Important Announcement
PubHTML5 Scheduled Server Maintenance on (GMT) Sunday, June 26th, 2:00 am - 8:00 am.
PubHTML5 site will be inoperative during the times indicated!

Home Explore TÀI IỆU BIỂN ĐẢO VIỆT NAM MOI

TÀI IỆU BIỂN ĐẢO VIỆT NAM MOI

Published by Hang Nguyen, 2021-09-03 14:00:07

Description: TÀI IỆU BIỂN ĐẢO VIỆT NAM MOI

Search

Read the Text Version

đã mạnh dạn đề xuất với Bộ Quốc phòng và cán bộ lãnh đạo và người dân ở tỉnh Bà Rịa - Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ Vũng Tàu cũng không biết nhà giàn DK1 là tướng Chính phủ) khẩn trương khảo sát, xây gì và đóng quân ở đâu. Họ nghĩ rằng “DK1”, dựng các nhà nổi kiểu boong tong trên các bãi là những người làm việc trên các giàn khoan san hô ngầm, từ Bãi cạn Ba Kè (giáp quần dầu khí (Luận DK1 là viết tắt dầu khí một). đảo Trường Sa) đến Bãi cạn Cà Mau (biển Cà Mà đã công tác ở “Dầu khí một” thì lương Mau tỉnh Minh Hải, nay là tỉnh Cà Mau - cao, đời sống khá giả. Một thời các chiến sĩ vùng tiếp giáp với biển Malaysia và “Dầu khí một” nói mới đi biển về nghe Philippines). Sau khi có quyết định của Chính chừng “oai lắm”. Người dân nhầm tưởng phủ, Bộ Quốc phòng đã giao nhiệm vụ cho rằng, trong túi các chiến sĩ “dầu khí một” lúc Bộ Tư lệnh Hải quân và Bộ Tư lệnh Công nào cũng “xông xênh”. “Tiếng thơm” ấy binh thăm dò, khảo sát và tiến hành xây dựng “vang” tận đến các cô gái công nhân giày da các nhà giàn trên các bãi san hô ngầm. ở Vũng Tàu. Cho đến bây giờ, sau hơn 2 thập kỷ ra Thời đó, do nhiều lý do khác nhau mà đời tồn tại và phát triển, nhà giàn DK1 vẫn là nhà giàn DK1 không được tuyên truyền trên bằng chứng sinh động về sự sáng tạo, quyết các phương tiện thông tin đại chúng như bây chí của một vị tướng tài ba. Và ít người biết giờ. Bắt đầu từ tháng 7/2009, lần đầu tiên về vị Tư lệnh tài tình lúc chào cờ và thăm các nhà giàn DK1 được nhiều người biết đến chiến sĩ nhà giàn đầu tiên Phúc Tần 3 đóng khi Quân chủng Hải quân phối hợp với tỉnh năm 1989, ông chỉ còn 1/3 dạ dày sau ca mổ Bà Rịa - Vũng Tàu tổ chức kỷ niệm 20 năm năm 1980 và đang mang trong mình một căn ngày ra đời. Và từ đó các nhà giàn DK1 mới bệnh hiểm nghèo khác. Năm 1990 ông mất được tuyên truyền công khai rộng rãi trên tại Viện Quân y 108 Hà Nội. các phương tiện thông tin đại chúng. Cán bộ chiến sĩ nhà giàn DK1 được gọi đúng tên là Pháo đài thép giữa biển khơi “cán bộ chiến sĩ” chứ không gọi là “cán bộ Nhà giàn DK1 được gọi với tư cách là nhân viên” như trước đây nữa. “Cột mốc chủ quyền quốc gia đặc biệt trên biển”. Những cột mốc này được xây dựng Cụm Kinh tế - Khoa học - Dịch vụ (gọi không phải đường biên, mà dựa trên “tiêu tắt là DK1) được ra đời ngày 5/7/1989, để chí” luật biển Quốc tế qui định. Việc xây đáp ứng yêu cầu bảo vệ chủ quyền biển, đảo, dựng các Nhà giàn DK1 với mục đích chính thềm lục địa của Tổ quốc trong tình hình là: Bảo vệ Tổ quốc từ hướng biển, đồng thời mới. Nhà giàn xa đất liền nhất là Ba Kè C, công bố với thế giới, đây là chủ quyền thềm cách đất liền khoảng 630 km, nhà giàn lục địa của Việt Nam. Nhà giàn DK1 được DK1/10 (Bãi cạn Cà Mau tỉnh Cà Mau) cách xây dựng và tồn tại không chỉ là một tất yếu Vũng Tàu gần 700 km, nhưng cách mũi Cà của một đất nước có chủ quyền, mà còn là Mau chỉ 110 hải lý (tương đương gần 200 tầm nhìn chiến lược quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. km, cách An Giang 385 km). Từ năm 2009 trở về trước, nói về nhà Ngày 5/7/1989, ngày Chủ tịch Hội đồng giàn DK1 ít người biết đến, ngay cả nhiều Bộ trưởng ra Chỉ thị số 180 về việc xây dựng Cụm Dịch vụ kinh tế - khoa học - kỹ thuật 96

thuộc đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo (tức nhà Mỗi nhà như một “pháo đài thép” vững giàn DK1), trở thành sinh nhật của nhà giàn. chắc. Chốt giữ trên đó là cán bộ, chiến sĩ Và gần 25 năm qua, nhà giàn DK1 đã tồn tại tiểu đoàn DK1 Vùng 2 Hải quân - những sừng sững, hiên ngang như những cột mốc người mà anh em gọi nửa đùa nửa thật là chủ quyền không thể tranh cãi nơi tiền tiêu “Bia chủ quyền sống” trên biển. Những Tổ quốc. Hiện nay trên thềm lục địa có 15 “tấm bia” ấy không chỉ gồng mình với điều nhà giàn DK1 đóng quân ở các bãi cạn Ba kiện khắc nghiệt, mà còn phải chịu đựng nỗi Kè, Huyền Trân, Quế Đường, Phúc Nguyên, nhớ nhà, nhớ đất liền luôn canh cánh trong Tư Chính, Cà Mau. Mỗi nhà giàn xứng danh lòng. Những “tấm bia sống” ấy mỗi đợt là một pháo đài canh biển. “cắm” trên biển kéo dài từ 6 đến 8 tháng. Cũng có khi do yêu cầu nhiệm vụ phải ở Và những cơn sóng đến 10- 12 tháng, thậm chí 27 tháng mới Các nhà giàn được kết cấu bằng thép do vào đất liền. Không ít những “bi kịch trái Bộ Tư lệnh Công binh xây dựng có sức bền tim” nảy sinh từ những chuyến xa đất liền lâu dài và chịu được khắc nghiệt của thời tiết dằng dặc như thế. Nhiều người đã 40 tuổi như gió to, bão lớn cấp 10 cấp 11. Nhà có vẫn “phòng không” và không ít người giữa chân cũng bằng thép cắm sâu xuống đáy san trùng khơi dằng dặc ấy chuyện riêng tư hô. Nhà chia thành nhiều tầng, nhiều khối để cũng không ít lần nổi sóng. sinh hoạt học tập với diện tích sử dụng hàng trăm m2/ tầng. Mùa sóng bão nhà rung lắc Tên dân sự các Nhà giàn DK1 gọi là nhưng không chao đảo và không dễ gì đổ “Trạm kinh tế - khoa học - dịch vụ” thực được. Theo quy định khi có bão to, hiện chất là nơi sống, huấn luyện, học tập, bảo vệ tượng nhà rung lắc mạnh là cán bộ chiến sĩ vùng trời, vùng biển của cán bộ, chiến sĩ tiểu được lệnh chuyển xuống tàu an toàn. đoàn DK1. Trước đây tiểu đoàn DK1 trực Những nhà giàn hiện có đang tạo thành thuộc Lữ đoàn 171 Hải quân, nay trực thuộc một vành đai “chiến hào đảo thép” trên biển. Bộ Tư lệnh Vùng 2 Hải quân đóng quân trên Hạ xuồng vào nhà giàn mùa sóng gió vùng biển Thềm lục địa Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo, nay là tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Nhiệm vụ của các nhà giàn DK1 là làm chỗ dựa cho ngư dân các tỉnh miền Đông và miền Tây Nam bộ ra đánh bắt hải sản, làm tiêu cho tàu thuyền qua lại, thu thập số liệu thủy văn, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ chủ quyền vùng biển thềm lục địa phía Nam của Tổ quốc. 97

Kỳ 2: Nhà giàn đầu tiên được xây dựng thế nào? Sau khi có quyết định của Chính phủ, Bộ Quốc phòng đã giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Hải quân và Bộ Tư lệnh Công binh thăm dò, khảo sát và tiến hành xây dựng các nhà giàn trên các bãi san hô ngầm. nhiệm vụ, trở về đất liền an toàn” họ ra đi với lòng quyết tâm như thế. Trung tá Nguyễn Tiến Cường, hiện giữ chức Trợ lý kế hoạch tổng hợp của Bộ Tư lệnh Vùng 2 Hải quân, năm 1988 trung tá Cường đeo quân hàm thượng úy, thuyền trưởng tàu HQ-668 kể lại: “Tàu HQ-668 được mệnh danh là tàu “lá tre” bởi đây là tàu Nhà giàn thế hệ đầu tiên thiết kế dạng boong- nhỏ nhất của Hải đội 811. Thời kỳ ấy, tàu tong đóng trên bãi cạn Hải quân chưa hiện đại như bây giờ, chủ yếu là tàu vỏ sắt nhiều chủng loại. Riêng tàu HQ- Ngày 6/11/1988, biên đội tàu HQ-713 và 668 tiếp nhận về nguyên gốc từ tàu cá của HQ-668 do trung tá Phạm Xuân Hoa, Lữ Thái Lan. Với trọng tải 150 tấn, con tàu gỗ đoàn trưởng Lữ đoàn 171 Hải quân chỉ huy nhỏ bé này chật chội không kê được giường. cùng đoàn khảo sát đã vượt sóng ra thềm lục Các chiến sĩ ngủ dàn hàng ngang trên sàn gỗ, địa. Sau gần 7 tháng khảo sát, ngày 10/6/1989 tiện chỗ nào thì ngủ chỗ đó chứ không quy nhà giàn đầu tiên mang phiên hiệu Phúc Tần định cụ thể. hoàn thành, trụ vững giữa biển Đông với tư Chiều ngày 6/11/1988, tạm biệt vợ mới cách là “cột mốc chủ quyền quốc gia đặc biệt cưới, thuyền trưởng Nguyễn Tiến Cường trên biển”. xuống tàu ra đi. Chị Thủy tiễn chồng ra tận Khác gì đi chiến trận cầu cảng. Thay những lời dặn dò chồng là Chấp hành mệnh lệnh của Đảng ủy Lữ đôi mắt đỏ hoe. Nhìn vợ, Cường bảo: “Biển đoàn 171 Hải quân, con tàu mang phiên hiệu rộng lớn nhưng nhất định anh sẽ về”, rồi HQ-668 của Hải đội 811 Lữ đoàn 171 chở bước chân xuống tàu. Cùng tiễn chồng 15 cán bộ chiến sĩ vượt sóng thềm lục địa, xuống cảng hôm ấy, có nhiều người vợ trẻ. đánh dấu tọa độ, đo độ sâu, khảo sát các bãi Cuộc chia tay bịn rịn ngay trên cầu cảng, san hô ngầm xúc tiến cho việc đóng nhà giàn những giọt nước mắt, những lời dặn dò lưu DK1 đầu tiên ở bãi cạn Phúc Tần. Ra đi luyến của người đi, người ở xúc động nghẹn trong gió mùa đông bắc tràn về, biển động ngào. Sau sự kiện “Trường Sa 88”, đi biển dữ dội, con tàu nhỏ bé cứ chồm lên ngụp ngày ấy cũng đồng nghĩa với vào chiến trận, xuống trong sóng và ngược gió. “Hoàn thành không ai biết trước điều gì sẽ xảy ra. 98

Dưới sự chỉ huy của trung tá Phạm Xuân xuống biển, đã bị dòng nước chảy mạnh làm Hoa, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 171, biên đội gãy đôi. Tất cả đều nhờ vào sợi dây thừng. tàu HQ-668 do thượng úy Nguyễn Tiến Cường làm thuyền trưởng, tàu HQ-713 do Sau 3 ngày khảo sát, các thủy thủ đã tìm thượng úy Nguyễn Hồng Thưởng làm thuyền được vị trí tọa độ trùng khớp với tọa độ đã trưởng hành trình từ cảng Vũng Tàu ra thềm ghi trên bản đồ, đo được độ sâu tương đối lục địa. Phương tiện duy nhất trong chuyến chính xác, thả phao quả nhót đánh dấu. Vị hải trình này chiếc la bàn từ, 2 cuộn dây, 6 trí khảo sát đầu tiên ở bãi cạn Phúc Tần A cây sào tre để đo độ sâu. Khi ra khỏi cửa đã hoàn thành, các thủy thủ tiếp tục hành biển Vũng Tàu, biên đội tàu gặp phải sóng to trình đến các bãi cạn Huyền Trân, Quế gió lớn. Con tàu nhỏ bé chồm lên ngụp Đường, Phúc Tần, Phúc Nguyên, Tư Chính xuống trong sóng và ngược gió, có lúc chỉ tiến được 2-3 hải lý/giờ. Đúng lúc đó gió và Cà Mau. mùa Đông Bắc tràn về, sóng dữ dội hơn. Tất Sống cùng bão tố cả các thủy thủ đều say sóng. Do làm tốt Sau khi tìm được bãi cạn và tọa độ xây công tác động viên tư tưởng, nên không chiến sĩ nào có tư tưởng nôn nóng hoặc thoái dựng nhà giàn, ngày 26/11/1988 hai biên đội thác nhiệm vụ. tàu HQ-713 và HQ-668 của Lữ đoàn 171 dưới sự chỉ huy của Lữ đoàn phó chính trị Do không có định vị vệ tinh, nên biên trung tá Hoàng Kim Nông, biên đội tàu HQ- đội tàu sau 3 ngày hải trình đã đi lạc vào 727, HQ-723 của Hải đoàn 129 do trung tá vùng biển đảo Đá Lát. Đúng lúc đó thì tàu Trần Xuân Vọng chỉ huy hành trình ra các HQ-713 bị vỡ lốc máy. Lệnh của Lữ đoàn bãi cạn đã được đánh dấu từ trước và tổ chức trưởng trung tá Phạm Xuân Hoa, tàu HQ-713 canh gác tại đây. bằng mọi cách khắc phục sửa chữa lốc máy, tàu HQ-668 khẩn trương hành trình về Giữa biển mênh mông sóng dữ, đời sống hướng Nam (khu vực biển bãi cạn Ba Kè), của các chiến sĩ vô cùng khó khăn gian khổ. nhanh chóng khảo sát, đo độ sâu. Thức ăn lúc đó chủ yếu là rau muống phơi khô và đồ hộp. Do sóng lớn, toàn bộ khoang Theo phán đoán của trung tá Hoa, một nước ngọt dưới hầm tàu bị nhiễm mặn hòa hai ngày nữa sẽ có bão lốc, tại vùng biển lẫn với gỉ sét. Các chiến sĩ đã dùng áo lót này. Dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng căng lên mặt xô, lọc nước nhiễm gỉ sét, hoặc thượng úy Nguyễn Tiến Cường, các thủy thủ gạn lắng nước trong để nấu cơm. Vì không đã dùng dây thừng thắt nút cách nhau từng có nước ngọt nên các chiến sĩ không có “kế mét, một đầu buộc đá thả xuống biển. Nước hoạch” tắm. Tất cả tắm bằng nước biển, ngập đến đâu, đếm nút thắt dây, tính ra độ nước ngọt chỉ tráng sau cùng. Vì thiếu nước sâu đến đó. Những cây sào dài hơn chục mét ngọt, có chiến sĩ cả tháng không đánh răng, không phát huy được tác dụng vì dòng chảy họ chấp nhận sống đời “ngư phủ”. Ngày ấy, mạnh và mực nước sâu đến trên 20m. việc quan sát mặt biển canh gác chủ yếu là Thuyền trưởng Cường vừa đưa cây sào mắt thường và kinh nghiệm thực tiễn chứ không có phương tiện hiện đại như bây giờ. Để bảo đảm an toàn tuyệt đối, ngày cũng như đêm, các thủy thủ tăng cường quan sát, 99

phát hiện những động thái từ xa, và sẵn sàng đành phải dừng lại. Ông Trần Xuân Vọng, chiến đấu khi có lệnh. nguyên Đoàn trưởng Đoàn 129 Hải quân, nhớ lại: “Có bữa trời đang trong xanh ngăn Nghĩ lại những ngày gian khó ấy, trung ngắt, chỉ vài phút sau là sấm chớp ầm ầm, tá Nguyễn Tiến Cường bảo: “Ngày ấy, sóng đang lặng lẽ bỗng lừng lững như quả những lúc thảnh thơi, ngồi trên mũi tàu nhìn núi. Mặc cho sóng gió, anh em chúng tôi về phía chân trời nhớ nhà vô cùng. Tuy vẫn quyết tâm làm. Có lần một thợ lặn đang không ai nói câu gì, nhưng trong thâm tâm ai định vị dây xích dưới đáy biển thì dây dẫn cũng suy nghĩ, giờ này vợ con mình làm gì, khí bị đứt. Tình huống cực kỳ nguy cấp, nếu ở đâu? Và nếu mình có hy sinh thì ai là chỉ chậm vài phút sẽ ảnh hưởng đến tính người thay mình gánh vác gia đình. Những mạng. Chúng tôi khẩn cấp đưa thợ lặn khác điếu thuốc Đà Lạt chuyền tay nhau, ca nước xuống cấp cứu, cho vào buồng giảm áp lực ngọt sẻ chia, những câu chuyện tiếu lâm phá mới cứu sống được anh em”. tan dòng suy nghĩ. Sau những giây phút trầm tư ấy, là sự lo toan cho con tàu, trước sóng Công việc đầu tiên là dọn bãi đặt chân đế và gió mùa Đông Bắc tràn về”. boong-tong. Những người thợ lặn đeo bình ôxy, mặc áo nhái lặn sâu xuống đáy biển, “Pháo đài” đầu tiên trên biển dùng vật chuyên dùng san phẳng bãi san hô Tháng 5/1989, các biên đội tàu của Lữ rồi khoét sâu một lỗ rộng chừng 60m để đặt đoàn 171 và của Hải đoàn 129 phối hợp với khối boong-tong vào đó. Khối boong-tong tàu kéo chuyên dụng của Bộ GTVT bắt đầu kết cấu bằng thép, bán kính chừng 16 m, chở khung nhà giàn cùng vật liệu sắt thép bơm đầy xi măng vào trong, đánh chìm vượt sóng ra bãi cạn Phúc Tần. Giữa biển xuống đáy. Những người thợ lặn vừa phải khơi bao la, giữa cái nắng cháy da cháy thịt, chống chọi với dòng chảy, vừa “lái” khối những người thợ đóng giàn ngành dầu khí boong-tong vào đúng lỗ đã được đào sẵn. cùng các chiến sĩ công binh chạy đua với Kết nối giữa khối boong-tong và bốn cọc thời gian, chia ca làm việc 24/24 giờ. cắm sâu vào san hô là bốn sợi dây xích siêu Từ thành công của việc xây dựng nhà bền, chịu được sóng to, dòng chảy mạnh. giàn đầu tiên này, ngày 5/7/1989, Chủ tịch Công đoạn thứ hai là kết nối boong-tong và Hội đồng Bộ trưởng (Thủ tướng Chính phủ) khối thượng tầng. Những người lính công ra chỉ thị số 180 về việc xây dựng Cụm dịch binh lại ngụp lặn trong lòng biển để làm vụ kinh tế - khoa học - kỹ thuật thuộc đặc những công việc “độc nhất vô nhị” này. khu Vũng Tàu - Côn Đảo, tức nhà giàn DK1. Ngày này được lấy làm sinh nhật của Sau hơn một tháng chạy đua với sóng gió, ngày 10/6/1989, nhà giàn đầu tiên với nhà giàn. tên gọi Phúc Tần hiện hữu giữa Thềm lục địa Hồi đó phương tiện thông tin thời tiết phía Nam Tổ quốc. Toàn bộ cán bộ chiến sĩ công binh và những người thợ lặn nhìn nhà chủ yếu là nghe Đài Tiếng nói Việt Nam giàn mà trào nước mắt, những giọt nước mắt qua chiếc đài bán dẫn nhỏ xíu. Nhiều khi sung sướng và tự hào khôn xiết. đài báo sóng yên biển lặng nhưng buổi chiều giông gió bất ngờ ập tới, công việc 100

Kỳ 3: Đại dương và nước mắt Cuộc sống của 14 cán bộ, chiến sĩ lần đầu tiên sống ở nhà giàn thời ấy là ngày đêm vật lộn với sóng gió, khí hậu khắc nghiệt, thiếu thốn mọi thứ, cô đơn và nhớ đất liền cồn cào xé ruột. Và lần đầu tiên, giọt nước mắt của những người lính nhà giàn rơi giữa mặn mòi vị biển. Ra đi không hẹn ngày về làm nhiệm vụ trên biển xa nên cán bộ Lữ Để tường tận về cuộc mưu sinh của 14 đoàn rất quan tâm, lo lắng. Trước ngày đi, chiến sĩ nhà giàn đầu tiên trên biển ngày đó, Thủ trưởng đơn vị đến từng nhà động viên tôi tìm gặp cựu binh Nguyễn Văn Nam, anh em yên tâm lên đường làm nhiệm vụ. nguyên tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn DK1 - Còn đối với cán bộ chiến sĩ sống tập thể tại người mệnh danh là “sói biển” có mặt ở nhà đơn vị thì làm công tác tư tưởng, dặn dò và giàn sớm nhất từ những ngày đầu xây dựng. chia tay. Ai cũng nói hẹn ngày gặp lại, Trong căn nhà của người lính hải quân nhưng trong thâm tâm, thương xót vô cùng già ở số nhà 1096 đường 30/4 phường 11, vì biển xa sóng gió, gian khổ khó khăn, biết Tp. Vũng Tàu, ông kể cho tôi nghe những bao giờ đoàn viên. ngày đầu ra nhà giàn chốt giữ, thiếu thốn đủ Trong khi nhà đang có tang, vợ ốm, bề, chồng chất khó khăn, nhưng anh em vẫn nhưng anh Nam quyết tâm gạt nước mắt ra đi trụ vững. Vượt lên trên gian khổ là tinh thần vì nhiệm vụ trên giao. Trung tá Phạm Xuân khắc phục và nghị lực sống kiên cường, dẫu Hoa, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 171 đã đến tận có nhiều mất mát hy sinh. “Đó là những nhà động viên: “Đồng chí cứ chỉ huy anh em ngày tháng không thể nào quên, là khoảnh ra nhà giàn làm nhiệm vụ. Vợ con ở nhà yên khắc đẹp đẽ nhất trong cuộc đời người lính tâm đã có đơn vị, chúng tôi lo”. Chị Thủy, biển, khoảnh khắc ấy đã thấm vào gan ruột vợ anh đang ốm nặng cũng cố tiễn chồng ra tôi. Tôi vẫn nhớ như in tất cả những vật dụng cửa, gạt hai hàng nước mắt dặn chồng: “Anh để từng chỗ trên mỗi nhà giàn”, ông Nam đi bình an, hoàn thành nhiệm vụ trở về với chia sẻ. mẹ con em. Em và các con luôn chờ đón anh Chấp hành mệnh lệnh cấp trên, đầu về”. Nhìn mặt vợ thân yêu và con gái nhỏ, tháng 7/1989, đại úy Nguyễn Văn Nam “cầm Nam mím chặt môi để không bật ra tiếng quân” 13 cán bộ chiến sĩ ra nhà giàn Phúc Tần sinh sống và chốt giữ. Một cuộc mưu sinh gắn liền với sinh tử giữa đại dương. Trước ngày đi 3 hôm, em trai anh chết do tai nạn. Vợ anh- chị Đặng Thị Thủy ốm nặng. Lúc ấy, nói đến đi Trường Sa, DK1 là chuyện gì đó rất ghê gớm. Những người đi Trường Sa, DK xác định: “Ra đi không hẹn ngày về”. Anh Nam cũng xác định đi là sẵn sàng hy sinh quên mình vì Tổ quốc. Lần đầu tiên Lữ đoàn 171 Hải quân đưa lực lượng đi Lên nhà giàn bằng dây kéo 101

nấc. Anh bế con gái đầu lòng hôn lên má và san hô cách mặt nước 7 mét, nên chỉ cần giấu giọt nước mắt chực trào ra. sóng cấp 4 hoặc dòng nước chảy mạnh là khối bong-tông đã di dịch bập bềnh trôi Con tàu gỗ nhỏ bé có tên HQ-727 qua 3 trong nước. Sau 3 ngày xây dựng, sóng to đã ngày 3 đêm hành trình liên tục đã đưa 14 đánh vỡ toàn bộ phần boong-tong, bồn nước cán bộ chiến sĩ đến nhà giàn Phúc Tần. Ra ngọt và bồn dầu hỏa. Biết không trụ vững an đến nơi, anh viết thư về thông báo với vợ, toàn, lệnh cấp trên rút toàn bộ cán bộ chiến sĩ con, một lá thư khác gửi về quê tận Vĩnh về đất liền. Phú dặn nhờ người em ruột: “Nếu anh hy sinh thì chú vào Vũng Tàu đưa vợ con anh Ngày trở về đất liền, chị Thủy bế con ra về quê sinh sống”. tận cầu cảng đón chồng. Bế con gái trên tay, Nam nghèn nghẹn. Chống chọi với đại dương Giữa cái nắng cháy da cháy thịt, giữa Anh và 13 cán bộ chiến sĩ lao vào huấn tiếng gió gào thét suốt đêm ngày, 14 cán bộ luyện, rèn luyện sức khỏe. Một tháng qua chiến sĩ trằn mình trong nắng lửa huấn mau, đại úy Nguyễn Văn Nam cùng 13 cán luyện sẵn sàng chiến đấu, luyện tập các bộ chiến sĩ đem theo 20 phi nước ngọt và 5 phương án tác chiến, chuẩn bị sẵn sàng đối phi dầu hỏa theo tàu ra nhà giàn Phúc Tần phó với những trận cuồng phong. Những chốt giữ. Một kế hoạch sinh tồn cho cuộc thứ ở đất liền rất bình thường như rau xanh sống mới bắt đầu. Trước hết là tiết kiệm thật và nước ngọt, thì ở nhà giàn cực kỳ hiếm chi li nước ngọt và trồng rau xanh. Nước hoi và quý giá. Chỉ nước ngọt thôi, cũng là ngọt được chia theo đầu người mỗi ngày 6 lít loại xa xỉ, hiếm hơn cả Trường Sa. Bởi ở cho cả tắm rửa. Nước tắm, giặt xong dùng để Trường Sa, nước ngọt được các chiến sĩ tưới rau, miễn là không nhiễm xà bông và khơi từ lòng đảo, còn ở nhà giàn DK1 nước nước mặn. Còn trồng rau xanh anh em đã lấy ngọt chỉ có thể mang ra từ đất liền hoặc gỗ tạp chế thành những chiếc máng nhỏ để hứng nhờ trời mưa. trồng rau trên ấy và phải “làm nhà” cho rau Nhà giàn Phúc Tần là thế hệ đóng đầu ở, gió hướng nào che hướng ấy. Do nhiễm tiên. Nhà thiết kế kiểu boong-tong đặt nổi mặn từ nước biển bốc hơi, nên rau xanh cứ trên đáy san hô. Nhà chia làm ba tầng. Dưới nảy mầm là thối gốc hoặc lên được 2 lá đành tầng công tác là 3 ngăn đựng nước ngọt và chết lụi. dầu hỏa. Bồn chứa nước chỉ hơn 10 khối. Với ngần ấy nước cho 14 con người trong 6 Những giọt nước mắt đầu tiên tháng trời ròng rã, chỉ nội rửa tay thôi cũng Sau 11 tháng sống trên nhà giàn Phúc không đủ, huống hồ nấu ăn, tắm, rửa. Còn Tần, đại úy Nguyễn Văn Nam cùng 13 cán rau xanh thì chưa biết trồng thế nào. Thức ăn bộ chiến sĩ được về đất liền để kíp trực khác chính hằng ngày của cán bộ chiến sĩ vẫn là ra thay. Chia tay nhà giàn và những người ở thịt hộp và rau muống phơi khô đóng thành lại, Nam căn dặn anh em: “Điều kiện sống ở bao tải do quân nhu cấp gửi từ đất liền ra. Do đây vô cùng khó khăn gian khổ. Anh em nhà có kết cấu dạng boong-tong đặt lên nền phải thương yêu đùm bọc nhau, coi nhau như 102

ruột thịt. Gian khổ thế nào cũng giữ vững ý cháy da, gió 4 mùa rát mặt. Những khó khăn chí chiến đấu, không sờn lòng, không chùn đó có thể chịu đựng được, nhưng có những bước trước những khó khăn. Còn người là cái phải thầm lặng hy sinh gian khổ hơn. Đó còn nhà giàn, còn biển là còn Tổ quốc”. là sự chịu đựng nỗi nhớ. Chiếc xuồng nhỏ bé chở Nam và đồng Cựu binh từng được mệnh danh “sói đội của anh ra tàu HQ- 931 về đất liền. Ngồi biển nhà giàn” vì đi biển không bao giờ say trên xuồng, ngoảnh lại. Nam và mọi người sóng và 112 lần lăn lộn với biển cả, song bật khóc. Lần đầu tiên những giọt nước mắt không khỏi xúc động khi nhắc lại những của người chiến sĩ nhà giàn tràn vào nước ngày đầu ông từng cầm quân 13 chiến sĩ đi biển mặn mòi. Khóc bởi thương anh em. dựng nhà giàn. “Nếu trong chiến trận, người Khóc bởi giữa biển nước mênh mông, nhà lính đẹp nhất là cầm súng chiến đấu, thì ở giàn nhỏ bé như nuốt vào lòng biển, không nhà giàn, đẹp nhất là cống hiến sức mình cho thấy bến bờ. Trên đó là những người lính trẻ biển đảo. Sự thầm lặng hi sinh của chiến sĩ 18, đôi mươi, vô tư, hồn nhiên luôn canh nhà giàn Dk1 không thể nói hết bằng lời. Tôi cánh nỗi nhớ đất liền và gồng mình quanh chỉ tiếc rằng, mình không được cống hiến năm chống chọi với khí hậu hà khắc nắng nhiều hơn nữa”. Kỳ 4: Sự hy sinh bất tử Hai lần nhà giàn đổ do bão tố đánh sập, một lần tàu chìm sau trận cuồng phong đã cuốn xuống biển sâu 9 cán bộ chiến sĩ. Phía sau hy sinh của mỗi liệt sĩ, gắn liền với những câu chuyện đời, chuyện tình người lính xúc động. Các anh đã ngã xuống giữa lòng biển mẹ, để nhà giàn mãi mãi trường tồn. Những người đầu tiên ngã xuống ngày giáp Tết, gió mùa Đông Bắc thổi về Câu chuyện tàu HQ-666 bị nhấn chìm liên tục, biển mịt mù trắng xóa, con tàu nhỏ trong cơn lốc nửa đêm tháng 1/1991 được bé cứ chồm lên, ngụp xuống trong sóng dữ. Trung tá Nguyễn Tiến Cường kể lại tường Đêm 23 tháng chạp, cán bộ chiến sĩ tàu HQ- tận. Anh Cường bảo: “Cuộc đời người lính 666 mổ lợn đón Tết sớm. thời bình cũng nhiều gian nan khó nhọc. Chiếc đầu lợn đặt giữa khoang lái, anh Cái ngày tôi chỉ huy con tàu HQ-666 đi em tập trung khấn vái thần linh theo phong trực ở nhà giàn 1B bãi cạn Tư Chính không tục của người đi biển. Lúc 22g30, trong khi thể quên được. Cơn bão ngày ấy cướp đi 2 mọi người bê đồ cúng ông Táo xuống, chiến đồng đội, đó là thuyền phó quân sự Phạm sĩ quan sát báo cáo, gió thổi mạnh, thời tiết Tảo và trung úy chuyên nghiệp máy trưởng bất thường. Tất cả mọi người đổ ào ra lan Lê Tiến Cường”. can nhìn về phía Bắc. Trời tối đen như mực, Tháng chạp năm 1991, Đại úy Hoàng sóng gió bất ngờ nổi lên ầm ầm, biển động Văn Tuyên nhận mệnh lệnh cấp trên cho tàu dữ dội, tàu chao đảo. Những cơn sóng từ đi trực nhà giàn 1B ở khu vực bãi cạn Tư lòng biển cuộn lên mỗi lúc một lớn. Chính. Sau hơn 2 ngày đêm hải trình, tàu Thuyền trưởng Tuyên lệnh báo động HQ-666 thả neo bên cạnh nhà giàn. Những khẩn cấp, tàu cơ động chống sóng, sẵn 103

sàng đối phó với bão tố, đề phòng tình ngày 25 tháng chạp năm 1991, cán bộ chiến huống xấu nhất xảy ra. Con tàu quá bé nhỏ sĩ tàu HQ-713 chuẩn bị neo đậu ăn cơm để so với những cột sóng cao hàng chục mét tiếp tục cuộc tìm kiếm, bỗng chiến sĩ quan cứ lừng lững liên tiếp đổ ập xuống khoang sát hô lên có một chớp sáng lóe lên từ phía tàu. Sức mạnh khủng khiếp của sóng đã trước, có thể đó là anh Tảo. đánh tan hệ thống tay vịn lan can của tàu Tàu HQ-713 tăng tốc, cách vật nổi quăng xuống biển. chừng 30m. Thương ôi, anh Tảo giang 2 tay, Sau hơn 3 giờ chống chọi, tàu HQ-666 mặt úp xuống đại dương, lập lờ trong sóng. nghiêng lệch một bên, nước bắt đầu tràn vào Chớp lóe từ mặt nước ấy, là ánh sáng của các khoang giữa. Tình huống vô cùng bất lợi. mặt đồng hồ sen-cô 5, hắt ra nhờ ánh hoàng Thuyền trưởng Tuyên trực tiếp liên lạc với hôn cuối chiều. Mọi người vớt anh lên đưa nhà giàn 1B yêu cầu thả dây mồi, lệnh thả vào khoang số 1. phao bè và rời tàu. Sau khi xuống phao bè, Cán bộ chiến sĩ tàu HQ-713 không ai bằng mọi cách bơi về phía nhà giàn 1B, chờ cầm được nước mắt. Gần 3 tháng trước, anh tàu đến cứu. Tảo đã ở trên con tàu thân thương này, anh là Trong sóng to gió lớn, các chiến sĩ lao người chỉ huy rắn rỏi cương nghị. Và hôm xuống biển, bám vào phao bè, dùng tay làm đó, cán bộ chiến sĩ tàu HQ-713 đón anh về. mái chèo bơi vào hướng nhà giàn 1B, nhưng Có cái chết hóa thành bất tử sóng lớn, nước chảy xiết, chiếc phao bè nhỏ Tôi xúc động khi đọc bài thơ “Sóng bé trôi xa dần. Tình huống nguy kịch. Phải Trường Sa” của tác giả Phan Đăng (Hà Nội) nhanh chóng bằng mọi cách vớt được đầu trong bài viết dự thi “Cảm xúc Trường Sa” dây mồi thả xuống từ nhà giàn 1B. Nghĩ vậy, trên báo Tuổi trẻ ngày 1/11/2011. “Sóng thuyền phó quân sự Phạm Tảo đã lao xuống nhắc chúng tôi về một người anh hùng có biển bơi nhanh về hướng đầu dây mồi. thật/ người đã nhường chiếc áo phao duy Để tiếp sức cho đồng đội, máy trưởng Lê nhất/ cứu anh em mà quên cả thân mình/ Tiến Cường lao theo với ý định sẽ cùng anh giữa biển bao la cột sóng dựng thành Tảo tìm đầu dây mồi. Khi Tảo và Cường bơi hình”. Bài thơ ngợi ca người chính trị viên gần đến đầu dây, một con sóng như quả núi Nguyễn Hữu Quảng hy sinh quên mình để đổ ập xuống, nhấn chìm Tảo và Cường cứu đồng đội giữa sóng cuồng bão giật cách xuống biển sâu trong đêm đen. Ngay sau khi tàu HQ-666 bị nạn, chiến sĩ báo vụ 1 của nhà giàn 1B đã điện trực tiếp báo cáo sở chỉ huy đất liền. Lệnh từ Quân chủng Hải quân, tàu HQ- 713 đang làm nhiệm vụ tuần tiễu trên biển nhanh chóng cơ động về nhà giàn Tư Chính 1B cứu nạn. Sau hơn 2 ngày quần đảo tìm kiếm, xác anh Tảo vẫn bặt vô âm tín. Chiều tối Nhà giàn DK1 vững vàng trong sóng gió qua ô cửa tàu 104

đây 24 năm. Đó là sự kiện nhà giàn Phúc Tượng đài trên biển Tần bị bão tố đánh sập lúc 3 giờ sáng ngày Đến bãi cạn Phúc Nguyên, từ cabin của tàu, giọng thuyền trưởng truyền đi trên loa 5/12/1990. nội bộ “toàn tàu thả neo, làm công tác chuẩn Thiếu tá Bùi Xuân Bổng nguyên chỉ huy bị viếng các liệt sĩ”. Tôi nhoài người qua ô cửa tàu nhìn nhà giàn Phúc Nguyên 2B mà trưởng nhà giàn Phúc Tần kể lại: Chiều trào nước mắt. Cách đây 16 năm, tại vùng 4/12/1990, cơn lốc bất ngờ ập tới. Lúc đó biển này, Đại úy Vũ Quang Chương, Chuẩn trên nhà giàn có 9 cán bộ chiến sĩ. Trước sức úy Lê Đức Hồng, Thiếu úy Nguyễn Văn An tàn phá của lốc tố, anh em đã bình tĩnh lấy đã ra đi mãi mãi. những miếng gỗ bung lên từ mặt sàn công Trong gió biển và mùi hương trầm ngan tác, kết lại thành chiếc bè và rời nhà giàn. ngát, giọng trưởng đoàn công tác chùng xuống: “Các đồng chí đã gác lại bao khó Lúc 3 giờ sáng ngày 5/12/1990, một con khăn của gia đình, gác lại những tình cảm sóng như quả núi ập tới đánh sập hoàn toàn riêng tư và biết bao nhiêu hoài bão, khát nhà giàn Phúc Tần cuốn theo 9 cán bộ chiến vọng lớn lao của tuổi trẻ, để lên đường làm sĩ xuống biển đêm. Phó trạm trưởng chính nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Trong trị, Trung úy Nguyễn Hữu Quảng đã nhường sóng dữ cuồng phong, giữa sự sống và cái mảnh áo phao và miếng lương khô cuối cùng chết, các đồng chí đã tỏ rõ lòng trung thành cho đồng đội rồi để sóng cuốn đi. Y sĩ Trần vô hạn đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân Văn Là, chiến sĩ cơ điện Hồ Văn Hiền cũng dân. Trước khi cuốn vào lòng biển, Đại úy bị bão tố nhấn chìm ngay sau đó. Vũ Quang Chương đã ôm lá cờ Tổ quốc vào lòng, Nguyễn Văn An vẫn hy vọng được gặp 8 năm sau, cơn bão số 8 có tên quốc tế đứa con trai chưa một lần biết mặt, còn Fathes đã nhấn chìm nhà giàn Phúc Nguyên Nguyễn Hữu Quảng mang theo hình bóng và 2A (DK1/6). Trong trận bão lịch sử này, 3 lời hẹn ước của người vợ chưa cưới xuống cán bộ chiến sĩ hy sinh. Đó là Đại úy Vũ đáy biển sâu. Quang Chương, Chuẩn úy chuyên nghiệp Lê Máu đào các anh đã hòa vào lòng biển. Đức Hồng và Thiếu úy Nguyễn Văn An. Đại Xương cốt các anh hóa đá san hô. Tên các úy Vũ Quang Chương đã ôm cờ Tổ quốc vào anh khắc vào biển, thành bản tình ca theo lòng trước lúc ngã vào lòng biển. sóng biển Đông. Các anh mãi mãi là biểu tượng cao đẹp về đức hy sinh và lòng dũng Đại úy Vũ Quang Chương hy sinh ở tuổi cảm của chủ nghĩa anh hùng cách mạng chớm 30, chưa có người yêu, để lại cho gia trong thời kỳ mới. Đó là cội nguồn của đức đình và đồng đội bao tiếc thương, cảm phục, hy sinh, là bản chất của người chiến sĩ Hải thì liệt sĩ Nguyễn Văn An để lại người vợ trẻ quân Việt Nam anh hùng. tận Ninh Bình và đứa con trai 2 tháng tuổi Hôm nay, đứng nơi biển trời Tổ quốc, chưa kịp đặt tên và chưa một lần nhìn thấy cán bộ chiến sĩ Vùng 2 Hải quân xin kính mặt. Liệt sĩ Lê Đức Hồng chưa một lần mặc cẩn nghiêng mình viếng hương hồn các anh. áo chuyển chế độ quân nhân chuyên nghiệp. Còn liệt sĩ Nguyễn Hữu Quảng để lại sự 105 thảng thốt ngỡ ngàng cho người vợ mới đính hôn với lời hẹn ước sau chuyến đi biển ấy về sẽ làm lễ cưới.

Tràng hoa trước biển hôm nay cuộn gói các bạn trẻ chưa một lần mặc áo lính; từ trong đó bao ân tình, là nghĩa cử tri ân và những người lăn lộn với biển, đảo sống sót lòng ghi ơn tạc dạ của thế hệ cán bộ chiến sĩ trở về đến những người lần đầu tiên đến chúng tôi đối với các liệt sĩ. Xin cầu mong nghĩa trang xanh này đều không cầm được linh hồn các anh bình yên vĩnh hằng trong nước mắt, khi thắp hương tưởng nhớ các liệt lòng biển”. sĩ. Và tôi, người đã từng công tác nhiều năm Cả đoàn chúng tôi bật khóc. Từ mái tóc ở DK1 càng nghẹn ngào khi biết thêm những bạc phơ đến mái đầu xanh; từ những người câu chuyện kể về các anh, về những con vào sinh ra tử qua hai cuộc kháng chiến đến người bất tử. Kỳ cuối: Điểm tựa lòng dân Khu vực biển thềm lục địa DK1, tàu cá của bà con ngư dân các tỉnh Phú Yên, Quảng Ngãi, An Giang, Bà Rịa - Vũng Tàu… luôn vươn khơi yên tâm bám biển. Bởi họ được sự bảo trợ về lương thực, muối, nước ngọt, thuốc chữa bệnh từ các nhà giàn và được các tàu của Bộ Tư lệnh Vùng 2 Hải quân bảo vệ. Người thân của nhà giàn Thiếu tá Nguyễn Văn Đoàn, nguyên chỉ huy Những ngày cuối tháng sáu, đến “đại bản doanh” của các nhà giàn DK1 đóng quân trưởng Nhà giàn DK1/14 ngày ấy. ở phường 11 Tp. Vũng Tàu, câu chuyện của “Lúc vỡ lốc máy và bị sóng đánh trôi những thế hệ cán bộ chiến sĩ đầu tiên ra chốt giữ nhà giàn không phải về những hi sinh dạt, chúng tôi nghĩ không chắc đã sống, vì thầm lặng hoặc những cống hiến lớn lao, mà sóng dữ quá. Nói thiệt, nếu không được tàu kể về những lần được giúp đỡ gạo, nước hải quân cứu hộ, chắc chắn chúng tôi bỏ ngọt, muối ăn, cấp thuốc miễn phí cho ngư mạng rồi, đâu được về gặp vợ con nữa”. dân gặp nạn trên biển. Ông Đặng Văn Ban Thượng tá Nguyễn Thế Dĩnh, Chính trị Thiếu tá Đoàn kể: Một trưa tháng 4/2001, trong khi chúng tôi ăn cơm trưa viên Tiểu đoàn DK1 bảo: “Bây giờ bà con xong thì chiến sĩ quan sát báo cáo có 2 mục tiêu lạ hướng Đông Bắc đang tiến vào nhà ngư dân đối với chúng tôi là người thân giàn. Mở radar quan sát, thì đó là hai ghe trong nhà. Ngoài nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền ngư dân. Theo kinh nghiệm, tôi nhận định vùng biển của Tổ quốc, giúp đỡ bà con ngư chắc chắn trên ghe có người gặp nạn. Tất cả dân khi gặp hoạn nạn khó khăn là mệnh lệnh chúng tôi không nghỉ trưa, hướng mắt về 2 từ trái tim. Chính từ sự giúp đỡ gắn bó ấy, đã ghe đang lao nhanh về nhà giàn chờ đợi. giúp cho bà con ngư dân rất yên tâm ra khơi Lệnh y sĩ chuẩn bị cấp cứu tại chỗ. bám biển”. Hơn một giờ sau, 2 ghe cá đã tiến sát nhà Câu chuyện xúc động về hai ngư dân giàn và phát tín hiệu xin được cấp cứu. Sóng Quảng Ngãi đã chết lâm sàng được cán bộ lừng, chiếc ghe tròng trành chao đảo. Chúng chiến sĩ nhà giàn Tư Chính 5 (DK1/14) cứu tôi chạy xuống sàn cập tàu, tung dây mồi. sống tháng 4/2001 vẫn in đậm trong ký ức Một người đàn ông trạc hơn 50 tuổi nói: “Các chú ơi, xin cứu chúng tôi với”. Ông chỉ 106

kịp nói như thế rồi òa khóc. 2 ngư dân bị nạn khỏe hẳn mới rời nhà giàn đi đánh cá. nhanh chóng được cõng lên nhà giàn. Đại úy Bữa cơm chiều thân mật hôm đó giữa chuyên nghiệp y sĩ Nguyễn Phương Đông cán bộ chiến sĩ nhà giàn DK1/14 với ngư dân nhanh chóng sơ cứu và chẩn đoán cho biết, có thêm món chả cá thu do các ngư dân làm. cả 2 ngư dân bị ngất vì tắc tiểu, nguy cơ vỡ Ông Út đề nghị: “Từ hôm nay, chúng tôi xin bàng quang và tử vong cao. Trong đó có một được kết nghĩa với nhà giàn DK1/14 được người đã có dấu hiệu chết lâm sàng. không? Mỗi lần đi biển, chúng tôi lại tới”. Khẩn cấp vô trùng các thiết bị y tế, vừa Đại úy Nguyễn Văn Đoàn, Chỉ huy trưởng hô hấp nhân tạo và nhanh chóng luồn ống nhà giàn khi ấy bảo “Các anh cứ yên tâm, thông tiểu. 1 phút, 2 phút trôi qua, nước tiểu mỗi nhà giàn là một điểm tựa để ghe tàu ra không dẫn được ra ngoài, bệnh nhân bắt đầu đánh bắt hải sản. Bên cạnh bảo vệ chủ quyền co giật, mắt trợn ngược, mạch chủ không tìm Tổ quốc, chúng tôi còn có nhiệm vụ bảo vệ thấy. Trước tình hình nguy cấp ấy, y sĩ Đông ngư dân nữa. Lúc nào chúng tôi cũng coi ngư đã dùng miệng của mình hút nước tiểu của dân như người thân trong nhà”. người bệnh ra qua ống thông tiểu. Máu và Từ vụ cứu 2 ngư dân năm 2001, các nhà nước tiểu lẫn lộn được hút ra ngoài, cùng hô giàn DK1 có tên mới là “Nhà tình nghĩa”. hấp nhân tạo, xoa bóp lồng ngực, bệnh nhân Theo lý giải của các ngư dân, gọi như thế để đã qua cơn nguy kịch. Sau hơn 3 giờ tận tình thể hiện tình cảm gắn bó giữa quân và dân. cấp cứu, chăm sóc, 2 ngư dân đã tỉnh lại. Cứu dân mệnh lệnh không lời Câu đầu tiên họ nói trong nước mắt là “Xin Cho đến bây giờ sau hơn 7 tháng được cảm ơn các anh bộ đội!”. cán bộ chiến sĩ tàu HQ - 608 của Hải đội 812 Để tỏ lòng biết ơn, ông Dương Văn Út Vùng 2 Hải quân cứu hộ, ông Huỳnh Ly vẫn ngỏ lời gửi lại tiền thuốc và công chữa bệnh, chưa hết bàng hoàng về sự cố gặp nạn. “Khi nhưng chúng tôi không nhận, ngược lại còn đang cào cá, bỗng dưng tàu không chạy nữa hỗ trợ mỗi ghe 2 khối nước ngọt, 10 kg và chao đảo. Giữa đêm đen, sóng to gió lớn, muối. Đối với 2 ngư dân gặp nạn, mỗi người tui bàng hoàng tưởng lật tàu” - ông Ly đưa được cấp 3 ngày thuốc miễn phí và 2 hộp sữa tay lên ngực mình nhớ lại. bồi dưỡng sức khỏe. Ông Út đem 2 bịch cá Sự việc tàu trôi dạt trên biển được ông tươi và xin ở lại một đêm cho 2 ngư dân kể lại. Tàu cá của ông đi đánh bắt trên vùng biển đảo Trường Sa hôm 15/10/2013. Sau 13 ngày đánh bắt cá ở khu vực này, đến ngày 28/10 thì gặp sự cố. Tàu đang hoạt động bình thường bỗng dưng “khực khực” nơi khoang máy chính và có mùi khét, khói bốc lên từ hầm tàu. Tài công của tàu là ông Huỳnh Hút (em trai ông Huỳnh Ly) vội chạy xuống hầm máy thì phát hiện máy đã vỡ ly hợp. Giữa đêm tối Nhà giàn DK1, điểm tựa của ngư dân đánh bắt xa bờ mịt mùng, làm cách nào đây để tàu tiếp tục 107

hành trình trong khi cơn bão số 13 đang ngày giàn DK1 chuẩn bị sẵn sàng thang dây, thả một mạnh dần, sóng gió bắt đầu nổi lên? Đèn dây mồi, áo phao kéo ngư dân. nạp ắc qui được huy động, mọi người tập trung khắc phục máy. Sau 7 giờ hải trình khẩn cấp tàu HQ-608 phát hiện tàu cá KH-92116 đang trôi dạt phía Sau hơn 4 giờ vật lộn dưới hầm tàu, Đông cách nhà giàn Tư Chính 4 (DK1/11) ông Hút nói vọng lên: “Không khắc phục 39 hải lý. Dưới sự chỉ huy của thuyền được, bó tay rồi”. Không thể bỏ mạng giữa trưởng, tàu HQ-608 tăng tốc. Lúc 3 giờ sáng biển, ông Ly lên máy I-com sóng ngắn kêu ngày 7/11, cán bộ chiến sĩ tàu HQ-608 đã cứu và bắn tín hiệu, nhưng do sóng to gió tiếp cận được tàu cá ngư dân. Công việc lớn, tín hiệu không bắt được. Nước biển trước mắt là áp sát, chuyển những ngư dân tràn vào khoang máy chính, 11 thuyền viên sức khỏe yếu sang tàu HQ-608, liên lạc với trên tàu hoảng sợ. Ngày thứ nhất trôi qua, nhà giàn chuyển 3 ngư dân bị tai nạn lên đến ngày thứ hai toàn bộ thông tin liên lạc giàn cấp cứu, chăm sóc sức khỏe. bị tê liệt vì không có điện để nạp ắc qui. Gạo, muối, mì tôm bị sóng biển đánh ướt. Ông Đặng Văn Ban là ngư dân trên tàu Máy định vị không có tác dụng. Từ ngày cá vẫn chưa hết lo sợ: “Tui làm nghề biển và 31/10 đến 6/11, tàu trôi tự do trên vùng đi theo tàu này gần 10 năm nay, chưa lần nào biển Trường Sa đến bãi Cạn Tư Chính 4 lại gặp sự cố như lần này. Lúc vỡ lốc máy và (DK1). Trong thời gian ấy, 11 ngư dân trên bị sóng đánh trôi dạt, chúng tôi nghĩ không tàu ăn gạo sống và mì tôm. chắc đã sống, vì sóng dữ quá. Nói thiệt, nếu không được tàu hải quân cứu hộ, chắc chắn Chiều ngày 6/11/2013, radar của nhà chúng tôi bỏ mạng rồi, đâu được về gặp vợ giàn Tư Chính 3 phát hiện phía Bắc cách 47 con nữa”. hải lý có “mục tiêu lạ”. Lệnh báo động trực canh quan sát ba nhà giàn Tư Chính 3, Tư Hạnh phúc nhân đôi Chính 4, Tư Chính 5 được triển khai. “Mục 11 giờ 30 phút ngày 9/11/2013, tàu HQ- tiêu lạ” rút gần khoảng cách khi những đợt 608 đã lai dắt tàu cá KH-92116 cập cảng hải sóng lừng đẩy về phía nhà giàn. đội 812 Vùng 2 Hải quân (Phường 11 - Vũng Tàu). Đón 11 ngư dân thoát nạn trở về, có Qua ống kính TZK, chiến sĩ Nguyễn đông đảo cán bộ chiến sĩ khối hải đội 812, cơ Văn Bảy từ nhà giàn Tư Chính 3 phát hiện quan chức năng của Bộ Tư lệnh Vùng 2 Hải báo cáo, đó là ghe cá ngư dân trôi tự do không rõ số hiệu, trên nóc ca pin treo cờ hiệu quân và phóng viên báo chí. cấp cứu. Ngay lập tức, thông tin nhà giàn Đại tá Trương Công Thế, Phó chính ủy Bộ được kết nối với tàu HQ-608 đang trực cách 80 hải lý về phía Bắc, khẩn trương cơ động Tư lệnh Vùng biểu dương tinh thần cứu nạn, về nhà giàn Tư Chính 4 cứu hộ tàu cá ngư cứu hộ của cán bộ chiến sĩ nhà giàn DK1 và dân. Vật lộn sóng to gió lớn, tàu HQ-608 tàu HQ-608. Trong niềm xúc động thoát nạn, tăng tốc 25 hải lý /giờ. Máy thông tin liên lạc ông Huỳnh Ly nắm chặt tay đại tá Thế, nói: mở tần số 16A 24/24 gọi ghe cá bị nạn. Nhà “Cảm ơn các anh bộ đội hải quân. Có các anh chúng tôi như được sinh ra lần nữa. Nước mắt rưng rưng, ông nhìn ra hướng biển. 108

Nhận được tin tàu của chồng bị nạn, chị biển. May mà có tàu của bộ đội Hải quân Lê Thị Bồng, 53 tuổi (vợ của thuyền trưởng cứu vớt, gia đình tui rất biết ơn các anh. Ly) tức tốc bắt xe đò từ Khánh Hòa vào. Hôm nay tui có hai niềm hạnh phúc. Một là Trên cầu cảng Hải đội 812, chị nóng lòng ông xã nhà tui sống trở về, hai là thêm thấu luôn dõi mắt về phía biển chờ đón tàu về. hiểu tấm lòng nhân ái vì dân của bộ đội hải Mắt đỏ hoe, chị nói với chúng tôi: “Gia đình quân”. Trước đông người và phóng viên báo tui có 4 con, anh nhà đi nghề cá 20 năm nay rồi, nhưng đây là lần đầu tiên bị tai nạn trên http://www.tienphong.vn Báo Tiền phong 3. VỊNH BẮC BỘ 109

1. Khái quát về Vịnh Bắc Bộ - Diện tích Vịnh Bắc Bộ khoảng 12.250km2 (30.000 hải lí vuông), chiều ngang rộng nhất là 310 km (176 hải lí), nơi hẹp nhất ở cửa vịnh rộng 220km (119 lí). - Vịnh được bao bọc bởi bờ biển của hai nước Việt Nam và Trung Quốc. Bờ biển phía Nam Việt Nam dài khoảng 763km chạy qua 10 tỉnh, thành phố (Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị). Bờ biển phía Trung Quốc dài khoảng 695km, chạy qua hai tỉnh Quảng Tây và Hải Nam. Phía Việt Nam có hàng nghìn đảo ven bờ, đặc biệt có quần đảo Bạch Long Vĩ nằm gần giữa vịnh. Phía Trung Quốc có một số đảo nhỏ phía đông bắc vịnh như đảo Vị Châu, Tà Dương. 2. Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ là thoả hiệp ký ngày 25 tháng 12 năm 2000 giữa chính phủ nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tại Bắc Kinh nhằm xác định biên giới lãnh hải, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế trong Vịnh Bắc Bộ. Đây là kết quả sau nhiều đợt đàm phán kể từ năm 1973. Hiệp định này thay thế Công ước Pháp - Thanh 1887. Việc phân định biên giới vùng Vịnh Bắc Bộ từ cuối thế kỷ 19 đã chiếu theo Công ước Pháp - Thanh 1887 ký kết giữa Pháp, nhân danh triều đình nhà Nguyễn ở Bắc Kỳ và nhà Thanh. Mục đích chính là phân định phần địa giới. Công ước đó đúng ra không ấn định lãnh hải mà chỉ đặt ra đường cơ sở (đường kinh tuyến đông 105 độ 43 phút Paris) để quyết định quyền sở hữu các hải đảo ngoài biển. Tuy nhiên chính phủ Việt Nam coi đường cơ sở đó tương đương với đường biên giới lãnh hải. Quan điểm này chính quyền Bắc Kinh phản bác, không công nhận. Năm 1974 Việt Nam thúc đẩy việc phân định. Việc điều đình diễn ra trong ba đợt: 1974, 1977-1978, 1992-2000; hai đợt đầu gặp bế tắc khi quan hệ Hà Nội - Bắc Kinh ở tình thế xung đột, không giải quyết được. Mãi đến sau khi bình thường hóa bang giao (1991) mới có đồng thuận chung vào năm 1993 để tiến tới Hiệp định. Ngày 25 tháng 12 năm 2000, Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ đã được ký kết. Hiệp định này gồm có 11 điều khoản với những nội dung chính là: - Khẳng định nguyên tắc chỉ đạo công việc phân định là: tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, cùng tồn tại hoà bình; củng cố và phát triển mối quan hệ láng giềng hữu nghị truyền thống giữa 2 nước, giữ gìn sự ổn định và thúc đẩy sự phát triển của vịnh Bắc Bộ; thông cảm, nhân nhượng lẫn nhau, hiệp thương hữu nghị, giải quyết một cách công bằng hợp lý. - Xác định phạm vi phân định và xác định đường phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa 2 nước trong vịnh Bắc Bộ đi qua 21 điểm có tọa độ địa lý xác định, nối các đoạn thẳng với nhau. Theo đó, Việt Nam được 53,23% diện tích vịnh, Trung Quốc được 46,77% diện tích vịnh. Việt Nam được hưởng hơn Trung Quốc 6,46% diện tích vịnh, tức khoảng 8.205 km2. Điều II xác định 21 điểm nối tuần tự từ cửa sông Bắc Luân ra đến cửa Vịnh chia Vịnh Bắc Bộ ra làm hai. Cửa Vịnh lấy đường thẳng từ đảo Cồn Cỏ, tỉnh Quảng Trị, Việt Nam đến mũi Oanh Ca, đảo Hải Nam, Trung Hoa. 110

Điểm 01: vĩ độ 21°28'12\".5 Bắc, kinh độ 108°06'04\".3 Đông 21°28′12,5″B 108°06′4,3″Đ Điểm 02: vĩ độ 21°28'01\".7 Bắc, kinh độ 108°06'01\".6 Đông 21°28′1,7″B 108°06′1,6″Đ Điểm 03: vĩ độ 21°27'50\".1 Bắc, kinh độ 108°05'57\".7 Đông 21°27′50,1″B 108°05′57,7″Đ Điểm 04: vĩ độ 21°27'39\".5 Bắc, kinh độ 108°05'51\".5 Đông 21°27′39,5″B 108°05′51,5″Đ Điểm 05: vĩ độ 21°21'28\".2 Bắc, kinh độ 108°05'39\".9 Đông 21°21′28,2″B 108°05′39,9″Đ Điểm 06: vĩ độ 21°27'23\".1 Bắc, kinh độ 108°05'38\".8 Đông 21°27′23,1″B 108°05′38,8″Đ Điểm 07: vĩ dộ 21°27'08\".2 Bắc, kinh độ 108°05'43\".7 Đông 21°27′8,2″B 108°05′43,7″Đ Điểm 08: vĩ độ 21°16'32\" Bắc, kinh độ 108°08'05\" Đông 21°16′32″B 108°08′5″Đ Điểm 09: vĩ độ 21°12'35\" Bắc, kinh độ 108°12'31\" Đông 21°12′35″B 108°12′31″Đ Điểm 10: vĩ độ 20°24'05\" Bắc, kinh độ 108°22'45\" Đông 20°24′5″B 108°22′45″Đ Điểm 11: vĩ độ 19°57'33\" Bắc, kinh độ 107°55'47\" Đông 19°57′33″B 107°05′47″Đ Điểm 12: vĩ độ 19°39'33\" Bắc, kinh độ 107°31'40\" Đông 19°39′33″B 107°31′40″Đ Điểm 13: vĩ độ 19°25'26\" Bắc, kinh độ 107°21'00\" Đông 19°25′26″B 107°21′0″Đ Điểm 14: vĩ độ 19°25'26\" Bắc, kinh độ 107°12'43\" Đông 19°25′26″B 107°12′43″Đ Điểm 15: vĩ độ 19°16'04\" Bắc, kinh độ 107°11'23\" Đông 19°16′4″B 107°11′23″Đ Điểm 16: vĩ độ 19°12'55\" Bắc, kinh độ 107°09'34\" Đông 19°12′55″B 107°09′34″Đ Điểm 17: vĩ độ 18°42'52\" Bắc, kinh độ 107°09'34\" Đông 18°42′52″B 107°09′34″Đ Điểm 18: vĩ độ 18°13'49\" Bắc, kinh độ 107°34'00\" Đông 18°13′49″B 107°34′0″Đ Điểm 19: vĩ độ 18°07'08\" Bắc, kinh độ 107°37'34\" Đông 18°07′8″B 107°37′34″Đ Điểm 20: vĩ độ 18°04'13\" Bắc, kinh độ 107°39'09\" Đông 18°04′13″B 107°39′9″Đ Điểm 21: vĩ độ 17°47'00\" Bắc, kinh độ 107°58'00\" Đông 17°47′0″B 107°58′0″Đ Điểm 1 đến 9 phân định lãnh hải; điểm 9 đến 21 chia vùng đặc quyền kinh tế. Hiệp định được ký bởi đại diện toàn quyền hai nước là Nguyễn Dy Niên (Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam) và Đường Gia Triền (Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc) tại Bắc Kinh vào ngày 25 tháng 12 năm 2000. Việc ký kết Hiệp định này mở ra một trang mới trong lịch sử quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. Lần đầu tiên, giữa Việt Nam và Trung Quốc đã có một đường biên giới biển rõ ràng, bao gồm biên giới lãnh hải, ranh giới vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa 2 nước trong vịnh Bắc Bộ có giá trị quốc tế, được hai bên cùng thoả thuận dựa theo nguyên tắc do Công ước Luật Biển của LHQ năm 1982 quy định. Ngày 15 tháng 6 năm 2004, Quốc hội Việt Nam khoá XI thông qua hiệp định và lễ trao đổi văn kiện thư phê chuẩn Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ diễn ra ngày 30 tháng 6 năm 2004. - Hai bên cam kết tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của mỗi bên đối với lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ được xác định theo Hiệp định. - Đối với tài nguyên, Hiệp định quy định rõ trong trường hợp có các cấu tạo dầu mỏ, khí tự nhiên hoặc tài nguyên khoáng sản khác nằm vắt ngang đường phân định, hai bên sẽ thông qua bàn bạc, đàm phán hữu nghị để thoả thuận về việc khai thác cũng như việc phân chia công bằng lợi ích thu được từ việc khai thác tài nguyên nói trên. 111

- Hai bên đồng ý hiệp thương về việc sử dụng hợp lí và phát triển bền vững tài nguyên sinh vật, hợp tác bảo tồn, quản lí và sử dụng tài nguyên sinh vật ở vùng đặc quyền kinh tế của hai nước trong Vịnh Bắc Bộ. - Hai bên cam kết mọi tranh chấp liên quan đến việc giải thích và thực hiện Hiệp định được giải quyết hoà bình, hữu nghị thông qua thương lượng. - Ngoài ra, việc phân định Vịnh Bắc Bộ giữa hai nước theo Hiệp định này không ảnh hưởng hoặc phương hại đến lập trường của mỗi bên đối với các qui định luật pháp quốc tế về biển. Theo đường phân định, Việt Nam được hưởng 53,23%, Trung Quốc được hưởng 46,77% diện tích vịnh. http://vi.wikipedia.org Bách khoa toàn thư 4. VỊNH THÁI LAN 112

- Nằm ở Tây Nam biển Đông, được bao bọc bởi bờ biển Việt Nam, Campuchia, Thái Lan, Malaixia - Diện tích khoảng 293.000km2, chu vi khoảng 2.300km. - Là một vịnh nông, nơi sâu nhất khoảng 80 mét. - Đảo Phú Quốc trong Vịnh là đảo lớn nhất của Việt Nam, diện tích 567km2. - Có nhiều nguồn lợi hải sản (trữ lượng cá của Việt Nam khoảng 51 vạn tấn). Có tiềm năng dầu khí lớn: Việt Nam đã khai thác và hợp tác khai thác vùng chồng lấn với Malaixia. Hiệp định giữa chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam với chính phủ Vương quốc Thái Lan về phân định ranh giới giữa hai nước trong vịnh Thái Lan Xuất phát từ mong muốn củng cố quan hệ hữu nghị sẵn có giữa hai nước; Nhằm thiết lập đường ranh giới trên biển giữa hai nước trong Vịnh Thái Lan tại khu vực chồng lấn tạo bởi yêu sách thềm lục địa của hai nước; Đã thỏa thuận như sau: Điều 1. 1. Đường ranh giới trên biển giữa nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Vương quốc Thái Lan tại khu vực chồng lấn tạo bởi yêu sách thềm lục địa của hai nước là đường thẳng nối Điểm C và Điểm K được xác định theo vĩ độ và kinh độ dưới đây: Điểm C: Vĩ độ 07049'00\".0000 Bắc, Kinh độ 103002'30\".0000 Đông Điểm K: Vĩ độ 08046'54\".7754 Bắc, Kinh độ 102012'11\".5342 Đông 2. Điểm C là điểm cực Bắc của Vùng Phát triển chung được xác lập theo Thỏa thuận giữa Vương quốc Thái Lan và Malaysia về việc thành lập Cơ quan Quyền lực chung Khai thác Tài nguyên đáy biển trong khu vực Thềm lục địa chồng lấn giữa hai nước trong Vịnh Thái Lan, ký tại Chiêng Mai ngày 21 tháng 2 năm 1979, và đồng thời trùng với Điểm 43 của đường yêu sách thềm lục địa do Malaysia công bố năm 1979. 3. Điểm K là một điểm nằm trên đường ranh giới trên biển giữa nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Vương quốc Cămpuchia, tức là một đường thẳng cách đều giữa đảo Thổ Chu và đảo Vai vẽ từ điểm O (vĩ độ 09035'.00\".4159 Bắc và kinh độ 103010'15\".9808 Đông). 4. Tọa độ của các điểm xác định tại các Khoản nói trên là tọa độ địa lý tính toán trên Hải đồ của Anh số 2414 được đính kèm theo như một Phụ lục của Hiệp định này. Hệ tọa độ sử dụng để đo đạc và tính toán được xác lập trên Ellipsoid Everest-1830-Indian Datum. 5. Đường biên giới trên biển nêu tại Khoản 1 nói trên sẽ là đường ranh giới giữa thềm lục địa của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và thềm lục địa của Vương quốc Thái Lan, và cũng sẽ là đường ranh giới giữa vùng đặc quyền kinh tế của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và vùng đặc quyền kinh tế của Vương quốc Thái Lan. 113

6. Khi có yêu cầu của một trong hai Chính phủ, vị trí thực tế trên biển của các điểm C và K nói trên và của đường thẳng nối các điểm này sẽ được xác định theo phương pháp thỏa thuận giữa các chuyên gia đồ bản do hai Chính phủ chỉ định. Điều 2. Các Bên ký kết sẽ đàm phán với Chính phủ Malaysia để giải quyết khu vực thềm lục địa chồng lấn giữa 3 nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Vương quốc Thái Lan và Malaysia, khu vực này nằm trong Vùng phát triển chung được xác lập theo Thỏa thuận giữa Vương quốc Thái Lan và Malaysia về việc thành lập Cơ quan Quyền lực chung Khai thác Tài nguyên đáy biển trong Khu vực Thềm lục địa chồng lấn giữa Hai nước trong Vịnh Thái Lan, ký tại Chiêng Mai ngày 21 tháng 2 năm 1979. Điều 3. Các Bên ký kết công nhận và thừa nhận quyền tài phán và quyền chủ quyền của mỗi nước đối với vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế theo đường ranh giới trên biển được xác lập bởi Hiệp định này. Điều 4. Trong trường hợp có một cấu tạo mỏ dầu hoặc khí tự nhiên, hoặc các mỏ khoáng sản khác nằm vắt ngang đường ranh giới nêu tại Khoản 1 Điều 1, Các Bên sẽ thông báo cho nhau mọi thông tin liên quan và thỏa thuận về cách thức khai thác hữu hiệu nhất các cấu tạo hoặc mỏ nói trên, lợi nhuận thu được từ việc khai thác sẽ được phân chia công bằng. Điều 5. Mọi tranh chấp giữa Các Bên ký kết liên quan đến việc giải thích và áp dụng Hiệp định này sẽ được giải quyết một cách hòa bình thông qua đàm phán hoặc thương lượng. Điều 6. Hiệp định này sẽ có hiệu lực vào ngày trao đổi Văn kiện Phê chuẩn hoặc Phê duyệt, phù hợp với thủ tục luật pháp của mỗi nước. Để làm bằng, các đại diện được ủy quyền hợp thức của hai Chính phủ đã ký Hiệp định này. Hiệp định này làm tại Băng-cốc ngày 9 tháng 8 năm 1997 thành hai bản bằng tiếng Việt, tiếng Thái và tiếng Anh. Trong trường hợp có sự khác biệt giữa các văn bản, bản tiếng Anh sẽ được dùng làm căn cứ. THAY MẶT CHÍNH PHỦ THAY MẶT CHÍNH PHỦ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VƯƠNG QUỐC THÁI LAN BỘ TRƯỞNG BỘ NGOẠI GIAO BỘ TRƯỞNG BỘ NGOẠI GIAO Nguyễn Mạnh Cầm Pracuab Chaiyasan http://www.thuvienphapluat.vn Trang Thư viện pháp luật 114

5. ĐẢO LÝ SƠN Lịch sử hình thành Lý Sơn của núi lửa đã tạo nên những cảnh quan thiên Lý Sơn trước đây được gọi là cù lao Ré nhiên kỳ thú trên đảo. Chúng còn trải trên bề mà theo cách lý giải của dân gian là “cù lao mặt đảo ở phía nam một lớp đất bazan màu có nhiều cây Ré”. Là huyện đảo duy nhất của mỡ thích hợp cho nhiều loại cây trồng, đồng Quãng Ngãi, nằm về phía Đông Bắc, cách thời còn tạo nên những rạng đá ngầm là điều đất liền 15 hải lý. kiện tốt cho các loài thủy tộc sinh sống. Vào cuối kỷ Neogen (là một kỷ địa chất của đại Tân Sinh) đầu đệ tứ, cách ngày nay Kết quả khai quật, nghiên cứ khảo cổ khoảng 25-30 triệu năm, đảo Lý Sơn được gần đây cho thấy cách đây khoảng 3000 hình thành di sự kiến tạo địa chấn với sự năm, cư dân thời tiền sử thuộc văn hóa Sa phun trào nham thạch của núi lửa. Hiện nay Huỳnh đã cư trú trên đảo Lý Sơn. Họ sống trên đảo có 5 hòn núi đều là chứng tích của quần cư dọc theo hai dòng suối nước ngọt cổ núi lửa đã phun trào. Sự phun trào và tắt đi (suối Ốc và suối Chình). Kinh tế chủ yếu của 115

họ là khai thác biển, món ăn truyền thống là tách Lý Sơn ra khỏi huyện Bình Sơn để thành lập một huyện mới thuộc tỉnh Quảng sò ốc và cá. Ngãi. Ngày 01/01/1993 huyện Đảo Lý Sơn Kế tục văn hóa Sa Huỳnh là văn hóa chính thức được thành lập theo Quyết Định số 337/HĐBT của Hội Đồng Bộ Trưởng Chăm pa - phát triển từ những thế kỷ đầu (nay là Chính Phủ). công nguyên. Vết tích văn hóa vật chất của họ được để lại qua các dấu tích chứa trong Vai trò quan trọng đặc biệt của Hải Đảo Lý Sơn về kinh tế - xã hội và chiến lược an tầng văn hóa lớp trên của di chỉ Xóm Ốc và ninh quốc phòng đuợc khẳng định. Đó là sự Suối Chình. kiện đánh dấu một mốc son lịch sử đối với Lý Sơn. Từ đây, mở ra cho cán bộ, chiến sĩ Cư dân Việt đến khai khẩn làng mạc trên và nhân dân Lý Sơn một giai đoạn cách đảo vào khoảng cuối thế kỷ XVI - đầu thế kỷ mạng mới, giai đoạn xây dựng và bảo vệ XVII. Họ là những ngư dân vùng An Hải, Sa Huyện Đảo Tiền Tuyến của Tổ Quốc Việt Kỳ của huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh. Bao gồm Nam Xã Hội Chủ Nghĩa. 15 ông tiền hiền của 15 dòng họ lớn, họ di cư ra đảo phân chia khu vực cư trú ở phía đông Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên và phía tây đảo Lý Sơn. Trong buổi đầu ấy, nhiên - Huyện Đảo Lý Sơn người Việt trong công cuộc khai phá lập làng đã gặp không ít khó khăn về thời tiết, khí hậu Lý Sơn là huyện đảo duy nhất của và nạn giặc Tàu Ô. Đến nay, một số di tích Quảng Ngãi, nằm về phía Đông Bắc, cách còn lưu lại đã phản ánh sự chống chọi kiên đất liền 15 hải lý (tính từ cảng Sa Kỳ ra). cường với giặc Tàu Ô để bảo vệ đảo của Toàn huyện có 02 đảo: Đảo Lớn (còn gọi là người dân Lý Sơn: miếu Nàng Roi, chùa Cù Lao Ré) và Đảo Bé (Cù Lao Bờ Bãi), Hang, sự tích đánh giặc Tàu Ô của ông gồm 03 xã: An Vĩnh, An Hải và An Bình Nguyễn Văn Tuất,… (Đảo Bé). Diện tích tự nhiên gần 10km2. Dân số trên 21.000 nguời, có khoảng 60% Lịch sử đảo Lý Sơn còn gắn liền với các hộ dân sống bằng nghề biển, 30% hộ dân khối cộng đồng cư dân khác đã sinh sống sống bằng nghề nông (chủ yếu là trồng trên đảo từ hàng nghìn năm trước. Ba lớp cư hành, tỏi, ngô) và 10% hộ dân sống bằng dân Sa Huỳnh - Chăm pa - Việt đã gắn bó các ngành nghề khác. chặt chẽ với sự hình thành và phát triển của đảo Lý Sơn. Họ đã bảo vệ chủ quyền hòn Lý Sơn nằm trên con đường biển từ Bắc đảo và để lại nhiều di sản văn hóa vô cùng vào Nam và nằm ngay cửa ngõ của Khu giá trị đến nay vẫn được bảo tồn và phát huy. 116 Vào những năm đầu thập kỷ 90, các thế lực thù địch ngoài nước và bọn phản động trong nước tập trung đánh phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc của nhân dân ta quyết liệt. Trong bối cảnh đó Đảng và Chính Phủ ta nghiêm túc phân tích và đánh giá đầy đủ vị trí chiến lược quan trọng của Đảo Lý Sơn trên vùng biển Việt Nam và chủ trương

Kinh Tế Dung Quất cũng như của cả khu Chính những địa hình vách dốc này đã tạo cho đảo những nét hùng vĩ có giá trị về tham vực kinh tế trọng điểm miền Trung. Vị thế quan, du lịch. Huyện đảo Lý Sơn nằm trên thềm lục địa có độ sâu trung bình dao động này của Lý Sơn đã đưa huyện đảo trở thành 50-60m. đơn vị hành chính tiền tiêu của đất nước, có Về mặt địa hình là đồng bằng tích tụ - vai trò đảm bảo an ninh chủ quyền quốc gia mài mòn nghiêng thoải bị chia cắt bởi các máng trũng với độ sâu khác nhau. Điểm sâu trên biển, đồng thời có nhiều điều kiện để nhất trong lãnh thổ huyện là 120m, ở phía Đông. Địa hình đáy biển phân bậc rõ ràng, do đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội vậy có thể sử dụng làm cầu cảng và tổ chức các hoạt động thể thao mạo hiểm trên biển. trong những năm tới. Kinh tế Địa Hình Kể từ khi thành lập đến nay, kinh tế của Địa hình của Lý Sơn nhìn chung tương huyện tăng trưởng liên tục với tốc độ khá đối bằng phẳng, không có sông ngòi lớn (chỉ cao. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân có một số suối nhỏ được hình thành vào mùa hằng năm từ 11,5 đến 12%. Tổng giá trị sản mưa) và có độ cao trung bình từ 20-30m so xuất các ngành kinh tế (nông, ngư, công với mực nước biển. nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thương mại Trên địa bàn huyện có 5 hòn núi dạng dich vụ) năm 2009 đạt 354.400 triệu đồng, bát úp được hình thành do hoạt động của núi tăng 3,8 lần so với năm 1993. Trong đó: lửa trong đó cao nhất là núi Thới Lới - Tổng giá trị thủy sản năm 2009 đạt (169m). Xung quanh các chân núi, địa hình 174.566 triệu đồng, tăng gần 7 lần so với có dạng bậc thềm, độ dốc từ 8° đến 15°. năm 1993. Dạng địa hình nguồn gốc núi lửa chiếm tới - Doanh thu ngành thương mại dịch 70% diện tích đảo. Theo địa hình thái nguồn vụ từ năm 2009 đạt 143.951 triệu đồng, tăng gốc được chia thành: sườn vòm núi lửa, sườn gấp 5,9 lần so với 1993. họng núi lửa, đáy họng núi lửa và bề mặt lớp - Tổng giá trị sản xuất ngành nông phủ bazan. Đây là những đối tượng quan nghiệp năm 2009 đạt 15.556 triệu đồng, tăng trọng để bố trí các công trình xây dựng, đồng gấp 3,2 lần so với 1993. thời là những điểm tham quan thiên nhiên - Tổng giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu rấn ngoạn mục của các tuyến du lịch biển - thủ công nghiệp năm 2009 dạt 20.327 triệu đảo Lý Sơn. đồng, tăng gấp 4,3 lần so với năm 1993. Nhóm dạng địa hình nguồn gốc biển - Tổng thu nhập bình quân đầu gồm các dạng: vách mái vòm - bóc mòn, người năm 1993 là 2,7 triệu đồng/người/năm vách mái mòn, bãi biển mài mòn, bãi biển đến năm 2009 tăng lên 7,8 triệu đồng/nguời/năm. mài mòn - tích tụ. Bãi biển mài mòn tích tụ Như vậy, thu nhập bình quân đầu người năm và thềm tích tụ làm thành một đồng bằng 2009 tăng gần gấp 3 lần so với năm 1993. bằng phẳng, nghiêng thoải, hơi lượn sóng, độ - Tỷ trọng các ngành kinh tế chủ yếu của dốc dưới 8°, thích hợp cho sản xuất nông huyện năm 2009 là: ngành nông - lâm - ngư nghiệp và bố trí dân cư. Đây chính là những nghiệp chiếm 5,17%; thuơng mại dịch vụ vùng tập trung dân cư và là địa bàn sản xuất nông nghiệp trọng điểm của huyện. 117 Địa hình bờ biển của huyện phần lớn là các vách và hốc sóng vỗ bờ tạo nên các hốc hang khá đẹp (Hang Câu, Chùa Hang…)

chiếm 40,6%; công nghiệp - tiểu thủ công thuyền. Tuy nhiên lĩnh vực nuôi trồng chưa nghiệp chiếm 7,7%. được quan tâm đầu tư. - Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng * Công Nghiệp - Tiểu Thủ Công tăng tỷ trọng ngư nghiệp, dịch vụ - thương Nghiệp (TTCN) mại, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp. Hiện nay, toàn huyện có 241 cơ sở sản xuất công nghiệp - TTCN, chú trọng các - Thu ngân sách hằng năm đều đạt và ngành nghề huyện có thế mạnh như: sản xuất vượt kế hoạch. Tổng thu ngân sách nhà nước đá lạnh, sơ chế hải sản, khai thác đá xây trên địa bàn năm 1993 đạt 347,3 triệu đồng dựng, may mặc, mộc dân dụng, chế biến đến năm 2009 đạt 2.201 triệu đồng tăng hơn nước mắm… nhưng vẫn còn manh mún, nhỏ 6 lần so với năm 1993. lẻ mang tính chất hộ gia đình chủ yếu chưa có cơ sở sản xuất nào có quy mô do thiếu * Nông Nghiệp nguồn điện, thiếu cơ sở hạ tầng để phát huy - Trồng trọt: sản phẩm chủ yếu là cây hành, thế mạnh của ngành. tỏi và ngô. Đây là 03 cây trồng chủ lực của huyện nhưng cung cấp ra thị trưởng dưới dạng * Thương mại, dịch vụ hàng thô chưa qua sơ chế. Ngoài ra còn trồng Trong những năm gần đây, kinh tế của một số loại rau - củ - quả - rau - đậu khác. huyện có những bước phát triển đáng kể, các - Chăn nuôi: chủ yếu là bò, dê, lợn, gà, hoạt động thương mại dịch vụ phát triển vịt nhưng chưa hình thành trang trại chăn tương đối nhộn nhịp. Toàn huyện có 625 cơ nuôi tập trung quy mô như các huyện khác sở sản xuất kinh doanh cá thể, doanh nghiệp mà chủ yếu là chăn nuôi theo hình thức hộ tư nhân cùng hợp tác xã đang hoạt động có gia đình. Số lượng gia súc, gia cầm hiện nay hiệu quả, góp phần đáng kể vào quá trình của huyện lên đến 6.000 con. phát triển KT-XH của huyện đảo. * Thủy Sản Tuy vậy, do đặc thù của huyện đảo cách Thủy sản là ngành kinh tế mũi nhọn của xa đất liền, hoạt động thương mại chủ yếu huyện quyết định thu nhập của hơn 50% cư lưu thông bằng đường thủy, nhưng vào mùa dân của huyện, sản lượng khai thác chiếm biển động đảo bị chia cắt thì việc cung ứng gần 1/3 tổng sản lượng khai thác của toàn hàng hóa từ đất liền ra đảo và ngược lại hết tỉnh nhưng chủ yếu tập trung lĩnh vực khai sức khó khăn. Hơn nữa, hệ thống thương thác thủy sản nước mặn với các hình thức mại, dịch vụ của huyện hầu như chưa phát như: lặn, câu, lưới cước, lưới trủ, lưới ru, vây triển, chủ yếu là các chợ nhỏ và các điểm ngày, vây đêm, rút chì, chong đèn… mang buôn bán nhỏ lẻ. Hiện nay, toàn huyện chỉ có lại hiệu quả kinh tế cao. Sản lượng đánh bắt 01 chợ huyện và 02 chợ xã chưa có Trung hải sản năm 2009 đạt 24.938 tấn, tăng gấp Tâm Thương Mại, siêu thị nên việc trao đổi, gần 5 lần so với năm 1993. mua bán hàng hóa của người dân còn gặp Hiện nay, toàn huyện có 402 chiếc tàu nhiều khó khăn. thuyền, tổng công suất là 30.418 CV. Bình quân hằng năm đóng mới được 16 chiếc tàu http://www.quangngai.gov.vn Cổng thông tin UBND Quãng Ngãi 118

Lý Sơn bừng sáng giữa biển Đông Ước mơ ngàn đời của người dân huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) có điện nay đã trở thành hiện thực. Mùa xuân 2015 - mùa xuân đầu tiên người dân nơi đây được đón Tết Nguyên đán với dòng điện lưới quốc gia. Giữa biển khơi chập chùng muôn ngàn sóng gió, dòng điện lưới quốc gia đã bừng sáng giữa biển Đông cùng với nhiều làn sóng đầu tư liên tiếp “cập bến” huyện đảo khiến niềm vui đầu năm mới của người dân Lý Sơn như được nhân lên gấp bội. Nhiều bước tiến mới các loại máy móc để phục vụ sản xuất khác. Anh Nguyễn Đình Giỏi, chủ cơ sở chế Từ lúc có điện đến nay và cả trước lúc có biến mộc dân dụng trên đảo Lý Sơn cho biết: điện, để đón đầu nguồn điện về đảo Lý Sơn, “Từ khi có điện lưới, anh mới mạnh dạn đầu nhiều doanh nghiệp, nhiều tổ chức cá nhân tư, sắm được nhiều máy móc công nghệ tiên đến đây đầu tư nhà hàng, khách sạn phục vụ tiến tại cơ sở. Bên cạnh đó, kinh phí sử dụng du lịch. Hoạt động dịch vụ hậu cần nghề cá điện ít hơn so với dùng dầu diesel để chạy của huyện đảo sau khi có điện cũng rất sôi máy nổ, nhờ đó cơ sở mộc của anh thường nổi. Đơn cử như xưởng đóng tàu thuyền trên hoạt động hết công suất, đem lại nhiều lợi huyện trước đây sử dụng máy nổ nên hoạt nhuận cho gia đình”. động rất cầm chừng, công suất sử dụng rất Ngoài anh Giỏi, các hộ trồng tỏi, hành thấp nhưng đến nay hoạt động gần như hết trên địa bàn huyện cũng rất vui mừng vì giờ công suất, kèm với đó các dịch vụ hậu cần đây họ không còn phải lo thức đêm để bơm nghề cá phát triển mạnh hơn\". nước, tưới cây khi họ có thể sử dụng hệ Không chỉ vậy, niềm vui được nhân lên thống tự động tưới nước ở ngoài đồng, vừa gấp bội khi huyện đảo đón nhận liên tiếp đỡ tốn công sức, lại tiết kiệm chi phí so với nhiều \"làn sóng\" đầu tư. Chủ tịch huyện Lý chạy máy phát điện. Sơn vui mừng cho biết, một số công ty, tập đoàn đã ra Lý Sơn khảo sát, tìm hiểu cơ hội Anh Phạm Như Lành, thôn Đông, xã An đầu tư. Cụ thể, Công ty cổ phần đầu tư phát Hải cho biết: Khi chưa có điện, nhà anh ít triển Đoàn Ánh Dương tìm vị trí để xây trang hoàng hơn, nhưng giờ có điện, gia đình dựng mô hình du lịch sinh thái, huyện đã cấp anh sắm sửa được nhiều trang thiết bị hơn khoảng 26 ha tại đảo lớn và đảo bé để công như tủ lạnh, tivi, bếp điện từ... Mong rằng ty này hoạt động. Tập đoàn Mường Thanh năm mới sẽ vui vẻ, phấn khởi và ấm áp hơn cũng đang nghiên cứu, tìm hiểu để xây dựng mọi năm trước. khách sạn tầm cỡ tại huyện đảo này. Ông Trần Ngọc Nguyên, Chủ tịch Mới đây, Bộ Tài nguyên và Môi trường UBND huyện Lý Sơn nhấn mạnh: \"Rõ ràng cũng đã đầu tư hơn 30,7 tỷ đồng để xây dựng nguồn điện là cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ nhà máy xử lý chất thải rắn trên địa bàn cho sinh hoạt, sản xuất. Trước mắt, đời sống huyện. Hiện nhà máy đang chuẩn bị đưa vào sinh hoạt cũng như văn hoá tinh thần của hoạt động. Ngoài ra, hàng loạt các dự án, người dân được nâng lên rõ rệt. Người dân công trình đã và đang được đầu tư trên huyện đã mua sắm các trang thiết bị nghe, nhìn để phục vụ văn hoá tinh thần cũng như mua sắm 119

đảo sẽ góp phần làm thay đổi diện mạo của ty sẽ tập trung khai thác, giới thiệu cho du khách trong và ngoài nước”. Lý Sơn trong nay mai. Để hòn ngọc sáng mãi giữa biển Đông Ông Trần Ngọc Nguyên chia sẻ, để Lý Lý Sơn đang vươn mình đánh thức Sơn thật sự là hòn đảo tiền tiêu của đất nước, ngoài những giải pháp, mục tiêu mà Đảng những lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và di bộ, chính quyền và nhân dân của huyện đã sản văn hóa vốn có. Ông Trần Ngọc Nguyên, xác định trong Nghị quyết của huyện uỷ, khẳng định: “Thời gian tới, Lý Sơn sẽ tập chính quyền sẽ cùng với tỉnh qui hoạch tổng trung khai thác tài nguyên biển, trong đó du thể huyện đảo Lý Sơn. Việc quy hoạch này lịch được xem là ngành mũi nhọn, then chốt sẽ do đơn vị nước ngoài thực hiện. Cùng với để Lý Sơn phát triển. Khai thác tài nguyên đó, huyện cũng tăng cường tuyên truyền, vận biển không chỉ dừng lại ở nguồn thuỷ sản động ngư dân, tổ chức, doanh nghiệp đăng phong phú, trữ lượng dầu khí dồi dào hay ký khoảng 20 “con tàu 67”, đây là những con các hoạt động vận tải biển mà còn là khai tàu dịch vụ hậu cần nghề cá và tàu có công thác, phát triển các dịch vụ du lịch, gắn với suất lớn đi đánh bắt thuỷ sản ở khơi xa. biển. Đây không chỉ mục tiêu phát triển kinh tế mà còn là chiến lược phát triển bền vững Huyện cũng đang thực hiện, sắp xếp để gắn với bảo vệ chủ quyền biển đảo”. quy hoạch lại khu vực hậu cần nghề cá theo hướng mở rộng và đa ngành nghề hơn, có thể Cùng với việc đưa điện lưới quốc gia cung cấp đầy đủ các sản phẩm đầu vào cũng bằng cáp ngầm xuyên biển, Chính phủ Việt như đầu ra cho ngư dân, cung cấp dịch vụ Nam cho phép Lý Sơn có những cơ chế, đóng, sửa chữa tàu thuyền. chính sách đặc thù vượt trội bước đầu đã thu hút nhiều doanh nghiệp đến với Lý Sơn. Bên cạnh đó, Lý Sơn cũng tiếp tục thực Tỉnh Quảng Ngãi cũng đang nỗ lực hoàn hiện theo Quyết định 1995/QĐ-TTg của Thủ thành các thủ tục hồ sơ để công nhận Lý Sơn tướng Chính phủ Về một số cơ chế, chính là di tích văn hoá lịch sử cấp Quốc gia đặc sách hỗ trợ phát triển huyện đảo Lý Sơn, tỉnh biệt, đồng thời lập hồ sơ đề nghị UNESCO Quảng Ngãi giai đoạn 2015 - 2020 về việc công nhận nơi đây là công viên địa chất toàn đầu tư một số dự án trọng điểm. Theo đó, cầu. Ông Đoàn Sung, Chủ tịch Hội đồng huyện sẽ tập trung xây dựng cảng cá Bến quản trị Công ty cổ phần đầu tư phát triển Đình, cảng giao thông Lý Sơn, hệ thống Đoàn Ánh Dương, đơn vị được cấp phép đầu đường giao thông trên đảo; hệ thống đê, kè tư, khai thác du lịch ở Lý Sơn cho biết: bảo vệ đảo; vũng neo đậu tàu thuyền Lý Sơn; “Công ty đang đề nghị được phối hợp với Sở trung tâm y tế quân, dân y kết hợp; quy Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tham hoạch phát triển du lịch trên đảo... gia bảo tồn biển, bảo tồn các rạn san hô, các địa chất địa mạo ở dưới biển. Đặc biệt, do \"Những kế hoạch, dự án của huyện Lý được dung nham núi lửa hình thành các tầng Sơn dù mới bắt đầu khởi động, nhưng với địa chất ở dưới lòng biển cùng với đó là hệ tiềm năng thực có và những quyết tâm của thống sinh vật biển sinh sống tại các hang Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện động rất phong phú tạo cho Lý Sơn một vẻ đảo Lý Sơn hi vọng rằng nơi đây - hòn đảo đẹp độc đáo. Bên cạnh đó, ở dưới nước khu tiền tiêu của cả nước sẽ mãi sáng giữa biển vực biển Lý Sơn còn hình thành hệ thống các Đông\", Chủ tịch UBND huyện Lý Sơn Trần hang động, cổng tò vò, các di tích tàu đắm. Ngọc Nguyên nhấn mạnh. Đây chính là điểm mạnh ở Lý Sơn mà công http://www.baotintuc.vn Báo Tin tức 120

PHẦN II BẢO VỆ BIỂN ĐẢO QUÊ HƯƠNG 121

122

“Sức mạnh mềm” của Việt Nam “Sức mạnh mềm” của Việt Nam từng được vận dụng vô cùng khéo léo trong các cuộc chiến chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước của cha ông ta hàng ngàn năm qua. Ngày nay, khái niệm “sức mạnh mềm” của Việt Nam lại được sử dụng khéo léo trong cuộc đấu tranh chống “đường lưỡi bò” rất gần gũi với quan điểm “dĩ đức phục nhân”, lấy đức để thu phục lòng người trong tư tưởng phương Đông. Trong lịch sử giữ nước, có thể coi Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là áng văn đỉnh cao thể hiện “sức mạnh mềm” của người Việt Nam với tư tưởng “Đem đại nghĩa thắng hung tàn; Lấy chí nhân thay cường bạo”. Trong Bình Ngô Sách dâng lên Lê Đó là một cách kết thúc chiến tranh độc đáo, sáng Lợi trình bày sách lược đánh đuổi tạo, sáng ngời nhân nghĩa gắn liền với chiến lược quân Minh, Nguyễn Trãi đã vạch ra hòa bình của ông cha ta. nền tảng tư tưởng cho toàn bộ quá GS Joshep Nye (cha đẻ của khái niệm “sức trình hình thành, phát triển và thắng mạnh mềm”) trả lời báo giới khi tới thăm Việt Nam lợi của khởi nghĩa Lam Sơn bằng năm 2007 đã từng nhận định, Việt Nam có nhiều chiến lược phối hợp nhịp nhàng ba thứ có thể thu hút, lôi kéo các quốc gia khác như sự mặt trận là chính trị, binh vận và nổi danh từ lịch sử đấu tranh giành độc lập bảo vệ ngoại giao, nêu cao chính nghĩa dân chủ quyền, sự chuyển đổi thành công sang một nền tộc và sức mạnh quyết định của nhân kinh tế có mức tăng trưởng ấn tượng... Ông cho dân để giành chiến thắng. Đó là kế rằng, những điều này đã giúp gia tăng “sức mạnh đánh vào lòng người, không xông trận mềm” của Việt Nam. Điểm hấp dẫn nhất của “sức mà vẫn khuất phục được đối phương mạnh mềm” Việt Nam hiện nay nằm ở tinh thần tự (Ngã mưu phạt nhi công tâm, bất chủ, độc lập dân tộc và phát triển kinh tế. Cũng chiến tự khuất). Chiến lược hòa bình theo GS Joshep Nye, văn hóa của Việt Nam luôn của ông cha ta được thể hiện một cách hấp dẫn, có sức lôi cuốn các nước phương Tây, nhuần nhuyễn trong cuộc kháng chiến điều này thật quan trọng vì “có 3 nguồn lực chính chống quân Minh của nghĩa quân Lam để tạo nên “sức mạnh mềm”: một là văn hoá quốc Sơn. Khi 10 vạn quân Vương Thông gia, hai là hệ giá trị quốc gia và ba là chính sách bị quân ta vây hãm ở thành Đông quốc gia”. Do điều kiện địa lý, Việt Nam trở thành Quan, nếu Lê Lợi và Nguyễn Trãi hạ chướng ngại tự nhiên của Trung Quốc trên con lệnh tấn công, chắc chắn quân giặc sẽ đường chiếm lĩnh Biển Đông để vươn ra Thái Bình bị tiêu diệt sạch. Nhưng tư tưởng “lấy Dương. Lịch sử dựng nước và giữ nước của cha chí nhân thay cường bạo”, bằng chiến ông ta đã để lại nhiều bài học quý giá và phù hợp lược hòa bình Lê Lợi và Nguyễn Trãi với thực tế khách quan của một đất nước khiêm chủ trương “dập tắt muôn đời chiến nhường buộc phải tồn tại và phát triển bên cạnh tranh - mở nền thái bình muôn thuở” một người hàng xóm khổng lồ và đầy tham vọng. đã mở đường cho quân Minh rút về Ngày nay, trước sự xuất hiện của một siêu cường nước với Hội thề Đông Quan lịch sử, Trung Quốc đang lên, tham vọng bành trướng và kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến. cách hành xử hung hăng của họ trong thời gian gần 123

đây đã gây quan ngại sâu sắc cho cộng tế là vấn đề tổng số lực lượng quân sự của đối đồng thế giới, đặc biệt là tình hình an phương và vấn đề lực lượng tại chỗ của ta là hai ninh và tự do hàng hải trên Biển vấn đề khác nhau, không thể đơn thuần dùng số Đông. Tuy nhiên, thực tế đó, theo các lượng đo đếm mạnh - yếu của nhau để luận thế nhà phân tích lại tạo thêm một thời cơ thắng bại. Trong thời kỳ đối đầu, sức mạnh của các thuận lợi cho Việt Nam, với truyền quốc gia thường được cân đong đo đếm bởi sức thống độc lập tự chủ, yêu chuộng hòa mạnh quân sự và kinh tế, tức là “sức mạnh cứng”. bình và khát vọng vươn lên đang được Dù vậy, “sức mạnh mềm” quốc gia vẫn không thể minh chứng bằng sự đổi mới mạnh mẽ xem nhẹ, mà những \"câu chuyện kể” về chính hướng tới mục tiêu dân giàu, nước nghĩa của nhân dân Việt Nam trong giai đoạn đấu mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước là văn minh. Có thể nói, tình thế hiện một minh chứng. Đó là một trong những câu nay thúc đẩy sự mong muốn của cộng chuyện hấp dẫn và sống động nhất, thu hút được đồng thế giới trước sự “trỗi dậy” đầy những tình cảm và sự ủng hộ to lớn của nhân dân đe dọa của Trung Quốc là cần thiết yêu chuộng hòa bình trên thế giới dành cho xuất hiện một Việt Nam mạnh mẽ, trở Việt Nam. Sức mạnh ấy góp phần không nhỏ vào thành một quốc gia cầu nối có lợi cho thắng lợi của Việt Nam trên mặt trận ngoại giao, hòa bình, hợp tác và phát triển. Đồng làm tiền đề cho những chiến thắng quân sự, giúp thời, khi trở thành đối tác đáng tin cậy non sông Việt Nam quy về một mối. của cộng đồng thế giới, Việt Nam mới có thể trở thành đối tác được tôn trọng Đường lối đối ngoại của Việt Nam mong muốn và bình đẳng của Trung Quốc. Tuyên làm bạn với tất cả các quốc gia, trở thành một thành bố “chủ quyền không thể tranh cãi” viên có trách nhiệm và đáng tin cậy trong cộng bằng yêu sách “đường lưỡi bò” bao đồng thế giới như đã được đề ra lâu nay chỉ có thể chiếm 80% Biển Đông của Trung trở thành hiện thực trên cơ sở Việt Nam phải có khả Quốc trong đó có hai quần đảo Hoàng năng đi cùng với xu thế phát triển của cả thế giới, Sa và Trường Sa của Việt Nam cùng cùng với cả thế giới phấn đấu cho trào lưu của hòa với các hành động hung hăng gần đây bình, tiến bộ, dân chủ, văn minh; cùng phấn đấu của nước này trên Biển Đông dù như thế để tự phát triển và để có khả năng hợp tác muốn hay không muốn cũng đã đặt được, hợp tác có thực chất với mọi đối tác. Cần dân tộc Việt Nam vào một tình thế nhấn mạnh, đấy chính là đường lối đối ngoại dấn buộc phải đối phó. Các chuyên gia thân, dựa trên cơ sở tạo ra cho mình khả năng dấn lịch sử nhận định, kể từ sau Cách thân - phấn đấu vì lợi ích chính đáng của chính mạng tháng Tám 1945, có lẽ đây là mình, và đồng thời phấn đấu vì các lợi ích của cộng lần thứ tư nước ta phải đối mặt với sự đồng thế giới. Về lâu dài, dân tộc ta ngày nay vẫn thách thức lớn như vậy. Riêng trên phải noi gương cha ông mình “đem đại nghĩa thắng phương diện quân sự, qua 3 cuộc hung tàn”, phải có bản lĩnh và thực lực để thực hiện chiến tranh chống xâm lược ở thế kỷ được bài học này, phải thúc giục nhau làm cho đất trước, Việt Nam đã trải nghiệm thực nước sớm giầu mạnh lên để mau chóng trở thành 124

một quốc gia mẫu mực trong việc “lấy “bài Hoa”, chỉ làm mất đi sự tỉnh táo cần thiết và chỉ có thể gây thêm nguy hại mới cho đất nước. chí nhân thay cường bạo”. Mặt khác, nuôi dưỡng tinh thần hữu nghị và hợp tác Chiến lược hòa bình của láng giềng tốt với Trung Quốc đòi hỏi rất nhiều nỗ lực lớn, trong đó cần thiết phải hết sức tỉnh táo, Việt Nam luôn là thành tố quan trọng kiên trì và dũng cảm. Lịch sử quan hệ hai nước Việt trong tư tưởng “dĩ bất biến ứng vạn - Trung ghi lại nhiều trang lẫm liệt, ngay sau khi biến”. Ngày nay, trước sự đe dọa, đưa được “khách không mời mà đến” ra khỏi nhà hung hăng của việc áp đặt yêu sách mình, Việt Nam đã phải nghĩ đến cầu hòa. Không “đường lưỡi bò” của Trung Quốc trên ai có thể phủ nhận nhân dân ta có nguyện vọng sâu Biển Đông, Việt Nam vẫn luôn giữ xa và truyền thống quý báu trong xây dựng mối vững tinh thần “dĩ bất biến” kiên trì quan hệ đời đời này với Trung Quốc. Bản lĩnh ấy tìm cách giải quyết các tranh chấp ngày nay càng quan trọng hơn bất cứ giai đoạn nào bằng thương lượng hòa bình, tôn trọng khác. Ngoại giao dấn thân vì lợi ích quốc gia, dân lợi ích chính đáng của các quốc gia tộc và có trách nhiệm với thế giới chính là một nền liên quan và tôn trọng các giá trị văn ngoại giao mạnh của một quốc gia có nền nội trị minh của nhân loại, tức là luôn luôn lành mạnh và đầy sức sống. Và cũng chỉ một nền coi trọng đàm phán và giải quyết vấn ngoại giao dấn thân như thế mới bảo vệ được đất đề trên nền tảng công pháp quốc tế. nước ta và luôn luôn tạo ra cho nước ta sức phát Từ “muốn là bạn” (Đại hội VII, VIII), triển mới. “sẵn sàng là bạn” (Đại hội IX), “là bạn và đối tác tin cậy” (Đại hội X), Có thể thấy Biển Đông là một mặt trận nóng, Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam thậm chí có lúc có thể rất nóng, nhưng trong sự đã bổ sung thêm là “thành viên có nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mặt trận chính trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”, quyết định giành thắng lợi ở mọi mặt trận khác, là thể hiện quá trình trưởng thành của nhân dân ta phải xây dựng bằng được nền nội trị ngoại giao Việt Nam với sự tham gia lành mạnh làm nền tảng cho mọi quốc sách phát ngày càng tích cực, chủ động và có triển kinh tế, xã hội, ngoại giao và quốc phòng. Đây trách nhiệm của nước ta tại các cơ mới là vấn đề, là mặt trận quyết định vận mệnh của chế, tổ chức, diễn đàn khu vực, đa Tổ quốc. Thực tế ngày càng làm rõ, “dĩ bất biến phương và toàn cầu. Điều đó thực tế ứng vạn biến” cho mọi tình huống là quan trọng đã góp phần làm gia tăng “sức mạnh hơn bao giờ hết - xây dựng nội trị lành mạnh là mặt mềm” của Việt Nam trong quan hệ trận chính yếu hàng đầu trong sự nghiệp xây dựng quốc tế, tạo ra thế và lực cân bằng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Đấy sẽ là bức trong việc xử lý các vấn đề quốc tế và trường thành bất khả xâm phạm bảo vệ Tổ quốc và khu vực cho Việt Nam trong những là nền tảng xây dựng đất nước phồn vinh. Không năm gần đây. Trong mối quan hệ với thể ngồi chờ đợi và cũng sẽ không có chuyện một người láng giềng khổng lồ, cần lưu ý ngày đẹp trời Trung Quốc bỗng nhiên rút yêu sách rằng chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hay “đường lưỡi bò”. Nhưng ngoại giao dấn thân và bất kỳ phản ứng cảm tính nào khác thái độ công khai minh bạch có thể huy động được đều là sai lầm, chẳng hạn như tâm lý 125

dư luận trong nước và thế giới ngăn Trước những hành xử hung hăng của Trung Quốc trong âm mưu bá chiếm Biển Đông, áp đặt cản sự lấn tới của Trung Quốc, và trên yêu sách “đường lưỡi bò” phi pháp và phi khoa học, trong tư thế tự vệ chính nghĩa, chủ trương giải cơ sở đó tiếp tục giữ được hòa bình quyết tranh chấp bằng thương lượng hòa bình, tôn trọng luật pháp quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia dân trên Biển Đông, mở đường cho những tộc, chủ trương cùng hợp tác, ổn định và phát triển với các nước liên quan của Việt Nam đang thực sự triển vọng mới sau này. Đây còn là chuyển hóa thành “sức mạnh mềm”. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang sở hữu một “sức mạnh mềm” hướng đi cụ thể thúc đẩy quá trình từ lịch sử oai hùng, bất khuất được khắc ghi bởi những người con anh hùng của dân tộc, anh dũng hoàn thành Bộ quy tắc ứng xử trên hy sinh trong suốt chiều dài hàng mấy thế kỷ qua để thực thi chủ quyền thiêng liêng của người Việt Nam Biển Đông (COC), cũng như tiến tới trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong đó mãi mãi khắc ghi hình ảnh những dân binh của các hiệp định về hòa bình và an ninh các hải đội Hoàng Sa, Bắc Hải từ thời các vua chúa nhà Nguyễn đến các binh sĩ Việt Nam Cộng hòa tử khu vực có tính ràng buộc pháp lý cụ trận năm 1974 trong cuộc hải chiến Hoàng Sa, các chiến sỹ Hải quân Quân đội Nhân dân Việt Nam thể và chặt chẽ hơn. kiên cường, bất khuất cùng nắm tay nhau thành Các chuyên gia đều cho rằng, cái “vòng tròn bất tử” coi nhẹ cái chết trong cuộc chiến bảo vệ Trường Sa năm 1988... gốc của “sức mạnh mềm” suy cho cùng là sự đồng lòng, là kết tinh của “Sức mạnh mềm” của Việt Nam cũng cần được sự đoàn kết thống nhất toàn dân tộc. hỗ trợ bởi truyền thông tích cực và kiên trì. Cần Nhưng muốn có sự đồng lòng, phải phải làm cho mỗi người Việt Nam trong và ngoài biết bao dung, biết dung hòa những nước, cộng đồng thế giới, kể cả nhân dân Trung khác biệt để hợp sức cho mục tiêu Quốc hiểu rõ sự thật lịch sử và cơ sở pháp lý quốc chung là sự giàu mạnh, phát triển bền tế về chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo vững cho muôn đời con cháu mai sau Hoàng Sa và Trường Sa; hiểu rõ về chủ trương “dĩ của cộng đồng dân tộc. Một trong bất biến ứng vạn biến” kiên trì với chiến lược hòa những thành tố của sức mạnh tổng bình của người Việt Nam trong việc giải quyết mọi hợp tạo nên “sức mạnh mềm” của tranh chấp quốc tế; kế thừa và thực hiện sáng tạo tư quốc gia trong lĩnh vực nội trị được tưởng của cha ông “Đem đại nghĩa thắng hung tàn; cha ông chúng ta sử dụng trong suốt Lấy chí nhân thay cường bạo” để “mở nền thái bình chiều dài lịch sử là sự khoan thư sức muôn thuở” không chỉ cho dân tộc Việt Nam mà dân, lấy dân làm trọng, ý niệm mạnh còn vì hòa bình, ổn định, hợp tác và cùng phát triển mẽ về chính nghĩa của dân tộc. Với trong khu vực cũng như trên toàn thế giới. những điều đó, cha ông chúng ta đã phát huy và động viên được tất cả Nhóm PV Biển Đông những tiềm năng, sự sáng tạo của mỗi http://www.daidoanket.vn thành viên trong cộng đồng trên mọi lĩnh vực từ kinh tế - xã hội đến quân Báo Đại đoàn kết sự - quốc phòng và văn hóa - nghệ thuật. Lịch sử cho thấy, thời đại nào 126 nắm vững và thực hành nghiêm túc bài học nội trị như trên luôn là thời thịnh trị với minh quân, thế nước vững chắc cùng sự no ấm của muôn dân khiến cho bao nhiêu mưu toan xâm lược đều phải tiêu vong.

Sức mạnh tổng hợp bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc ViệtNam XHCN là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo Việt Nam là trách nhiệm thiêng liêng không chỉ đối với lịch sử dân tộc, mà còn là nhân tố quan trọng bảo đảm cho dân tộc và đất nước ta phát triển bền vững. Đó là ý chí quyết tâm sắt đá không gì lay chuyển nổi của dân tộc Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Quan điểm tư tưởng cơ bản về bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam trong tình hình mới được thể hiện trong các Nghị quyết của Đảng, tập trung chủ yếu ở Nghị quyết về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc và Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Trước hết, cần phát huy sức mạnh tổng hợp, giữ vững độc lập chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải, vùng trời Tổ quốc. Phát huy sức mạnh tổng hợp là quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta, nhằm động viên, quy tụ, phát huy cao độ sức mạnh của các nhân tố chính trị, tinh dựng biên chế tổ chức lực lượng phù hợp, bảo thần, tư tưởng, văn hóa, quốc phòng, an đảm chất lượng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, nâng ninh, kinh tế, đối ngoại; sức mạnh khối cao tiềm lực, củng cố thế trận quốc phòng toàn đại đoàn kết toàn dân và cả hệ thống dân gắn với lực lượng và thế trận an ninh trên chính trị, tạo ra sức mạnh tổng hợp toàn các vùng biển, đảo; chăm lo xây dựng thế trận dân tộc để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ lòng dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. thực hiện “quân với dân một ý chí”; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đẩy mạnh phát Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ triển kinh tế biển, cải thiện, nâng cao đời sống XI của Đảng chỉ rõ: “Mục tiêu, nhiệm vụ vật chất tinh thần của nhân dân, hạn chế tiêu cực, quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc tạo sự đồng thuận xã hội... Tận dụng mọi tiềm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vện năng, thế mạnh của biển, đảo, động viên, thu hút lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển, đảo, mọi nguồn lực để phát triển kinh tế, tăng cường biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà quốc phòng, an ninh trên biển; cả nguồn lực nước, nhân dân và chế độ XHCN…”. Để trong nước và nguồn lực ngoài nước, vừa hợp tác bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo vừa đấu tranh, giữ vững môi trường hòa bình, ổn của Tổ quốc, cần kết hợp chặt chẽ các định để phát triển kinh tế biển và bảo vệ vững nhân tố cơ bản của sức mạnh quốc phòng chắc chủ quyền biển, đảo. gồm: Lực lượng, tiềm lực, thế trận quốc phòng gắn với lực lượng, thế trận an ninh Tính chất nhất quán của quốc phòng Việt nhân dân trên các vùng biển, đảo; xây Nam là: Tự vệ, chính nghĩa, quốc phòng hòa 127

bình, dựa vào sức mạnh của cả hệ thống quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc chính trị và của toàn dân, LLVT làm gia; triển khai chặt chẽ việc phân vùng, bố trí nòng cốt, dưới sự lãnh đạo của Đảng. dân cư ven biển với tổ chức các lực lượng bảo vệ Trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu chủ quyền biển đảo; ban hành chính sách khuyến vực hiện nay đòi hỏi phải tập trung xây khích mạnh mẽ nhân dân định cư sinh sống ổn dựng các lực lượng: Hải quân, Phòng định lâu dài trên đảo và làm ăn trên biển dài không - Không quân, Pháo binh, Cảnh ngày. Các địa phương có biển, đảo cần có chủ sát biển, Biên phòng, Dân quân tự vệ trương, giải pháp, kế hoạch phù hợp, nhằm tăng biển... có số lượng hợp lý, chất lượng cường nghĩa vụ, trách nhiệm của các doanh cao; trong đó, các binh chủng kỹ thuật nghiệp và nhân dân trong quản lý bảo vệ, khai chiến đấu được trang bị ngày càng hiện thác các lợi ích từ biển. đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biển, đảo, là chỗ dựa vững chắc Trên cơ sở các văn bản pháp lý công bố rộng cho các hoạt động phát triển kinh tế biển rãi trong nước và quốc tế, cần kiên trì đấu tranh trong thời bình, đồng thời đáp ứng nhiệm ngoại giao, đàm phán với các nước láng giềng, vụ tác chiến trên biển trong chiến tranh các nước có tranh chấp thềm lục địa, vùng chồng bảo vệ Tổ quốc. lấn, phân chia vùng biển lịch sử và đảo; xây dựng vùng biển hòa bình, ổn định và hợp tác Hai là, kết hợp chặt chẽ các hình cùng phát triển. thức, biện pháp chính trị, ngoại giao, pháp lý, kinh tế, quốc phòng trong quản Ba là, phát triển kinh tế biển phải gắn với lý vùng trời, bảo vệ biển, đảo. quản lý vùng trời, bảo vệ biển, đảo, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an Nguyện vọng và cũng là lợi ích cao ninh nhân dân vững chắc trên biển. nhất của dân tộc Việt Nam là giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác Nghị quyết Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Phát cùng phát triển… Trước tình hình tranh triển kinh tế biển toàn diện, có trọng tâm, trọng chấp chủ quyền biển, đảo trên Biển Đông điểm, sớm đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh diễn ra phức tạp, đặt ra yêu cầu cao phải về kinh tế biển trong khu vực, gắn với bảo đảm tăng cường tổ chức lực lượng và phát quốc phòng - an ninh (QP - AN) và hợp tác quốc huy sức mạnh của toàn dân, đấu tranh tế”; Nghị quyết về Chiến lược biển Việt Nam, toàn diện, bằng các hình thức, biện pháp xác định: “Chiến lược biển phải kết hợp chặt chẽ linh hoạt, thông qua chủ trương, kế giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội với bảo hoạch chỉ đạo, điều hành tập trung thống đảm quốc phòng, an ninh…”. nhất trên các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, pháp lý, kinh tế, quốc phòng. Sự Phát triển kinh tế biển phải gắn với quản lý kết hợp đó phải được tổ chức thực hiện vùng trời, bảo vệ biển, đảo, xây dựng thế trận trong từng lực lượng, bộ, ngành và giữa quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh các bộ, ngành, từ Trung ương đến địa nhân dân, thực chất là quan điểm chỉ đạo: Kết phương, kết hợp cả trong nước và ở hợp kinh tế với QP-AN, tăng cường sức mạnh ngoài nước. QP - AN bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới. Mục đích kết hợp giữa kinh tế với Để kết hợp đấu tranh hiệu quả, cần quốc phòng, giữa xây dựng thế trận quốc phòng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp với thế trận an ninh là làm cho kinh tế và quốc luật biển, làm cơ sở cho việc xác lập chủ phòng đều mạnh, không làm cản trở nhau, tạo ra sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi mục tiêu 128

Chiến lược biển Việt Nam mà Đảng ta nhất, nhất là trong xử lý các tình huống phức tạp đã xác định. trên vùng biển, đảo thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát Bốn là, giải quyết các bất đồng, tranh chấp triển năm 2011 tại Đại hội XI của Đảng) thông qua thương lượng hòa bình, tôn trọng chỉ rõ: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế với QP nhau, bình đẳng cùng có lợi. - AN; QP - AN với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính Đây là nguyên tắc cơ bản trong quan hệ quốc sách phát triển kinh tế - xã hội và trên tế, được ghi trong Hiến chương Liên hợp quốc từng địa bàn”. Như vậy, nội dung của sự và Công ước Luật biển năm 1982. Đó là thành kết hợp đó phải được triển khai tổ chức quả đấu tranh chung của các dân tộc trên thế thực hiện cụ thể ở tất cả các cấp: Trong giới, trong đó có dân tộc Việt Nam. quy hoạch tổng thể của quốc gia, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, kế Đối với các bất đồng, tranh chấp trên Biển hoạch tăng cường lực lượng, tiềm lực, Đông, chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà thế trận QP - AN, trong nhiệm vụ, trong nước ta là: Không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng phương án, kế hoạch tác chiến và đấu vũ lực, giải quyết mâu thuẫn thông qua thương tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Trong lượng hòa bình trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quy hoạch xây dựng các vùng biển, đảo quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phù hợp với luật pháp ở địa bàn chiến lược, các phương án bảo quốc tế, đặc biệt là Công ước về Luật biển năm vệ cần làm tốt ngay từ khâu thẩm định 1982 của Liên hợp quốc, Tuyên bố về cách ứng các khu công nghiệp, kinh tế tập trung, xử của các bên ở Biển Đông (DOC), nhằm sớm các dự án ven biển, trên đảo; quy hoạch, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài, đáp ứng lợi xây dựng kết cấu hạ tầng gắn với xây ích chính đáng của các bên, tiến tới xây dựng dựng thế trận QP - AN, bao gồm các Biển Đông thành vùng biển hòa bình, hợp tác và tuyến đường giao thông, hệ thống các phát triển. sân bay, bến cảng, kho, hệ thống thông tin... không để ảnh hưởng đến thế bố trí Biển, đảo Việt Nam là một bộ phận lãnh thổ quân sự, thế trận QP - AN. thiêng liêng của Tổ quốc, cấu thành phạm vi chủ quyền thiêng liêng của quốc gia… Nhiệm vụ bảo Làm tốt công tác tuyên truyền, nhằm vệ toàn vẹn chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc rất tạo sự chuyển biến thực sự trong nhận nặng nề, đòi hỏi phải thường xuyên quán triệt, thức của các cấp, ngành và trong nhân nắm vững các quan điểm tư tưởng của Đảng, tổ dân về vị trí vai trò chiến lược của biển; chức triển khai thực hiện chủ động, sáng tạo làm cho tư duy về biển được thể hiện trong thực tiễn ở mọi cấp, ngành và toàn dân; đậm nét, trước hết là trong các chủ phát huy cao nhất vai trò nòng cốt của các LLVT trương, chính sách phát triển của các nhân dân, tạo sức mạnh tổng hợp bảo vệ vững ngành có liên quan và các địa phương có chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong giai biển. Cần xây dựng, hoàn thiện cơ chế đoạn cách mạng mới. phối kết hợp hoạt động bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành tập trung, thống Thiếu tướng, PGS. TS Nguyễn Đình Chiến http://www.dangcongsan.vn Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam 129

Bảo vệ ngư trường truyền thống bằng mọi giá Hiện nay, bất chấp sự truy đuổi gắt gao của phía Trung Quốc (TQ) trên vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam, nhiều tàu cá công suất lớn của ngư dân miền Trung vẫn kiên cường bám biển. Bởi trong tâm khảm của mỗi ngư dân luôn hừng hực khí phách quật cường và niềm tin cháy bỏng: “Không để biển, đảo của Tổ quốc bị kẻ khác ngang nhiên xâm phạm”. TQ tăng cường hoạt động trái phép ở Thời gian gần đây, Trung Quốc tăng Hoàng Sa cường kiểm soát hoạt động đánh bắt hải sản TQ đang gia tăng các hoạt động trái trên biển, thực chất là uy hiếp nhằm làm ngư phép trên Biển Đông, nhất là tại 2 quần đảo dân ta sợ không dám bám ngư trường truyền Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của thống. Âm mưu này rất thâm độc, vừa đánh Việt nam. Cùng với việc điều động nhiều tàu vào kinh tế của ngư dân vừa ngang nhiên chiến, máy bay tuần tra trái phép và tập trận chiếm biển. diễu võ dương oai trên biển Đông, họ còn Ông Lê Văn Ninh - thuyền trưởng tàu tăng cường cái gọi là “kiểm soát hoạt động ĐNa 90072, ông Lê Văn Chiến - thuyền đánh bắt hải sản”của ngư dân ta, thực chất là trưởng tàu ĐNa 90351 và nhiều thuyền xua đuổi tàu cá của ta ra khỏi các ngư trường trưởng khác đều cho rằng: Vẫn biết hiện nay truyền thống, ngang nhiên chiếm biển trái ra Hoàng Sa khó bề được yên, nhưng đã rời phép, bất chấp Luật pháp Quốc tế. bến là nhất thiết phải ra vùng biển đó đánh Với việc thành lập trái phép thành phố bắt. Ngư trường đó không chỉ quen thuộc mà “Tam sa” và ban hành đạo luật sai trái cho rất nhiều hải sản. Hễ gặp gió là vào các đảo phép tàu cảnh sát biển, tàu ngư chính kiểm gần đó tránh trú. Chỉ mong, Nhà nước và các soát tàu cá hoạt động trên Biển Đông, Trung cơ quan chức năng làm điểm tựa vững chắc Quốc đang ngang nhiên biến biển của nước để ai nấy yên tâm bám biển. khác thành ao nhà của họ. Không những vậy, Điểm tựa vững chắc của ngư dân họ còn đưa hàng nghìn lượt tàu cá của mình Với ngư dân Việt Nam, giải pháp giữ xâm phạm vùng biển Việt nam, đánh bắt hải ngư trường tốt nhất là không lùi bước trước sản trái phép. mọi thủ đoạn của phía Trung Quốc trên vùng Đại tá Lê Tiến Hưng, tham mưu trưởng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam; đồng BĐBP Đà Nẵng cho biết: Qua mạng trinh sát thời chấp hành nghiêm Luật Biển Việt Nam và cập nhật thông tin từ nhiều nguồn nhận và Công ước Quốc tế về biển năm 1982, thấy rằng, Trung Quốc đang gia tăng các không đánh bắt sang vùng biển nước khác. hoạt động phi pháp tại Biển Đông, nhất là ở Về phía BĐBP Thành phố, ông Lê Tiến 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường sa. Hưng nói: “Đương đầu với tàu Trung Quốc, 130

chỉ có thể là tàu công suất lớn, hoạt động suất lớn. Cùng với đó, việc hỗ trợ ngư dân theo đội hình hàng chục chiếc để bảo vệ, hỗ chuyển đổi nghề, lắp đặt trang thiết bị trợ lẫn nhau. Với các tổ đội đánh bắt như chuyên dụng trên tàu cá sẽ được xúc tiến hiện nay, lực lượng bám biển cùng chung thường xuyên. ngư trường khá mỏng. Thậm chí, không ít tàu đang đánh bắt riêng lẻ. Và như vậy, tàu Hiện tại, để đảm bảo đội ngũ tàu công TQ dễ bề khống chế, vây ráp, truy đuổi. suất lớn bám biển xa bờ, chính quyền Tp. Trước tình hình an ninh trên biển đang rất Đà Nẵng đã và đang triển khai nhiều chính phức tạp, giải pháp tốt nhất để giữ vững ngư sách khả thi hỗ trợ ngư dân. Tuy vậy, chỉ trường truyền thống là ngư dân kiên cường bằng nguồn hỗ trợ như đã ban hành thì chưa bám biển, không nao núng, do dự trước mọi đủ. Không ít ngư dân cho rằng, nguồn hỗ áp lực từ phía Trung Quốc. Việc tổ chức trợ của thành phố có ý nghĩa rất thiết thực đánh bắt, nhất thiết phải theo đội hình hàng trong việc phát triển đội tàu công suất lớn chục chiếc, có sự chỉ đạo sát sao từ đất liền”. nhưng chỉ dựa vào nguồn hỗ trợ này thì khó thành hiện thực. Bởi đóng mới tàu công suất Ngoài ra, theo ông Hưng, trong quá lớn chí ít phải đầu tư 3 - 3,5 tỷ đồng/chiếc. trình đánh bắt, ngư dân phải phối hợp chặt Như vậy, ngư dân khó bề lo liệu nổi. Vì thế, chẽ với BĐBP Thành phố và thường xuyên ngoài nguồn hỗ trợ của thành phố, các chủ liên lạc với đất liền. Khi có sự cố xảy ra, tàu rất cần được vay vốn lãi suất ưu đãi, thời phải bình tĩnh giải quyết, tránh đụng độ gian dài. Từ trước đến nay, bám biển xa bờ không cần thiết, tuân thủ nghiêm ngặt sự chỉ không đơn thuần chỉ là mưu sinh, mà quan đạo của BĐBP. trọng hơn còn là nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Hơn lúc Liên tục theo sát hoạt động đánh bắt và nào hết, trước mưu đồ độc chiếm Biển Đông chia sẻ khó khăn với ngư dân, ngành thuỷ của Trung Quốc, đội ngũ tàu đánh bắt xa bờ sản đang triển khai các chính sách hỗ trợ càng có trách nhiệm nặng nề gấp bội, đó là nhằm khuyến khích, động viên ngư dân kiên giữ vững các ngư trường truyền thống. Và cường bám biển. Ông Hồ Phó, Phó giám đốc như vậy, hoạt động của ngư dân tại vùng Sở NN&PTNT, cho biết: Bên cạnh thực hiện biển xa, ngoài các chính sách hiện hành, Nhà tốt chính sách hỗ trợ dầu của Nhà nước đối nước cần có chính sách riêng đối với ngư với các tàu đánh bắt tại vùng biển xa, ngành dân. Những người, những tàu kiên cường đang triển khai việc hỗ trợ ngư dân theo QĐ/ bám biển Hoàng Sa, Trường sa cần được 7068 - UBND về hỗ trợ đóng mới tàu công khen thưởng xứng đáng, hỗ trợ kịp thời. Ngư dân miền Trung sẽ tiếp tục bám biển bởi phía sau họ luôn có điểm tựa vô cùng vững chắc. Đó là các chính sách khả thi của Nhà nước, là sự quan tâm, bảo vệ, hỗ trợ đắc lực từ phía các lực lượng chức năng như Hải quân, BĐBP, Cảnh sát biển, lực lượng kiểm ngư và nhân dân cả nước. Nguyễn Cầu http://www.baodanang.vn Báo Đà Nẵng 131

Phát huy vai trò của ngư dân trong bảo vệ chủ quyền biển đảo Tổ quốc Biến quyết tâm thành Ngư dân miền Trung mặc áo in dòng chữ \"Biển đảo Trường Sa, hiện thực Hoàng Sa là của đất nước Việt Nam\" Ngư dân Việt Nam luôn đảm an ninh, trật tự, an toàn nhận thức, trách nhiệm cho có quyết tâm bám biển, trên biển là bảo vệ không ngư dân trong việc kết hợp vươn khơi làm chủ ngư gian sinh tồn cho con cháu khai thác hải sản gắn với trường truyền thống. Đảng, muôn đời sau. Tư tưởng, bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Nhà nước ta đã có nhiều chủ quan điểm đó cần được Nội dung tuyên truyền phải trương, chính sách để phát thấm sâu và biến thành hành đa dạng, phong phú, sát thực huy vai trò của ngư dân động của mọi địa phương, tiễn và không ngừng đổi trong khai thác hải sản và mọi cấp, ngành, lực lượng mới hình thức, phương pháp bảo vệ chủ quyền biển, đảo và toàn dân. Các địa phương, cho phù hợp với trình độ Tổ quốc. Điều đó, cũng nhất là các địa phương ven nhận thức của từng đối được các cấp, các ngành, biển và lực lượng làm nhiệm tượng. Trong đó, chú trọng nhân dân đồng tình hưởng vụ thực thi pháp luật trên tuyên truyền miệng đối với ứng. Nhưng quyết tâm bám biển, như: Kiểm ngư, Cảnh từng tàu thuyền; tuyên biển, vươn khơi của ngư dân sát biển, Bộ đội Biên phòng truyền bằng tờ gấp, tờ rơi, vẫn còn một số khó khăn, và lực lượng Hải quân cần hệ thống loa, … ngay trước bất cập; để biến quyết tâm tận dụng điều kiện thuận lợi mỗi chuyến ngư dân ra khơi ấy thành hiện thực, phải tiến về thường xuyên tiếp xúc và cả khi ngư dân đang khai hành đồng bộ các giải pháp. với ngư dân trong hoạt thác hải sản ở các vùng biển Trong đó, cần thực hiện có động, công tác để đẩy mạnh khơi của Tổ quốc. Việc chỉ hiệu quả một số giải pháp cơ tuyên truyền bằng nhiều đạo tuyên truyền, cần phải bản sau: hình thức nhằm nâng cao thống nhất, chặt chẽ từ Trước hết, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tạo sự đồng thuận cao của các cấp, các ngành, tầng lớp nhân dân, nhất là ngư dân đối với việc khai thác hải sản phải gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và bảo 132

Trung ương tới cơ sở, sự bảo vệ chủ quyền biển, đảo nhọn, đồng thời là nguồn Tổ quốc là phải có hệ thống động lực để ngư dân bám phối hợp đồng bộ giữa các cơ chế, chính sách đồng bộ, biển, vươn khơi. hiệu quả. Những năm qua, cấp, ngành, lực lượng và các việc thực hiện các chủ Nhận thức rõ điều đó, trương, chính sách hỗ trợ ngày 07-7-2014, Thủ tướng địa phương. ngư dân phát triển sản xuất Chính phủ đã ban hành Nghị gắn với bảo vệ chủ quyền định 67/2014/NĐ-CP về Trong quá trình tuyên biển, đảo đã đạt kết quả một số chính sách phát triển truyền, các cấp, ngành, lực quan trọng, nhưng vẫn còn thủy sản, trong đó quy định lượng nhất là các địa nhiều hạn chế, tồn tại1. Hiện chính sách về đầu tư, tín phương ven biển, cần làm nay, nhiệm vụ bảo vệ Tổ dụng, bảo hiểm; chính sách cho ngư dân nhận thức rõ quốc đặt ra yêu cầu ngày ưu đãi thuế và một số chính tính chất phức tạp của tình càng cao, do đó để phát huy sách khác áp dụng đối với tổ hình tranh chấp chủ quyền vai trò của ngư dân trong chức, cá nhân Việt Nam biển, đảo, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo hoạt động thủy sản; tổ chức, bảo vệ Tổ quốc hiện nay; Tổ quốc, đòi hỏi Đảng, Nhà cá nhân (gọi là chủ tàu) đặt các quan điểm, đường lối nước, cũng như các cấp, hàng đóng mới tàu, nâng đối ngoại của Đảng, Nhà ngành, địa phương cần hoàn cấp tàu phục vụ hoạt động nước ta. Đồng thời, làm cho thiện hệ thống cơ chế, chính khai thác thủy sản. Theo đó, ngư dân nhận thức rõ vị trí, sách đồng bộ, phù hợp, triển chủ tàu đóng mới hay nâng vai trò, trách nhiệm, nghĩa khai thực hiện hiệu quả. cấp tàu được vay ngân hàng vụ của mình trong bảo vệ Trong đó, cần giải quyết cả tối đa 95% tổng giá trị đầu chủ quyền biển, đảo; các ba vấn đề: ngư nghiệp, ngư tư; thời hạn vay tới 11 năm; chính sánh ưu đãi của Đảng, dân và ngư trường, nhất là lãi suất chủ tàu phải trả thấp Nhà nước; sự quan tâm của các vấn đề búc xúc về: vốn, nhất là 01%/năm và cao các bộ, ngành, địa phương phương tiện sản xuất, đào nhất là 03%/năm. Khi đóng đối với ngư dân, cùng sự tạo nghề, tổ chức sản xuất, mới tàu2 dịch vụ hậu cần thông cảm, sẻ chia của đồng dịch vụ hậu cần nghề cá, khai thác hải sản xa bờ, đối bào cả nước trước những tiêu thụ sản phẩm, các chính với tàu vỏ thép, chủ tàu khó khăn, gian khổ, hy sinh sách an sinh xã hội. Giải được vay vốn Ngân hàng của ngư dân. Từ đó, xây quyết tốt các vấn đề trên sẽ Thương mại tối đa 95% tổng dựng ý chí quyết tâm, sẵn là cơ sở cho mục tiêu phát giá trị đầu tư, với lãi suất sàng về lực lượng, phương triển nghề cá theo hướng 07%/năm; trong đó, chủ tàu tiện, làm tốt công tác chuẩn bền vững; lấy hiệu quả kinh trả 01%/năm, ngân sách nhà bị mọi mặt của ngư dân khi tế, nâng cao đời sống vật nước cấp bù 06%/năm; đóng được huy động cùng các lực chất, tinh thần của ngư dân, tàu vỏ gỗ, chủ tàu được vay lượng chức năng đấu tranh làm cho nghề khai thác hải tối đa 70% tổng giá trị đầu bảo vệ chủ quyền biển, đảo; sản trở thành ngành mũi chấp hành nghiêm luật pháp 133 Việt Nam, quốc tế khi hoạt động trên biển. Vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với việc phát huy vai trò của ngư dân trong

tư, với lãi suất 07%/năm, duyệt danh sách ngư dân như vậy, Nghị định 67 mới trong đó chủ tàu trả được vay vốn. Bên cạnh đó, nhanh chóng đi vào cuộc 03%/năm, ngân sách nhà Bộ Nông nghiệp và Phát sống, đảm bảo cho ngư dân nước cấp bù 04%/năm và triển Nông thôn đã công bố có đủ điều kiện vươn khơi, nhiều ưu đãi khác. Vì thế, toàn bộ mẫu tàu vỏ thép đánh bắt xa bờ. Nghị định 67 của Chính phủ (đầu tháng 11-2014), nhưng được coi là phù hợp nhất, các văn bản đó vẫn chưa kịp Về lâu dài, Nhà nước kịp thời đáp ứng đòi hỏi của đến các địa phương, nên đó cần có giải pháp mang tính thực tiễn đánh bắt hải sản cũng là một khó khăn trong tổng hợp thu hút vốn đầu tư hiện nay. Nó như luồng sinh việc vay vốn. Vì vậy, thiết của các thành phần kinh tế khí mới thúc đẩy, tạo điều nghĩ các bộ, ngành, chính trong, ngoài nước, tạo môi kiện cho ngư dân thực hiện quyền địa phương cấp huyện, trường pháp lý trong việc quyết tâm làm chủ ngư tỉnh, các hội, tổ chức tín phối kết hợp giữa ngân hàng trường truyền thống, tăng dụng, ngân hàng cần đề cao và các cơ sở chế biến hải năng suất, chất lượng khai hơn nữa trách nhiệm, chủ sản để các cơ sở đó trở thác, tự tin khi đối phó với động đến với ngư dân, tăng thành một trong những tổ các tình huống phức tạp trên cường trao đổi thông tin, chức tín chấp giúp ngư dân biển. Để đưa Nghị định 67 tháo gỡ vướng mắc, đẩy tiếp cận vay vốn ngân hàng, của Chính phủ vào cuộc nhanh tiến độ thực hiện. nhằm ổn định, mở rộng và sống, đã có 10 Quyết định Đồng thời, tuyên truyền, phát triển sản xuất cho ngư và 08 Thông tư hướng dẫn phổ biến, giải thích để ngư dân. Để tăng cường các từ Bộ Nông nghiệp và Phát dân nắm được nội dung, nguồn lực khác, các địa triển Nông thôn, Bộ Tài điều kiện vay vốn, tạo sự phương ven biển cần khôi đồng thuận, khơi thông ngay phục và tạo môi trường chính và Ngân hàng Nhà từ cơ sở. Lực lượng vũ trang thuận lợi cho hoạt động của nước được ban hành. Tuy tham mưu cho cấp ủy, chính các hội nghề biển (Hội vạn, nhiên, đến nay việc tiếp cận quyền địa phương lựa chọn Hội tương thân tương ái). nguồn vốn vẫn còn gặp ngư dân đủ điều kiện được Đây là nơi ngư dân thực không ít khó khăn. Nguyên vay vốn theo Nghị định 67, hiện các giao tiếp xã hội của nhân chính của vướng mắc để đảm bảo nguồn vốn đến mình, chia sẻ kiến thức, kinh này là do ở các địa phương, đúng địa chỉ. Cùng với đó, nghiệm trong sản xuất, kinh cơ sở, số lượng ngư dân cần cần tuyên truyền, hướng dẫn doanh, hỗ trợ đồng nghiệp vay nhiều, nhưng lại không ngư dân đủ điều kiện vay trong lúc khó khăn, hướng nắm được các điều kiện, thủ vốn hoàn thiện các thủ tục hoạt động sản xuất vào quỹ tục, trong khi cán bộ thẩm để tiếp cận được nguồn vốn đạo khai thác hợp lý nguồn định thiếu, năng lực hạn chế nhanh chóng, sử dụng vốn lợi, tài nguyên môi trường nên hầu như chưa có địa đúng mục đích, hiệu quả. Có biển. Cùng với đó, Nhà phương hoàn thành việc phê nước cần có cơ chế, chính sách bảo vệ ngư dân khi bị tàu nước ngoài tấn công, bắt 134

giữ; chính sách bảo hiểm cần có chính sách ưu tiên Trong đó, chú trọng xây phương tiện và thân thể của đối với con em ngư dân vào dựng các mô hình tổ hợp chủ tàu và thuyền viên để các trường đào tạo ngành tác, hợp tác xã nghề cá, các ngư dân yên tâm bám biển, nghề thủy, hải sản chính hiệp hội nghề cá khai thác vươn khơi. quy, như: đại học, cao đẳng, hải sản gắn với bảo vệ an trung cấp; khuyến khích các ninh, chủ quyền biển, đảo ở Một trong những biện cơ sở chế biến và cung ứng từng địa phương. Việc làm pháp quan trọng để biến dịch vụ thủy, hải sản dành này đòi hỏi các cấp, ngành, quyết tâm bám biển, vươn một số chỉ tiêu nhất định lực lượng trong đó có lực khơi của ngư dân thành hiện nhận con em ngư dân vào lượng vũ trang tuyên truyền, thực là tăng cường đào tạo, học nghề và làm việc; xây vận động, hướng dẫn, giúp bồi dưỡng nâng cao trình độ dựng và nhân rộng mô hình đỡ ngư dân thành lập các tổ nghề, đảm bảo thu nhập cho đào tạo nghề tại cộng đồng, đội sản xuất, các nghiệp ngư dân. Các bộ, ngành, địa khuyến khích những ngư đoàn nghề cá tạo sức mạnh phương ven biển cần quan dân có kinh nghiệm tham bám biển, vươn khơi, bám tâm mở các lớp đào tạo, tập gia đào tạo, truyền nghề ngư trường truyền thống huấn cho các thuyền trưởng, cho ngư dân, lao động trẻ. ngay cả trước sự đe dọa, tấn máy trưởng, thuyền viên sử Có như vậy mới đảm bảo công của tàu nước ngoài. dụng thành thạo các phương thu nhập, nâng cao đời tiện, kỹ thuật hàng hải, nhất sống tạo động lực để ngư Đối với việc khai thác là công nghệ khai thác, bảo dân bám biển, vươn khơi, hải sản ở vùng biển ven bờ quản, chế biến nâng cao chất bảo vệ ngư trường truyền và vùng lộng cần tăng cường lượng sản phẩm. Đồng thời, thống của mình. quản lý, điều tra, đánh giá lại trang bị cho ngư dân cách nguồn lợi hải sản, xác định phòng, chống thiên tai, phòng, Vấn đề được coi là khâu các ngư trường, khu vực tập tránh va chạm với tàu nước đột phá hiện nay là tổ chức trung tàu thuyền, thực trạng ngoài; kỹ thuật sơ cứu ban lại sản xuất của ngư dân, năng lực khai thác hải sản đầu khi thuyền viên xảy ra khắc phục tình trạng khai của địa phương hoặc khu thương tật, ốm đau; nâng thác nhỏ lẻ không có điều vực liên tỉnh. Từ đó, xây cao năng lực cho cán bộ kiện tương trợ, giúp đỡ nhau dựng bản đồ phân bố ngư khoa học, cán bộ quản lý hiện nay. Trên cơ sở kết trường, nghề, loài hải sản trong lĩnh vực khai thác và quả, kinh nghiệm của việc khai thác ở các địa phương; bảo vệ nguồn lợi hải sản. thành lập các tổ, đội, nhóm, thực hiện phân quyền quản Lực lượng vũ trang với cơ nghiệp đoàn nghề cá sản lý, tổ chức khai thác phù sở đào tạo có sẵn của mình xuất có hiệu quả ở các địa hợp với điều kiện nguồn lợi cũng có thể tham gia đào tạo phương để phổ biến, tuyên hải sản của từng địa phương cho ngư dân về thuyền truyền, áp dụng, phát hiện, và các quy định của trên. trưởng, máy trưởng, thuyền nghiên cứu hoàn thiện và Đối với những tàu cá đang viên sử dụng phương tiện, nhân rộng các mô hình tổ sử dụng các phương tiện kỹ thuật hàng hải. Nhà nước chức sản xuất trên biển. cấm khai thác hoặc các 135

phương tiện khai thác không nghị hợp tác với nhân dân các đảo quan trọng, cần thân thiện với môi trường, nâng cấp các cảng cá, hệ khai thác kém hiệu quả, các nước trong khu vực. thống cấp nhiên liệu, nước không đảm bảo an toàn khi Cùng với đó, Nhà nước, đá, nước ngọt và tiêu thụ sản tham gia sản xuất trên biển, phẩm. Đầu tư xây dựng các các địa phương cần có chính các bộ, ngành, địa phương chợ thủy sản đầu mối quan sách hỗ trợ ngư dân chuyển đẩy mạnh phát triển khoa trọng, góp phần đô thị hóa sang làm các ngành nghề học - công nghệ trong lĩnh khác, như: nuôi trồng thủy vực khai thác hải sản; đẩy các vùng nông thôn ven sản, dịch vụ hậu cần nghề mạnh xuất khẩu thủy sản biển, tạo môi trường phát bảo đảm đầu ra cho hoạt triển nghề cá CNH, HĐH. cá, v.v. động sản xuất của ngư dân Tăng cường phối hợp giữa Đối với việc khai thác được ổn định; thực hiện tốt Bộ Nông nghiệp và Phát công tác bảo vệ nguồn lợi triển Nông thôn với các lực hải sản trên vùng biển xa bờ, hải sản, tài nguyên môi lượng Cảnh sát biển, Biên tăng cường đầu tư cho công trường biển đáp ứng yêu cầu phòng, Kiểm ngư và lực tác dự báo ngư trường, xây phát triển bền vững kinh tế lượng liên quan khác trong dựng hệ thống cơ sở dữ liệu biển. Đồng thời, tiếp tục đầu công tác kiểm tra, kiểm soát, về tàu thuyền, cơ sở hậu cần tư, nâng cấp, hoàn thiện các cứu hộ cứu nạn đảm bảo an nghề cá, phân bổ số lượng cảng cá, bến cá theo Quyết toàn cho ngư dân và tàu cá. tàu khai thác trên từng vùng định 1349/QĐ-TTg, ngày biển nhằm đảm bảo hài hòa 09-8-2011 của Thủ tướng Lịch sử đã chứng minh, lợi ích giữa các địa phương Chính phủ về việc phê duyệt ở mọi thời đại, mọi chế độ, ven biển. Hiện nay, cần điều chỉnh Quy hoạch khu bảo đảm “khoan thư sức nhân rộng mô hình tổ chức neo đậu tránh trú bão cho dân” là cách tốt nhất để quy khai thác cá ngừ đại dương tàu cá; Quyết định 346/QĐ- tụ lòng người - cơ sở, nền và một số hải sản khác có TTg, ngày 15-3-2010 của tảng để xây dựng “thế trận giá trị kinh tế theo chuỗi liên Thủ tướng Chính phủ phê lòng dân”. Vì vậy, Đảng và kết từ khai thác, bảo quản, duyệt Quy hoạch hệ thống Nhà nước cần phát huy sức dịch vụ hậu cần, thu mua, cảng cá, bến cá đến năm mạnh tổng hợp các tổ chức, chế biến và tiêu thụ sản 2020, định hướng đến năm các cấp, các ngành thực hiện phẩm, liên kết ngư dân, nậu 2030. Trong đó, tập trung tốt các chính sách an sinh xã vựa, doanh nghiệp chế biến đầu tư xây dựng nâng cấp hội, xây dựng kết cấu hạ và cơ quan quản lý nhằm các cảng cá ở các trung tâm tầng kinh tế - xã hội, nâng nâng cao chất lượng sản nghề cá trọng điểm có quy cao đời sống vật chất, tinh phẩm. Nhà nước cần đẩy mô lớn cho tàu công suất từ thần cho ngư dân. Đó là vấn mạnh hợp tác với các nước 90 CV đến trên 600 CV, có đề then chốt trong xây dựng trong khu vực, quốc tế nhằm công nghệ hiện đại, tiên “thế trận lòng dân” trên chia sẻ kinh nghiệm, xây tiến, như ở Hải Phòng, Đà biển. Bởi vì, “bờ có vững thì dựng tình đoàn kết, hữu Nẵng, Khánh Hòa, Bà Rịa - ngư dân mới yên tâm bám Vũng Tàu, Kiên Giang. Ở biển, vươn khơi”, sau lưng 136

ngư dân là cả nước đồng những địa phương này. Qua Biển, đảo Việt Nam là lòng, chung sức. Các ngành, đó, hỗ trợ ngư dân cả về vật một bộ phận lãnh thổ thiêng các tổ chức có chương trình chất và tinh thần, khắc phục liêng của Tổ quốc, có vị trí hành động, việc làm thiết khó khăn, phát triển sản đặc biệt quan trọng trong sự thực, như: “Tủ thuốc ngư xuất, nâng cao đời sống. nghiệp xây dựng, phát triển dân”, “Tấm lưới nghĩa tình”, Các địa phương ven biển, đất nước. Bảo vệ chủ quyền “Nghĩa tình Hoàng sa, quan tâm hơn nữa đến công biển, đảo là nhiệm vụ trọng Trường sa”, “Góp đá xây tác xóa đói giảm nghèo, yếu và là trách nhiệm của dựng Trường sa”, ... cần nâng cao dân trí; hỗ trợ ngư toàn Đảng, toàn dân, toàn được nhân rộng, để có nhiều dân về đất ở, nhà ở, cấp quân ta. Để hoàn thành chương trình như thế trong Giấy chứng nhận quyền sử nhiệm vụ thiêng liêng và thời gian tới. Lực lượng vũ dụng đất, chuyển đổi nghề cao cả đó, cần phát huy sức trang, nhất là Bộ đội Biên đối với ngư dân không còn mạnh tổng hợp của cả nước, phòng, Cảnh sát biển, Bộ điều kiện ra khơi, v.v. Đồng của cả hệ thống chính trị, đội Hải quân và các đơn vị thời, triển khai thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng; quân đội khác đóng quân ở hiệu quả phong trào “Toàn sự quản lý, điều hành thống vùng ven biển có điều kiện dân đoàn kết xây dựng đời nhất của Nhà nước. Trong giúp đỡ ngư dân phát triển sống văn hóa”, xây dựng đó, cần phát huy vai trò của sản xuất, nâng cao đời sống, nông thôn mới tại ngư dân. xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở các khu dân cư, làng Hồng Lâm - Văn Bảy - chài ven biển, xóa bỏ những Hoàng Trường các làng, xã mà nhân dân hủ tục, nâng cao đời sống sống bằng ngư nghiệp là chủ của ngư dân một cách toàn http://www.tapchiqptd.vn yếu, cần tích cực tham gia diện. Tạp chí Quốc phòng phát triển kinh tế - xã hội ở toàn dân Giữ vững chủ quyền biển đảo Biển, đảo Việt Nam là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc; có tiềm năng kinh tế to lớn và đóng vai trò quan trọng đảm bảo an ninh, quốc phòng. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo là một trong những nhiệm vụ trọng yếu đối với toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta. biết chăm lo phát huy lợi thế và bảo vệ vững Kiên định đấu tranh trong hòa bình, chắc vùng trời, biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Vì vậy, trong suốt quá trình lãnh đạo, hợp tác Đảng ta luôn quan tâm đến việc phát huy lợi Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn thế của đất nước về biển, kết hợp với phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân dặn: “Bờ biển ta dài, tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”. Lời dạy của Bác đã đặt trách nhiệm cho các thế hệ người Việt Nam phải 137

lượng thực thi pháp luật gồm cảnh sát biển và kiểm ngư áp sát giàn khoan Hải Dương 981, kiên quyết yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan khỏi vị trí thuộc chủ quyền của Việt Nam. Ông Ngô Ngọc Thu, Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh cảnh sát biển Việt Nam cho biết, trên thực địa, biện pháp chủ yếu được lực lượng thực thi pháp luật Việt Nam sử dụng là tiếp cận, dùng loa tuyên truyền yêu Ngư dân huyện Lý Sơn đánh bắt hải sản trên vùng biển tỉnh cầu giàn khoan và các lực lượng Quảng Ngãi bảo vệ của Trung Quốc rời khỏi vùng biển Việt Nam. “Mặc dù tộc trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt các tàu bảo vệ Trung Quốc có những hành Nam. Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ động ngăn chặn, cản phá quyết liệt, song lực XI của Đảng chỉ rõ: “Mục tiêu, nhiệm vụ lượng cảnh sát biển, kiểm ngư Việt Nam đã quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc kiềm chế nhưng kiên quyết, kiên trì, thực lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh hiện nghiêm đối sách đã đề ra”, ông Thu thổ; giữ vững chủ quyền biển, đảo, biên giới, chia sẻ. vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân Trên mặt trận ngoại giao, Việt Nam cũng và chế độ xã hội chủ nghĩa...”. triển khai nhiều biện pháp quyết liệt. Ngày Trong tình hình mới, việc bảo vệ vững 11/5/2014, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN chắc chủ quyền biển, đảo càng đặt ra yêu cầu lần thứ 24 ở Myanmar, Thủ tướng Nguyễn và nhiệm vụ cao hơn. Quan điểm xuyên suốt Tấn Dũng đã đề cập đến những diễn biến của Đảng và Nhà nước là luôn tỉnh táo, bình phức tạp, nghiêm trọng tại Biển Đông và tĩnh; kiên trì giải quyết căng thẳng bằng biện những hành động vi phạm luật pháp quốc tế pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, của Trung Quốc. Và lần đầu tiên sau 20 năm, nỗ lực cao nhất để bảo vệ chủ quyền biển ASEAN đã có một tuyên bố riêng về tình đảo thiêng liêng của Tổ quốc. hình Biển Đông. Hơn 10 ngày sau đó, trong Năm 2014 được đánh giá là một trong chuyến thăm và làm việc tại Philippines, Thủ những năm tình hình Biển Đông diễn biến tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định: \"Việt phức tạp nhất trong nhiều thập kỷ qua với Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền và lợi ích việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan chính đáng của mình bởi vì chủ quyền lãnh Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng. Việt và thềm lục địa Việt Nam. Trước hành động Nam luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị gây hấn này, Việt Nam đã huy động lực nhưng phải trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự 138

chủ, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển biển”. Đặc biệt, muốn xây dựng và thực hiện và nhất định không chấp nhận đánh đổi điều chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa cần tập trung phát triển nghề đánh bắt xa bờ bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó\". thông qua việc hỗ trợ cho ngư dân. Trung tướng Nguyễn Quốc Thước, Trong thời gian Trung Quốc hạ đặt trái nguyên Tư lệnh Quân khu 4 nhận định, “Với phép giàn khoan Hải Dương 981 trong thềm việc đấu tranh bằng biện pháp chính nghĩa lục địa và vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, thông qua con đường ngoại giao, pháp lý, sát cánh cùng lực lượng cảnh sát biển và Việt Nam đã cho thế giới thấy rằng chúng ta kiểm ngư, ngư dân là lực lượng chủ lực trong là một dân tộc yêu hòa bình nhưng khi chủ cuộc đấu tranh giữ gìn và bảo vệ chủ quyền quyền quốc gia bị xâm phạm, Việt Nam kiên thiêng liêng của Tổ quốc. Trước những hành quyết đấu tranh để giữ vững và bảo vệ phần động ngang ngược của Trung Quốc, ngư dân máu thịt của mình”. vẫn hoạt động khai thác bình thường tại các ngư trường truyền thống của mình. Ngư dân là cột mốc bảo vệ chủ quyền Cũng theo trung tướng Nguyễn Quốc Ngư dân Lê Văn Lễ, phường Mân Thái, Thước, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng, cho biết, thổ đặt ra nhiệm vụ cấp bách không ngừng Hoàng Sa và Trường Sa là hai ngư trường củng cố, tăng cường sức mạnh quốc gia, xây đánh bắt chính của ngư dân miền Trung nói dựng thế trận quốc phòng toàn dân trên biển. chung và ngư dân Đà Nẵng nói riêng. “Mặc Để thực hiện nhiệm vụ này, Đảng và Nhà dù Trung Quốc có những hành động ngang nước đã ra sức tăng cường tiềm lực cho biển ngược trên vùng biển Việt Nam và thường và hải đảo, trong đó có tiềm lực quốc phòng xuyên gây khó khăn cản trở nhưng ngư dân và tiềm lực kinh tế. Đảng ta chủ trương: chúng tôi không chùn bước bởi bảo vệ được “Phát triển mạnh kinh tế biển tương xứng ngư trường không chỉ để cho thế hệ sau này với vị thế và tiềm năng biển của nước ta, gắn mà còn góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo phát triển kinh tế biển với bảo đảm quốc quốc gia”, ông Lê Văn Lễ nói. phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền vùng Nhận thức ngư dân là cột mốc sống giữ Hai tàu cảnh sát biển Việt Nam tại cảng Sông Thu gìn chủ quyền biển đảo, Đảng và Nhà nước (Đà Nẵng), sẵn sàng lên đường làm nhiệm vụ đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi để hỗ trợ ngư dân yên tâm làm ăn, bám biển dài ngày. Mới đây, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký ban hành Nghị định 67/2014/NĐ - CP về một số chính sách phát triển thủy sản; trong đó quy định chính sách về đầu tư, tín dụng, bảo hiểm; chính sách ưu đãi thuế và một số chính sách khác áp dụng đối với tổ chức, cá nhân Việt Nam làm nghề thủy sản. Đồng thời, Nghị định cũng quy định tổ chức, cá nhân (chủ tàu) đặt hàng 139

đóng mới tàu, nâng cấp tàu phục vụ hoạt đỡ trên bờ, cần có sự hỗ trợ họ khi đang ở động khai thác thủy sản; tổ chức, cá nhân thực hiện dự án đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ ngoài khơi. hoạt động thủy sản. Theo đó, cần xây dựng lực lượng kiểm Theo đánh giá của các chuyên gia, đây là chính sách phù hợp với lòng dân, bởi đầu tư ngư đủ mạnh để bảo vệ việc khai thác, đánh tàu vỏ thép sẽ nâng cao hiệu quả trong hoạt động đánh bắt thủy sản, đảm bảo chất lượng bắt hải sản của ngư dân trên biển, sẵn sàng hải sản đánh bắt được, an toàn hơn khi sản xuất trên biển... Hơn nữa, các chính sách này thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn trên còn động viên ngư dân đánh bắt trên biển, cùng với các lực lượng bảo vệ biển gìn giữ biển; đồng thời kiểm tra, giám sát, phát hiện, ngư trường, biển đảo của Tổ quốc. ngăn chặn các hành động khai thác hải sản Theo trung tướng Nguyễn Quốc Thước, không chỉ hỗ trợ về vốn hay phương tiện mà trái phép của nước ngoài trên vùng biển của muốn ngư dân yên tâm bám biển cần phải có sự bảo vệ và kịp thời có biện pháp hỗ trợ, Việt Nam. Các địa phương ven biển, huyện không để họ lẻ loi, đơn độc chống chọi với các thế lực bên ngoài. Vì thế, ngoài sự hỗ trợ đảo phải có lực lượng dân quân tự vệ vừa bằng tiền, đóng tàu, ngư cụ hoặc các sự giúp tham gia sản xuất, khai thác hải sản, vừa làm nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự trên biển, kịp thời phát hiện, đấu tranh ngăn chặn các hành động xâm phạm lợi ích, chủ quyền quốc gia. Thu Phương http://www.baotintuc.vn Báo Tin tức Bảo vệ chủ quyền quyền bất hợp pháp của họ đối với quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. biển đảo bằng Đặc biệt nghiêm trọng hơn, nước này đã biện pháp hòa bình cố tình giải thích và áp dụng sai Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 Trung Quốc một lần nữa thể hiện rõ ý trong việc xác định đường cơ sở quần đảo đồ khẳng định chủ quyền bất hợp pháp Hoàng Sa, một quần đảo của Việt Nam, của họ đối với quần đảo Hoàng Sa của không phải là quốc gia quần đảo, nhằm xác Việt Nam. định phạm vi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quần đảo này, cố tình tạo ra Trung Quốc vừa hoàn tất việc xây dựng vùng chồng lấn, biến vùng không tranh chấp một đường băng dành cho máy bay quân sự thành vùng tranh chấp. Điều này đi ngược lại trên đảo Phú Lâm (thuộc quần đảo Hoàng Sa luật pháp và thông lệ quốc tế, vi phạm trắng của Việt Nam). trợn quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục Hành động này cho thấy, Trung Quốc địa của Việt Nam. một lần nữa thể hiện rõ ý đồ khẳng định chủ 140

Kế hoạch xây dựng đảo Phú Lâm của Trung Quốc cho các quần đảo, không phải là quốc gia trên Quần đảo Hoàng Sa quần đảo. Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền TS Trần Công Trục khẳng định, quần quốc gia và lợi ích chính đáng của mình đảo Hoàng Sa không phải là quốc gia quần bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với đảo, vì thế, không thể vạch ra hệ thống Luật pháp quốc tế. Hành động pháp lý cũng đường cơ sở để từ đó xác định phạm vi các là một biện pháp hòa bình. vùng biển và thềm lục địa cho quần đảo này. Các nhà nghiên cứu quốc tế thống nhất Ông Trục nói: “Họ vận dụng Công ước cho rằng, hầu hết các đảo, đá, bãi cạn nửa nhưng lại rất sai. Công ước 1982 quy định, nổi, nửa chìm ở quần đào này đều là những một quốc gia quần đảo có quyền quy định đảo, đá không thích hợp cho con người đến ở đường cơ sở bao quanh toàn bộ quần đảo và hay có đời sống kinh tế riêng, theo Điều 121 đảo của quốc gia quần đảo, phía ngoài có Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục năm 1982. địa. Đấy là đối với quốc gia quần đảo, còn chưa có điều khoản nào nói rằng, các quần Chính vì thế, quần đảo Hoàng Sa không đảo của quốc gia ven biển được phép quy thể có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục định đường cơ sở bao quanh quần đảo đó”. địa riêng hoặc không thể được xem như một “quốc gia quần đảo” để dựa vào đó đòi hỏi, Theo ông Carlyle A. Thayer - Giáo sư yêu sách thềm lục địa. Học viện Quốc phòng Australia, yêu sách này của Trung Quốc trái với Công ước của TS. Trần Công Trục - nguyên Trưởng Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982, đi ban Ban Biên giới của Chính phủ, nay là Ủy ngược lại nhận thức chung của quốc tế và ban Biên giới Quốc gia, Bộ Ngoại giao chỉ khu vực. rõ, Trung Quốc đã cố tình áp dụng sai nội dung quy định tại điều 47 về quy chế “quốc Ông Thayer nói: “Luật pháp quốc tế qui gia quần đảo” của Công ước của Liên Hợp định rằng, các đảo nhỏ không có ảnh hưởng, quốc về Luật Biển năm 1982 để biện minh không thể căn cứ vào đó để vạch vùng đặc cho yêu sách vô lý, đầy tham vọng của họ. quyền kinh tế và thềm lục địa nhưng Trung Quốc lại đang đòi hỏi một khoảng mặt nước Công ước chỉ quy định cách vạch đường rộng tính từ những đảo nhỏ và bãi đá ngầm cơ sở thẳng cho quốc gia quần đảo, chứ đó. Điều này là không thể chấp nhận được không quy định cách vạch đường cơ sở thẳng đối với luật pháp quốc tế”. Những đòi hỏi phi lý về chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa cùng những hành động hậu thuẫn phi pháp trên biển thời gian qua càng cho thấy rõ một mưu toan đơn phương thay đổi hiện trạng bằng vũ lực nhằm độc chiếm Biển Đông; Vi phạm Tuyên bố Ứng xử của các Bên ở Biển Đông; Đe dọa trực tiếp đến hòa 141

bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng quốc tế sẽ tốt cho Việt Nam. Cần sử dụng hải và hàng không ở Biển Đông. pháp luật quốc tế làm vũ khí phòng thủ của mình. Việt Nam có sức mạnh của lý lẽ. Việt Ông Patrick Cronin - Giám đốc Chương Nam sẽ giành được sự ủng hộ của cộng trình an ninh châu Á - Thái Bình Dương của đồng quốc tế”. Mỹ nhấn mạnh, Trung Quốc phải trả giá cho những hành động hung hăng, bất tuân luật Việt Nam có thể khởi kiện Trung Quốc pháp quốc tế. về việc: Giải thích, áp dụng sai Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 Ông Patrick Cronin nói: “Chúng ta tiếp và hành động sử dụng vũ lực xâm chiếm tục tìm kiếm giải pháp hòa bình đối với các lãnh thổ, chiếm đóng trái phép quần đảo tranh chấp nhưng cũng cần cứng rắn để Hoàng Sa của Việt Nam, vi phạm Hiến Trung Quốc thấy rằng, hành vi đơn phương chương Liên Hợp quốc, vi phạm các quyền thay đổi hiện trạng bằng cưỡng ép vũ lực là và lợi ích chính đáng của Việt Nam. không thể chấp nhận được”. Vấn đề đặt ra là Việt Nam có thể khởi Trung Quốc từng tuyên bố: “Trước sau kiện Trung Quốc ra trước các cơ quan tài như một đi theo con đường phát triển hòa phán quốc tế nào? bình, kiên định theo đuổi chính sách ngoại giao hòa bình độc lập tự chủ”, “thực hiện Các loại tranh chấp về chủ quyền lãnh trách nhiệm nước lớn” và “Trung Quốc thổ, về phân định biên giới, ranh giới biển, phản đối chủ nghĩa bá quyền và chính trị thềm lục địa, phân chia lợi ích kinh tế, tài cường quyền dưới bất cứ hình thức nào, nguyên biển không nằm trong phạm vi giải vĩnh viễn không xưng bá, vĩnh viễn không quyết của Công ước của Liên Hợp quốc về bành trướng”. Luật Biển năm 1982. Chỉ có Toà án Quốc tế mới có thẩm quyền về vấn đề này. Tuy nhiên, PGS. Jonathan D. London - Đại học Hongkong (Trung Quốc) cho rằng, Muốn được Toà án này thụ lý hồ sơ và Trung Quốc nói và làm rất khác nhau. tiến hành xét xử, phải có sự thoả thuận bằng văn bản của các bên liên quan. PGS. Jonathan D. London nói: “Để là một quốc gia có trách nhiệm, cần phải tuân Đối với quần đảo Hoàng Sa, vì muốn né theo luật pháp quốc tế. Rõ ràng, đây là điều tránh việc sử dụng luật pháp quốc tế do yếu mà Trung Quốc không thực hiện trong thế về cơ sở pháp lý, chắc chắn, Trung Quốc những năm gần đây. Trung Quốc đã nói đến không chấp nhận. việc trỗi dạy một cách hòa bình nhưng tôi nghĩ là không thể vì Trung Quốc đang áp Tuy nhiên, Trung Quốc không thể thoát dụng chính sách ngoại giao pháo hạm”. khỏi sự ràng buộc pháp lý trong giải quyết tranh chấp bằng cơ chế trọng tài theo Phụ lục GS. Jerome Cohen - Chủ tịch Viện Luật VII của Công ước của Liên Hợp quốc về pháp Hoa Kỳ - Châu Á, Đại học Luật New Luật Biển năm 1982. York cho rằng, Việt Nam nên nhờ đến các cơ quan tài phán quốc tế. Đây là một thiết chế tài phán mang tính bắt buộc khi các bên không đạt được thỏa Ông Jerome Cohen nói: “Tôi cho rằng, thuận. Ngay cả khi Trung Quốc tuyên bố đưa vụ việc ra giải quyết theo luật pháp không tham gia vụ kiện, Tòa án Trọng tài 142

vẫn được thành lập và các thủ tục xét xử vẫn Tuy nhiên, GS Erik Franckx - Thành được tiếp tục. Điều 9 Phụ lục VII của Công viên Tòa trọng tài thường trực Lahaye, tòa án ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm mà Philippines vừa nộp hồ sơ kiện Trung 1982 quy định, sự vắng mặt hay không thực Quốc cho rằng, Trung Quốc nên đàm phán hiện quyền phản tố của một bên không ảnh với Việt Nam để giữ được hòa bình, ổn định hưởng đến thủ tục tố tụng và phán quyết của và quan hệ giữa hai nước. Hội đồng trọng tài. GS Erik Franckx nói: “Nếu tình hình tiếp Philippines đã kiện Trung Quốc ra Tòa tục như hiện nay sẽ rất khó khăn cho cả hai án Trọng tài. Mặc dù Trung Quốc từ chối bên. Rõ ràng, trong tình hình như thế này, tham gia vụ kiện bằng việc gửi thông báo tới Trung Quốc rất khó có thể bắt đầu khai thác Philippines và Tòa án Trọng tài thường trực, khoáng sản ở Biển Đông. Nếu Trung Quốc bác bỏ thẩm quyền tài phán của Hội đồng mong muốn giải quyết vụ việc một cách trọng tài. Tuy nhiên, quá trình pháp lý vẫn nhanh chóng, giải pháp chỉ có thể là dựa trên diễn ra. thương lượng giữa hai bên hoặc giải quyết thông qua một bên thứ ba nếu như hai bên Một Ủy ban Trọng tài đã được chỉ định không thể tự giải quyết được với nhau”. và triệu tập. Phán quyết của Hội đồng trọng tài sẽ là văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng, Thời gian qua, Việt Nam đã có những có ý nghĩa xác định các quyền và lợi ích hợp bước đi hết sức đúng đắn, nỗ lực kiềm chế pháp của quốc gia ven biển. Vì vậy, trong xung đột và tiến hành trao đổi song phương trường hợp, phán quyết của tòa có lợi cho với Trung Quốc; đồng thời, thông qua các Philippines nhưng Trung Quốc không tuân kênh ngoại giao đa phương, bày tỏ quan thủ phán quyết, nước này sẽ bị công luận điểm và chủ trương nhất quán của Việt Nam, quốc tế lên án. giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó Như vậy, Việt Nam có thể đơn phương có tính đến phương án đấu tranh pháp lý. khởi kiện Trung Quốc ra Tòa án Trọng tài về việc nước này giải thích và áp dụng sai Công Phát biểu tại Hội nghị Cấp cao ASEAN ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm lần thứ 24, Thủ tướng nước Cộng hòa Xã hội 1982. Theo Luật sư Tạ Văn Tài - nguyên Chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng nhấn giảng viên và hiện là nghiên cứu viên mạnh, đàm phán với Trung Quốc trên cơ sở Trường Luật thuộc Đại học Harvard, Hoa Kỳ luật pháp quốc tế luôn là lựa chọn hàng đầu thì việc khởi kiện Trung Quốc ra Tòa án của Việt Nam. Trọng tài sẽ hạn chế nước này gây hấn, tuyên bố yêu sách vô lý, không tuân thủ luật pháp Thủ tướng nêu rõ: “Việt Nam luôn chân quốc tế như hiện nay. thành mong muốn cùng với Trung Quốc giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp Luật sư Tạ Văn Tài nói: “Chúng tôi hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, bình muốn Trung Quốc trở về nguyên tắc pháp trị đẳng và tôn trọng lẫn nhau vì lợi ích của trong bang giao quốc tế, xứng đáng là cường nhân dân hai nước, vì hòa bình, ổn định của quốc tốt lành. Cường quốc tốt lành thì không Khu vực và Thế giới. Song, Việt Nam cực bắt nạt nước nhỏ”. lực phản đối các hành động xâm phạm và 143

kiên quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia và lợi Với tư cách là một thành viên của Liên ích chính đáng của mình phù hợp với Luật Hợp Quốc, thành viên của Công ước của pháp quốc tế”. Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982, Việt Nam chủ trương giải quyết những căng Khi Trung Quốc trắng trợn xâm phạm thẳng trên Biển Đông bằng biện pháp hòa vùng đặc quyền kinh tế và vi phạm quyền bình trên cơ sở luật pháp quốc tế. Đó là chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam nguyện vọng của nhân dân Việt Nam và qua việc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 nhân dân Trung Quốc, phù hợp với các trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa nguyên tắc của Luật pháp quốc tế và Hiến nước ta, Việt Nam đã nhiều lần chủ động chương Liên Hợp quốc, phù hợp với lợi ích điện đàm với Trung Quốc. Đấy là những cử của hoà bình, ổn định và hợp tác ở Đông chỉ thể hiện tinh thần hòa hiếu, tôn trọng hòa Nam Á, khu vực châu Á - Thái Bình Dương bình. Những hành động đó thể hiện Việt và trên toàn thế giới. Nam không bao giờ muốn quan hệ Việt – Trung trở nên căng thẳng, phức tạp. Là một trong 5 nước uỷ viên Thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc, Đó là cách hành xử của một dân tộc văn Trung Quốc càng phải tôn trọng và thực hiện minh, yêu chuộng hòa bình và công lý. Thái Hiến chương Liên Hợp quốc. độ và cách ứng xử ấy đã thể hiện được tinh thần mà Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhiều TS. Trần Công Trục lần thực hiện và căn dặn: “Dĩ bất biến, ứng http://www.vov.vn vạn biến”. Đài tiếng nói Việt Nam Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo Việt Nam Mục tiêu, nhiệm vụ quốc quốc tế. Quan điểm đó được 2020, phấn đấu đưa nước ta phòng, an ninh là bảo vệ thể hiện tập trung trong các trở thành quốc gia mạnh về vững chắc độc lập, chủ nghị quyết, chỉ thị như: biển, giàu lên từ biển”. quyền, thống nhất, toàn vẹn Nghị quyết 03/-NQ/TW lãnh thổ; giữ vững chủ quyền ngày 6-5-1993 của Bộ Bảo vệ vững chắc chủ biển, đảo, biên giới, vùng Chính trị (khóa VII) về quyền biển, đảo Việt Nam là trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, “Một số nhiệm vụ phát triển trách nhiệm thiêng liêng của nhân dân và chế độ XHCN... kinh tế biển trong những mỗi công dân Việt Nam đối năm trước mắt”; Chỉ thị 20- với lịch sử dân tộc, là nhân Trước yêu cầu bức thiết CT/TW ngày 22-9-1997 của tố quan trọng bảo đảm cho của công cuộc xây dựng và Bộ Chính trị (khóa VIII) về dân tộc ta phát triển bền bảo vệ Tổ quốc hiện nay, “Đẩy mạnh phát triển kinh vững. Nghị quyết Đại hội Đảng ta nhận thức sâu sắc tế biển theo hướng CNH, lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: và thể hiện rõ quan điểm về HĐH”; đặc biệt là “Chiến “Mục tiêu, nhiệm vụ quốc phát triển kinh tế độc lập tự lược biển Việt Nam đến phòng, an ninh là bảo vệ chủ, kinh tế biển, bảo vệ chủ năm 2020” trong Nghị quyết vững chắc độc lập, chủ quyền biển, đảo trong quá TW 4 (khoá X): “Đến năm quyền, thống nhất, toàn vẹn trình phát triển và hội nhập lãnh thổ; giữ vững chủ 144

quyền biển, đảo, biên giới, đổi mới nội dung, đa dạng của luật pháp Việt Nam khi vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà hóa hình thức, phương pháp hoạt động hoặc tham gia nước, nhân dân và chế độ tuyên truyền phù hợp với giao thông trong phạm vi XHCN…”. Đó là ý chí sắt trình độ nhận thức của từng lãnh hải, các vùng nội thuỷ, đá, quyết tâm không gì lay đối tượng, đồng thời tận vùng đảo, quần đảo và khu chuyển được của dân tộc dụng có hiệu quả các vực đặc quyền kinh tế trên Việt Nam dưới sự lãnh đạo phương tiện kỹ thuật và chú biển Việt Nam; về các quan của Đảng. trọng mở rộng phạm vi điểm chủ đạo và nhất quán tuyên truyền. Công tác của Đảng và Nhà nước Việt Thời gian qua, sự biến tuyên truyền về chủ quyền Nam trong thực thi quyền tài đổi khôn lường của tình quốc gia trên biển đòi hỏi có phán quốc gia trên các vùng hình thế giới, khu vực và sự phối hợp đồng bộ giữa biển, đảo, quần đảo và các trên biển Đông khiến nhiệm các cấp, các ngành và các khu vực đặc quyền kinh tế vụ phòng thủ, bảo vệ đất địa phương; phải có sự chỉ biển. Đặc biệt, chú trọng nước, nhất là an ninh trên đạo thống nhất, chặt chẽ từ nâng cao nhận thức cho các biển trở thành nhiệm vụ nhiều Trung ương tới cơ sở về nội cấp, các ngành, nhất là các khó khăn, thách thức. Để dung và phương pháp tuyên cấp, ngành ở địa phương hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ truyền. Nội dung tuyên ven biển, nhận thức rõ tính chủ quyền và toàn vẹn lãnh truyền phải đa dạng và chất phức tạp của nhiệm vụ thổ, điều tiên quyết đặt ra là phong phú trên các phương bảo vệ chủ quyền biển, đảo phải không ngừng củng cố, tiện thông tin đại chúng trong bối cảnh mở cửa, hội tăng cường sức mạnh quốc trong nước và quốc tế, lồng nhập quốc tế; khẳng định, gia, xây dựng thế trận quốc ghép chặt chẽ giữa các hoạt củng cố niềm tin cho nhân phòng toàn dân trên biển. động đối ngoại, chính trị, dân cả nước, cộng đồng Trong đó, xây dựng thế kinh tế, quân sự, quốc quốc tế về chủ quyền của trận lòng dân, đảm bảo bảo phòng… Qua đó, nhân dân Việt Nam trên hai quần đảo vệ vững chắc chủ quyền Việt Nam cũng như cộng Hoàng Sa, Trường Sa; làm biển, đảo thiêng liêng của đồng quốc tế hiểu và nắm chuyển biến ý thức, trách Tổ quốc là vấn đề chiến vững các vùng, khu vực nhiệm của mỗi người… Qua lược, mang tính cấp bách, thuộc chủ quyền lịch sử lâu đó phát huy sức mạnh của then chốt. đời của Việt Nam cũng như toàn Đảng, toàn quân, toàn chủ quyền biển Việt Nam dân và của cả hệ thống Vì vậy, chúng ta cần tập được xác lập trên cơ sở các chính trị, kết hợp sức mạnh trung thực hiện tốt một số điều khoản quy định trong trong và ngoài nước, thực vấn đề sau đây: Công ước quốc tế về Luật hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo Biển 1982. vệ chủ quyền biển, đảo của 1. Đẩy mạnh công tác Tổ quốc. tuyên truyền về chủ quyền Tuyên truyền về các biển, đảo điều khoản và nghĩa vụ cần Công tác tuyên truyền phải chấp hành các quy định phải được tiến hành sâu Công tác tuyên truyền biển, đảo cần bám sát thực tiễn tình hình, không ngừng 145


Like this book? You can publish your book online for free in a few minutes!
Create your own flipbook