hiền và khuyến khích tôi: “Cảm ghi lại một lần đến thăm thầy thành bài Hiệu trưởng đầu tiên của Trường. ơn anh, song anh giải quyết sáng hơn tôi!”. thơ sau đây: Một trong những điều tôi học được ở thầy là thái độ khiêm Một buổi sáng, tôi đang ngồi soạn bài cung, trọng thị đối với con người, đối với học trò, đối với \"Căn gác nghèo thanh bạch trong phòng riêng ở khu nhà tập thể thì cán bộ, nhân viên bất cứ ai dưới quyền mình. Như tôi đã kể Con ghé lại thăm thầy thầy Ngọc bước vào. Nét mặt thầy hiền bên trên, khi trao nhiệm vụ cho tôi, thầy không gọi tôi lên Đôi ghế bành cũ rách từ và trang trọng. Phòng chật, tôi ngồi văn phòng, mà đích thân đến tận nơi tôi làm việc, ân cần giải Hai thầy trò cầm tay: ở bàn làm việc còn thầy ngồi ghé vào thích, thuyết phục, vận động, trân trọng ủy thác công việc - Thầy dạo này hơi yếu. giường của tôi đặt cạnh bàn, đặt mũ và với tất cả niềm yêu thương, tin cậy xuất phát từ tấm lòng Con về Nam lâu ngày… cặp xuống giường. Ngày ấy, tôi mới 28 công minh, vô tư của thầy đối với công việc chung, công việc Nụ cười như lửa ấm tuổi và thầy ở vào tuổi của cha tôi và Nét hiền không đổi thay đang là Thủ trưởng mới của tôi. Thầy Tuổi già xích gần lại đến thăm tôi tận nhà để “vận động” tôi tham gia tổ Bộ môn Phương pháp Cảnh nghèo không ai hay giảng dạy văn học do Giáo sư và nhà Thầy trước làm Hiệu trưởng thơ Vũ Đình Liên phụ trách. Tôi gọi là “vận động” vì ngày ấy Trường Đại học Con giờ Hiệu trưởng đây Sư phạm mới thành lập, các bộ môn về Biết rằng đời đạm bạc khoa học sư phạm còn rất mới, phần lớn cán bộ giảng dạy là các sinh viên Con cũng xin theo thầy…\" tốt nghiệp ưu tú được giữ lại trường, chưa mấy ai kinh qua giáo dục phổ Bài thơ này tôi tặng cho thầy năm thông hay giảng dạy trung học. Hơn 1982, năm ấy, ngành Giáo dục được tặng nữa, tâm lý chung của các giảng viên thưởng Huân chương Hồ Chí Minh. trẻ là thích đi vào các bộ môn “khoa học cơ bản” mà họ cho là có triển vọng Con người ta không ai sống mãi trên hơn, còn các môn “khoa học sư phạm” đời. Song những bậc hiền nhân như thì tuy cần thiết đấy song chẳng qua Giáo sư Nguyễn Lương Ngọc tuy qua chỉ là thứ “khoa học nghiệp vụ” thôi, đời mà tấm gương sáng, bài học hay về giá trị dù sao cũng thấp hơn một bậc. đạo làm người vẫn sống mãi trong lòng Cuộc “vận động” của thầy Ngọc đối với và trong đời các thế hệ kế tiếp nhau thực hiện một sự nghiệp mà càng về sau càng tốt đẹp hơn, cao cả và rộng lớn thêm mãi mãi… l 1994 PGS.NGND Trần Thanh Đạm 61

Những gương mặt thân thương Đó là cố Giáo sư - Tiến sĩ Người thầy Nguyễn Mạnh Tường. Thầy không phải là giáo sư đầuĐẠI HỌC tiên đại học đầu tiên duy nhất CỦA của tôi, bên cạnh các tên tuổi lớn khác: Đặng Thai Mai, Trần Văn ĐỜI Giàu, Cao Xuân Huy, Đào Duy Anh, Nguyễn Đức Chính, Trương Tửu,... TÔI nhưng thầy là khuôn mặt độc đáo, đặc sắc trong số các vị đó, để lại những kỷ cũng có cái gì để thầy tự phụ chứ! Phải nói rằng, nhờ thầy lại lắm lý luận ba hoa, bị thầy Tường niệm không bao giờ quên trong ký ức Tường, chúng tôi mới có ý thức rằng mình đã là sinh viên đại chặn lại, bày cho cách viết tiểu luận đại và trong cuộc đời tôi. học, dù học đại học kháng chiến ở cái xó nhà quê này, song học, có đề tài hạn chế. Không được vu vẫn là khóa đại học đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ khoát, phải biết sử dụng tài liệu tham Tôi được học với GS Nguyễn Mạnh Cộng hòa đang anh dũng kháng chiến. khảo, biết trích dẫn, chú giải, phân biệt Tường tại Trường Dự bị Đại học và Sư ý của mình ở chỗ nào, ý của người khác phạm Cao cấp thời kháng chiến chống Suốt cả thời Pháp thuộc, cho đến Cách mạng Tháng Tám ở chỗ nào, thầy gọi đó là làm quy chiếu Pháp trong hai năm 1952 và 1953 tại 1945, cả nước Việt Nam chưa từng có Đại học Văn khoa, muốn (reference) trong nghiên cứu văn học. một làng quê bên bờ sông Chu mang học Văn khoa phải sang Pháp học, như thầy Tường. Tuy có Ngày đó, chúng tôi cho đó là cách học cái tên dân dã: Chợ Đu - Cầu Kè, thuộc vẻ tự phụ song điều thầy Tường nói, chúng tôi thấy đó là sự của nhà trường thực dân, tư sản, ngày huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa. thật, cho đến ngày nay tôi vẫn thây như thế. Ấn tượng đầu nay nhớ lại mới thấy mình là đồ dốt tiên của tôi với GS Nguyễn Mạnh Tường là như vậy. Rất độc nát, trẻ con, ếch ngồi đáy giếng, không Ngay trong buổi lên lớp đầu tiên đáo và đặc biệt, rất có cá tính, cũng như cái trường đại học biết trời cao đất rộng là gì. vào một buổi chiều tối trên một sân kháng chiến của chúng tôi ngày đó vậy. gạch “nhà địa chủ”, lớp chúng tôi vừa Cũng như thầy Mai, thầy Tường dạy từ Nghệ An “hành quân” ra được thầy Có lẽ điều khổ sở của thầy Tường trong quá trình dạy chúng tôi không được liên tục, giáo trình mở đầu bằng một câu nói tự giới thiệu: chúng tôi là làm sao đưa cái khối kiến thức uyên bác từ đầu hay bị bỏ dở. Không phải vì sức khỏe mà “Tôi là Nguyễn Mạnh Tường, Văn óc của thầy về văn hóa, văn học phương Tây vào các đầu óc vì thầy rất bận rộn. Thầy thường ra Việt khoa Tiến sĩ, Luật khoa Tiến sĩ, Giáo còn quá hạn hẹp của chúng tôi. Bắc họp, đi cả tháng mới về, đi bộ thôi sư đại học, luật sư tòa Thượng thẩm. song có “ba lô viên”, tức người cần vụ Các anh được học các thầy như tôi mới Trong những buổi học đêm khuya dưới ánh đèn dầu tự tạo, đi theo phục vụ, mang ba lô và lo đời gọi là học đại học, dù chỉ mới là dự bị trong điều kiện tài liệu, sách vở còn quá hạn chế, nguồn thông sống dọc đường. Thời đó như thế là ưu đại học thôi”. Khi còn ở Nghệ An, lớp tin chỉ từ lời giảng của thầy được chúng tôi ghi chép vội vàng, đãi đối với trí thức, cán bộ cao cấp như chúng tôi đã được học giáo trình: Các chỗ được chỗ mất. Thầy lại phải giảng những chuyện bên Tây thầy. Chuyến đi xa lâu nhất của thầy tư trào văn học phương Tây với GS Đặng bằng tiếng Việt, nhiều thông tin chưa kịp vào đầu chúng tôi là được cử đi trong đoàn đại biểu của Thai Mai, song học còn dở dang vì đã vung vãi, rơi rụng ra ngoài. Tuy nhiên, đối với tôi và nhiều Uỷ ban Bảo vệ Hòa bình thế giới của thầy Mai đau yếu luôn. Ra Thanh Hóa, bạn cùng học ngày đó, những lời thầy giảng không phải là Việt Nam dự Hội nghị Hòa bình châu được học tiếp với thầy Tường, bắt đầu “nước đổ đầu vịt” cả. Tuy giáo trình của thầy phải bỏ dở ở Á ở Bắc Kinh và Hội nghị Hòa bình thế bằng Văn học cổ đại Hy Lạp - La Mã. phần chủ nghĩa cổ điển Pháp thế kỷ XVII, song một phác đồ giới ở Vienne. Đó là chuyến đi làm thầy Tất nhiên, lũ sinh viên chúng tôi ngày về Văn học phương Tây từ cổ đại Hy Lạp qua trung đại, Phục phấn khởi, thoả mãn nhất. Từ chuyến đi ấy đều có trình độ ngang tú tài, lại từ Hưng rồi các thế kỷ về sau chủ yếu là Văn học Pháp vẫn còn đó trở về, thầy đọc cho chúng tôi nghe các địa phương và chiến trường về học đọng lại trong trí nhớ của bọn sinh viên chúng tôi, để công mấy bài thầy viết bằng tiếng Pháp được không phải là bọn “mỏ trăng” cả. Tuy việc học tập, nghiên cứu về sau tiếp tục bổ sung, lấp đầy dần công bố ở nước ngoài. Như tôi đã nói, vậy cũng rất phấn khởi vì mình được dần. Đúng như lời thầy giảng ngày ấy, đấy là giáo trình gọi là nghe các bài của thầy, chúng tôi càng học đại học với giáo sư đại học thực Initiation à la litterature occidentale (Khởi đầu vào văn chương bái phục thầy về học vấn, văn chương và sự, tuy được phủ đầu bằng một sự dẫn phương Tây). cả tinh thần yêu nước nữa. Tôi nhớ mấy nhập choáng váng như trên. Học đại học thì phải nghe giảng rồi phải làm bài. Bọn Văn Khác với các giáo sư khác thường có khoa thường giỏi mồm mép song viết lách lại kém, khi viết phong thái khiêm tốn, thực sự hay giả vờ, phong thái của GS Nguyễn Mạnh Tường thẳng băng như vậy. Nhiều người trong chúng tôi đã nghe tiếng thầy từ trước cho nên không lấy làm lạ, lại càng lấy làm khoái, chỉ lo học không nổi vì thầy giỏi quá mà mình dốt quá thôi. Riêng tôi lúc ấy 20 tuổi, nghệ rằng mới 22 tuổi rưỡi, thầy đã là Bi-docteur (hai bằng Tiến sĩ) ở bên Tây thì thật là ghê gớm lắm. Thầy tự phụ thật song 62 70 năm Sư phạm Văn khoa

chi tiết. Trong bài thầy viết phát trên Cao cấp (ở lớp này chúng tôi được học Giáo dục học với thầy Sinh thời của thầy, tôi được biết Đài phát thanh Leningrad khi đi qua Tường), chúng tôi ra trường và về các trường cấp III để dạy những người như cố Thủ tướng Phạm Liên Xô, thầy nhắc đến vở nhạc vũ kịch học. Tôi được cử sang dạy Sư phạm Trung cấp ở Khu học xá Văn Đồng, cố Bộ trưởng Nguyễn Văn Hồ thiên nga của Tchaikovsky, trong đó Trung ương. Bản thân tôi những năm làm việc ở Viện Giáo Huyên, cố Viện trưởng Nguyễn Lương nhân vật chính là nàng công chúa bị tên dục thuộc Bộ Giáo dục trong chiến tranh chống Mỹ, có một Ngọc đều rất kính trọng thầy và chúng ác thần dưới dạng ác điểu hãm hại, biến số lần đi sơ tán tránh bom Mỹ với thầy ở nông thôn. Tôi rất tôi cũng noi gương các vị đó. Tôi lại thành thiên nga, song nhờ tình yêu của cảm động thấy người trí thức nổi tiếng ngày xưa ấy trong thường nghĩ: đến khi mình hiểu được vị hoàng tử nên được trở lại làm người. phong độ của một ông già cần kiệm, cần mẫn, sinh hoạt giản thầy, có những điều cần hỏi thầy để học Trong bài viết của mình, thầy so sánh dị, vui vẻ, đồng cam cộng khổ với nhân dân, trên tay lúc nào thì thầy lại không còn nữa. Giá mình Việt Nam đang bị Pháp xâm lược với cũng có một cuốn sách văn học bằng tiếng Pháp. Ở Viện Giáo ngày xưa mà là mình bây giờ thì có bao nàng công chúa bị ác thần hãm hại, rồi dục, tôi đã nhiều lần xin ý kiến của thầy về văn học, thầy chỉ nhiêu điều có thể hỏi và học ở thầy, bây đây sẽ trở lại làm người. Chúng tôi tán dẫn rất nhiệt tình, nhất là về phương pháp dạy văn theo kinh giờ có muốn cũng không làm được. Rồi tụng thầy đem chuông đi đánh ở nước nghiệm và truyền thống của nhà trường Pháp, với các giáo sư nghĩ lại đến lượt mình cũng vậy, ngày ngoài như vậy là tiếng chuông kêu to danh tiếng như G. Lanson, V. Vianey vốn cũng là các giáo sư nay mình có bao nhiêu điều có thể nói lắm, vang lắm. Trong bài thầy viết ở của thầy những năm đầu thế kỷ XX. Chính thầy đã chỉ dẫn với học trò, song họ lại có những quan Vienne gửi đăng báo La Démocratie cho tôi tìm đọc và dịch bài tựa sách Lịch sử văn học Pháp của tâm mới, khác, có vẻ chẳng cần gì đến nouvelle (Báo Dân chủ mới) của Đảng vị đại sư G. Lanson, một nhà bác học đồng thời một nhà sư học thức và kinh nghiệm của mình. Cộng sản Pháp. Tôi nhớ một hình phạm lớn của nước Pháp, có tư tưởng rất gần với chủ nghĩa Đến khi sau này, cũng như mình ngày ảnh thầy viết về sông Danube trong Marx. Bài tựa này đề cập đến việc dạy văn ở trường đại học nay, họ hiểu được và muốn hỏi thầy bài ấy: “…những điệu vĩ cầm của đàn ve và trung học. điều này, điều kia thì mình lại không trong những khu rừng hai bên bờ sông còn để trả lời họ nữa. Danube...” (...les violons des cigales dans Ngày thầy Tường qua đời, tôi ở trong Nam, không được les forêts sur les deux rives du Danube). tin và cũng không được đưa tiễn thầy. Nhớ lại hình ảnh thầy Dù sao thì đó cũng là sự tiếp nối và Ngồi ở một làng quê Thanh Hoá, chúng Tường, tôi thường cảm kích nghĩ rằng chỉ riêng sự có mặt của đứt đoạn giữa các thế hệ, một lẽ thường tôi được bay bổng sang tận sông Danube thầy trong hàng ngũ những nhà trí thức yêu nước đi kháng trong lịch sử xưa nay. Với những cảm xanh bên châu Âu, thật là kỳ diệu. chiến theo cụ Hồ ngày ấy đã là một sự cổ vũ lớn đối với thế hệ khái như thế, tôi viết mấy lời tưởng thanh niên chúng tôi. Chỉ riêng điều đó thôi đã là một cống niệm đối với người thầy đại học đầu Sau lần đó, thầy Tường cũng không hiến vô giá của thầy cũng như của những người như thầy đối tiên của đời tôi, năm nay nếu còn tại dạy chúng tôi được liên tục vì thầy còn với đất nước, xứng đáng với sự hàm ơn và tưởng nhớ của các thế đã tròn 100 tuổi: Giáo sư Nguyễn bận công việc của một luật sư. Không thế hệ sau này, cần được vinh danh mãi mãi trong lịch sử văn Mạnh Tường kính mến! l lên lớp được, thầy bảo chúng tôi: “Tôi hoá và giáo dục của dân tộc ta. còn bận bào chữa cho mấy ông gián PGS. NGND Trần Thanh Đạm điệp Hòn Mê - Ba Làng”. Nguyên trong thời gian đó, một toán tình báo gián 63 điệp của Pháp lén lút thâm nhập vùng tự do của ta ở vùng biển Hòn Mê - Ba Làng, bị công an ta vây bắt, đưa ra tòa án Liên khu IV xét xử, thầy Tường được mời làm luật sư biện hộ cho bọn chúng. Thầy bảo: “Mình chỉ khuyên chúng nó khai nhận rồi ra Tòa kêu gọi Tòa khoan hồng, giảm án, chứ làm gián điệp cho Tây thì bào chữa thế nào được!”. Đêm xử án bọn này, trên một bãi cỏ rộng căng lều bạt, có đèn điện ắc-quy sáng trưng, hàng ngàn đồng bào đến dự phiên toà, lũ sinh viên chúng tôi cũng kéo nhau đi dự, chủ yếu để nghe thầy Tường bào chữa cho bị cáo, cũng để biết tài hùng biện của một vị trạng sư, từng được nổi tiếng là “ngôi sao ở tòa án Montpellier” bên Pháp. Tuy bị hạn chế vì phát biểu bằng tiếng Việt, song trước Tòa, lời bào chữa của thầy cũng rất hùng biện. Tài hùng biện ấy chúng tôi cũng đã được thưởng thức trong các bài giảng của thầy ở trên lớp. Cuối năm 1953, học xong Sư phạm

Những gương mặt thân thương Giáo sư - Nhà giáo Nhân dân nghệ sĩdKạHyI VvỊăGnIÁO SƯ văn như một nghệ thuật, thậm chí có Lê Trí Viễn (1919-2012) LÀ MỘT NGƯỜI khi như một nghệ thuật biểu diễn, vì - cây đại thụ ngành Ngữ thế thầy hết sức chú trọng tới khâu đọc văn, một hiện tượng quý 1. Giáo sư - Nhà giáo Nhân dân Lê Trí Viễn - diễn cảm. Nhiều lúc, thầy như một diễn hiếm của nền giáo dục Việt người thầy nghệ sĩ, nhà quản lí nghệ sĩ. viên, còn trò là những khán giả cùng Nam. Với 73 năm đứng trên bục giảng, hóa thân và sáng tạo. Trong trạng thái thầy đã góp phần quan trọng vào việc Do vừa là khoa học vừa là nghệ thuật, nghề trồng người thăng hoa người học được tiếp nhận tác đào tạo đội ngũ giáo viên văn, nhiều luôn đòi hỏi các nhà sư phạm vừa phải hiểu thấu đáo đối phẩm bằng nhiều giác quan và đi đến chuyên gia đầu ngành: Nguyễn Đình tượng, vừa phải có nghệ thuật truyền dạy kiến thức. Riêng tận cùng của chữ nghĩa, giờ văn của Chú, Phan Trọng Luận, Nguyễn Văn với giáo viên Văn - môn nghệ thuật ngôn từ, cần có thêm thầy thật sinh động và tràn đầy cảm Hạnh, Nguyễn Nghĩa Dân, Bùi Văn phẩm chất nghệ sĩ. Có người thì năng khiếu này phát lộ, có hứng, dù không ghi chép mà những Ba, Đoàn Trọng Huy, Trần Hữu Tá, người ở dạng tiềm ẩn, cần phải được đánh thức dậy. Nếu thông điệp nghệ thuật vẫn nhẹ nhàng Nguyễn Nghĩa Trọng… và những nghệ thiếu nó, giờ giảng văn không thể hấp dẫn học trò. Nếu khai thấm vào tâm hồn. sĩ tên tuổi: Nguyễn Khoa Điềm, Phạm thác vừa đủ thì việc tiếp nhận kiến thức sẽ đi theo con đường Tiến Duật, Ma Văn Kháng, Dương Thụ, của nghệ thuật: thông qua cái đẹp, bằng cái đẹp. Dĩ nhiên, cái Có lần, bất ngờ, thầy rút gan ruột Hoàng Hưng… đẹp luôn là sự gặp gỡ giữa hai đối cực. Nếu “Nghề nào cũng ngâm một câu thơ của Đỗ Phủ: “Gió có trạng nguyên” (Từ Hy Thái hậu) thì với chúng tôi, Giáo sư lộng trời cao vượn hú dài” (Đăng cao). Không chỉ là nhà giáo tài ba, đức độ, Lê Trí Viễn chính là vị trạng nguyên của nghề dạy văn ở Việt Cái ví dụ đắt giá ấy đã tạo nên hiệu ứng thầy còn là một nhà nghiên cứu lớn, Nam trong thời đại mới. kép. Chúng tôi không chỉ thấy được cái một nhà quản lí mẫu mực, một nghệ sĩ hay của Đường thi, cái tài của Đỗ Phủ tài hoa. Và thầy đã mang nguyên “một Tôi còn nhớ, lần đầu tiên các tân sinh viên Khoa Ngữ văn mà còn cảm nhận được sự khác biệt về lối tài hoa (đó) “qua muôn nẻo lối đời” K23 được gặp vị Trưởng khoa uyên bác, có đôi mắt rất sáng, giọng điệu của thơ cổ so với thơ hiện (1), để rồi hình thành cho mình một bức cử chỉ ân tình, giọng nói ấm áp truyền cảm, một tên tuổi đại: một đằng là giọng ngâm, một đằng chân dung khác biệt so với nhiều đồng chúng tôi đã biết đến trong sách giáo khoa. Rồi thầy đã trở giọng nói. Lối dạy văn nghệ thuật, trên nghiệp cùng thời. Dưới ánh sáng của thành thần tượng của nhiều chàng trai, cô gái Khoa Văn. Lặng cơ sở cảm thụ để tìm ra quy luật của cái tư duy mĩ học, Giáo sư Lê Trí Viễn đã lẽ học theo cách sống, cách làm việc của thầy, chúng tôi cảm đẹp, việc dạy văn như một nghệ thuật hoàn thành xuất sắc mọi trọng trách thấy thật may mắn vì trong đời đã gặp được người thầy tài biểu diễn của thầy đã giúp tôi thắp lửa của mình theo tinh thần nghệ sĩ: yêu năng, tâm huyết. Đó là một người có mĩ cảm đặc biệt, có khả trong trái tim học trò rồi có không ít cái đẹp, đam mê, thăng hoa và không năng cảm thụ văn chương và khả năng truyền cảm hứng. Với giờ giảng thành công. ngừng sáng tạo. Bởi khi là một nghệ sĩ, quan niệm: “Dạy văn lấy cảm làm đầu” (Nhắn gửi), thầy đã dạy giờ giảng của thầy là giờ giảng văn nghệ Dưới góc nhìn của một nhà quản lý thuật, những bài nghiên cứu có hồn, nghệ sĩ, thầy cũng quyết định mở thêm quản lí mà như không quản lí, sức làm môn Nghệ thuật học trong chương việc và hiệu quả công việc ít ai sánh kịp. trình chính khóa cho sinh viên Khoa Dĩ nhiên, sự mực thước của một nhà sư Văn ngành Sư phạm. Và đến hôm nay, phạm, sự cẩn trọng của nhà nghiên cứu môn Nghệ thuật học vẫn còn trong luôn giữ cho người thầy nghệ sĩ tài hoa chương trình hiện hành. mà không tài tử. Vì thế, thầy trở thành gương mặt tiêu biểu của đội ngũ nhà Mãi đến khi sắp sang tuổi bát tuần, giáo Việt Nam hai phần ba thế kỷ qua. vị giáo sư mang trái tim nghệ sĩ vẫn đứng ra thành lập Trường PTTH Với những cống hiến lớn lao về nhiều Nguyễn Khuyến - một ngôi trường kết phương diện, thầy đã được phong học hợp những tinh hoa truyền thống và hàm cao nhất và sớm nhất: học hàm hiện đại, thầy làm Hiệu trưởng cho đến Giáo sư đợt 1 năm 1980, được tặng lúc ra đi. Ngược lại, nhà quản lí nghệ sĩ danh hiệu Nhà giáo Nhân dân đợt 2 năm lại kiên quyết chối từ chức Hiệu trưởng 1990, được nhận giải thưởng Hồ Chí một trường đại học để dành thời gian Minh năm 2012 ; được trao tặng những viết sách. Huân chương: Huân chương Lao động hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến 2. Giáo sư Lê Trí Viễn - chống Pháp hạng Nhì, Huân chương nhà nghiên cứu - nghệ sĩ tài Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất… và hoa và giàu sức sáng tạo. nhiều giải thưởng cao quý khác. Thầy Lê Trí Viễn là một nhà nghiên Ở đây, chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu cứu hàng đầu của ngành Văn. Thầy là chất nghệ sĩ trong nhà giáo, nhà quản lí, người của nhóm Lê Quý Đôn - những nhà nghiên cứu Lê Trí Viễn, với mong người mở đầu cho lịch sử nghiên cứu muốn chạm được vào bí quyết thành văn chương của chế độ mới. Đó là các công của vị giáo sư họ Lê có chí vươn xa. học giả có tâm hồn lãng mạn, được đào tạo bài bản và hết sức nhiệt huyết. 64 70 năm Sư phạm Văn khoa Sau Cách mạng Tháng Tám, nhóm trí

thức yêu nước này đã được giao trọng được những đường viền, chưa đến cái chỗ có một hình dung nhưng Tinh thông Hán học, giỏi Pháp ngữ, trách làm nhiệm vụ tu thư, chỉnh lý, nó đã làm cho người con gái ấy nửa tỉnh nửa mê, nó buộc nàng Lê Trí Viễn còn là một nhà dịch thuật biên soạn sách giáo khoa môn Văn phổ phải ghé mắt nhìn theo hút người, nó khiến cho cảnh vật thành tài hoa có khả năng chuyển dịch hai nền thông và viết những giáo trình lịch sử bâng khuâng, man mác, như có gì vấn vương, quyến luyến, bóng văn hóa. Thầy đã dịch ra chữ quốc ngữ văn học đầu tiên cho các trường đại chiều không muốn đi và tơ liễu thêm tha thướt” (2). nhiều bài thơ Hán Nôm và không ít tác học. Nhiều câu chuyện như: Trí khôn phẩm văn học Pháp, trong đó có Những của ta đây (Cổ tích Việt Nam), Ông lão Cái trong trẻo, tinh sương ấy đã theo vào những câu thơ người khốn khổ của Vích-to Hu-gô; đồng đánh cá và con cá vàng (A. Puskin) mà tài hoa của thầy: thời cũng là tác giả của nhiều cuốn cẩm những người thầy mang tư tưởng duy nang hướng dẫn dạy và học văn, nhiều mỹ lúc đó đưa vào sách giáo khoa ngày “Đêm Thúy Kiều sang nhà Kim Trọng tập bình giảng thơ, là tác giả nhiều bài ấy, đến nay vẫn được giữ nguyên trong Nguyễn Du tắt bớt trăng và vặn thấp ngọn đèn báo và tập thơ Tinh Sương. chương trình. Anh đến với em đêm thần tiên ấy Nếu mỗi số phận chứa một phần lịch Sau 1975, để đáp ứng yêu cầu của Trăng với đèn chuếnh choáng hơi men” sử thì về một phương diện nào đó có cách mạng, giáo sư là người đầu tiên thể nói, lịch sử cuộc đời Giáo sư Lê Trí tham gia xây dựng chương trình, viết  (Đêm ấy đêm này) Viễn đã phản chiếu những nét cơ bản giáo trình, trực tiếp giảng dạy chương Tiếp cận văn chương và cuộc sống bằng trái tim nghệ sĩ, nhà lịch sử phát triển vẻ vang của nền giáo trình đào tạo Thạc sĩ, Tiến sĩ ngành nghiên cứu Lê Trí Viễn luôn có những linh giác đặc biệt để dục, lịch sử nghiên cứu của ngành Văn Văn. Thầy cũng đã hướng dẫn thành phát hiện cái mới. Còn tư duy lí tính soi sáng lại giúp nhà khoa học Việt Nam thời hiện đại và lịch sử công hơn hai chục luận án, luận văn. học không cực đoan. Vì thế, ông luôn chỉ ra một cách xác đáng phát triển huy hoàng của Khoa Ngữ những hạn chế mang tính lịch sử của đối tượng nghiên cứu: văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Thầy không chỉ nghiên cứu chuyên “Trong bảng giá trị kia, đối với chúng ta ngày nay, cố nhiên Thuộc thế hệ vàng của nền giáo dục sâu, mà còn là một nhà nghiên cứu rất phải xem xét lại đôi nét nào đó kể cả nét tốt đẹp nhất như đức hy cách mạng, GS.NGND Lê Trí Viễn là rộng. Thông thường, giáo viên đại học sinh. Hy sinh là đức tính cao quý là phẩm chất tuyệt vời của của người đã góp sức mở đường cho sự hình chỉ tập trung vào một giai đoạn còn người phụ nữ làm vợ và làm mẹ. Nhưng hy sinh để cho chồng ỷ lại thành và phát triển của nền giáo dục thầy lại bao quát toàn bộ nền văn học là trở thành bất bình đẳng, để con không biết tự lập hóa hư thân, nước nhà, người gieo mầm cho những nước nhà: từ dân gian đến bác học, từ thì lại là sai lầm về giáo dục” (3). tài năng l trung đại đến hiện đại và hầu hết các Hoặc có lần so sánh bản dịch với văn bản gốc, vị giáo sư tác gia ở Đàng Ngoài và Đàng Trong... đã chỉ ra chỗ lúng túng của dịch giả Đoàn Thị Điểm khi dịch Trần Thị Trâm, câu thơ “Chín lần gươm báu trao tay...” nhưng ông lại khẳng Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội Công trình của thầy rất đa dạng. Có định bản dịch của Hồng Hà nữ sĩ “là một tuyệt tác”, “tác giả khi, chỉ là thẩm bình một bài ca dao, đã sáng tác lại khúc Chinh phụ ngâm, hay đến mức làm cho người 65 lại có những công trình với quy mô rất ta quên bản gốc” (4). lớn. Thành tựu nghiên cứu của thầy rất lớn: 46 cuốn sách, 23 cuốn in riêng và 1 Vũ Nguyên Hà, Báo Giáo dục & Thời đại, 15.5.2009 23 cuốn in chung. Trong đó, có hai công 2 Lê Trí Viễn, Một đời dạy văn, viết văn, NXB Giáo dục, 2006, Tập 2, trang 440 trình rất giá trị là: Đặc trưng văn học 3 Lê Trí Viễn, SĐD, Tập 3, trang 84 trung đại Việt Nam, Quy luật phát triển 4 Lê Trí Viễn, SĐD, Tập 2, trang 320 lịch sử văn học Việt Nam. Kết quả nghiên cứu chủ yếu, được giáo sư được tập hợp trong bộ sách đồ sộ 6 cuốn, gần 6000 trang: Lê Trí Viễn một đời dạy văn, viết văn do nhà xuất bản Giáo dục ấn hành năm 2006. Bộ sách là phần tinh hoa, tinh huyết của một nhà giáo nghệ sĩ suốt 3/4 thế kỷ, được sắp xếp theo ba nguyên tắc: tính toàn tập, tính hệ thống và tính thẩm mĩ. Tập 1: là bình và giảng. Tập 2 và 3 là phần nghiên cứu phê bình. Tập 4 là các chuyên luận. Tập 5 là thí luận - sáng tác. Tập 6 là dịch thuật. Điều thú vị là các công trình của vị học giả không chỉ khúc chiết, uyên bác mà còn rất có văn. Dấu ấn tài hoa nghệ sĩ in đậm làm nên bút hồn của tác giả, làm cho không ít trang lí luận được viết như một trang thơ. Chẳng hạn, đoạn văn viết về mối tình đầu của Kim Kiều: “Nó mơ hồ phảng phất như cánh bướm non, dịu mùi hương thoảng. Nó chưa có

Những gương mặt thân thương Cách đây 94 năm (ngày Người thầy Nguyễn Bách Khoa (ảnh) là cuốn sách về GS Trương Tửu (1913 - 1999) do Kiều Mai Sơn biên soạn, 18/11/1913), cậu bé Trương Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP.HCM Tửu đã chào đời tại Hà Nội trong một gia đình dân nghèo GIÁO SƯ TRƯƠNG TỬU thành thị. Năm 1927, chàng trai trẻ tham gia bãi khoá ở Hà Nội để “NHÀ PHÊ BÌNH VĂN HỌC” luận đã định giá thi nhân này, tác phẩm đòi thực dân Pháp thả tác giả (Phạm Tất nọ” để “làm hết nghĩa vụ của một nhà Đắc) bài thơ Chiêu hồn nước, rồi bị bắt và Đọc Trương Tửu hơi muộn, do hoàn cảnh lịch sử của một phê bình tôn thờ khoa học” (Nguyễn Du bị đuổi học. Bài báo đầu tiên của ông có thời mà công trình của Giáo sư ít được công khai, nhưng nhà và Truyện Kiều, 1942). Chữ “khoa học” nhan đề Triết lý Truyện Kiều đăng trên phê bình Phạm Xuân Nguyên lại bắt gặp và phát hiện trong được Trương Tửu dùng với hai nghĩa: Đông Tây tuần báo tháng 11 năm 1931. phê bình văn học, Trương Tửu đi sâu vào nghiên cứu khoa thứ nhất, sự “khách quan” trong phân Khi bút danh Trương Tửu bị cấm, ông học. Như vậy, so với lối phê bình theo kiểu trực giác, duy cảm tích đánh giá sự kiện, hiện tượng; thứ đã phải lấy bút danh Nguyễn Bách Khoa một thời (hiện nay vẫn đang tồn tại - PV), lối phê bình khoa hai, khả năng vận dụng các lý thuyết để viết sách. Không chỉ viết báo, sách, học của Trương Tửu gây sự khác lạ, chú ý. “Sau này, do hoàn của những bộ môn khoa học như tâm lý ông còn là một nhà giáo, giáo sư, thầy cảnh làm việc của tôi, càng đọc, tôi càng cảm phục ông. Ông học, di truyền học, xã hội học vào phê thuốc châm cứu. Dù ở bất cứ cương vị cũng như các nhà phê bình khác, cũng có trực giác. Những bài bình văn chương. nào, ông cũng đều hoàn thành xuất sắc ông bình về thơ và phân tích thơ Tản Đà rất hay và vẫn còn trách nhiệm của mình, được bạn bè, đồng có ý nghĩa đến thời nay. Ông có khác hơn là bởi kiểu phân Trương Tửu đã “minh chứng” hiệu nghiệp và các học trò yêu quý. tích khoa học trong văn học. Hơn nữa, khi mà lối phê bình quả của lối phê bình khoa học bằng việc hiện nay đang chuyển dịch từ cảm tính sang lý tính, thì việc làm “cũ” nhất trong văn học chúng ta là “Tôi học thầy Trương Tửu niên khoá học hỏi ông là điều cần thiết, và sự xuất bản cuốn Trương Tửu bàn về Truyện Kiều. Ông cho rằng, phê 1954-1957. Với tôi, thầy Tửu là người - Tuyển tập nghiên cứu phê bình (NXB Lao động và Trung tâm bình văn học phải tìm hiểu cá tính nhà mà cả lớp đều phải kính phục về tính Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây phát hành quý 4/2007) là rất văn; cá tính là “thể cách riêng của một thông minh. Tôi chưa thấy ai giảng hay đúng lúc” - Ông Phạm Xuân Nguyên quả quyết. nhà văn. Nhờ có cá tính mà mỗi người như thầy, kể cả đọc cũng rất hấp dẫn. chúng ta cảm xúc, suy nghĩ và hành động Tôi còn nhớ, khi nghe thầy đọc bài Bình Phê bình khoa học, phương pháp mà theo Trương Tửu cần một cách khác, không giống ai”. Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, đến nửa “gác bỏ hết những tình cảm riêng, những thành kiến và dư lớp chúng tôi đứng dậy để nghe. Điểm đặc biệt nữa ở thầy là luôn tạo cho học 1 Bài này được viết trước khi Hội thảo “Nhà văn - GS Trương Tửu” được tổ chức vào năm 2008 tại Trường ĐHSP Hà Nội. sinh phương pháp tư duy. Tôi rất kỳ lạ bởi thầy học môn xã hội mà lại có phương pháp tư duy khoa học như thế. Thầy còn rất quý học sinh, giữa chúng tôi và thầy không hề có khoảng cách. Thầy coi chúng tôi như con và chúng tôi cũng coi thầy như cha”, bác Đoàn Minh Tân, một cựu học trò của cố Giáo sư Trương Tửu, tâm sự trong buổi Gặp mặt tưởng nhớ Nhà văn - Giáo sư Trương Tửu nhân kỷ niệm 94 năm ngày sinh của ông (1913-2007) vừa được tổ chức ngày 2-11 tại Thư viện - Café Đông Tây, Hà Nội. Nhận thấy trong tay người học trò tóc đã điểm nhiều sợi bạc này một cuốn sách nhỏ in hình Giáo sư Trương Tửu nhân sự kiện giáo sư thượng thọ 80 tuổi, tôi ngạc nhiên hỏi: “Bác vẫn còn giữ cuốn đó đến ngày nay?”, bác trả lời: “Tôi và vài người bạn ở TP. Hồ Chí Minh ra đợt này quyết định in mấy trăm cuốn về bài khảo cứu chúng tôi sưu tầm được này để tặng những người bạn cùng lớp họp mặt vào hôm tới. Chúng tôi cũng đã cho in một cuốn sách trong đó có bài viết về Từ Hải của Giáo sư Trương Tửu. Cụ viết tài tình lắm!”. Nhiều người trong buổi gặp mặt cũng đồng quan điểm với người học trò này. 66 70 năm Sư phạm Văn khoa

Trích lời dẫn cho cuộc Hội thảo về TRƯƠNG TỬU tại Khoa Ngữ văn ĐHSP Hà Nội, 28/11/2008 “NGƯỜI BIẾT ĐẶT VẤN ĐỀ” … Trong mắt người bạn thân Nguyễn Vỹ, lý thuyết rất hiện đại và cũng rất phức tạp về ông đã là huyền thoại ngay khi ông còn trẻ: văn hoá, văn học rồi từ đó đề xuất được không PGS.TS Trần Ngọc Vương cho biết, “Với rất ít, anh xây dựng rất nhiều. Với một ít ý kiến có giá trị “dẫn đường” cho khoa nghiên cuốn sách Tâm lý và Tư tưởng Nguyễn chấm nhỏ nảy ra từ hình thức của sự vật, anh cứu phê bình văn học ở Việt Nam trước 1945. Công Trứ của cố Giáo sư Trương Tửu có kéo một đường thẳng tới tư tưởng vô cực. Anh giá trị đặt dấu mốc cho những nghiên là nhà toán học chống giáo lý đi tìm một bài Từ quan niệm về văn chương đến viết nghiên cứu về Nguyễn Công Trứ. Ngoài ra, ông toán cho nhân sinh, với những công thức do cứu phê bình, Trương Tửu tỏ ra khá nhất quán ở còn nhận thấy: “Kinh thi Việt Nam được anh tự chế biến ra, không theo công thức điển quan điểm lịch sử và quan điểm thực tiễn. Ông Trương Tửu viết trong khoảng thời hình nào cả. Và không bao giờ anh đúng, ít khi có thái độ khách quan đối với học giả Phạm gian 1941-1946, đọc không thật hấp anh nói phải nhưng luôn luôn anh có lý” (…). Quỳnh, có sự lý giải sâu sắc về hai nét truyền dẫn nhưng cách đặt vấn đề thì rất hay Với anh, sai lầm chống chân lý và luôn luôn sai thống (lãng mạn và luân lí) trong văn chương bởi Kinh thi Việt Nam là ý thức tạo tác lầm thắng chân lý”. Việt Nam khi nhận diện phong cách Tản Đà, ra chuẩn mực cổ điển. Trương Tửu đã có nhiều phát hiện tinh tế về sáng tác của Thế hệ thống hoá giá trị của ca dao, dân ca Và sau khi can đảm đi hết con đường trần thế, Lữ, Lan Khai, Lưu Trọng Lư, Khái Hưng, Nhất Việt Nam để tìm ra cái giá trị nền tảng lời nhắn nhủ của ông rất giống lời một hiền triết: Linh… Tuy nhiên cũng dễ thấy là việc ông vận của văn hoá Việt Nam, đấy là cách đặt “Con không nhất thiết phải là Đảng viên nhưng dụng học thuyết Freud vào phân tích văn học vấn đề rất thú vị”. con nhất thiết phải sống như người Cộng sản khá vụng về, thô thiển, nhiều nhận định chủ chân chính về trí tuệ, tình cảm và nhân cách”. quan, cực đoan… Chúng tôi cho rằng cả ông PGS.TS Trần Ngọc Vương thể hiện lẫn người tranh cãi với ông đều cùng đang đi sự tiếc nuối bởi vì “nếu mà mình đọc Vẫn biết con người luôn là một bản thể phức tìm chân lý. Bây giờ nhân loại nói nhiều đến sớm hơn cuốn viết về Nguyễn Công tạp, bí ẩn, có khi nhiều nhân cách cùng tồn tại “chân lý tương đối”. Nhãn quan dân chủ, cởi Trứ thì sẽ phát triển được một số ý trong một thân xác nhưng ông vẫn là nỗi tò mò, mở này đòi hỏi ở chúng ta thái độ công bằng tưởng ở đây và hoàn thiện hơn một số thắc mắc của nhiều kẻ hậu sinh. Chúng tôi cho khách quan khi đối xử với những sự khác biệt ý tưởng của cụ”. Nhưng ông cũng mừng rằng việc nghiên cứu về ông hiện đang đặt ra chính kiến trong học thuật. Sự nghiệp nghiên vì trong lớp người đi trước, có người như một đòi hỏi cấp bách cũng như nền văn cứu phê bình của Trương Tửu chắc chắn sẽ nói đúng ý mình và gần với mình. hoá, văn học dân tộc còn khá nhiều khoảng được đánh giá lại, điềm tĩnh và công bằng hơn. trống cần được nhận diện và lấp đầy bằng tâm Trương Tửu là người dường như huyết và bằng trách nhiệm của nhiều người. − Ba là với tư cách nhà hoạt động xã hội, không hề thờ ơ trước bất cứ kiến thức người sáng lập hay chủ trì những cơ quan văn nào. Ông hiểu thông và vận dụng sáng Từ cuộc đời hoạt động của Trương Tửu, có hóa như Đại Đồng thư xã, nhà xuất bản Hàn tạo các thuyết và học thuyết. Có lẽ chính thể hình dung mấy hướng nghiên cứu chính: Thuyên, người tham gia tổ chức Đoàn Văn nghệ vì vậy mà có ý kiến cho rằng, trước năm kháng chiến Liên khu 4, giáo sư văn học trong 1945, ông là một nhà Mác-xít. Để lý giải − Một là những sáng tác tiểu thuyết và các nhà trường đại học đầu tiên của nước Việt ông có mác-xít hay không thì một cuộc truyện của Trương Tửu. Theo Lại Nguyên Ân Nam Dân chủ Cộng hòa, là một nhân vật quan gặp mặt không thể giải đáp hết được. và Nguyễn Hữu Sơn thì hiện đã sưu tập được trọng trong sự kiện Nhân văn - Giai phẩm…, Nhưng không thể phủ nhận năng lực bảy tác phẩm, còn bốn tác phẩm nữa chưa tìm ảnh hưởng của ông như thế nào? Rất cần xem nhạy cảm với cái mới của Trương Tửu. thấy. Đấy đã phải là tất cả sáng tác văn học của xét lại những sai lầm đã khiến ông phải chịu sự “Ông còn có trực giác tiền lý trí về vấn Trương Tửu chưa? Giá trị của chúng đến đâu? phê phán nặng nề suốt một thời gian dài, đồng đề lịch sử văn hoá, văn học, những vấn Vì sao từng được coi là “cây bút tiểu thuyết có thời làm rõ và trân trọng ghi nhận cống hiến đề tồn nghi (chưa ai giải thích)”, PGS. phong cách trong làng tiểu thuyết trước cách của ông trong nỗ lực quảng bá văn hóa, xây TS Vương nhấn mạnh. mạng” nhưng tiểu thuyết Trương Tửu lại ít dựng chương trình dạy và học môn văn ở nhà được bàn tới? trường xã hội chủ nghĩa thuở sơ khai. Không chỉ là nhà phê bình văn học, Trương Tửu còn viết tiểu thuyết. Gia − Hai là các công trình nghiên cứu phê bình − Bốn là về bản lĩnh, nhân cách, con đuờng đình của ông cho biết, sau cuốn Trương của Trương Tửu. Rõ ràng đây là mảng chính số phận của một trí thức, một người thầy trong Tửu - Tuyển tập nghiên cứu phê bình, sưu làm nên tư cách “học giả Trương Tửu”. Không những tương tác cụ thể của thời thế, của truyền tầm, biên soạn bởi TS Trịnh Bá Đĩnh và thể phủ nhận Trương Tửu sớm có ý thức lý thống văn hóa. PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn, không dưới 10 thuyết hoá hoạt động nghiên cứu phê bình. cuốn tiểu thuyết là những sáng tác của Là người “tôn thờ khoa học”, ông coi trọng Nếu việc nghiên cứu những trường hợp như ông sẽ đến tay bạn đọc. phương pháp trong phê bình văn học, mạnh Trương Tửu được làm tốt, bức tranh văn hóa dạn ứng dụng một số triết thuyết mới mẻ mà văn học Việt Nam thế kỉ XX sẽ trở nên phong Để hiểu và đánh giá về Trương Tửu, ông tiếp nhận từ phương Tây vào việc phê bình phú, trung thực hơn, và chúng tôi tin rằng có lẽ phải cần sự nghiên cứu sâu hơn tác giả, tác phẩm. Ông chủ động, tự tin đề xuất không chỉ có nhiều bài học hữu ích được rút ra của các nhà nghiên cứu, các nhà sử học, những quan niệm có tính tiên phong trong ng- về tư tưởng, tài năng, cá tính của các nhà văn, phê bình văn học… Một hội thảo khoa hiên cứu văn học sử. Việc làm rõ những nguồn các học giả lớn, nhiều kinh nghiệm có giá trị học về ông đã được Khoa Văn, Đại học tư tưởng ảnh hưởng đến quan điểm học thuật cho hướng nghiên cứu xã hội học văn học… mà Sư phạm Hà Nội lên ý tưởng và chắc của Trương Tửu có ý nghĩa hết sức quan trọng sâu xa hơn còn là vấn đề nuôi dưỡng niềm tin chắn sẽ sớm thành hiện thực để ông đối khi đánh giá chỗ được, chỗ chưa được cũng vào lẽ công bằng, tình yêu đối với chân lý khoa được như các bạn của mình thoát khỏi như những mâu thuẫn trong các công trình học… đủ để chúng trở thành động lực cho mỗi cái bóng của vụ Nhân văn - Giai phẩm khoa học của ông. Đọc nhiều bài ông viết cách cá nhân đang khát khao tham gia vào sự tiến bộ hồi nào1. nay hơn nửa thế kỷ, chúng tôi thực sự thán chung của cộng đồng l phục một trí tuệ uyên bác, chủ yếu bằng con Nguồn: http://vusta.vn/ đường tự học mà có thể tiếp cận được những PGS.TS NGUYỄN THỊ BÌNH - Khoa Ngữ văn, ĐHSP Hà Nội 67

1.Trương Chính sinh Trương Chính là bút danh quen thuộc với bạn đọc. Họ tên thật của ông là Bùi ngày 16/7/1916 tại xã Trương Chính. Ông là nhà giáo nổi tiếng, nhà phê bình, nghiên cứu văn học bản Thuận Lộc, huyện Can lĩnh và đa tài đáng kính, một ông đồ xứ Nghệ khá điển hình. Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Thời niên thiếu học Việt Nam (1942) thì không tiếp tục nữa, mà viết tập Những 2.Thời gian làm việc ở Trường Quốc học Vinh, sau ra Hà bông hoa dại về dân ca, ca dao Việt Nam đăng trên báo Bạn ở Ban Tu thư thuộc Nội vừa theo học chương trình Tú đường của Lê Hữu Kiều (Nam Mộc), năm 1942 in thành Bộ Giáo dục, Trương tài, vừa nhập cuộc đời sống văn học sách… Với những thành tựu đầu tiên ấy, ông được Vũ Ngọc Chính cùng nhóm Lê bằng những bài báo đăng trên tờ tạp Phan xếp vào hàng ngũ các nhà phê bình trong bộ Nhà văn Quý Đôn(6) biên soạn chí hướng dẫn học tập AJS (Ami de hiện đại (4). Vũ Ngọc Phan (1904-1987) đã có những lời trân bộ Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam le Jeunese) của Bùi Cẩm Chương; tờ trọng đúng mực về nhà phê bình trẻ tuổi: “… đã bắt đầu kỹ gồm 3 tập. Ông được phân công cùng báo tiếng Pháp L’Annam nouveau (An càng và có phương pháp,… nhưng nhiều lúc thiên về luân lý với Huỳnh Lý phụ trách phần Văn học Nam mới) của Nguyễn Văn Vĩnh và tờ quá, hay tin tưởng ở mỹ thuật quá, người ta hóa ra thiên lệch dân gian; cùng Lê Thước phần Văn học Bạn đường của Lê Hữu Kiều. trong xét đoán...”(5). chữ Hán từ thế kỷ X. Riêng ông đảm Trong kháng chiến chống Pháp, ông nhận phần Văn thơ Nôm của Nguyễn làm việc ở Bộ Giao thông công chính … Sau thời tiết chính trị một thời, bây giờ bình tĩnh đọc lại Trãi và nhóm Tao Đàn (tập I); phần Tiểu nằm trong An toàn khu Việt Bắc. Năm một số tác phẩm xuất sắc của nhóm Tự lực văn đoàn, bạn đọc thuyết 1930-1945 và phần Kịch 1930- 1952, được cử sang Trung Quốc học thật sự sững sờ với một số nhận xét táo bạo, tuy khen có quá 1945 (Tập III). Trung văn rồi được giữ lại Khu học xá lời, nhưng không phải không có những hạt nhân hợp lý của Cũng trong thời gian này, ông bắt Trung ương dịch sách Giáo dục học. nhà phê bình 23 tuổi Trương Chính bấy giờ. Chẳng hạn: “Đoạn đầu công việc yêu thích ấp ủ từ lâu Năm 1956 về nước, được Bộ Giáo dục tuyệt (tiểu thuyết của Nhất Linh - HSH chú) vẫn là một kiệt là dịch các tác phẩm của văn hào Lỗ điều về làm việc ở Ban Tu thư Trung tác văn chương Việt Nam và tác giả của nó vẫn được người ta Tấn. Công việc tiếp tục thuận lợi khi ương (tiền thân của Nhà xuất bản cảm phục…”; “Hồn bướm mơ tiên (tiểu thuyết của Khái Hưng ông về giảng dạy Văn học Trung Quốc (NXB) Giáo dục hiện nay) soạn sách - HSH chú) mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử văn học tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội giáo khoa theo Chương trình mới. Năm Việt Nam và tác giả nó là một nhà luân lý cũng không phải là và Đại học Tổng hợp Hà Nội. Các tác 1959 về làm giảng viên giảng dạy Văn quá đáng…”; “sau Nhất Linh, sau Khái Hưng, Thạch Lam (tức phẩm nổi tiếng của Lỗ Tấn qua bản học Trung Quốc tại Trường Đại học Nguyễn Tường Lân (1910-1942) em ruột Nhất Linh (Nguyễn dịch đáng tin cậy của ông lần lượt được Tổng hợp Hà Nội và Trường Đại học Tường Tam (1905-1963) - HSH chú) đã hiểu biết NGƯỜI một NXB Văn hóa, NXB Văn học cho ra mắt Sư phạm Hà Nội cho đến năm 1979 thì cách đầy đủ và xác đáng hơn”… Bạn đọc yêu văn học càng đồng bạn đọc: Gào thét, Bàng hoàng, Chuyện nghỉ hưu(1). tình hơn với “tinh thần trừ thải những cây bút không tương cũ viết lại, Tạp văn tuyển tập. Do nhu Trương Chính bắt đầu sự nghiệp viết lai” của nhà phê bình khi ông thẳng thắn chỉ ra tiểu thuyết Cậu cầu giảng dạy, ông lại cùng Trần Xuân văn bằng các bài phê bình đầy tự tin, bé nhà quê (của Từ Ngọc - HSH chú) “là một cuốn tiểu thuyết Đề, Nguyễn Khắc Phi… biên soạn Giáo bản lĩnh. Mục Tự giới thiệu in trong hỏng” hay tiểu thuyết Ngược dòng (cũng của Từ Ngọc - HSH trình lịch sử văn học Trung Quốc và cùng Tuyển tập Trương Chính cho biết: “Tôi chú) “là một cuốn tiểu thuyết vô giá trị về mọi phương diện một số vị ở Viện Văn học như Hồ Lê, bắt đầu viết văn từ năm 20 tuổi (1936). nội dung và văn thể”. Bản lĩnh phê bình hiếm có này có lẽ đến Hồng Dân Hoa, Đức Siêu, Bùi Hữu Đó là những bài phê bình văn học có nay chưa thấy hiện tượng thứ hai. tính chất tranh luận, không đăng ở báo nào, sau tập hợp lại trong cuốn “Dưới mắt tôi” xuất bản năm 1939”(2). Tác phẩm có phụ đề: Phê bình văn học Việt Nam hiện đại. Sách gồm 200 trang, tập hợp các bài phê bình dành cho 25 tác phẩm của 13 nhà văn(3). Lời tựa của Văn Ngoạn nói rõ: “Những bài phê bình của ông Trương Chính đều có tính cách công minh, vì một lẽ rất giản dị: Ông Trương Chính không thuộc vào một văn phái nào, không viết giúp cho một tạp chí nào, không là tay sai của một nhóm người nào”. Sau đó ông còn định soạn thảo tập II về các nhà thơ, nhưng sau khi Hoài Thanh ra cuốn Thi nhân 68 70 năm Sư phạm Văn khoa

Bổng… dịch bộ sách 3 tập Lịch sử văn Lê Thước biên soạn và giới thiệu Thơ chữ Hán Nguyễn Du, cứng, thiếu uyển chuyển đó trong cuộc học Trung Quốc của Sở Văn học Trung cùng Nguyễn Thạch Giang biên khảo và chú giải Nguyễn Du sống cũng theo vào cả các trang viết Quốc thuộc Viện Khoa học Xã hội - niên phổ và tác phẩm. Ông từng kể, dưới sự chỉ dẫn của cụ phê bình của ông. Trong cuốn sách Tư Trung Quốc, do Nhà xuất bản Nhân Giải nguyên Lê Thước (1890-1975), ông đã nhiều năm “sưu liệu Nhà văn Việt Nam hiện đại (1997) dân Văn học Bắc Kinh xuất bản năm tầm tài liệu… nghiên cứu di sản của cha ông để lại, từ thế kỷ ông từng tâm sự: “Là nhà phê bình và 1962 (Nhà xuất bản Văn học in năm X đến thế kỷ XX, làm thành những tập hồ sơ đăng trên báo nghiên cứu văn học, tôi chú ý nhất 1964). Ông còn chủ biên tập tư liệu về Văn Nghệ, tác phẩm mới liên tục từ năm 1970 và sau này đến tính trung thực, nói thật những văn học Trung Quốc, chủ biên, dịch và trên tờ Giáo dục và Thời đại (ký Nhất Văn, Nhất Chi Mai). cảm nghĩ của mình, không phụ họa ai, viết Lời giới thiệu quyển Thơ Tống, viết Về những tác giả mà tôi thu thập được nhiều tư liệu thì viết không nói theo ai, không có ý kiến gì Lời giới thiệu cuốn Thơ Đỗ Phủ, và tập thành bài hoàn chỉnh đăng tập trung trên tờ Nghiên cứu Văn thì không viết. Tôi cho rằng sống hay 2 bộ Thơ Đường 2 tập (tập 1 Thơ Đường, học và Tạp chí Văn học của Viện Văn học, từ năm 1960 cho viết đều phải có lý tưởng… Nhưng nhà thơ Nam Trân viết giới thiệu); biên đến năm 1990”(8). Một số bài viết trên được ông chọn lọc, đưa chính vì thế mà không được lòng ai, soạn phần tiểu sử tóm tắt các tác giả vào tập Hương hoa đất nước, Phê bình và tiểu luận, NXB Văn ít được ai chú ý, bị người ta lảng tránh ở Thơ Đường tập 1 trong bản in lần 2 học, 1979. Ngoài Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ, ông còn hoặc e dè. Dù biết vậy, nhưng tôi không (NXB Văn học, 1987). có nhiều bài nghiên cứu công phu về các tác gia cổ điển như hề thay đổi hay ân hận, cũng không hề Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích, phàn nàn, chỉ ghi lại cho nhớ mà thôi”. Về văn học Trung Quốc, ông còn cộng Phan Huy Ích, Nguyễn Hành và các tác gia hiện đại như Hồ Tục ngữ có câu: “Non sông dễ cải, bản tác với Đặng Đức Siêu dịch một số tác Chí Minh, Đặng Thai Mai, Nguyễn Đình Thi, Hải Triều, Hoài tính khó dời”. Bản tính và bản lĩnh lớn phẩm xuất sắc khác như: Nửa đêm của Thanh… Ngoài ra, ông còn viết “những bài có tính chất định từ thời “dưới mắt tôi về già vẫn vậy”. Mao Thuẫn, Tường lạc đà của Lão Xá, hướng việc nghiên cứu và phê bình” mà 9 bài nổi bật đã được Nhưng chính vì thế, bạn đọc càng kính Ông giáo Chi của Diệp Thánh Đào, Bài ca ông đưa vào trọn Phần Một trong bộ Tuyển tập Trương Chính mến ông hơn. tuổi trẻ của Dương Mạt; lại cùng Nguyễn gồm 3 phần và một phần phụ: Những bài trích trong cuốn Thạch Giang, Phan Văn Các dịch cuốn Dưới mắt tôi. Tác phẩm đã được NXB Văn học in thành 2 tập Phó Giáo sư Bùi Trương Chính qua Lịch sử văn học Trung Quốc do Đàm Gia năm 1997. (Tập 1: 472 tr; Tập 2: 520 tr.). Năm 2000, Trương đời ngày 07/10/2004 tại Hà Nội, Kiện chủ biên (NXB Khoa học Xã hội in Chính đã được nhận Giải thưởng Nhà nước lần 1 với tư cách hưởng thọ 88 tuổi. Một bài học kinh năm 1993). Theo GS Nguyễn Khắc Phi: tác giả bộ Tuyển tập này. nghiệm lớn mà thầy Trương Chính để “Về phương diện dịch, giới thiệu, nghiên lại cho các thế hệ học trò và cho bạn đọc cứu văn học Trung Quốc, sau Đặng Thai 4.Là nhà khoa học uyên bác, đa tài, Trương nói chung là thầy đã rất sớm tìm được Mai, anh xứng đáng được xếp vào vị trí Chính còn có một số đóng góp rất đáng kể công việc đúng sở trường, sở thích của “Á quân” (7). trong lĩnh vực nghiên cứu văn hóa. Ông cùng mình và trọn đời cảm thấy thật sự vui Trần Huy Bá, Lê Thước khảo cứu lịch sử khi làm công việc đó. “Không có gì đặc Do yêu cầu của các NXB, ông còn văn hóa Ăng-co; cùng Đặng Đức Siêu biên biệt. Chỉ là ham mê văn học, thích nói dịch một số tác phẩm tiến bộ của các soạn Sổ tay văn hóa Việt Nam (NXB Văn hóa. H.1978); cùng ý kiến riêng của mình về một tác giả, nước Triều Tiên, Nhật Bản, Đức, Nga Phong Châu sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu Tiếng cười một tác phẩm đã đọc và mình yêu mến, chủ yếu qua bản dịch Trung văn như dân gian Việt Nam (NXB Khoa học Xã hội, H.1979). Ông còn rồi vừa viết, vừa học tập, trau dồi tư Gia đình Bút-đen-bruc của Thomas viết truyện Danh nhân Lỗ Tấn (NXB Thanh niên, 1977); viết tưởng cho khỏi sai lầm và thích hợp Mann (cùng dịch với Hồng Dân Hoa); truyện cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười “theo kiểu mài ngọc với thời đại, rất chú ý đến cách hành Làm gì? của Tsecnusepxki (cùng dịch cho tốt hơn, đẹp hơn” (chữ của Trương Chính), đã được NXB văn” .(11) Hơn nữa, “ngoài thú vui ấy, tôi với Vũ Lộc); Núi đồi yên lặng của T. K. Giáo dục, NXB Kim Đồng in thành những tập sách nhỏ. Cho không hề có một thú vui nào khác” (Tự Sưnaô… Những năm tuổi già, sức yếu, đến những năm trên 80 tuổi ông vẫn say sưa với công trình giới thiệu). Chính nhờ vậy, thầy đã gặt ông vẫn mải miết tiếp tục dịch các công bố cuối cùng: Giải thích những từ gần âm, gần nghĩa dễ hái nhiều thành công. Có thể những cuốn Tiếng chuông cảnh tỉnh trước thế nhầm lẫn (NXB Giáo dục) in lần đầu năm 1997, đến nay đã trang viết còn có phần hơi tản mạn, kỷ XXI (NXB Chính trị quốc gia, 1993), được tái bản rất nhiều lần. Cần mẫn như con tằm nhả tơ, con chưa thật tập trung nên kết quả học Trò chuyện cùng các bạn gái (NXB Phụ nữ, ong làm mật, ông đồ Nghệ chính hiệu làm việc tranh thủ mọi thuật chưa thật bề thế ;(12) nhưng những 1995) của học giả Nhật Daisaku Ikeda. lúc, mọi nơi. Ông lúc nào cũng chỉ biết chắm chúi làm việc, công trình dịch thuật, nghiên cứu, giới cánh trẻ có dịp cùng công tác với ông thường thấy ở ông “một thiệu mà thầy để lại chắc chắn lâu dài 3.Không chỉ chuyên nét gì đó nghiêm khắc lạnh lùng do đó hơi khó gần” (Nguyễn vẫn nằm trong số những cảo thơm xứ sâu về văn học Trung Khắc Phi) và như nhận định của GS Nguyễn Hải Hà được giới Nghệ và không chỉ của xứ Nghệ mà bạn Quốc, Trương Chính trẻ đồng tình: “Có thể thấy đôi chỗ ông hơi cứng, thiếu uyển đọc yêu thích văn học, văn hóa dân tộc còn dành nhiều công chuyển”. Cánh trẻ từng đùa ông là “vua lập trường” và ông đã ngày ngày lần giở l sức nghiên cứu văn học đùa lại: “Các cậu thấy đấy, trong 8 giờ chính quyền ở cơ quan, Việt Nam. Ngoài các công trình trước mình chỉ làm việc cơ quan giao. Sách báo mình ra ào ào, đừng Huy Huyền, Phan Thị Quỳnh An Cách mạng và biên soạn giáo trình đã bảo là mình ăn cắp giờ của Nhà nước đấy nhé!”(9). Tính hơi (Trường PTTH Thanh Chương 1) nói ở trên, ông còn biên soạn và giới thiệu Thơ văn Nguyễn Công Trứ; cùng Theo: Tạp chí KH-CN Nghệ An, số 7, 2017 (1), (2), (4), (8) Trương Chính, Tự giới thiệu in trong Tuyển tập Trương Chính, Nxb Văn học. H. 1997. T1, tr5-6-7. (3),(13) Nhà văn: Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Lê Văn Trương, Trương Tửu, Thạch Lam, Lan Khai, Nguyễn Khắc Mẫn, Nguyên Hồng, Hoàng Ngọc Phách, Từ Ngọc. (5) Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, Nxb Vĩnh Thịnh, H. 1951, in lần thứ 2, quyển ba, tr. 203-205. (6) Nhóm nghiên cứu văn học Lê Quý Đôn gồm các vị: Lê Thước, Hoàng Ngọc Phách, Huỳnh Lý, Đỗ Đức Hiểu, Vũ Đình Liên, Lê Trí Viễn, Trương Chính. (7), (9), (10), (11) Xem thêm: Nguyễn Khắc Phi: Hãy tiếp bước nhà nghiên cứu văn học lão thành, Bùi Trương Chính, Tạp chí Văn học và Tuổi trẻ số 1/2004. (12) Ý kiến của Nguyễn Hữu Sơn trong bài viết Trương Chính in ở cuốn Nghệ Tĩnh gương mặt nhà văn hiện đại, Nxb Văn hóa, 1990, tr.403 69

Những gương mặt thân thương Tôi gặp anh Huỳnh Lý lần thường cố sức làm cho nó ra vẻ là khoa học để mọi người đỡ “mô phạm” thực ra là thầy giáo quá chủ đầu tiên khi anh đã vào tuổi xem thường nó. Anh Huỳnh Lý thì không thế. Anh ủng hộ, quan mà thiếu lòng tin vào người khác, trung niên. Nhưng cho đến khuyến khích tôi, giúp đỡ tôi. Khi tôi chủ trì viết tập sách: vào học sinh. Tự mình làm thay cho học nay trong tâm trí tôi vẫn Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo thể loại, anh nhận viết sinh là việc làm dễ hơn rất nhiều so với còn hình ảnh anh là một con cho tập sách phần Giảng dạy thể loại kịch là phần khó nhất và việc khêu gợi tính độc lập, nỗ lực, sáng người đẹp. Anh vóc người tầm thước, đó là một bài viết đầy trí tuệ mà cho đến nay tôi còn thấy là tạo nơi học sinh. có phần gầy gò như phần đông giới trí rất hiện đại, rất cập nhật. Đặc biệt, trong đó, có thể nói là lần thức trong thời kì khó khăn đó, song đầu tiên anh đề cập những nguyên lí mà ngày nay ta gọi là lí Câu chuyện trên nay là một kỉ niệm anh có một mái tóc dài mềm mại, bồng luận tiếp nhận văn học. Anh cũng lí giải những vấn đề đặc không bao giờ quên đối với tôi về anh bềnh, trên một vầng trán phẳng và cao. trưng của thể loại kịch một cách rất giản dị mà rất uyên bác. Huỳnh Lý. Trí thông minh của anh biểu lộ ở đấy Bài viết của anh như một quả cân tăng thêm trọng lượng cho nhiều hơn. Vì anh cận thị nặng, phải đeo một tập sách mà gần 40 năm nay vẫn được các thầy, cô giáo Thời gian những năm đầu tiên sau kính, nên phải nhìn gần qua đôi tròng dạy văn ở các trường Trung học đánh giá cao. Tôi muốn lưu ngày Thống nhất, từ miền Nam, mỗi kính ấy mới thấy được đôi mắt hiền từ, ý rằng trong tập sách ấy bài của Giáo sư Huỳnh Lý là có giá lần ra Hà Nội, tôi ghé thăm anh ở căn nhiều suy tư và tình cảm của anh. Cái trị nhất. Vậy mà lần ấy người anh, người bạn thân thiết ấy gác 50 Thi Sách vừa cao, vừa chật, quá miệng thì hơi móm với cái cười thường nổi giận với tôi. chật đối với cuộc sống của anh chị và tinh nghịch, trẻ trung, không bao giờ các cháu lúc bấy giờ. Anh mong ước mỉa mai hay châm biếm, chỉ hóm thôi. Số là tôi là một người rất lo lắng cho việc dạy học của các được trở về Nam, được có một ngôi nhà Cái làm nên vẻ đẹp dễ thương của anh giáo viên, nhất là giáo viên mới ra trường. Nỗi lo lắng đó khiến riêng của mình và gia đình. Anh nói cho là làn da trắng hồng, nhỏ mịn như da tôi đi đến chỗ thử soạn những bài giảng mà tôi cho là có thể vui: “Mình cũng như bao người khác con gái, đôi lúc đôi má cũng ửng hồng làm “mẫu” cho các thầy, cô giáo. Tôi muốn giúp đỡ họ. Lần ấy, có nước rồi mà chưa có nhà”. Sau đó khi xúc động hay tức giận. Anh không sự “chu đáo” đó của tôi đã làm cho anh nổi giận. Anh bảo tôi thì anh đau ốm, về Nam dưỡng bệnh, phải là người hùng biện. Anh nói đôi một cách gay gắt: “Việc làm của anh không những vô bổ mà ở chung với các cháu. Cho đến khi mất khi còn hay vấp và lắp, giọng nói còn có hại. Anh làm hư sinh viên của anh. Và chắc gì những điều đi anh vẫn chưa thực hiện được “hạnh nặng phương ngữ Quảng Nam, song anh làm giúp cho họ đã đúng? Một sinh viên tốt nghiệp Đại phúc đơn sơ, ước mơ nho nhỏ” là có khi giảng bài anh vẫn hấp dẫn sinh viên học Sư phạm ra trường dạy văn mà tự mình không tìm ra nổi một ngôi nhà cho mình. Khi nhắm mắt, với những ý tưởng độc đáo, sâu sắc, tế đại ý và bố cục của một bài văn, phải đợi thầy của mình “gà” Nhà giáo Nhân dân - Giáo sư Huỳnh Lý nhị hơn nhiều là sự lôi cuốn của ngôn cho, thế thì dạy văn làm sao được? Một ông thầy mà đến công cũng vẫn chưa có hộ khẩu ở thành phố. từ. Biết mình có nhược điểm về nói, việc đơn giản đó cũng không làm được thì thôi đừng dạy văn Ngôi mộ của anh nằm ở nghĩa trang Gò các bài giảng của anh thường được viết nữa mà nên đi làm việc khác!”. Nói những điều đó, anh bực bội Dưa, giữa những ngôi mộ bình thường sẵn. Anh viết hay hơn nói. Khi viết tuy và nổi nóng thực sự. Không phải anh tức giận tôi hay tức giận của những người dân bình thường. Như nhiều chỗ sửa chữa, dập xóa, song bao ai mà vì anh cho cách làm như của tôi trái với quan điểm về trong cuộc sống, anh không bao giờ giờ bài viết của anh dù ngắn cũng vẫn giáo dục, về sư phạm. Hồi ấy, tôi đã tự ái, đã cãi nhau với anh, muốn phân biệt mình với mọi người, rất văn chương. Anh giảng bài như trò đã tự biện hộ cho mình… Nhưng sau này cùng với năm tháng với Nhân dân. chuyện, thủ thỉ tâm tình, kể cả có lúc trưởng thành trong suy nghĩ và kinh nghiệm từ thực tiễn giáo như bực bội, tức giận ở những chỗ nào dục, tôi nhận thấy anh đúng. Cơn giận của anh là phải lẽ. Anh Người ta nói: Cuộc đời xem ra không mà anh cho là không hay trong sáng tác là nhà sư phạm không chịu nổi mọi thứ giáo điều, mọi sự rập có nghĩa gì mấy song thực ra thì cũng hay nghiên cứu. Anh có đức tính của khuôn. Nếu thầy giáo là nhà mô phạm (khuôn mẫu) thì đó phải không có ý nghĩa hơn cuộc đời. Như nhà văn bên trong phong cách nhà giáo. là “thánh mô hiền phạm” là “khuôn vàng thước ngọc” của tính cuộc đời anh Huỳnh Lý, một cuộc đời Anh giảng bài hơi buồn song học trò rất độc lập và sáng tạo cho học sinh chứ không phải áp đặt cho giản dị, khiêm nhường mà chứa chan, thích học anh, vì học anh bao giờ cũng học sinh những khuôn mẫu cứng nhắc, thiếu sinh khí. Kiểu đầy đặn biết bao ý nghĩa cao quý l thấy bổ ích, lớn thêm lên. Đồng nghiệp của anh trò chuyện cùng anh cũng (Tháng 3-2001) thường cảm thấy như vậy. PGS. NGND Trần Thanh Đạm Có lần, anh nổi giận với tôi song lại làm cho tôi nhớ mãi. Hồi ấy, tôi nghiên cứu và giảng dạy về phương pháp dạy văn, một bộ môn mà nhiều người thấy cần, song không mấy ai thấy thích và coi trọng vì đôi lúc xem ra nó cũng vụn vặt và không có gì cao xa cả, dù tôi vẫn 70 70 năm Sư phạm Văn khoa

Không hiểu sao, mỗi lần đình tôi ở cạnh khu tập thể Đồng Xa, hai thầy trò vài lần gặp Tôi được làm việc chung với thầy nghĩ về thầy, tôi lại nhớ nhau cùng đi bộ, băng qua cánh đồng rau muống sang trường. trong lần biên soạn bộ Tiểu thuyết cổ câu nói của Lỗ Tấn: “Kỳ Thầy vẫn giản dị trong bộ quần áo quen, nụ cười hiền lành và Trung Quốc (1996). Và một kỷ niệm thực, trên mặt đất làm gì có ánh mắt sinh động. Khi tôi có quyết định vào giảng dạy ở Đại khó quên với tôi, sau khi Một nửa đàn đường. Người ta đi mãi thì học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, chuyên ngành Văn học ông là đàn bà của Trương Hiền Lượng thành đường thôi”; tôi lại nhớ Thục đạo Trung Quốc, thầy rất vui mừng, chia sẻ, giúp đỡ tôi rất nhiều đến Việt Nam xôn xao dư luận, thầy nan của Lý Bạch: “Đường Thục khó, khó về giáo án, tài liệu… Trước khi rời Hà Nội, căn nhà ở khu tập bảo tôi tìm đọc tác phẩm Phong cách như lên trời xanh”... thể Đồng Xa của gia đình thầy thành chỗ đến thân thuộc của nam nhi của ông và viết bài. Đó là lần tôi. Bấy giờ, cả hai thầy trò đều không nghĩ rằng, chỉ vài năm đầu tiên bài viết của tôi được đăng trên Những năm 80 của thế kỷ trước, sau, thầy cũng vào Thành phố Hồ Chí Minh, trở thành giảng báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt chúng tôi được gặp thầy nơi giảng viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Nam. Đó cũng là lần đầu tiên, thầy cho đường đại học, và cứ ấn tượng mãi về tôi hiểu thế nào là trực giác. Và thầy thầy với cái tên trùng với tên một nhân Những ngày đầu “nhập cư” Sài Gòn, cuộc sống của thầy khuyên trong nghiên cứu văn chương vật của Nam Cao trong tiểu thuyết không khỏi gian nan, dẫu đất phương Nam nồng hậu đón nên tin vào trực giác. Cứ thế, những bài Sống mòn: Thầy giáo Thứ. Cuộc sống chào. Thầy chưa có nhà, lúc ở nhờ, lúc ở thuê, chuyển nhà ba học nhẹ nhàng “không giảng đường” đầy khó khăn, thiếu thốn bấy giờ, cùng bốn bận, sau vài năm mới mua được căn hộ chung cư khu vực thành cẩm nang theo tôi suốt đời. với dáng vẻ, cách ăn mặc giản dị, có chợ Bà Chiểu. Và đến khi mua được nhà, thầy cũng mới rời xe phần đơn sơ của thầy, tưởng như chân đạp chuyển sang đi xe máy… Tôi chứng kiến những buổi tập Hành trình của thầy trải khắp ba dung “giáo khổ” của Nam Cao vẫn còn xe máy của thầy, vì ông xã tôi được thầy tin tưởng giao nhiệm miền Bắc Trung Nam. Cứ ngỡ mảnh nguyên vẹn, bằng xương bằng thịt. Cơ vụ “gia sư” cho thầy! đất phương Nam là nơi “an cư lạc duyên đưa đẩy khi tôi chọn học chuyên nghiệp” cuối cùng. Sau khi về hưu, ngành Văn học Trung Quốc, và lại yêu Thầy dạy tiếng Hoa ở các trung tâm, mở lớp dạy tiếng thuận theo mong muốn của cô, và có thích Hồng lâu mộng nên được thầy Hoa ở nhà. Tôi là học viên trung thành của lớp học tiếng lẽ cũng là mong muốn của thầy, thầy nhận hướng dẫn luận văn. Khoảng cách Hoa ở nhà. Khi tiếp xúc nhiều hơn, thân hơn mới thấy thầy lại chuyển ra Bắc cho gần gũi con gái, thầy trò bấy giờ rất vời vợi, phần vì không phải như lời nhận xét đùa vui, có phần “tếu táo” của bà con họ hàng, quê hương Hải Phòng cách biệt tuổi tác, vì uy tín khoa học một đồng nghiệp: Trông Lương Duy Thứ cứ cổ lỗ như Khổng của cô. Ngôi nhà đơn sơ ở Gia Lâm, Hà của thầy và vì tôi cũng thụ động. Tôi Ất Kỷ ấy nhỉ! Lớp học tiếng Hoa nho nhỏ ở nhà thầy thỉnh Nội là nơi thầy sống những năm tháng chỉ biết cắm cúi học hành, làm việc, thoảng lại râm ran tiếng cười vì những câu chuyện vui thầy cuối đời. Năm 2011, thầy viết cuốn Quê chẳng bao giờ dám hỏi thầy, hoặc trò kể, vì cách nói chuyện rất dí dỏm mà sâu sắc của thầy. hương là trái bần chua ngọt, chan chứa chuyện. Thầy cũng ít nói. Đến nhà kỷ niệm, yêu thương trìu mến với quê thầy, một căn hộ thuộc khu tập thể Thầy bắt đầu bước vào thị trường sách thành phố bằng một nhà Lệ Sơn, Quảng Bình. \"Đường Thục cán bộ công nhân viên chức Đại học công trình dịch thuật. Năm 1996, thầy chủ biên giáo trình khó, khó như lên trời xanh\", như con Sư phạm Hà Nội ở Đồng Xa, tôi càng Đại cương văn hóa phương Đông. Lần lượt sau đó là các công đường đời của thầy vậy, nhiều gian ấn tượng về sự đạm bạc, thanh bần của trình nghiên cứu về văn học Trung Quốc: Thi pháp thơ Đường, nan, chua ngọt. Hạnh phúc của thầy, nghề giáo. Tôi bị hấp dẫn ngay bởi giá Để hiểu tám bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, Lịch sử văn học cũng như của những người làm nghề sách của gia đình thầy. Tôi chẳng hiểu Trung Quốc, Thi pháp Lỗ Tấn, Lỗ Tấn - tác phẩm và tư liệu...; giáo là sống trong kí ức trái tim bao thế gì nhiều nhưng thực sự bị mê hoặc. Tôi các tuyển tập thơ ca, tiểu thuyết Trung Quốc: Tuyển tập thơ hệ học trò, bằng hào quang và cả những cảm nhận được vị nắng gió trong những ca cổ điển Trung Quốc, Tiểu thuyết cổ Trung Quốc; nhiều công vất vả, bình dị đời thường l cuốn sách đã theo thầy có lẽ từ thời là trình dịch thuật giá trị như Lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc (Lỗ sinh viên Đại học Trung Sơn (Trung Tấn, dịch chung), Hán văn học sử cương yếu (Lỗ Tấn), Trung TP.Hồ Chí Minh tháng 7/2021 Quốc), rồi thời kỳ thầy giảng dạy ở Đại Quốc sau hơn mười năm cải cách... Những giáo trình, chuyên học Sư phạm Vinh, Đại học Sư phạm luận của thầy đều là những tài liệu mẫu mực, kinh điển về văn Đinh Phan Cẩm Vân Việt Bắc. Những cuốn sách hành trang hóa, văn học Trung Quốc. cuộc đời, sau này đưa thầy trở thành 71 một trong những Giáo sư đầu ngành ngành Văn học Trung Quốc. Một trong những mong mỏi của thầy là có học trò nối bước con đường giảng dạy, nghiên cứu Văn học Trung Quốc. Có lần thầy nói đùa với tôi: ngành Văn học Trung Quốc sắp tuyệt tự rồi! Tốt nghiệp xong, tôi về dạy tại Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội, không thành truyền nhân của thầy. Dẫu không có cơ duyên gặp lại thầy ngay trên hành trình chữ nghĩa nhưng tôi lại có duyên gặp thầy trên con đường nhỏ từ khu Đồng Xa về phía hai trường đại học nằm kề nhau: Đại học Sư phạm Ngoại ngữ và Đại học Sư phạm Hà Nội. Vốn là, gia

Những gương mặt thân thương Thầy Nguyễn Hải Hà là một Nghĩ về Thầy trong những nhà Nga học TỪ BÊN KIA với định hướng: chống xã hội học dung đầu tiên của Việt Nam. Thầy tục, khai thác những giá trị thẩm mĩ. thuộc nguồn đào tạo trong THÁI BÌNH DƯƠNG Cách tiếp cận này được thầy vận dụng nước, theo kiểu “du kích” nghiên cứu các bộ tiểu thuyết – sử thi (so với những thầy khác mà tôi được biết điều đó chính là thầy. Câu nói của Bác: “Tôi là người học trò đồ sộ như Chiến tranh và hòa bình của như Đỗ Xuân Hà, Nguyễn Ngọc Ảnh, nhỏ của nhà văn vĩ đại Tolstoy” được làm đề từ trong Lời giới L.Tolstoy và Sông Đông êm đềm của M. Nguyên Văn Giai... từng được đào tạo thiệu của thầy về tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình do nhóm Sholokhov rất có hiệu quả - thể hiện ở bài bản ở Liên Xô trước đây), nghĩa là cái Cao Xuân Hạo, Nhữ Thành, Hoàng Thiếu Sơn, Trường Xuyên việc tìm ra những chìa khóa giúp chúng phần “tự đào tạo” nhiều hơn. Như tôi dịch. Phát hiện này, theo tôi, thật có ý nghĩa! tôi tiếp tục giải mã tính chất phức tạp nhớ vào những năm 80 của thế kỉ trước của những hình tượng nghệ thuật lớn thầy cũng đã được Nhà nước Việt Nam Để trình bày nội dung một vấn đề nào đấy, tôi thấy dường như: A Bolkonsky, đặc biệt là Grigori cho đi tu nghiệp tiếng Nga ở Liên Xô hai như thầy đọc nhiều và kĩ lắm - cả tác phẩm của nhà văn lẫn Melekhov và sau này là Zhivago của hay ba tháng gì đó. Những dịch phẩm các công trình nghiên cứu khác, rồi tinh lọc cô đặc chúng B.Pasternak. của thầy: Tuyết bỏng của I. Bondarev, trong một lối văn khúc chiết, hàm súc. Sở dĩ tôi nhận thấy Vịnh mõm đen của K. Paustovsky - đều điều ấy là qua những trích dẫn của thầy. Thầy rất cẩn trọng Thầy cũng trăn trở nhiều lắm với việc là những tiểu thuyết vài trăm trang và 5 trong việc trích dẫn. Một câu ngắn, một cụm từ có khi chỉ dạy văn ở phổ thông. Bên những bài vở kịch của L. Tolstoy - cũng sơ sơ vài một từ, một chữ được trích dẫn cũng đều có nguồn gốc, xuất có tính định hướng như Cần có chiến trăm trang như thế. Toàn những loại xứ cả. Hồi mới vào nghề, đọc những bài của thầy như: Ngọn lược giảng dạy Văn học Nước ngoài ở phổ “ghê” cả! Dịch tiểu thuyết hay kịch, tôi lửa của một thiên tài (về L.Tolstoy), Khát vọng hài hòa (về thông trung học là những bài hướng dẫn thấy “kinh” hơn dịch thơ hay các công Dostoevsky), rồi M.Sholokhov - một số phận vinh quang và cay cụ thể việc dạy và học tác phẩm của A. trình lí luận phê bình, vì công việc đó đắng, tôi thích lắm và có viết bên lề ví việc đọc chúng như Pushkin, M. Gorky, N. Ostrovsky, của mất nhiều năng lượng về tinh thần lẫn được thưởng thức một món ăn ngon (chắc lúc ấy tôi thuộc M. Sholokhov, S. Esenin... theo hướng thời gian hơn cả. Chắc là thầy phải loại “tâm hồn ăn uống” nên mới ví von vậy, bây giờ thầy khai thác những giá trị thẩm mĩ qua thi kiên trì và đam mê lắm. Tôi cho đó có biết cũng chả trách tôi đâu). Gần đây, tôi có đọc bài Cái pháp học với lối viết dung dị, dễ hiểu và cũng là một cách tự học tiếng Nga rất mới trong sáng tác của A.Chekhov, thầy cũng với lối văn khúc sự dắt dẫn hợp lí. “siêu” của thầy - một công mấy việc chiết, lèn chặt một nội dung khoa học và lấp ló những ý tưởng nhưng ít người theo được. Và có lẽ cái mới. Tôi nghĩ, những trò nào không có điều kiện tiếp xúc với Ngoài nghiên cứu viết lách, trong cách học tiếng Nga qua sự dịch các tác tài liệu tiếng Nga cứ đọc những bài của thầy cũng tổng hợp giảng dạy đào tạo, thầy có những kinh phẩm ấy, đã ảnh hưởng đến cách giao được khối ý kiến đấy! nghiệm hay và quý giá. tiếp tiếng Nga của thầy - “nói như văn” (tôi nhớ có thầy cùng đợt đi tu Tôi thấy thầy tiếp cận cũng rất kịp thời với những lí thuyết Tôi nhớ năm 1978, bài lên lớp đầu nghiệp về đã kể vậy). nghiên cứu văn học hiện đại trên thế giới. Những lí thuyết tiên của tôi là Thơ trữ tình A.Pushkin. như: xã hội học, thi pháp học, văn hóa học, so sánh, tiếp Sau khi đưa thầy duyệt 30 trang bài Là nhà nghiên cứu lịch sử văn học, nhận, trò chơi, liên văn bản, nghiên cứu tiểu sử, rồi là chủ soạn, giấy đen sì, sần sùi khó đọc, thấy các công trình của thầy tính ra cũng nghĩa hình thức Nga, chủ nghĩa hậu hiện đại... Từ cách đây thầy có đánh dấu một vài chỗ, nhưng phải hàng nghìn trang, động chạm đến nhiều năm, tôi đã được nghe thầy nói đến trong mỗi lần đến tôi không để ý rồi cứ thế “vác” đến hầu như gần hết những gương mặt tiêu thăm. Tuy nhiên, theo tôi, thầy “rành” về nghiên cứu tiểu sử lớp mà “phang”. Có cảm giác lúc ấy tôi biểu của văn học Nga. Những giáo trình học và thi pháp học. Những năm 60, 70 của thế kỉ qua, khi nói nhiều, nói nhanh, nói lắm lắm thì như: Lịch sử văn học Nga XIX, Văn học xu hướng nghiên cứu xã hội học văn học đang có vẻ bị dung phải. Khi được góp ý, tôi nhớ nhất ở Xô Viết, chuyên luận Văn học Nga - Sự tục hóa, thầy cùng với các thầy nghiên cứu “gạo cội” của Bộ thầy hai từ: “lợi khẩu” và “tinh giản”. thật và Cái đẹp, những bài đăng tạp môn và Khoa đã kịp thời khởi xướng nghiên cứu thi pháp học Vào những dịp khác, thầy còn nhắc lại chí như: Nhìn lại văn học Nga thế kỉ với tôi hai từ đó và cũng hay khuyên: XX, Những chân trời văn xuôi Xô Viết viết ngắn mới khó. Ngẫm nghĩ kĩ, tôi hiện đại... với độ “phủ sóng” lớn đã trở mới thấm thía, đó là điều khuyên sâu thành những tài liệu gốc, khó có thể bỏ qua với những ai muốn tìm hiểu văn học Nga ở nước ta. Tuy nhiên, có thể thấy là trên cái nền rộng ấy, nhà văn được thầy dày công nghiên cứu nhất vẫn là L.Tolstoy. Hai chuyên khảo của thầy: Thi pháp tiểu thuyết L.Tolstoy và Nghệ thuật kịch L.Tolstoy nếu không nói là những công trình hàng đầu thì cũng là đầu tiên đặt nền móng quan trọng cho ngành Tolstoy học ở Việt Nam. Có lần thầy vui vẻ cho tôi biết: Người Việt Nam đầu tiên đọc hiểu thông thạo L.Tolstoy đó chính là Cụ Hồ, và người đầu tiên khám phá ra 72 70 năm Sư phạm Văn khoa

xa. Với cánh giáo viên dạy Văn chúng GS Nguyễn Hải Hà anh là “hàn sĩ”. Thầy trân trọng cái vốn tôi - “lợi khẩu” đúng là rất cần. Nhưng (sinh năm 1934) học của Phong 10 năm từ Nga về. “Bắc điều ấy cũng không thay thế được sự vừa ra cuốn sách nhờ tôi phản biện” - nông, loãng, nhạt, giả về kiến thức. Thầy thuộc thế hệ đầu tiên của nhóm Văn học nước thầy vui nói với tôi. Thầy bảo: Hồng Trong truyền thụ, kiến thức cần được ngoài, giữ cương vị Trưởng Bộ môn từ năm 1980 đến Hà “nhanh nhẹn, tháo vát”, Mai Liên tinh giản. Khi đã được tinh giản, kiến 2003. Thầy là chuyên gia đầu ngành về nghiên cứu và “chu đáo, cẩn thận”. Thầy cũng luôn thức ấy sẽ là kiến thức thật, thực sự giảng dạy Văn học Nga ở Việt Nam. quan tâm đến những tiến bộ của cánh là của mình và không cần “lợi khẩu”, giảng viên mới “toanh”: Mai Chanh, “khẩu” cũng sẽ tự “lợi”. Hóa ra, những  MỘT SỐ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU: Diệu Linh, Linh Chi, Thu Hương. Một chỗ thầy đánh dấu là những điểm cần điều nữa như tôi thấy: Tuy tuổi cao lại nhấn, cần cô đúc. Từ sau đó, với những Lịch sử văn học Nga thế kỉ XIX (1966), Văn học Xô Viết bệnh tật, đi lại khó khăn nhưng nhà ai bài soạn để lên lớp như: tiểu thuyết (1988-1989), Lịch sử văn học Nga (1977), Chuyện luận có chuyện gì: hiếu, hỉ, vui buồn, ốm Evgheni Oneghin, Chiến tranh và hòa N. Ostrovsky (1980), Thi pháp tiểu thuyết L.Tolstoy đau, bệnh tật, tặng sách vở,... thầy cũng bình, tôi đều cố gắng chung đúc những (1992),Văn học Nga (2000), Văn học Nga – Sự thật và Cái chu tất, cẩn thận nhờ người (tôi hay ai điều đã biết, đã viết từ bảy, tám chục đẹp (2002), Chuyện làng văn Việt Nam và Thế giới (2004), đó) chuyển lời, quà, hỏi thăm, nhân trang xuống chỉ còn bảy, tám trang và Nghệ thuật kịch của L.Tolstoy (2006), Kịch Lev Tolstoy vui, chia buồn, đáp lễ. Tôi nghĩ thầy là chính điều đó làm cho tôi có sự vững (2010). Tinh hoa Văn học Nga – Khám phá và Thưởng người sống nặng ân tình. tâm lên lớp. Sau những bài giảng ấy, thức (2012), chủ biên sách giáo khoa phần Văn học tôi cũng nhận được những lời khích lệ, nước ngoài và Lí luận văn học (1991 - 2000), đồng chủ Sau thầy Đức Nam, thầy làm Trưởng động viên từ phía học trò. biên Sách giáo khoa hợp nhất phần Văn học nước ngoài Bộ môn trong nhiều năm. Cùng thế hệ và Lí luận văn học (2001 – 2008). Sách dịch: Nguyên lí “vàng” với thầy có thầy Tửu, cô Đào, Ngoài những bài soạn đầu tiên, tôi lí luận văn học (1960), Thép đã tôi thế đấy (1966), Về thầy Tuyên, cô Thu Lan (nhóm phương còn được thầy hướng dẫn viết luận văn văn hóa và văn học (1977), Những đốm lửa (1977), Vịnh Tây), thầy Chính, thầy Trung, thầy Cao học, rồi làm luận án Tiến sĩ. Điều mõm đen (1978), Tuyết bỏng (1984), Truyện Sevastopol Phi, thầy Thứ, thầy Việt Anh (nhóm đầu tiên tôi thấy trong cách hướng dẫn (1988). châu Á), nhóm Nga có thầy Xuân Hà, của thầy là sự nghiêm túc – dường như cô Hoàn, cô Như, chị Châu - một đội đó là một nguyên tắc: nghiêm túc về  KHEN THƯỞNG, DANH HIỆU: ngũ “hơi bị mạnh”. Năm 1976, vừa thời gian, nghiêm túc trong thái độ mới thoát môi trường sinh viên, nhập khoa học, trong lao động công phu, Thầy được phong danh hiệu Nhà giáo Ưu tú năm 1990, ngay vào môi trường các thầy cô “siêu” trong sự trung thực học thuật. Thầy Nhà giáo Nhân dân năm 2010, tặng Huân chương Kháng như thế, lúc đầu tôi cũng sợ, cứ thấy đánh giá cao sự lao động công phu và chiến chống Mĩ cứu nước hạng Nhì, Huân chương Lao mình bé tí, “tép riu”. Nhưng về sau truyền cho tôi rằng, đó chính là “sự bảo động hạng Ba. thấy mình chả bị xét nét, đe nẹt hay hiểm” đầu tiên cho một luận án. Điều soi xét gì cả, ngược lại còn thấy mình thứ hai – cũng như một nguyên tắc Cách thầy đối xử với học trò cũng có nhiều điều đáng nói. tự do thoải mái. Lúc ấy tôi đâu có biết trong hướng dẫn vậy, là phát huy tối đa Tôi thấy thầy thương trò nghèo, quý người cần cù chăm chỉ, rằng tôi đang may mắn rơi vào một môi tính tích cực chủ động sáng tạo của học trân trọng năng lực, tình cảm chân thành tự nhiên của học trường văn hóa lí tưởng, được làm việc trò, không áp đặt cũng không buông trò và mừng vui với những trò thành đạt. Có lần bàn về việc trong một tập thể các thầy cô rất quý lỏng. Với vai trò hướng dẫn, thầy tạo tổ chức bảo vệ khóa luận cho sinh viên, thầy nhắn tôi: “Sinh trọng con người. Tôi nhớ những buổi cho người thực hiện nhiệm vụ những viên họ nghèo lắm, nói họ đừng bày đặt ra làm gì, tốn kém”. sinh hoạt bộ môn khi đó - vừa có cái bước cơ bản: xác định hướng đi đề tài, Thầy xót xa cho cái đám nghiên cứu sinh nghèo khó của thầy không khí học thuật sinh động lại vừa tạo tiền đề nghiên cứu và hỗ trợ thêm (tôi cho rằng có lẽ thầy là người hướng dẫn thành công nhiều có cái tình bộ môn nồng ấm, các thầy cô những kiến thức mở rộng để hiểu đối luận án Tiến sĩ chuyên ngành Văn học Nga nhất ở Việt Nam cư xử với nhau lịch thiệp chân tình. Bộ tượng trung tâm. Nói thế, nhưng thầy tính đến thời điểm này). Mà đúng thế, chả hiểu sao đám NCS môn qua sự điều hành của thầy cùng cũng rất sẵn lòng giúp trò có thêm tư của thầy, gia cảnh đứa nào cũng có vấn đề cả: ngoài nghèo với sự sát cánh đoàn kết xây dựng của liệu. Luận án của tôi Cái ngẫu nhiên khó là điểm chung: không ốm đau bệnh tật thì cũng trục trặc các thầy cô khác trở nên vững mạnh, trong tiểu thuyết Bác sĩ Zhivago của B. gia đình. Cứ lâu lâu không có tin gì của NCS nào đấy, thầy có tiếng tăm trong nước, làm tôi rất Pasternak (1997), nếu không có mảng lại băn khoăn: “Chắc lại có chuyện gì rồi”. Với những đồng tự hào. Trên cái nền tảng ấy, sau khi tư liệu tiếng Việt trước 1975 do chính nghiệp trẻ của bộ môn - thầy cũng thế. Thấy anh Cẩn rất lứa các thầy nghỉ hưu, bộ môn Văn thầy nhờ chị Quỳnh Nga nhiệt tình “chịu” nghiên cứu trong cảnh gia đình khó khăn, thầy bảo học nước ngoài cho đến nay vẫn luôn tìm hộ ở thư viện Sài Gòn và mảng tư giữ được mối tình cảm gắn bó đoàn liệu tiếng Pháp (tôi tìm được) nhờ thầy kết sâu đậm qua các thế hệ và giữa các đọc, dịch, giảng giải từ A đến Z, chưa thành viên. Tình thầy trò, tình đồng chắc đã được đánh giá cao. Tôi cũng nghiệp, tình con người quyện trong nhớ thầy còn hay dùng hình ảnh ví nhau thật đẹp! việc viết luận án cũng giống như người ta may áo - phải đề phòng vải thiếu. Là Trưởng Bộ môn nhiều năm, là giáo Hay là: đề cương cũng giống như cổ sư lâu năm, là chuyên gia đầu ngành, là áo, “cổ áo không chỉnh thì cả cái áo Nhà giáo Ưu tú của một trường đại học xộc xệch”. Tôi nghĩ vui, những kinh trong “top” đầu của cả nước, nhưng tôi nghiệm của thầy có thể vận dụng nâng thấy dường như thầy cũng chẳng đòi lên thành mức công nghệ - công nghệ hỏi hay yêu cầu để được đãi ngộ cái gì hướng dẫn các loại niên luận, tiểu cả. Thầy sống thanh bạch, bình dị, “cao luận, khóa luận, luận văn, luận án... đạo” mà khiêm nhường. Có chăng, thầy chỉ mong mỏi bộ môn được cấp một cái 73

Những gương mặt thân thương phòng để mỗi khi hội họp, tụ tập hay NGÀY sinh hoạt học thuật... khỏi phải loay hoay mượn phòng. Mãi sau này, khi eHmỘI TnRhƯớỜNvGề, cô anh Bảo làm Trưởng Bộ môn, xin nhà trường được một cái phòng nhỏ cho (Kính tặng Giáo sư Đặng Thanh Lê) cả bộ môn thì thầy đã nghỉ hưu. Bây giờ, ở trường không những có phòng bộ Cô Đặng Thanh Lê (1932- 2016) là một trong tôi vẫn bắt chước giọng cô, giống quá môn lại có cả phòng giáo sư nữa. Và bây những phụ nữ được Nhà nước phong học hàm làm cả bọn phá lên cười, vô tư như thời giờ thầy cũng có phòng làm việc rồi – Giáo sư rất sớm, từ năm 1991. Cô sinh ra ở thiếu nữ nhà A7 thuở nào. nhưng là tại gia! Thư phòng của thầy Nghệ An trong một gia đình trí thức lớn. Ông trang nghiêm, giản dị. Các giá sách vẫn nội cô là nhà trí sĩ yêu nước Đặng Nguyên Ra trường hơn chục năm, năm 1990, đầy ắp. Các cuốn sách vẫn những chỗ Cẩn, bị giặc Pháp bắt giam ở nhà tù Côn Đảo. Cha cô là tôi được cử đi học nghiên cứu sinh. đánh dấu. Các trang giấy và bút mực giáo sư danh tiếng Đặng Thai Mai. Các anh chị em của cô: Nhờ cô giới thiệu, tôi đã được Phó Giáo vẫn sẵn sàng trên bàn. Mọi thứ được Đặng Thanh Hà, Đặng Thị Hạnh, Đặng Anh Đào, Đặng sư Nguyễn Văn Hoàn (chồng cô) hướng sắp đặt khoa học, đâu vào đấy. Nơi đây, Xuyến Như, Đặng Thai Hoàng đều thành đạt, phần lớn dẫn luận án Tiến sĩ về tiểu thuyết Tố trò này đến nhờ dịch vài trang tiếng là Giáo sư, Phó giáo sư giảng dạy ở các trường đại học. Tâm của Hoàng Ngọc Phách. Thầy là Nga, tiếng Pháp, trò kia đến nhờ thầy Không những thế, nhà cô còn có tới ba vị rể quý là tướng một người nho nhã, khiêm nhường, nói gỡ bí cho vấn đề nào đó, trò nọ đến xin lĩnh Quân đội Nhân dân Việt Nam: Đại tướng Võ Nguyên ít, làm nhiều. Thầy nguyên là Viện phó hướng dẫn đề tài, các trò cao học thì Giáp (phu quân cô Đặng Thanh Hà), Trung tướng Phạm Viện Văn học, Chủ tịch Hội Kiều học đến nghe thầy giảng chuyên đề… Từ Hồng Cư (phu quân cô Đặng Thị Hạnh) và Trung tướng Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội Hữu nghị thư phòng này, thầy vẫn tiếp tục công Phạm Hồng Sơn - phu quân của cô Đặng Anh Đào. Sau Ý - Việt, là nhà Ý học quý hiếm của việc thầm lặng vinh quang của một nhà này, tôi được biết, gia đình cô đã ba đời (ông nội, cha cô Việt Nam, người đã dịch Thần Khúc của giáo: dạy chữ, dạy người. Sau mỗi lần và hai vợ chồng cô) đều nghiên cứu Truyện Kiều. Dante ra tiếng Việt. Với sự giúp đỡ của đến thăm thầy, cái “bị” chuyên môn thầy cô, tôi đã bảo vệ luận án đúng thời của tôi thế nào cũng có thêm điều gì Khi học đại học, khối lớp Đ và E (K23) chúng tôi đã hạn. Năm 2002, luận án đã được chỉnh đấy, tinh thần khoa học lại như được được nghe cô giảng phần Văn học trung đại. Dù đã nửa sửa thành cuốn sách Hoàng Ngọc Phách hâm nóng và lại tự nhủ mình phải sống thế kỷ trôi qua chúng tôi vẫn nhớ như in giọng đọc thơ - người đổi mới tiểu thuyết, do Nhà xuất tích cực hơn. Từ thư phòng này, thầy là lạ của cô: bản Thanh Niên ấn hành. lại vẫn tiếp tục nghiên cứu và cho ra những bài những sách. Gần đây nhất, “Cậy em em có chịu lời Cô là một nhà giáo, một nhà khoa thầy lại cho tôi cuốn Tinh hoa văn học Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa” học nghiêm túc, cẩn trọng và có lối Nga dày cộp và đã nhận giải Bạc Sách sống vô cùng giản dị. Căn hộ nhà cô ở hay của Hội Xuất bản Việt Nam năm (Truyện Kiều) tầng 3 nhà K1 khu tập thể Bách Khoa 2013 nữa (thầy bảo được giải là do lúc nào cũng gọn gàng sạch sẽ. Giá sách ngẫu nhiên). Trước đây, nghiên cứu với “Hoa giãi nguyệt nguyệt in một tấm cao đến tận trần nhà, bên trên là những thầy là khoa học, còn bây giờ với thầy: Nguyệt lồng hoa hoa thắm từng bông cuốn sách bằng tiếng Việt và tiếng Anh, nghiên cứu là thưởng thức. Nhưng cho Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng Pháp, Ý được bày biện một cách ngăn dù là nghiên cứu - thưởng thức, cuốn Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau…” nắp. Có lần cậu con trai nhỏ của tôi sách này với tôi lại như một sự cống được cùng mẹ đến thăm thầy cô, cậu bé hiến nữa của thầy - cho học trò, cho (Chinh phụ ngâm) cứ ấn tượng mãi về giá sách của ông bà. những người yêu văn học Nga, cho Chính cái cách phát âm giọng Nghệ, to và vang, đầy Thật ít ai sống giản dị như cô. Ở nhà cô những ai đó nữa... nhiệt huyết, mạch lạc, nhấn rất rõ vào phụ âm “tr” ấy của thường xuyên mặc một chiếc áo màu cô đã làm cho chúng tôi ấn tượng nên thuộc, nhớ ngay kem pha nilon rất cũ, có lẽ được may từ Năm 2014, thầy tròn 80 tuổi. Dịp và nhớ mãi những câu thơ cổ điển có phần xa lạ cô đọc thời bao cấp, một chiếc quần lanh màu đó, mấy lần thầy “tuyên” sẽ “gác bút”. trong mỗi giờ giảng. Thỉnh thoảng gặp nhau, bạn Bắc lớp đen, đi đôi guốc mộc. Suốt trong mấy Nhưng tôi nghĩ thầy khó mà có thể “gác chục năm tôi chưa nhìn thấy cô trang bút”, thầy sẽ lại tiếp tục đọc, tiếp tục điểm bao giờ. Cho đến tận lúc ngoài 80, viết và sẽ lại tiếp tục cống hiến! Bởi với hai cụ giáo sư vẫn tự chợ búa cơm nước, thầy phải chăng: \"Sống là cống hiến\"? lau dọn cửa nhà. Thầy cô không đi xe Và cống hiến không ngừng phải chăng máy, xe đạp, đi đâu thì gọi xe ôm. đó là hoài bão, lí tưởng của đời thầy?! Cô là người say mê nghề nghiệp, Viết những dòng này từ nơi xa xôi, nhiệt tình với công tác xã hội. Lần nào tôi thầm kính chúc thầy thật nhiều sức đến, tôi cũng gặp cô đang ngồi làm khỏe, thư phòng của thầy sẽ mãi là nơi việc, không đọc thì viết lách. Mang khám phá những tinh hoa kiến thức và đậm cốt cách Hồng Lam, cô rất thẳng truyền bá cái đẹp văn học Nga! l thắn bộc trực, vì thế khi tiếp xúc với Bên kia Thái Bình Dương 7/2021 PGS.TS Hà Thị Hòa 74 70 năm Sư phạm Văn khoa

GS Đặng Thanh Lê (nguyên quán Thanh Chương, Nghệ An) từng giữ cương vị GS.NGƯT Cô tham gia viết khoảng 20 đầu sách Chủ nhiệm Bộ môn Văn học Việt Nam dân gian và trung đại (1979 - 1987); Ủy và có 42 bài báo khoa học được công bố viên Hội đồng khoa học Khoa Ngữ văn; Giám đốc Trung tâm Việt Nam học; Đặng Thanh Lê trong và ngoài nước. Cô đã hướng dẫn Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo phụ nữ. (1932 - 2016) thành công 8 luận án Tiến sĩ và 10 luận Cô là soạn giả của 3 công trình (in riêng), đồng soạn giả 32 công trình (trong văn Thạc sĩ. Trong đó có luận án của đó chủ biên 2 công trình), viết khoảng 30 bài báo khoa học, 13 tham luận tại nghiên cứu sinh người Hàn quốc với đề các Hội thảo Quốc tế tổ chức tại Việt Nam, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Hà Lan, Hàn tài: “So sánh “Xuân Hương truyện” của Quốc, Italia…đã công bố trên các Kỷ yếu và sách từ 1990 đến 2003. Hàn Quốc với “Truyện Kiều” của Việt Nam”. Sau khi bảo vệ thành công luận  MỘT SỐ CÔNG TRÌNH TIÊU BIỂU: án trở về nước, anh đã trở thành một chuyên gia hàng đầu về Việt Nam học Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm (1979); Truyện Kiều (giới thiệu tại xứ sở Kim Chi. và chú thích, 1996); Giảng văn Truyện Kiều (1997)… Không chỉ là giáo sư đầu ngành ở bậc  KHEN THƯỞNG, DANH HIỆU: Đại học, Giáo sư Lê còn là một nhà hoạt động xã hội tích cực, uy tín có tầm ảnh Cô được tặng Huân chương Kháng chiến hưởng khá lớn. Cô là Ủy viên Ban chấp chống Mỹ hạng Nhất (1986); Nhà giáo Ưu tú hành Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố (1990); GS (1991); Bằng Lao động sáng tạo của Hà Nội (1976 - 1991); Giám đốc Trung Tổng Liên đoàn Lao động (1992); Huy chương tâm Việt Nam học của Trường Đại Vì sự nghiệp giáo dục; Huân chương Lao động học Sư phạm Hà Nội (1991); Giám đốc hạng Ba (1996); Huân chương Lao động hạng Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo phụ Nhất (2002)… nữ của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Cô cũng là diễn giả của nhiều cuộc cô, không ít người dễ có cảm giác khó cho tôi một món quà nho nhỏ xinh xinh. Ngày cưới cô con nói chuyện ở các cơ quan xí nghiệp, gần. Nhưng tôi lại thấy giống như cha gái lớn của vợ chồng tôi, ông bà cũng có mặt chung vui. Kính trường học với những thông điệp về mẹ tôi, cô thương học trò theo cách của trọng thầy cô, chồng tôi thỉnh thoảng cũng đến thăm thầy giới và phụ nữ. cô. Cô luôn yêu cầu học viên dù khó cô. Cô rất vui khi biết, anh quen cô Xuyến Như, em gái áp út mấy cũng phải nỗ lực để hoàn thành trong nhà nên có lần đã đến nhà cô ở phố Nguyễn Huy Tự Năm 1991, cô được nhà nước phong công việc được giao. Mục đích của cô là và được gặp cụ Mai. Trong dịp diện kiến ấy, biết anh cũng là hàm Giáo sư Văn học. Năm 1991, ở tuổi học trò tiến bộ, biết độc lập nghiên cứu người họ Đặng, cụ đã hỏi anh nguồn gốc họ Đặng. Chính câu 60, cô đã chủ động đề nghị nhà trường và làm việc một cách khoa học. hỏi đó đã khơi nguồn cho chồng tôi sau này viết cuốn gia phả mở Trung tâm Nghiên cứu Đào tạo dày gần 700 trang khổ lớn về dòng họ của mình. tư vấn Việt Nam học cho người nước Cô nghiêm khắc nhưng cũng rất tình ngoài. Nói như Giáo sư Phan Trọng cảm. Cô luôn quan tâm tới gia đình Ở gần cô, tôi sớm nhận thấy, dường như ở cô có hai con Luận thì “Có lẽ công việc điều hành chúng tôi. Cô đã kể tôi nghe về những người: một nhà giáo và một nhà hoạt động xã hội. Chính sự trung tâm mới bộc lộ hết năng lực và năm tháng thơ bé của mình. Ngày ấy, hai trong một ấy đã hỗ trợ cho nhau, giúp cô làm việc có hiệu uy tín của cô về tầm nhìn văn hóa, về ngoài học văn hóa, chị em cô còn được quả và có được những đóng góp thật đáng trân trọng. độ nhạy cảm chính trị, về khả năng tập cha mẹ cho đi học các môn nghệ thuật: hợp đội ngũ trí thức và khả năng điều học múa, học đàn, học vẽ. Cô bé Thanh Là một nhà giáo mẫu mực ở bậc đại học, cô không chỉ say hành một trung tâm văn hóa có quan Lê đã chọn bộ môn múa ba lê. Ngày ấy mê giảng dạy mà rất tích cực nghiên cứu khoa học. Đối tượng hệ rộng rãi trong và ngoài nước”. Hai cô rất tích cực tham gia các hoạt động nghiên cứu giảng dạy của cô là Văn học trung đại, trọng tâm là mươi nhăm năm (1991- 2016) dưới sự của Đội Thiếu niên cứu quốc và lực giai đoạn giữa thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX - một giai đoạn điều hành của cô, Trung tâm đã không lượng hướng đạo sinh. Cô cũng chia sẻ phát triển rực rỡ có tính chất bùng nổ của nền văn học dân tộc. ngừng lớn mạnh đã có những đóng góp với tôi niềm vui nỗi buồn khi hướng dẫn Khác với các giai đoạn trước, văn học thế kỷ XVII, XVIII rất không nhỏ trong việc quảng bá, giới các học trò mà cô yêu mến làm khoa giàu chất nhân văn, đặc biệt nghiêng về phản ánh số phận của thiệu văn hóa Việt Nam ra nước ngoài, học. Tuy không tham gia trực tiếp vào những người phụ nữ. Hầu hết, các tác phẩm đều viết về người đã giảng dạy, đào tạo được nhiều sinh đề tài luận án của tôi nhưng cô thường phụ nữ, viết vì người phụ nữ, viết cho người phụ nữ và do phụ viên, học viên, nghiên cứu sinh nước động viên và bảo ban tôi những kinh nữ viết. Thấu cảm và sẻ chia với nỗi bất hạnh truyền kiếp của ngoài chuyên ngành Việt Nam học, nghiệm trong nghiên cứu khoa học. Cô người phụ nữ, hiểu rõ tâm lý của họ nên những giờ giảng của cô đặc biệt đã góp phần thúc đẩy quá trình luôn dõi theo những công việc tôi làm, về Truyện Kiều và nhất là các trích đoạn Trao duyên, Thúy Kiều giao lưu văn hóa Việt Nam - Hàn Quốc nên mỗi thành công của tôi đều được báo ân báo oán, về màn đoàn viên ngày càng sâu sắc và mới mẻ. lên tầm cao mới. cô biết đến và khen ngợi. Thầy cô đi Có lẽ, đây chính là cơ sở để cô mở rộng nghiên cứu về những công tác nước ngoài lần nào cũng dành vấn đề phụ nữ, về bình đẳng giới và trở thành một nhà hoạt Hơn 60 năm dạy học và làm công tác động xã hội có tư tưởng tiến bộ . xã hội, Giáo sư Đặng Thanh Lê đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, tạo được một uy tín về nhân cách và về khoa học. Ngày hội trường đang đến gần, bâng khuâng em nhớ về cô - người đã chỉ bảo và truyền cho em nguồn nhiệt huyết để em tự tin tiến về phía trước l Trần Thị Trâm 75

GIÁO SƯ PHAN TRỌNG LUẬN - iáo sư Phan Trọng Luận sinh năm 1927 trong một gia đình dòng dõi G Người thầykhoa bảng yêu nước và cách mạng ở làng Đông của những người thầy Thái xã Châu Phong huyện La Sơn, nay là xã Tùng Ảnh huyện Đức Thọ tỉnh Hà Tĩnh. Cụ cố nội là Phan Nhật Tĩnh (1816- ?) đỗ Tiến sĩ khoa thi Nhâm Tý các trường đại học và cao đẳng sư phạm (1872) đời vua Thiệu Trị, làm Tổng trên toàn quốc, đến nay đã được tái bản đốc Hải Dương, sau kỳ phúc hạch Văn hơn mười lần. quan (1853) được thăng Tế tửu Quốc Đã vào tuổi “thất thập” được nghỉ Tử Giám. Ông nội là Phan Trọng Mưu ngơi theo chế độ nhưng với sự tin (1851-1904) đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ Mão cậy của ngành và lòng ham mê, trách (1879) đời Vua Tự Đức, được bổ nhiệm nhiệm với nghề nghiệp, Giáo sư Phan làm Tri phủ Hoài Đức. Một thời gian Trọng Luận đã đảm nhận vai trò làm ngắn ông bỏ quan về quê hương tham Tổng Chủ biên bộ sách giáo khoa Ngữ gia phong trào Cần Vương chống Pháp, văn Trung học phổ thông, Ban Cơ bản bị bắt giam rồi được tha, làm nghề (2000). Bộ sách đã đồng hành cùng giáo dạy học. Cha là Phan Trọng Quảng viên và nhiều thế hệ học sinh trong cả (1902-1984) từ nhỏ học chữ Hán rồi nước suốt hai mươi năm qua,… học trường Pháp - Việt, tham gia cách Với quá trình lao động khoa học mạng từ rất sớm, năm 1926 cùng Trần Nhớ lại những năm cuối thập kỷ năm mươi đến sáu mươi, nghiêm túc và không mệt mỏi, Phú dự lớp huấn luyện do Nguyễn Ái nền giáo dục cách mạng còn non trẻ, với Khoa Sư phạm Ngữ GS.NGND Phan Trọng Luận đã được Quốc tổ chức tại Quảng Châu rồi gia văn thì dạy học văn trong nhà trường chưa được ý thức là một trao tặng nhiều phần thưởng cao quý nhập tổ chức Việt Nam Thanh niên môn khoa học độc lập, nội dung giáo trình phương pháp dạy và xứng đáng. Trong đó cụm công Cách mạng Đồng chí Hội, hoạt động ở văn chỉ quan tâm đến tác phẩm, chỉ thấy công việc của giáo trình Lý luận và phương pháp dạy học Lào, Nam Kỳ,... bị địch bắt đày ra Côn viên. Nhiều nhà khoa học cũng quan tâm bàn thảo nghiệp Văn học đã vinh dự được nhận Giải Đảo đến năm 1937 mới được tha. Trở vụ dạy văn. Tuy nhiên do xuất phát điểm không đồng bộ thưởng Nhà nước về Khoa học Công về quê hương, ông tiếp tục hoạt động ở nên trong ba yếu tố cơ bản là tác phẩm, phương pháp dạy và nghệ đợt 1 năm 2000. Niềm hạnh phúc Liên khu IV với nhiều trọng trách. Cả phương pháp học thì yếu tố thứ ba chưa được quan tâm một lớn lao hơn khi ông được giới học giả cụ cố, ông nội và cha của Phan Trọng cách thoả đáng. và đồng nghiệp tôn vinh là chuyên gia Luận đều là những người am hiểu thời Phan Trọng Luận đã tiếp thu và sáng tạo những kinh hàng đầu về phương pháp - phương thế, giỏi văn chương. nghiệm về phương pháp của ta và các nước, áp dụng quan pháp luận dạy học văn, là “Người thầy Sau khi tốt nghiệp loại ưu tại Trường điểm khoa học liên ngành để xây dựng phương pháp luận của những người thầy” của nền giáo Đại học Sư phạm Hà Nội, Phan Trọng đồng bộ trong tiếp cận dạy học tác phẩm ở nhà trường, đặt dục cách mạng Việt Nam. Ông đã có Luận được nhà trường giữ lại làm giảng ra vấn đề cấp bách là dạy văn phải chú ý đến vai trò chủ thể công đào tạo đội ngũ các nhà khoa học viên. Hơn nửa thế kỷ gắn bó với sự của học sinh. Tư tưởng khoa học sâu sắc này được đặt ra lần kế cận về phương pháp dạy học cho các nghiệp “trồng người”, bằng tâm huyết đầu tiên từ cuốn sách Rèn luyện tư duy qua giảng dạy văn học trường đại học, viện nghiên cứu,… trong và tài năng, ông đã có những đóng và được tiếp nối, phát triển trong hệ thống công trình của tác cả nước và nước bạn Lào, Cam-pu-chia. góp xứng đáng. Tập trung nghiên cứu giả như: Phân tích tác phẩm văn học trong nhà trường (1977), Trong tâm tưởng và việc làm, các đồng chuyên sâu vào vấn đề Phương pháp Cảm thụ văn học - Giảng dạy văn học (1983), Học sinh - bạn nghiệp, học trò luôn tưởng nhớ, tri và Phương pháp luận, GS.NGND Phan đọc sáng tạo - Con đường đổi mới dạy học tác phẩm văn chương ơn ông - nhà sư phạm mẫu mực, một Trọng Luận cùng đồng nghiệp đã góp (1996), Văn học - Giáo dục thế kỉ XXI (2002), Phan Trọng Luận, người thầy đáng kính, một nhà khoa phần đưa khoa học học dạy học văn tuyển tập (2005), Văn học nhà trường - Nhận diện, tiếp cận, học có bề dày thành tựu và cống hiến. trong nhà trường lên một vị thế xứng đổi mới (2008),… Đặc biệt, với uy tín nghề nghiệp, vào cuối Tư tưởng khoa học về dạy học văn đáng, vững chắc, toàn diện và hiện đại những năm tám mươi, Giáo sư Phan Trọng Luận được Bộ trong hệ thống công trình nghiên cứu hơn. Các công trình nghiên cứu và ứng Giáo dục và Đào tạo giao trọng trách Tổng Chủ biên bộ giáo bề thế của Giáo sư - Nhà giáo Nhân dụng của ông đánh một dấu mốc quan trình Phương pháp dạy học văn. Bộ sách đã trang bị một hệ dân Phan Trọng Luận vẫn đồng hành trọng quá trình xây dựng, phát triển thống lý thuyết vừa cơ bản vừa chuyên sâu về khoa học dạy cùng chúng ta hôm nay!l khoa học dạy - học văn trong sự nghiệp văn học trong nhà trường, nêu lên những luận điểm khoa học (Theo: vanhoavaphattrien.vn) giáo dục và đào tạo của nước nhà. mới, trở thành bộ giáo trình tiêu chuẩn dùng chung cho tất cả Đỗ Nhiệm 76 70 năm Sư phạm Văn khoa

GIÁO SƯ - TIẾN SĨ NGUYỄN VĂN HẠNH Nhàtàgiiáon, ănhnàgn,ghtiâênmcứhuuvyăếnthọc Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Nam vừa giải phóng, với nhiều biến Văn Hạnh sinh ngày 1 tháng Minh Châu, thơ Lê Đạt, v.v… được tập hợp trong công trình động phức tạp của đất nước sau cuộc 1 năm 1931 tại xã Điện Chuyện văn chuyện đời (NXB Giáo dục, 2004) chứa đựng hạt chiến tranh kéo dài, được giao nhiệm Thọ, huyện Điện Bàn, tỉnh nhân tư duy, gợi mở hướng tiếp cận văn học với đời sống và vụ phụ trách một trường đại học ở phía Quảng Nam trong gia đình hướng nghiên cứu văn học trong giai đoạn Đổi mới của đất Nam như Viện Đại học Huế, để ổn định có truyền thống Nho học. Năm 1953, nước. tình hình, người lãnh đạo không chỉ có Giáo sư được Liên khu ủy Khu V cử ra năng lực chuyên môn giỏi mà còn phải miền Bắc học tập. Năm 1955, ông vinh Sau năm 1975, ông được Trung ương Đảng  cử vào miền có bản lĩnh, phẩm chất của người cán dự được Nhà nước cử sang Liên Xô học Nam công tác, giữ các cương vị: Trưởng Ban phụ trách Viện bộ Cách mạng. Sự kết hợp giữa người đại học tại Trường Đại học Tổng hợp Đại học Huế (1975-1977), Hiệu trưởng Trường Đại học Sư làm chuyên môn sắc sảo và người quản Lômônôxốp. Tốt nghiệp đại học, Giáo phạm Huế (1977-1981). Từ năm 1981 đến 1990, ông được lý có trách nhiệm, am hiểu lòng người, sư tiếp tục ở lại Liên Xô làm nghiên cứu Đảng và Nhà nước bổ nhiệm các trọng trách: Thứ trưởng Bộ am hiểu thực tế, những ngày công tác sinh. Năm 1963, về nước, công tác tại Giáo dục (1983-1987), Phó trưởng Ban Văn hóa -Văn nghệ tại Viện Đại học Huế, Giáo sư Nguyễn Khoa Văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Trung ương (1981-1983; 1987-1990). Trong hoàn cảnh miền Văn Hạnh đã để lại những ấn tượng đẹp Nội, Chủ nhiệm Bộ môn Lí luận văn học. trong lòng cán bộ, giảng viên và nhân Ở tuổi 30, với học vị Phó Tiến sĩ (nay là viên Viện Đại học Huế. Tiến sĩ), trái tim tràn đầy nhiệt huyết, lại được đào tạo bài bản tại một trường Khi chuyển sang làm công tác quản đại học danh tiếng ở Liên Xô, Giáo sư lý văn hóa, văn nghệ, ở cương vị Phó là cánh chim đầu đàn trong giới nghiên Ban Văn hóa - Văn nghệ Trung ương, cứu khoa học xã hội ở miền Bắc những ông dốc hết tâm huyết để hoàn thành năm 60 - 70. Từ năm 1965, với cương vị nhiệm vụ. Trong tình hình của đất nước là Chủ nhiệm Bộ môn Lí luận văn học, đêm trước. Đổi mới đòi hỏi không chỉ ông là một trong những người chủ trì và cái nhìn mới, cảm quan mới của người tham gia biên soạn bộ giáo trình Cơ sở lãnh đạo mà còn phải tiên phong, đứng lý luận văn học (4 tập, xuất bản từ 1965- mũi chịu sào để chèo lái  phong trào văn 1971). Đây là một trong 3 công trình lí nghệ theo kịp xu thế của dân tộc trong luận văn học đầu tiên (Văn học khái luận kỷ nguyên mới, của thế giới trong thời của Đặng Thai Mai, Nguyên lý lý luận văn đại mới. Ở tuổi 80, ông là người hạnh học của Nguyễn Lương Ngọc) vận dụng phúc, với nụ cười rạng rỡ trên môi, luôn các nguyên lý, các khái niệm do các học mở rộng vòng tay để đón các bạn trẻ đến giả Xô-Viết đưa ra để xây dựng bộ giáo với ông trong dịp bảo vệ luận án, trong trình lí luận văn học của Việt  Nam, giải hội thảo khoa học. thích những vấn đề thực tiễn trong lịch sử văn học nước ta. Những bài viết của Dù ở cương vị nào, Giáo sư Nguyễn ông như: Ý kiến của Lênin về mối quan hệ Văn Hạnh vẫn là con người năng động, giữa văn học và đời sống (đăng trên tạp nhạy bén, luôn giữ được nếp sống giản dị chí Văn học, 1970), Suy nghĩ về văn học và thanh khiết. Những đồng nghiệp, nhà (tiểu luận, phê bình, 1972), Suy nghĩ về khoa học, nhà giáo nay đã lớn tuổi, khi một số vấn đề phương pháp luận nghiên nhắc đến những kỷ niệm lúc sống ở Hà cứu văn học (1974),… đề cập đến những Nội, khi cùng làm việc ở Huế, ở Thành vấn đề như: đặc trưng, chức năng của phố Hồ Chí Minh đều yêu quý tài năng văn học, vai trò của chủ thể sáng tạo, của nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Văn cấu trúc tác phẩm văn học, vai trò của Hạnh, quý trọng nhân cách của người độc giả trong tiếp nhận văn học,… thể thầy, người  quản lí trong môi trường hiện sự nhạy bén của nhà nghiên cứu giáo dục. Không chỉ người thân và bạn trong việc tiếp cận những vấn đề cốt lõi bè mà cả những trí thức nước ngoài có trong nhận thức và nghiên cứu văn học dịp tiếp xúc, làm việc với ông đều bày từ trước đến nay, tiêu biểu là trong trào tỏ cảm tình rất thân thiện và quý trọng lưu Đổi mới như truyện của Nguyễn tình cảm mà ông dành cho họ l (Theo khoavanhoc-ngonngu.edu.vn) Nguyễn Văn Kha 77

Những gương mặt thân thương Thầy thuộc thế hệ đầu tiên Người thầy của nhóm Cổ văn (tiền thân TIÊN PHONG Bộ môn Hán Nôm, sau là Bộ môn Hán Nôm - Cơ sở văn Đó là PGS.NGƯT Đặng Đức Siêu, người thầy mà hóa Việt Nam). Năm 1963, lứa học trò chúng tôi thường kính yêu gọi bằng nhóm nghiên cứu giảng dạy Cổ văn do danh xưng giản dị: “Thầy Siêu”.  thầy Lê Trí Viễn lúc ấy làm Chủ nhiệm Khoa phụ trách. Sau khi thầy Lê Trí văn bản. Đây đều là những kiến thức, kĩ năng, thái độ không sớm của Trung tâm đã cho Viễn nghỉ công tác quản lý vào miền thể thiếu của người sinh viên ngữ văn khi ra nghề, dù làm thấy tầm nhìn xa trông rộng Nam, thầy được tin cậy giao trong công tác giảng dạy hay nghiên cứu, dù làm về ngôn ngữ hay của thầy. Trung tâm đi vào trách Trưởng Bộ môn từ năm 1978 đến văn học. Đến nay, đây vẫn là kim chỉ nam cho sự phát triển hoạt động đã tạo động lực cho 2004. Thời gian 26 năm làm Trưởng của bộ môn trong tương lai, phát huy thế mạnh đặc thù của nhiều hoạt động nghiên cứu, môn chắc chắn sẽ là một kỷ lục không bộ môn. giảng dạy, ứng dụng văn hóa thể phá vỡ của bộ môn.  diễn ra sau đó, trong đó có Là một người yêu văn hóa, cũng sớm thấy được vai trò việc đưa môn Cơ sở văn hóa Ngay từ năm 1970, thầy không thể thiếu của văn hóa trong hành trang tri thức cho Việt Nam trở thành môn học đã cho ra mắt cuốn Giáo mỗi con người, thầy đã dành rất nhiều tâm huyết cho lĩnh vực bắt buộc đối với sinh viên các trình cổ văn, có thể coi là nghiên cứu và giảng dạy văn hóa. ngành Khoa học Xã hội và cuốn giáo trình Hán Nôm Nhân văn 4 năm sau đó. đầu tiên cho chương trình Ngay từ năm 1978, thầy đã cùng GS Trương Chính cho Năm 1996, thầy cùng các nhà nghiên giáo dục đại học. Để củng ra mắt cuốn Sổ tay văn hoá Việt Nam. Đây là một trong số cứu danh tiếng Trần Quốc Vượng, Trần cố nền tảng kiến thức về rất ít các nghiên cứu về văn hóa Việt Nam thời bấy giờ (chứ Ngọc Thêm… triển khai đưa môn Cơ sở văn tự Hán Nôm theo cả không phong phú đa dạng như khoảng 20 năm sau đó). Cuốn văn hóa Việt Nam vào dạy học trong chiều sâu lẫn chiều rộng, sách là mở đầu cho hàng loạt các công trình nghiên cứu về các trường Đại học và Cao đẳng. Các năm 1982, thầy cho ra mắt văn hóa sau đó của thầy như Việt Nam di tích và thắng cảnh buổi tập huấn (thường được tổ chức công trình Chữ viết trong các (1991), Hành trình văn hoá Việt Nam: Giản yếu (2002), Văn tại khách sạn Hòa Bình trên phố Lý nền văn hoá, đến nay vẫn là hoá cổ truyền phương Đông: Trung Quốc (2004), Văn hóa Thường Kiệt, Hà Nội) của thầy cùng công trình bao quát hiếm hoi của Việt Trung Hoa: Giản yếu (2005), Tinh hoa văn hóa Phương Đông: các nhà nghiên cứu danh tiếng khác Nam ở mảng nghiên cứu này. Từ năm Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản (2007)… Những công trình cho cán bộ giảng dạy trên cả nước, giúp 1984 đến năm 1987, bộ sách 4 tập Cơ nghiên cứu này đã cho thấy tình yêu, sự quan tâm đặc biệt đội ngũ cán bộ giảng dạy môn học này sở ngữ văn Hán Nôm nổi tiếng ra đời, của thầy cho văn hóa phương Đông, và đặc biệt là văn hóa được nhân rộng trên cả nước. Môn Cơ có đóng góp công sức không nhỏ của Việt Nam. sở văn hóa Việt Nam đến nay vẫn giữ vai thầy. Tiếp đó, để đáp ứng yêu cầu thực trò không thể thiếu trong chương trình tiễn phát triển của việc dạy học Hán Năm 1992, thầy được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đào tạo của các trường Đại học và Cao Nôm cả ở bậc đại học và trung học phổ giao kiêm nhiệm Giám đốc Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa đẳng trên cả nước. thông, thầy đã lần lượt cho ra mắt các Việt Nam (thuộc Trường ĐHSP Hà Nội 1) mới thành lập. Với những đóng góp to lớn của mình, công trình Thực hành ngữ văn Hán Nôm Trung tâm có nhiệm vụ tập hợp đông đảo các nhà khoa học thầy được Nhà nước phong danh hiệu (1990), Ngữ văn Hán Nôm (1995), Ngữ nhằm mục đích nghiên cứu, khai thác di sản ngôn ngữ và Nhà giáo Ưu tú năm 1997, tặng Huân liệu văn học (1998), Dạy và học từ Hán văn hóa dân tộc, giới thiệu di sản ngôn ngữ và văn hóa Việt chương Lao động hạng Ba năm 2001. Việt ở trường phổ thông (2001), Giáo Nam tới cộng đồng trong nước và quốc tế… Sự ra đời từ rất Cuộc đời của một người thầy hòa ái, trình ngữ văn Hán Nôm (2007)… Sách điềm tĩnh, ít nói, luôn cố gắng tìm tòi giáo khoa phổ thông của chương trình những điều mới mẻ, không quản ngại đổi mới giáo dục giai đoạn này cũng có “đứng mũi chịu sào”, đi tiên phong trên đóng góp quan trọng của thầy. nhiều nội dung nghiên cứu và giảng dạy là một tấm gương sáng cho thế hệ học Thầy không chỉ chú trọng trang bị trò chúng tôi. Hai tiếng “Thầy Siêu” sẽ tri thức nền căn bản về ngôn ngữ - văn vẫn mãi là niềm yêu kính, để chúng tôi tự Hán Nôm cho sinh viên mà còn đặc noi gương và cố gắng l biệt nhấn mạnh vai trò của công tác văn bản học trong nghiên cứu và giảng Học trò Dương Tuấn Anh dạy ngữ văn nói chung. Những tri thức này được thầy gộp chung vào khối kiến thức ngữ văn học cổ điển, coi đó là một hướng tiếp cận và thâm nhập kho tàng di sản Hán Nôm. Nhờ đó, sinh viên có năng lực tiếp cận ngữ liệu Hán Nôm từ nguồn văn bản gốc, đồng thời có ý thức coi trọng công tác nghiên cứu, xử lý 78 70 năm Sư phạm Văn khoa

VỚI THẦY TRẦN HỮU TÁ Tôi được học thầy một học kì Trước khi chuyển vào dạy ở ĐHSP Thành phố nghiên cứu không thể lảng tránh. Đến của năm học thứ tư, phần Hồ Chí Minh, thầy Trần Hữu Tá là Phó Chủ tận bây giờ, sau khoảng bốn thập kỉ rồi, Văn học Việt Nam sau Cách nhiệm Bộ môn Văn học Việt Nam hiện đại của công việc khó khăn đó xem như mới mạng Tháng Tám. Tôi nhớ Khoa tôi. đang được khởi động và tôi càng thán năm 1978 ấy, chúng tôi vẫn phục những người làm tư liệu với tầm học với giáo trình được xuất bản từ đang viết?”. Hoặc giả: “Cảnh ngộ riêng của Nguyễn Thi có để nhìn xa trông rộng như thầy. năm 1961. Nói thật, đang đọc các tác lại dấu ấn gì trong thế giới nhân vật mà ông sáng tạo không?” giả trứ danh của văn học nước ngoài, vv... khi ấy chúng tôi mới ồ lên trước điều vừa thu hoạch Học Cao học, tôi được phân công rồi ngốn ngấu văn học hiện thực phê được. Hoá ra những khái niệm lý luận khô khan như “hoàn làm luận văn với thầy. Đây chính là phán 1930-1945, cộng thêm đọc vụng cảnh lớn”, “hoàn cảnh nhỏ”, phương pháp phê bình tiểu sử quãng thời gian tôi có nhiều kỉ niệm ít Thơ mới và văn xuôi lãng mạn, chúng học, xã hội học... qua các câu chuyện hóm hỉnh, sống động với thầy và gia đình thầy. Tôi quý thầy tôi phải cố ép mình yêu thích những của thầy lại đến với chúng tôi dễ dàng như vậy. ở thái độ làm nghề nghiêm túc, ở cung tác phẩm thuộc một khuôn hình thẩm cách giao tiếp thân mật và đặc biệt mĩ đầy tính lý tưởng với hình tượng Bây giờ nhớ lại, tôi cứ nghĩ có lẽ khi đó thầy đã muốn chúng cảm kích sự quan tâm kiểu cha chú mà con người tập thể, đẹp một cách hoàn tôi nhìn thấy nhiều khía cạnh khác của đời sống văn học nên thầy dành cho tôi. Bao giờ gặp thầy để hảo như trong các kịch bản Bắc Sơn, Chị thầy mới chia sẻ những chuyện bên lề như vậy. Thầy bảo trao đổi công việc, thầy cũng hỏi: đi Hoà; các truyện ngắn Một lần tới thủ muốn làm nghiên cứu phải rất công phu trong khâu sưu tầm lại bằng gì, nóng thế này đã mua được đô, Gặp gỡ, Thư nhà; các bài thơ Đồng tư liệu. Đọc những bài thầy viết, nghe thầy giảng, tôi hiểu sức quạt máy chưa, bố mẹ ở quê thế nào, chí, Viếng bạn, Thăm lúa, Bài ca vỡ đất... mạnh của người làm chủ tư liệu. Người sớm nhất “khai tâm” con cái thế nào, chú ấy có làm thêm Thật chẳng dễ dàng gì! cho tôi về mảng văn học miền Nam giai đoạn 1954 - 1975 được gì không v.v... Nhiều năm về sau, cũng chính là thầy. Trở về từ những chuyến đi thỉnh giảng thầy cô sống ở Sài Gòn, mỗi lần điện Và càng hiểu khó khăn ấy, tôi càng miền Nam sau ngày đất nước thống nhất, thầy mang theo thoại, thầy đều không quên kèm thêm thêm nể phục thầy Tá. Có lẽ rất thông khá nhiều sách của các tác giả mà chúng tôi chưa bao giờ nghe một câu: “Cho thầy gửi lời thăm kẻ nô cảm với tâm lý miễn cưỡng của sinh tên. Thầy bảo: “Mua ở vỉa hè, những nơi bán đồ cũ... Phải cố lệ vĩ đại của em nhé!”. viên, thầy thường tạo không khí lôi chi chút ngân sách eo hẹp để mua kẻo không sẽ thất tán hết, cuốn ngay từ cách vào bài, rồi dẫn dắt lấy gì mà nghiên cứu, tiếc lắm”. Năm 2017, Khoa Ngữ văn Đại học Sư vấn đề theo hướng gợi mở. Thầy chưa phạm Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức bao giờ hùng biện. Bằng chất giọng Chúng tôi tuổi trẻ vô tư, vô tâm, túi chẳng bao giờ có tiền, lễ mừng thọ 80 cho thầy rất long trọng. trầm, hơi nhanh, ngôn từ sắc và rất tình yêu sách phó cho thư viện, nghe thầy thống thiết nói Nhìn hình, tôi thấy thầy yếu mệt nhưng hóm hỉnh, thầy kể cho chúng tôi nghe thế, chỉ toét miệng cười, liên tưởng ngay đến những giai cười tươi. Nghe nói nhân dịp này, các vô số chuyện “bếp núc văn chương”, thoại về bệnh “keo kiệt sách” của mấy ông thầy khả kính. hội đoàn, học trò, đồng nghiệp... biếu chuyện cá tính và đời tư của các nhà Dạy chuyên đề Cao học (1979) cho nhóm học viên Sau Đại thầy khoảng một trăm triệu. Thầy và văn, chuyện tác phẩm và “thời tiết” học khóa 3 chuyên ngành Văn học Việt Nam hiện đại, thầy đã gia đình đã tặng lại toàn bộ cho Khoa chính trị... Chúng tôi hào hứng theo giúp chúng tôi mở rộng thêm phông tri thức ngoài khu vực làm một quỹ khuyến học. lời thầy, quên cả cơn đói, đến khi thầy văn học chính thống bằng việc cho mượn đọc và thảo luận về bất ngờ đặt câu hỏi, đại loại : “Anh/ mấy tác phẩm mang tinh thần phản chiến hoặc hiện sinh chủ Tôi biết cái nghiệt ngã của thời gian, chị thấy gì qua việc Nam Cao đưa bản nghĩa của các nhà văn miền Nam như Phan Nhật Nam, Dương cái bất lực của tuổi già. Nên tôi càng thảo cho chú giao liên người Mán đọc Nghiễm Mậu, Ngụy Ngữ... Những bài nghiên cứu hồi đó thầy kính trọng thầy hơn! l trước?” Hay: “Anh/ chị đoán xem vì viết về mảng văn học này, dù còn dè dặt trong cách đánh giá sao Nguyễn Đình Thi đánh giá cao ý và phân loại nhưng rõ ràng bằng việc kiểm soát tư liệu, thầy PGS. TS Nguyễn Thị Bình kiến chị cấp dưỡng về một chương của đã nhận ra việc nghiên cứu kĩ lưỡng, khoa học bộ phận văn cuốn tiểu thuyết Xung kích mà ông học miền Nam trước 1975 là một đòi hỏi chính đáng, giới 79

Những gương mặt thân thương VÀI CẢM NHẬN nhỏvề một người thầy Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân lớn những gì thầy viết về văn hóa, về mối Nguyễn Đình Chú hay gọi quan hệ giữa văn hóa và văn học không ngắn gọn và thân thiết phải chỉ bởi những kết luận khoa học hơn: “thầy Chú”. Thầy là sự ngưỡng vọng của nhiều quan trọng trong những bài viết này thế hệ học trò cũng như của ngành giáo dục Việt Nam. Tôi chỉ là một học trò mà để xác định một hướng đi lâu dài. nhỏ trong biết bao nhiêu những học trò đã được thụ giáo thầy. Vì thế, được có Dù có rất nhiều hạn chế về năng lực mặt trong lễ sinh nhật của thầy, được trực tiếp gửi đến thầy lời chúc mừng và điều kiện làm việc, nhưng tôi đã cố tôn kính đó thực sự là một vinh dự và hạnh phúc của tôi. gắng thực hiện yêu cầu đó và càng đi Tuy nhiên, thổ lộ trực tiếp những càng thấy biết ơn sự chỉ dẫn của thầy. tình cảm của mình trước một người mà mình thực lòng yêu quý, kính trọng, Những gợi mở, động viên và phản biện với tôi, luôn là một khó khăn (và tôi tin rằng đây cũng là tâm trạng chung từ thầy qua những bài viết và những của nhiều người). Một phần vì khi đã thực lòng yêu quý thì việc nói ra nhiều cuộc trò chuyện đã từng bước giúp tôi khi là không còn cần thiết nữa. Cũng tựa như chúng ta sống mà không cần ngày một hình dung rõ hơn về công phải cáo thị rằng mình đang sống. Phần khác, có những chuyện, những tình việc mà mình theo đuổi. Từ những khởi cảm mà dù cố gắng cách mấy, ngôn ngữ không thể nói hết được. Ngôn ngữ, đầu ấy tôi đã tìm và gặp thêm những trong những cảnh huống như thế luôn cho thấy những giới hạn của nó. người thầy mới, cả ngoài đời và trong Trong lễ sinh nhật thứ tám mươi GS. NGND Nguyễn Đình Chú (sinh năm 1929) sách vở. Từ thầy Chú, tôi hiểu rằng ân mốt của thầy, xin được bộc bạch một sư không phải là người thầy duy nhất vài cảm nhận nhỏ, riêng tư về thầy dù vẫn biết rằng sự im lặng có những đáy nhưng là người giúp học trò của mình sâu mà không một ngôn từ nào có thể chạm đến được.  KHEN THƯỞNG, DANH HIỆU: tìm, đặt và có được sự tự tin cần thiết Với tôi, thầy Chú luôn là ân sư! - Nhà giáo Ưu tú, Nhà giáo Nhân dân, tặng thưởng để bước những bước chân đầu tiên trên Giờ đây, khi đọc lại những gì thầy Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì, Huân con đường khoa học. Được có một ân viết, thấy rất rõ một đặc điểm là từ rất chương Lao động hạng Nhì. sư như thế trong đời, quả thật, là một sớm, những bài viết của thầy đã vượt - Một trong những chuyên gia đầu ngành về nghiên cứu may mắn của số phận. quá những khung khổ của nghiên cứu và giảng dạy Văn học Việt Nam từ cổ trung đại đến cận văn học như người ta đã quan niệm hiện đại; từng tham gia biên soạn sách giáo khoa Ngữ Nhưng không phải riêng tôi mới được trong một thời gian dài. Từ rất sớm văn THPT, bộ sách hợp nhất năm 2000; tham gia các hưởng sự may mắn ấy. Từ những câu thầy đã bận tâm đến khía cạnh của công trình nghiên cứu chung cấp Nhà nước. chuyện mà các thầy cô anh chị trong văn hóa trong trước tác của Phan Bội tổ bộ môn kể lại, từ những học viên đã Châu, Hồ Chí Minh và mở rộng hơn là từng được thụ giáo thầy, tôi cũng biết bối cảnh văn hóa của đời sống văn học. Những đối tượng quan tâm, bàn luận  MỘT SỐ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU: đến thật nhiều những người mà thầy của thầy rất phong phú: tính chất đa đã cưu mang, tận tâm nâng đỡ, chỉ ngữ trong sáng tác của Hồ Chí Minh, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (1858 – 1920), T.4 dạy. Có người tôi biết tên như anh Tôn những trăn trở canh tân của Nguyễn (viết chung) (1963), Văn thơ Phan Bội Châu (1968), Hợp Thất Dụng, anh Nguyễn Công Lý, anh Trường Tộ, về sự áp đảo của văn minh tuyển văn học Việt Nam (1920 - 1945), T.1 (viết chung) Nguyễn Thanh Sơn, chị Nguyễn Thị (1980), Thơ văn Trần Tế Xương (viết chung) (1984), Thơ Nương... Có người tôi chỉ biết đến qua văn Tản Đà (1984), Văn hóa, văn học, giáo dục (2017). những câu chuyện mà danh tính của họ thật xa xôi - những câu chuyện được lưu giữ và truyền qua các thế hệ như một minh chứng về tấm lòng của một người phương Tây với văn hóa phương Đông truyền thống, về thầy trọn đời tận tâm với học trò. Chính khuynh hướng đạo đức trong những tiểu thuyết của Hồ Biểu tôi đã trực tiếp chứng kiến, PGS Nguyễn Chánh... nhưng đều xuất phát từ một vấn đề trung tâm như Đăng Na (sinh năm 1942), trong một những ảnh hưởng và tác động của văn hóa đối với sự vận cuộc phỏng vấn với phóng viên truyền hành và tồn tại của đời sống văn học. Có thể nói, GS Nguyễn hình rơm rớm nước mắt khi nói về thầy. Đình Chú là một trong không nhiều những nhà nghiên cứu Sau này, thầy Nguyễn Đăng Na có nói Việt Nam đã sớm trực giác được vai trò của văn hóa trong với tôi: “Thầy Chú là một trong ba việc nhận diện và cắt nghĩa về những hiện tượng văn học. Khi người thầy quan trọng nhất trong cuộc nhận tôi về tổ, ngay từ đầu, thầy đã yêu cầu tôi phải đọc kỹ đời của mình...”. Những câu chuyện, 80 70 năm Sư phạm Văn khoa

những tình cảm như thế về thầy Chú có thể kể mãi không dứt. Tôi cảm nhận thấy những điều tốt đẹp từ những quan hệ giao đãi, luôn nhận được trong những lời kể ấy không chỉ sự cảm phục mà còn cả niềm nhận thấy những yếu tố tích cực ở người khác để tôn trọng hạnh phúc và tự hào về một người thầy. Và hơn thế, như một niềm tin và bộc lộ những thiện chí. Đấy phải chăng là một cảnh giới để về sự hiện diện của sự từ tâm trong cuộc sống. Có lẽ chính vì thế, thầy có được sự hư tâm? Có lần thầy tâm sự với tôi rằng thầy tâm Chú, tấm lòng của thầy không còn là câu chuyện của một cá nhân mà đã đắc nhất với câu châm ngôn mà thân phụ thầy đã dạy thầy trở thành một phần của lịch sử Khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm từ nhỏ, một câu châm ngôn có ý nghĩa như một sự khai tâm: Hà Nội; trở thành biểu tượng cho tấm lòng của người thầy, và hơn thế, “Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhân”. Đấy thật sự là một may một biểu tượng cho lối sống của con người Khoa Văn: Chân thành - Tận mắn mà gia phong đã đem đến cho thầy. Nhưng tôi vẫn nghĩ, tâm - Tình nghĩa. những câu châm ngôn đẹp đẽ mà một người biết đến trong đời chắc không ít. Điều quan trọng là ở chỗ sống theo những Về phần mình, sống cạnh thầy, chứng kiến những ứng xử của thầy, châm ngôn ấy một cách thành tâm và vững chãi. Và đó chính tôi nhận thấy một đặc điểm, thầy luôn tin vào mọi người, tin vào những là một bài học thâm viễn mà tôi đã kính cẩn nhận biết được điều người khác nói, tin vào tình cảm mà người khác dành cho thầy, tin từ những ứng xử của thầy. vào những khía cạnh tốt đẹp và tích cực của người khác. Tôi đã suy nghĩ rất nhiều về niềm tin ấy - một niềm tin thật hồn nhiên và phác thực - Theo khuôn phép của nhà Nho xưa, học trò học thầy không và chỉ mãi gần đây tôi mới lí giải được phần nào nguyên nhân về niềm chỉ ở chữ nghĩa để đỗ đạt mà còn là học một cách sống. Cũng tin ấy nơi thầy. Cái gốc của niềm tin ấy, theo tôi là vì thầy luôn đến với mọi người theo khuôn phép ấy, từ rất lâu tôi đã hiểu rằng mình sẽ mãi bằng sự chân thành của lòng mình. Chỉ những người thật sự chân thành với người chỉ là một học trò nông nổi và hạn hẹp trước những gì đã thụ khác mới có thể có được niềm tin về sự chân thành trong tình cảm mà người khác giáo từ thầy. Không phải không có lúc tự thẹn nhưng rồi lại dành cho mình. Có lẽ cũng chính vì thế mà thầy không giận ai lâu, không có những tự an ủi mình: “Xưa nay, chuyện con không theo kịp cha, trò để bụng, thành kiến. Với đồng nghiệp, với học trò không phải không có chuyện chẳng nối được chí thầy cũng phải đâu là chuyện hiếm!” bất như ý nhưng vì luôn tin ở sự chân thành của tình cảm nên luôn có tâm thế để Xin được kết thúc những cảm nhận nhỏ về thầy trong bài viết này bằng tình cảm của thầy với cô Thâm - người bạn đời mà tình cảm của thầy dành cho cô sau suốt gần sáu mươi năm vẫn luôn trẻ trung và bồng bột. Nói về cô luôn là một cảm hứng đặc biệt của thầy Chú. Nói nhiều lần nhưng chỉ một tone duy nhất - ngưỡng mộ và hạnh phúc trong sự ngưỡng mộ ấy. Tôi vẫn nhớ, khi ngôi nhà mới của thầy cô ở Yên Hòa khánh thành, thầy gọi tôi vào phòng viết của mình. Rất nhiều sách vở còn bề bộn và một cái bàn viết trang nhã, một chiếc ghế làm việc. Thầy ngồi vào ghế với dáng vẻ còn ngỡ ngàng, chưa mấy quen thuộc. Thầy cầm cây bút, không để viết gì rồi đột nhiên quay lại nói với tôi: “Cô tài thật đấy. Thế quái nào mà cuối đời mình lại rơi vào ngôi nhà đẹp như thế này”. Nói xong thầy cười, tiếng cười đặc trưng của thầy, hồn hậu và ấm. Có cảm giác, thầy giao phó toàn bộ cuộc đời mình vào tay cô và hoàn toàn tin cậy, mãn nguyện với những xếp đặt của cô! Cô Thâm, như trong cảm nhận của tôi, là điểm tựa mà Ác-si-mét nói đến trong cuộc sống và sự nghiệp khoa học của thầy. Con xin được chúc thầy cô sức khỏe và những niềm vui luôn chan hòa trong ngôi nhà của thầy cô. Và con tin rằng, đó cũng là mong ước của cả bộ môn VHVN hiện đại, của Khoa Ngữ văn, của tất cả những thế hệ môn sinh đã có vinh dự được học tập, sống và làm việc bên thầy! l PGS.TS Trần Văn Toàn 81

Những gương mặt thân thương cặp đôi vàng Ngày mai các con sẽ bay đi người thứ hai cùng chia sẻ sâu sắc với GS Đỗ Hữu Châu tình cơ thưởng - phạt của thầy đều rất vô khắp bốn phương trời, sẽ yêu và sự nghiệp lớn ấy. Đó chính là người bạn đời, người vợ tư, và tự đáy lòng, thầy không hề muốn vươn tới những đỉnh cao chưa thủy chung, người cần vụ tận tụy, người cộng sự đắc lực - trách phạt ai… hề tới, sẽ lên thuyền ra biển người mẹ hiền không phải chỉ của cô con gái yêu Đỗ Phượng vượt trùng khơi. Nhưng các Trinh của thầy mà còn là của học trò Khoa Văn ở mọi hệ đào … Suốt mười mấy năm thầy làm Chủ con sẽ không bao giờ quên tổ ấm Khoa tạo chúng tôi trong suốt mấy thập kỷ qua: cô Nguyễn Thị nhiệm Khoa, cũng là một thời “hoàng Văn - nơi từ đó các con khôn lớn…”. Ngọc Diệu. kim” của Khoa Văn - không chỉ với những hoạt động chuyên môn nghiêm Những lời ấm áp nghĩa tình vang lên Người ta từng thấy thầy cô những năm 80 của thế kỷ trước túc, nề nếp mà còn sôi nổi với những bên tai tôi, thấm vào trái tim tôi từ lần là một cặp đôi với hình ảnh ông chồng đội mũ phớt, ngồi trên hội diễn văn nghệ, thể thao, đêm thơ đầu tiên trong lễ khai giảng năm thứ xe “Cá ươn”, vẻ hài lòng, đèo bà vợ trẻ trung, ăn vận có phần sinh viên… thu hút sự quan tâm không nhất đời sinh viên, cũng là lễ chia tay “diêm dúa” ở phía sau! Những khi xe không nổ máy được, chỉ của Khoa Văn mà cả các Khoa bạn các anh chị Văn 4 ra trường… ông bèn xuống xe, đạp phành phạch và có khi dắt bộ về nhà… và trường bạn; để lại ấn tượng sâu sắc và trở thành hành trang quý báu trong Lần đầu tiên tôi tiếp nhận hình ảnh Nhưng cô không chỉ là người đàn bà kiêu hãnh ngồi sau ký ức mỗi người… Trong những hoạt vị Chủ nhiệm Khoa quyền uy đường bệ, “Cá ươn” để làm nên vẻ đẹp hài hòa cho bức chân dung vị động này, thầy luôn nhận được sự vị giáo sư nổi tiếng tài hoa, nghiêm túc giáo sư khả kính. Cô cũng là người cùng chia sẻ những bận khích lệ nhiệt tình và cả sự tham gia trong khoa học với tấm lòng một người tâm của thầy về nỗi vui buồn, no đói của sinh viên và học đóng góp bằng niềm say mê, khiếu cha. Dặn dò bọn sinh viên mới nhập viên… Sẽ rất nhiều học trò trở thành Cử nhân, Thạc sĩ hay thẩm mỹ và đầu óc tổ chức quản lý tài trường còn đầy bỡ ngỡ, thầy lên giọng Tiến sĩ, không thể quên sự động viên, khuyến khích và giúp tình cũng như khả năng lôi cuốn, vận “phú ông”: “Khoa không đòi môn đăng đỡ về cả vật chất lẫn tinh thần của cô. Nếu chẳng gặp cô, sẽ động quần chúng đầy thuyết phục của hộ đối, cũng không bảo cháu còn bé có những học trò “yếu bóng vía” không dám trở lại để được người bạn đời, cộng sự: cô Nguyễn Thị lắm, khoa chỉ bảo rằng: - Ối các con ơi, nhận tấm lòng đôn hậu và những tri thức khoa học phong Ngọc Diệu. Vai Thị Kính, Thị Mầu, đừng bôi gio trát trấu vào mặt Khoa!”. phú, phương pháp tư duy sâu sắc của thầy. Tất cả chúng tôi mẹ Đốp, xã trưởng - sinh viên do cô Cả hội trường cười ồ bởi câu đùa ngoa đã từng “sợ chết khiếp” cái dáng lừ lừ khủng khỉnh khi mở “đạo diễn” là một trong những vai gây ngoắt mà dí dỏm, nhưng cũng thật cửa, câu hỏi chẳng tuân theo “nguyên tắc lịch sự” Grice tí ấn tượng sâu sắc nhất với người xem. thấm thía vì chẳng có lời nhắc nhở nào nào, và cả những lời quở mắng “lôi đình”, trước khi nhận ra Chẳng mấy ai biết được cô còn là một ân cần chu đáo mà chí tình hơn. Đúng đằng sau bộ da “sư tử” là cả một tấm lòng độ lượng, bao dung. tay chơi mandolin có hạng, một giọng ca là tâm tư của một người cha có con gái Tôi không thể nào quên lần đầu phải diện kiến thầy với một “tiền chiến” cừ khôi! Cô là người cùng “rượu”: kiêu hãnh, tự hào mà biết mấy lý do chẳng mấy “sang trọng”: “đầu thú” vì tội đánh răng, song tấu mandolin - guitar với thầy lo âu!... dội nước vào chính vị Chủ nhiệm Khoa vừa bước ra từ một những đêm hè oi bức. Cô là người chia phòng ký túc xá sau cuộc họp. Bất chấp thân hình bấy giờ đã sẻ niềm rung cảm sâu xa với thầy trong Sau bài nói chuyện có tính chất huấn chẳng mấy nhẹ nhàng, thầy chạy một mạch lên tầng ba, la ầm những ca khúc Văn Cao. Cô cũng là thị của phòng công tác chính trị, thầy ĩ khiến tôi không đủ can đảm ra giáp mặt, để rồi sau đó phải nguồn cảm hứng vô tận và dẫn chứng giới thiệu GS Nguyễn Đình Chú lên lóc cóc theo lớp trưởng lên tận tầng 4 - B3 tìm thầy và chịu sinh động cho thầy khi viết về hội thoại phát biểu với tư cách một thầy giáo lâu phạt dọn vệ sinh tầng trệt một tuần, để sau mới nghiệm ra và giao tiếp trong lý thuyết dụng học năm và gắn bó với Khoa Văn. Cả hội rằng thầy không đáng sợ như tôi tưởng… Có lẽ bởi vì, động trường lại vỗ tay vang dội bởi lời kết bài phát biểu: “Dù ai có nói gì về Khoa Văn và sinh viên Khoa Văn đi nữa, thì tôi vẫn thấy Khoa Văn và học trò Khoa Văn thật đáng yêu!”. GS Nguyễn Đình Chú giơ cả hai tay bắt tay GS Đỗ Hữu Châu: “Tôi với ông này luôn gặp nhau ở chỗ lúc nào cũng vì học trò và yêu mến học trò”. … Nhưng chúng tôi còn biết có một 82 70 năm Sư phạm Văn khoa

(1932 - 2006) GS.TS Đỗ Hữu Châu (quê ở Nam Định), thuộc thế hệ đầu tiên của Bộ môn Lí luận Ngôn ngữ. Nhiều năm liền, GS giữ cương vị trọng trách Trưởng Bộ môn Lí luận Ngôn ngữ, Trưởng Khoa Ngữ văn. GS cũng từng giữ chức Chủ tịch Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Chức danh ngành Ngôn ngữ học. Đóng góp quan trọng của GS Đỗ Hữu Châu thể hiện trên hai lĩnh vực: Từ vựng học và Ngữ dụng học. Thầy sử dụng thành thạo bốn ngoại ngữ: Pháp, Anh, Nga và Hán. Như một sự tri ân, tưởng nhớ người thầy, nhà khoa học uyên bác mà tài hoa, tại lễ tưởng nhớ 10 năm ngày mất của GS Đỗ Hữu Châu (2016), học trò của GS trên mọi miền đất nước cùng với gia đình đã thành lập Quỹ học bổng Đỗ Hữu Châu dành cho những sinh viên Sư phạm Ngữ văn xuất sắc.  MỘT SỐ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU: quyền uy, mà còn là một người cha hiền từ, đôn hậu. Và có lẽ không có vị Chủ Giáo trình Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt (1981), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng (1984), Các bình diện nhiệm Khoa nào được học trò các thế hệ của từ và từ tiếng Việt (1986), Từ vựng học tiếng Việt (2003), Đại cương ngôn ngữ học, Tập hai, Ngữ dụng của Khoa (và cả các Khoa bạn) gọi bằng học (2001), Giáo trình Ngữ dụng học (2003), Cơ sở ngữ dụng học (2003),… cái tên dân dã mà âu yếm và thân mật Năm 2000, thầy được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về khoa học với cụm các công trình Từ vựng - Ngữ như thế: Bố Châu ơi! Như mỗi lần thầy nghĩa. Năm 2016, thầy được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh với cụm các công trình Ngữ dụng học. lượn “cá ươn” qua kí túc xá sinh viên hay đủng đỉnh với chiếc xắc da từ văn Việt ngữ. Chắc chắn thầy nghĩ đến cô nghiệp của người đàn ông tài năng là một người phụ nữ. Với phòng Khoa trở về, chúng tôi cùng đồng và thú vị “tự trào” hình ảnh của chính GS Đỗ Hữu Châu, đó chính là người vợ tận tụy yêu thương, thanh gọi. Chỉ để thấy thầy cười, mái mình khi dẫn ra những lời thoại trong tưởng chừng trái ngược mà lại vô cùng thống nhất, hài hòa. tóc bạc rung rung, đôi mắt kính ngước truyện ngắn Nam Cao: “Có chồng con Người dốc lòng vì sự nghiệp khoa học, phải gặp được một lên như tò mò, lạ lẫm và tiếng cười vang nhà nào như thế không, suốt ngày chỉ vác người biết lo toan mọi thứ trên đời, quên mình phụng sự rõ tiếng “hà hà” hồn nhiên, thân mật, cái mặt lên như con trâu nghênh. Để con chồng con, chăm sóc từng bữa ăn, giấc ngủ, từ đôi dép dưới lành hiền. Chỉ để thấy ấm lòng… ăn đất ngoài sân kia kìa!”. Cô Diệu kể chân cho đến chiếc cà - vạt trên cổ áo… Người trầm tư, ít nói rằng: Khi cô sinh con gái đầu lòng, thầy phải được nghe bà vợ nói nhiều để ngôn ngữ được “lên ngôi” Bây giờ thầy ở đâu? Chỉ có đôi mắt khoe với bạn bè ở Khoa. Họ hỏi: “Làm và không khí gia đình không tẻ lạnh… Một điều chắc chắn với ánh nhìn ấm áp vẫn lấp lánh cười sao biết” thì thầy hồn nhiên trả lời: rằng không thể có những công trình khoa học của giáo sư nếu sau cặp kính. Mái tóc bạc bay bay đầy “Tình cờ đi qua đấy biết”! thiếu bàn tay ân cần chăm sóc cho chính cuộc sống của giáo kiêu hãnh trên vầng trán rộng và cao sư suốt mấy thập kỷ qua và cho đến giây phút cuối cùng! Gần khiết như một ông tiên… Văng vẳng Và tụi học trò cao học, nghiên cứu hai năm cuối đời trên giường bệnh, có những thời gian “chết bên tai tôi lời ca khúc Văn Cao mà sinh chúng tôi còn lăn ra cười mãi vì lâm sàng”, thầy có dịp hiểu hơn tấm lòng người vợ. Tuổi cận thầy hằng ưa thích. Tiếng ca như da một lần có việc lên trình thầy, nghe cô 70, cô lặn lội đi về ngày mấy lượt như thoi, săn sóc chồng diết, não nùng hơn qua giọng ca của ca thán hết lời về “tội” đuểnh đoảng trong những cơn nguy kịch và kiên trì tìm thuốc hay thầy giỏi người tri kỷ - người vợ hiền yêu quý: việc nhà, ham làm khoa học, “tội” để khắp mọi phương. Với giọng ca run rẩy đầy cảm xúc, cô hát đi “Từng hẹn ngày xưa cùng xây nhà bên cô phải van xin mới chịu thay quần áo hát lại những ca khúc tiền chiến mà thầy từng yêu thích với suối. Nghe suối róc rách trôi, hoa lừng cho giặt…, ra tới hành lang, bỗng nghe hy vọng khiến thầy tỉnh lại, dù chỉ để cho cô được đi đổ gạt hương gió ngát, đàn ai đùa trong khóm tiếng hát ngân nga và tiếng đàn “tình tàn… Cô giới thiệu với thầy từng đồng nghiệp cố tri, từng đứa lá vàng tươi…” tính tang” vui nhộn, yêu đời, hết sức học trò… để mong thầy nhận biết. Cũng như trước đây thầy “vô can” của thầy. Thì ra những lời ca cô từng chia sẻ, cảm thông và trăn trở rất nhiều trước những Sau nửa thế kỷ cống hiến cho khoa cẩm muôn đời của các bà vợ kia là nói ai buồn vui số phận học trò… “Hai người yêu nhau không phải là học và sự nghiệp giáo dục đầy vinh ấy chứ không phải “quy chiếu” vào GS nhìn nhau mà là cùng nhìn về một hướng” (Saint Exupery). Với quang và biết mấy nhọc nhằn, sau Đỗ Hữu Châu! Và cứ để cho các bà ca thầy Châu - cô Diệu, trong tình yêu với Khoa Văn và với học những phút suy tư, những giờ lên lớp cẩm theo phát hiện của nhân vật Điền. trò - quả đúng là như vậy. Hai người có thể dành thời gian miệt mài, thầy đã có thể hẹn cùng Lưu Cứ nói cho thoải mái rồi lại cặm cụi đi hàng tiếng đồng hồ để lắng nghe tâm tư học trò, để cùng nhau Nguyễn, thanh thản về chốn “Thiên giặt là từng chiếc áo, đơm từng chiếc tìm cách giúp đỡ các em. Đằng sau những trái ngược vẻ ngoài Thai”, về với “Suối mơ” - nơi ngọn cúc rơi, nấu những món ăn cầu kỳ với và tính cách, thực sự là một tình yêu lớn của hai nhân cách nguồn của sự sống và sáng tạo, nơi từ tiêu chuẩn “mềm, nhừ” vì “ông Châu đáng trọng. đó khai sinh khối di sản đồ sộ của khoa thích” như thực hiện nghĩa cử thiêng học ngôn ngữ nước nhà mà chúng tôi liêng nhất trên đời! Thầy đã “tri kỷ - tri Ở Khoa Văn Đại học Sư phạm I chúng tôi, GS Đỗ Hữu đang nâng ở trên tay. Và chúng con mãi âm” với người bạn đời như vậy! Châu được biết đến không những như một nhà khoa học lớn, nhớ Thầy - “Bố Châu ơi!” l vị giáo sư đầu ngành, nhà quản lý - người thầy nghiêm khắc, Đằng sau những thành công và sự Lê Thị Tuyết Hạnh (CSV Văn khóa 1982-1986) 83

Những gương mặt thân thương Tôi là học trò của Thầy từ (Tâm sự về Thầy Đỗ Bình Trị) năm 1966, khi vào học năm thứ nhất Khoa Ngữ văn, cho ra đời cuốn Truyện cổ tích thần kỳ Việt đọc theo Hình thái Trường Đại học Sư phạm Hà học của truyện cổ tích của V.Ja.Propp (xuất bản 2006). Ở Nội 1. Sau khi tốt nghiệp, tôi tuổi 86, Thầy cho xuất bản cuốn Mấy nghiên cứu - ứng dụng nhập ngũ, đến 1976 thì trở về. Những học thuyết của V.Ja.Propp về Folklore (2017). Hiện nay, ở tuổi người đã qua quân ngũ như tôi lúc đó 90, Thầy đang tiếp tục viết cuốn sách thứ ba về dân ca Việt được nhà trường ưu ái. Thầy nhận tôi Nam. Thầy dự kiến sẽ hoàn thành trong năm 2021. về làm việc trong tổ Bộ môn Văn học Việt Nam 1, nhóm Văn học dân gian Ở tuổi 90, thầy vẫn sử dụng thành thạo máy tính, với 4 (Thầy là Trưởng nhóm). Sau này, khi font chữ Việt, Anh, Pháp, Nga để viết sách; hàng ngày truy Thầy làm Chủ nhiệm Khoa Ngữ văn, cập internet để tìm hiểu tin tức thời sự - chính trị và các vẫn kiêm phụ trách nhóm Văn học thông tin khoa học. Thầy còn truyền cảm hứng cho tôi bằng dân gian. Tôi gắn bó với Thầy trong những vần thơ: suốt những năm gian khổ của thời kỳ bao cấp với biết bao kỷ niệm vui buồn. Khúc dạo đầu Song cũng chính trong những năm ấy, (Trích trường ca: “Người chở đò ngang”) tôi học được rất nhiều. Điều học được Đỗ Bình Trị ở Thầy mà tôi thấy quan trọng nhất là Người ta bảo ý chí và nghị lực cộng với tình yêu và Thầy là người chở đò lòng say mê khoa học. Thầy nói: “Làm Và bọn trò là khách sang sông. khoa học không thể thiếu ngoại ngữ”. Họ không thấy Vốn tiếng Pháp của Thầy rất tốt. Năm Dưới trời cao 1955, anh ruột Thầy đi Trung Quốc Dòng sông chảy qua những cánh đồng sao như dải thiên hà. về, tặng Thầy cuốn Thép đã tôi thế đấy (bản dịch tiếng Pháp). Thầy đã đọc tác * phẩm này từ hồi đó. Năm đầu công tác Người ta bảo cùng Thầy (1976), ngày nào tôi cũng Thầy là người chở đò thấy Thầy tự học tiếng Nga. Chỉ vài Và bọn trò là khách sang sông. năm sau, Thầy đã đọc được sách tiếng Họ không thấy Nga và dịch nhiều tài liệu ra tiếng Việt. Tagore xưa từng mơ Chúng tôi trong nhóm Bộ môn Văn Thành người chở đò ngang: học dân gian (Lê Trường Phát, Nguyễn “Mẹ ơi, nếu mẹ ưng thì lớn lên, con thích được thành người Bích Hà, Phạm Thu Yến và tôi) vô cùng chở đò ngang khâm phục. Tôi được thừa hưởng nhiều “Con sẽ qua lại không ngừng từ bờ này sang bờ nọ và con trai kiến thức lý luận của Văn học dân gian con gái trong làng vừa tắm rửa vừa há hốc miệng nhìn con ...”. Nga qua các tài liệu dịch của Thầy. Sau Bên kia dòng sông này, khi rời khỏi Khoa Ngữ văn, lên là “bờ sông bên kia”, nơi công tác ở Bộ Giáo dục và Đào tạo với có những cảnh vật tinh khôi cương vị Cục trưởng, Thầy tự học thêm và những con đường dẫn tới chân trời xa rộng. tiếng Anh. Khi sang công tác Ấn Độ, Thầy tự giao dịch bằng tiếng Anh mà * không phải qua phiên dịch. Người ta bảo Thầy là người chở đò Thầy sinh ngày 31 tháng 5 năm 1931, Và bọn trò là khách sang sông. năm nay đã vừa tròn 90 tuổi. Thế mà Họ có nghe chăng tiếng hát con đò? hàng ngày, Thầy vẫn miệt mài chạy đua - Rằng bọn học trò về sau đã trở thành người chở đò theo thầy với thời gian trong việc đọc sách và viết chở những giấc mơ hồng sang sông... sách. Trên bàn làm việc của Thầy vẫn hiển hiện 3 loại sách bằng tiếng Pháp, 20.11.2006 tiếng Nga và tiếng Anh. Ở tuổi 75, Thầy Tôi tự hào vì có một người Thầy tuổi cao chí càng cao và tự nhủ mình sẽ cố gắng để được một phần như Thầy là đã mãn 84 70 năm Sư phạm Văn khoa nguyện lắm rồi ! l (Hà Nội, ngày 12 tháng 7 năm 2021) Trần Đức Ngôn, Lê Lưu Oanh

Tôi được học thầy từ năm thứ Khoá chúng tôi rất đông các thầy Nguyễn Đình Chú, Nguyễn ba, khi đó thầy đã có biệt các anh sinh viên là những Đăng Mạnh, Trần Hữu Tá, Tôn Gia danh “cụ Bá”, chắc là do cái người anh hùng từ mặt trận Các, Nguyễn Hoành Khung, Nguyễn giọng sang sảng rất quyền trở về. Các anh mang theo Văn Long, cô Trịnh Thu Tiết... tôi dần uy của thầy. Nghe đồn vào giảng đường tính kỉ hiểu ra mình thật may mắn được cùng phòng họp nhà Hiệu bộ nhiều lần rung luật và tinh thần hiếu học. bộ môn với những con người cá tính chuyển khi ông bí thư Đảng uỷ Khoa Giảng viên trẻ lên lớp phải mạnh, ghét sự trịnh trọng màu mè, Văn Hoàng Dung cất tiếng. Và các vị ý tứ giữ gìn tư thế mô phạm ghét sự gò bó nhưng rất có uy tín trong lãnh đạo trường rất coi trọng những lắm. Nhưng các thầy uy tín chuyên môn và cực kì vui tính, nhân phát biểu của thầy. đã vững như bàn thạch thì hậu. Chả thế mà ở đâu đó người ta ngại, thường có tác phong hết sợ họp hành chứ chúng tôi chỉ mong Lớp chúng tôi nhiều sinh viên là sức thoải mái. Lớp học toàn họp tổ. Cô Thu Tiết có mấy đứa cháu lính đi chiến trường về, các anh gọi nhà tranh vách đất lụp sụp, học cấp 2, cấp 3 gì đấy sống cùng, được thầy là nguyên soái Kutuzov. Tôi bục giảng lởm khởm, bàn nghe hóng vài cuộc họp tổ ở nhà cô, thấy đó là liên tưởng rất thú vị. Mấy ghế tuềnh toàng. Nhiều khoái quá, lâu lâu lại hỏi: “Bao giờ tổ khoá sau chúng tôi, giỏi hài hước hơn, phòng học thiếu cả cái ghế bác lại họp?”. Rủi mà đứa nào bị trùng bạo phổi hơn... đã làm vè đùa giỡn các tựa chỗ bàn giáo viên, hoặc hôm thì có, hôm bỗng biến mất. buổi đến trường, không được náu trong thầy cô của Khoa và hình như lại được Chúng tôi thương thầy cô phải đứng giảng suốt mấy tiếng buồng để hóng hớt là cứ tiếc hùi hụi! chính “các cụ” ấy khoái trá đồng tình: đồng hồ mà chẳng biết làm thế nào. Một buổi “cụ Bá” Hoàng “Vừa giảng vừa lườm/ Là thầy Trường Dung tay cắp cặp, tay xách cái phích mi-ni, đĩnh đạc bước Một vài cuộc họp đầu, có ai đó Phát/ Vừa giảng vừa quát/ Là thầy vào. Treo phích lên cái đinh trên vách (cái đinh này cụ đem khuyến khích “các bạn trẻ phát biểu Hoàng Dung....”. từ nhà đến cùng một cây búa nhỏ, tự đóng lên tường), quay lại đi”. Tôi và mấy anh chị “lính mới” lúng bàn giáo viên thì không thấy ghế, cụ lắc lắc mái đầu húi cua túng. Thầy Dung lườm tất cả một cái Vốn dân quê rặt, khi mới tiếp xúc với điểm bạc, ghé mông ngồi luôn lên góc bàn, thản nhiên nhìn rồi phán: “Ở tổ này trừ thầy Nguyễn thầy, tôi hãi lắm. Oái oăm thế nào lớp lại xuống hơn 80 đứa sinh viên: “Các anh chị biết không? Ở cái Trác, còn lại toàn lưỡi sắc hơn dao cạo. bầu tôi làm lớp phó học tập kiêm thêm trường này, từ cô đánh máy, anh bảo vệ, đến nhân viên các Các bạn trẻ không cần phát biểu. Cứ cán sự môn Văn học Việt Nam hiện đại. phòng ban đều có ghế ngồi. Chỉ hai nơi không có ghế ngồi là ngồi nghe đã đủ khôn rồi!”. Quả đúng Chúng tôi học phần văn học 1900-1945 nhà trẻ và bục giáo viên. Nhưng con nít nó còn có thể ngồi vậy. Thầy nào cũng tài ứng đối, cũng khi đất nước vừa thống nhất. bô...”. Lớp tôi lặng đi mấy giây rồi ào ào vỗ tay. Cụ Dung cứ hóm hỉnh nên ngay cả chuyện chuyên ngồi thế giảng đến hết buổi. Sáng hôm sau thấy bục giảng lớp môn học thuật, dù có khi tranh cãi kịch Một số thầy cô của Khoa được cử đi tôi có cái ghế tựa khá mới, ở đâu ra thì tôi chịu! liệt thì không khí chung vẫn cứ vui vẻ, thỉnh giảng ở các trường đại học phía thoải mái. Tranh cãi xong, thầy Dung Nam. Nhân dịp đó, các thầy đã tranh Vào đầu năm học thứ tư, anh Nguyễn Viết Hưng giáo vụ phán: “Tổ này không chỉ lo nghiên cứu thủ tìm kiếm được những tác phẩm của Khoa thông báo thầy Hoàng Dung sẽ làm chủ nhiệm lớp cả và dạy một ông Nguyễn Tuân đâu mà các tác giả Tự lực văn đoàn, Thơ mới... khối chúng tôi (gồm 8 lớp). Buổi tối, thầy đến kí túc xá A7 còn phải quản lý đến mấy ông Nguyễn từ lâu không được xuất bản ở miền Bắc. thăm sinh viên. Chúng tôi reo hò chào đón. Thầy tỉnh bơ: Tuân nữa cơ!”. Tất cả ôm bụng cười. Buổi lên lớp đầu tiên thầy bảo: “Ai là “Các anh chị phải thấy buồn vì tôi không làm bộ trưởng chứ Thầy Mạnh đùa cũng “ngoa” lắm. Trời cán sự bộ môn, đúng sáu giờ tối nay sao lại vui khi tôi làm chủ nhiệm các anh chị?”. Với tuổi trẻ nóng, đang họp thì mất điện, thầy đến nhà tôi lấy cuốn Hồn bướm mơ tiên thời ấy, cái ngang tàng, ít nhiều phá cách khuôn thước mô Mạnh bảo: “Kiếm lấy vài cái quạt con về tổ chức cho lớp đọc và thảo luận” phạm như vậy được chúng tôi hâm mộ lắm! cóc, gắn vào lưỡi ông Nguyễn Hoành (Các thầy cô hồi ấy hầu hết sống trong Khung, ông Tôn Gia Các là quạt quay khu tập thể trường, cũng như sinh viên Khi tôi được nhận về làm giảng viên môn Văn học Việt vù vù ngay ấy mà!”. hầu hết ở kí túc xá). Nam hiện đại do thầy làm tổ trưởng (giờ gọi là Trưởng Bộ môn), tôi vẫn giữ nguyên nỗi sợ mỗi khi đối diện thầy. Tôi Tôi học khôn rất chậm nhưng mãi Đúng sáu giờ tối, tôi đứng trước cửa ngạc nhiên vô cùng khi tham dự mấy buổi họp của bộ môn. mãi biết ơn các bậc tiền bối đã truyền phòng thầy. Năm bảy lần đưa tay lên Ông tổ trưởng vía cả tiếng sang thế mà cuộc họp nào mọi cho tôi lòng yêu nghề, thích khám rồi lại bỏ xuống, run quá, không dám gõ người cũng no cười. Hoá ra đây là đơn vị dân chủ nhất trong phá cái mới, thích sự bình đẳng, trọng cửa. Mấy phút sau bất ngờ cánh cửa mở Khoa. Chứng kiến những đối thoại giữa thầy Hoàng Dung với những nhân cách tự do, trung thực... tung, chị Trâm con gái thầy, bưng mâm bát vừa rửa ra hành lang. Nhìn thấy 85 tôi, chị hỏi: “Em đến gặp ba chị à? Sao không vào đi, ba chị đang rảnh đấy”. Vẻ thân thiện của chị giúp tôi đủ can đảm bước vào. Thầy đang ngồi bên cái bàn nước thấp, trên bàn ngoài ấm chén, có đĩa nhỏ đựng lạc rang. Tôi vừa xong câu chào, thầy quát luôn: “Tôi hẹn cô 6 giờ, sao giờ cô mới tới?”. Có lẽ thấy tôi xanh mặt, thầy cười, vừa đẩy đĩa lạc về phía tôi vừa dịu giọng: “Ăn lạc và uống nước con”. Đưa tôi cuốn Hồn bướm mơ tiên, thầy lại nghiêm giọng: “Cô phải lấy đầu ra mà đảm bảo với tôi không để mất sách đấy”. Hết hồn!

Những gương mặt thân thương Với thầy Hoàng Dung, càng ngày chồng có khó khăn không? Thấy chồng hiền đừng bắt Khi con ngồi đây cầm bút tôi càng nhận ra vẻ quyền uy, nghiêm nạt nhé! Nếu có khi nào nó đá thúng đụng nia thì đừng viết những dòng chữ này, khắc chỉ là một phía. Phía khác, thầy chỉ nhìn nguyên nhân trước mắt. Đàn ông nó không nói chỉ còn vài ngày nữa là đến giống như một người cha, người bác thẳng ra cái lý do đích thực khiến nó tức giận đâu...”. ngày tròn ba năm Thầy ra cực kỳ chu đáo ân tình. Tôi cứ nghĩ giá Tôi gặp rủi ro chuyện thai sản, thầy đến nhà động viên, đi. Cảm xúc về cuộc sống trong đời mình, có lúc nào được làm an ủi. Thầy đưa cô Thu Tiết 80 đồng (lương tôi lúc đó ngắn ngủi, sinh ly tử biệt chưa bao giờ sếp, dù be bé hay lơn lớn, mình nhất 64 đồng), nói “Cô đưa cho cái Bình, bảo nó lo ăn uống, hiện hữu trong con rõ đến thế. Nhớ về định sẽ học theo cách ứng xử của thầy: thuốc thang cẩn thận mới mong lại sức. Nó bị thế này là Thầy, con nhớ về những mùa hè thật không chỉ lo phân công, giám sát, đốc mất sức lắm. Cô là phụ nữ, cô đưa nó sẽ không ngại. Bảo đặc biệt, của sự khởi đầu và kết thúc, thúc công việc mà trước hết tìm hiểu nó bao giờ có thì trả, tôi chưa cần đến”... của nụ cười và giọt nước mắt, của hội để cảm thông với cảnh ngộ, tâm tính, ngộ và chia ly… sức khoẻ của thuộc cấp và chân thành, Thầy luôn chu đáo với mọi người như vậy, ấm áp như sòng phẳng với họ. Tôi cực ghét những vậy. Vợ chồng thầy Khung - cô Hương, thầy Các, thầy Mùa hè hội ngộ thủ trưởng quan liêu, chỉ chăm chú vào Tá... cũng kể nhiều kỉ niệm cảm động về sự quan tâm rất thành tích hay khuyết điểm của thuộc tế nhị và thiết thực của thầy. Thầy vác máy quay phim Mùa hè đầu tiên là mùa hè con được cấp mà (chẳng hạn) chả thèm biết nó đã đến quay đám tang thân phụ thầy Nguyễn Hoành Khung gặp Thầy, mùa hè năm 2014. Đó là mùa có vợ, có con chưa. rồi sao ra băng, đem tặng gia đình. Thầy đánh điện tín từ hè khi con chập chững bước những bước tận châu Phi về chúc mừng con cô Thu Tiết đỗ đại học... đầu tiên đầy háo hức và say mê vào con Vừa chân ướt chân ráo nhận quyết đường khoa học của một nghiên cứu định về bộ môn, tôi khổ sở đến gặp Thầy về hưu đã khá lâu, nghe dư luận ồn ào mấy tác sinh chuyên ngành Phương pháp dạy thầy tay cầm lá đơn xin chuyển công phẩm Thời xa vắng, Đám cưới không có giấy giá thú, Nỗi học. Trước đó, lứa chúng con không tác. Như số đông bạn gái thời ấy, lãng buồn chiến tranh..., thầy gọi điện đòi tôi mang cho thầy có may mắn được học Thầy. Con cũng mạn và nông nổi, tôi bị người yêu mượn đọc. Đọc rồi thầy trò tranh luận tưng bừng, khéo không phải là “dân gốc Phương pháp”. thuyết phục vào Sài Gòn, nơi anh ấy còn hơn cả trên diễn đàn các hội nghị, hội thảo khoa học Nhưng con đã được biết đến Thầy qua đang công tác và đã cố gắng mãi vẫn ấy chứ. Tôi khờ khạo, dễ dàng bị thầy khiêu khích rồi cứ rất nhiều trang sách, qua lời giới thiệu không thể xin về Bắc được. Tôi viết thế xổ ra tất những ý nghĩ trong đầu, đâu biết rằng thầy của các thầy cô Khoa Ngữ văn, qua lời trong đơn lý do xin chuyển là “theo muốn thăm dò xem lớp hậu sinh tiếp nhận văn chương ngợi ca của bao thế hệ học trò dành cho chồng chưa cưới” (thú thật lúc viết thế có gì khác lớp các thầy... Thầy. Tên tuổi của Thầy gắn với những ngượng kinh lên ấy). Thầy lừ lừ nhận bộ giáo trình Tiếng Việt và Phương pháp đơn, liếc đọc qua rồi hỏi: “Cô có anh em Tôi và Hạnh Mai lâu lâu hẹn nhau tới thăm thầy. dạy học Tiếng Việt từ Tiểu học đến thân thích gì trong Nam không?”. Tôi lí Chúng tôi thường ngồi thật lâu để thầy có cơ hội “khích Trung học phổ thông. Sách giáo khoa nhí: “Dạ không ạ”. Thầy bĩu môi: “Con cho mà nói” đủ chuyện thế sự đa đoan, chuyện văn môn Ngữ văn Trung học qua nhiều lần ơi, nghe cho kĩ nhé: nếu mày không chương phù phiếm, để ngắm nụ cười luôn hàm vẻ giễu thay đổi, nhưng người chủ biên phần thích ở lại thì ngay cả mày có tài năng cợt của thầy, để tròn mắt ngạc nhiên nhận ra suốt cuộc Làm văn vẫn luôn là GS. TS Lê A. Quan đến mấy thầy cũng không giữ. Không ai chuyện trò, tay thầy hí hoáy dùng con dao nhỏ cắt cái vỏ điểm “dạy tiếng Việt là dạy một hoạt giữ người không yêu mình. Nhưng mày hộp kẹo/ bánh gập thành 2 hộp nhỏ, xếp bánh kẹo vào động và dạy qua hoạt động”, \"dạy học thân gái, một mình vào nơi xa lạ, chỉ đó rồi đưa 2 đứa bảo “Này, cầm về cho trẻ con nó vui”. tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp\" có chỗ bấu víu duy nhất là chồng chưa chính là nhờ công Thầy khởi xướng từ cưới thì hơi liều lĩnh đấy. Dào, cưới rồi Dạo cô nhà thầy bị đột quỵ, thầy sốc nặng. Chúng những năm 80 của thế kỉ XX. Thầy nổi còn chả ăn ai nữa là sắp cưới! Mà chắc tôi đến thăm thầy, lặng lẽ chứng kiến giọt lệ ông già tiếng là người sắc sảo và nghiêm cẩn về gì mày xin được việc ở Sài Gòn? Nhỡ lại nghẹn ngào thương xót người bạn đời vừa thoát hiểm, khoa học, thậm chí rất nhiều học trò trôi dạt tít tận Cà Mau, Kiên Giang thì nghe thầy kể về quá trình chữa chạy cho cô, về lòng hiếu sợ Thầy vì Thầy “khó tính”. Trên con cũng vẫn mỗi đứa mỗi nơi. Theo thầy, thuận của các con và rất rất nhiều kinh nghiệm chăm đường “tầm sư học đạo” của mình, con mày ở lại giả nghĩa Khoa vài ba năm, người thân nằm viện. Thầy kết luận: \"lúc trẻ người ta đã may mắn được Thầy nhận hướng trong thời gian đó liên hệ Sài Gòn có mơ ước đủ thứ. Về già chỉ còn duy nhất một mơ ước thôi, dẫn Luận án. Qua những bỡ ngỡ, sợ sệt chỗ nhận chắc chắn rồi chuyển vào...” là được chết sao cho nhẹ nhàng\". Phải nhiều năm sau tôi ban đầu, con dần nhận ra ở thầy một mới hiểu những điều thầy chia sẻ, đại loại như: \"bố mẹ sự tinh tế và hiện đại trong việc tiếp Tôi ngu xuẩn ra sức nằn nì. Thầy và con cái không nên ở xa nhau nhưng cũng đừng ở cùng nhận và giải quyết các vấn đề khoa học; không cáu giận, chỉ nhìn tôi ái ngại, vừa nhà, mất tự do là nghĩa tình sứt mẻ. Đừng can thiệp vào một tinh thần tự học không mệt mỏi; cất lá đơn vào cặp vừa xua tay ý bảo tôi chuyện riêng của con cái\". Thầy bảo bà Trác là bà có làm niềm say mê nghiên cứu; phương pháp về đi... sao, tôi muốn ăn quả trứng cũng đã khó... làm việc khoa học, cẩn trọng, hiệu quả; tấm lòng bao dung và trái tim nhân hậu Đường đời mấy ai đoán trước được, Cuộc sống bận bịu đôi khi phát chóng mặt. Chúng tôi của một bậc thầy; sự gần gũi, chân tình nhưng tôi biết chắc rằng nếu không có ít có thời gian đến ngồi với thầy. Thầy về với tiên tổ lâu với mọi người. Chính thầy đã khai mở thầy, không phải là thầy, tôi sẽ chịu rồi, mỗi lúc nhớ đến thầy, tôi thấy lòng tràn đầy cảm cho con những bước đi đầu tiên của đề nhiều lận đận bởi quyết định phiêu lưu giác biết ơn và thân thiết. Hầu như những niềm vui, nỗi tài, cổ vũ và động viên con đi theo một khi ấy. cay đắng mà tôi nếm trải trong nghề đều khiến tôi nhớ hướng nghiên cứu mới, thường xuyên đến thầy. nhắc nhở con việc đọc các tài liệu bằng Lấy chồng, sinh con vào đầu thập kỉ tiếng nước ngoài và tìm tòi hướng thực 80, lứa chúng tôi ai cũng nhếch nhác, Tôi, Lê Lưu Oanh, Hạnh Mai hôm nay vẫn hay nói với nghiệm mới theo chuẩn quốc tế. Với xác xơ. Thỉnh thoảng thầy hỏi nhỏ: nhau sự day dứt những lần lỡ hẹn thăm thầy. một đề tài vừa mới vừa khó, kết hợp “Chồng con thế nào? Sống với mẹ cả khoa học cơ bản và khoa học giáo Thầy ơi, thầy sống hào hùng và độ lượng, chắc thầy không chấp chúng con đâu thầy nhỉ! l Bình Nguyên 86 70 năm Sư phạm Văn khoa

dục như của con, Thầy đã không ngần GS.TS Lê A (1944 - 2018) ngại bỏ công sức để đọc và cùng con Thầy là một trong số ít người có công thành lập, khai mở những bước đi đầu tiên, tìm hiểu các lí thuyết mới. Con nhớ là người lĩnh xướng khoa học, là người đánh dấu bước trưởng thành quan trọng, đã có rất nhiều lần con ngỡ ngàng vì khẳng định vị thế của chuyên ngành Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Việt Nam. những tư tưởng khoa học mới mẻ và Tên tuổi của GS.TS Lê A từ lâu đã gắn với những bộ giáo trình Tiếng Việt và hiện đại của Thầy. Có nhiều hôm, thầy Phương pháp dạy học Tiếng Việt từ Tiểu học đến Trung học phổ thông, gắn với trò ngồi bàn luận về đề tài đến tận trưa, những bộ sách giáo khoa môn Ngữ văn Trung học mà thầy luôn làm chủ biên và lần nào từ nhà Thầy về, con cũng phần Làm văn, dù qua nhiều lần thay đổi chương trình. thấy mình được truyền thêm rất nhiều Thầy được công nhận học hàm Giáo sư năm 2003, được phong danh hiệu Nhà giáo cảm hứng và nguồn năng lượng để làm ưu tú năm 2008, nhiều lần được các cấp khen tặng: Huy chương kháng chiến chống việc. Và bất cứ khi nào con gửi bản thảo Mỹ hạng Nhất, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ… Từ năm 2002, thầy đảm cho Thầy, dù chỉ là cái đề cương hay bài nhiệm thêm cương vị Phó Giám đốc kiêm Tổng biên tập của Nhà xuất bản Đại học tạp chí, Thầy cũng dành thời gian đọc Sư phạm, đóng góp đồng thời ở các lĩnh vực đào tạo, nghiên cứu khoa học, xuất bản. và sửa cho con ngay sau đó, cho dù có phải thức đêm, cho dù ngày hôm sau  MỘT SỐ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU: Thầy phải đi công tác sớm. Luôn luôn là như thế, thầy tận tình, tỉ mỉ, nghiêm Làm văn, tập 1 và tập 2 (1989), Phương pháp dạy học tiếng Việt cho học sinh dân tộc, Phương pháp dạy học Tiếng túc và cẩn trọng đến từng dấu chấm, Việt ở Trung học phổ thông (1995), Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Trung học cơ sở (1996), Tiếng Việt thực dấu phẩy. Thầy cho con một bài học hành A, Tiếng Việt thực hành B (2000), Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học (2001), Chữ viết và phương về việc không được tự bằng lòng với pháp dạy chữ viết (2003), Giáo trình Tiếng Việt 1 và Tiếng Việt 3 (đào tạo giáo viên Tiểu học) (2009)… chính mình, nhất là trong khoa học, cho dù chúng ta có đầy những giới hạn giờ có thể tưởng tượng được lần gặp Thầy hôm đó lại là lần và tài năng, nhân cách của Thầy vẫn của bản thân, về thời gian, về sức khỏe, cuối cùng. Bóng dáng Thầy ở nơi bậc cửa, mái tóc trắng và nụ sống mãi. “Thác là thể phách, còn là về tinh thần… Rồi chặng đường đi đến cười hiền như ông Tiên của Thầy vẫn còn đây. Bài học Thầy tinh anh”! cái đích cuối cùng của khoa học không nói với con vẫn đang còn dang dở, trang bản thảo chưa kịp in phải lúc nào cũng trải toàn hoa hồng. ra để Thầy sửa chữa cho con. Lời hứa với Thầy về lần gặp sau Và mùa hè năm nay, mái nhà Khoa Bên cạnh những khó khăn về đề tài, con sẽ không bao giờ còn cơ hội thực hiện nữa. Đường phố Hà Ngữ văn thân yêu - nơi Thầy gắn con cũng phải đối mặt với rất nhiều Nội vô tình là thế, đã cướp đi người thầy đáng kính của chúng bó hơn nửa thế kỉ dạy học, đã sắp khó khăn của cuộc sống. Lần nào cũng con. Ngọn lửa nhiệt huyết đang cháy hết mình cho công việc, tròn 70 năm tuổi đời. Bao thế hệ vậy, Thầy luôn hỏi han, động viên con. cho những săn sóc, dìu dắt ân tình với bao thế hệ học trò, cho thầy cô đáng kính, người còn người Con nhớ những dòng tái bút của Thầy yêu thương đối với gia đình và bè bạn bỗng lặng tắt. Thầy đi mất. Nhớ về rất nhiều những người trong mỗi bức thư, sau những góp ý về không kịp nói một lời trăng trối. Còn chúng con, ở lại câm “muôn năm cũ”, chúng con xin dành chuyên môn, luôn luôn là thế này: “À, lặng trong một nỗi đau không thể diễn tả thành lời! một nén tâm hương tưởng nhớ Thầy thế việc xin học của cháu nhỏ đến đâu - người Thầy của những người thầy rồi?”; “Con bé nhỏ nhà em biết làm gì “Hội ngộ và chia ly, cuộc đời vẫn thế…”. Dẫu biết là như bao thế hệ Văn khoa! l rồi? Hôm nào cho cháu đến nhà Thầy vậy, nhưng đến bây giờ, con vẫn tin rằng: Không có sự chia chơi nhé!”… Nhiều lần, con nản chí ly nào hết! Vì Thầy vẫn luôn ở đây, trong trái tim đầy lòng Hà Nội, ngày 28 tháng 7 năm 2021 lắm, con muốn đổi đề tài, con muốn yêu kính của chúng con! Thầy ra đi, nhưng nụ cười ở lại, gia hạn, muốn bỏ cuộc. Những lúc đó, TS Đỗ Phương Thảo nếu không có Thầy động viên, làm sao (Cựu sinh viên K53, Khoa Ngữ văn) con về đích được như ngày hôm nay? Nhưng… cái ngày con về đích ấy, thì lại 87 không có Thầy, Thầy ơi! Mùa hè chia ly Đó chính là mùa hè cuối cùng, mùa hè khắc nghiệt của năm 2018, đúng vào giai đoạn con đang tăng tốc để viết và hoàn thành bản thảo Luận án. Vẫn là cái nắng tháng hạ vàng như rót mật, vẫn cái không khí nóng bỏng của mùa hạ ngày nào, vẫn vẹn nguyên cái háo hức và say mê Thầy truyền cho con từ mùa hè năm ấy. Nhưng con không bao

Những gương mặt thân thương 1.Có nhiều cách để yêu kính GS NGUYỄN ĐĂNG MẠNH tư tưởng, vai trò cá tính của nhà văn một con người. Ở một góc được đề cao để trở thành khuôn khổ tri độ nào đó, theo tôi, lượng (Kính tặng thầy Nguyễn Đăng Mạnh, nhân dịp thầy 80 tuổi) thức của xã hội Việt Nam những năm thời gian mà người ta dành 90 và ngay lập tức những trang viết cho một người (thời gian để gặp gỡ, bản lĩnh của sự độc lập trong tư duy - điều chỉ có được ở của thầy Mạnh nhận được sự hưởng tâm sự, để tìm hiểu...) là một chỉ số tin một tính cách mạnh, một sự tự tin cao độ về nghĩa lý của ứng sâu rộng của giới nghiên cứu, đặc cậy về mức độ tình cảm. Tôi không có con đường mà mình lựa chọn. Trong nhận thức của tôi, có lẽ biệt là ở môi trường đại học. Đây cũng nhiều cơ hội để được trò chuyện và trao độc lập tư duy là một vấn đề tồn tại hay không tồn tại của trí là thời điểm mà ảnh hưởng học thuật đổi trực tiếp với thầy Mạnh nhưng bù thức mọi thời đại thuộc mọi chủng tộc, quốc gia. Người trí của thầy có được sức tác động mạnh lại tôi đã đọc - học và suy nghĩ về thầy thức, do vị thế về tri thức của mình, luôn bị lôi kéo và bị định mẽ và rõ nét nhất. Những công trình một cách chu đáo (trong khả năng tốt hướng để trở thành phát ngôn cho một tư tưởng hệ - một thứ nghiên cứu của thầy về Nguyễn Tuân, nhất mà mình có thể có được). Bài viết tri thức bị viên chức hóa và thư lại hóa (một cách tự giác và Xuân Diệu và đặc biệt là Vũ Trọng nhỏ này cũng là một tâm sự, một đúc không tự giác). Truyền thống Nho giáo sâu đậm ở Việt Nam Phụng được đón nhận như những sự kết cho những gì mà tôi đã học được từ càng khiến đặc điểm trên trở thành nét trội. Chính vì thế, sự kiện của đời sống học thuật, như những những trang viết của thầy! độc lập trong tư duy luôn là phẩm chất hàng đầu, là thước đo biểu hiện cho sức năng động và đổi mới quan trọng nhất để đánh giá về hàm lượng trí thức ở một cá hoạt động nghiên cứu theo tinh thần 2.Những trang viết của thầy nhân cụ thể. Những tên tuổi được cộng đồng nghiên cứu thừa đổi mới. Và trong một thời gian dài, Mạnh luôn có sức hấp dẫn nhận: Phan Ngọc, Trần Đình Hượu, Trần Đình Sử, Hoàng đó chắc chắn nắm trong số những công đặc biệt với những ai đã từng Ngọc Hiến... đều sở hữu phẩm chất của sự độc lập trong tư trình được trích dẫn nhiều nhất trong đọc chúng. Những nguyên duy này. Với trường hợp của thầy Mạnh, sự độc lập trong tư các luận văn và luận án về văn học Việt nhân nào làm nên sức hấp dẫn này? duy đã giúp ông vượt trước khỏi khung tri thức của thời mình Nam hiện đại tại các trường đại học. 2.1 Ở thời điểm những năm 60 và 70 chừng trên dưới 15 năm. Cùng với sự cởi trói trong đời sống của thế kỷ trước, bằng vào những công Nhưng không chỉ trong trường đại trình nghiên cứu tiêu biểu của nó, có học. Làn sóng đổi mới những năm đó thể thấy: vấn đề chi phối chính với cộng còn mở rộng đến thực tiễn sáng tác với đồng nghiên cứu lúc bấy giờ là phương những tranh luận học thuật đặc biệt sôi pháp sáng tác trong đó phương pháp động về những đặc trưng văn học, về sáng tác hiện thực chủ nghĩa là vấn đề mối quan hệ giữa văn học và chính trị, trung tâm, được xem là phương pháp và đặc biệt là sự tự do sáng tạo cho người sáng tác tiến bộ, năng động nhất trong cầm bút... Những công trình nghiên cứu tiến trình lịch sử. Muộn hơn một chút học thuật của thầy Mạnh, một cách tự là vấn đề về chủ nghĩa hiện thực như nhiên, trở thành minh chứng hùng hồn là hệ quy chiếu duy nhất để miêu tả cho sức mạnh của sự độc đáo trong cá các giai đoạn khác nhau của lịch sử văn tính sáng tạo của người nghệ sĩ - nhân học. Phương pháp sáng tác hiện thực xã tố mà hơn bao giờ hết, ở thời điểm đó, hội chủ nghĩa, chủ nghĩa hiện thực... có được xem như điều kiện tiên quyết cho thể nói là khung tri thức (episteme) của sáng tạo nghệ thuật cũng như là phẩm cả một thời đại. Theo đó, không chỉ có chất hàng đầu của một tác phẩm văn học Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh, thơ đích thực. Quả thực, sức nặng học thuật Tố Hữu, Sống như anh của Trần Đình của các công trình nghiên cứu này cùng Vân, ... mà ngay cả những sáng tác của những bài phát biểu, những tham luận Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Tú Xương, với tư cách của một thành viên trong hội Nguyễn Khuyến cũng được nhìn nhận, đồng lí luận của Hội Nhà văn, thầy đã có phân loại, xếp hạng tùy theo tác phẩm những đóng góp phần hình thành nên của họ có được bao nhiêu phần trăm cao trào đổi mới sâu rộng trong đời sống hoặc mức độ gần gũi với phương pháp văn học nghệ thuật. Cho đến nay, trong sáng tác xã hội chủ nghĩa, với tính hiện hiểu biết của tôi, chưa có một Giáo sư thực. Sức hút, sự quy định ấy của tri đại học nào có ảnh hưởng trực tiếp và rõ thức thời đại là hiển nhiên ngay cả nét đến như thế với thực tiễn sáng tác với thầy Mạnh nhất là khi ông viết về văn học đương thời. những sáng tác của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, về cơ bản, ông vẫn giữ khoảng Những năm 90 cũng là thời kì thay cách với thời đại của mình hay chính thay đổi chương trình sách giáo khoa xác hơn, ông vẫn có một không gian ở bậc học phổ thông và tầm ảnh hưởng riêng cho những suy nghĩ và lý giải của của thầy Mạnh, một lần nữa, hiện diện mình: phong cách, cá tính sáng tạo của qua một loạt những tác gia, những tác nhà văn. Nhan đề cuốn tiểu luận của phẩm mới được tuyển chọn để đưa vào ông: Nhà văn tư tưởng và phong cách đặt nhà trường phổ thông. Từ Thế Lữ, Xuân vào thời điểm mà nó ra đời thực sự là Diệu, Huy Cận, Thạch Lam đến Nguyễn một sự vượt khung, một biểu hiện và Tuân, Vũ Trọng Phụng - những hiện tượng văn học trước đó là những cấm 88 70 năm Sư phạm Văn khoa

kị đã trở thành những tác gia văn học GS. NGND Nguyễn Đăng Mạnh (1930 - 2018) Chính cái cách thế sống này mới là sức không thể thiếu trong nhà trường. Hình mạnh quyến rũ đặc biệt từ những trang thành nên cả một “thư khố” (archive)  KHEN THƯỞNG, DANH HIỆU: viết của thầy. Những trang viết của ông, mới về văn học Việt Nam hiện đại mà những tác giả mà ông nghiên cứu, cách sức ảnh hưởng vẫn còn rất đậm ngay ở - Nhà giáo Ưu tú, Nhà giáo Nhân dân; tặng thưởng hành văn của ông, đáp ứng ở xã hội một thời điểm hiện tại dù đã có thêm một Huy chương kháng chiến hạng Hai và Huy chương vì sự ẩn ức thật sâu xa. Chúng không chỉ đưa lần cải cách sách giáo khoa. Lẽ đương nghiệp giáo dục, Huân chương kháng chiến chống Mỹ lại cho người đọc tri thức, không chỉ nhiên, sự tuyển chọn và thiết lập một hạng Nhất, Huân chương lao động hạng Hai, Giải thưởng giúp họ hiểu. Quan trọng hơn, nó giúp chương trình giáo khoa về văn học có về lý luận phê bình của Hội Nhà văn Việt Nam, Giải họ được sống, được thỏa mãn một nhu tầm mức quốc gia như thế là kết quả của thưởng Nhà nước về Khoa học và công nghệ. cầu về một chủ thể tính (subjectivity) cả một xu thế vận động trong xã hội, - Chuyên gia đầu ngành về nghiên cứu và giảng dạy Văn toàn vẹn - một chủ thể tính có thiên của trí tuệ và tâm huyết của cả tập thể học Việt Nam hiện đại; chủ biên sách giáo khoa Ngữ văn lương, sang trọng (như cách diễn đạt biên soạn và những giáo sư đầu ngành THPT trong chương trình cải cách giáo dục giai đoạn của chính thầy Mạnh) trong sự độc lập như thầy Mạnh, ở thời điểm ấy, chắc 1980-1992; Trưởng Bộ môn Văn học Việt Nam hiện đại từ và tự tôn về phẩm cách. Hiểu điều đó, chắn có một vai trò đặc biệt quan trọng. năm 1984 đến 1994. ta sẽ lí giải được vì sao, một mặt, đôi khi ta có thể băn khoăn về tính chặt 2.2 Với GS Nguyễn Đăng Mạnh, lịch  MỘT SỐ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU: chẽ khoa học trong cách ông gọi tên sử văn học trước tiên và quan trọng phong cách, trong cách ông diễn giải về nhất là lịch sử của những nhà văn lớn Việt Nam 1930 - 1945 (viết chung) (1973), Nhà văn, tư sự độc đáo của một nhà văn nhưng mặt mà tiêu chí xác lập tối thượng là cá tưởng và phong cách (1979), Mấy vấn đề về quan điểm và khác, một cách thành thật, ta vẫn phải tính và (trong hầu hết các trường hợp) phương pháp tìm hiểu, phân tích thơ Hồ Chí Minh (1981), thừa nhận sự hấp dẫn đặc biệt từ những là những nhà văn bị dư luận chính Tổng tập văn học Việt Nam, T.30A, 30B (chủ biên) (1981), cách định danh, diễn giải như thế! thống đương thời bạc đãi, hắt hủi, Con đường đi vào thế giới nghệ thuật nhà văn (1994), giữ khoảng cách. Đọc những bài tổng Nhà văn Việt Nam hiện đại - chân dung và phong cách 3.Xin được khép lại bài viết luận, khái luận do thầy chấp bút, có (2000)… nhỏ này bằng kỉ niệm của thể thấy, ông dồi dào khả năng nhận tôi về những trang viết diện những đường hướng vận động của này phản chiếu một khía cạnh thuộc về thiên bẩm trong con của thầy. Cuốn Nhà văn tư cả một chặng, nhiều chặng đường của người ông. Nhưng dù thế thì vẫn không giải thích được vì sao tưởng và phong cách của thầy đến với tôi tiến trình vận động nhưng đấy không điều đó lại làm nên sức quyến rũ từ những công trình khoa từ rất sớm, khi tôi mới chỉ học cuối cấp phải là sự hấp dẫn ông. Những tri thức học của của ông. Câu trả lời là ở chỗ: cách tiếp cận ấy phản 2 (có phần ngẫu nhiên, vì nó được mẹ về tiến trình văn học với ông không có chiếu một “đối lực” (counter-force) trong tiềm thức của cả tôi mượn cho từ thư viện của nhà máy giá trị tự thân mà chỉ là cái khung để một thời đại, ở đó cá tính bị đè nén. Cách tiếp cận văn học sử dệt Dân Sinh, Nam Định - một ưu việt ông đặt vào đó những chân dung nhà của thầy Mạnh, nhìn từ góc nhìn này, là sản phẩm của một của thời bao cấp!). Đọc hồn nhiên và văn mà ông say mê họ ở sự độc đáo, thời kỳ tính “đồng phục”, tính “nhất thể” là sức mạnh chính chỉ mãi sau này mới biết nó được viết gai ngạnh, quyết liệt, giàu cá tính và thống được phê duyệt nhưng chính vì thế nó nuôi dưỡng một bởi một nhà nghiên cứu danh tiếng. cô độc, kiêu bạc trước số đông đại diện đối lực của mình: khát vọng về giải phóng cá tính luôn âm ỉ. Đến bây giờ, tôi vẫn không quên được cho bầy đàn và phàm tục. Có thể điều Đường hướng nghiên cứu văn học vì thế là một cách thế sống, về ấn tượng rất đặc biệt khi lần đầu đọc là nơi cư trú cho những gì bị bãi trừ, bị đẩy ra ngoại biên. sách của thầy. Thấy văn chương là một thế giới thật đặc biệt. Gần gũi mà sâu xa. Thấy người làm nghiên cứu văn học sao mà thông tuệ, sáng láng, nhiều cảm thông và trắc ẩn. Thấy yêu những suy nghĩ. Thấy yêu những cách đặt câu. Thấy muốn học để viết được như thế. Thấy viết được như thế, mình như đẹp đẽ hơn, sâu sắc hơn, tử tế hơn. Tôi đã viết những bài đầu tiên của mình từ khi còn là một cậu học trò phổ thông, từ một tình yêu văn chương như thế. Hoa trái của trí tuệ và tình yêu văn chương thật đẹp đẽ biết bao! Và những trang viết của thầy Mạnh là một cánh rừng sum suê hoa trái. Tôi viết những dòng này trong cảm giác mình là một hạt giống nhỏ từ cánh rừng ấy. Luôn biết ơn và giữ trọn những gì đẹp đẽ đã nhận được từ thầy. Đấy phải chăng sẽ là sức trẻ trong những công trình của thầy mà với nó thời gian sẽ không thể chạm đến l PGS. TS Trần Văn Toàn 89

cặp đôi vàng 1.Trong mảnh sân nhỏ trước nhà ông có trồng một Ảnh cưới Ảnh ở Ý (Venice) cây hoàng lan. Chúng tôi, đám học trò của ông, dù đã có tuổi, vẫn đùa: rẽ vào ngõ, bao giờ thấy một thành các chuyên luận, giáo trình. Để trọng nhất. Bởi gắn với trách nhiệm là cây hoàng lan khẳng khiu nhất, là tới nhà thầy. cả đời mình, không bỏ phí bất cứ điều những gánh vác nặng nề có thật, người Tôi đã thật sự xúc động khi xem bộ phim về Nhà giáo Nhân gì mình đã làm, bởi nó luôn nằm trong ta phải làm những điều gì đó, mất thời dân, Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Bùi Văn Ba. Đặc biệt là đoạn hệ thống những vấn đề chuyên môn lớn gian, mất tiền bạc thực sự. Chứ còn ông trở về thăm quê, thắp hương trên mộ mẹ và anh trai. mà mình quan tâm. Để làm được điều những tình cảm chỉ thể hiện bằng lời Ông đã có một tuổi thơ sống cảnh mẹ goá con côi tại một đó, quả không hề dễ dàng chút nào. nói thì dễ dàng hơn rất nhiều.  Ở  ông, làng quê nghèo ở Quảng Ngãi và dằng dặc hàng mấy mươi Cũng nhờ  ý chí và sự chăm chỉ đó mà tình cảm đó thể hiện ở việc lãnh đạo năm trời sống xa quê, làm việc trên đất Bắc. Đành rằng, ông các công trình, các bài báo của ông giờ tổ và mối quan tâm đến những bậc hậu có một gia đình hạnh phúc với người vợ, người gốc Hà Nội đã lên đến con số hàng trăm và luôn sinh như chúng tôi, những đồng nghiệp rất xinh đẹp, lịch lãm, tinh tế và những đứa con thông minh, được cập nhật thông tin mới mẻ. ít tuổi hơn ông trong tổ. Suốt 40 năm ở sáng láng. Nhưng tôi vẫn thấy bùi ngùi, không phải chỉ cho trong tổ, hơn 20 năm dưới sự lãnh đạo mình ông, mà cho cả thế hệ những người con miền Nam sống Có lần, vì công việc, cần đọc lại toàn của ông, tôi hiểu một điều: ở đây, mọi trên đất Bắc, sau ngày hiệp định Giơnevơ 1954, đằng đẵng xa bộ tập Lý luận phê bình văn học của ông, cố gắng của bất cứ ai cũng đều được cổ quê suốt hàng hai mươi năm. Tôi cứ nhớ đến câu thơ của ông cầm quyển sách trên tay, tôi thực sự vũ; mọi bước tiến, đường đi của chính cậu tôi, người cùng trang lứa với GS. Bùi Văn Ba, cũng là học hơi bị choáng. Để làm được những gì mình là tự do, phụ thuộc vào năng trò trường cấp 3 Lê Khiết, Quảng Ngãi, tập kết ra Bắc, viết viết trong cuốn sách này, chưa nói đến lực và ý chí của chính mình. Điều đó, đằng sau tấm ảnh mẹ, tức bà ngoại của tôi: “Chiều nay gió lạnh những lao tâm khổ tứ, mà chỉ nói đến không phải ở tập thể nào cũng có được. lòng con/ Hướng về xứ Quảng không nguôi lòng buồn”. Chắc ông số lượng thời gian thực tế để viết ra cũng có những tâm sự giống vậy qua những năm tháng sống nó, thì không biết ông đã phải tìm đến Để khuyến khích sự phấn đấu của xa quê hương dằng dặc như thế. Nhưng cậu tôi, sau ngày giải một khối lượng sách vở như thế nào, và nghiên cứu sinh, ông đã dành một số phóng đất nước 1975 còn được gặp lại mẹ. Còn ông, không thể phải mất bao nhiêu thời giờ? Có lẽ, ông tiền không nhỏ để thành lập một Giải có được niềm vui ấy, bởi người mẹ yêu quí của ông đã hy sinh không còn có thì giờ để làm những việc thưởng cho nghiên cứu sinh  của Khoa từ những ngày chiến tranh chống Mỹ ác liệt ở Quảng Ngãi khi khác nữa chăng? Ngữ văn hàng năm. Không phải ai cũng tuổi đời mới ngoài năm mươi. Cho tôi xin một lần được chia có thể bỏ ra một số tiền như thế chỉ sẻ nỗi đau này với ông, bởi không chỉ là mẹ, mà ông còn có Nói về chuyện tình cảm, chuyện tình hoàn toàn vì chuyện tình cảm. Chúng người anh trai cũng là liệt sĩ, những người ruột thịt duy nhất cảm với ông, tôi nghĩ, chắc luôn gắn tôi biết, ông cũng chỉ kiếm tiền bằng trên đời này của ông. Nhưng, lứa thanh niên miền Nam ngày với trách nhiệm. Nhưng đến bây giờ, việc viết sách báo khoa học chuyên ấy, trong đó có ông, dù luôn mang trong mình những nỗi đau khi đã ở tuổi “tri thiên mệnh”, tôi mới ngành. Mà viết những thứ đó, có bao mất mát và xa cách quê hương, đều đã ra sức học hành, phấn hiểu một điều, tình cảm gắn với trách giờ được nhiều tiền! đấu không mệt mỏi và hầu hết đã trở thành những người con nhiệm là những tình cảm đáng trân ưu tú của đất nước trên nhiều lĩnh vực. Được là học trò của ông từ những ngày đại học, sau đại học, cho đến khi trở thành cán bộ tổ Lý luận văn học, Khoa Ngữ  văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, trong tôi, ông luôn là tấm gương lao động không mệt mỏi đáng kính trọng và là con người của những tình cảm luôn nồng nhiệt như thuở còn trai trẻ, đa tài lẫn đa tình… Tôi đã học được ở ông rất nhiều. Ba tôi, giáo sư Lê Trí Viễn, đã nhiều lần dặn tôi: Phải học tập ở chú Ba (tôi đã gọi ông như vậy từ lúc tôi mười tuổi, sống ở Quần Ngọc, Hưng Yên, nơi sơ tán của cán bộ Khoa Văn Đại học Sư phạm Hà Nội, thời kỳ chống Mỹ 1967-1969), ý chí, sự chăm chỉ và cách lập kế hoạch lâu dài cho con đường nghiên cứu của mình. Bởi nếu không có ý chí và sự chăm chỉ, thì dẫu anh có tài năng, trong khoa học cũng chỉ là con số không. Và cách làm việc có kế hoạch của ông là: các bài báo, công trình đều thoát thai từ các bài giảng, từ hệ đại học đến sau đại học, tiếp đó là tập hợp 90 70 năm Sư phạm Văn khoa

Cũng có một thời tuổi trẻ như ai, GS.TSKH Bùi Văn Ba có giờ lên lớp nhưng tuần nào cô cũng trong những ngày chiến tranh chống (Phương Lựu, 27/6/1936) xuống KTX nhà A7. Hễ có bạn nào ốm Mỹ ác liệt ở miền Bắc, ông đã làm tất đau là lập tức cô đạp xe từ nhà - một cả những việc khó khăn không tên tuổi Thầy làm Trưởng bộ môn (1981 - 2002), Giám đốc Trung căn hộ tập thể bé tí tẹo ở Thành Công - của một Khoa sơ tán với gần ngàn sinh tâm Trung quốc học (1994 - 2006), Chủ tịch Hội đồng Lí vào trường, cho thuốc uống, cho bánh viên. Dạy học, chủ nhiệm lớp, hướng luận phê bình Việt Nam Hội Nhà văn Việt Nam (1995 - trái. Mình vẫn nhớ chiếc xe đạp của cô, dẫn ngoại khoá, phụ trách đời sống 2000), Ủy viên chấp hành Hội Liên hiệp Nho học quốc tế màu nâu, cũ và có vẻ cao so với dáng cho Khoa, rồi hướng dẫn đào hầm, trực (2004 - 2014). người cô bé nhỏ. Vẫn là xe đạp, 26 năm chiến, tham gia bắn máy bay… tất cả sau, cô lại mải miết đi tìm nhà học trò những việc đó, ông đều làm với với một Thầy là một trong những chuyên gia đầu ngành về lí luận cũ để sẻ chia khi trò buồn đau vì mất tinh thần trách nhiệm cao với bao công văn học ở Việt Nam, thầy chủ nhiệm đề tài khoa học trọng mát. Mình nhớ, năm thứ nhất, chúng sức nhọc nhằn. Tôi vẫn còn nhớ những điểm cấp nhà nước Các khuynh hướng cơ bản của lí luận văn mình khổ sở vì vừa rời xa gia đình, khổ bè gỗ to khủng khiếp đối với lứa tuổi học hiện đại trên thế giới và Việt Nam, mã số KX.03.04/06-10 sở vì những bữa cơm nhà bếp, với canh lên mười của chúng tôi ngày đó, mà ông và chủ nhiệm đề tài Nafosted: Thi học cổ điển Trung Hoa, Học cải xoong hoặc rau muống đen xì, với đã chỉ đạo đưa từ trên rừng về những phái, mệnh đề, phạm trù, mã số VII1.1 - 2012.05. những miếng thịt toàn mỡ và mỏng bay ngày ở Quần Ngọc, rồi những buổi liên như từ giấy, cô Phương Thi đã mang hoan văn nghệ, tiếng cười sảng khoái  CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU: vào cho phòng mình 1kg chả cá cô đã khi đóng vai các cụ già bắn rơi máy bay rán sẵn từ nhà. Đấy cũng là ngày mình của chính ông. Nhiệt tình đó ở tuổi Về quan niệm văn chương cổ Việt Nam (1985), Lí luận văn nằm cấp cứu dưới trạm xá vì trái tim trẻ, khi ở tuổi cao hơn, lại lắng đọng học (chủ biên) 3 tập, (1986 - 1988), Góp phần xác lập hệ thống yếu ớt. Cô đã xuống đó với mình. Khi vào công việc chuyên tâm cả đời ông: quan niệm văn học trung đại Việt Nam (1997), Tiếp nhận văn ấy mình đã khóc. Và bây giờ, khi viết nghiên cứu khoa học. học (1997), Nhìn lại nửa thế kỷ lí luận hiện thực xã hội chủ những dòng này, mình vẫn khóc. Tình nghĩa ở Việt Nam (2000), Lí luận phê bình văn học hiện đại yêu thầy cô dành cho chúng mình thật Trên bàn thờ mẹ ông trong phòng phương Tây thế kỷ XX (2001), Từ Văn học so sánh đến Thi mênh mông như trời biển”. làm việc, tôi biết, ông thường đặt những học so sánh (2002), Lí luận phê bình văn học (Tuyển tập các bông hoa hoàng lan của cây hoàng lan bài báo) (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học (2005), Nhiều năm cô tham gia công tác nhà trồng ngoài sân. Hương hoa ấy có Tuyển tập Phương Lựu (3 tập toàn chuyên khảo) (2005 - 2006), Công đoàn Khoa. Ôi cái thời bao cấp khi lặng lẽ thoang thoảng cả hàng tháng Tư tưởng văn hóa văn nghệ của chủ nghĩa Mác phương Tây đó, công đoàn làm phải làm những việc trời. Tôi nghĩ, mùi hương đó không chỉ (2007), Vì một nền lí luận văn học dân tộc hiện đại (2009), Lí vất vả mà giờ kể lại ai cũng thấy buồn toả ra từ tình cảm người con đối với thuyết văn học hậu hiện đại (2011), Thi học cổ điển Trung hoa cười: chia nhu yếu phẩm, buôn pháo, mẹ, mà còn là biểu tượng của chính (chủ biên, 2016), Hậu lí luận vẫn là lí luận (2021). mua gạo ở nơi xa, chiếu phim, liên hệ cuộc đời ông: vẻ đẹp âm thầm, lặng lẽ mua gà nuôi… Cô cùng với các nhiều của một đời lao động trí tuệ không mệt DANH HIỆU, GIẢI THƯỞNG thầy cô khác lo khá nhiều những việc mỏi và những tình cảm sâu xa.  không tên cho đời sống cán bộ trong Khoa. Là người phụ nữ của gia đình, cô Tôi không biết nhiều về cụ bà Võ Thị Thầy được phong danh hiệu Nhà giáo Nhân dân năm Phương Thi cũng tảo tần nuôi gà, may Lựu, nhưng tôi biết cụ là một liệt sĩ. 2002, được tặng Huân chương Lao động hạng Nhất năm vá… vất vả chả kém gì ai. Ở Bộ môn Vậy thay lời các học trò của ông, xin 2007, được giải thưởng Nhà nước năm 2001, giải thưởng Lý luận văn học, có lần thầy La Khắc kính thưa với cụ rằng: Nhà giáo Nhân Hồ Chí Minh năm 2010. Hòa kháo chuyện: \"nhờ bà Phương Thi, dân, Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Bùi Văn ông Ba mới có điều kiện để làm người Ba đã luôn mang tên cụ trong bút danh thận, có trách nhiệm. Thời làm chủ nhiệm lớp, trách nhiệm “Quân tử”, tức là chỉ ngồi đọc sách và khoa học của mình, bút danh Phương và tình cảm của cô đối với sinh viên thật mẫu mực. Tôi xin viết lách, không phải đụng vào chuyện Lựu, ấy là cụ đã sống mãi với các công chia sẻ những dòng FB của bạn Đặng Hiền K37 đã khiến tôi bếp núc bao giờ. Và ai cũng đồng ý, trình khoa học của Giáo sư, một cách thật sự xúc động : “Có một ngày, sau đám tang của chồng, từ không có bà Thi thì sự nghiệp khoa học báo hiếu  nghĩa tình, trọn vẹn và vẻ trường trở về, Trần Oanh - một bạn gái cùng lớp đại học với của ông Ba chả chắc đã được to lớn như vang nhất. mình - ngỡ ngàng khi nghe hàng xóm kể lại, có một bà giáo hiện nay!\"   tìm đến nhà bạn ấy thắp hương chia buồn. Bà giáo chỉ nói 2.Nhiều người khi nói đến bà là giáo viên chủ nhiệm lớp đại học của Oanh cách đây 26 *** GS Bùi Văn Ba thường năm. Oanh khóc, bạn ấy gọi điện thoại cho cô giáo Phương Đến giờ (2021), gia đình GS Bùi Văn hay nhắc đến bút danh Thi và biết, bà giáo ấy chính là Cô, người đã tận tuỵ với lớp Ba đã chuyển sang nhà mới từ lâu. Tôi Phương Lựu. Lựu là tên văn K37 Đại học Sư phạm Hà Nội của tụi mình trong suốt 2 thấy sân nhà vẫn có một cây hoàng lan thân mẫu của GS mà tôi đã giải thích ở năm làm chủ nhiệm 1987-1988. Thời ấy, khi chủ nhiệm lớp trước cửa. Có lần chúng tôi đến chơi, trên, Phương chính là tên nhạc mẫu của mình, cô mới độ ngoài 40 tuổi, nổi tiếng vì xinh đẹp và còn cả hai ông bà đang níu cành, hái sẵn ông. Còn người bạn đời của ông là cô nổi tiếng hơn nữa vì là phu nhân của GS - nhà phê bình văn những chùm hoa vàng thơm ngát, để Phương Thi. Cô dạy Bộ môn Hán Nôm học Phương Lựu. Là giảng viên môn Hán Nôm, cô hầu như ít chốc nữa chúng tôi bỏ túi mang về. cũng tại Khoa Ngữ văn ĐHSPHN. Hương hoa ấy đi liền với sự tự Cô là con gái Hà Nội gốc, nhà ở 32 nhiên tỏa hương của “cặp đôi hoàn phố Hàng Trống, ngay trung tâm phố hảo” của Khoa Ngữ văn chúng tôi là cổ. Cô có nước da trắng ngần, rất đảm như vậy đấy ! l đang, dịu dàng và nhân hậu. Trong công việc, cô là người nghiêm túc, cẩn Lê Lưu Oanh 91

Những gương mặt thân thương Tôi biết thầy Thành Thế phạm Hà Nội. Tôi làm việc dưới này trong một bài thơ về Khoa Ngữ văn, Thái Bình từ hồi tôi còn quyền thầy khoảng 5 năm. Tôi tôi có mấy câu thơ: “Nghe câu hát “thắt rất bé, đâu khoảng 10 tuổi, nhớ, lần ấy thi đầu vào môn tiếng lưng hoa đào”/Kí ức như dòng sông trôi về khi bắt đầu đi sơ tán cùng Nga, vì tôi được điểm cao, nên tôi bến ấy/Phòng tuyến sông Cầu thầy trò lặn Khoa Văn, Trường Đại học được Bộ môn đề nghị với trường lội/Đào hầm trong đêm tiếng hát gặp sao Sư phạm Hà Nội tại Quần Ngọc, Yên đặc cách học riêng một thầy một trời”. Đấy chính là những câu thơ viết Mỹ, Hưng Yên vào năm 1966. Hồi đó, trò. Cũng có đôi chút phức tạp khi chẳng có ngoại lệ nào về thầy Bình thuở ấy. tôi thường gọi thầy là “chú Bình”. Hiện như vậy. Thầy Bình bảo sẽ nhờ thầy Thành Thế Yên Bái nay, tôi đang làm việc cùng Khoa Ngữ dạy. Tôi và thầy Bình ngồi chọn sách học. Thầy bảo, lấy Tôi lúc ấy còn trẻ, chưa biết nhiều về văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội luôn quyển sách tiếng Nga Mác, Ăngghen, Lênin và những vấn cách đối nhân xử thế. Nhưng qua vài với em Hồng Hà, con thầy Bình, cũng đề văn học của G.Fridlender, coi như là sách kinh điển về Lý lần có việc, tôi nhận thấy thầy luôn lấy như Đỗ Hải Phong con cô Thu Tiết. Tôi luận văn học những năm 1960-1970 hồi đó, học dịch luôn. sự nhường nhịn làm hàng đầu. Có lần vẫn coi hai bạn ấy như người trong gia Thế là tôi vừa học, vừa dịch luôn quyển đó. Tôi nhớ học chính thầy nói là mình chịu thiệt một đình, bởi lẽ, tình cảm đó khởi đầu từ sự thầy Bái chỉ dạy vài buổi và thầy cho điểm hết môn luôn. tí cho mọi người cùng vui vẻ. Chuyện gắn kết của thế hệ trước và còn nặng Thế là thầy Bình bảo tôi phải “tự học”, tức là tự dịch, chỗ ấy tôi nhớ mãi, và cũng là bài học thứ mãi đến tận bây giờ. Nhưng trên tất cả, nào không dịch được thì mang đến hỏi chính thầy. Hết đợt tư của thầy: nhường nhịn, luôn chịu vẫn là vì sự kính trọng về tài năng và học sáu tháng thì tôi cũng vừa xong quyển sách 300 trang. phần thiệt về mình. Cách sống nhân nhân cách của thế hệ trước, trong đó Bài học thứ hai của thầy tôi vẫn nhớ và sau này luôn cố gắng hậu đó của thầy, tạo nên cho tôi niềm thầy Thành Thế Thái Bình là một. thực hiện: tạo mọi điều kiện cho học trò phát huy mọi khả kính trọng sâu xa. năng và giúp học trò vô điều kiện. Ấn tượng trong tôi về thầy lúc nào Nhớ đến thầy, tôi còn nhớ đến cả cũng là một người rất sôi nổi, vui vẻ, Năm 1979, cả Hà Nội đi đắp đê phòng tuyến sông Cầu. Thầy những giai thoại vui vui về thầy. Nhưng nhiệt tình. Thầy ở đâu là ồn ào ở đó, Bình dẫn cả tổ đi đắp đê cùng sinh viên. Thầy Phạm Đăng Dư tất cả những giai thoại ấy cuối cùng đều chuyện trò cứ náo nhiệt như tết. Tôi vì công tác Đoàn trường nên phải làm chỉ huy cấp trường, tô đậm hình ảnh một con người luôn được học thầy khá nhiều, từ hệ đại thầy Bình lo cho tổ. Vì trời nắng, nên việc đắp đê chuyển sang tràn đầy sức sống, vui vẻ, nhiệt tình học đến sau đại học. Những bài giảng từ 4h sáng đến 8h, buổi chiều từ 17h đến 21h. Việc cơm nước và đặc biệt nhân hậu, nhân hậu đến trên lớp của thầy luôn hấp dẫn, đầy ấn đã có lớp sinh viên lo. Thầy Bình luôn dẫn đầu đoàn quân đi nỗi, GS Nguyễn Đăng Mạnh từng nhận tượng. Tôi nhớ, khi dạy về kịch, thầy lên đồi. Những dãy giao thông hào sâu ngang ngực, quanh co xét: “Bình nó có tố chất của một thánh đã tự độc thoại về một đoạn trong vở khắp các quả đồi vùng Bắc Giang. Tôi chắc cũng chỉ đào đất nhân !”… l kịch Âm mưu và tình yêu của Sile. Giọng xúc đất gọi là, còn các thầy và các bạn trai làm cật lực. Lúc thầy sang sảng, vừa độc thoại, vừa nghỉ, thầy còn làm náo động cả đám sinh viên bằng các bài Tháng 9/2015 diễn, khiến bọn sinh viên chúng tôi hát, hết Cò lả, Trống quân đến Sa lệch, Con gà rừng… Tôi nhớ, thót cả tim, ngồi mê mẩn, lặng đi trong tôi rất thích bài Con gà rừng, chính thầy đã hát cho tôi nghe Lê Lưu Oanh chốc lát. Về sau, khi dạy đến bài kịch bài đó mấy lần. Bài học thứ ba tôi học được ở thầy: làm việc này, tôi cũng thường bắt chước thầy gì cũng nhiệt tình, luôn hết mình cho công việc. Vì vậy, sau diễn lại cảnh đó để thuyết phục sinh viên về tính cách mạnh mẽ của nhân vật kịch. Và đây cũng là một bài học mà tôi thu nhận được về phẩm chất nghệ sĩ của người thầy giáo, nghĩa là, người dạy học, đặc biệt là dạy Văn, thì cũng như nghệ sĩ đang trên sân khấu, lúc cần, có thể hóa thân vào nhân vật để diễn tả cảm xúc của mình. Phẩm chất này góp phần thắp lửa, đưa tình cảm và hơi thở cuộc sống vào bài giảng. Trong gần 10 năm, qua các bậc học đại học và sau đại học, tôi chỉ gặp vài ba thầy giáo có phẩm chất nghệ sĩ này. Phẩm chất nghệ sĩ ấy, có lẽ đã được thể nghiệm nhiều khi thầy cùng với thầy Đỗ Bình Trị ở trong nhóm kịch của đội văn nghệ sinh viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đầu những năm 1960 (và hình như ở đây thầy đã gặp cô Trang xinh đẹp ở nhóm múa là vợ thầy sau này). Tôi tốt nghiệp đại học năm 1977, thầy nhận tôi về làm tổ viên. Lúc đó, thầy đang là Tổ trưởng tổ Lý luận văn học, Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư 92 70 năm Sư phạm Văn khoa

Ngưỡng mộ cô từ lúc còn từ việc làm đề cương cho đến chi tiết đến từng phần, từng đường đi gửi sách cho các em học sinh là học sinh, khi vào học ở chương. Cô tỉ mỉ đọc và góp ý, cô bảo “Thái phải chú ý vùng cao và phải nằm điều trị trong Trường Dự bị Đại học Dân cách đặt dấu câu, dùng từ cho đúng để sau còn đi dạy học viện khá lâu. Biết trò bị ngã, cô liền tộc Sầm Sơn, tôi được nghe trò nữa”. Lúc tôi gần bảo vệ, luận văn vẫn ngổn ngang và vào thăm, mặc dù cô không được khỏe. kể nhiều về cô qua những chưa hoàn thành. Cô nói: “Nếu em làm không tốt thì tôi Suốt một tháng, hầu như ngày nào cô câu chuyện của thầy giáo dạy văn. chưa đồng ý cho bảo vệ đợt này”. Bởi vậy, nên tôi phải khẩn cũng nhắn tin, gọi điện để hỏi han tình Trong lời kể của thầy, điều mà tôi nhớ trương viết và sửa. Khi tôi mang bài đến thì ngay ngày hôm hình. Cách ba, bốn hôm, cô lại mang nhất là sự nghiêm khắc của cô, thầy sau cô đã gọi tôi qua lấy, cầm tập bài cô sửa trên tay, tôi theo hoa quả, thuốc men cho cậu học nói: “Khi thầy được cô hướng dẫn luận hiểu rằng đêm trước cô đã thức rất khuya để đọc và phê trò. Mỗi khi cô tới thăm tôi về thì bác văn, mỗi lần đến nhà cô, thầy đều run những gì chưa ổn. Sự tận tụy ấy khiến tôi xúc động. Qua sĩ, bệnh nhân và người nhà bệnh nhân run, cho đến bây giờ thầy vẫn còn cảm đó, tôi càng thêm hiểu được sự cẩn trọng, nghiêm túc, tâm cùng buồng bệnh với tôi lại trầm trồ vì giác đó”. huyết với nghề và với khoa học nơi cô. tình cảm yêu thương của cô đối với trò. Có người bảo: “Nhìn cô phúc hậu cứ Lúc chúng tôi học đại học thì cô đã Với sự miệt mài của trò và sự chỉ dẫn tận tình của cô, luận như mẹ của Thái ấy nhỉ”. nghỉ hưu nên tôi không được học với văn của tôi cũng được bảo vệ thành công. Khi ấy, tôi mới cô. Cơ duyên để được trở thành học chuẩn bị đi dạy học sau mấy năm làm cán bộ Đoàn, chuyên Sau khi ra viện, tôi may mắn được trò của cô, chỉ đến khi tôi theo học lớp trách tại trường (Đại học Sư phạm Hà Nội). Lúc này, cô lại lo cùng các học trò khác của cô, đưa cô cao học Văn học nước ngoài K25. Nhớ lắng cho tôi, khi tôi chuyển sang một công việc mới. Trước lên Mộc Châu để ngắm hoa ban trắng. lại lời kể của thầy năm xưa, tôi chợt lo: thềm năm học, cô gọi tôi đến nhà chơi, bên tách trà hoa nhài Ở tuổi 85, nhưng cô vẫn có thể đi xe không biết mình có “run run” giống thơm dịu cô chia sẻ những kinh nghiệm đứng trên bục giảng khách, đến những điểm du lịch, di tích thầy không! Thời gian này, cô đã bước của mình, từ việc soạn giáo án đến tư thế viết bảng, giao tiếp trên lưng chừng đồi khá cao hay ngồi sang tuổi 83. Do tình hình sức khỏe với học trò v.v… trên thuyền dọc lòng hồ con sông Đà. nên cô hạn chế đi lại và chỉ dạy học Nhìn cô, không ai nghĩ cô đã hơn tám viên tại nhà. Đi dạy được một thời gian, tôi chẳng may bị tai nạn trên mươi. Từ đó, chúng tôi càng thêm nể phục cô về trí tuệ, sự minh mẫn và sự Lớp học của cô thật đặc biệt, chiếc bền bỉ về sức khỏe. bảng mica đặt lên giá vẽ, bàn giáo viên là hai, ba chiếc ghế nhựa được xếp Giờ đây, mỗi khi được đến thăm cô, chồng lên nhau. Mỗi buổi đến học, tôi luôn thấy ấm áp, bình yên đến lạ. tôi đều thấy cô đã ngồi chờ học trò. Bước vào căn phòng thân quen ấy, tôi Ngoài tám mươi nhưng lời giảng của vẫn bắt gặp hình ảnh cô ngồi bên bàn cô vẫn trầm bổng, say sưa, chứa đầy đọc sách hoặc viết lách. tâm huyết của người thầy đã gắn bó với nghề gần 60 năm. Sự minh mẫn tuyệt vời đó không khỏi làm tôi và nhiều học trò khác Trong giờ học, cô nghiêm khắc nhưng thêm ngưỡng mộ cô! Để rồi, trong lúc giải lao, cô lại ân cần hỏi han học những giờ giải lao ở trường, tôi thường trò về công việc, gia đình, tình cảm. Cô kể cho học trò của mình nghe về cô - thường tự tay pha tách trà thơm và lấy người đã dìu dắt, truyền cho tôi ngọn hoa quả ra, mời trò cùng thưởng thức. lửa yêu nghề! l Ngoài giờ dạy học hay viết bài cho các báo, cô vẫn lướt Facebook, nhắn tin, Hà Công Thái gọi điện qua Messenger đều đặn. Tận tụy với học trò nhưng cô không bao giờ 93 nhận quà gì ngoài những bó hoa tươi thắm, chúng tôi mang đến tặng thứ khác là cô bắt cầm về, cô bảo “Các em còn đi học, đừng mua quà gì tặng tôi, tôi không thiếu gì cả”. Có lần, tôi xin phép đến gặp cô lúc 10h để nộp đề cương luận văn. Vì cuối tuần nên đường Hoàng Hoa Thám bị tắc và hơn 11h tôi mới tới. Tôi thầm nghĩ, chắc cô sẽ giận lắm, vì cô vốn không thích ai sai hẹn! Vậy mà không, bấm chuông xong tôi thấy cô tự ra mở cửa, vừa nhìn thấy tôi, cô đã hỏi: “Sao dạo này em gầy thế?”. Cô rất lo lắng và hỏi han thêm một hồi. Sau đó, cô sửa bài luôn cho tôi. Trong quá trình hướng dẫn luận văn, cô luôn theo sát tiến độ của tôi,

Những gương mặt thân thương Thầy kính yêu! ngắn, khoa học, thâu tóm cả. Đơn giản Khi con viết dòng này thì thầy đang vô cùng mà cũng cô đọng, khúc chiết trong bệnh viện từ mấy tháng nay, vẫn vô cùng. tỉnh táo và minh mẫn. Thời gian qua vì dịch Covid mà bao lần con muốn thăm Với chúng con lúc ấy, khi mà đất thầy nhưng vì nội quy bệnh viện mà nước chưa mở cửa, thế giới châu Âu là không thực hiện được. Trước đó, bao vùng đất văn minh, là ước vọng cháy chuyến công tác và công việc chồng bỏng của bao người, mà thầy dạy phần chất khiến con không thể đến thăm văn học ấy thì sang trọng cao kính biết thầy, nhưng lúc nào con cũng mong bao. Con chỉ là những đứa học trò ở mỏi được gặp thầy, chia sẻ bao điều vùng miền núi xa hẻo lánh, yêu kính trong cuộc sống. thầy mà không dám, không đủ mạnh Thầy Tửu ơi, chúng con vô cùng dạn, tự tin để gần thầy tiếp nhận thêm kính ơn thầy. Từ những ngày đầu tiên những vùng kiến thức phong phú được học thầy chúng con đã bị thu khác. Nhưng rồi một ngày bạn nào hút bởi phong cách mô phạm hiện đại đó trong nhóm chúng con biết địa chỉ hết sức uyên bác của thầy. Học thầy nhà thầy ở khu phố cổ, đã xin phép ra chúng con có những tiết học vô cùng thăm có lẽ là để chúc mừng thầy nhân say sưa, cuốn hút, chúng con như được kỷ niệm ngày Nhà giáo. Khi về, thầy bước vào mê cung của văn học phương tiễn chúng con ra tận ngõ, chúng con Tây mới lạ, sâu sắc, trí tuệ. Tiết học thấy vui lắm. Tự hào vì được gần một nào cũng thế, đang say nghe thầy giảng người thầy uyên bác và thanh lịch, nhất, đang cuốn vào kịch Vòng phấn đẳng cấp, có lẽ là đầu ngành Văn học Kavkaz, truyện Hoá thân, Cái chết của phương Tây của nước nhà. người chào hàng… chúng con bừng tỉnh khi thầy kết thúc tiết học, cũng là lúc Sau này chuyển công tác về Hà trống đánh hết giờ - không chậm một Nội, cơ duyên con có cô bạn ở bên Úc giây. Đến bây giờ, con vẫn không sao biết được tin về thầy, thế là con có cơ học được điều đó ở thầy. Làm sao nói hội gặp thầy - người mà con vô cùng vừa hay, vừa đủ, ghi bảng thì cực kì ngưỡng mộ. Đúng là “khi bạn thật tâm khoa học, đẹp mắt, học trò chẳng ghi mong muốn điều gì thì điều mong muốn chép nhiều mà vẫn nhớ bài học. Được đó sẽ được hình thành trong cõi tâm linh học thầy, chúng con biết thế nào là sơ vũ trụ” và “vũ trụ sẽ chung tay để giúp đồ tư duy sáng rõ, logic. Cả tác phẩm bạn đạt được ước muốn đó” như tác giả dài thế mà chỉ một sơ đồ ngắn gọn, cuốn Nhà giả kim đã viết. Con đã kịp sạch đẹp viết bằng phấn trên bảng ngay đến gặp thầy và dự lễ tang cô. Rồi năm sau nữa con đến khi thầy ở căn nhà giản dị, sạch sẽ ở ngõ phố Điện Biên 94 70 năm Sư phạm Văn khoa

Phủ. Con vẫn hẹn ngày trở lại và thỉnh (Kính tặng Thầy chủ nhiệm - GS. NGƯT Nguyễn Khắc Phi nhân dịp sinh nhật lần thứ 80 của Thầy) thoảng lại nhận được tin nhắn của thầy. Có lần, thầy gửi cho con ảnh hai thầy Con mãi nhớ sáng mùa đông ấy Viên phấn trĩu nỗi niềm nhân thế trò, qua tin nhắn MMS, con bất ngờ vì Giọng nói Thầy ấm quá gió Côn Sơn Tiếng thơ buồn dâu bể đa đoan... thầy vẫn “hiện đại” quá. Một lão niên Bóng tiền nhân ngút ngàn lau xám Giờ mới nói một điều đã cũ 83 - 84 tuổi mà công nghệ mới vẫn Hóa trong veo những bậc đá thâm trầm Chúng con lớn lên - khoảng trời ấy trong ngần  luôn cập nhật. Lần đến thăm thầy, khi Những bài giảng thắp xanh miền kí ức Như sắc phượng thắm nồng nắng hạ đó chỉ có thầy ở một mình và người Những lời Thầy nghiêng xuống tuổi hoa niên Như mùa thu vàng mơ sắc lá giúp việc vì lúc ấy anh Long - con trai Chúng con vào đời ngơ ngác thế Như chồi non qua giá rét xanh ngời thầy đang làm Đại sứ bên Úc không ở Sóng sông Tương dào dạt cả hai đầu Giữa vô thường biếc một dòng trôi nhà, thấy thầy sinh hoạt rất điều độ, Mây phiêu lãng nước trời xa Lý Bạch Lời Thầy giảng dọc một triền gió thổi giờ ăn, giờ nghỉ đều đặn con rất yên Đỗ Phủ đau, gần quá những ngậm ngùi Chúng con – người chở đò thao thiết đứng bên sông... tâm. Thầy dặn con nếu đến tránh giờ Người da diết ánh đào hoa năm cũ đó ra vì thầy đã lên gác rồi mà nếu Người rưng buồn thấm nỗi gió đông phơi                                                 15/4/2014 xuống lại phải phiền đến người giúp Chúng con về đây từ những phương trời Triệu Thị Huệ việc (vì thầy di chuyển khó khăn, cần Đón ngọn gió từ lời Thầy để mát có người giúp). Thầy chu đáo, tỉ mỉ đến Đứa ở phố nồng nàn hoa sữa từng việc nhỏ nhất. Ngay cả sau này, Đứa xa xôi sóng biển mặn vô hồi khi thầy đổ bệnh nặng hơn không nói Đứa trôi dạt phía trời Nam nắng gắt được nữa, dù vẫn rất minh mẫn, có lẽ Ru lòng mình thoang thoáng giấc heo may thầy đã dặn anh Long – con trai thầy Nửa đời người vẫn chưa hết loay hoay thường xuyên thông báo tình hình thầy Áo cơm mệt nhoài giấc mơ tuổi trẻ cho mọi người, nhất là học trò của thầy được biết, vì thầy hiểu chúng con mong mỏi tin tức về thầy thế nào. Thầy đã không để chúng con phải khắc khoải vì lo, vì áy náy, day dứt, ân hận… Thầy ơi, những phút bên thầy thật ít nhưng con luôn thấy ấm áp, bình tâm. Con cảm tưởng thầy là cha của con, người cha về tri thức đã nhen lên trong con những khát khao học tập, người cha dạy con phương pháp Sư phạm qua bài dạy thực tiễn và người cha về nhân cách… Sau này, bài dạy ra mắt của con lần đầu khi ra trường đã được đồng nghiệp đánh giá cao với bài dạy Bà má Hậu Giang, chính là con đã áp dụng cách khai thác mạch tự sự tác phẩm của thầy về cấu trúc mạch truyện theo lối “đột giáng”, “kết thúc bất ngờ” trong hàng loạt truyện ngắn của O. Henry thầy ạ. Gần đây, ngành mình hay nhắc đến một trong những kỹ thuật dạy học hiện đại là sử dụng sơ đồ tư duy nhưng quả thực con đã áp dụng kĩ thuật đó từ thầy dạy trong những ngày đầu tiên lên bục giảng năm 1987 đến nay. Con mong một ngày được gặp thầy, ít nhất cũng được Facetime với thầy để thầy hiểu rằng bao học trò vẫn nhớ tới thầy và biết ơn thầy vô cùng. Kính cảm ơn thầy! l 17/8/2021 Một học trò của thầy 95

Những gương mặt thân thương Đối với thầy Nguyễn Đăng thấy thầy có vẻ nghiêm nghị, thế nhưng khi vào cuộc chuyện 15 phút, không thấy món ăn mang ra. Na, mình là thân phận học thân tình thì hóa ra không phải. Thầy đầy sôi nổi, nhiều khi 20 phút vẫn không thấy. Thầy đã nôn trò. Thầy dạy mình phần cao hứng, nói nhiều chuyện, lắm lúc tán chuyện ra trò, rổn nóng. Thầy nhấp nhổm, vẫy tay mấy Văn học trung đại từ ngày rảng, hóm hỉnh nữa kia. Cái điệu cười của thầy mới sảng người phục vụ lại. Vẫy mãi cũng chẳng mình học ở Sư phạm HN2, khoái làm sao. đứa nào đến cho. “Phục vụ thế này thì năm 78-79 của thế kỷ trước (nghe mốc bậy thật”. Cô nhà như phân bua cho thời gian thấy đã xa vời)… Thỉnh thoảng, mấy thằng bọn mình, trong đó có gã họ Chu nhà hàng: “Quán đông quá, chắc không tổ chức đánh chén ở đâu, lại rủ thầy. Thường trong các cuộc phục vụ xuể”. “Không được. Phục vụ Những năm ấy, mình đang là sinh này hay có thầy Nguyễn Đăng Mạnh nữa. Hai thầy cùng họ thế này là thiếu chuyên nghiệp. Đông viên còn trẻ, chưa mấy ấn tượng về và tên đệm Nguyễn Đăng. Mà lạ, một ông thuộc vùng VHVN thì anh phải tính chứ, tăng thêm người thầy. Chỉ nhớ rằng: thầy là người gầy hiện đại, một ông thuộc VHVN trung đại mà lại thân nhau! phục vụ, hoặc bớt bàn đi, đừng đón gò, hay chữ, dạy dỗ hơi nghiêm, đạo Thì ra, ở hai cụ đều có cái khảng khái, kiêu bạc như nhau. Phải nhiều khách nữa”. Ngồi thêm lúc, thầy mạo, chẳng mấy khi tán chuyện với là người có tài thì mới kiêu bạc được. Không có tài thì lấy gì đứng dậy quả quyết: “Thôi anh Mạnh, sinh viên. Lúc ấy, thầy mới ở lại Khoa để mà kiêu bạc! Hai cụ ấy có một điểm chung là ghét cay ghét các cậu, ta đi chỗ khác. Không ở đây Văn Sư phạm HN công tác, mặc dù đắng hai thứ người: một, loại người đã dốt nhưng tinh tướng, nữa. Làm ăn thế này không được. Nó không còn ít tuổi nữa, do thầy từ giáo hay đi khoe mình giỏi; hai, loại người vô ơn. Thầy hay liên hệ coi thực khách cứ như người đi xin viên hệ cấp II đi học đại học… chuyện này với một vài người trong giới. Mỗi khi nhắc đến ăn không bằng…”. Cô nhà đưa mắt mấy người này, các thầy hay giễu cho không biết bao nhiêu nhìn bọn mình ra chiều mong được Sau này, mình đi học cao học, rồi mà kể. Chỉ để cười thôi… Nhưng mà thầy cũng lắm khi nóng cảm thông. Thế rồi, tất cả “nhổ neo”. làm nghiên cứu sinh (NCS), rồi ở lại tính. Nhớ một hôm, thầy mời thầy Mạnh cùng với mấy học Sau, một lần gặp thầy Mạnh, nhắc lại Hà Nội công tác, dần dần gần gũi với trò đi ăn tối. Chỗ ăn là một nhà hàng được tiếng là sang. Đến, chuyện ấy, thầy Mạnh bảo: “Tay này thầy. Thầy dạy khu vực Văn học Việt thầy bảo phu nhân gọi món. Tất cả ngồi chờ. Quán khá đông. Nam trung đại. Mình lại làm cao học và NCS gắn với khu vực văn học hiện đại. Trên thực tế, trong thời gian này, mình không được học chuyên đề nào của thầy. Nhưng do muốn hiểu thêm, nên thường xuyên đọc các bài báo khoa học, các sách của thầy. Trong lòng cảm phục từ đấy. Các bài báo của thầy liên quan đến nhiều vấn đề của văn học/văn hóa trung đại, đặc biệt là vấn đề văn bản học, mà văn bản học của văn học trung đại lại chính là vấn đề có ý nghĩa quyết định đến việc hiểu tư tưởng của tác phẩm, tác giả. Những bài viết của thầy bao giờ cũng ráo riết, không nhượng bộ, sắc sảo, kiến văn sâu rộng, đầy sức thuyết phục. Thế hệ học trò chúng mình bụng bảo dạ cố gắng học thầy cái tinh thần ấy. Người ít tiếp xúc, hoặc nhìn bề ngoài, 96 70 năm Sư phạm Văn khoa

nó nóng tính lắm. Tớ đã chứng kiến (Nhớ thầy Đinh Văn Thiện) một lần ngồi ăn với nó, cũng y như vậy, mang thức ăn đến muộn, nó mắng sa sả Vẫn còn đây những bản “Tình ca” ra ấy. Nó không chịu được cái sự luộm Thầy đã hát từ “Thời thanh niên sôi nổi” thuộm. Mà trong học thuật cũng vậy. “Chiếc khăn piêu thêu chỉ hồng để gió cuốn” Ai viết luộm thuộm, nó ghét lắm”. Không “bay về đây” mà về tận cuối trời... Vầng Trăng đi về “miền biên viễn” xa xôi Khi mình về Khoa Viết văn, có mời thầy đến dạy mấy buổi Văn học trung Vẫn vằng vặc bao điều chưa kịp tỏ đại, với ý nghĩ học viên viết văn phải Con tức tưởi khóc oà như đứa trẻ được tiếp xúc với con người giỏi như Nức nở gọi Thầy tê tái chiều đông! thế này, không thì tiếc lắm. Học trò Qua những vô thường, qua những bão giông viết văn thì nhiều kiểu, dạng. Mà nghe Vầng trăng yêu thương vẫn thiện lành, thơ trẻ gì chứ, nghe Văn học trung đại của thầy Chắt chiu âm thầm, hiến dâng lặng lẽ thì đa số chúng phải kiễng chân. Kiễng Trọn vẹn cuộc đời, tròn vẹn những mùa xuân mãi nên thành nhanh mỏi. Hiểu được Con ngỡ như Thầy vẫn ôm đàn cái sự tình của chúng, tự nhiên đâm ra “Khi cất lên tiếng ca” để người phương xa yên lòng chờ đợi nghĩ ngợi. Người thầy giỏi mấy mỗi khi Thầy vẫn đang mỉm cười sau làn hương khói giảng bài cũng lại phải có trò giỏi (theo “Nói với nhau nghìn lời qua đôi mắt xanh”... cách của trò) mới đỡ… lãng phí. Lê Nga Khoa mình có một cô giáo được thầy trực tiếp hướng dẫn. Cô ấy thông minh, 97 chịu khó. Thế nhưng, khi làm NCS, thể nào cũng có lúc bận nọ bận kia mà xao nhãng công việc. Có lần, thầy gọi điện cho mình: “Này ông, mình có cái đứa NCS quân của ông, ông sắp xếp công việc ưu tiên cho nó tí nhé, để cho nó làm xong đi, tôi giục suốt đấy; chứ bọn này không nghiêm với nó, là nó lại chầy cối ngay”. “Ôi thầy ơi, nó hay nệ lý do rằng việc nhiều, rồi không khéo nó đổ tiếng oan cho em đấy. Chứ việc của nó là nhàn nhã nhất Khoa đấy ạ”. Nghe xong, hai thầy trò chỉ biết cười thôi… Thế rồi cô NCS ấy cũng hoàn thành đúng tiến độ như quy định, mà xem ra thầy có vẻ hài lòng về chất lượng luận án lắm. Chỉ tiếc là trước khi cô ấy bảo vệ chính thức ít ngày, thầy chẳng may bạo bệnh rồi không kịp mừng thành quả hướng dẫn của mình. Hôm nay phu nhân của thầy, cô Ngọc Khanh, một phụ nữ Hà Nội điển hình, đẹp, dịu dàng, tinh tế đưa tin sách của thầy mới ra. Mình có comment với cái ý rằng sách của thầy thuộc dạng hàm lượng học thuật cao, có giá trị xây dựng nền móng cho khoa học nhân văn ở xứ sở này; chắc anh linh thầy biết tin sách ra dịp Tết này thì vui lắm… Mỗi lần nhớ đến thầy, bao giờ cũng nhớ một giọng nói nồng nhiệt của thầy mỗi khi mình gọi điện hỏi thăm hoặc vì một việc gì đấy: “Ông đấy à. Hôm nào đến chơi nhé. Lâu rồi anh em không gặp nhau…”. Ồ, mà sao có nhiều khi thầy cứ xưng với hô với mình là anh em nhỉ? l Chiều mưa 28 Tết Tân Sửu Văn Giá

Những gương mặt thân thương Tôi còn nhớ khi học năm GS.TS Trần Đình Sử, sinh ngày 10/8/1940 thứ ba Khoa Văn, lúc đó cô Thầy từng giữ chức vụ Trưởng Khoa Ngữ văn, Thìn, cô giáo chủ nhiệm của từ năm 1990 - 1995, Trưởng Bộ môn Lí luận văn tôi muốn tôi làm nghiên cứu học, từ năm 2000 - 2003. về Ngôn ngữ, nhưng tôi nói Thầy là một trong những chuyên gia đầu với cô: “Em thích học Lí luận văn học ngành về Lí luận văn học ở Việt Nam, đặc biệt cô ạ”. Thế là, cô dắt tôi tới giới thiệu là Thi pháp học. với thầy Trần Đình Sử.  MỘT SỐ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU: Tôi đọc rất nhiều sách của thầy từ khi học cấp 3. Vì thích sách của thầy Lí luận văn học tập 2 (1987), Thi pháp thơ Tố Hữu (1987), Những thế giới nghệ thuật thơ (1995), Lí mà khi lên Đại học, từ năm thứ nhất, luận và phê bình văn học (1996), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam (1998), Văn học và thời gian tôi đã biết là mình thích Lí luận văn (2001), Thi pháp Truyện Kiều (2002, 2018), Lí luận văn học tập 2 (2008), Trên đường biên của lí luận học và cặm cụi theo đuổi môn học khó văn học (2014), Giáo trình thi pháp học (2004), Từ điển thuật ngữ văn học (đồng chủ biên và chủ biên nhằn này. Thật may mắn khi sau đó, 1993, 2004), Tự sự học, lý thuyết và ứng dụng (chủ biên, 2018), Cơ sở văn học so sánh (2020)… vào năm thứ ba, tôi được thầy hướng dẫn làm báo cáo khoa học.  KHEN THƯỞNG, DANH HIỆU: Nghĩ lại thấy xấu hổ quá, vì trong lúc Thầy được phong danh hiệu Nhà giáo Ưu tú (2002), danh hiệu Nhà giáo Nhân dân (2010), Giải tập làm nghiên cứu với thầy, tôi toàn bị thưởng Nhà nước (2000), Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (1997), Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội thầy mắng, sợ chết khiếp. Đến lúc viết (2015), Giải thưởng Phan Châu Trinh (2017), Huân chương Lao động hạng Nhì, Huân chương Kháng xong, tôi đạp xe giữa gió mưa bão bùng chiến hạng Ba, Huy chương \"Vì sự nghiệp giáo dục\". đến nhà thầy để nhờ thầy đọc hộ, thế nào mà lại quên mất báo cáo ở nhà, rồi Khi giảng về đặc trưng văn học, thầy nói: “Văn chương vén đứng về phía sự thực. Như một cái cây lại lủi thủi đạp xe về. Thầy cười xòa: những bức màn che mờ sự thật, làm hé lộ sự thật bị chôn giấu, mọc thẳng, dù xung quanh có bão tố, “Vô duyên nhỉ!”. bằng cách nói uyển ngữ, mơ hồ, đa nghĩa, nó có thể thoát ra cong queo, con người hiên ngang đó khỏi vòng kim cô của quyền lực để cất lên tiếng nói về sự của thầy luôn nhắc nhở tôi phải sống Sau này tôi được giữ lại tổ Lí luận văn thật”. Lúc đó, không hiểu sao tôi cũng thấy rất xúc động. Về trung thực, và thứ đạo đức lớn nhất, học, được làm việc với thầy nhiều hơn. sau tiếp xúc với thầy nhiều hơn tôi mới biết, vì khi nói về vĩnh cửu, vượt qua những phép tắc ứng Luận văn đại học, Thạc sĩ, Tiến sĩ của triết học sự sống hay nói về sự thật trong văn chương, là thầy xử của một thời, là tôn trọng dòng chảy tôi đều là thầy phản biện. Mà bị chê không chỉ giảng cho tôi về lý thuyết văn học, nó là những lời của sự sống. nhiều. Bị chê, nhưng tôi cảm thấy vui gan ruột, là toàn bộ con người tinh thần của thầy. Có lẽ sự lắm, vì chỉ nhờ vài từ gợi ý rất sắc bén xúc động mà tôi có được lúc đó là nhờ trong khoảnh khắc, tôi Người thầy, khi đứng trước học trò của thầy, mà tôi thấy mọi vấn đề trở đã cảm nhận được một vẻ đẹp đặc biệt, một sự thống nhất của mình, thì họ không chỉ giao tiếp với nên sáng tỏ, như thể có được một cái la đặc biệt giữa trí tuệ, tâm hồn và lời nói. học trò bằng lời nói, bằng trí tuệ, mà họ bàn chỉ lối cho mình bước đi. đang ảnh hưởng tới học trò bằng toàn Trong cuộc sống đời thường, lúc nào tôi cũng thấy thầy bộ con người sống động của mình. Dạy Hồi học cao học, được học chuyên yêu mến, trân trọng sự sống, sống một cách trung thực, ngay học, bởi vậy, là một hành trình chuyển đề thầy dạy, tôi ấn tượng và say mê tới thẳng. Thầy yêu mến trẻ con, vui mừng khi tôi báo tin lại có hóa, khai mở tâm thức. Tôi biết một mức lúc ngủ toàn nằm mơ thấy thầy thêm một em bé nữa, áy náy khi một lần gọi điện nhờ tôi một phần rất lớn trong con người tôi hôm Sử. Thầy không có chút gì bay bổng việc trong lúc tôi mang bầu. Thầy luôn nói sự thực, dù sự nay, những gì tôi đang làm, đang sống, hoa mĩ, từ đầu đến cuối chỉ toàn nói thực ấy có thể làm cho người khác cảm thấy mếch lòng. Tôi đã được nhen nhóm từ những bài học và nói những thứ lý thuyết, khái niệm biết không ai có thể che đậy được sự thực, cũng không thể dụ của thầy l trừu tượng, nhưng thầy nói đến đâu, dỗ, mua chuộc, hay dùng quyền lực để có thể bắt thầy không tôi cảm thấy thấm thía đến đấy, đầu Nguyễn Thị Ngọc Minh óc như được một cái đèn pha rọi sáng, từng chữ tôi đều muốn ghi lại vì tiếc là nó sẽ trôi đi mất. Không hiểu sao học lý thuyết mà tôi thấy xúc động lắm, nhất là khi thầy nói về triết học sự sống của Henri Bergson, nói về đạo đức cao nhất trên đời là tôn trọng sự sống, không xâm phạm tới sự sống. Lúc đó, tôi cảm thấy vui mừng, thức tỉnh như thể đã tìm thấy ánh sáng bên trong của mình, một thứ ánh sáng sẽ soi tỏ cho toàn bộ cuộc đời mình phía trước. Cảm giác đó thật kì lạ, như thể một giây khắc đốn ngộ trong tôn giáo. 98 70 năm Sư phạm Văn khoa

Cách đây chừng tám đến GIÁO SƯ không có việc gì. Nơi làm việc của thầy mười trở năm về trước, nếu là một góc nhỏ ngay cửa ra vào, có thể ai đó có dịp đi qua dãy nhà NGUYỄN NGỌC SAN nhìn ra ngoài đường, được ngăn cách B9 khu tập thể Đại học Sư với thế giới bên ngoài bằng một lớp phạm Hà Nội, tinh ý một NHÀ SỐ 3 - B9 cửa kính. Lớp cửa ấy dường như phân chút, thì chắc hẳn sẽ thấy một ánh đèn tách hai thế giới tương phản, một bên bàn nho nhỏ sau cánh cửa kính trong GS.TS NGND là cuộc sống hối hả bên ngoài với một căn nhà số 3. Ánh đèn đó không quá Nguyễn Ngọc San bên là thế giới tĩnh lặng bên trong; một sáng, chỉ đủ cho một người đọc sách (Sinh năm 1935) bên là những ánh đèn xe cộ rọi khắp hoặc làm việc, và đặc biệt hơn nữa là Nguyên quán: Áng Sơn, Quán phố phường với một bên là ánh đèn bàn ánh đèn đó luôn sáng từ tinh mơ cho Vinh, Gia Khánh, Ninh Bình, nay soi chiếu từng con chữ cổ. đến chập tối. Nếu ai đó đem ví độ sáng là thôn Áng Sơn, xã Ninh Hòa, của ngọn đèn hiền hòa như một vị túc huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Thầy San làm việc nghiêm túc như nho ở ẩn thì nhất định phải ví thời gian vậy nhưng mỗi lúc thảnh thơi, tiếp sáng của ngọn đèn kiên định như tâm Thầy là một trong những thành viên đầu tiên của nhóm khách (khách của thầy đa số là học trò huyết của một bậc “đại sư” với khoa Cổ văn, tiền thân của Bộ môn Hán Nôm - Khoa Ngữ văn, hoặc đồng nghiệp) thầy lại vô cùng vui học và giáo dục. Đại học Sư phạm Hà Nội hiện nay. Cùng với PGS Đặng vẻ, dễ gần. Có lẽ ấn tượng nhất đối Đức Siêu và một số thầy cô khác, Giáo sư đã xây dựng và với mỗi người khi đến gặp thầy San là *** phát triển ngành Hán Nôm trở thành một chuyên ngành hình ảnh thầy ngồi trên chiếc ghế sofa Khi bạn đến thăm căn nhà số 3 - B9 độc lập, có vị trí đặc biệt quan trọng trong khoa học Ngữ như một “pho” chuyện cũ, kể những sẽ thấy một ông cụ ngoài tám mươi, da văn. Thầy đã tham gia đào tạo nhiều thế hệ từ Đại học đến câu chuyện xưa gắn với thầy và gắn dẻ hồng hào, tóc bạc trắng quăn quăn, Tiến sĩ, và tham gia giảng dạy tại nước ngoài. với nhiều người. Gắn bó với Khoa Ngữ ra mở cửa. Ông cụ ấy, không ai khác, văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội chính là Giáo sư Nguyễn Ngọc San, Trong nghiên cứu khoa học, thầy là người mở ra một từ những ngày đầu, thầy đã trải qua và một người thầy vô cùng đáng kính. (trong hai) hướng đi chính của lĩnh vực nghiên cứu chữ chứng kiến biết bao biến cố thăng trầm Vào đầu những năm 2000, thầy San Nôm và tiếng Việt lịch sử. Thầy kiện toàn được phương của Khoa cũng như của trường. Những ở trong khu tập thể Đại học Sư phạm pháp nghiên cứu chữ Nôm trên cơ sở dựa vào ngữ âm; giờ phút thư giãn quý giá nhất của tôi Hà Nội. Ngôi nhà hai tầng nằm trong xây dựng được hệ thống cứ liệu nền tảng của tiếng Việt có lẽ là được nghe thầy kể lại chuyện một khu tập thể khá bình yên. Bước cổ, góp phần hoàn thiện phương pháp nghiên cứu tiếng xưa, từ chuyện thời thanh niên của vào ngôi nhà, điều đầu tiên mỗi vị Việt lịch sử, và là nhà khoa học có công trình nghiên cứu thầy, những ngày thầy vào thiếu sinh khách đều cảm nhận được đó là sự yên đầu tiên về tiếng Việt lịch sử ở Việt Nam. Thầy là tác giả, quân rồi đi bộ đội, đến tháng năm thầy bình, tuy đồ đạc đơn sơ nhưng khá ấm dịch giả, soạn giả của nhiều công trình khoa học. du học ở Trung Quốc; từ ngày đầu thầy cúng. Vì công việc nên thầy San sống về Khoa Ngữ văn công tác dưới thời cụ một mình, tuy nhiên, nhà số 3 - B9  MỘT SỐ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU: Đặng Thai Mai, đến thời gian thầy đi không phải chỉ có mỗi hình bóng của Cuba dạy tiếng Việt cùng với thầy Đỗ thầy. Với tình yêu thương học trò, đặc Cơ sở ngữ văn Hán Nôm (1984 - 1987), Ngữ văn Hữu Châu, thầy Võ Bình, và sau này biệt là những học trò có hoàn cảnh khó Hán Nôm (1987 - 1989), Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử (1993), công tác cùng thầy Đặng Đức Siêu ở bộ khăn, từ các vùng quê lên thành phố Lý thuyết chữ Nôm văn Nôm (2003), Từ điển từ Việt cổ môn.v.v… Thầy kể chuyện với sự hào học tập, thầy luôn hướng họ dọn về (2001), Giáo trình Ngữ văn Hán Nôm (2007 - 2009), Từ hứng, say sưa, khiến cho người nghe sống cùng, vì trong nhà thầy vẫn còn điển giải thích điển cố văn học (2010)… như bị cuốn vào một cuốn phim quay phòng để trống, căn phòng ở tầng ba. ngược ký ức của thầy vậy. Điều đó vừa thuận tiện cho học trò  KHEN THƯỞNG, DANH HIỆU: gần gũi, chăm sóc thầy lại tiện để thầy *** truyền đạo, dạy chữ cho trò. Mỗi khóa Thầy được phong danh hiệu Nhà giáo Nhân dân (2010), Ngày chúng tôi học cao học, cả lớp cao học Hán Nôm đều có một vài học Giải thưởng Nhà nước (2012) với cụm công trình Nghiên Hán Nôm chỉ có hai học viên, một điều viên đến với thầy dưới mái nhà số 3 - cứu chữ Nôm và tiếng Việt cổ. Trong quá trình cống hiến, trước đây chưa từng có. Năm đó, chỉ B9 ấy. Từ đây trong căn nhà ấy có thầy ông đã được Nhà nước và nước bạn Campuchia trao tặng có tôi và Kiên, cả hai đều là sinh viên có trò, có một vị giáo sư và những lớp nhiều Huân chương, Huy chương, Bằng khen. K57 Khoa Ngữ văn vừa ra trường, cùng học trò kế tiếp nhau. nhau học cao học Hán Nôm khóa 21. Là một trong số những học trò may Sau vài ngày đầu lên giảng đường, thầy mắn, những ngày tháng học cao học, San có ý bảo chúng tôi đến nhà thầy tôi đã được chuyển vào sống cùng thầy học để đỡ mất công di chuyển. Và thế Nguyễn Ngọc San trong căn nhà số 3 - là gian phòng khách nhà số 3 - B9 trở B9 ấy. Ngày đầu mới chuyển đến, tôi thành một “giảng đường” bất đắc dĩ với không khỏi không ấn tượng với một một thầy hai trò (điều này chúng tôi người thầy hiền từ, dù cao tuổi nhưng cũng gặp lại khi học chuyên đề Bách gia vẫn vui vẻ và thường pha trò trong mỗi chư tử với PGS.TS Dương Tuấn Anh). câu chuyện. Thầy Nguyễn Ngọc San ngồi một bên Thầy San làm việc rất cần mẫn và sofa và hai học viên chúng tôi ngồi một khoa học. Mỗi sáng thầy dậy rất sớm, bên sofa, trước mặt là cái bàn kính nhỏ khoảng 4 giờ 30, thầy ngồi vào bàn làm để sách vở. Những bài học đầu tiên về việc từ khoảng 6 giờ sáng đến 6 giờ tối chữ nghĩa của chúng tôi bắt đầu từ đây. và hầu như không rời khỏi bàn nếu như Thầy San dạy chúng tôi phần kinh điển Nho gia tiên Tần, trong đó quan 99

Những gương mặt thân thương trọng nhất là Luận ngữ, sau đó thầy dạy Chúng tôi đến thăm cô dịp Kỷ niệm 65 năm thành lập Khoa Ngữ văn, thêm Cổ văn quan chỉ. Chúng tôi còn Đại học Sư phạm Hà Nội (2016) được học với thầy hai chuyên đề nữa là Tiếng Việt lịch sử và Chữ Nôm và văn Những năm học Đại học tôi chỉ được thật giá trị và quý hiếm bấy giờ, cô vui vẻ, hào bản Nôm. Thầy giảng bài say mê, dường học với cô môn Ngữ âm. Tỷ lệ giảng phóng tặng cho tôi. Và sẽ luôn, mãi là như thế, như không biết mệt mỏi, đúng như tinh viên nữ ở Khoa Văn bấy giờ rất thấp, đối với tôi, cô chỉ cho mà không nhận. Tôi gần thần “hối nhân bất quyện” của Nho với tổ Ngôn ngữ, càng khiêm tốn hơn. gũi với cô chỉ trong cuộc sống đời thường. Nhiều gia, đó là một điều phi thường đối với Vì thế tôi đặc biệt chú ý đến các cô lúc ái ngại với sự xởi lởi, quý mến, tốt tính của một vị giáo sư đã ngoài tám mươi tuổi. giáo và càng ngưỡng mộ những cô giáo dạy Ngôn cô. Đến nhà cô chơi thì chỉ mang thêm quà về! Chúng tôi vừa bất ngờ, vừa khâm phục ngữ. Trong cái đầu bé hạt vừng và tâm hồn sướt Cuộc sống bấy giờ nhìn chung đều khó khăn, thầy và kính trọng sự tâm huyết của mướt, sến sẩm chuyên Văn của tôi, Ngôn ngữ là hiếm có gia đình nhà giáo nào dư dả. Nhà cô cũng thầy đối với giáo dục, nhưng cũng lại ngành học khó, khô, khổ… chỉ phù hợp với nam như nhiều gia đình khác ở khu tập thể Đồng Xa lo cho sức khỏe của thầy. Một điều nữa giới. Khi cô dạy chúng tôi, cô là Phó Tiến sĩ mới và cô cũng tần tảo như bao phụ nữ khác, chút mà chúng tôi khâm phục ở thầy đó là trí từ Nga về. Quần tây, áo vest khoác nhẹ, tóc tết hành lang nhỏ phía trước nhà dành nuôi gà công nhớ của thầy San vào thời điểm đó vẫn gọn gàng kẹp sau gáy, cô luôn nhanh nhẹn và có nghiệp, cải thiện bữa ăn. Thỉnh thoảng thầy cô còn rất tốt, đặc biệt là đối với Hán tự và phần tất bật. Cô không bao giờ ngồi giảng bài, bận việc trường, lại gửi Đông Dương, con trai chữ Nôm. Tôi băn khoăn nhưng cũng luôn đi lại, giảng rất nhiệt tình. Thỉnh thoảng của cô lúc bấy giờ chưa vào lớp một, sang nhà tôi không dám hỏi thầy về bí quyết ghi nhớ tôi thấy trên những chiếc áo khoác, có hình thêu chơi. Mỗi lần Đông Dương sang đều mang theo cả văn tự, cho đến khi tôi ở nhà thầy, mỗi xinh xinh một bông hoa, hay một loại quả, khiến bọc thịt gà với đủ gừng, hành khô! Nước Nga xa lần xuống nhà thấy thầy chăm chú bên những bước đi trên bục giảng của cô thêm sinh xôi trong tôi trước kia, bỗng thật gần với những ánh đèn bàn với vài cuốn sách cổ, tôi tò động. Dẫu cô giảng to và rõ ràng về những vấn đề điều mộc mạc, chân tình ở cô. mò đến xem thì thấy thầy vẫn đang say ngữ âm rất thú vị nhưng đôi khi tôi lại chỉ để tâm mê đọc sách, và thỉnh thoảng lại ghi lại đến những hình thêu sắc màu đó mà mơ màng Cô sinh ra trong một gia đình gia giáo. Chất vài chữ nào đó vào một cuốn sổ tay, về nghĩ về văn minh nước Nga xa xôi. nền nã, gia giáo cứ tự nhiên lan tỏa trong cô. Từ sau khi dọn nhà tôi xếp lại cũng được trong câu chuyện đến cách nói chuyện cô luôn một chồng nhỏ những cuốn sổ tay như Sau khi tốt nghiệp, tôi về giảng dạy tại Khối thoải mái nhưng không thái quá; từ bữa cơm gia thế. Hóa ra, đó là bí quyết ghi nhớ của Phổ thông Chuyên ngữ, Đại học Sư phạm Ngoại đình, không cầu kỳ, thịnh soạn nhưng luôn tươm thầy. Thực là sự cần mẫn từ những điều ngữ Hà Nội. Tôi rất mừng được gặp lại cô, vì tất, kỹ càng; những món quà luôn mang hương vị nhỏ nhất đã làm nên nhân cách lớn ở chồng cô, thầy Trương Đông San bấy giờ là Hiệu bốn mùa của đất Bắc… Cân bột sắn trắng ngần một người thầy vĩ đại. trưởng Trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà bao giờ cũng được ướp hoa bưởi mùa xuân, uống Nội. Biết tôi là sinh viên cũ, cô đặc biệt quan vào thơm mát. Mùa thu là hồng ngâm giòn tan, *** tâm. Bộ sách Giảng văn của Khoa Ngữ văn Đại cốm làng Vòng mềm thơm gói trong lá sen xanh. Tốt nghiệp Thạc sĩ, tôi còn ở lại với học Sư phạm Hà Nội, bao gồm các bài giảng văn Cô không quá cầu kỳ tìm kiếm mà hay hẹn hò thầy trong căn nhà số 3 - B9 ấy thêm của những tên tuổi gạo cội: Bùi Văn Nguyên, Đỗ với những cô gánh hàng rong mang cho loại cốm một thời gian nữa cho đến khi tôi có Bình Trị, Lê Trí Viễn, Đặng Thanh Lê, Nguyễn mới, vừa giã còn thơm mùi nếp non. Khi chúng công việc. Tôi đành rời xa nơi ấy với Đình Chú, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Hoành tôi đã chuyển vào sinh sống ở Thành phố Hồ Chí bao kỉ niệm đẹp. Giờ đây, đi qua dãy Khung, Nguyễn Văn Long, Phan Trọng Luận… Minh, thỉnh thoảng cô vào công tác, chúng tôi nhà B9, khu tập thể Đại học Sư phạm Hà Nội, chắc cũng không ai còn thấy ánh đèn bàn mờ sáng sau lớp cửa kính nữa, bởi thầy Nguyễn Ngọc San đã chuyển về sống cùng gia đình. Căn nhà lưu giữ nhiều kỷ niệm thầy trò giờ đây cũng đã thuộc về chủ nhân khác, và được xây cất lại. Trong biết bao thế hệ học trò đã được học Giáo sư Nguyễn Ngọc San, ký ức về căn nhà số 3 - B9 sẽ mãi mãi là ký ức đẹp, nơi mỗi người chúng tôi tiếp thu được những bài học quý giá về đạo đức, bài học về nhân cách, bài học về khoa học và những kiến thức làm hành trang suốt đời. Với những ai yêu thích và đam mê Hán Nôm, thầy Nguyễn Ngọc San luôn là một ngọn đèn soi sáng và dẫn đường họ đến với khoa học và tri thức l (Thái Nguyên, ngày 15/7/2021) Nguyễn Trung 100 70 năm Sư phạm Văn khoa


Like this book? You can publish your book online for free in a few minutes!
Create your own flipbook