Riêng đảo Bạch Quy (Bàn Thạch) đạt độ cao ngập sâu dưới nước từ 1.0-1.9m và chúng chỉ 15m. Phần lớn các đảo có diện tích nhỏ hẹp lộ ra khi triều kiệt. Bề mặt bãi tương đối dưới 1km2: đảo Quang Ảnh (Tiền) 0.7km2, thoải, có độ dốc nghiêng từ chân đảo ra phía Hữu Nhật 0.6km2, Hoàng Sa 0.5km2, Quang biển. Hệ thống lạch triều ít phát triển vì Hoà (Đun Can) 0.5km2, Duy Mộng 0.5km2, thành phần vật chất cấu tạo bề mặt chủ yếu đảo Đá 0.4 km2, riêng đảo Phú Lâm diện tích là các vật liệu thô cuội, sỏi, tảng, nhiều nơi đạt 1.5km2. xuất hiện các bề mặt mài mòn. Bãi triều đóng vai trò là một hành lang chắn sóng, làm Các đảo nêu trên dù ít hay nhiều đều giảm năng lượng của sóng khi truyền từ biển biểu hiện dạng vành khuyên cổ của các atoll khơi vào chân đảo. Thái Bình Dương. Dạng vành khuyên này là kết quả phát triển của san hô cộng với sự lún - Sườn bờ ngầm của các đảo thể hiện rất chìm của vỏ trái đất tại các khu vực đảo. khác nhau, những đảo riêng biệt như Tri Tôn, Đá Bắc, Đá Tây, Đá Nam, ngoài diện Trên thực tế các ám tiêu san hô ở Hoàng tích bãi triều hẹp là chuyển tiếp đột ngột Sa phân bố không theo một định hướng rõ xuống biển sâu 1000-1500m bằng một vách rệt: nhóm đảo Lưỡi Liềm kéo dài theo hướng dốc 20-45o hoặc hơn. Đối với các đảo là các Đông Bắc - Tây Nam, nhóm đảo An Vĩnh atoll điển hình như Đá Lồi, Bông Bay, sườn kéo dài theo hướng Bắc Nam, đảo Quang bờ ngầm phía trong của atoll bao giờ cũng Ảnh hướng Đông Tây, đảo Bạch Quy, Bông thoải hơn sườn phía biển khơi. Các hồ nước Bay có trục kéo dài hướng Tây Nam - Đông nông bên trong atoll có độ sâu thường từ 5- Bắc, đảo Chim Én hướng Đông Tây, Linh 50m có nơi 70m là nơi tích tụ các sản phẩm Côn và bãi ngầm Bình Sơn có hướng Bắc phá huỷ của đảo và do đó sườn bờ ngầm có Nam, nhóm đảo An Vĩnh kéo dài hướng Tây xu hướng giảm dần độ dốc xuống đáy hồ. Bắc - Đông Nam. - Hồ nước nông hay là vụng nước nông Về mặt hình thái, đảo thường có cấu tạo được hình thành do các đảo san hô tạo 3 phần khác nhau đó là phần đảo nổi, hành thàmh các ám tiêu san hô vòng ngăn cách lang bãi triều (thềm san hô) bao quanh đảo với biển, hoặc chúng chỉ thông với biển và sườn bờ ngầm dốc đứng. bằng các cửa hẹp. - Đảo nổi được cấu tạo từ các vật liệu Ở quần đảo Hoàng Sa, hồ nước nông mảnh vụn san hô và sò ốc, có kích thước thường có độ sâu từ 5-50m, diện tích các hồ khác nhau. Độ cao trung bình của đảo lớn gấp từ 3-5 lần đảo nổi. Hồ quanh đảo thường không vượt quá 10 m so với mực Hữu Nhật có diện tích tới 150 ha. Do tính nước triều thấp nhất. Đa phần các đảo nổi chất cô lập với biển khơi nên các hồ và hiện là những phần nhô cao của các bờ atoll vụng thường lặng sóng, sự trao đổi nước bao quanh lagun hoặc là các hồ nước, ví dụ: giữa hồ, vụng với biển khơi thông qua cửa Atoll Bông Bay, Đá lồi, atoll Duy Mộng. thoát triều. - Các bãi triều (thềm san hô) là hành III. Điều kiện tự nhiên: lang bao quanh đảo có chiều rộng khác nhau Thời gian nắng ở quần đảo Hoàng Sa từ vài chục đến vài trăm mét thậm chí hàng dao động trong khoảng 2.400-2.600 giờ/năm, ngàn mét. Khi triều cao bề mặt bãi thường 46
trong đó mùa hè (từ tháng 5 đến tháng 10) có Độ ẩm tương đối trung bình ở Hoàng Sa thời gian chiếu sáng khoảng 1300 giờ, lớn 80-85% và hầu như không bị biến động hơn so với mùa Đông (từ tháng 11 đến tháng nhiều theo mùa. Các quan sát cho thấy trong 4). Trong các tháng mùa hè thời gian chiếu các tháng 1 (đặc trưng cho mùa Đông), tháng sáng ở quần đảo Hoàng Sa luôn lớn hơn ở 7 (đặc trưng của mùa hè), tháng 4 và tháng quần đảo Trường Sa. 10 (các thời kỳ chuyển tiếp), độ ẩm tương đối đều không đổi và bằng 80 - 85%. Nhiệt độ không khí ở vùng biển Hoàng Sa có giá trị thấp nhất 22o-24oC trong tháng So với quần đảo Trường Sa thì Hoàng Sa 1, tăng dần đạt cực đại 28.5o-29oC trong nằm gần đại lục hơn và vì vậy các trường tháng 6, 7 và giảm từ từ tới 25oC vào tháng sóng, gió chịu ảnh hưởng của địa hình các 12. Sự chênh lệch nhiệt độ giữa các tháng lục địa. Trong mùa Đông, sóng Đông Bắc nhiệt độ cao nhất và thấp nhất là 5.5oC-6oC. chiếm ưu thế với tần suất 70-72% với độ cao cực đại đạt tới 4-6m. Các hướng sóng Đông Chế độ gió vùng quần đảo Hoàng Sa và Bắc có tần suất 10-15% và có độ cao cực phức tạp và thể hiện ảnh hưởng của địa hình đại 3-4m. Trong mùa hè, hướng sóng Tây - lục địa Việt Nam và Trung Quốc. Vào mùa Nam chiếm ưu thế, 53-55%. Độ cao sóng 3- hè hướng gió Tây Nam chiếm ưu thế 57%, 4m, chiếm 12% và cực đại 4-6m, chiếm 1- các hướng gió Tây, Nam, Đông - Nam 2%. Sóng hướng Nam chiếm 23-25% và có khoảng 10-12%. Các hướng gió Đông, Đông độ cao cực đại 3-4m. Các hướng sóng khác - Bắc và Bắc đều xuất hiện với tần suất thấp. có tần suất thấp và độ cao nhỏ hơn 3-4m. Vận tốc gió trong mùa hè trung bình 5-7 m/s. Trong mùa Đông gió Đông - Bắc chiếm ưu Trong các thời kỳ chuyển đổi mùa, tháng thế với tần suất 48-50% và tốc độ 7-10m/s. 4 và tháng 10, trong khi ở quần đảo Trường Hướng gió Bắc có tần suất 27-30% và tốc độ Sa, sóng Đông Bắc có tần suất giảm xuống 7-10m/s. Các hướng gió Đông, Đông Nam, 20-25% thì ở Hoàng Sa hướng sóng này vẫn Nam và Tây Bắc đều xuất hiện trong mùa chiếm ưu thế 50-60% và độ cao sóng vẫn có Đông với tần suất thấp và vận tốc cực đại đạt thể đạt tới 4-5m. 7-10m/s. Đặc điểm phân bố của trường nhiệt đã Lượng mưa trung bình nằm ở quần đảo được nghiên cứu theo diện và theo chiều sâu. Vào mùa hè, nhiệt độ nước biển bề mặt thay Hoàng Sa khoảng 1.200-1.600 mm, thấp đổi trong giới hạn 29oC. hơn nhiều so với mưa ở vùng đảo Trường Sa và các vùng khác trên đất liền. Mưa chủ Mùa Đông, trong dải độ sâu 0-10 m yếu tập trung vào mùa hè (từ tháng 5 đến trường nhiệt ít biến động với các giá trị tháng 10) lượng mưa trung bình hàng tháng 100-200mm, đạt 200-400mm trong tháng 25oC-26oC. 10. Lượng mưa trung bình trong mùa Đông Trong mùa hè độ mặn nước biển bề mặt (từ tháng 11 đến tháng 4) 200-300mm với lượng mưa hàng tháng 20-25mm (tháng ở vùng quần đảo Hoàng Sa biến đổi phức tạp 1,2,3) và đạt đến 50-100mm trong tháng 12 với các giá trị lớn hơn 34‰. đến tháng 4. Trong mùa Đông, ở tầng sâu 0-10m độ mặn nước biển có xu hướng tăng dần từ Đông sang Tây, từ các giá trị 33‰-34‰. Độ 47
mặn nước biển tăng dần theo độ sâu đạt các Chúng ta có đủ chứng cứ pháp lý lịch giá trị 33.9‰-34‰ và 34.5‰-34.6‰ ở các sử để khẳng định Việt Nam là quốc gia đầu độ sâu 50 và 100m. Dưới những độ sâu này, tiên xác lập và thực thi chủ quyền trên quần từ 100 đến 300m, độ mặn ít biến đổi và ổn đảo Hoàng Sa một cách liên tục, hoà bình và định trong giới hạn 34.5‰-34.7‰. Đồng phù hợp với luật pháp quốc tế. Quần đảo thời trên hầu hết các tầng sâu xu hướng tăng Hoàng Sa là một phần không thể tách rời của dần độ mặn từ Đông sang Tây cũng luôn lãnh thổ Việt Nam. được thể hiện. http://www.hoangsa.danang.gov.vn Trang điện tử UBND huyện đảo Hoàng Sa Lịch sử xác lập và thực thi chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa Nhà nước Việt Nam là nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền của mình trên quần đảo Hoàng Sa, ít nhất là từ thế kỷ XVII. Việc chiếm hữu và thực thi chủ quyền này là thực sự, liên tục, hòa bình, phù hợp với nguyên tắc của luật pháp và thực tiễn quốc tế. Chúng ta có đầy đủ các bằng chứng pháp lý và cứ liệu lịch sử có giá trị để chứng minh sự thật hiển nhiên này qua các giai đoạn lịch sử có liên quan. I. Trước năm 1884. “Quốc sơ trí Hoàng Sa”. Thiên Nam tứ chí lộ đồ 1. Nhà nước Đại Việt thời chúa thư (năm 1686), đã đề cập đến các hoạt động của Nguyễn đã xác lập và thực thi chủ Đội Hoàng Sa. Phủ biên tạp lục cũng như các tài quyền tại Hoàng Sa. liệu khác đều cho biết Đội Hoàng Sa khi trở về Suốt trong ba thế kỷ, từ thế kỷ XVII đất liền vào tháng tám âm lịch vào cửa Eo hay đến đầu thế kỷ XIX, một tổ chức của Tư Hiền rồi nộp sản vật tại chính dinh ở Phú Nhà nước Việt Nam, Đội Hoàng Sa, là Xuân. Thời chúa Nguyễn Phúc Lan mới bắt đầu bằng chứng hùng hồn về sự xác lập và dời chính dinh đến Kim Long vào năm Dương thực thi chủ quyền của Đại Việt ở Đàng Hoà thứ nhất (1635) và thời chúa Nguyễn Phúc Trong đối với Hoàng Sa. Đội Hoàng Sa Tần mới dời qua Phú Xuân. ra đời ở Cửa biển Sa Kỳ và Cù Lao Ré Như thế, chúng ta có cơ sở để kết luận Đội thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Hoàng Sa ra đời sớm nhất từ thời chúa Nguyễn Sử sách Việt Nam và của cả Trung Phúc Lan (1635 - 1648), hay chắc chắn là từ thời Quốc đều chép Đội Hoàng Sa được chúa Nguyễn Phúc Tần (1648 - 1687), bởi chính thành lập vào đầu thời chúa Nguyễn. Hải vào thời kỳ này, các thuyền của Đội Hoàng Sa ngoại kỷ sự (Trung Quốc) viết năm 1696, mới đi vào cửa Eo (Thuận An) và nộp sản vật tại chép thời Quốc Vương trước đã có chính dinh Phú Xuân. những hoạt động của đội “Hoàng Sa” Dù ở thời chúa Nguyễn nào thì thời điểm lập và Phủ Biên tạp lục (Lê Quý Đôn) viết ra Đội Hoàng Sa cũng chắc chắn ít ra là vào nửa năm 1776, chép “Tiền Nguyễn Thị”. Đại đầu thế kỷ XVII, tức là vào đầu thời chúa Nam thực lục tiền biên (1821) chép Nguyễn. Đội Hoàng Sa đã hoạt động kể từ chúa 48
Nguyễn Phúc Lan hay Nguyễn Phúc Tần những việc thành lệ thường không được chép đến hết thời kỳ chúa Nguyễn, cả thảy 7 nữa mà thôi. Những hoạt động của Đội Hoàng đời chúa, gần một thế kỷ rưỡi. Phong Sa cũng như thủy quân từ năm Minh Mạng thứ trào Tây Sơn nổi dậy, Chúa Nguyễn 17 (1836) đã trở thành lệ thường, như đã chép chạy vào đất Gia Định thì Đội Hoàng Sa trong sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ. đặt dưới quyền kiểm soát của Tây Sơn Ngoài ra, có văn tế sống lính Đội Hoàng Sa thời mà trong tài liệu còn lưu giữ tại nhà thờ vua Tự Đức còn lưu lại ở đảo Cù Lao Ré. họ Võ, phường An Vĩnh, Cù Lao Ré, đã cho biết năm 1786 năm Thái Đức thứ 9, Về lịch hoạt động ở ngoài đảo, theo những dân Cù Lao Ré đã xin chính quyền Tây tài liệu như Dư địa chí, Hoàng Việt địa dư chí, Sơn cho đội Hoàng Sa hoạt động trở lại. Đại Nam thực lục tiền biên, Đại Nam Nhất Đến những năm cuối cùng của Tây Sơn, Thống Chí, hàng năm Đội Hoàng Sa bắt đầu đi hoạt động của đội Hoàng Sa cũng bị ảnh từ tháng 3 âm lịch đến tháng 8 âm lịch thì về. hưởng nên đến khi năm Gia Long thứ 2 Riêng theo Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư hay Toản (1803) mới cho Đội Hoàng Sa hoạt tập An Nam lộ thì lúc đi cuối Đông, không nói động trở lại như Đại Nam thực lục thời gian về; theo Phủ biên tạp lục, thì thường đi chính biên, quyển XXII đã ghi rõ: “Cai vào tháng giêng âm lịch đến tháng 8 về (nếu cơ Võ Văn Phú làm thủ ngự cửa biển lương thực mang đi có 6 tháng, từ tháng 3 đến Sa Kỳ, sai mộ dân ngoại tịch lập làm tháng 8, tức khoảng từ tháng 4 đến tháng 9 đội Hoàng Sa”. Năm 1815, vua Gia dương lịch ở Quảng Ngãi là mùa khô, có gió Tây Long sai Đội Hoàng Sa đi đo đạc thủy Nam rất thuận lợi cho việc đi biển, nhất là vùng trình ở Hoàng Sa. Quảng Ngãi lại chỉ có bão trong thời gian từ tháng 8 đến tháng 11 âm lịch (tháng 9 dương lịch Từ năm 1816, Gia Long bắt đầu cử đến tháng 12 dương lịch), nhất là hai tháng 9 và Thủy quân cùng với đội Hoàng Sa, 10 âm lịch. Như thế việc chọn thời gian hoạt không còn giao phó hoàn toàn cho Đội động của Đội Hoàng Sa là một lựa chọn rất khôn Hoàng Sa lo kiểm soát, đo đạc thủy trình ngoan của tiền nhân. ở Hoàng Sa. Đội Hoàng Sa trở thành tổ chức mang tính dân sự nhiều hơn. Theo Đội Hoàng Sa có nhiệm vụ thu lượm các sản truyền thống, dân Cù Lao Ré vẫn tiếp tục vật từ các tàu đắm, các hải sản quý từ vùng biển đi biển, trong đó có vùng Hoàng Sa quần đảo Hoàng Sa. Ngoài ra, về sau còn đảm nhiều sản vật quý. trách đi xem xét, đo đạc thủy trình vùng quần đảo Hoàng Sa. Vào thời Minh Mạng, như năm 1835, vẫn thấy Đội Hoàng Sa hỗ trợ Riêng về nhiệm vụ do thám và bảo vệ vùng Thủy quân đi công tác tại Hoàng Sa với biển quần đảo Hoàng Sa nhằm chống lại nạn đà công (lái thuyền) và dân phu. Thời Tự cướp biển thì đơn xin của phường An Vĩnh tách Đức, người ta không thấy biên niên sử khỏi xã An Vĩnh ngày 01 tháng 02 năm Gia còn chép các hoạt động của Đội Hoàng Long thứ 3 (1804) đã ghi rõ nhiệm vụ này. Sa vì theo phàm lệ của Đại Nam thực Ngoài ra, chức cai Đội Hoàng Sa kiêm chức cai lục, đệ tứ kỷ, chép vào đời Tự Đức, cơ Thủ Ngự mà Thủ Ngự lại có nhiệm vụ do thám ngoài biển. Nhiều tài liệu cho biết cai Đội 49
Hoàng Sa kiêm quản cai cơ Thủ Ngự Tại xã An Vĩnh, nay thuộc thôn An Vĩnh, xã như Đại Nam thực lục chính biên, đệ Tự Kỳ, còn di tích một ngôi miếu ở cạnh cửa nhất kỷ, quyển XXII ghi rõ: Võ Văn Phú biển Sa Kỳ là ngôi miếu Hoàng Sa vốn thờ bộ được sai tái lập Đội Hoàng Sa, chính khi xương đầu của con cá voi, (tương truyền do binh ấy là Thủ Ngự cửa biển Sa Kỳ. Đội Hoàng Sa đưa từ Hoàng Sa về) và thờ lính Hoàng Sa, ngôi miếu này bị phá hủy trong thời Như thế, nhiệm vụ của Đội Hoàng kỳ chiến tranh và bộ xương cá voi thần linh ở Sa rất nặng nề, không thuần túy về kinh miếu này được chuyển sang thờ tại lăng Thánh, tế, khai thác tài nguyên mà còn làm công ngay cạnh ngôi miếu xưa. tác xem xét, đo đạc thuỷ trình, do thám trên quần đảo Hoàng Sa, nhất là trong Tại Cù Lao Ré, nay là huyện đảo Lý Sơn, thời các chúa Nguyễn và thời kỳ đầu nhà vẫn còn Âm Linh Tự, tức miếu Hoàng Sa, ở thôn Nguyễn. Đội Hoàng Sa là một tổ chức Tây, xã Lý Vĩnh, tức phường An Vĩnh xưa và nhà nước, vừa mang tính dân sự vừa Âm Linh Tự ngoài trời ở xã Lý Hải, tức phường mang tính quân sự; vừa có chức năng An Hải xưa. Đến ngày nay tại các nhà thờ tộc họ, kinh tế, vừa có chức năng quản lý ở Biển các đình làng ở xã An Vĩnh và cả làng An Hải Đông, ra đời từ đầu thời chúa Nguyễn, (cả đất liền lẫn ngoài đảo Cù Lao Ré) vẫn còn theo Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, tục tế đình và làm lễ khao quân tế sống để tiễn quyển 3, thì lúc đó, có nhiều tổ chức lính Đội Hoàng Sa lên đường làm nhiệm vụ vào tương tự như đội Thủ Ngự (đội coi về ngày 20 tháng 2 âm lịch hàng năm. Trong buổi tế canh gác, ngăn chặn trộm cướp), đội Thổ sống lính Hoàng Sa đó, họ làm những hình nộm Binh... Đứng đầu Đội Hoàng Sa là một bằng khung tre và dán giấy ngũ sắc để giả hình “cai đội”, những thành viên trong Đội người và đem tế tại đình. Tế xong họ đốt đi hoặc được gọi là “lính”. Đó là những quân đóng thuyền bằng thân cây chuối đặt hình nộm nhân đi làm nhiệm vụ do Vua ban. lên và thả trôi ra biển gọi là “khao lề thế lính Hoàng Sa” còn gọi là \"lễ tế sống lính Hoàng Sa\" Thời chúa Nguyễn mỗi năm lấy 70 với quan niệm các hình nộm kia sẽ gánh chịu suất đinh để làm những nhiệm vụ của mọi hiểm nguy, tai nạn trên biển thay cho lính Đội Hoàng Sa theo phép tuyển như trên, Đội Hoàng Sa và cầu mong cho người thân của song còn dựa vào khả năng đi biển mà họ bình an trở về. Ngày nay tại các nhà thờ tộc tuyển chọn. Số lượng 70 là số lượng đặc họ có người đi lính Hoàng Sa đều có tổ chức tục biệt cho một đội dân binh như Đội lễ như thế và hiện tại gia đình các tộc họ cũng Hoàng Sa. Cũng theo Phủ biên tạp còn giữ bài văn khao lề thế lính Hoàng Sa, gồm lục của Lê Quý Đôn đã gọi những người một nửa chữ Hán, một nửa chữ Nôm. trong Đội Hoàng Sa là “dân binh”, trong đó có 2 người bị trôi dạt vào Cảng Với những nhiệm vụ và tổ chức hoạt động Thanh Lan (Hải Nam) khi bị bão vào kể trên, Đội Hoàng Sa thu lượm những hải vật năm Càn Long thứ 17 (1754), còn tám quý lạ ở Hoàng Sa như hải sâm, ốc hoa, ốc tai người khác bị mất tích. Như thế mỗi voi có chiếc lớn như chiếc chiếu, bụng có châu thuyền trong Đội Hoàng Sa có số lượng ngọc lớn như ngón tay trẻ em, sắc đục không khoảng 10 người. bằng sắc con trai châu, song vỏ ốc có thể tách ra 50
từng phiến, cũng có thể dùng vỏ ốc chiến tranh, trên đất liền cũng như ngoài Biển làm thành vôi; có thứ ốc xà cừ, người ta Đông, từng khu vực có lực lượng hoặc do chúa có thể dùng để dát các đồ dùng; có thứ Nguyễn, chúa Trịnh hoặc quân Tây Sơn làm chủ. đại mạo hay đại mội, tức con đồi mồi rất lớn hay con hải ba (ba ba biển tục gọi là Sau hơn 9 năm ngày vua Quang Trung mất, con trắng bông, cũng giống như con đồi mặc dù lực lượng thủy quân Tây Sơn đã bị hao mồi, nhưng nhỏ hơn). hụt nhiều, năm 1801, Jean Baptiste Chaigneau, kẻ tham dự trận đại thắng thủy chiến tiêu diệt Quan trọng nhất là các hàng hoá từ hoàn toàn hạm đội Tây Sơn, đã viết thư cho các tàu đắm mà Toản tập Thiên Nam tứ Laurent Barizy (người Anh) ngày 02/3/1801, có chí lộ đồ thư, viết rằng hàng hoá thu nhận định về thủy quân Tây Sơn như sau: được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng ống. Phủ biên tạp lục thì ghi: những “Trước khi thấy được thủy quân địch, tôi sản vật như gươm và ngựa bằng đồng, vốn coi thường lực lượng này, nhưng tôi cam hoa bạc, tiền bạc, vàng bạc, đồ đồng, đoan với ông rằng đó là sai lầm, quân Tây Sơn thiếc khối, chì đen, khẩu súng, ngà voi, đã có những chiến hạm trang bị 50 và 60 đại bác. sáp ong, đồ sứ. Theo mô tả của Barizy, nhà quân sự người Anh, trong lực lượng thủy quân Tây Sơn ít ra có 4 loại Lê Quý Đôn, hồi làm Hiệp Trấn tàu thuyền và dĩ nhiên thời này chỉ chạy bằng Thuận Hóa, đã viết: “tra khảo sổ biên buồm hoặc chèo. Song chưa thấy tài liệu nào của cai đội Thuyên Đức Hầu”, người chỉ cho biết các tàu thuyền Tây Sơn được bọc đồng huy Đội Hoàng Sa, trong nhiều năm đã theo kiểu Tây phương hồi đó. Loại chiến hạm vào Phú Xuân nộp các sản vật thu lượm lớn có tới 600 hay 700 thủy thủ và trang bị 50 được từ Hoàng Sa, cụ thể như sau: hay 60 đại bác nặng 24 cân Anh (livres); tuy chỉ có từ 5 đến 9 chiến hạm, song đã nói lên hỏa lực - Năm Nhâm Ngọ (1702), Đội Hoàng mạnh và lực lượng thủy quân đông đảo trên các Sa lượm được bạc 30 thoi. chiến hạm của Tây Sơn. Chính vì vậy quân Tây Sơn thường có những quả đấm mạnh bằng thủy - Năm Giáp Tuất (1704), lượm được quân trong các cuộc tiến công vào đất Gia thiếc 5100 cân. Định, nhất là sau chiến thắng quân Thanh, xuân Kỷ Dậu, vua Quang Trung chuẩn bị đóng chiến - Năm Ất Dậu, lượm được bạc 126 thuyền vào Nam đánh quân Nguyễn Ánh. thoi. Từ năm 1773, Tây Sơn chiếm được cảng Qui Còn từ năm Kỷ Sửu (1709) đến năm Nhơn rồi tiến lên phía Quảng Nam, kiểm soát bến Bình Sơn ( Bến Ván), Quảng Ngãi, nơi có Qúi Tỵ (1713), tức là trong khoảng 5 cửa biển Sa Kỳ và Cù Lao Ré (Đảo Lý Sơn), cái năm, thỉnh thoảng họ cũng lượm được nôi của Đội Hoàng Sa, từ đầu thế kỷ XVII đã bắt mấy con đồi mồi và hải sâm. Cũng có lần đầu khai thác Biển Đông. họ chỉ lượm được mấy khối thiếc, mấy cái bát đá và hai khẩu súng đồng. Chỉ trong vài năm bị đình đốn, ngày 15 tháng giêng năm Cảnh Hưng thứ 36 (1775) cai 2. Nhà nước Đại Việt thời Tây Sơn hợp Hà Liễu ở phường Cù Lao Ré (đảo Lý Sơn) chống hải tặc và bảo vệ Biển Đông (1771 - 1801). Trong thời gian từ năm 1771 đến năm 1801, gần như lúc nào cũng có 51
thuộc xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, nhiệm vụ quốc phòng, chống cướp biển, bảo vệ Quảng Ngãi, đã làm đơn xin với chính Biển Đông. quyền Tây Sơn được lập lại Đội Hoàng Sa và Quế Hương, sẵn sàng vượt biển ra 3. Nhà nước Việt Nam thời Nhà Nguyễn các cù lao ngoài biển để làm nhiêm vụ tiếp tục sử dụng Đội Hoàng Sa làm nhiệm vụ theo thông lệ và sẵng sàng ứng chiến khai thác và bảo vệ Hoàng Sa chống kẻ xâm phạm. Nguyễn Ánh đánh bại Tây Sơn, thống nhất Mãi đến năm 1778, Nguyễn Nhạc đất nước, tuy bận lo việc nội trị, song vẫn tiếp xưng Hoàng đế và từ đó mới có chính tục quan tâm đến việc khai thác biển cũng như quyền Tây Sơn hoàn chỉnh. Năm Thái an ninh trên biển. Chỉ một năm sau khi lên ngôi Đức thứ 9 (1786), ngày 14 tháng 2 (âm Hoàng đế, tháng 7 năm Quý Hợi (1803), vua Gia lịch) chính quyền Tây Sơn ra quyết định Long đã cho lập lại Đội Hoàng Sa. Đại Nam sai phái Hội Đức Hầu, cai Đội Hoàng Sa, thực lục chính biên, đệ nhất kỷ, quyển 12 viết: cưỡi bốn chiếc thuyền câu vượt biển ra “Lấy Cai cơ Võ Văn Phú làm Thủ ngự cửa biển thẳng Hoàng Sa cùng các xứ cù lao ngoài Sa Kỳ, sai mộ dân ngoại tịch lập làm Đội Hoàng biển. Theo các tư liệu còn lưu lại cho Sa”. Sau 3 tháng nhậm chức phụ trách việc tái thấy người phụ trách các tổ chức hoạt lập Đội Hoàng Sa, Cai cơ Võ Văn Phú đã có động ngoài biển là Thái phó, một chức quyết định ổn định tình hình ở chính quê hương quan lớn trong triều. Chính quyền Tây của ông, cũng là quê hương của Đội Hoàng Sa. Sơn còn yêu cầu các thuyền của Đội Trong tờ kê trình của Phú Nhuận hầu Võ Văn Hoàng Sa phải mang biển hiệu thủy Phú vào ngày 01 tháng 10 năm Gia Long thứ 2 quân, song lại nhắc nhở không được lấy (1803) đã chép rằng: “Do nay đến bản Phường danh nghĩa thủy quân mà làm càn, bắt (Cù Lao Ré), thấy các chức quan trông coi điện nạt dân làm muối, đánh cá. đài đều xin lui về, không nhận viên chức trong phường. Nay sợ rằng việc thờ phụng thần linh Các đội khai thác Biển Đông như Đội cũng cần đến ba chức giữ việc trong làng. Nay Hoàng Sa, Đội Quế Hương, Đội Đại đã họp bầu như cách lần đầu để lại giữ yên tĩnh Mạo, Hải Ba, Đội Quế Hương Hàm tình hình hương đảng. Nhân tiện họp cử ông thủ không những có nhiệm vụ kinh tế mà hội Võ Văn Khiết là người thẳng thắn, thanh còn như lời hứa của dân Phường Cù Lao liêm, siêng năng, cần mẫn, việc công cũng am Ré, do Cai hợp Hà Liễu đứng tên, sẵn hiểu, đều ưng thuận cho ông làm chức cai đình sàng ứng chiến với kẻ xâm phạm mỗi để ông dốc lòng lo lắng coi giữ đình, lại tiện phối khi có truyền báo xảy ra chinh chiến. hợp nhận phần sai dịch công tư trong làng và để Riêng Đội Hoàng Sa, đứng đầu là cai ông ấy thấy rõ điều khen, điều chê về mình”. Người đội hay đội trưởng, lại thường kiêm cai giữ chức cai đình lại là người trong tộc họ quan thủ cửa biển Sa Kỳ cũng như kiêm quản cai thủ, nên nể mà nhận lời. Khi nhận chức cai cai cơ thủ ngự. Chức quan cai cơ thủ ngự đình cũng là lo việc sai dịch công tư trong làng. phụ trách thu thuế, an ninh trên biển, Trong thời buổi mới này lại rất cần những loại chống hải tặc, cướp biển. Như thế, việc người như ông Võ Văn Khiết vừa thẳng thắn, khai thác kinh tế biển luôn kết hợp thanh liêm, cần mẫn... 52
Cũng nhờ ông Khiết, mẫu người rất đá mỏm mà tránh, còn phải biết lấy núi nào làm cần thiết cho giai đoạn mới của xứ sở, chuẩn, biết chiều trời, tiết giá để chuyển phương cái nôi của Đội Hoàng Sa đã sớm ổn hướng, nên tiến hay dừng. Theo sách Khâm định định tình hình. Tháng giêng năm Ất Hợi Đại Nam hội điển sự lệ, quyển 220, của triều (1815), vua Gia Long đã quyết định “sai Nguyễn thì Bộ Công cho rằng người nào mười bọn Phạm Quang Ảnh, thuộc đội Hoàng phần am hiểu thông thạo thì cho vào hạng ưu, Sa ra Hoàng Sa xem xét đo đạc thủy thạo tám chín phần là hạng bình, thạo năm sáu trình” (Đại Nam thực lục chính biên, đệ phần là hạng thứ, châm chước bàn định, ai đáng nhất kỷ, quyển 50, tờ 6a). đề bạt bổ nhiệm làm chánh đội trưởng, ngoại ủy đội trưởng, ai đáng cấp tiền gạo gấp đôi... thì kê Theo Đại Nam thực lục chính biên, đệ sách tâu rõ đợi chỉ gia ân. Những lời dụ và bàn nhất kỷ, quyển 52, từ năm 1816 vua Gia được chuẩn y như sau: \"Thơ lại thủy sư thì cửa Long đã bắt đầu cho thủy binh đi công tác biển hiểm hay dễ, xem giá, trông khí trời, nghiên Hoàng Sa, cùng với đội dân binh Hoàng núi, dò nước, nhìn kiếm tìm hướng, nhớ ra địa Sa ở Quảng Ngãi đi ra Hoàng Sa xem xét cầu, ai được mười phần am hiểu thông thuộc là và đo đạc thủy trình (Đại Nam thực lục hạng ưu, ai được tám chín phần là hạng bình, ai chính biên, đệ nhất kỷ). được có năm sáu phần là hạng thứ. Các tên dư hạng ưu mà nguyên là chánh đội trưởng thì đề Sang đến đời Minh Mạng, việc đo bạt bổ nhiệm làm cai đội, nguyên là đội trưởng đạc thủy trình chủ yếu giao cho thủy thì đề bạt bổ nhiệm làm chánh đội trưởng suất quân có trách nhiệm thực hiện và thuê đội, ai là ngoại ủy đội trưởng thì đề bạt bổ nhiệm thuyền của dân và người lái thuyền ở làm đội trưởng, gặp khi có khuyết thì ưu tiên bổ Quảng Ngãi hướng dẫn hải trình. nhiệm ngay\". Đại Nam thực lục chính biên, đệ nhị Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, quyển kỷ, quyển 165: “Xem từ năm nay về sau, 220, cũng chép: “Như trong một năm, sai phái mỗi khi đến hạ tuần tháng giêng, chọn đường bể nhiều lần, được xong xuôi ổn thoả cả, phái thủy quân biền binh và giám thành hoặc trong một lần mà đi ngoại quốc, cũng là đáp một chiếc thuyền ô nhằm thượng không phái ra ngoại quốc mà hằng gặp sóng gió tuần tháng hai thì đến Quảng Ngãi, giao khác thường, thuyền rất nguy khốn, mà tự mình cho 2 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, thuê chủ trì tiến ngừng phải tốt, rốt cuộc được xong 4 chiếc thuyền của dân hướng dẫn ra xứ xuôi yên ổn thì đều là hạng ưu. Phàm trong năm Hoàng Sa”. ấy sai phái đường bể hai lần, không cứ xa gần, được xong xuôi yên ổn cả thì là hạng bình. Sai Đo đạc thủy trình hay hải trình là phái đường bể một lần xong xuôi yên ổn là hạng đo đạc đường đi ngoài biển. Đây là một thứ. Phái đi không được xong xuôi yên ổn là trong những nhiệm vụ của Bộ Công cốt hạng liệt”. để đảm bảo an toàn cho các thuyền bè đi trên biển, trong đó có vùng biển Trên đây là quy định chung cho thuỷ quân đi biển, thủy quân vừa có dịp để khảo hạch và cũng Hoàng Sa. là dịp luyện tập thủy quân, căn cứ vào đó mà Mỗi lần đi đo đạc phải chọn được thợ lái có năng lực, biết được các nơi đường biển nông sâu, khó dễ, cát ngầm, 53
thưởng phạt. Có thể đối với việc đo đạc lăng mộ tộc họ ở thôn Đông xã Lý Vĩnh (trước ở Hoàng Sa, thưởng phạt đặc biệt hơn. đây là phường An Vĩnh). Hiện có hàng trăm hậu Vì thế từ thời vua Minh Mạng năm thứ duệ đang sống tại huyện đảo Lý Sơn. Các viên 17, việc phái thủy quân ra Hoàng Sa giám thành Trần Văn Vân, Nguyễn Văn Tiện, hàng năm rất đều đặn. Cũng có khi vì giá Nguyễn Văn Hoằng vẽ hoạ đồ Hoàng Sa chưa buốt phải đình lại, sau lại tiếp tục. Như chu tất cũng bị phạt mỗi người 80 trượng. Song năm Thiệu Trị thứ 5 (1845) có dụ chỉ của cùng đi chuyến này những người trong đội vua Thiệu Trị đình hoãn, đến năm Thiệu Hoàng Sa như Võ Văn Hùng (tộc họ Võ hiện còn Trị thứ 6 (1846) cũng cho đình hoãn do từ đường ở thôn Tây, xã Lý Vĩnh, xưa là phường Bộ Công tâu xin hoãn. Sau đó đến thời An Vĩnh, thuộc huyện đảo Lý Sơn), Phạm Văn Tự Đức không còn ghi chép trong sử Sanh (hiện họ Phạm Văn còn từ đường và khu sách nữa bởi theo phàm lệ sách Đại Nam \"lăng\" mộ ở thôn Đông, xã Lý Vĩnh, huyện đảo thực lục chính biên thời Tự Đức những Lý Sơn) hướng dẫn, đo hải trình vất vả, được việc đã thành lệ rồi không còn chép nữa. thưởng mỗi người 1 quan tiền Phi Long ngân tiền và bình thệ, dân phu 2 tỉnh Quảng Ngãi và Thời gian đi vãng thám, đo đạc ở Bình Định đi theo cũng được thưởng mỗi người Hoàng Sa đầu triều Nguyễn theo lệ khởi 1 quan tiền. Cũng thế, vào năm Minh Mạng 18 đi vào mùa Xuân, song cũng tùy năm (1837), do khởi hành chậm trễ, những người sớm trễ khác nhau. Từ kinh thành Huế, được kinh phái như thủy sư suất đội Phạm Văn thuỷ quân đến Quảng Ngãi nghỉ ngơi và Biện, tỉnh phái hướng dẫn Võ Văn Hùng, Phạm chuẩn bị cũng mất một thời gian đáng kể. Văn Sanh (lần trước được thưởng) đều bị phạt. Như năm Minh Mạng 19 (1838) lúc đầu Trong khi các dân binh hai tỉnh Quảng Ngãi và ấn định khởi hành hạ tuần tháng 3, Bình Định đi theo vẫn được thưởng 2 quan tiền. nhưng vì gió Đông nổi lên liên tục kèm Những chi tiết trên đã minh hoạ rất hùng hồn theo mưa lớn, tới hạ tuần tháng 4 vẫn việc thực thi chủ quyền của Việt Nam trong việc chưa khởi hành được. Lúc đầu kế hoạch đo đạc thủy trình và vẽ bản đồ. tính đo đạc giáp vòng Hoàng Sa từ hạ tuần tháng 3 đến hạ tuần tháng 6 là hoàn Nhiệm vụ đo đạc ở Hoàng Sa được qui định tất công việc. Sau dù có đi trễ nhưng thời cũng rất rõ ràng, có ghi trong Đại Nam thực lục gian hoàn tất tháng 6 vẫn không thay đổi. chính biên, đệ nhị kỷ, quyển 165, cũng như Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, quyển Nếu chậm trễ mà có lý do chính 221, như sau: “Không cứ đảo nào, cửa bể nào đáng thì không sao, song nếu tùy tiện thì thuyền chạy đến, sẽ đo nơi ấy chiều dài, chiều bị phạt, hay làm không chu tất cũng bị ngang, bề cao, bề rộng, chu vi bao nhiêu, rà bên phạt. Nếu hoàn tất tốt đều được thưởng. bờ nước bể nông hay sâu. Có cát ngầm, đá mỏm Trong khi năm Minh Mạng thứ 16 hay không, ở tình thế hiểm trở hay bình thường, (1835), cai đội Phạm Văn Nguyên trên xem đo tỏ tường vẽ thành đồ bản, chiếu khi khởi đường công tác đi Hoàng Sa về chậm trễ, hành, do cửa bể nào ra bể, trông phương hướng đã có chỉ giao Bộ Công trị tội và bị phạt nào mà lái đến nơi ấy, cứ theo đường thủy đã đi 80 trượng, song cho phục chức cai đội. khấu tính ước được bao nhiêu dặm đường? lại ở Tộc họ Phạm Văn hiện có nhà thờ họ và 54
chốn ấy trông vào bờ bể đối thẳng là tỉnh chỉ có hải đồ là có thể đi biển chính xác mà lúc hạt nào? và phương hướng nào? Ước nào cũng cần đến những người từng trải đã từng lượng cách bờ bao nhiêu dặm đường? lái thuyền đến các vùng biển đã đi qua. Các hải Ghi nói minh bạch trong hoạ đồ để về đồ về Hoàng Sa vốn được các giám thành vẽ trình lên. Lại từ năm nay trở về sau, mỗi hoặc được lưu ở vệ giám thành, hoặc ở thủy khi đến hạ tuần tháng giêng, chiếu theo quân. Lực lượng thủy quân làm nhiệm vụ xác lập lệ ấy mà làm”. Như thế việc đo đạc phải và thực thi chủ quyền này là một “lực lượng đặc kết hợp với việc vẽ hoạ đồ mà người vẽ nhiệm” gồm kinh phái, tỉnh phái và dân binh địa hoạ đồ lại là các viên giám thành. phương trong đó có dân binh Đội Hoàng Sa. Kinh phái đứng đầu là thủy quân cai đội hay Việc đo đạc để vẽ bản đồ về Hoàng thủy quân chánh đội trưởng chỉ huy cùng với lực Sa dưới triều Nguyễn đã được bắt đầu từ lượng thủy quân lấy trong vệ thủy quân đóng ở thời Gia Long 14 (1815), song đến đời kinh thành hay ở cửa Thuận An. Ngoài thủy Minh Mạng mới được thúc đẩy mạnh. quân kinh phái còn các viên giám thành trong vệ Năm Minh Mạng thứ 16 (1835) các viên giám thành, là những người vẽ bản đồ như đã giám thành Trần Văn Vân, Nguyễn Văn trình bày ở trên. Tỉnh phái là các viên chức ở Tiến, Nguyễn Văn Hoàng vẽ hoạ đồ tỉnh Quảng Ngãi có nhiệm vụ phối hợp với kinh Hoàng Sa chưa chu tất đã bị phạt mỗi phái trong công tác hướng dẫn, cung cấp dân người 80 trượng như đã nêu trên. Tấu công, lo xây dựng, đồng thời còn điều động binh của Bộ Công vào năm Minh Mạng thứ dân ở tỉnh Quảng Ngãi, có khi gồm cả dân binh 17 (1836) cũng chỉ vẽ được một nơi và tỉnh Bình Định như trong chuyến công tác năm cũng chưa biết rõ nên làm thế nào. 1835 và 1837 đã dẫn trên đây. Theo dụ vua Minh Mạng ngày 13 Nhiệm vụ của “lực lượng đặc nhiệm” luôn tháng 7 năm thứ 18 (1837), thủy quân đi được Hoàng đế Việt Nam theo sát và ra chỉ dụ cụ Hoàng Sa vẽ thành đồ bản 11 nơi, tuy thể, nhất là dưới triều vua Minh Mạng, Thiệu nhiên chưa được chu đáo lắm. Theo Tấu Trị, cho ta thấy nhiệm vụ của lực lượng đặc Bộ Công ngày 21 tháng 6 Minh Mạng nhiệm này quan trọng đến chừng nào. thứ 19 (1838), thủy quân đệ trình sau khi đo đạc 3 nơi với 12 hai đảo đã vẽ được 4 Cũng chính vua Minh Mạng ra chỉ dụ nói rõ bức đồ bản, 3 bức vẽ riêng và 1 bức vẽ việc làm cụ thể của từng chuyến đi. Như năm chung, song cũng chưa vẽ rõ ràng lắm, Minh Mạng thứ 17 (1836), Bộ Công tâu trình lên Bộ Công phải yêu cầu vẽ lại tinh vi hơn. vua về chuyến viếng thăm Hoàng Sa của thủy quân, chính đội trưởng Phạm Hữu Nhật, vua Kỹ thuật đo đạc và vẽ bản đồ Hoàng Minh Mạng phê sửa (châu cải): “Báo gấp cho Sa của Việt Nam vào thời kỳ nhà Quảng Ngãi thực thụ ngay, giao cho tên ấy Nguyễn tuy có kỹ, chu đáo hơn trước, (Phạm Hữu Nhật) nhận biên\" và rồi vua Minh song vẫn còn lạc hậu so với kỹ thuật tân Mạng lại phê (châu phê): “Thuyền nào đi đến tiến của phương Tây lúc bấy giờ, nhất là đâu, cắm mốc tới đó để lưu dấu”. chưa xác định được toạ độ theo kinh độ và vĩ độ trên toàn địa cầu. Vì thế, các hải Cũng chính vua Minh Mạng đã lệnh cho các đồ tuy có nhiều chi tiết, song không phải chuyến đi công tác Hoàng Sa và đã nhiều lần ra 55
chỉ dụ thưởng phạt. Thường dân binh cung cấp cho sáu tháng dễ dàng hơn và việc bắt Đội Hoàng Sa, Quảng Ngãi, Bình Định chim, đánh cá để tự cung ứng cấp dưỡng cũng luôn được thưởng 1 hay 2 quan tiền và không còn là vấn đề lớn, để dành thời giờ làm miễn thuế vì sự cực khổ vất vả theo việc, đi thu lượm hải vật quý, lấy hàng hoá, súng đoàn. Còn các viên chỉ huy như cai đội, ống từ tàu đắm. Tài liệu không cho biết rõ chánh suất đội, các viên chức tỉnh phái thuyền ô có đi theo ra Hoàng Sa hay không. mà chậm trễ đều bị tội. Song ít nhất lực lượng thủy quân trên có 4 chiếc thuyền câu. Cũng có năm đi 5 thuyền thì có thể Các chuyến đi công tác ở Hoàng Sa cả thuyền ô khi lực lượng thủy quân đặc nhiệm cũng được tổ chức chuẩn bị kỹ lưỡng. này kết hợp với công tác của Đội Hoàng Sa. Và Chỉ đạo ở trên có Hoàng đế và Bộ Công, như vậy sau này người ta không thấy sử sách nói thi hành có vệ thủy quân là chính, phối nhiều về Đội Hoàng Sa nữa vì lực lượng thủy hợp với vệ giám thành và tỉnh Quảng quân đặc nhiệm này trở thành lực lượng chủ yếu Ngãi, Bình Định. và thường xuyên của Nhà nước Việt Nam trong việc quản lý Hoàng Sa. Thời gian chuẩn bị, từ năm Minh Mạng thứ 17 (1836) Đại Nam thực lục Đến đời vua Minh Mạng, thuỷ quân mới chính biên, đệ nhị kỷ, quyển 154, có ghi được tổ chức thật quy củ, ngoài nhiệm vụ đo đạc rõ: “Xem từ năm nay về sau, mỗi khi đến thủy trình, vẽ bản đồ còn cắm cột mốc, dựng bia hạ tuần tháng giêng, chọn phái thủy chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường quân biền binh và giám thành đáp 1 Sa. Đại Nam nhất thống chí, quyển 6, đã ghi chiếc thuyền ô, nhằm thượng tuần tháng chép rằng trước năm Minh Mạng thứ 16, nhà vua hai thì đến Quảng Ngãi, giao cho 2 tỉnh sai quân lính ra dựng bia đá làm dấu đã thấy phía Quảng Ngãi, Bình Định thuê 4 chiếc Tây Nam đảo có ngôi cổ miếu, không biết kiến thuyền của dân hướng dẫn ra xứ Hoàng thiết vào thời đại nào và có bia khắc bốn chữ Sa”. Như thời gian hàng năm chuẩn bị từ “Vạn Lý Ba Bình”. Như thế trước thời Minh hạ tuần tháng giêng (tháng 2 dương lịch) Mạng đã có việc khắc bia, dựng miếu rồi. đến thượng tuần tháng hai (tháng 3 dương lịch) thì có mặt ở Quảng Ngãi, để Đến năm Minh Mạng thứ 14 (1833), vua sang tháng 3 âm lịch (tháng 4 dương Minh Mạng đã chỉ thị cho Bộ Công sang năm lịch) là lúc biển yên nhất thì khởi hành đi Minh Mạng thứ 15 (1834) phái người ra dựng bia chủ quyền. Đại Nam thực lục chính biên đệ Hoàng Sa. nhị kỷ, quyển 165, cũng đã chép rất rõ từ năm Từ Quảng Ngãi, phải thu 4 chiếc Minh Mạng thứ 17 (1836), Bộ Công tâu Vua, cứ hàng năm, cử người ra Hoàng Sa ngoài việc đo thuyền của dân. Đó là loại thuyền câu, đạc thủy trình, vẽ bản đồ và còn cắm cột mốc, song nhẹ và nhanh hơn, nhỏ hơn thuyền dựng bia. Điếu hải thuộc thủy quân ở các tỉnh. Sở dĩ phải thu vì thuyền của dân binh Đội Tập tấu của Bộ Công ngày 12 tháng 2 năm Hoàng Sa vốn nhanh nhẹ, dễ dàng cặp đổ Minh Mạng 17 (1836) với lời châu phê của vua bộ vào đất liền, dễ dàng tránh né các bãi Minh Mạng cũng đã nêu rất rõ: “Mỗi thuyền ngầm, các thủy thủ lại quá quen thuộc, vãng thám Hoàng Sa phải đem theo 10 tấm bài chưa kể thuyền ít người mang lương thực 56
gỗ (cột mốc) dài 4, 5 thước, rộng 5 tấc\". chính biên, đệ nhị kỷ, quyển 154, đã cho biết Đại Nam thực lục chính biên, đệ nhị kỷ, năm Minh Mạng thứ 15 (1834) đã không thực quyển 6 còn ghi rõ: “Vua Minh Mạng đã hiện việc xây dựng miếu như dự kiến mà mãi y theo lời tâu của Bộ Công sai suất đội đến đầu tháng 6 mùa hạ, năm Minh Mạng thứ thủy quân Phạm Hữu Nhật đưa binh 16 (1835), vua Minh Mạng đã cử cai đội thủy thuyền đi, đem theo 10 cái bài gỗ dựng quân là Phạm Văn Nguyên đem lính và giám làm dấu mốc. Mội bài gỗ dài 5 thước thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi, rộng 6 tấc và dày 1 tấc, mặt bia khắc Bình Định, chuyên chở vật liệu đến dựng miếu những chữ: “Minh Mạng Thập Thất Niên cách toà miếu cổ 7 trượng. Bên trái miếu, phía Bính Thân thủy quân chánh đội trưởng trước miếu xây bình phong. suất đội Phạm Hữu Nhật phụng mệnh vãng Hoàng Sa tương đồ chí thử, hữu chí Thường ba mặt miếu Hoàng Sa bên trái, bên đẳng tư”. (Năm Minh Mạng thứ 17, năm phải và đằng sau đều trồng các loại cây. Bính Thân, thủy quân chánh đội trưởng Theo Việt Sử cương giám khảo lược của Nguyễn suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh ra Thông, thì các quân nhân đến đảo thường đem Hoàng Sa xem xét đo đạc, đến đây lưu những hạt quả thủy nam mà rải ở trong và ngoài dấu để ghi nhớ). miếu, mong cho mọc cây để tìm dấu nhận. Thời gian hoạt động hàng năm của thủy quân vào cuối Mỗi năm cột mốc đều khắc rõ niên mùa khô, kéo dài sang mùa mưa nhiều tháng hiệu, năm, chức vụ, họ tên viên chỉ huy trời, rất thuận lợi cho việc gieo hạt trồng cây. Ý “lực lượng thủy quân đặc nhiệm”, được của vua Minh Mạng sai trồng cây cũng cho rằng phụng mệnh ra Hoàng Sa và ghi dấu để gần đây thuyền buôn thường bị hại, nên trồng nhớ. Nếu chỉ tính sử sách có ghi rõ tên cây cũng cốt làm dấu để cho tàu thuyền dễ nhận những người chỉ huy đội thủy quân đặc biết mỗi khi qua lại. nhiệm của các năm cụ thể thời Minh Mạng như cai đội thuyền Phạm Văn Như thế suốt hơn hai thế kỷ, từ đầu thế kỷ Nguyên năm Minh Mạng thứ 16 (1835), XVII thời các chúa Nguyễn đến nửa đầu thế kỷ chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu XIX thời nhà Nguyễn, Đội Hoàng Sa kiêm quản Nhật năm Minh Mạng thứ 17 (1836), đội Bắc Hải, đã làm nhiệm vụ quản lý nhà nước thủy sư suất đội Phạm Văn Biện năm đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Những hoạt Minh Mạng thứ 18 (1837), thì số đảo động này đã được các văn bản nhà nước như được đánh mốc cũng rất đáng kể. Châu bản của Triều đình nhà Nguyễn cũng như các văn bản chính quyền địa phương như tờ lệnh, Các vị vua chúa Việt Nam, nhất là tờ tư, bằng cấp... hiện đang được lưu giữ tại các thời vua Minh Mạng, rất quan tâm đến Cơ quan lưu trữ có liên quan. việc dựng chùa miếu và trồng cây tại quần đảo Hoàng Sa. Năm Minh Mạng Trong giai đoạn lịch sử này, có một yếu tố thứ 16 (1835), vua đã chuẩn y lời tâu hết sức quan trọng không thể không đề cập đến của Bộ Công cho tỉnh Quảng Ngãi cất khi khẳng định rằng Nhà nước Việt Nam đã quản miếu Hoàng Sa một gian, bằng đá. Việc lý một cách thật sự và có hiệu quả đối với Hoàng dựng miếu này theo Đại Nam thực lục Sa; đó là việc tổ chức đơn vị hành chính của quần đảo Hoàng Sa trong hệ thống tổ chức hành 57
chính của Nhà nước Việt Nam thời bấy hai làng hay xã An Vĩnh, An Hải di dân ra Cù giờ. Trong suốt thời kỳ chúa Nguyễn, Lao Ré lập 2 phường An Vĩnh và An Hải mà Hoàng Sa là đơn vị hành chính thuộc Nguyễn Thông gọi là hai hộ An Vĩnh, An Hải. Thừa Tuyên Quảng Nam, hay Quảng Đến đầu triều Nguyễn, khi dân hai phường Cù Nghĩa hay Ngãi, lúc là phủ, khi là trấn, Lao Ré phát triển, xin tách khỏi hai làng cũ ở đất trong thực tế tự trị của Xứ Đàng Trong. liền trở thành nơi cung cấp chính dân binh cho Bởi từ khi Nguyễn Hoàng trở lại trấn thủ Đội Hoàng Sa. Chính Phạm Quang Ảnh được cử Thuận Quảng (năm 1600) cho tới khi làm đội trưởng Đội Hoàng Sa năm 1815 là người chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738 - 1765) thôn An Vĩnh ở đảo Cù Lao Ré, nay thuộc thôn xưng vương năm 1744, trên danh nghĩa Đông, xã Lý Vĩnh thuộc huyện đảo Lý Sơn. chúa Nguyễn vẫn là quan trấn thủ Thừa Nhiều tài liệu như Việt sử cương giám khảo Tuyên Quảng Nam của Đại Việt, do vua lược của Nguyễn Thông và Đại Nam nhất thống Lê trị vì. Như thế mọi hành động xác lập chí của Quốc sử quán triều Nguyễn đã xác nhận chủ quyền của các chúa Nguyễn vẫn Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Hoàng Sa là dưới danh nghĩa nước Đại Việt. Như thế, nơi hiểm yếu và rộng lớn, nên phủ, rồi trấn, rồi Phủ Quảng Nghĩa có huyện Bình Sơn tỉnh Quảng Nghĩa là đơn vị hành chánh luôn trực (trước đó là huyện Bình Dương) quản lý tiếp can thiệp vào những hoạt động có định kỳ xã An Vĩnh. Toản tập Thiên Nam tứ chí hàng năm của Đội Hoàng Sa để có phương tiện lộ đồ thư hay Toản tập An Nam lộ đã ghi tốt và đảm bảo những yêu cầu của chính quyền \"Bãi Cát Vàng (Hoàng Sa) trong phủ Trung ương ở Phú Xuân gọi là chính dinh, thủ Quảng Nghĩa\". Phủ biên tạp lục của Lê phủ của xứ Đàng Trong hay kinh đô của triều Qúi Đôn chép \"Hoàng Sa ở phủ Quảng Nguyễn sau này. Nghĩa (thuộc dinh Quảng Nam) huyện Bình Sơn, xã An Vĩnh” Địa Dư Chí của II. Với tư cách đại diện cho Việt Nam về Phan Huy Chú chép \"Hoàng Sa ở trấn đối ngoại, Cộng hòa Pháp tiếp tục khẳng Quảng Nghĩa\". Sang thời Tây Sơn từ định, quản lý và bảo vệ chủ quyền của Việt 1773, phủ Quảng Nghĩa được đổi thành Nam tại Hoàng Sa trong thời kỳ Pháp thuộc phủ Hoà Nghĩa. (1884 đến 1945) Sang thời nhà Nguyễn, năm 1801, Với tư cách đại diện cho Việt Nam về đối Hoà Nghĩa đã được gọi lại với tên Quảng ngoại theo Hiệp ước Patenôtre năm 1884, Nghĩa, (cùng nghĩa với Ngãi đọc chệch). chính quyền thuộc địa Pháp đã có những hành Tại phủ Quảng Nghĩa ngoài viên tuần động cụ thể để củng cố, khẳng định và bảo vệ phủ, khánh lý, còn có một viên chính hộ chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng lý, một viên đề lãnh, một viên ký lục, Sa và Trường Sa. một viên cai phủ và một viên thư ký. Sau Quảng Nghĩa trở thành trấn, rồi tỉnh. Bức thư của lãnh sự Pháp Beauvais ở Quảng Năm 1829, tiếp tục quản lý xã An Vĩnh. Châu gửi Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháp ngày Dần dần xã An Hải phía Bắc cửa biển Sa 4/5/1909 đã nêu ý đồ của Trung Quốc xâm phạm Kỳ cũng cung cấp lính Hoàng Sa. Dân chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam đã viết: \"Như tôi đã trình bày với ông khi kết thúc bản báo cáo gần đây của tôi (số 86 ngày 01/5/1909) về vấn đề 58
các đảo Pratas, vấn đề này khiến chính tháng 6 năm 1909 (tức là ngày 19 âm lịch) phái phủ Trung Quốc chú ý đến các nhóm đảo đoàn trông thấy một đảo trong quần đảo Paracel khác nằm dọc bờ biển của Thiên Triều rồi thăm vài đảo, và đến ngày 7 tháng 6 năm và tới một mức độ nhất định có thể được 1909, lúc 4 giờ chiều, hai pháo hạm thẳng đường coi như một bộ phận của Thiên triều, quay lại Quảng Châu như tờ báo Kono Che pao trong đó có quần đảo Paracels\". (tờ báo lớn nhất Quảng Châu) cho biết trong một bài báo ngày 20 tháng 6 năm 1909. Cũng trong thư trên đề ngày 4 tháng 5 năm 1909, lãnh sự Pháp ở Quảng Châu Năm 1925, theo Khâm Sứ Trung kỳ LeFol gửi cho Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháp viết trong thư ngày 22 tháng 1 năm 1926 gởi cho có một số nội dung đáng lưu ý sau đây: Toàn quyền Đông Dương, người Pháp bắt đầu nghiên cứu sâu quá trình xác lập chủ quyền của - Do ảnh hưởng của việc Nhật chiếm \"vương quốc Việt Nam\" tại quần đảo Hoàng Sa, Pratas, Trung Quốc muốn bắt đầu chiếm trước khi cử ông Giám đốc Viện Hải dương học luôn quần đảo Paracels gần Hải Nam. và Nghề cá ở Nha Trang - ông M.A. Krempt đi - Cuộc khảo sát trái phép đầu tiên là thám sát Hoàng Sa. của Đoàn Ngô Kính Vinh đã cho thấy ở Qua kết quả nghiên cứu tìm hiểu về Hoàng mỗi đảo Hoàng Sa đều có một ngôi miếu nhỏ xây kiểu nhà đá (tất cả tường mái là Sa, Khâm sứ Trung kỳ LeFol trong thư ngày 22 đá san hô và vỏ sò). tháng 1 năm 1929 gửi Toàn quyền Đông Dương cho biết: \"Trong tác phẩm (Géographie de la - Các ngư dân Việt Nam mang cả vợ Cochinchine được dịch ra Tiếng Anh và đăng con đến sống ở Hoàng Sa, bị đối xử tàn trong tạp chí Journal de la Société Asiatique de tệ, vợ con bị bắt đến Hải Nam. Bengale năm 1838, đức cha Jean Louis Taberd, giám mục Ismaropolis (Khâm Mạng toà thánh tại P.A. La Picque hồi năm 1909 đang Nam kỳ, Cao Miên và Champa) đã kể lại việc cư trú ở Hồng Kông đã thuật lại cuộc Hoàng đế Gia Long đã chiếm hữu quần đảo khảo sát Hoàng Sa của chính quyền tỉnh Paracels năm 1816 và long trọng kéo lá cờ Nam Quảng Đông năm 1909 như sau: kỳ trên quần đảo. Việc chiếm hữu đó đã được các Biên niên sử của chính quyền An Nam hay \"Vào cuối tháng 5/1909, hai pháo Đại Nam nhất thống chí, Nam Việt địa dư tập 2 hạm nhỏ ở Quảng Châu chuẩn bị ra khơi, hay Địa dư nước An Nam, xuất bản năm thứ 14 trên tàu có hai người Đức thuộc Maison đời Minh Mạng và cuối cùng \"Đại Nam nhất Carlwitz, ngoài ra còn có các thủy thủ thống chí\" quyển 6 hay \"Địa dư Duy Tân\"; “các Trung Quốc, trong đó hình như có một tài liệu trong kho lưu trữ của chính phủ An Nam đô đốc \"đường sông\", nếu như hạm đội cung cấp cho ta những chi tiết về hoạt động của nhỏ đó, nhờ có đất liền che chắn, đến đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải đặt dưới quyền chỉ được cảng Du Lâm, một cảng ở phía huy của đội Hoàng Sa”. nam đảo Hải Nam một cách khá dễ dàng, thì nó vẫn bị nghẽn ở đó đến nửa tháng, Và cũng chính trong bức thư kể trên, ông chắc là để chờ ra khơi thì các đợt gió LeFol đã cho biết trước khi mất, ông Thân Trọng \"Fong - sami\" trở nên thuần lại và Huề, Thượng thư Bộ Binh của triều đình Huế đã thường làm cho các nhà hàng hải dũng cảm đỡ say sóng\". \"Cuối cùng, ngày 6 59
viết một văn thư ngày 3 tháng 3 năm Cố vấn Pháp Luật Bộ Ngoại giao Pháp đã viết 1925 khẳng định rằng: \"Các đảo nhỏ đó rất rõ: \"Việc chiếm hữu quần đảo Spartley do bao giờ cũng là sở hữu của nước An Pháp tiến hành năm 1931-1932 là nhân danh Nam, không có sự tranh cãi trong vấn Hoàng đế \"An Nam\". Trong trường hợp này cái đề này”. danh nghĩa duy nhất mà Pháp đòi hỏi ở đây là việc thực thi chủ quyền có từ trước, là những Người Pháp cho rằng Hoàng Sa vốn danh nghĩa của \"An Nam\", và với tư cách là đã thuộc chủ quyền Việt Nam, không cần nước bảo hộ, chịu trách nhiệm về các quan hệ một hành động chiếm hữu chủ quyền đối ngoại của \"An Nam\", Pháp có thể sử dụng trên quần đảo Hoàng Sa nữa, nên Viện các quyền đó để chặn các nước thứ ba, và có thể Hải dương học và Nghề cá Nha Trang nhận được xét xử quốc tế việc thừa nhận các (L’institut Océanographique de Nha quyền nói trên. Nếu các quan hệ điều ước giữa Trang) đã thực hiện cuộc khảo sát đầu Pháp và \"An Nam\" vẫn được xác định bởi Hiệp tiên năm 1925 bởi tàu khảo sát kéo lưới ước Bảo hộ được ký ở Huế ngày 6 tháng 6 năm 1884 thì về phương diện này không thể xuất hiện Chalutier De Lanessan do M.A. Krempt, bất kỳ khó khăn nào; và chính phủ Pháp có giám đốc, cùng các nhà khoa học như De quyền bằng cách hành động với danh nghĩa nước bảo hộ, thay mặt nước bị bảo hộ thi hành các La Cour, Jabouille. thẩm quyền mà nước bị bảo hộ này không thể thi Các cuộc khảo sát chủ yếu nghiên hành. Tại công văn số 704-A.ex, Toàn quyền Đông Dương gửi Bộ trưởng Bộ Thuộc địa báo cứu về những ám tiêu của các bãi ngầm cáo về lập trường của Phủ toàn quyền đối với ở Hoàng Sa. Từ đó tác giả đưa ra lập việc chính quyền địa phương Quảng Đông đòi luận giải thích về sự hình thành các ám chủ quyền đối với Hoàng Sa, trong đó nhấn tiêu cùng với ảnh hưởng của gió mùa. mạnh việc thương lượng giữa Pháp với một chính quyền không có quyền hành gì ở niềm Ngày 8 tháng 3 năm 1925, Toàn Nam Trung Quốc là không thích hợp, và chắc quyền Đông Dương đã tuyên bố khẳng chắn sẽ thất bại. Ngày 4 tháng 1 năm 1932, định quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa Chính phủ Pháp gửi Công hàm tới Công sứ quán là lãnh thổ của Pháp. Trung Quốc tại Paris khẳng định chủ quyền của Pháp đối với Hoàng Sa và đề nghị giải quyết Tháng 19 tháng 3 năm 1926, Thống tranh chấp thông qua đàm phán hữu nghị hoặc đốc Nam kỳ cấp giấy phép nghiên cứu bằng phương thức Trọng tài quốc tế. Công hàm mỏ ở đảo Trường Sa cho Công ty ngày 4 tháng 1 năm 1932 của Trung Quốc trả lời Phosphat mới của Bắc kỳ. Công hàm của Pháp đã khước từ đề nghị giải quyết tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa bằng Trong thư ngày 20 tháng 3 năm phương thức Trọng tài quốc tế. Trung Quốc lập 1930, Toàn quyền Đông Dương gửi cho Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp cũng đã 60 xác nhận rằng: \"Tôi hoàn toàn đồng ý với những người viết thư cho ông là cần thừa nhận lợi ích nước Pháp có thể có trong việc nhận danh An Nam, đòi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa\". Câu này trong bản ghi chú cho Vụ Châu Á Đại Dương ngày 15 tháng 5 năm1950,
luận rằng khi vua Gia Long chiếm hữu Tháng 6/1938, một đơn vị lính bảo an Việt Nam được phái ra đồn trú tại quần đảo Hoàng Sa. quần đảo ấy, Việt Nam là một nước chư Một bia chủ quyền được dựng trên đảo Hoàng Sa, với dòng chữ: “République Francaise - Royaume hầu của Trung Quốc. d’Annam - Archipels des Paracels 1816 - Ile de Ngày 24 tháng 4 năm 1932, Chính Pattle 1938”. phủ Pháp phản đối Chính phủ Trung Trong chiến tranh thế giới lần thứ 2, Nhật Quốc về việc nhà cầm quyền Quảng Bản đã rắp tâm biến các quần đảo trong Biển Đông dự định cho đấu thầu khai thác Đông trở thành bàn đạp để mở rộng sự chiêm phốt phát ở quần đảo Hoàng Sa. Ngày đóng của mình xuống khu vực Đông Nam châu 29 tháng 9 năm 1932, Chính phủ Pháp Á, ngày 31 tháng 3 năm 1939, Nhật tuyên bố sáp đã có kháng nghị nêu rõ các danh nghĩa nhập các quần đảo trong Biển Đông vào các lịch sử và các bằng chứng về sự chiếm vùng lãnh thổ mà Nhật đã chiếm đóng. Ngày 4 hữu của An Nam, sau đó là Pháp, đối tháng 4 năm 1939, Chính phủ Pháp gửi Công với Hoàng Sa. hàm phản đối các quyết định nói trên của Nhật và bảo lưu các quyền của Pháp tại quần đảo Ngày 18 tháng 2 năm 1937, một lần Hoàng Sa và Trường Sa. nữa, Pháp chính thức yêu cầu Trung Quốc áp dụng phương thức Trọng tài quốc tế để Ngày 5 tháng 5 năm 1939, Toàn quyền Đông xác định chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, Dương J. Brevie ký Nghị định số 3282 tách đơn phía Trung Quốc lại khước từ. Ngày 26 vị hành chính Hoàng Sa thành hai đơn vị hành tháng 11 năm 1937, Pháp phái kỹ sư chính: ‘Croissant và các đảo phụ thuộc’ trưởng công chính J.Gauthier ra Hoàng , ‘Amphitrite và các đảo phụ thuộc’. Sa để nghiên cứu tìm địa điểm xây dựng đèn biển, bãi đỗ cho thủy phi cơ và các Ngày 26 tháng 11 năm 1943, Tuyên bố điều kiện định cư ở quần đảo này. Cairo về việc kết thúc chiến tranh với Nhật và giải quyết các vấn đề sau chiến tranh, trong đó Năm 1938 Pháp bắt đầu phái các đơn có vấn đề lãnh thổ nước khác bị quân Nhật vị bảo an tới các đảo và xây dựng môt chiếm đóng: ‘Mục đích của 3 nước là Nhật Bản hải đăng, môt trạm khí tượng (OMM phải bị loại ra khỏi tất cả các quần đảo ở Thái đăng ký số 48860) đặt ở đảo Hoàng Sa Bình Dương mà Nhật Bản đã cướp hoặc chiếm và số 48859 ở đảo Phú Lâm, một trạm vô đóng từ khi bắt đầu cuộc chiến tranh thế giới lần tuyến TSF trên đảo Hoàng Sa. thứ nhất năm1914…’ Ngày 30 tháng 3 năm 1938, Vua Bảo Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Nhật thua trận Đại ký dụ số 10 sáp nhập Hoàng Sa vào phải rút khỏi Đông Dương. tỉnh Thừa Thiên thay vì Nam Ngãi như các Triều trước. Ngày 26 tháng 7 năm 1945, Tuyên bố Posdam khẳng định ‘các điều khoản của Tuyên Ngày 15 tháng 6 năm 1938, Toàn bố Cairo sẽ được thực hiện’. quyền Đông Dương Jules Brévié ký Nghị định số 156-S-V thành lập đơn vị hành chính ở quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên. 61
Ngày 26 tháng 8 năm 1945, đã dựa vào bản đồ này để liên tục tung ra các loại bản đồ Trung Quốc có vẽ đường biên giới ngay sau khi Nhật đầu hàng, quân đội biển 9 đoạn và đã chính thức hóa đường biên giới biển đầy tham vọng này tại một Công hàm Nhật đã rút khỏi quần đảo Hoàng Sa và mà họ đã gửi lên LHQ vào tháng 5 năm 2009 để phản đối Hồ sơ ranh giới ngoài Thềm lục địa do Trường Sa. Việt Nam và Malaysia nộp lên UB ranh giới III. Lợi dụng Việt Nam đang lo TLĐ của LHQ. đối phó với sự trở lại của thực dân Ngày 13 tháng 1 năm 1947, Chính phủ Pháp Pháp và lo kháng chiến chống Pháp, chính thức phản đối sự chiếm đóng bất hợp pháp quân Tưởng Giới Thạch, và sau đó là của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa; quân của CHND Trung Hoa đã tiến trong đó, Pháp đã nêu lên những bảo lưu về hậu hành chiếm đóng các đảo ở quần đảo quả pháp lý từ việc chiếm đóng quần đảo Hoàng Hoàng Sa và Trường Sa (1946 - 1956) Sa của quân đội Trung Hoa dân quốc, đồng thời nhắc lại đề nghị tìm giải pháp giải quyết tranh Vào lúc quân đội viễn chinh Pháp và chấp bằng Trọng tài và ngày 17/10/1947 thông Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà báo hạm Tonkinois của Pháp được phái đến đang bận đối phó với cuộc chiến tranh Hoàng Sa để yêu cầu quân Trung Quốc rút khỏi toàn diện sắp xảy ra, thì ngày Phú Lâm. Pháp gửi một phân đội lính, gồm 10 26/10/1946, hạm đội đặc biệt của Trung lính Pháp và 17 lính Việt Nam đổ bộ đóng một Hoa Dân Quốc gồm 4 chiến hạm, mỗi đồn ở đảo Hoàng Sa và quyết định lập đài khi chiếc chở một số đại diện của các Bộ và tượng trên đảo này. Chính phủ Trung Quốc phản 59 binh sĩ cảnh vệ của Hải quân lấy cớ kháng và các cuộc thương lượng được tiến hành giải giáp quân Nhật ra chiếm các đảo ở từ ngày 25 tháng 2 đến ngày 4 tháng 7 năm 1947 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày tại Paris. Tại đây, chính phủ Trung Quốc đã từ 29/11/1946, các tàu Vĩnh Hưng và Trung chối không chấp nhận việc nhờ Trọng tài quốc tế Kiên tới đảo Hoàng Sa và đổ bộ lên đây. giải quyết do Pháp đề nghị. Tàu Thái Bình và Trung Nghiệp đến Trường Sa. Trong hoàn cảnh lịch sử cuối năm 1946 đầu năm 1947, Việt Nam đã giành được độc lập từ Cũng trong thời gian này, một công năm 1945, không còn ràng buộc vào hiệp định chức, tên là Bai Meichu, của chính Patenôtre (1884) với Pháp, song Pháp cho rằng quyền Đài Loan đã vẽ và xuất bản bản theo Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946, đồ “Nam Hải chư đảo’’; trong đó có thể Việt Nam Dân chủ Cộng hoà còn nằm trong khối hiện đường biên giới biển bao trùm Liên hiệp Pháp, về ngoại giao vẫn thuộc về khoảng 80% diện tích Biển Đông, Pháp, nên Pháp vẫn thực thi quyền đại diện Việt thường được gọi là đường biên giới “lưỡi Nam trong vấn đề chống lại xâm phạm chủ bò’’mà không dựa vào bất cứ một tiêu quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và chuẩn nào theo luật pháp và thực tiễn Trường Sa. quốc tế. Chính tác giả và nhiều học giả Trung quốc đã không thể đưa ra được bất 62 kỳ lý do nào để biện minh cho đường biên giới biển đã được thể hiện một cách tùy tiện này. Tuy vậy, phía Trung quốc
Với Hiệp định ngày 8/3/1949, Pháp đó có nội dung: Nhật thừa nhận chủ quyền của gây dựng được chính quyền thân Pháp Cộng Hoà Nhân dân Trung Hoa đối với đảo còn gọi là Quốc gia Việt Nam do cựu Hoàng Sa và những đảo xa hơn nữa ở phía hoàng Bảo Đại đứng đầu, đối đầu với Nam. Khoản tu chỉnh này đã bị Hội nghị bác bỏ chính quyền Cách mạng do Chủ tịch Hồ với 48 phiếu chống và 3 phiếu thuận. Chí Minh lãnh đạo, để củng cố cơ sở pháp lý hình thức trong quan hệ với Ngày 7/9/1951, Thủ tướng kiêm Ngoại Pháp, nhất là trên thực tế quân Pháp trưởng Trần Văn Hữu của Chính phủ Bảo Đại đang làm chủ Biển Đông, trong đó có long trọng tuyên bố rằng hai quần đảo Hoàng Sa quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. và Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam: \"Et Năm 1949, Tổ chức khí tượng thế giới comme il faut franchement profiter de toutes (OMM) chính thức công nhận các Trạm khí tượng do Pháp xây dựng và đăng ký occasions pour étouffer les germes de discorde, vào Danh sách các Trạm khí tượng quốc tế, với các số hiệu: Trạm Phú Lâm số nous affirmons nos droits sur les iles de Spratley 48859, Trạm Hoàng Sa số 48860… et de Paracels qui de tout temps ont fait partie du Ngày 8 tháng 3 năm 1949, Pháp ký Viet Nam’’. với Bảo Đại Hiệp định Hạ Long trao trả độc lập cho Chính phủ Bảo Đại và tháng Không một đại biểu nào trong Hội nghị có ý 4, Đổng lý Văn phòng, Hoàng thân Bửu kiến gì về Tuyên bố này. Lộc tuyên bố khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa. Kết thúc Hội nghị là ký kết Hoà ước với Nhật ngày 8 tháng 9 năm 1951. Trong Hòa ước Ngày 1 tháng 10 năm 1949, Nước này có điều 2, đoạn 7 ghi rõ: \"Nhật Bản từ bỏ CHND Trung Hoa ra đời; Đơn vị đồn trú mọi quyền, danh nghĩa và tham vọng đối với các của Trung Hoa Dân quốc phải rút khỏi quần đảo Paracels và Spratly\" (khoản f) đảo Phú Lâm, trong khi đó Pháp vẫn duy trì quân đồn trú tại đảo Hoàng Sa. Ngày 24/8/1951, lần đầu tiên Tân Hoa Xã lên tiếng tranh cãi về quyền của Pháp và những Ngày 14 tháng 10 năm 1950, Chính tham vọng của Philippines và kiên quyết khẳng phủ Pháp chính thức trao lại cho Chính định quyền của Trung Quốc. phủ Bảo Đại việc quản lý và bảo vệ quần đảo Hoàng Sa. Tổng trấn Trung phần Khi ra thông báo về bản Dự thảo Hòa ước Phan Văn Giáo đã chủ trì việc bàn giao với Nhật ở San Francisco, ngày 15 tháng 8 năm này. Hội nghị San Francisco có 51 quốc 1951, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà gia tham dự từ ngày 5 tháng 9 đến ngày Nhân dân Trung Hoa Chu Ân Lai ra tuyên bố 8 tháng 9 năm 1951, ký kết hoà ước với công khai khẳng định cái gọi là “tính lâu đời Nhật. Ngày 5/9/1951, tại phiên họp toàn của các quyền của Trung Quốc đối với quần thể mở rộng, Ngoại trưởng Gromyko đảo’’, trong khi Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (Liên Xô cũ) đã đưa đề nghị tu chỉnh và Trung Hoa Dân quốc không tham dự Hội 13 khoản của Dự thảo Hòa ước. Trong nghị này. Như thế, lợi dụng tình hình rối ren, Nhật đầu hàng đồng minh, quân Tưởng Giới Thạch lợi dụng việc giải giáp quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra theo Hiệp định Postdam, đã đem quân chiếm giữ đảo Phú Lâm (Ile de Boisée) cuối năm 1946 63
thuộc quần đảo Hoàng Sa và đảo Ba Quốc bí mật đưa quân ra chiếm đóng nhóm phía Bình (Itu Aba) thuộc quần đảo Trường Đông quần đảo Hoàng Sa, trong đó có đảo Phú Sa vào đầu năm 1947. Đến năm 1950, Lâm và Linh Côn. Ngày 01/6/1956, Ngoại khi lực lượng quân đội của Trung Hoa trưởng Việt Nam Cộng hoà Vũ Văn Mẫu ra Dân quốc phải rút ra khỏi Hoàng Sa và tuyên bố tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam Trường Sa và Hoà ước San Francisco đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. buộc Nhật từ bỏ sự chiếm đóng hai quần đảo này, Thủ tướng, kiêm ngoại IV. Quân Pháp rút khỏi Việt Nam, sau trưởng Trần Văn Hữu của chính phủ Bảo khi thua trận Điện Biên Phủ, và trong thời Đại, đã long trọng tuyên bố rằng hai kỳ Việt Nam chia đôi theo qui định của Hiệp quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh định Genève khiến Trung Quốc, Đài Loan, thổ Việt Nam. Philippines tranh chấp chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa thuộc quyền quản lý, bảo Hiệp định Genève ký kết ngày 20 vệ của Chính quyền Việt Nam Cộng hòa tháng 7 năm 1954 chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương, công nhận độc lập, chủ (1956 - 1975) quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất Việc Pháp thua trận ở Điện Biên Phủ và ký của nước Việt Nam. Điều 1 qui định đường ranh tạm thời về quân sự được ấn Hiệp định Genève 20 tháng 7 năm 1954, buộc định bởi sông Bến Hải (ở vĩ tuyến 17). quân Pháp phải rút lui khỏi Việt Nam tháng 4 Đường ranh tạm thời này cũng được kéo năm 1956 và để khoảng trống bố phòng ở Biển dài ra trong hai phần bằng một đường Đông khiến các nước trong khu vực, trong đó có thẳng từ bờ biển ra ngoài khơi theo điều Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Trung Hoa Dân 4 của Hiệp định. Cũng theo điều 14 của quốc (Đài Loan) và Philippines, cho là cơ hội tốt bản Hiệp định, trong khi chờ đợi cuộc để đưa lực lương quân sự ra chiếm đóng trái phép tổng tuyển cử đưa lại sự thống nhất cho một số đảo ở Hoàng Sa cũng như Trường Sa của Việt Nam, bên đương sự và quân đội do Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Nam Cộng hòa đã tích thoả hiệp tập kết ở khu nào sẽ đảm cực tổ chức các hoạt động nhằm quản lý và bảo nhiệm việc hành chính trong khu tập kết vệ Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam: đó. Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông ở dưới vĩ tuyến 17 sẽ đặt Ngày 22/8/1956, song song với việc đưa dưới sự quản lý hành chính của Chính lực lượng hải quân ra quần đảo Trường Sa để quyền Việt Nam Cộng hòa. chiếm giữ, bảo vệ quần đảo này trước những hoạt động xâm lấn của các lực lượng nói trên, Tháng 4 năm 1956, khi quân viễn Việt Nam Cộng hòa đã tổ chức một số hoạt chinh Pháp rút khỏi Đông Dương, quân động tại quần đảo Hoàng Sa, như: Tổ chức đội Quốc gia Việt Nam, sau gọi là Việt đoàn nghiên cứu thủy văn do Saurin dẫn đầu; Nam Cộng hoà, đã chiếm đóng các đảo cho phép kỹ nghệ gia Lê Văn Cang tiến hành phía Tây của quần đảo Hoàng Sa, bao khai thác phốt phát ở Hoàng Sa. Từ năm 1957, gồm đảo Hoàng Sa, với số quân là 40 Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hòa đã người. Cũng trong thời gian này, Trung cử một đại đội thủy quân lục chiến ra quản lý, bảo vệ quần đảo Hoàng Sa thay thế cho quân của đại đội 42 thuộc tiểu đoàn 142. 64
Ngày 21 tháng 2 năm 1959, CHND Ngày 24 tháng 9 năm 1973, Việt Nam Cộng Trung Hoa cho một số lính đóng giả ngư hòa thông báo dự định tiến hành các cuộc khảo dân bí mật đổ bộ lên các đảo Hữu Nhật, sát dầu lửa khu vực ngoài khơi bờ biển miền Duy Mộng, Quang Hòa nhằm đánh Trung, đối diện với quần đảo Hoàng Sa. chiếm nhóm phía Tây quần đảo Hoàng Sa. Lực lượng quân đội Việt Nam Cộng Ngày 15 tháng 1 năm 1974, sau khi tuyên bố hòa đã phá tan được âm mưu này, 82 lên án chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã “xâm “ngư dân” và 5 thuyền đánh cá vũ trang lấn đất đai của Trung Quốc”, “tất cả các quần đã bị bắt giữ và bị áp giải về giam tại Đà đảo Nam Sa, Tây Sa, Đông Sa và Trung Sa là Nẵng, sau đó được trả cho Trung Quốc. lãnh thổ của Trung Quốc”…, CHND Trung Hoa đã đưa quân đổ bộ và căm cờ Trung Quốc lên Năm 1960, Việt Nam Cộng hòa đã các đảo Hữu Nhật, Quang Ảnh, Quang Hòa và bổ nhiệm ông Nguyễn Bá Thược, cán bộ Duy Mộng thuộc nhóm đảo phía Tây quần đảo hành chính hạng I tại Tam Kỳ, Quảng Nam, nhận chức vụ Phái viên hành chính Hoàng Sa. Hoàng Sa; ngày 27 tháng 6, năm 1961 bổ Ngày 16 tháng 1 năm 1974, Tuần dương nhiệm ông Hoàng Yên giữ chức vụ Phái hạm Lý Thường Kiệt của Hải quân Việt Nam viên hành chính Hoàng Sa. Cộng hòa đã đưa phái đoàn quân lực ra Hoàng Ngày 13 tháng 7 năm 1961, Việt Sa và đã phát hiện 2 chiến hạm số 402 và 407 của Hải quân Trung Quốc đang ở gần đảo Hữu Nam Cộng hòa sáp nhập quần đảo Nhật, xác nhận quân Trung Quốc đã chiếm đóng, Hoàng Sa vào tỉnh Quảng Nam và thành cắm cờ trên các đảo Quang Hòa, Duy Mộng, lập tại quần đảo này một xã, gọi là xã Quang Ảnh… Lập tức, Ngoại trưởng Vương Định Hải, thuộc quận Hòa Vang, tỉnh Văn Bắc họp báo tố cáo Bắc Kinh đã huy động Quảng Nam; tại Nghị Định số 709-BNV- tàu chiến vi phạm vùng biển quần đảo Hoàng Sa HCĐP-26 ngày 21 tháng 10 năm 1969 và đưa binh lính đổ bộ xâm chiếm các đảo Hữu của Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa, xã Nhật, Quang Ảnh, Quang Hòa, Duy Mộng, thuộc Định Hải được sáp nhập vào xã Hòa nhóm phía Tây quần đảo Hoàng Sa. Long, quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam. Từ ngày 17 tháng 1 đến ngày 20 tháng 1 Ngày 11 tháng 4 năm 1967, Việt năm 1974, trận hải chiến giữa lực lượng Hải Nam Cộng hòa ban hành Nghị Định số quân Việt Nam Cộng hòa và lực lượng Hải, Lục, 809-NĐ-DUHC cử ông Trần Chuân giữ Không quân, Quân giải phóng Nhân dân Trung chức Phái viên hành chính xã Định Hải, Hoa, xảy ra trong tình thế rất khó khăn cho quân quận Hòa Vang, Quảng Nam. lực Việt Nam Cộng hòa, và mặc dù đã chiến đấu quả cảm, nhiều binh sỹ đã anh dũng hy sinh, Ngày 13 tháng 7 năm 1971, tại Hội Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã không thể giữ nghị ASPEC (Conseil de l’Asie et du được các đảo thuộc nhóm phía Tây quần đảo Pacifique) tại Manila, Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam Cộng hòa Trần Văn Lắm Hoàng Sa. đã tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Quan sát viên của Việt Nam Cộng hòa tại Sa và quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. LHQ đã chính thức yêu cầu Chủ tich HĐBA LHQ xem xét hành động xâm phạn chủ quyền 65
lãnh thổ Việt Nam tại quần đảo Hoàng đòi nhà cầm quyền Trung Quốc không được xâm Sa. Ngày 19 tháng 1 năm 1974, Bộ ngoại phạm lãnh thổ Việt Nam theo đúng nội dung giao Việt Nam Cộng hòa ra Tuyên cáo Điều 1 và Điều 4 của Định ước. kêu gọi các dân tộc yêu chuộng công lý và hòa bình lên án hành động xâm lược Ngày 22 tháng 1 năm 1974, Tổng thống Việt thô bạo của Trung Quốc, buộc Trung Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu đã gửi thư Quốc chấm dứt ngay hành động nguy cho Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon về biến hiểm đó. cố Hoàng Sa và ngày 28 tháng 1 năm 1974, thông báo tới tất cả các Quốc gia có quan hệ Cũng trong thời gian này, Chính phủ ngoại giao với Việt Nam Cộng hòa về hành động Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền hiếu chiến của Trung Quốc trong cuộc hành quân Nam Việt Nam đã ra Tuyên bố nêu rõ xâm lược quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền lập trường của mình: Việt Nam. - Chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh Ngày 30 tháng 3 năm 1974, tại kỳ họp lần thổ là những vấn đề thiêng liêng đối với thứ 30 của Hội đồng kinh tế LHQ về Châu Á và mỗi dân tộc. Viễn Đông (ECAPE), tại Colombo, Phái đoàn Việt Nam Cộng hòa đã tuyên bố khẳng định - Vấn đề biên giới và lãnh thổ là quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là vấn đề mà giữa các nước láng giềng lãnh thổ của Việt Nam. thường có những tranh chấp do lịch sử để lại. Ngày 2 tháng 7 năm 1974, tại kỳ họp thứ 2 của Hội nghị lần thứ 3 của LHQ về Luật Biển - Các nước liên quan cần xem xét (UNCLOS III) diễn ra tại Caracas (20/6/1974- vấn đề này trên tinh thần bình đẳng, tôn 29/8/1974), Đại biểu của Việt Nam Cộng hòa đã trọng lẫn nhau, hữu nghị và láng giềng lên tiếng tố cáo Trung Quốc xâm chiếm quần tốt và phải giải quyết bằng thương lượng. đảo Hoàng Sa bằng vũ lực và khẳng định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là lãnh thổ Ngày 20 tháng 1 năm 1974, lúc 16 Việt Nam, chủ quyền của Việt Nam đối với 2 giờ, Ngoại trưởng Vương Văn Bắc, đã quần đảo này là không tranh chấp và không thể thông báo tình hình quần đảo Hoàng Sa chuyển nhượng. cho Martin, Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn, và yêu cầu Hoa Kỳ cho biết sẽ dành cho Ngày 14 tháng 2 năm 1975, Việt Nam Cộng Việt Nam Cộng hòa sự ủng hộ nào về vật hòa công bố Sách trắng về chủ quyền Việt Nam chất, chính trị với tư cách là nước thân đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. hữu và đồng minh, cũng như với tư cách là quốc gia đã ký kết và bảo đảm cho V. Nhà nước Việt Nam thống nhất đã tiếp Hiệp định Paris ngày 27 tháng 1 năm tục thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với 1973, không? Nhưng không nhận được quần đảo Hoàng Sa từ sau năm 1975 trả lời của Hoa Kỳ. Sau chiến thắng Buôn Mê Thuột, thời cơ Ngày 21 tháng 1 năm 1974, Chính chiến lược giải phóng miền Nam đã đến. Bộ quyền Việt Nam Cộng hòa đã gửi Công chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền hàm cho các thành viên ký kết Định ước Nam ngay trong mùa khô năm 1975, bao gồm Paris đề nghị các thành viên lên án và 66
các đảo và các quần đảo Trường Sa, Côn Ngày 5 tháng 6 năm 1976, Người phát ngôn Bộ ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Lôn, Phú Quốc... Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên bố khẳng Ngày 05/4/1975, Bộ Tư lệnh Hải định chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và có quyền bảo vệ chủ quân đã triển khai kế hoạch chiến đấu quyền đó. giải phóng quần đảo Trường Sa. Lực lượng tham gia giải phóng gồm có các Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Nhà nước Cộng tàu của đoàn vận tải quân sự 125, đoàn hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam được thành lập 126 đặc công, tiểu đoàn 471, đặc công và hoàn toàn có nghĩa vụ, quyền hạn tiếp tục quân khu 5 và tiểu đoàn 407 cùng lực quản lý và bảo vệ chủ quyền Việt Nam đối với lượng đặc công tỉnh Khánh Hoà. Bộ Tư quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. lệnh Hải quân chủ trương nhanh chóng đánh đảo Song Tử Tây trước để làm bàn Ngày 12/5/1977, Chính phủ CHXHCN Việt đạp và rút kinh nghiệm đánh tiếp các đảo Nam ra Tuyên bố về các vùng biển và thềm lục Nam Yết, Sơn Ca, Sinh Tồn, An Bang, địa Việt Nam, trong đó đã khẳng định quần đảo Trường Sa và các đảo còn lại của quần Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam đảo. Và từ ngày 13 đến ngày 28 tháng 4, có các vùng biển và thềm lục địa riêng. Đoạn 5 Hải quân Nhân dân Việt Nam đã giải của Tuyên bố viết: các đảo và quần đảo thuộc phóng và tiếp quản các đảo có quân lãnh thổ Việt Nam ở ngoài vùng lãnh hải nói ở đội Việt Nam Cộng hòa đang quản lý, Điều 1 đều có lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, đồng thời triển khai lực lượng tại các đảo vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa riêng và một số vị trí khác để bảo vệ quần đảo như đã quy định trong các điều 1, 2, 3, và 4 của Trường Sa. Tuyên bố này. Ngày 09/9/1975, đại biểu Chính phủ Tại phiên họp thứ 7 cuộc đàm phán về biên Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, cuộc đàm tại Hội nghị Khí tượng thế giới đã tiếp tục phán này bắt đầu từ ngày 9 tháng 10 năm 1977, đăng ký đài khí tượng Việt Nam tại quần Trưởng đoàn Việt Nam Phan Hiền, đã bác bỏ vu đảo Hoàng Sa vào hệ thống SYNOP của cáo của phía Trung Quốc đối với việc Hải quân Tổ chức Khí tượng quốc tế với ký hiệu Nhân dân Việt Nam đã tiếp quản các đảo thuộc 48.860 và khẳng định chủ quyền Việt quần đảo Trường Sa và tái khẳng định chủ quyền Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ông Phan Hiền đề nghị với ông Hàn Ngày 24/9/1975, trong cuộc gặp Niệm Long, Trưởng đoàn Trung Quốc, về việc đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Việt đưa vấn đề hai quần đảo vào chương trình nghị Nam Dân chủ Cộng hoà, do Tổng Bí thư sự, nhưng phía Trung Quốc từ chối. Lê Duẩn dẫn đầu, nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình tuyên bố sau này Ngày 30/12/1978, người phát ngôn Bộ hai bên sẽ bàn bạc về vấn đề chủ quyền Ngoại giao nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa đối với quần đảo Hoàng Sa mà Trung Việt Nam ra Tuyên bố bác bỏ luận điệu nêu quốc gọi là Tây Sa và quần đảo Trường trong Tuyên bố ngày 29/2/1978 của người phát Sa mà Trung Quốc gọi là Nam Sa. ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc về vấn đề quần 67
đảo Trường Sa, khẳng định chủ quyền Ngày 28 tháng 11 năm 1979, Người phát của Việt Nam đối với hai quần đảo ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam tuyên bố bác bỏ Hoàng Sa và Trường Sa, nhắc lại lập các quy định của Trung Quốc chỉ đạo hoạt động trường của Việt Nam chủ trương giải của máy bay dân dụng nước ngoài qua vùng trời quyết mọi tranh chấp hoặc bất bình bằng quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. thương lượng hoà bình. Ngày 30/1/1980, Bộ Ngoại giao Trung Quốc Ngày 15 tháng 3 năm 1979, Bộ công bố văn kiện về ‘Tây Sa và Nam Sa’. Ngày Ngoại giao CHXHCN Việt Nam công bố 05/02/1980, Bộ Ngoại giao Việt Nam ra tuyên Bị Vong Lục về vấn đề biên giới Việt - bố vạch trần thủ đoạn xuyên tạc của Trung Quốc Trung. Điểm 9 của Bị Vong Lục đã tố trong văn kiện ngày 30/01/1980. cáo Trung Quốc đánh chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam vào Tháng 6/1980, tại Hội nghị Khí Tượng Khu tháng 1 năm 1974. Vực Châu Á lần II họp tại Genève, đại biểu Việt Nam tuyên bố trạm khí tượng của Trung Quốc Ngày 07/8/1979, Bộ Ngoại giao tại Sanhudao (đảo Hoàng Sa của Việt Nam) là Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt bất hợp pháp. Kết quả là trạm Hoàng Sa của Việt Nam ra Tuyên bố về quần đảo Hoàng Sa Nam vẫn được giữ nguyên trạng trong danh sách và quần đảo Trường Sa, bác bỏ sự xuyên các trạm như cũ. tạc của Trung Quốc trong việc công bố một số tài liệu của Việt Nam liên quan Tháng 7 năm 1980, Tại Hội nghị địa chất đến các quần đảo Hoàng Sa và Trường quốc tế lần thứ 26 ở Paris (từ 7 đến 17/7/1980), Sa, khẳng định lại chủ quyền của Việt Trưởng đoàn đại biểu Việt Nam Phạm Quốc Nam đối với 2 quần đảo này, nhắc lại lập Tường, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Địa chất trường của Việt Nam về việc giải Việt Nam đã gửi Công hàm cho Chủ tịch Hội quyết sự tranh chấp về 2 quần đảo giữa nghị Địa chất quốc tế và Tổng Thư ký Hội nghị hai nước bằng thương lượng hoà bình. vạch trần và tố cáo hành động của Đoàn đại biểu Trung Quốc đã lợi dụng Hội nghị để tuyên Ngày 28/9/1979, Bộ Ngoại giao Việt truyền gọi là Trung Quốc có chủ quyền đối với Nam công bố Sách trắng: “Chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vì chúng là sự của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng kéo dài của lục địa Trung Hoa. Sa và Trường Sa’’, trong đó đã giới thiệu 19 tài liệu liên quan đến chủ quyền của Tháng 12/1981, Tổng cục Bưu điện Việt Việt Nam đối với 2 quần đảo. Nam điện cho Chủ tịch Uỷ ban đăng ký tần số tại Genève phản đối việc Trung Quốc được phát Ngày 22 tháng 10 năm 1979, Người một số tần số trên vùng trời Hoàng Sa và Trường phát ngôn Bộ Ngoại giao CHXHCN Sa của Việt Nam. Việt Nam tuyên bố phản đối việc Trung Quốc lập ra 4 vùng nguy hiểm trên vùng Tháng 12/1981, Bộ Ngoại giao Việt Nam biển quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, công bố sách trắng: “Quần đảo Hoàng Sa và cắt ngang các đường bay quốc tế qua quần đảo Trường Sa, lãnh thổ Việt Nam. Biển Đông. Tháng 10/1982, tại Hội Nghị Toàn Quyền của UIT, đại biểu Việt Nam tuyên bố không chấp 68
nhận việc thay đổi phát sóng đã được phản đối việc CHND Trung Hoa đặt tên cho các phân chia năm 1978 tại Genève. đảo, đá, bãi cạn … thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 12/11/1982, Chính phủ Việt Nam ra Tuyên bố về hệ thống đường cơ Tháng 12 năm 1985, Việt Nam phê chuẩn sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải ven Công ước Narobi 1982, tuyên bố yêu cầu UIT bờ lục địa Việt Nam. sửa đổi Phụ lục AER2 của Thể lệ vô tuyến viễn thông, khẳng định quần đảo Hoàng Sa và Trường Ngày 04/02/1982, Chính phủ Việt Sa là lãnh thổ Việt Nam, vì vậy Việt Nam không Nam quyết định thành lập Huyện Hoàng chấp nhận những thay đổi có liên quan đến các Sa thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. tần số đã được phân chia ở vùng 6D, 6F, 6G nêu trong biên bản Hội nghị hành chính thế giới về Tháng 1/1983, Hội nghị Hành chính thông tin vô tuyến 1978. Thế giới về thông tin vô tuyến đã đồng ý sẽ xem xét đề nghị của Việt Nam về việc Ngày 5 tháng 1 năm 1986, Bộ ngoại giao phát sóng trên vùng trời Hoàng Sa và Việt Nam tuyên bố việc Hồ Diệu Bang, Tổng Bí Trường Sa tại Hội nghị sắp tới. thư Đảng Cộng sản Trung Quốc, cùng với Lưu Hoa Thanh, Trương Trọng Tiên, đi thị sát quần Cũng tháng 01/1983, Hội nghị Hàng đảo Hoàng Sa, vào ngày 1 tháng 1, là hoạt động không khu vực Châu Á Thái Bình phi pháp, xâm phạm chủ quyền Việt Nam. Dương họp ở Singapore, Trung Quốc muốn mở rộng FIR Quảng Châu lấn vào Ngày 28 thang 11 năm 1987, Thông tấn xã FIR Hà Nội và FIR Tp. Hồ Chí Minh, Việt Nam ra tuyên bố khẳng định quần đảo nhưng Hội nghị quyết định duy trì Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là lãnh thổ của nguyên trạng. Việt Nam. Mọi biện pháp hành chính và các hoạt động thăm dò khảo sát của nước khác ở khu vực Ngày 25/4/1984, Ủy ban Địa danh 2 quần đảo này đều bất hợp pháp, không có giá Trung Quốc công bố tên mới cho các trị và vi phạm chủ quyền lãnh thổ Việt Nam. đảo, bãi, đá trong Biển Đông, trong đó có đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa và Năm 1988, Chính phủ Cộng hoà Xã hội Chủ Trường Sa của Việt Nam. Ngày nghĩa Việt Nam đã thông báo cho Liên Hợp 06/05/1984, Người phát ngôn Bộ Ngoại quốc, gửi nhiều công hàm phản đối đến Bắc giao Việt Nam phản đối việc đặt tên của Kinh và đặc biệt là các Công hàm ngày 16, 17, Trung Quốc. 23 tháng 3 năm 1988 đề nghị hai bên thương lượng giải quyết vấn đề tranh chấp. Trung Quốc Tại Hội nghị Tổ chức Thông tin Vũ tiếp tục chiếm giữ các bãi đá đã chiếm được và trụ quốc Tế (INTELSAT) lần thứ 13 họp khước từ thương lượng. Ngày 14 tháng 4 năm tại Bangkok, đại biểu Việt Nam đã phản 1988, Bộ Ngoại giao Cộng hoà Xã hội Chủ đối việc Trung Quốc sử dụng những bản nghĩa Việt Nam phản đối việc Quốc hội Trung đồ ghi Hoàng Sa, Trường Sa (mà Trung Quốc sáp nhập hai quần đảo Hoàng Sa và Quốc gọi là Tây Sa, Nam Sa) là của Trường Sa vào tỉnh Hải Nam (Nghị quyết ngày Trung Quốc. 13/4/1988 thành lập tỉnh Hải Nam). Ngày 6 tháng 5 năm 1983, Người 69 phát ngôn Bộ Ngoại giao Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã tuyên bố
Tháng 4/1988, Bộ Ngoại giao Cộng Thàng phố Đà Nẵng. Địa điểm của trụ sở UBND hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam công bố huyện Hoàng Sa được đặt tại 132 đường Yên Sách Trắng \"Các quần đảo Hoàng Sa và Bái, phường Phước Ninh, quận Hải Châu, thành Trường Sa và Luật pháp quốc tế\". phố Đà Nẵng. Song song với việc tuyển dụng cán bộ nhân viên hành chính, ngày 25 tháng 4 Ngày 4 tháng 3 năm 1992, Bộ ngoại năm 2009, UBND thành phố Đà Nẵng đã ra giao Việt Nam gửi Công hàm phản đối Quyết định bổ nhiệm Chủ tịch UBND huyện đảo ‘Pháp lệnh về lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải của CHND Trung Hoa’. Công Hoàng Sa. hàm khẳng định Việt Nam có chủ quyền Ngày 2 tháng 6 năm 1999, người phát ngôn không thể tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bộ ngoại giao Việt Nam đã thông báo lập trường của Việt Nam phản đối lệnh cấm đánh bắt cá tại Ngày 22 tháng 1 năm 1994, Người vùng phía Bắc Biển Đông, trong đó có khu vực phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam quần đảo Hoàng Sa, từ ngày 1 tháng 6 đến ngày tuyên bố Việt Nam có quyền kiểm soát 31 tháng 7 năm 1999 . đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam là nước đầu tiên chiếm hữu Ngày 27 tháng 12 năm 2000, Việt Nam bác và quản lý nhà nước 2 quần đảo này từ bỏ tuyên bố của Trung Quốc ngày 26 tháng 12 thế kỷ XVII. năm 2000 nói rằng họ mới là chủ nhân của 2 quần đảo mà cả 2 nước đều nhận. Người phát Ngày 23 tháng 6 năm 1994, Quốc ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam khẳng định Việt hội nước CHXHCN Việt Nam ra Nghị Nam có đầy đủ các bằng chứng pháp lý và lịch quyết phê chuẩn Công ước của Liên Hợp sử để chứng minh chủ quyền không thể tranh cãi quốc về Luật biển 1982, trong đó, đã dối vơi 2 quần đảo này. khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa Ngày 1 tháng 6 năm 2002, Người phát ngôn và chủ trương giải quyết tranh chấp Bộ Ngoại giao Việt Nam phản đối việc Trung thông qua thương lượng hòa bình với các Quốc tiếp tục ban hành lệnh cấm đánh bắt cá ở nước có liên quan. Quốc hội còn nhấn Biển Đông từ 1 tháng 6 đến 1 tháng 8 năm 2002. mạnh cần phân biệt vấn đế tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Ngày 24 tháng 4 năm 2003, Việt Nam trao quần đảo Trường Sa với vấn đề phân Bản ghi nhớ cho phía Trung Quốc phản đối việc định các vùng biển và thềm lục địa thuộc Trung Quốc đưa tàu đến vùng biển Hoàng Sa, chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài Trường Sa và Thềm lục địa Việt Nam để tiến phán quốc gia theo đúng các tiêu chuẩn hành khảo sát địa chấn. của Pháp luật quốc tế. Ngày 29 tháng 1 năm 2004, Bảo tàng Đà Ngày 01 tháng 01 năm 1997, Đà Nẵng đã mở cửa Phòng trưng bày những tư liệu Nẵng tách khỏi tỉnh Quảng Nam - Đà lịch sử về huyện đảo Hoàng Sa, Thành phố Đà Nẵng trở thành Thành phố trực thuộc Nẵng, tại 78 Lê Duẩn, quận Hải Châu, Đà Nẵng. Trung ương, Huyện đảo Hoàng Sa được Những tư liệu được trưng bày do UBND huyện đặt dưới sự quản lý của chính quyền Hoàng Sa cung cấp, với gần 100 loại bản đồ, sơ đồ, bút tích, mô hình, tư liệu gốc… 70
Ngày 2 tháng 10 năm 2004, Đại diện Nghị quyết của HĐND thành phố năm 2008. Bộ Ngoại giao Việt Nam gặp Đại diện Cũng trong thời gian này, các tổ chức người Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội và Đại diện Bộ Ngoại giao Trung Quốc tại Việt Nam ở nước ngoài đã công bố văn bản Bắc Kinh phản đối và yêu cầu phía khẳng định lập trường của người Việt Nam trên Trung Quốc dừng ngay việc tập trận tại toàn cầu, lên án chủ nghĩa bá quyền Trung khu vực biển quần đảo Hoàng Sa. Quốc trong việc thành lập thành phố Tam Sa để quản lý quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Ngày 17 tháng 2 năm 2005, Người Việt Nam. phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã lên tiếng phản đối những hoạt động thăm Ngày 9 tháng 12 năm 2007, tại thành phố Hà dò, khảo sát của Trung Quốc tại khu vực Nội và thành phố Hồ Chí Minh, hàng trăm người 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam đã xuống đường biểu tình ôn hòa phản Việt Nam. đối Trung quốc vi phạm chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong việc Ngày 28 tháng 12 năm 2006, Người Trung Quốc đã thành lập thành phố hành chính phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam lên cấp huyện nhằm quản lý quần đảo Hoàng Sa và tiến phản đối việc Trung Quốc dựng bia Trường Sa của Việt Nam. chủ quyền ở Hoàng Sa, lên án việc làm này đã vi phạm chủ quyền của Việt Nam Ngày 11 tháng 12 năm 2007, UBND huyện đối với quần đảo Hoàng Sa. Hoàng Sa đã tổ chức cuộc gặp gỡ với những người đã từng sống và làm việc trên đảo Hoàng Ngày 24 tháng 4 năm 2007, Hội Sa. Đó là những cựu nhân viên của Trạm quan đồng bầu cử Quốc hội đã công bố danh trắc khí tượng Hoàng Sa, hiện đang sống tại sách ứng cử viên Đại biểu Quốc Hội thành phố Đà Nẵng. khóa XII theo từng Đơn vị bầu cử, trong đó có khu vực bầu cử thuộc Huyện đảo Ngày 13 tháng 3 năm 2009, Người phát Hoàng Sa (Đà Nẵng) và Huyện đảo ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã lên tiếng phản Trường Sa (Khánh Hòa) . đối quyết định của Trung Quốc cho phép một công ty du lịch mở tuyến du lịch đến quần đảo Ngày 3 tháng 12 năm 2007, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã Hoàng Sa. phản đối Quốc vụ viện Trung Quốc phê Ngày 17 tháng 3 năm 2009, mạng RFA đưa chuẩn việc thành lập thành phố Tam Sa để quản lý 2 quần đảo Hoàng Sa và tin, hôm thứ 3, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trường Sa của Việt Nam. Việt Nam đã tuyên bố Việt Nam đang theo dõi sát sao hoạt động của tàu Ngư chính 311 của Ngày 7 tháng 12 năm 2007, tại phiên Trung Quốc trên Biển Đông và khẳng định rằng bế mạc kỳ họp thứ 10 HĐND thành phố Việt Nam có chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Đà Nẵng, toàn thể đại biểu HĐND thành Sa và Trường Sa. phố đã thống nhất kiến nghị đưa nội dung lên án và phản đối việc Trung Quốc Ngày 6 tháng 4 năm 2009, Báo Tiền Phong thành lập thành phố Tam Sa bao gồm đưa tin các thế hệ gia tộc Họ Đặng ở Huyện đảo quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào Lý Sơn đã gìn giữ các bản gốc Chứng chỉ, Sắc phong… của Nhà Nguyễn có liên quan đến hoạt động của Đội Hoàng Sa. Sáng 9 tháng 4 năm 71
2009, dòng tộc Họ Đặng ở thôn Đồng Hải Nam năm 2010 - 2020’, bao gồm cả quần Hộ, xã An Hải, huyện Lý Sơn tổ chức lễ đảo Hoàng Sa và Trường Sa, trong đó có kế hiến tặng và bàn giao tờ lệnh quý liên hoạch tăng cường mở tuyến du lịch đường không quan đến hoat động của Đội Hoàng Sa và đường biển ra quần đảo Hoàng Sa. cho Nhà nước. Ngày 6 tháng 11 năm 2010, Việt Nam phản Ngày 25 tháng 4 năm 2009, Thành đối việc Cục Đo đạc và Bản đồ quốc gia Trung phố Đà Nẵng đã tổ chức trọng thể lễ Quốc đã khai trương mạng Map World, thể công bố Quyết định bổ nhiệm chức danh hiện đường biên giới biển 9 đoạn bao trùm Chủ tịch UBND huyện đảo Hoàng Sa 80% Biển Đông. cho ông Đặng Công Ngữ. Ngày 17 tháng 2 năm 2011, Trước việc Ngày 29 tháng 6 năm 2009, tại Văn Trung Quốc tiến hành tập trân tại khu vực quần phòng UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế nhà đảo Hoàng Sa, tại cuộc họp báo thường kỳ, nghiên cứu Huế Phan Thuận An đã bàn Người phát ngôn BNG Việt Nam đã yêu cầu giao tờ châu bản có chữ ký và ngự phê Trung Quốc chấm dứt mọi hoạt động vi phạm của Vua Bảo Đại liên quan đến chủ chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo này, yêu quyền Việt Nam đối với quần đảo Hoàng cầu Trung Quốc thực hiện nghiêm túc Tuyên bố Sa cho Bộ Ngoại giao Việt Nam. về cách ứng xử Biển Đông (DOC), góp phần giữ gìn hòa bình, ổn định ở Biển Đông. Ngày 16 tháng 11 năm 2009, Việt Nam phản đối về việc ngày 8 tháng 11 Ngày 3 tháng 5 năm 2011, Phái đoàn năm 2009 Chính quyền tỉnh Hải Nam đã thường trực Việt Nam tại LHQ đã gửi thư lên quyết định thành lập UB thôn đảo ‘Vĩnh Ban phụ trách các vấn đề Đại dương và Luật Hưng’ và ‘ Triệu Thuật’, tức là đảo Phú Biển nêu rõ quan điểm của Việt Nam đối với 2 Lâm và Đảo Cây thuộc quần đảo Hoàng văn bản do Philippines và Trung Quốc gửi lên Sa của Việt Nam. Tổng Thư ký LHQ trước đó và khẳng định 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ Ngày 15 tháng 6 năm 2010, Đại diện của Việt Nam, Việt Nam có đầy đủ chứng cứ Bộ Ngoại giao Việt Nam gặp Đại diện lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội phản quyền đối với 2 quần đảo này. đối các hoạt động của Trung Quốc ở quần đảo Hoàng Sa, trong đó có việc Ngày 24 tháng 11 năm 2011, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã thuê tàu Panama (M/V Việt Nam tuyên bố phản đối chính quyền tỉnh Western Spirit) tiến hành khảo sát địa Hải Nam ngày 22 tháng 11 năm 2011 đã cấp chấn khu vưc xung quanh đảo Tri Tôn phép cho 1 Công ty du lịch đưa khách đi tham thuộc quần đảo Hoàng Sa. quan từ Hải Nam đến quần đảo Hoàng Sa, khẳng định việc làm này là vi phạm chủ quyền của Việt Ngày 22 tháng 6 năm 2010, Người Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã lên tiếng phản đối việc Ủy ban Cải cách Ngày 19 tháng 01 năm 2012, UBND huyện và phát triển nhà nước Trung Quốc đã Hoàng Sa ra mắt “Kỷ yếu Hoàng Sa”, một ấn phê duyệt ‘Cương yếu quy hoạch xây phẩm đặc biệt giới thiệu khái quát các thông tin, dựng và phát triển đảo du lịch quốc tế tư liệu về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, lịch sử 72
chủ quyền, các hoạt động của UBND người dân thành phố Đà Nẵng đã đến xem và huyện Hoàng Sa, ghi lại hình ảnh và hồi thông tin được tuyên truyền rộng rãi trên tất cả ức, tâm nguyện của các nhân chứng lịch các phương tiện truyền thông cả nước, tạo nên sử đã từng sinh sống và làm việc trên sự quan tâm đặc biệt của các tầng lớp nhân dân quần đảo Hoàng Sa. đối với vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Cũng trong năm 2012, UBND huyện Hoàng Sa phối hợp Ban Tuyên giáo Điểm qua các sự kiện chủ yếu xẩy ra có liên Thành ủy Đà Nẵng, Viện Nghiên cứu quan đến quần đảo Hoàng Sa trong các giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội thành phố Đà khác nhau, với những diễn biến thăng trầm của Nẵng tổ chức nghiên cứu 02 Đề tài khoa lịch sử, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định học về Hoàng Sa, gồm Đề tài “Font tư được rằng Việt Nam có đủ các bằng chứng pháp liệu về chủ quyền của Việt Nam đối với lý và cứ liệu lịch sử có giá trị để chứng minh và huyện đảo Hoàng Sa” và Đề tài “Quần bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của mình đối với đảo Hoàng Sa của Việt Nam qua các tư quần đảo Hoàng Sa hiện đang nằm dưới sự liệu lưu trữ của Chính quyền Việt Nam chiếm đóng bất hợp pháp của lực lượng vũ trang Cộng hoà (1954-1975)” qua đó phát Trung Quốc. hiện, hệ thống hóa nhiều tư liệu chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với Đúng như lời tuyên bố lịch sử của Thủ quần đảo Hoàng Sa. Trong thời gian này, tướng Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ ông Trần Thắng, một Việt kiều đang sinh nghĩa Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng, trước các sống tại Mỹ đã cùng với đồng bào Việt Đại biểu Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Nam trong và ngoài nước tổ chức sưu tại Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa 13, ngày 25 tầm được 03 quyển Atlat bản đồ do nhà tháng 11 năm 2011: nước Trung Quốc phát hành các năm 1908, 1919 và 1933, cùng với 150 bản ‘Việt Nam có đủ căn cứ pháp lý và lịch sử đồ của Việt Nam, Trung Quốc và các khẳng định rằng quần đảo Hoàng Sa và Trường nước phương Tây ấn hành, trong đó thể Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Chúng ta làm chủ hiện cực Nam của lãnh thổ Trung Quốc thật sự, ít nhất là từ thế kỷ XVII, khi 2 quần đảo chỉ đến đảo Hải Nam, hoàn toàn không này chưa thuộc bất kỳ quốc gia nào. Chúng ta đã có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của làm chủ trên thực tế và liên tục, hòa bình’. Việt Nam như họ tuyên bố tranh chấp. ‘Lập trường nhất quán của chúng ta là quần Ngày 20 tháng 01 năm 2013, UBND đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. huyện Hoàng Sa đã phối hợp Viện Chúng ta có đủ căn cứ lịch sử và pháp lý để Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội khẳng định điều này. Nhưng chúng ta chủ trương Đà Nẵng, Hội Khoa học Lịch sử thành đàm phán giải quyết đòi hỏi chủ quyền bằng biện phố Đà Nẵng, Bảo tàng Đà Nẵng và Báo pháp hòa bình. Chủ trương này phù hợp với Hiến Tuổi trẻ tổ chức chương trình triển lãm chương LHQ, phù hợp với Công ước Luật Biển toàn bộ các tư liệu trên. Hàng ngàn năm 1982’./. http://www.hoangsa.danang.gov.vn Trang điện tử UBND huyện Hoàng Sa 73
B. QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA 74
Những nét chính về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của quần đảo Trường Sa Quần đảo Trường Sa nằm cách quần đảo Trên các đảo có nhiều loại cây xanh như Hoàng Sa khoảng 200 hải lý về phía Nam, phong ba, phi lao, bàng vuông và một số loại bao gồm hơn 100 đảo, đá, bãi ngầm, bãi san dây leo cỏ dại. Chất đất trên các đảo của hô, nằm rải rác trong phạm vi biển, khoảng quần đảo Trường Sa là cát san hô, có lẫn từ vĩ tuyến 6030’ Bắc đến 12000’ Bắc và những lớp phân chim lẫn mùn cây có bề dày khoảng từ kinh tuyến 111030’ Đông đến khoảng 5 - 10cm. Một số đảo trong quần đảo 117020' Đông. Đảo gần đất liền nhất là đảo có nước ngầm như đảo Song Tử Tây, đảo Trường Sa cách vịnh Cam Ranh (Khánh Song Tử Đông, đảo Trường Sa. Nguồn lợi Hòa) khoảng 250 hải lý, cách điểm gần nhất hải sản ở quần đảo Trường Sa rất phong của đảo Hải Nam (Trung Quốc) khoảng gần phú, đặc biệt có loại vích là động vật quý 600 hải lý và cách đảo Đài Loan khoảng 960 hiếm, cá ngừ đại dương có giá trị kinh tế cao. hải lý. Các đảo của quần đảo Trường Sa thấp Không chỉ có trữ lượng tài nguyên khá lớn, hơn các đảo của quần đảo Hoàng Sa. Độ cao đa dạng mà quần đảo Trường Sa còn có vị trí trung bình trên mặt nước khoảng 3 - 5m. quân sự chiến lược quan trọng án ngữ phía Quần đảo Trường Sa được chia làm tám Đông Nam nước ta. cụm: Song Tử, Thị Tứ, Loại Ta, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa, Thám Hiểm, Bình Ngoài nghề cá, các hoạt động kinh tế Nguyên. Song Tử Tây là đảo cao nhất (cao khác bị kiềm chế do tranh chấp chủ quyền. khoảng 4 - 6m lúc thủy triều xuống); Ba Do nằm gần khu vực lòng chảo trầm tích Bình là đảo rộng nhất (0,6km2). Ngoài ra còn chứa nhiều dầu mỏ và khí đốt, quần đảo có nhiều đảo nhỏ và bãi đá ngầm như Sinh Trường Sa có tiềm năng lớn về dầu khí. Tồn Đông, Chữ Thập, Châu Viên, Ga Ven, Ken Nan, Đá Lớn, Thuyền Chài. Tổng diện Quần đảo Trường Sa hiện chưa có cảng tích phần nổi của tất cả các đảo, đá, cồn, bãi hay bến tàu nhưng có bốn sân bay trên các đảo ở quần đảo Trường Sa chỉ khoảng 3 km2 nhỏ có vị trí chiến lược nằm gần tuyến đường vận hơn tổng diện tích của quần đảo Hoàng Sa chuyển tàu biển chính trên biển Đông. (10km2) nhưng lại trải ra trên một vùng biển rộng gấp hơn nhiều lần quần đảo Hoàng Sa. Những nhóm đảo chính của quần đảo Trường Sa Trên đảo Trường Sa và Song Tử Tây có đài khí tượng ngày đêm theo dõi và thông Quần đảo Trường Sa được chia thành 8 nhóm: Song Tử, Thị Tứ, Loại Ta, Nam Yết, báo các số liệu về thời tiết ở vùng biển này Sinh Tồn, Trường Sa, Thám Hiểm, Bình cho mạng lưới quan trắc khí tượng thế giới Nguyên. Song Tử Tây là đảo cao nhất và trên một số đảo có đèn biển của Tổng (khoảng 4 - 6m lúc thủy triều xuống); Ba Bình là đảo rộng nhất (0,6km2). Công ty Bảo đảm hàng hải Việt Nam như đảo Song Tử Tây, đảo An Bang, đảo Đá Tây. 1. Nhóm đảo Song Tử gồm đảo Song Tử Đông, Song Tử Tây, bãi Đá Bắc, bãi Đá Nam, bãi cạn Đinh Ba, bãi cạn Núi Cầu. Hai hòn đảo (Song Tử Đông và Song Tử Tây) 75
nằm ở cực Bắc của quần đảo Trường Sa, Nam Yết là hòn đảo cao nhất của quần ngang vĩ độ với Phan Rang (Ninh Thuận). đảo, lớn thứ hai sau đảo Ba Bình, ở phía Trên đảo có những cây cao trung bình, nhiều Nam của nhóm đảo, hình chữ C, dài phân chim có thể chế biến thành phân bón, khoảng 700m, rộng 250m, cao khoảng gần 5 vòng quanh hai đảo này về phía đông và nam m. Trên đảo có nhiều loại cây và nhiều giống chừng 5 hải lý có nhiều mỏm đá ngầm. Rong cây cỏ có gai vùng nhiệt đới. Quanh đảo có biển mọc nhiều ở đây. vòng san hô và bãi đá ngầm. Song Tử Đông có hình dáng hơi tròn, Đảo Sơn Ca có hình giống chữ C, dài diện tích 12,7 ha, dài 900m, rộng 250m, cao 391m, rộng 156m, cao 3m. độ 3m, có nhiều bãi cát và san hô xung quanh, nhiều cây cối. Song Tử Tây hình lưỡi Đảo Ba Bình được xem là đảo lớn nhất liềm, nhỏ hơn Song Tử Đông, dài 700 m, trong quần đảo Trường Sa, thấp hơn đảo rộng 300m, có nước ngọt, có một vườn dừa Nam Yết một chút. và nhiều cây nhỏ. Có tháp rađa thời Việt Nam Cộng hòa. Nhìn chung nhóm đảo này có điều kiện sinh hoạt tốt. Phía Tây Nam nhóm Nam Yết 2. Nhóm đảo Thị Tứ nằm ở phía Nam có đá Chữ Thập, đây là chỗ cao nhất của một nhóm đảo Song Tử, gồm đảo Thị Tứ và các bãi cạn dài 25km, rộng tối đa 6km. bãi đá (Hoài An, Tri Lễ, Cái Vung, Xu Bi, Vĩnh Hảo). 5. Nhóm đảo Sinh Tồn nằm ở phía nam nhóm đảo Nam Yết, gồm đảo Sinh Tồn và đá Đảo Thị Tứ hình bầu dục, rộng 550 m, Sinh Tồn Đông, đá Nhạn Gia, đá Bình Khê, dài 700 m, có giếng nước ngọt. Trên đảo có đá Ken Nan, đá Tư Nghĩa, đá Bãi Khung, đá các loại cây: mù u, bàng, nhiều cây leo chằng Đức Hòa, đá Ba Đầu, đá An Bình, đá Bia, đá chịt. Quanh đảo có nhiều bãi đá ngầm và Văn Nguyên, đá Phúc Sỹ, đá Len Đao, đá rong biển. 76 3. Nhóm đảo Loại Ta nằm ở phía đông nhóm đảo Thị Tứ, gồm đảo Loại Ta và cồn san hô Lan Can (hay An Nhơn), đá An Lão, bãi Đường, bãi An Nhơn Bắc, bãi Loại Ta Bắc, bãi Loại Ta Nam, đảo Dừa và đá Cá Nhám. Đảo hình tròn, đường kính 300 m, cao khoảng 2m, trên đảo có nhiều cây lớn. Vòng quanh đảo có nhiều bãi cát trắng tạo nên phong cảnh đẹp, có giếng nước ngọt nhưng rất ít nước. 4. Nhóm đảo Nam Yết nằm ở phía nam nhóm đảo Loại Ta, gồm đảo Nam Yết, đảo Sơn Ca, đảo Ba Bình, bãi Bàn Than, đá Núi Thị, đá Én Đất, đá Lạc, đá Gaven, đá Lớn, đá Nhỏ, đá Đền Cây Cỏ.
Gạc Ma, đá Cô Lin, đá Nghĩa Hành, đá Tam đá Ba Kè, đá Hà Tần, đá Tân Châu, đá Lục Trung, đá Sơn Hà. Giang, đá Long Hải, đá Công Đo, đá Kỳ 6. Nhóm đảo Trường Sa nằm ở phía Vân, đá Hoa Lau. Nam và Tây Nam của cụm Sinh Tồn, trải dài An Bang là đảo duy nhất giống như một theo chiều ngang, gồm đảo Đá Lát, Trường cái túi, đáy nằm ở phía đông và miệng thắt Sa, đảo Đá Đông, đảo Trường Sa Đông, đảo lại ở phía tây. Đảo tương đối nhỏ và dài, chỉ Phan Vinh (Hòn Sập) và đá Châu Viên, đá rộng 20 m lúc nước ròng. Tốc Tan, đá Núi Le, đá Tiên Nữ. Đảo lớn nhất là đảo Trường Sa, có dạng hình tam 8. Nhóm đảo Bình Nguyên nằm ở phía giác cân mà đáy hơi chệch về phía bắc. đông gồm đảo Bình Nguyên, đảo Vĩnh Nhóm đảo không có cây lớn, nhiều nhất là Viễn, đá Hoa, đá Đích-kin-xơn, đá Đin, đá nam sâm, có dược tính, các loại rau sam, Hàn Sơn, đá Pét, đá Vành Khăn, cồn san hô muống biển. Có loại chim hải âu trắng, sơn Giắc-xơn, bãi Cỏ Mây, bãi cạn Suối Ngà, đá ca, chim én. Có giếng nước ngọt song lại có Bốc Xan, bãi cạn Sa Bin, đá Hợp Kim, đá mùi tanh của san hô. Ba Cờ, đá Khúc Giác, đá Bá, đá Giò Gà, đá Chà Và, bãi Mỏ Vịt, bãi cạn Nam, bãi Nâu, 7. Nhóm đảo An Bang nằm phía Nam bãi Rạch Vang, bãi Rạch Lấp, bãi Na Khoai. nhóm đảo Trường Sa gồm có đảo An Bang, Đảo Vĩnh Viễn dài chừng 580m, cao bãi Đất, bãi Đinh, bãi Vũng Mây, bãi Thuyền khoảng 2m. Đảo Bình Nguyên thấp hơn, Chài, bãi Trăng Khuyết, bãi Kiệu Ngựa, và hẹp bề ngang. DANH SÁCH VÀ VỊ TRÍ ĐỊA LÝ CÁC ĐẢO, ĐÁ, BÃI CỦA QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA STT Tên gọi Tọa độ đại lý 1 Đá Bắc Vĩ độ Bắc Kinh độ Đông 2 Đảo Song Tử Đông 3 Đảo Song Tử Tây 11028,0 114023,6 4 Đá Nam 5 Bãi Đinh Ba 11027,4 114021,3 6 Bãi Núi Cầu 7 Đá Vĩnh Hảo 11025,9 114019,8 8 Đá Tri Lễ 9 Đá Hoài Ân 11023,3 114017,9 10 Đá Trâm Đức 11 Đảo Thị Tứ 11030,1 114038,8 12 Đá Cái Vung 13 Đá An Lão 11021,0 114033,7 14 Bãi Đường 15 Đảo Bến Lạc 11005,6 114022,5 11004,5 114015,4 11003,7 114013,3 11003,5 114019,4 11003,2 114017,1 11002,0 114010,5 11009,1 114047,9 11001,3 114041,8 11004,7 115001,2 77
16 Đèn biển Song Tử Tây 11025,7 114019,8 17 Đá Đền Cây Cỏ 10015,4 113036,6 18 Đá Lớn 10003,7 113051,1 19 Đá Xu Bi 10055,1 114004,8 20 Bãi Loại Ta Nam 10042,1 114019,7 21 Đảo Loại Ta Tây 10043,5 114021,0 22 Đảo Loại Ta 10040,1 114025,4 23 Đá Sa Huỳnh 10040,7 114027,6 24 Đá An Nhơn Nam 10041,4 114029,7 25 Đá An Nhơn 10042,8 114031,9 26 Đá An Nhơn Bắc 10046,4 114035,4 27 Đá Cá Nhám 10052,8 114055,3 28 Đá Tân Châu 10051,5 114052,5 29 Đá Ga Ven 10012,7 114013,4 30 Đá Lạc 10009,9 114015,1 31 Đảo Nam Yết 10010,9 114021,6 32 Đảo Ba Bình 10022,8 114021,8 33 Đá Bàn Than 10023,3 114024,7 34 Đảo Sơn Ca 10022,6 114028,7 35 Đá Núi Thị 10024,7 114035,2 36 Đá Én Đất 10021,3 114041,8 37 Đá Nhỏ 10001,5 114001,4 38 Đá Long Hải 10011,5 115018,0 39 Đá Lục Giang 10015,2 115022,1 40 Đảo Bình Nguyên 10049,2 115049,8 41 Đảo Vĩnh Viễn 10044,2 115048,5 42 Cụm Hải Sâm 10029,8 115045,7 43 Đá Hoa 10032,0 115044,1 44 Đá Triêm Đức 10032,1 115047,7 45 Đá Ninh Cơ 10029,9 115042,6 46 Đá Hội Đức 10027,7 114043,9 47 Đá Định Tường 10027,5 115047,2 49 Đá Hợp Kim 10048,5 116005,5 50 Đá Ba Cờ 10043,0 116010,0 51 Đá Khúc Giác 10037,1 116010,3 52 Đá Trung Lễ 10057,9 116025,3 53 Đá Mỏ Vịt 10053,7 116026,3 78
54 Đá Cỏ My 10047,3 116041,3 55 Đá Gò Già 10048,6 116051,5 56 Đá Chà Và 10032,8 116056,2 57 Đá Tây Nam 10018,8 116029,7 58 Đá Phật Tự 10007,1 116008,8 59 Bãi Hải Yến 10035,2 116059,0 60 Đá Chữ Thập 09039,8 112059,0 61 Đá Núi Mon 09012,7 113039,9 62 Đá Cô Lin 09046,4 114015,2 63 Đá Gạc Ma 09043,2 114016,6 64 Đá Tam Trung 09050,2 114016,1 65 Đá Nghĩa Hành 09051,3 114016,6 66 Đá Sơn Hà 09052,9 114018,2 67 Đảo Sinh Tồn 09053,2 114019,7 68 Đá Nhạn Gia 09053,9 114020,6 69 Đá Bình Khê 09054,0 114023,1 70 Đá Ken Nan 09053,7 114025,6 71 Đá Văn Nguyên 09050,1 114027,3 72 Đá Phúc Sỹ 09048,0 114023,8 73 Đá Len Đao 09046,8 114022,2 74 Đá Trà Khúc 09041,5 114021,3 75 Đá Ninh Hòa 09051,1 114029,2 76 Đá Vị Khê 09051,7 114033,0 77 Đá Bia 09052,2 114030,5 78 Đá Tư Nghĩa 09055,1 114030,9 79 Đảo Sinh Tồn Đông 09054,3 114033,7 80 Đá An Bình 09054,5 114035,7 81 Đá Bình Sơn 09056,2 114031,2 82 Đá Bãi Khung 09058,0 114033,7 83 Đá Đức Hòa 09058,8 114035,3 84 Đá Ba Đầu 09059,3 114039,0 85 Đá Suối Ngọc 09022,9 115026,5 86 Đá Vành Khăn 09054,3 115032,3 09044,5 115052,0 87 Bãi Cò Mây 09019,1 111056,2 88 Bãi Suối Ngà 09036,3 116010,3 89 Đá Long Điền 09044,7 116030,0 90 Bãi Sa Bin 79
91 Bãi Phù Mỹ 09010,1 116028,1 92 Bãi Đồi Mồi 09002,3 116040,2 93 09027,2 116055,6 94 Bãi Cái Mép 09031,4 116023,2 95 Đá Bồ Đề 08040,7 111040,2 96 Đá Lát 08038,8 111055,1 97 Đảo Trường Sa 08051,5 112013,1 98 Bãi Đá Tây 08056,1 112020,9 99 Đảo Trường Sa Đông 08009,0 111058,0 100 Bãi ngầm Chim Biển 08033,6 111028,0 101 Bãi ngầm Mỹ Hải 08038,6 111055,0 102 Cảng biển Trường Sa Lớn 08040,0 111039,8 103 Đèn biển Đá Lát 08050,7 112011,7 104 Đèn biển Đá Tây 08049,7 112035,8 105 Đá Đông 08051,9 112050,1 106 Đá Châu Viên 08011,0 113018,6 107 Bãi đá Thuyền Chài 08058,1 113041,9 108 Đảo Phan Vinh 08048,7 113059,0 109 Bãi đá Tốc Tan 08000,5 113055,0 100 Đá Kỳ Vân 08042,6 114011,1 110 Đá Núi Le 08051,3 114039,3 111 Đá Tiên Lữ 08005,6 114008,3 112 Đá Én Ca 08007,0 114034,4 113 Đá Sâu 08010,5 114042,7 114 Đá Gia Hội 08007,4 114048,3 115 Đá Gia Phú 08021,5 115013,4 116 Đá Công Đo 08027,0 115009,6 117 Bãi ngầm Ngũ Phụng 08052,0 114039,0 118 Đèn biển Tiên Nữ 08053,7 116017,1 119 Bãi Trăng Khuyết 08030,5 115032,0 120 Bãi ngầm Tam Thanh 08029,0 115056,0 121 Bãi ngầm Khánh Hội 07053,8 112055,1 122 Đảo An Bang 07038,6 113048,5 123 Đá Suối Cát 07039,0 113056,8 124 Đá Kiệu Ngựa 07024,1 113050,2 125 Đá Hoa Lau 07052,2 112054,2 126 Đèn biển An Bang 07044,3 114015,9 Bãi cạn Kiệu Ngựa 80
127 Đá Vĩnh Tường 07011,0 114049,0 112025,0 128 Bãi ngầm Nguyệt Xương 09032,0 117018,3 117016,5 129 Bãi cạn Đồ Bàn 10044,0 117001,7 116022,1 130 Bãi cạn Rạch Vang 11004,0 116047,0 116012,5 131 Đá Vĩnh Hợp 11004,5 117017,7 113034,5 132 Bãi Cỏ Rong 11028,5 133 Đá Đồng Thanh 11055,5 134 Bãi Tổ Muỗi 11028,9 135 Bãi cạn Na Khoai 10020,0 136 Đá Sác Lốt 06056,5 Giải phóng Trường Sa, quyết định lịch sử, một khoảnh khắc lịch sử Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành T.Ư Đảng, của Quân ủy T.Ư và Bộ Quốc phòng, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, Hải quân nhân dân Việt Nam đã tranh thủ thời cơ, mưu trí, thần tốc, táo bạo, chủ động, bất ngờ, phối hợp lực lượng Quân khu 5 tiến công giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa - một phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc khỏi tay chính quyền ngụy Sài Gòn. Vào thời điểm đó, tình hình chiến trường mưu, Thường vụ Đảng ủy BTL Hải quân phát triển rất nhanh, ta tiến công mạnh trên nhận thấy, tình hình lúc này đã khác trước, khắp các mặt trận. Trên hướng biển, ngày 4- nếu không khẩn trương sẽ mất thời cơ, sẽ 4-1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bí thư không hoàn thành nhiệm vụ có tầm quan Quân ủy T.Ư, Bộ trưởng Quốc phòng, Tổng trọng chiến lược này. Thường vụ Đảng ủy và Tư lệnh chỉ thị cho Khu ủy, Bộ Tư lệnh BTL Hải quân đã hạ quyết tâm \"bám sát tình (BTL) Quân khu 5 và BTL Hải quân hình, tranh thủ thời cơ có lợi nhất để giải \"Nghiên cứu và chỉ đạo thực hiện gấp rút, phóng đảo, kiên quyết không để lực lượng nhằm thời cơ thuận lợi nhất đánh chiếm các nào khác đến chiếm đảo trước ta... không đảo do quân đội Sài Gòn đóng giữ thuộc cho địch đối phó tăng cường\", \"Trường Sa quần đảo Trường Sa. Đây là nhiệm vụ rất thuộc chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quan trọng\"; đồng thời giao cho BTL Hải quốc Việt Nam, do đó không để một tấc đất quân: \"Dùng lực lượng hiện có, phối hợp lực lọt vào tay bất cứ kẻ nào đến lấn chiếm\". lượng đặc công Quân khu 5, tranh thủ thời Thường vụ Đảng ủy, BTL Hải quân giao cho cơ có lợi đánh chiếm quần đảo Trường Sa - đồng chí Hoàng Hữu Thái, Phó Tư lệnh một quần đảo có ý nghĩa chiến lược về chính Quân chủng đại diện BTL Hải quân ở Đà trị, quân sự và kinh tế, góp phần giải phóng Nẵng, hiệp đồng chặt chẽ với Quân khu 5 đất nước\". triển khai tổ chức chiến đấu, giải phóng các Chấp hành mệnh lệnh của Thường trực đảo trên quần đảo Trường Sa; điều động các Quân ủy T.Ư và Chỉ thị của Bộ Tổng Tham tàu của Đoàn 125 từ Hải Phòng vào Đà 81
Nẵng; chỉ đạo thành lập và kiện toàn các tổ giúp đỡ lẫn nhau, tin tưởng vào thắng lợi của chức lãnh đạo, chỉ huy của lực lượng chiến trận đánh... đấu giải phóng Trường Sa, với phiên hiệu Đoàn C75, do đồng chí Mai Năng làm Chỉ Rạng sáng 14-4-1975, lực lượng của ta huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy, đồng chí bí mật đổ bộ chiến đấu giải phóng đảo Song Dương Tấn Kịch làm Chỉ huy phó và đồng Tử Tây. Bị đánh bất ngờ, địch hoang mang, chí Trần Xuân Toản phụ trách công tác chống trả. Địch dùng súng 12,7 mm, cối 82, chính trị của Đoàn. Mọi việc triển khai ĐKZ bắn vào đội hình ta. Nhưng với tinh chuẩn bị cho kế hoạch tác chiến, công tác thần ý chí quyết tâm cao, chỉ sau 30 phút chính trị tư tưởng, động viên bộ đội trong chiến đấu dũng cảm, bộ đội ta nhanh chóng các giai đoạn hành quân vượt biển, nhất là tiêu diệt các vị trí quân địch, diệt sáu tên, bắt giai đoạn chiến đấu được tiến hành hết sức 33 tên, thu toàn bộ vũ khí, trang bị của địch khẩn trương, bí mật. Toàn lực lượng hừng và hoàn toàn làm chủ đảo. Song Tử Tây bị hực khí thế chiến đấu, 100% cán bộ, chiến mất, hệ thống phòng thủ của địch trên quần sĩ được giao nhiệm vụ đã viết quyết tâm thư đảo Trường Sa bị đe dọa. Địch vội điều hai gửi Đảng ủy đơn vị và BTL Quân chủng, tàu HQ16 và HQ402 từ Vũng Tàu ra định xin thề quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ vinh phản kích chiếm lại, nhưng do sự nản lòng, quang của Tổ quốc giao cho. nhụt chí trước sự bố phòng chặt chẽ và tinh thần sẵn sàng chiến đấu cao của ta ở đảo, Với phương châm \"Thần tốc, táo bạo, cộng với những thất bại nặng nề, dồn dập bất ngờ\", 4 giờ ngày 11-4-1975, lực lượng của chúng trên khắp các chiến trường, nhất giải phóng Trường Sa được lệnh xuất kích là tuyến phòng thủ Phan Rang của chúng bị rời quân cảng Đà Nẵng. Để bảo đảm giữ bí vỡ, đã làm cho tinh thần binh lính đi chi viện mật, bất ngờ cho trận đánh, bí mật đối với hoang mang, dao động, không dám tiến ra lực lượng nước ngoài nuôi ý đồ lợi dụng các đánh đảo Song Tử Tây, mà phải quay về cơ hội giao thời xâm chiếm Trường Sa, ba tăng cường phòng thủ đảo Nam Yết, nơi đặt tàu vận tải của Đoàn 125 được ngụy trang trung tâm chỉ huy của địch ở quần đảo giả tàu đánh cá. Vì thời gian thực hiện nhiệm Trường Sa. Cùng thời gian này, trên vùng vụ gấp, nên trong quá trình hành quân trên biển quần đảo Trường Sa, nhiều tàu chiến và biển, Đảng ủy, Ban Chỉ huy Đoàn C75 tiếp máy bay địch xuất hiện. Trước tình hình đó, tục hội ý, bổ sung hoàn thiện kế hoạch tác BTL Hải quân chủ trương để một bộ phận chiến và chỉ đạo các chi bộ, chỉ huy đơn vị lực lượng phòng thủ đảo Song Tử Tây. Lực đôn đốc bộ đội tích cực ngụy trang, hạn chế lượng còn lại chuyển về Đà Nẵng củng cố, phát sóng vô tuyến; làm tốt công tác tư bổ sung vũ khí trang bị, tổ chức rút kinh tưởng, quán triệt nhiệm vụ, phổ biến phương nghiệm, xây dựng phương án tác chiến, án đánh địch và động viên cán bộ, chiến sĩ chuẩn bị kế hoạch giải phóng tiếp các đảo giữ vững ý chí chiến đấu, quyết tâm khắc còn lại khi thời cơ đến. phục sự cố kỹ thuật tàu và những khó khăn do say sóng, chưa quen ăn ở, sinh hoạt trên Để bảo đảm cho đợt hai chiến đấu giải tàu; đề cao tinh thần đoàn kết, thương yêu phóng các đảo còn lại do Ngụy quyền Sài Gòn quản lý ở quần đảo Trường Sa giành 82
thắng lợi, BTL Hải quân đã chỉ đạo Đảng ủy, đấu; một bộ phận khác nhanh chóng xuống Chỉ huy Đoàn C75 và cấp ủy, chỉ huy các tàu, tiếp tục hành quân đi giải phóng đảo tàu, phân đội tổ chức ngay việc rút kinh Sinh Tồn và đảo Trường Sa. Cũng như đảo nghiệm trận đánh giải phóng đảo Song Tử Nam Yết, quân địch ở đây quá hoang mang Tây; tiếp tục củng cố đơn vị và chuẩn bị chu đã rút chạy từ sáng sớm ngày 28-4, nên lực đáo kế hoạch cũng như các mặt bảo đảm lượng ta đổ bộ thuận lợi. 10 giờ 30 phút ngày phục vụ cho chiến đấu; động viên bộ đội 28-4, ta hoàn toàn làm chủ đảo Sinh Tồn. nắm vững tư tưởng chỉ đạo tác chiến là: Phát huy khí thế tiến công giành thắng lợi như \"Thường xuyên nắm địch, nắm thời cơ, khi vũ bão của quân ta trên khắp các chiến có lệnh lên đường được ngay; hành động trường, 16 giờ ngày 28-4, tàu 673 chở lực chiến thuật táo bạo, kiên quyết tiến công, lượng ta tiến thẳng về phía đảo Trường Sa. mưu trí, linh hoạt, khôn khéo, giữ bí mật\" và Đây là đảo xa nhất nằm ở phía Nam của quần phương châm \"táo bạo, kiên quyết, độc lập đảo Trường Sa, nhưng có diện tích lớn nhất tiến công, đánh địch ngay từ đầu, phòng ngự so với các đảo vừa giải phóng. 9 giờ ngày 29- vững chắc\". Đêm 24 rạng sáng 25-4-1975, 4, lực lượng ta đã hoàn thành công tác đổ bộ, lực lượng của ta đã đổ bộ bí mật, bất ngờ nổ hoàn toàn làm chủ đảo Trường Sa; đồng thời, súng tiến công các mục tiêu trên đảo Sơn Ca, kết thúc một nhiệm vụ có ý nghĩa đặc biệt sau 30 phút chiến đấu ta tiêu diệt hai tên, bắt quan trọng về mặt chiến lược do Quân ủy T.Ư 17 tên, thu toàn bộ vũ khí, trang bị và xuồng giao cho Quân chủng Hải quân. máy của chúng, kéo cờ giải phóng trên đảo Sơn Ca. Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiến công giải phóng các đảo do quân đội Sài Gòn Trước tình hình ta giải phóng đảo Song đóng giữ ở quần đảo Trường Sa, có ý nghĩa Tử Tây và đảo Sơn Ca, quân địch ở các đảo giá trị vô cùng to lớn đối với dân tộc cả trong Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa hoang mang hiện tại và lâu dài. Giải phóng các đảo ở cực độ. Ngày 26-4, địch cho nhiều tàu tuần quần đảo Trường Sa đã tạo điều kiện quan dương, khu trục qua lại quanh đảo Sơn Ca, trọng để cùng với lực lượng tàu của ta hình với ý định tiến công lên đảo nếu có thời cơ, thành mũi bao vây, khống chế, tiến công nhưng cuối cùng biết là bất lực, địch đành quân địch trên hướng biển từ ngoài khơi xa; quay tàu về trú ở đảo Nam Yết. 20 giờ 45 kịp thời phát hiện, ngăn chặn địch từ ngoài phút ngày 26-4, đài kỹ thuật ta bắt được điện vào và từ trong đất liền chạy ra, góp phần của sở chỉ huy địch lệnh cho lực lượng trấn quan trọng để làm nên thắng lợi của cuộc giữ của chúng chuẩn bị rút khỏi các đảo còn Tổng tiến công và nổi dậy, một thắng lợi vĩ lại. Sở chỉ huy Quân chủng liền hạ lệnh cho đại của dân tộc. hai tàu 673 và 641 lên đường tiến vào giải phóng đảo Nam Yết. 10 giờ 30 phút ngày Đồng thời, kịp thời giải phóng các đảo ở 27-4, lực lượng của ta trên hai tàu đổ bộ lên quần đảo Trường Sa đã giữ được chủ quyền đảo. Sau khi lên đảo, một bộ phận được phân bất khả xâm phạm của Tổ quốc trên quần công ở lại kiểm tra toàn bộ trận địa và triển đảo này. khai công tác bố trí lực lượng, sẵn sàng chiến Bởi ngay sau khi ta vừa giải phóng đảo, thì đã có một số tàu nước ngoài đến hòng 83
xâm chiếm đảo, nhưng thấy cờ của Quân giải định của cấp trên. Gần 40 năm đã trôi qua, phóng Miền nam Việt Nam, nên họ đã phải song chiến công giải phóng Trường Sa của Quân chủng Hải quân vẫn còn hết sức tươi quay ra. mới, minh chứng cho một \"quyết định lịch Chiến thắng của Hải quân nhân dân Việt sử, khoảnh khắc lịch sử\", vẻ vang trong truyền thống đấu tranh giải phóng dân tộc Nam trong giải phóng các đảo thuộc quần của nhân dân Việt Nam, góp phần tô thắm đảo Trường Sa, đã thể hiện nắm vững sự chỉ chiến công của Quân đội và Hải quân nhân đạo của Quân ủy T.Ư, Bộ Tổng Tham mưu, dân Việt Nam anh hùng. quán triệt sâu sắc ý nghĩa của nhiệm vụ, nêu cao tinh thần tích cực, chủ động nắm chắc Chuẩn Đô đốc Đinh Gia Thật Bí thư thời cơ, nhạy bén với những diễn biến tình Đảng ủy, Chính ủy Quân chủng Hải quân hình, kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo sử dụng lực lượng tinh nhuệ, thực hiện cách đánh sáng http://www.nhandan.org.vn tạo, bí mật, bất ngờ tiến công giải phóng các đảo trước khi giải phóng Sài Gòn, đúng với ý Báo Nhân dân Những cột mốc chủ quyền thầm lặng giữa đại dương Không chỉ góp phần khẳng định và bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam, những người gác hải đăng tại Trường Sa còn giúp chỉ đường, dẫn lối cho tàu thuyền quốc tế qua lại khu vực. Hiện cả huyện đảo Trường Sa (Khánh Hòa) có 9 ngọn hải đăng. Yết và Trường Sa Lớn. Tất cả 9 ngọn hải đăng này đều do Cty Bảo đảm Hàng hải Biển Đông và Hải đảo (Tổng Cty Bảo đảm An toàn Hàng hải miền Nam, Bộ GTVT) quản lý. Mỗi ngọn hải đăng không đơn thuần chỉ làm nhiệm vụ dẫn đường, chỉ lối cho tàu thuyền hoạt động qua lại khu vực Biển Ngọn hải đăng trên đảo Trường Sa Lớn Đông, đây còn như những cột mộc chủ quyền sừng sững giữa đại dương. Những Khi màn đêm buông xuống, ghe tàu của ngọn hải đăng được ví như “mắt thần” trông ngư dân chỉ cần thấy những ánh đèn chớp coi chủ quyền biển đảo thiêng liêng của sáng của hải đăng Trường Sa là có thể yên Việt Nam. tâm đánh bắt trên vùng biển của ta. Việc xây dựng những hải đăng này theo “Mắt thần” trông coi chủ quyền luật pháp quốc tế là trách nhiệm của quốc gia Hiện cả huyện đảo Trường Sa (Khánh có biển, được Cơ quan quỹ đạo quốc tế và Hòa) có 9 ngọn hải đăng, được xây dựng Hiệp hội báo hiệu hàng hải quốc tế ghi nhận tại các đảo: Song Tử Tây, Đá Lát, Đá Tây, trên hải đồ quốc tế. Ngọn hải đăng đầu tiên An Bang, Tiên Nữ, Sinh Tồn, Sơn Ca, Nam 84
tại Trường Sa được xây dựng tại Song Tử xăng dầu như trước đây. Tuy nhiên, vào những hôm trời mưa bão vẫn phải chạy Tây, vào năm 1993. thêm máy phát điện, việc trông coi đèn lại Trong hải trình ra Trường Sa cuối năm, vất vả hơn để đảm bảo đèn hoạt động ổn định cả đêm. chúng tôi may mắn đi qua 4/9 ngọn hải đăng (gồm Đá Lát, Trường Sa Lớn, Đá Tây, An Không chỉ dẫn lối cho tàu vận tải hoạt Bang), với tên gọi thân thương là “nhà đèn”. động qua lại khu vực huyện đảo Trường Sa không mắc cạn, những ngọn hải đăng còn là Nhìn từ xa, hải đăng đảo Đá Lát không điểm tựa của ngư dân đánh bắt cá tại ngư khác gì cột thu phát sóng truyền hình. Do cột trường Trường Sa mỗi khi đêm xuống, trời đèn được xây dựng trên đảo chìm, sáng sớm trở gió. Những ghe tàu của ngư dân hư hỏng, mỗi khi biển lặng nước triều xuống đảo mới mất định vị trong đêm tối chỉ cần thấy ánh nhú khỏi mặt biển 3-4 tiếng đồng hồ, thời sáng chớp nháy của hải đăng là yên tâm, gian còn lại đảo chìm sâu dưới mặt biển 2- không bao giờ lo mất phương hướng giữa 4m. Vì vậy, để xây dựng đèn, 4 trụ sắt được trùng khơi. cắm thẳng xuống biển, trên đó là nơi diễn ra mọi hoạt động của anh em trông coi và vận Những công nhân thầm lặng giữ hành đèn. biển khơi Những khung sắt đã hoen gỉ vì muối Tới thăm trạm hải đăng đảo Trường Sa biển, chân đèn hà bám kín xung quanh. Mỗi Lớn vào mùa biển Đông gió mạnh, sóng lớn. khi nước lên, anh em trông coi đèn ngồi từ Từng ngọn sóng cao cả mét đánh vào bờ bọt trên có thể ngắm cá tung tăng bơi lội ngay tung trắng xóa, hơi nước như sương tạt thẳng dưới chân mình. Khổ nhất với anh em hải lên đảo khiến bàn ghế của trạm lúc nào cũng đăng đảo Đá Lát là nước ngọt, do dụng cụ ẩm ướt. lưu trữ nước mưa có hạn. Còn thực phẩm chủ yếu đồ đông lạnh, đồ hộp và cá tươi mỗi Trạm trưởng Trần Văn Khánh cho biết, khi nước xuống anh em đi câu được. trạm hải đăng Trường Sa Lớn được xây dựng và đưa vào sử dụng năm 2003, hiện đang có Hải đăng Đá Lát cách vị trí đóng quân của Hải quân tới 300-400m, nên hai bên Ngọn hải đăng trên đảo An Bang muốn sang thăm nhau phải đi bằng xuồng. Tuy vậy, hải đăng đảo Đá Lát lại đặc biệt quan trọng, vì nằm trong tuyến hàng hải quốc tế Bắc - Nam, tàu buôn qua lại tấp nập. Những ngọn hải đăng khác, như trên đảo Đá Tây, Trường Sa Lớn, An Bang… được đầu tư xây dựng kiên cố, rộng rãi nên có phần thuận lợi hơn hải đăng đảo Đá Lát. Những năm gần đây các ngọn hải đăng trên đảo đều được trang bị hệ thống pin năng lượng mặt trời và điện gió, không còn phụ thuộc hoàn toàn vào máy phát điện chạy 85
3 người trông coi, người ít tuổi nhất cũng đã Với anh em nhà đèn, số lần được về nhà ngoài 40, người cao tuổi nhất còn một năm ăn Tết với gia đình chỉ đếm trên đầu ngón nữa sẽ về nghỉ hưu. Anh Khánh quê Hải tay. Trong 19 năm làm nghề, anh Nguyên Phòng, năm nay đã ngoài 45, với 20 năm mới được đón Tết với gia đình 3 lần. Trong công tác tại Trường Sa, từng đi qua 6/9 ngọn 16 cái Tết trên biển, anh Nguyên nhớ nhất hải đăng nơi đây. Tết năm 2007, khi anh đang làm nhiệm vụ tại hải đăng đảo Đá Tây. Cuối năm đó, do Anh Khánh ra Trường Sa năm 1994, chỉ biển động, tàu của công ty không thể đem 1 năm sau khi ngọn hải đăng đầu tiên tại nhu yếu phẩm ra trạm, gạo, muối của trạm Trường Sa được xây dựng trên đảo Song Tử hết sạch. Đợi tới ngày 29 Tết vẫn chưa thấy Tây. Hằng ngày, các cán bộ tại trạm hải đăng tàu, anh em trạm phải “cầu cứu” lực lượng phải chia ca trực 24/24 giờ, ngoài nhiệm vụ Hải quân. đảm bảo đèn hoạt động ổn định mỗi đêm, các anh còn phải quan sát và ghi nhận mọi Để giúp anh em nhà đèn, chỉ huy đảo Đá hoạt động của tàu thuyền qua lại khu vực. Tây phát loa kêu gọi anh em lính mỗi người góp một thứ giúp anh em nhà đèn. Nhờ đó, Cũng ra với những ngọn hải đăng không chỉ có gạo, muối đón Tết, anh em nhà Trường Sa từ năm 26 tuổi, tới nay đã bước đèn còn được chiến sĩ cho cả gà. Thậm chí, sang tuổi 45, anh Trịnh Văn Nguyên (Trạm ngày mùng 1 Tết chiến sĩ đảo Đá Tây đưa trưởng hải đăng đảo An Bang) đã có 19 năm xuồng đón anh em nhà đèn sang liên hoan sống tại 7/9 ngọn hải đăng ở Trường Sa. An năm mới cùng anh em đảo. “Kỷ niệm ấy cả Bang mùa này sóng gió tạt nước biển ướt cả đời tôi không bao giờ quên, luôn biết ơn tấm nửa đảo, rau và gà của anh em trạm dính lòng anh em bộ đội với nhà đèn”, anh nước muối chết gần hết. “Mùa biển yên, rau Nguyên nhớ lại. anh em ăn không hết, nhưng mùa nay đã một tháng nay anh em không có rau tươi ăn”, anh Còn với anh Khánh, nhắc đến Tết anh Nguyên nói, trước trạm vườn rau chỉ trơ nhớ mình đã không ít lần phải rớt nước cọng. Để trồng lại rau, các anh phải mất cả mắt vì nhớ và thương vợ xa chồng, con tháng tưới nước ngọt rửa mặn cho đất. mong bố, trong khi những gia đình khác sum vầy. Những năm trước đây, khi các Dù học bằng lái tàu biển, nhưng anh đảo Trường Sa chưa được phủ sóng điện Nguyên lại chọn làm “lính” hải đăng vì sở thoại, mỗi dịp Tết anh em trạm phải dùng thích được lặn và ngắm san hô. “Khi còn đi máy điện đàm Icom gọi về đài phát thanh học, mỗi khi xem các chương trình nước tỉnh, sau đó nhờ kết nối với điện thoại để ngoài về thám hiểm đại dượng mình thích nói chuyện với vợ con. lắm, nên ước mơ được ra biển. Khi học xong thì xin đi gác hải đăng. Lúc mới ra Trường Mỗi năm Cty Bảo đảm Hàng hải biển Sa, chiều nào tôi cũng bơi và lặn ngắm san Đông và Hải đảo có 4 chuyến tàu đưa các hô, những dãy san hô ở Trường Sa còn đẹp nhu yếu phẩm ra các điểm đèn hải đăng tại hơn cả các chương trình trên ti vi”, anh Trường Sa. Tuy nhiên, dù chỉ còn 1 tháng nữa là tới Tết Âm lịch 2015, nhưng tới nay Nguyên nói. tàu của công ty vẫn chưa ra theo kế hoạch do 86
biển động. “Tàu của công ty nhỏ nên biển và bảo vệ Tổ quốc. Trong nhiều chuyến chỉ động cấp 4-5 là không thể đi được, đã công tác ra đảo Trướng Sa, Bộ trưởng hơn tháng nay anh em trạm hết chè, thuốc”, GTVT Đinh La Thăng cũng không ít lần tới thăm và để lại bút tích khen ngợi anh em anh Khánh nói. gác trạm hải đăng. Tháng 11/2011, Trạm hải đăng Trường http://www.vietbao.vn Sa Lớn được Thủ tướng tặng Bằng khen vì Mạng thông tin Việt Nam đã có thành tích trong công tác, góp phần vào sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội Bộ ảnh vô giá về cuộc sống và chiến đấu ở Trường Sa năm 1988 Ngày 4/5/1988, đoàn công tác khởi hành từ Cam Ranh (Khánh Hòa) trên 2 tàu 961 và 861. Trong đó, tàu 961 chở đoàn phóng viên, quay phim, văn công, nhạc sĩ và một số sĩ quan các binh chủng còn tàu 861 chở Đại tướng Lê Đức Anh (khi ấy là Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng) và Đô đốc Giáp Văn Cương (Tư lệnh Hải quân) cùng nhiều sĩ quan cao cấp của các binh chủng. 87
Sau hành trình hơn 250 hải lý, đến 8 giờ ngày 6/5, đoàn đến điểm đầu tiên của chuyến công tác, đó là đảo Đá Lát. Tại đây, nhà báo Nguyễn Viết Thái đã chụp được bức ảnh này và đặt tên là “Chiến sĩ trẻ trên đảo Đá Lát”. “Đây là một trong những bức hình tôi tâm đắc nhất chuyến đi, vì nó thể hiện được sự lạc quan của những người lính trẻ trước nắng cháy đảo xa và vô vàn hiểm nguy nơi đầu sóng, ngọn gió” - Nhà báo Nguyễn Viết Thái chia sẻ. Điểm đến tiếp theo là đảo Trường Sa Lớn (khi ấy còn gọi là đảo Trường Sa) 88
. Những người lính đào công sự trên đảo Trường Sa Lớn. Tinh thần sẵn sàng chiến đấu luôn được đề cao,… Tháng 5/1988, toàn cảnh đảo Phan Vinh - hòn đảo mang tên người thuyền trưởng tàu không số. 89
Đại tướng Lê Đức Anh (đeo kính, ngồi giữa) và Đô đốc Giáp Văn Cương (ngoài cùng, bên phải) chụp ảnh lưu niệm cùng các chiến sĩ trên đảo Phan Vinh. Toàn cảnh đảo Thuyền Chài. Từ trái qua là nhà cao chân (cách gọi của lính đảo), làm bằng gỗ với các chân bằng gỗ, rộng chừng 30m2, lợp mái tôn, sàn ghép gỗ. Tiếp theo là nhà lâu bền thế hệ đầu tiên, làm bằng đá chẻ. Cuối cùng là một chiếc xà lan (anh em lính đảo khi ấy thường gọi là pông - tông), được neo chặt xuống rặng san hô bằng nhiều chiếc mỏ neo, mỗi cái nặng 1 tấn. Trên pông-tông có khoang chứa thực phầm, không gian sinh hoạt và nhiều dụng cụ khác. 90
Lễ chào cờ đầu tuần trên đảo Thuyền Chài, được tổ chức trên pông-tông của đảo. Mỗi chuyến thăm đảo đều có các đội chiếu video đi theo để phục vụ lính đảo. Xem video thời đó là một món giải trí “xa xỉ” của của các chiến sĩ Trường Sa. 91
Lau chùi, bảo quản vũ khí dưới cái nắng gay gắt và sóng biển ầm ào của Trường Sa. Anh em chiến sĩ các đảo chìm khi ấy sống và chiến đấu tại các nhà cao chân như thế này. “Chẳng khác gì một chiếc lá mong manh trước bão tố, sóng dữ đại dương” - Nhà báo Nguyễn Viết Thái miêu tả. Ảnh chụp tại đảo Đá Đông, tháng 5/1988. 92
Sau nhà cao chân, một số đảo, điểm đảo được sự quan tâm, đầu tư của Đảng và Chính phủ để xây dựng nhà đá chẻ (nhà lâu bền thế hệ thứ nhất). Trong ảnh: Xây dựng nhà đá chẻ tại đảo Tiên Nữ. Anh em chiến sĩ công binh tắm rửa sau 1 ngày trần mình dưới nắng cháy và sóng biển. Ở Trường Sa khi ấy, tắm nước ngọt là một điều xa xỉ… 93
Cố nhạc sĩ Xuân An (người đang ôm đàn, tác giả bài hát “Mưa Trường Sa”) và ca sĩ Thanh Thanh - đoàn ca múa nhạc Hải Đăng, hát cho chiến sĩ Trường Sa nghe bên mâm pháo. Những người đi Trường Sa ngày ấy. Trong ảnh, từ trái qua, hàng trước: Anh Phạm Đình Quát (Quốc doanh Nhiếp ảnh Phú Khánh), cố nhạc sĩ Xuân An, ca sĩ Thanh Thanh. Hàng sau, ca sĩ Anh Đào (người thứ hai), nhà báo Nguyễn Viết Thái (người thứ tư, tác giả của những bức hình rất có giá trị lịch sử này). http://www.baomoi.com Báo mới 94
2. NHÀ GIÀN DK Chuyện những cột mốc chủ quyền trên biển 15 nhà giàn DK1 vững vàng trên thềm lục địa Tổ quốc giữa ngàn khơi trong suốt 25 năm qua, không chỉ khẳng định sự kiên cường bám trụ của các chiến sĩ quyết tâm giữ vững chủ quyền vùng biển của Tổ quốc, mà còn khẳng định đó là chủ quyền bất khả xâm phạm của Việt Nam. Kỳ 1: Pháo đài canh biển Với tư cách là cột mốc chủ quyền, những Ngay từ năm 1985, ông Cương có ý nhà giàn DK1 không chỉ là những pháo đài tưởng cho xây dựng nhà giàn DK1 với 2 lý canh biển, mà còn là điểm tựa vững chắc cho do: thứ nhất: Ông dự báo, trong tương lai bà con ngư dân ra khai thác đánh bắt hải sản gần, vùng biển khu vực Trường Sa không trên thềm lục địa phía Nam Tổ quốc. Chủ được bình yên và sẽ là nơi tác chiến chính nhân trên những “pháo đài canh biển ấy”, là của Hải quân Việt Nam, vì thế việc xây dựng cán bộ chiến sĩ tiểu đoàn DK1 Vùng 2 hải các nhà giàn trên các bãi san hô ngầm là một quân - những người được coi là bia chủ tất yếu. Lý do thứ 2, ông Cương cho xây quyền sống, sinh tử với biển, có sức bám trụ dựng nhà giàn là xuất phát từ thực tiễn tổng kiên cường và tinh thần thép. kết lịch sử trong chiến tranh vệ quốc của Việt Nam. Đối phương đến xâm chiếm Việt Người khai sinh nhà giàn Nam có 10/14 cuộc chúng tấn công nước ta Thế hệ cán bộ chiến sĩ hải quân Việt từ đường biển. Vì vậy bảo vệ Tổ quốc từ Nam không thể không nhắc tới vị tướng có hướng biển là “dĩ bất biến”, tức là “bất di bất tầm nhìn chiến lược về biển đảo - cố Thượng dịch” không thể làm khác. Có bảo vệ Tổ tướng, Đô đốc Giáp Văn Cương, người đã quốc vững chãi từ hướng biển, mới bảo đảm cho nền hòa bình vững chắc, để phát triển khai sinh ra nhà giàn DK1. đất nước từ nội lực. Năm 1989, ông Cương lúc đó giữ cương Ngay sau đó, Đô đốc Giáp Văn Cương vị Tư lệnh Hải quân. Ông đã nhận thấy, các giàn khoan dầu khí hoạt động, nhất thiết phải Đô đốc Giáp Văn Cương (thứ 2 bên trái) thăm có lực lượng bảo vệ vòng ngoài, lực lượng chiến sĩ nhà giàn Ba Kè A năm 1989, hơn một này phải sử dụng bộ đội Hải quân, đủ sức năm sau, nhà giàn này bị đánh sập mạnh, am hiểu về biển đảo. Việc triển khai hải quân ra trấn giữ theo “vòng cung” từ hướng biển trên phần thềm lục địa của Tổ quốc, là đỉnh cao “chiến lược phòng thủ biển”, vừa bảo vệ an toàn cho các giàn khoan dầu khí hoạt động, khai thác và phát triển kinh tế biển trong tương lai, vừa có tầm chiến lược lâu dài, bảo vệ đất nước từ hướng biển. 95
Search
Read the Text Version
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 7
- 8
- 9
- 10
- 11
- 12
- 13
- 14
- 15
- 16
- 17
- 18
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23
- 24
- 25
- 26
- 27
- 28
- 29
- 30
- 31
- 32
- 33
- 34
- 35
- 36
- 37
- 38
- 39
- 40
- 41
- 42
- 43
- 44
- 45
- 46
- 47
- 48
- 49
- 50
- 51
- 52
- 53
- 54
- 55
- 56
- 57
- 58
- 59
- 60
- 61
- 62
- 63
- 64
- 65
- 66
- 67
- 68
- 69
- 70
- 71
- 72
- 73
- 74
- 75
- 76
- 77
- 78
- 79
- 80
- 81
- 82
- 83
- 84
- 85
- 86
- 87
- 88
- 89
- 90
- 91
- 92
- 93
- 94
- 95
- 96
- 97
- 98
- 99
- 100
- 101
- 102
- 103
- 104
- 105
- 106
- 107
- 108
- 109
- 110
- 111
- 112
- 113
- 114
- 115
- 116
- 117
- 118
- 119
- 120
- 121
- 122
- 123
- 124
- 125
- 126
- 127
- 128
- 129
- 130
- 131
- 132
- 133
- 134
- 135
- 136
- 137
- 138
- 139
- 140
- 141
- 142
- 143
- 144
- 145
- 146
- 147
- 148
- 149
- 150
- 151
- 152
- 153
- 154
- 155
- 156
- 157
- 158
- 159
- 160
- 161
- 162
- 163
- 164
- 165
- 166
- 167
- 168
- 169
- 170
- 171
- 172
- 173
- 174
- 175
- 176
- 177
- 178
- 179
- 180
- 181
- 182
- 183
- 184
- 185
- 186
- 187
- 188
- 189
- 190
- 191
- 192
- 193
- 194
- 195
- 196
- 197
- 198
- 199
- 200
- 201
- 202
- 203
- 204
- 205
- 206
- 207
- 208
- 209
- 210
- 211
- 212
- 213
- 214
- 215
- 216
- 217
- 218
- 219
- 220
- 221
- 222
- 223
- 224
- 225
- 226
- 227
- 228
- 229
- 230
- 231
- 232
- 233
- 234
- 235
- 236
- 237
- 238
- 239
- 240
- 241
- 242
- 243
- 244
- 245
- 246
- 247
- 248
- 249
- 250
- 251
- 252
- 253
- 254
- 255
- 256
- 257
- 258
- 259
- 260
- 261
- 262
- 263
- 264
- 265
- 266
- 267
- 268
- 269
- 270
- 271
- 272
- 273
- 274
- 275