TRỊNH THỊ NGA (Suii tẩm - Biên soạn) DI TÍCH LỊCH SỬ -VĂN HÓA TRINH TH| NGA ĐỂN TRẦN - CHÙA THÁP Sinh năm 1964 TỈNH NAM ĐĨNH - Quê xã Yên Phong huyện Ý Yên tỉnh Nam Định. NHÀ XUẤT BẢN VÀN HÓA DÂN TỘC - 2008 - Trú tại 53/71 đường Kênh, phường Cửa Bắc thành phố Nam Định. -Cửnhân văn hoá. - Hội viên hội Khoa học lịch sửNam Định. - HưÉng dẫn viên Ban quản lí khu di tích lịch sử - văn hoá đền Trần - chùa Tháp thành phô Nam Định. Mobile; 0989189179
TRỊNH THỊ NGA (SƯU TẦM - BIÊN SOẠN) DI TÍCH LỊCH s ử ■VĂN HOÁ ĐỂN TRẦN, CHÙA THÁP TỈNH NAM ĐỊNH NHÀ XUẤT BẢN VĂN HOÁ DÂN TỘC HÀ NỘI - 2009
LỜI NÓI ĐẦU Khu di tích lịch sử văn hoá đền Trần - chùa Tháp thuộc phủ Thiên Trường xưa của nhà Trần, thờ phụng các vị vua anh minh, những tướng tài xuất chúng, những nhà văn hoá tài ba. Công đức của họ đ ã làm vẻ vang cho đất nước, đem lại niềm tự hào cho dân tộc. Tên tuổi của họ sống mãi trong lòng dân với một tấm lòng kính trọng. Tiền nhân đã xây dựng ở Nam Định nhiều công trình văn hoá có giá trị như: đền Trần (Tức Mặc) thờ 14 vị Hoàng đ ế thời Trần; đền C ố Trạch, đền Bảo Lộc thờ Quốc Công Tiết C hế Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn; đền Vạn Khoảnh thờ vị thượng hoàng đầu tiên của nhà Trần là Trần Thừa; đền Lựu Phố, đền Lốc thờ Thống Quốc Thái sư Trần Thủ Độ; đình Cao Đài, đền Hậu Bồi thờ Chiêu minh vương Trần Quang Khải; chùa P hổ Minh thở Phật và thờ Tam tổ Trúc Lâm, tiêu biểu là tháp Phổ Minh - một biểu tượng văn hoá triều Trần độc đáo tại Nam Định. Cuốn sách Di tích lịch sử - vân hoá đền Trần - Chùa Tháp tỉnh Nam Định nhằm giới thiệu, khảo cứu về các di tích thuộc quần thể văn hoá triều Trần tại thành ph ố Nam Định. Mặc dù rất c ố gắng nhưng chúng tôi cũng chỉ giới thiệu được phần nào về địa lí, kiến trúc, nghệ thuật, cách bài trí thờ tự, lễ hội của di tích có kèm theo một số tư liệu Hán Nôm như hoành phi, câu đối, bài vị, bia đá, sắc phong... hiện đang lưu giữ tại di tích.
Chúng tôi xin cảm ơn sự nhiệt tình giúp đỡ của đồng nghiệp và Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc đ ể cuốn sách được ra mắt bạn đọc. Hy vọng cuốn sách sẽ là người bạn hướng dẫn du khách trong cuộc hành hương về quê hương các vị Hoàng đ ế đời Trần. Những thiếu sót trong cuốn sách sẽ khó tránh khỏi, chúng tôi mong nhận được ý kiến đóng góp của quý độc giả và đồng nghiệp đ ể lần xuất bản sau được hoàn chỉnh hơn. Mùa thu năm 2008 TÁC GIẢ
so e>ổ OLròo OÍNmỘTsố OITtcN moito O K ẩiN m« OI TiCN lịc N Sư■ VÍIN milu mắNm i N ift* b Ị n h SÔNG CHMJ Đển ” Vạn Khoảnh giang sõ’ Đền Lựu Phô Đén w *-ăng mộ Bảo Lộc Trẩn Hưng Đạo Đển Lộc Quý Đỉnh Llèu Nha Đền thờ Trẩn Quang Khải Đến Trán Chùa Đệ Tứ mẳằề Chùa Tháp ' Đ.Trẩn Thủ Độ ĐI THÁI BÌNH QUỐCt ộ \\ữ HÀ NỘI TRUNG TAM ĩ TP.NAM ĐỊNH
sơ Đ ồ ĐirỜNO đI n f5ÍN TRấN ■ CHŨfl THÁP TÌNH NAM dỊ n H
PHẦNI HÀNH CUNG THIÊN TRƯỜNG XƯA PHỦ THIÊN TRƯỜNG XƯA VÀ NAY 1. Phủ Thiên Trường xưa Kể từ thời Lý, phía tây sông Hồng tại vùng Nam Định hiện nay đã là vùng đất được dân xứ Bắc chú ý. Ngọc phả đình Đông thôn Đệ Tam ghi việc Sứ quân Trần Lãm quê gốc ở Quảng Đông (Trung Quốc) có công phò giúp Ngô Quyển chống quân Nam Hán nên được ban thực ấp ở vùng Bố Hải Khẩu^^\\ Nay các làng thôn Đệ Tam (Mỹ Phúc), Thanh Khê (Mỹ Trung) đều lập đền thờ ông. Đến cuối thời Lý đầu thời Trần trung tâm này lấn ra tód biển mới chừng 30 dặm. Tòa thành đất tại Dương Xá và thành đất nhỏ h9fn ở phía nam, phía bắc đã được Tô Trung Tự, Trần Tự Khánh sửa dựng. Ngọc phả đình Vị Xuyên thờ vợ chồng tướng quân Đoàn Thượng, ban đầu có duệ hiệu là Hải Quốc đại tướng, Dương phu nhân. Dương phu nhân tức bà Dương Thị Mỹ mai danh ẩn tích về làng Dương Xá, chiêu dân phiêu tán, chấn hưng nghề mộc và nghề rèn. Câu đối đình Vị Xuyên: ‘T ị quốc bí danh, Đoàn ngôn chính thất. Giáo dân ấp, hưng công nghệ, Lý đại danh nhân. ” (1) Nay là vùng đất thị xã Thái Bình và một số xã ven sông Hồng thuộc tỉnh Nam Định. 5
Dịch nghĩa: Tránh nạn nước, dấu họ tên, trong cửa họ Đoàn ngôi chính thất. Dạy dân ấp, dạy công nghệ dưói triều Lý bậc danh nhân. Tại Dương Xá, bà lo tái lập làng xóm, cấp đỡ người nghèo, xây chùa Thiên Thuỷ, dựng đền thờ chồng, bắc cầu mở chợ khuyên dân chuyên nghề buôn bán. Trong bài: Tha phương tức sự của Vương Bình An người Trung Quốc sang đất An Bang (Quảng Ninh) về vùng Thiên Trường vào cuối triều Lý viết: Tứ biên thuỷ bích tiếp thiên thanh Giang thị ngư thôn nhiễu thổ thành Khang Kiện Qua Châu, nam bắc cận. Vĩnh Ninh, Bình Giã trại khu trình Thiên niên Dương Xá phù hoa cảnh Nhất thếTrần gia đại mộc kình Thương mại chí kim nam đắc trụ Tha phương hà dị cố hương sinh Dịch nghĩa: Bốn bề nước biếc liền với trời xanh Chơ sông, xóm chài vòng, vèo bao ngoài thành đất Ph' I nam, phía bắc gần với Khang Kiện, Qua Châu Lại còn có trại Vĩnh Ninh, khu Bình Giã Muôn năm Dương Xá phồn hoa cảnh Một thuở Trần Triều rạng rỡ danh
Buôn bán đến nay chừng khó ngặt Quê đây khôn dễ sánh quê mình! Nam Du Tạp Ký của Lý Kiến Bình, người phường Tiểu Ba, ấp Đông Ba phủ Chương Châu tỉnh Phúc Kiến - Trung Quốc là một thương nhân do nội loạn di cư đến phủ Thiên Trường vào năm 1212 thì viết như sau: “Nơi đây có bến đò, có chợ, có trang ấp Phù Hoa, Khang Kiện, Thiên Bồi, Vĩnh An, Dương Xá, Qua Châu.” Đầu tháng chạp năm Đinh Mùi (1368) Trần Thế Hưng một vị tướng thời Trần trước khi đi đánh Chiêm Thành, qua phủ Thiên Trường có viết bài thơ: MỸ LỘC HUYỆN BẢO DẠ TÚC Đinh Mùi niên - Trần T h ế Hưng Vũ sư Cảo khẩu ngọ nan tình Tam bạc giang châu phó thị đình Đông tiết dạ lai minh ngũyệt độn Hàn phong suy chí tửu gia quynh Lựu Viên c ố trạch hà nhân vấn An ấp tân từ tự cổ linh C ố thuyết anh hùng công bất hủ Đương tri dân tử vạn thiên huỳnh. Dịch nghĩa: ĐÊM NGHỈ LẠI THÀNH HUYỆN MỸ LỘC (Năm Đinh Mùi (1368) Trần Thế Hưng)
Mưa sàng cửa Cảo trưa không tạnh Neo tạm thuyền lên ngắm thị đình Trăng sáng đêm đông tìm chỗ trốn Gió lùa quán rượu cửa then nhanh Lựu Viên nhà cũ ai còn hỏi An ấp đền nay trước vẫn linh Cứ nói anh hùng công bất hủ Nên hay dân chết vạn mồ xanh. Câu đối khắc ghi tại đền Thiên Trường, phường Lộc Vượng thành phố Nam Định. ức niên cư d ĩ sinh nhai Dương Aứ thuỷ lai đình tất trú Chí hậu công vu Lý tộ, Khang thôn sơ định tác gia từ. D ịch: Nhớ xưa sinh sống bằng nghề chài Buổi đầu dừng gót nơi Dương Xá Về sau có công với nhà Lý Mới xây gia miếu tại Khang thôn. Bia chùa Vĩnh Trường (Viên Thông tự bi ký) thuộc thôn Vĩnh Trường, phường Lộc Vượng thành phố Nam Định. Chùa này có 2 bia Vĩnh Tọ thứ 2 (1677) và thứ 4 (1679), bia Bảo Đại. Tất cả các bia này đều nói: “Vĩnh Bình cổ đế hương dã, Viên Thông cổ tự hiệu dã...” (Vĩnh Bình là nơi quê hương của vua khi xưa có ngôi chùa cổ Viên Thông...)
Qua các nguồn tư liệu đã tập hợp trên có thể giả định thời Lý khu Lộc Vượng, Lộc Hạ là khu trung tâm dân cư đông đúc, phía bắc có thành giáp sông gần đất Tảo Môn, đông nam có thành Ngô Xá, Nam Phong án ngữ làm thế ỷ dốc bảo vệ cho thành Dương Xá là thành phố Nam Định ngày nay. về cương vực cụ thể thì chưa có điều kiện nghiên cứu, vạch định rõ ràng, xong tạm xếp vùng Tảo Môn Hữu Bị nơi huyện lỵ Mỹ Lộc cũ là thành Vĩnh An, vùng Khang Kiện, Thiên Bồi, Vĩnh An là Lộc Vượng, Lộc Hạ và Lộc Hoà. Mỹ Tân, Dương Xá là vùng Vị Xuyên, Đông Mạc, Năng Tĩnh, Bình Giã là vùng Ngô Xá Vấn Khẩu, Nam Phong, Qua Châu là vùng Lộc An Mỹ Xá... Ngày 12 tháng Chạp Ấ Dậu (1226), Trần Cảnh lên ngôi vua vói vương hiệu là Trần Thái Tông. Ngay từ buổi đầu lên ngôi báu vua Trần đã nghĩ đến mảnh đất quý hương xưa là Dương Xá nay là vùng đất Tức Mặc phường Lộc Vượng thành phố Nam Định. Sách Đại Việt sử ký toàn thư - kỷ nhà Trần ghi: “Tân Mão năm thứ 7 (1231)... Mùa thu tháng 8 vua ngự đến hành cung Tức Mặc làm lễ hưởng ở tiên miếu, ban yến cho các bô lão trong hương và cho lụa theo thứ bậc khác nhau...” Đến năm Kỷ Họd (1239) vào mùa xuân tháng giêng, triều đình hạ lệnh cho Phùng Tá Chu^*^ giữ chức Nhập nội Thái phó, sai về cung Tức Mặc dựng cung điện, nhà cửa. Đến năm 1262, vào tháng hai (Nhâm Tuất), Thượng hoàng ngự đến hành cung Tức Mặc ban tiệc to... đổi hương Tức Mặc làm phủ Thiên Trường, cung (1) Phùng Tá Chu (?- 1240 là con Phùng Tá Thang làm quan dưối triều Lý. Khi Trần Cảnh lên ngôi, ban đầu để thưởng công cho các cựu thán nhà Lý đã phong cho Phùng Tá Chu làm Thái phó, tước Hưng nhân vương, sau lại gia phong thêm đại vương.
gọi là cung Trùng Quang. Lại làm cung riêng cho vua đương triều đến chầu ở, gọi là cung Trùng Hoa. Lại lập chùa thờ phật ở phía tây cung Trùng Quang gọi là chùa Phổ Minh. Từ đấy về sau các vua nhường ngôi đến ngự ở cung này. Vì thế đặt sắc dịch hai cung để hầu hạ, đặt quan lưu thủ để trông coi”. Như vậy cung điện Tức Mặc chính thức được xây dựng vào năm 1239 do Phùng Tá Chu đốc thúc việc xây dựng. Đến năm 1258 sau khi đánh bại quân Nguyên Mông lần thứ nhất, Trần Thái Tông quyết định trao lại quyền hành cho Thái tử Hoảng. Thái tử lên ngôi lấy vương hiệu là Trần Thánh Tông đóng đô ở Thăng Long. Sau một thèd gian lưu lại Thăng Long để dìu dắt vua con lo việc nước, chủ yếu là lo việc đối ngọai với quân Nguyên phía bắc, Chămpa phía nam, Thượng hoàng lui về Tức Mặc. Nói là nghỉ ngơi nhưng có thể đây là ý đồ chiến lược của vua quan nhà Trần. Như vậy năm 1262 nhà Trần đã thăng làng Tức Mặc lên thành phủ Thiên Trường. Đây là một vùng đất rộng lớn bao gồm thành phố Nam Định, các xã phía nam huyện Mỹ Lộc, huyện Nam Trực tỉnh Nam Định và phía nam huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình nay. Bao quanh hai cung điện Trùng Quang, Trùng Hoa còn có các cung Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đê Tam và Đệ Tứ dành cho cung tần mỹ nữ ờ để hầu cận Hoàng đế và hệ thống dinh thự của các quan lại cao cấp như; Bảo Lộc của An Sinh Vương Trần Liễu, Cao Đài của Thượng Tướng Thái sư Trần Quang Khải, Lựu Phố của Thống Quốc Thái sư Trần Thủ Độ. Với việc xây dựng hàng loạt các cung điện ở quê cũ, nhà Trần đã biến mảnh đất Tức Mặc Thiên Trường thành kinh đô thứ hai một trong những 10
cơ quan đầu não chính trị của Đại Việt, một trung tâm văn hoá của cả nước sau kinh đô Thăng Long. Lê Trắc một người sống vào thế kỷ XIII đã mô tả về kinh thành như sau: \" ở nơi ấy nước thưỷ triều quanh thành, hoa cỏ bên bờ mùi hương xông ngát, có những thuyền trang hoàng đẹp đ ẽ qua lại trên sông, y như cảnh tiên vậy. ” Hiạm Sư Mạnh một nhà thơ đương thời dưới triều Trần cũng phải thốt lên: Thành đô Tức Mặc như sông Giản sông Tiền xưa, Nhân dân vui vẻ phong tục chất phát Nước sông Vĩnh vây quanh toà điện chín tầng. (Ghi lại việc hầu vua về Thiên Trường) Trong ba cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông xâm lược, nơi đây đã trở thành căn cứ quan trọng đé triều đình rút lui về ẩn náu và bàn kế sách phản công chiến lược dẫn đến những thắng lợi oanh liệt của vua tôi nhà Trần và quân dân Đại Việt. Tức Mặc - Thiên Trường cũng chính là nơi ngự của các Thái thượng hoàng nhà Trần, bên ngoài thì sống cuộc đời tu hành nhàn hạ nhưng trong tâm trí vẫn lãnh đạo việc nước, hướng dẫn chỉ bảo vua nối nghiệp quản lý đất nước trên mọi phương diện. Sau năm 1413, quân Minh sang xâm lược Đại Việt ta. Chúng đã phá tan tất cả những cung vàng điện ngọc, những điền trang thái ấp của phủ Thiên Trường xưa. Những con rồng đá đặt ở trước cửa chùa Phổ Minh chúng cũng chặt mất đầu, bởi theo chúng thì Đại Việt không có “đế” mà chỉ được xưng vương thôi! Rồng là biểu thị của Hoàng Đế nên chúng chặt 11
đầu để triệt đường phát đế. Tại sân chùa Phổ Minh thuộc phủ Thiên Trường, thời Trần có một chiếc vạc chất liệu bằng đồng gọi “vạc Phổ Minh” đây là một trong An Nam tứ khí của nhà nước Đại Việt thời Lý - Trần vậy mà giặc Minh vẫn đập vụn đổ lấy đồng đúc thành vũ khí. Duy chỉ có tượng phật trong chùa và ngôi tháp Phổ Minh là chúng không dám phá. Những di tích thuộc phủ Thiên Trường hiện nay đều được phục dựng từ thời Hậu Lê và thời Nguyễn. Vùng đất Thiên Trường xưa hiện nay còn lại hai di tích đặc biệt quý được xây dựng từ thời Trần đó là ngôi tháp chùa Phổ Minh và sân cung điện Đệ Tứ. 2. Phủ Thiên Trường nay. Những cung vàng, điện ngọc, những lầu son gác tía của phủ Thiên Trường xưa chỉ còn trong ký ức của mỗi người. Trải qua cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông và đặc biệt là giặc Minh, cùng với thời gian... Chúng ta không còn thấy được diện mạo của phủ Thiên Trường xưa. Ngày nay trên mảnh đất thiêng - chốn tổ của các vua Trần còn sừng sững cây tháp Phổ Minh. Đây là một công trình kiến trúc thcd Trần còn lại đến nay tương đối nguyên vẹn nhất. Tháp Phổ Minh được xây dựng vào đầu thế kỷ XIV (1305). Tháp xây bằng đá xanh và gạch nung đỏ, cao 14 tầng (19m51) với trọng lượng khoảng trên 300 tấn. Đây là một công trình độc đáo tượng trưng cho hình tượng hoa sen mọc giữa hồ sen, vươn cao lan toả tâm linh của thiền phái Trúc lâm. Một thiền phái “Phật Việt Nam mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc”. Tháp Phổ Minh được xây dựng vào đời vua Trần Anh Tông. Vua cha Trần Nhân Tông những năm làm Thái thượng hoàng về ở phủ Thiên Trường và chùa Phổ Minh 12
là nơi Thượng hoàng thường nhật đến tu luyện, sau một số năm Thượng hoàng Trần Nhân Tông vào tu luyện ở am Thái Vi (thuộc Hoa Lư - Ninh Bình), sau người ra Yên Tử tu luyện và trở thành vị sư tổ số 1 của thiền phái Trúc Lâm. Trần Nhân Tông không chỉ đứng đầu một đạo phái phật Đại Việt mà còn là một vị vua anh minh. Trong chiến tranh chống quân Nguyên xâm lược, vua Nhân Tông là một nhà chiến lược và chỉ huy tài giỏi. Ông là một vị vua nổi tiếng khoan hoà nhân ái đã xây dựng được khối đại đoàn kết từ trong hoàng tộc đến ngoài muôn dân. Nên vua Anh Tông đã cho xây bảo tháp để xá lỵ của vua cha tại ngôi chùa làng - đất phật cũng là chốn quý hương của các vua Trần. Một di tích quý hiếm thứ hai thuộc phủ Thiên Trường là “sân phủ Đệ Tứ”. Sân lát gạch vuông, gạch có cạnh 30cm mặt gạch hình hoa cúc cách điệu, xung quanh có đường tròn viền hoa chanh. Theo luận thuyết “trời tròn - đất vuông” của người xưa: sân được xây dựng từ thời Trần, diện tích gạch ốp lát khá rộng. Rất tiếc cho đến nay địa phương vẫn chưa phục dựng được để đón khách tham quan. Trên nền cung điện Trùng Quang, Trùng Hoa xưa (nội cung) nay là khu di tích đền Trần gồm có ba đền: Chính giữa là đền Thiên Trường (còn gọi là đền Thượng) thờ 14 vị Hoàng đế cùng các vị thuỷ tổ nhà Trần, bên phải là đền Cố Trạch (còn gọi là đền Hạ) được xây dựng năm Thành Thái thứ 6 (1894) thờ Quốc Công tiết chế Hưng Đạo Đại vương cùng gia đình và các tướng lĩnh thân tín của ông. Bên trái là đền Trùng Hoa mới được phục dựng năm 2000 với phong cách kiến trúc truyền thống để thờ 14 Hoàng đế vói cách thể hiện chân dung, nhưng 13
căn cứ vào cuộc đời và sự nghiệp của các đức vua đều được thể hiện thần thái ở giai đoạn sung mãn nhất, đóng góp nhiều nhất cho non sông đất nước ở thời trùng hưng, đánh giặc, giữ nước, dựng nước và xây dựng Đại Việt thành quốc gia hùng mạnh ở thế kỷ XIII - ngăn chặn và đẩy lùi ý chí bành chướng của đế quốc Nguyên Mông xuống khu vực Đông Nam Á. Khu di tích đền Trần có một hệ thống chân tảng cánh sen chạm khắc từ thời Trần được xếp theo bình đồ kiến trúc nội công ngoại quốc và một khối lượng tư liệu Hán Nôm phong phú như: sắc phong, văn bia, ngọc phả, câu đối, đại tự... Đáng lưu ý là các bức đại tự với ý tưởng ngợi ca dòng tộc Đông A thủy chung gắn bó, trọng lễ nghĩa, như: “Thiên địa trường tồn**, *‘Thịnh công hậu đức**, “Thượng mục hạ hoà**, “N hân hậu tương truyền’'... Những bức đại tự tại đền Trùng Hoa nói trên đã khẳng định niềm tin vào sự trường tổn của quốc gia Đại Việt, đức tài công lao của các vua Trần, sự tiếp nối liên tục đồng thuận các thế hệ vua cha, vua con nhà Trần để đức sáng sự nghiệp tổ tiên mãi được phát huy toả sáng trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Lớp vua cha đã chăm lo giáo dục bồi dưỡng lớp vua con nhà Trần để kế tục sự nghiệp của hoàng tộc, của quốc gia, đặc biệt là các vua cha đã nêu gương đạo đức và giáo dục cho thế hệ trẻ đạo đức kế tục. Điều ấy đã làm cho nhiều đời vua Trần có sự kế thừa và phát triển, tránh được những xung đột trong nội bộ hoàng tộc tranh chấp chức quyền (ngai vàng). Tòa đệ nhất còn gọi là trung đường của đền Thiên Trường, nơi thờ hiệu 14 vị Hoàng đế nhà Trần treo cao ba bức đại tự: “Thiên địa trường tồn**, “H ành đô Tức Mặc**, “Dán vi bang bản **. 14
Tên phủ Thiên Trường bao hàm ý nghĩa đầy đủ là “Thiên đm trường tồ n ”. Đại tự “hành đô Tức M ặc” nói lên sự thật lịch sử địa lý hành chính thời Trần - Tức Mặc là thủ phủ, là trung tâm của phủ Thiên Trường, đồng thời cũng được coi như kinh đô thứ hai của quốc gia Đại Việt thời Trần. Tại toà đệ nhị đền Cố Trạch nơi đặt tượng Quốc Công tiết chế Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, treo cao ba bức đại tự; “H ưng Đạo Thân Vương C ố Trạch”, “C hí Trung Đại N g h ĩa ”, “V õ Tướng A n h H ù n g ”. Ba bức đại tự nói rõ nơi ở và làm việc của Trần Quốc Tuấn luôn bên cạnh Thượng hoàng và nhà vua, lẽ sống, sự nghiệp, công lao của người trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Người đã sống với lẽ sống “C hí Trung” (thờ bốn đời vua Trần), “Đại N ghĩa” (cứu nước, cứu dân), “A n h H ù n g ” (Chỉ đạo, chỉ huy lực lượng quân dân Đại Việt đánh thắng mọi kẻ thù ngoại xâm và nội phản). Chính tư tưởng, phương châm sống “C hí Trung Đại N ghĩa” đã toả sáng trong sự nghiệp của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Ngưòi đã được cả dân tộc suy tôn là anh hùng dân tộc không chỉ ở thời Trần mà qua mọi triều đại kế tiếp, không chỉ ở trong nước m à nhiều quốc gia trên thế giới. Ngày 15 tháng 10 năm 2007, Thủ tướng CMnh phủ đã quyết định phê chuẩn xây dựng dự án bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị khu di tích lịch sử văn hoá thòi Trần ở Nam Định. Có thể coi đây là văn bản pháp lý không chỉ có giá trị pháp luật mà còn có giá trị khoa học thực tiễn rất có ý nghĩa, đòi hỏi các nhà quản lý, các nhà khoa học phải đưa ra được giải pháp để dự án có tính khả thi cao. 15
Việc phục dựng nhà Thái miếu, cung điện Trùng Quang, Trùng Hoa, trường học Văn Hưng, Liễu Nha, Lựu Phố, làng Phưcfng Bông là nơi ở của các ca công phục vụ Hoàng tộc và khung cảnh thiên nhiên thế kỷ XIII để phát triển du lịch thể hiện sự kết nối không gian văn hoá Trần. Đây thực sự là một bài toán khó của các nhà khoa học có tính chất liên nghành như: sửhọc, khảo cổ học, mỹ thuật, kiến trúc, điêu khắc, quy hoạch qua các cuộc hội thảo. Qua kết quả nghiên cứu khảo cổ học từ những năm 1976 và đặc biệt trong hai năm 2006 - 2007. Hội thảo khoa học vê quy mô ìdến trúc của trục hành lễ quảng trường Đông A và Thái m iếu thuộc quần th ể di tích lịch sử ván hoá thời Trần tại Nam Định kết luận: khoảng đất giữa đền Trần - chùa Tháp đã xuất lộ dấu vết kiến trúc, vật liệu kiến trúc: gạch ngói, đáng lưu ý là những viên gạch có đóng dấu “Vĩnh Ninh Trường”, đây là một địa danh ở Thanh Đô, Thanh Hoá (nay thuộc Vũủi Lộc, Thanh hoá). Trong quá trình xây dựng cung Trùng Quang, Trùng Hoa có sự điều động đội quân lính, dân binh xây dựng từ Thanh Hoá ra và vật liệu xây dựng cũng được chuyển từ Vĩnh Lộc (Thanh Hoá) đến để xây dựng cung điện... Các ô vuông có khoảng cách đều nhau, được các nhà khoa học dự đoán đây là một khuôn viên “sinh vật cảnh”... Hiện nay việc khai quật khảo cổ học và việc tạo dựng cung điện Trùng Quang (nay) nhưng mang phong cách nghệ thuật thòd Trần đang được tiến hành. Bao quanh cung điện Trùng Quang, Trùng Hoa là hệ thống dinh thự của các quan lại cao cấp. Nay là di tích thờ các vị tướng lĩnh, cùng các vị cung phi hoàng hậu thời Trần thuộc các 16
xã Mỹ Trung, Mỹ Phúc, phường Lộc Hạ cũng được bảo tồn giá trị nguyên gốc. Xuân thu nhị kỳ hàng năm vào đêm 14 rạng ngày 15 tháng giêng du khách về dự lễ Khai ấn và ngày hội giỗ cha (20 tháng tám âm lịch) tại đền Trần trong tương lai sẽ .được ngắm nhìn toàn cảnh phủ Thiên Trường xưa. Hào khí Đông A và phong cảnh non xanh nước biếc thanh bình của Đại Việt được tái hiện. Ca ngợi cảnh đẹp của Phủ Thiên Trường, Thượng hoàng Trần Nhân Tông (1258 - 1308) có thơ đề về phủ Thiên Trường: “Xóm trước thôn sau tựa khói lồng Trời chiều dường có lại dường không Mục đồng sáo vẳng trâu về hết Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng” (Thiên Trường văn vọng) Bài Thiên Trường phủ: Lục rậm hồng thưa cảnh quanh hưu Mây quang mưa tạnh đất tan rêu Phòng trai giảng đoạn, sư về viện Cầu bến canh đầu, bóng nguyệt treo Ba chục cung tiên, giường ngủ đặt, Tám nghìn bóng tháp nước triều reo. Phổ Minh phong cảnh, chùa như cũ, Trong giấc mơ vàng Thuấn thấy Nghiêu! Ngô Tất Tố dịch 17
ĐỂN THIÊN TRƯỜNG Đền Thiên Trường (còn gọi là đền Thượng). Đây là khu Thái miếu của nhà Trần xưa. Tại đây còn chân tảng cánh sen thời Trần được xếp theo bình đồ kiến trúc nội công ngoại quốc. Nghiên cứu bình đồ kiến trúc cổ, đây là lối kiến trúc kiểu cung điện xưa. Tại toà tiền đường có bức đại tự bằng gỗ sơn son thiếp vàng ghi hai chữ lớn: Trần Miếu Hoàng triều Tự Đức vạn vạn niên chi lục, tu ế tại Quý Sửu lục Nguyệt thượng cán, phụng chỉ xuất kh ố tiền trùng tu. Dịch nghĩa: Miếu thờ của nhà Trần Thượng tuần tháng 6 năm Quý Sửu, triều vua Tự Đức muôn năm, năm thứ 6 (1853) vâng theo chiếu chỉ xuất tiền công tại kho sửa lại. Theo “Nam Mặc miếu trạch bi kí” dựng vào niên hiệu Duy Tân năm thứ 2 (1908) thì vào khoảng năm Thiên ứng Chính Bình (1232 - 1250) Phùng Tá Chu về đốc suất công việc xây dựng miếu nhà Trần trên nền cũ của nhà thờ họ Trần, văn bia ghi: “Tức Mặc đế hương dã, Trần Miếu tại yên, Thiên ứng niên gian Phùng Vương Đổng tạo nhân cựu dương chỉ dã...” Theo Phả hệ bảo tích nhà Trần thì các vị thuỷ tổ đến khu 18
đất Khang Kiện vùng Tức Mặc Thiên Trường việc đầu tiên là dựng gia từ tại khu Khang Kiện để thờ tổ tiên, nối đời tích góp âm công sinh ra người giỏi. Đến mùa thu tháng 8 Tân Mão năm thứ 7 (1231) vua ngự đến hành cung Tức Mặc, dâng lễ hưỏng ở tiên miếu, thết yến và ban lụa cho bô lão trong hưcfng theo thứ bậc khác nhau. Như vậy miếu thờ nhà Trần ở Tức mặc có từ rất sớm, vốn là mảnh đất dấy nghiệp, là quê hương của vương triều Trần. Vì vậy sau khi lên nắm chính quyền thay nhà Lý, vào năm 1239 Trần Thái Tông vị vua đầu tiên của nhà Trần đã phong cho Phùng Tá Chu - một trong rất ít khai quốc công thần ngoài dòng họ chức Nhập nội thái phó và sai về quê cũ xây dựng cung điện Tức Mặc để lấy chỗ đi lại hàng năm. Sau thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông xâm lược lần thứ nhất năm 1258, Trần Thái Tông đã nhường ngôi cho con để làm thái thượng hoàng và về ngự ở cung điện Tức Mặc. Cùng với việc đặc cách thăng hương Tức Mặc lên thành phủ Thiên Trường đứng đầu trong 12 lộ phủ của cả nước, vào năm 1262 nhà Trần còn cho đổi cung Tức Mặc thành cung Trùng Quang đồng thời cho xây dựng cung Trùng Hoa để cho các đấng tự quân về ngự mỗi khi có việc chầu yết kiến thượng hoàng. Bao quanh hai cung điện Trùng Quang, Trùng Hoa còn có các cung Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam và Đệ Tứ dành cho cung tần mỹ nữ ở để hầu cận hoàng đế và hệ thống quan lại cao cấp như Bảo Lộc của An Sinh Vương Trần Liễu, Cao đài của Thưcmg Tướng Thái sư Trần Quang Khải, Lựu Phố của Thống Quốc Thái sư Trần Thủ Độ,...Với việc xây dựng hàng loạt các cung điện ở quê cũ, nhà Trần biến mảnh đất Tức Mặc - Thiên Trường thành kinh đô thứ hai, một trong 19
những đầu não chính trị quan trọng của Đại Việt, một trung tâm văn hoá của cả nước sau kinh đô Thăng Long. Trong ba cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông xâm lược, nori đây đã trở thành căn cứ quan trọng để triều đình lui về ẩn náu và bàn kế phản công chiến lược dẫn đến những thắng lợi oanh liệt của vua tôi nhà Trần và nhân dân Đại Việt đánh bại mưu đồ xâm lược của một đế quốc hùng mạnh bậc nhất lúc bấy giờ. Tức Mặc - Thiên Trưcíng cũng chính là nơi các vua Trần sau khi nhường ngôi làm thái thượng hoàng về ở ẩn, bên ngoài thì sống cuộc đời tu hành nhàn hạ nhưng bên trong thì vẫn lãnh đạo việc nước, hướng dẫn chỉ bảo vua nối nghiệp quản lý đất nước trên mọi phương diện. Nhưng rất tiếc do thời gian, chiến tranh, thiên tai giặc công trình thờ tự của dòng họ Đông A dù được xây dựng theo kiểu cung điện, nhà thờ dòng họ hay kiểu thái miếu cũng không còn. Sau khi nhà Trần hết vai trò lãnh đạo, quản lý đất nước, và cung điện Trùng Quang, Trùng Hoa không còn, đền Thiên Trường đã được dân làng dựng lên để thờ phụng vua cha, lúc đó gọi là nhà thờ đại tôn. Đến năm Chính Hoà thứ 15 (1695) nhà thờ mói được dựng bằng gỗ lim. Năm 1705 thì nơi đây chính thức gọi là Trần Miếu và hàng năm lệ có ban quốc tế. Câu đối ở hiên bái đường ghi: \"Chính Hoà miếu ch ế hương sùng tạo Minh Mệnh tuần hành quốc tế hưng” Tạm dịch: Niên hiệu Chính Hoà quê hương lập miếu thờ Dưới thời Minh Mệnh việc quốc tế được phục hồi như xưa. 20
Đến năm Long Đức (1733) làm thêm 5 gian tiền tế bằng gỗ lim, mái lợp tranh. Năm Tự Đức thứ 6 (1854) các quan chức hàng tỉnh hàng huyện đã chỉ đạo tu sửa lớn thay tranh bằng ngói mất hơn một năm mới xong. Lần sửa chữa này, nhà đại bái (nay là cung đệ nhị) chỉ giữ lại bộ cánh cửa rộng 2m X l,5m chạm khắc từ thế kỷ 17 còn tất cả đều được mở rộng nâng cao lên. Năm Á Mùi niên hiệu Thành Thái thứ 7 (1895) hội từ thiện tu sửa lại chính tẩm đền Thiên Trường. Đến năm Thành Thái thứ 15 (1903) đắp hai voi chầu trước cửa đền. Hai năm 1907 - 1908 thuộc triều vua Duy Tân thứ 2 và thứ 3 đền thờ các vua Trần lại được tu sửa, đồng thời sửa sang hồ nước trước cửa đền và hệ thống ngũ môn. Trước khi vào đền trước phải qua hệ thông ngũ môn. cổng chính giữa phía trên có bức đại tự bằng đá khắc 3 chữ lớn ‘‘Chính nam môn*’ (cửa chính nam). Trên bức đại tự bằng đá có 2 chữ “Trần Miếu”(miếu nhà Trần). Xuất phát từ tư tưởng nho gia: Là vua của một nước thì quay về hướng nam để nghe thần dân trăm họ tâu bày. Hay nói cách khác là lắng nghe ý kiến của trăm họ. Qua cổng men theo hồ nước hình chữ nhật đã được kè đá xung quanh, phần đưcíng đi được lát gạch, sát mép hồ trồng nhiều cây xanh như liễu, lựu, ngâu... tạo không gian cho mặt nước và cảnh quan môi trường. Trước cửa đền Thiên Trường có bốn đồng trụ uy nghi so;, bóng trên mặt hồ rồi đến một sân lát gạch rộng, hai bên có hai voi nằm phủ phục chầu ngay lối vào và 14 đỉnh hương chất liệu bằng đồng. Giữa sân rồng có đường chính đạo được lai bằng gạch hoa thời Trần (gạch phục chế). 21
Hệ thống bậc lên xuống của toà tiền đường xây đá phiến. Phía trước bậc thềm có hai cặp rồng chầu trước cửa với đường nét chạm khắc rồng mây mềm mại mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Kiến trúc đền Thiên Trường hiện nay gồm các hạng mục chính như sau: Chính tẩm, siêu hương, tiền đường và các công trình phối hợp tạo sự hoàn chỉnh như hai dãy tả hữu vu, hai dãy tả hữu ống muống cùng hai dãy giải vũ đông tây khiến công trình có tới 9 toà, 31 gian lớn nhỏ khác nhau được làm theo phong cách cổ truyền. Bộ khung bằng gỗ lim, mái lọp ngói nam, phần nền lát gạch đáy giếng. Toà tiền đường gồm 5 gian, dài 13m, rộng 6m. Trên biểu hoành phi có khắc dòng chữ Hán: “Hoàng triều Tự Đức vạn vạn niên chỉ lục, tu ế tại Quý Sửu lục nguyệt thượng cán, phụng chỉ xuất kh ố trùng tu ” (Thượng tuần tháng 6 năm Quý Sửu triều vua Tự Đức vạn vạn năm, năm thứ 6 (1854) vâng theo chiếu chỉ xuất tiền công tại kho sửa lại). Tại câu đầu toà tiền đường có dòng chữ Hán ghi: “Tự Đức Canh Ngọ hạ” (mùa hè năm Canh Ngọ (1868) niên hiệu Tự Đức). Như vậy dưới triều vua Tự Đức đền Thiên Trường được triều đình quan tâm tu sửa 2 đợt. Toà tiền đường làm theo kiểu tứ trụ, bốn vì giữa làm lối câu đầu, bẩy kẻ, hai vì bên giáp hồi làm theo lối chồng rường có trụ, có đấu kết cấu chặt chẽ. Hệ thống cột cái gồm 12 chiếc, đường kính 0.4m. Hệ thống cột quân thấp và nhỏ hơn cột cái. Toàn bộ hệ thống cột cái và cột quân được đặt trên chân tảng 22
cánh sen là những di vật tiêu biểu của thời Trần được đục chạm công phu chau chuốt khiến bộ khung toà tiền đường với 24 cột gỗ lim lớn nhỏ liên kết với bộ hoành vuông mà không gây ấn tượng nặng nề. Hệ thống bẩy, kẻ ở đây được tạo dáng uốn lượn như khúc thân rồng và được chạm khắc hoa lá cách điệu chữ tho. Ngoài bộ khung tạo dựng theo phong cách dân tộc, hệ thống cửa, ngạch, ngưỡng cũng được làm theo kiểu dáng cổ truyền. Đặc biệt bộ cửa tại gian giữa toà tiền đường là sản phẩm của công trình thế kỉ XVII còn bảo lưu được khung cửa, bạo cửa tạo thế uốn vành mai, soi chạm lớp lớp cánh lá sinh động. Phần trên khung cửa chạm lưỡng long chầu mặt nguyệt. Mặt nguyệt được chạm như một bông hoa mai, xung quanh cài mây tản lá hoả, ở giữa bông hoa chạm nổi chữ phúc vói đường nét độc đáo. Bên trong bộ khung, bạo cửa là 2 cánh cửa chạm rồng thòd Lê. Cánh cửa 1.5m X 2m chạm kênh bong đôi rồng đang chầu vào mồm ngọc. Rồng có râu tóc uy nghi, lớp vẩy, hàng vây hài hoà lại có thêm vân ám lá hoả tua tủa ^otơn lên làm cho đôi rồng oai phong đường bệ. Ngoài cặp rồng lớn, bộ cửa còn chạm đan xen những rồng con uốn lượn, những chú li ngoái cổ tự nhiên nhìn về phía sau và chú li đang nhẫn nại phủ phục nâng ngạch cửa lên một cách nghệ thuật. Trước cửa toà đệ nhị (còn gọi là trung đưòng) treo cao 3 bức đại tự: “Thiên Trường cung”, ‘Trùng Quang”, ‘Trùng Hoa ”, khẳng định địa danh hành chính thời Trần nơi đây là hành cung Thiên Trường có cung Trùng Quang là nơi dành cho các 23
Thái thượng hoàng sau khi nhường ngôi cho con về ngự ở đây. Cung Trùng Hoa là noi dừng chân của các tự quân (vua con)... Nơi đây đã từng là kinh đô thứ 2 chỉ đứng sau kinh thành Thăng Lx)ng. Tại đây còn lưu giữ được một số câu đối của Tiến sĩ Ngô Thế Vinh khi viếng thăm đền đề tặng: Nam diện y nhiên thiên tử cựu Bắc triều nghiễm nhược bách quan sơ (Quay mặt hướng Nam như thiên tử trước Chầu về phương Bắc, tựa bách quan xưa) C ổ vị hành cung kim thị miếu Tiền suy công nghiệp hậu tri ân (Trước gọi hành cung sau này gọi miếu Xưa tôn sự nghiệp nay nhớ công ơn) Trong toà đệ nhị nơi thờ mười bốn vị Hoàng đế nhà Trần treo cao 3 bức đại tự: “Thiên địa trường tồn”, “Hành đô Tức Mặc”, “Dân vi bang bản”. “Thiên địa trường tồn” đại tự khẳng định sự bất tử của nhà Trần trường tồn như trời đất. Đại tự “Dân vi bang bản” với cách hiểu dân là gốc nước đã toả sáng một tư tưởng chính trị quan trọng trong việc dựng nước và giữ nước của các vua Trần. 24
sơ Đ ồ BÀI TRÍ THỜ T ự T Ạ I ĐỀN t h iê n t r ư ờ n g TOÀ CHÍNH TẨM Tại chính tẩm có 3 gian; Gian chính giữa có bức đại tự khắc bốn chữ “Triệu vương cơ tích” (dấu vết ban đầu lập nghiệp đế). Phía dưới có đặt một khám long đình sơn son thếp vàng trong khám có bày hai hàng bài vị. Hàng phía trong 1.2.3 nội dung bài vị ghi: Trần triều truy tôn hoàng đế thần vị (Ngôi thần các vị Hoàng đế truy tôn tại triều Trần)^*^ Hàng bài vị phía ngoài: 4.5.6. Bài vị số 4 có nội dung: Trần triều truy tôn Mục tổ hoàng đế, Ninh tổ hoàng đế, Nguyên tổ Hoàng đế và Thái tổ hoàng đế. (Ngôi thần các vị hoàng đế tmy tôn: Mục tổ, Ninh tổ, Nguyên tổ và Thái tổ) Bài vị số 5 ghi: Trần triều truy tôn Mục từ hoàng thái hậu, Ninh từ hoàng thái hậu, Nguyên từ hoàng thái hậu, Quốc thánh hoàng thái hậu. ( 1) Các vị này trước Trần Tự Kinh. 25
(Thần vị truy tôn các vị hoàng thái hậu triều Trần: Mục từ, Nguyên từ và Quốc Thánh). Bài vị số 6 ghi: Trần triều hiển tổ truy tôn Thái thượng hoàng hiệu, thuỵ khai vận lập cực thuỳ dụ chí hiếu hoàng đế thần vị. (Ngôi thần truy tôn vị hiển tổ triều Trần hiệu Thái thượng hoàng, tên thuỵ là khai vận lập cực thuỳ dụ chí hiếu hoàng đế). Hai gian bên tả hữu có khắc hai chữ lớn “Khôn Thừa” (Quẻ khôn ví với đất nói về đức hạnh ngưòi phụ nữ) tại ban thờ này có bài vị số 8 đặt trên long ngai. Nội dung bài vị ghi: “Trần triều hiển tổ truy tôn thái thượng hoàng hiệu thuỵ khai vận lập cực thuỳ dụ chí hiếu thần vị”. (Ngôi thần truy tôn vị hiển tổ triều Trần hiệu Thái thượng hoàng, tên thuỵ là khai vận lập thuỳ dụ chí hiếu hoàng đế). Hai gian bên tả hữu có khắc chữ “Khôn Thừa” và “Tốn Thuận”. Gian bên có hai chữ “Khôn Thừa” (Quẻ khôn ví với đất, nói về đức hạnh của người phụ nữ) dưới bức đại tự có bài vị đặt trong khám, nội dung bài vị ghi: ‘Trần triều đ ế hậu liệt v ị” (Ngôi thần các vị hậu của hoàng đế nhà Trần) Đây là bài vị đổng thờ các vị được tôn là hoàng hậu, người đứng đầu cai quản trong nội cung chiếm một vị trí rất quan trọng trong việc trị quốc an dân, góp một phần không nhỏ vào công cuộc tổ chức 3 lần đánh thắng quân Nguyên Mông đưa 26
đất nước Đại Việt lên một đỉnh cao của thời đại phong kiến Việt Nam. Gian bên có bức đại tự “Tốn Thuận” (Tốn, thuận làm theo) Tại đây có bài vị đặt trên ngai, nội dung bài vị ghi: “Trần triều đế phi liệt vị” (Ngôi thần các vị hoàng phi của các hoàng đế). Các hoàng phi của vương triều Trần là những ngưòi có tài, có sắc tỏ rõ đức độ và tài năng như Lệ Trinh Nguyên Phi^*^ vị phi đầu của đức vua Trần Thái Tông là một ngucd phụ nữ biết thương dân, giúp nhân dân vùng đất Thiên Trường phát triển nông tang. Bà còn lập chùa mở chợ tạo điều kiện cho nhân dân quanh vùng giao lưu buôn bán. Sơ ĐỒ BÀI TRÍ THỜ TỰTẠI CUNG ĐỆ NHỊ (văn bia gọi là trung đường) gồm 14 bài vị để trong 14 cỗ ngai thờ 14 vị Hoàng đế triều Trần. 56 7 8 9 12 34 10 11 12 13 14 Nội dung bài vị ghi: 1. T rầ n T hái T ông Hoàng đế th ần vỊ. (Ngôi thần Trần Thái Tông Hoàng đế) 2. T rần T h án h Tông Hoàng đê th ần vị (Ngôi thần Trần Thánh Tông Hoàng đế) (1) Bà có tên là Lê Thị Tuyết. 27
3. T rần N hân Tông Hoàng đế thần vị Ngồi thần Trần Nhân Tông Hoàng đế) 4. T rần Anh Tông hoàng đế thần vị (Ngôi thần Trần Anh Tông Hoàng đế) 5. T rần M inh Tông Hoàng đ ế thần vị (Ngôi thần Trần Minh Tông Hoàng đế) 6. T rần Hiến Tông Hoàng đ ế thần vị (Ngôi thần Trần Hiến Tông Hoàng đế thần vị) 7. T rần Dụ Tông Hoàng đế thần vị (Ngôi thần Trần Dụ Tông Hoàng đế) 8. T rần Nghệ Tông Hoàng đ ế thần vị (Ngôi thần Trần Nghệ Tông Hoàng đế) 9. T rần Duệ Tông Hoàng đế thần vị (Ngôi thần Trần Duệ Tông Hoàng đế) 10. T rần Xương Phù Hoàng đế thần vị (Ngôi thần Trần Xương Phù Hoàng đế) 11. T rần T huận Tông Hoàng Đế thần vị (Ngôi thần Trần Thuận Tông Hoàng đế) 12. T rần Kiến Tân Hoàng đế thần vị (Ngôi thần Trần Kiến Tân Hoàng đế) 13. T rần Hưng K hánh Hoàng đ ế thần vị 14 T rần T rùng Q uang Hoàng đế thần vị (Ngôi thần Trần Trùng Quang Hoàng đế) 28
BAN THỜ TRƯỚC CỬA CUNG ĐỆ NHỊ. 1, 2, 3: Đây là ba cỗ ngai thờ bái vọng các vị Hoàng đ triều Trần. S ơ ĐỒ BÀI TRÍ THỜ T ự TẠI THIÊU HƯƠNG (văn bia gọi là kinh đàn) 1. Thần vị đặt trên khám long đình chạm khắc công phu T hần vị ghi T rầ n triều liệt miếu tiên Hoàng đế thần vỊ 2. Ban thờ Trần triều văn quan thân thần liệt vị. 3. Ban thcd Trần triều võ quan thân thần liệt vị - Bài trí thờ tự tại toà tiền đường. Tại đây có ngai và bài vị thờ hội đồng các quan. Bài vị ghi: Trần miếu thượng triều quân hạ thượng đẳng vương thần vị. 29
Đền Thiên Trường thờ bài vị không có tượng. Mười bốn đời vua Trần qua 182 năm trị vì đất nước với ba lần chiến thắng đế quốc Nguyên Mông - một đế chế mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ đã đưa vương triều Trần lên đỉnh cao vinh quang. Mười bốn đời vua đều được nhân dân trân trọng thờ phụng, điều đó đã thể hiện được đạo lý truyền thống “uống nước nhớ nguồn” và việc bài trí tất cả các vua ở toà đệ nhị còn mang ý nghĩa liệt miếu. Cùng với chính tẩm thờ tứ vị thuỷ tổ cùng các cung phi, hoàng hậu của nhà Trần. Kính chép ngày kỵ của mười bốn vỊ Hoàng đế: 1. Hoàng đế Trần Thái Tông ngày 1- 4 âm lịch. 2. Hoàng đế Trần Thánh Tông ngày 25 - 5 âm lịch. 3. Hoàng đế Trần Nhân Tông ngày 3 tháng 11 âm lịch 4. Hoàng đế Trần Anh Tông ngày 16 tháng 3 âm lịch 5. Hoàng đế Trần Minh Tông ngày 19 tháng 2 âm lịch 6. Hoàng đế Trần Hiến Tông ngày 11 tháng 6 âm lịch 7. Hoàng đế Trần Dụ Tông ngày 25 tháng 4 âm lịch 8. Hoàng đế Trần Nghệ Tông ngày 15 tháng chạp. 9. Hoàng đế Trần Duệ Tông ngày 24 tháng giêng. 10. Hoàng đế Trần Phế Đế ngày 22 tháng chạp. 11. Hoàng đế Trần Thuận Tông ngày 1 tháng 4 âm lịch. 12. Hoàng đế Trần Thiếu Đế ngày 22 tháng chạp. 13. Hoàng đếTrần Giản Định ngày 22 tháng chạp. 14. Hoàng đế Trần Quý Khoáng ngày 14 tháng 4 âm lịch. 30
ĐỂN CỐ TRẠCH Đền CỐ Trạch thờ Quốc Công tiết chế Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn cùng gia đình và các tướng sĩ thân tín của ông. Song song với dòng chính sử chép về Trần Quốc Tuấn là một dòng dã sử, truyền miệng đầy chất huyền thoại kể về Đức Thánh Trần do Thanh Tiên đồng tử hoá thân như sau. Đông A xưa nằm ở phía Đông Nam có một luồng khí trắng che phủ toàn không, Thần núi Tản Viên coi thấy đã biết rằng sau đây có nạn ngoại xâm do đó ngài làm sớ tâu với thiên đình. Thượng đế phải ngẫm nghĩ rất lâu rồi truyền ngọc dụ rằng: “tả hữu ai vì trẫm để quét luồng khí trắng ấy thì nhận lấy kiếm phi thiên thần và tam bảo của lão Tử, ngũ tài của Thái công để giáng sinh vào nhà Thân vương. Sau làm một vị tướng đệ nhất Trung Hưng, đến khi tuổi già được hoá làm danh thần để cai trị việc nhân gian con cháu đời đời được ghi vào sổ phúc đức” . Lúc đó vị Thanh tiên đồng tử xin vâng mệnh ra đi, Thượng đế ban cho kiếm thần, ngay sau đó Thân Vương phu nhân sinh ra Vương. Trong lúc sinh Vương gió thoảng hương đưa sinh hào quang khắp nhà, rạng sáng hôm sau có một vị đạo sĩ đến cửa xin yết kiến, An Sinh Vương nói; “Tiên sinh từ xa tới đây chẳng hay có việc gì quý báu chăng? Người đạo sĩ trả lời: “Đêm qua tôi thấy một ngôi sao sa tới đây, cho nên hôm nay đến xin yết kiến và báo cho Thân Vương biết”. An Sinh Vương liền truyền 31
cho người nhà đem công tử ra để đạo sĩ coi. Coi xong đạo sĩ quỳ xuống chắp tay vái mừng Thân Vưorng mà nói “Tốt thay công tử quý hoá này mai đây ắt có những tài kinh bang tế thế, giúp rập quốc gia”. Nói xong người đó biến mất, cả nhà đều lấy làm lạ. Vưoíng mới đầy tuổi đã biết nói, sáu tuổi đã bày trận đồ bát quái, biết đọc thơ ngũ ngôn. Lớn lên càng thông minh đĩnh ngộ, tư bẩm sáng suốt lại được An Sinh Vương Trần Liễu cho mời các danh sư trong nước về dạy văn võ. Vì thế Quốc Tuấn nổi tiếng học rộng hiểu nhiều đặc biệt là binh thư binh pháp, cưỡi ngựa bắn cung. Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mông Cổ lần thứ nhất (1258) Trần Quốc Tuấn là một vị tướng trẻ được vua Trần cử lên trấn giữ vùng biên giới phía Bắc. Tháng 11 Năm 1282 vua Trần mở hội nghị Vương hầu tướng lĩnh ở bến Bình Than (Trần Xá - Hải Dương), tháng 11 năm 1283 Trần Quốc Tuấn được giao trọng trách Tiết Chế tổng chỉ huy toàn bộ quân đội nhà Trần. Đến tháng 8 năm 1284 ông mở cuộc duyệt binh lớn tại Đông Bộ Đầu rồi chia các cánh quân đi trấn giữ những nơi hiểm yếu. Tháng 1 năm 1285 thượng hoàng Trần Thánh Tông triệu tập hội nghị Bô lão tại thềm điện Diên Hồng lịch sử cùng hô đồng tâm đánh giặc cứu nước. Quân Nguyên Mông là một đế quốc mạnh nhất thế giới thế kỉ XIII, chúng chưa từ bỏ dã tâm xâm lược Đại Việt. Ngày 1/5/1285 chúng lại đem 50 vạn quân tiến đánh nước ta. Cuộc kháng chiến này Tiết chế Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn đã trở thành một thiên tài quân sự. Với những mưu lược tài giỏi ông đã lãnh đạo quân đội nhà Trần tiêu diệt 50 vạn 32
Đền Cô Trạch, phường Lộc Vượng thành phô Nam Định thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (Ảnh; Vũ Công Hội)
Lễ khởi công xây dựng đền Trùng Hoa vpkứỜỊÌgsỊỷậái^iìt^Ịn^ứhành ỵkối'Ểíừtựị^HỊìiH Ô3 m Q uáuT '>ô»^ % ỉ^rili\\vỊÌVỊttiSVH^^ (iộH gnór) ŨV :rinẢ)
tài giỏi ông đã lãnh đạo quân đội nhà Trần tiêu diệt 50 vạn quân Mông cổ, thu phục kinh thành thăng Long, giải phóng hoàn toàn đất nước. Cuộc đời và binh nghiệp của Trần Hưng Đạo được viết lên như một bản anh hùng ca ở cuộc kháng chiến lần thứ 3 (1288) của nhà Trần, toàn bộ quân Nguyên Mông đã bị tiêu diệt trên chiến trường Thăng Long - Vạn Kiếp và kết thúc mộng xâm lăng của chúng tại trận Bạch Đằng giang vào ngày 9/4/1288, Bạch Đằng giang (1288) được lịch sử ghi nhận là một trong những trận chiến lừng danh trong lịch sử nhân loại. Đất nước trở lại thái bình, Trần Quốc Tuâái trở về phủ đệ Vạn Kiếp an dưỡng tuổi già, viết sách tổng kết khoa học quân sự và kinh nghiệm dựng nước, giữ nước của dân tộc ta. Đón vua Trần Anh Tông về thăm, ông đã viết “Lâm chung di chúc” hiến kế dựng nước và giữ nước. Những chân lí bất hủ được ghi trong bản di chúc này: “Vua tôi đồng tâm, anh em hoà mục, cả nước góp sức giặc phải bó tay” “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước” Ngày 20 tháng 8 nằm Canh Tý (tức ngày 5-9-1300) ông mất tại phủ đệ Vạn Kiếp, được triều đình phong tặng danh hiệu: THÁI S ư THƯỢNG PHỤ THƯỢNG QUỐC CÔNG NHÂN VŨ HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG Lịch sử Việt Nam 700 năm qua luôn tôn vinh ông là bậc thánh; “Sinh vi tướng, tử vi thần” 33
“Đức Thánh Trần” “Đức Thánh Cha” “Tháng tám giỗ Cha - Tháng ba giỗ Mẹ” Trong tâm thức của nhân dân ông là “Đức Thánh Cha” của muôn dân trăm họ. Thuở sinh thời Người đã vì dân vì nước, khi mất đi Người hiển thánh cứu dân độ thế. Cho nên đối với nhân dân Người cao xa nhưng lại gần gũi, vĩ đại mà cũng rất đỗi giản dị. Chính vì vậy những lúc vui nhân dân đến với Người, những lúc ốm đau hoạn nạn nhân dân cũng đến vói Người, cầu mong Ngưòd ra tay cứu giúp. Đền thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo được lập nên ở khắp nod. Đền Vạn Kiếp là do vua Trần thấy Vương có công lớn nên cho lập sinh từ. Câu đối sơn son thếp vàng treo trước cửa cung đệ nhị: Cửu miếu trưng thường ỵ hưởng tự Nhị lâng phong vũ trắc huân cao Long phi Thành Thái giáp Thìn thu Ặ tử Nguyên Văn Trang cung tiến (Chín miếu phụng thờ, cầu mong tốt đẹp Hai lăng mưa gió, nhang khói thiêng liêng Rồng bay mùa thu năm Giáp Thìn (1904) niên hiệu Thành Thái. Ngưòd làng Nguyễn Văn Trang kính dâng.) Đền Bảo Lộc là nơi thuỏ thiếu thời Người tu luyện binh pháp, lại được ban phong thái ấp ở đây. Theo “Ngọc phả hệ bảo tích” cho biết đền Tức Mặc là nhà cũ lúc sinh thời của Vương. Nhà cũ này thay đổi nhiều, trong nhà vẫn còn dấu vết: 34
“Hưng Đạo thân vương cố trạch” (Nền nhà cũ của Hưng Đạo, vị thân thích của vua). Đền Cố Trạch (còn gọi là đền Hạ) tại gian giữa hiên toà tiền đường có bức đại tự “Nam mặc miếu trạch” (miếu nhà ở đất Nam Mặc). Ngôi đền được xây dựng lên ngay cạnh đền thờ 14 vị Hoàng đế nhà Trần. Xưa kia là cung Trùng Quang - nơi ỏ của các Thái thượng hoàng nay là đền Thiên Trường thuộc phường Lộc Vượng thành phố Nam Định - một trong những câu đối tại đền Cố Trạch: “Vi danh tướng, vi danh thần, thạch m ã sơn hà câu đối lệ Thị c ố hương, thị c ố trạch Thiên Trường cung khuyết nhạ huân cao ” D ịch: “Gọi danh tướng, gọi danh thần thạch mã sơn hà, như đá mài, như dải lụa Là cố hương, là cố trạch Thiên Trường cung khuyết vẫn nhang khói vẫn trang nghiêm. * Một số văn bia ghi việc xây dựng đền Cố Trạch: Theo văn bia “Trùng Kiến Hưng Đạo thân vương cố trạch bi k f ’ (văn bia ghi việc dựng nhà cũ của Hưng Đạo thân vương) dựng năm Thành Thái thứ 9 (1897) có nội dung như sau: “Lần sửa lại miếu nhà Trần vào năm Tự Đức thứ 21 (1868) đã đào thấy ở bên đông miếu một mảnh bia vỡ trên trán có ghi “Hưng Đạo thân vương cố trạch” (nhà cũ của Hưng Đạo Vương). Năm Thành Thái thứ 6 (1894) lại tiến hành tu sửa Trần miếu, khi làm xong ngày 13 tháng 10 năm ấy tiếp tục khcã công làm đền thờ Trần Hưng Đạo... 35
Tấm bia “Nam Mặc miếu trạch bi k f’ khắc năm Duy Tân thứ 2 (1908) do Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm giáng bút có nội dung như sau: Vào năm Thành Thái thứ 6 (1894) sau khi sửa xong toà miếu thờ 14 vị vua Trần thì làm đền thờ, bắt đầu khởi công vào ngày 13 tháng 10 đến ngày 21 tháng chạp năm sau công trình mới hoàn thành. Như vậy đền Cố Trạch (còn gọi là đền Hạ) được khánh thành và lập bài vị thờ Trần Hưng Đạo cùng gia đình và các vị gia tướng vào năm Thành Thái thứ 7 (1895). Quy mô kiến trúc ngôi đền Cố Trạch hiện nay hoàn toàn mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn, bộ khung bằng gỗ lim, mái lợp ngói nam. Công trình chính của đền gồm toà tiền đường 5 gian, toà thiêu hương (siêu hương) bốn mái cong. Toàn bộ xà, bẩy, kẻ cũng như dàn mái đều dồn lực và tứ trụ (bốn cột) xung quanh có hộ thống thoát nước, tách nền và mái vói hai bên giải vũ. Tiếp đến nội cung có 2 toà: Đệ nhị 5 gian, đệ nhất 3 gian được làm theo kiểu chữ nhị. BÀI TRÍ THỜ TỰTẠI ĐỀN cố TRẠCH - Ban thờ giữa toà tiền đường: 36
1. Trần triều nhập nội Thái uý phò mã Đô uý Nguyễn An Nghĩa vương tôn thần (Vị tôn thần Nguyễn An Nghĩa vương, phò mã Đô uý nhập nội thị triều nhà Trần) 2. Trần triều Phạm Điện Suý thượng tướng quân, Quan nội hầu tôn thần. (Vị tôn thần Phạm Điện Suý thượng tướng quân tứơc quan nội hầu triều nhà Trần) 3. Trần triều tham tán quân vụ Phạm tôn thần. (Vị tôn thần họ Phạm tước tham tán quân vụ triều nhà Trần) 4. Ban thờ hổ thần năm phương (quan ngũ hổ) gồm: + Đông phương thanh hổ + Tây phương bạch hổ + Nam phương xích hổ + Bắc phương hắc hổ + Trung phương hoàng hổ Tại Kinh đàn (còn gọi là thiêu hương) và tả hữu vu: (1) Tôn thần họ Phạm: tức Phạm Ngộ - danh tướng nhà Trần. Tại toà tiền đường thờ 3 vị danh tướng đó là: Phạm Ngộ, Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Chế Nghĩa là những người có công trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. 37
Tại thiêu hương có một long đình và 2 cỗ ngai (số 1, 2, 3) 1. Khám long đình: trong có tượng thờ Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại vương. Vách sau long đình có mảng chạm gỗ nhỏ loại phù điêu sơn son thiếp vàng. Có 3 hàng tượng phật: Tượng Tam Thế, Trúc Lâm tam tổ, tượng sư. Mỗi hàng đều có 3 pho cả. 2. Văn ban huân thần liệt vị (Văn thần có công lao) 3. Võ ban huân thần liệt^vị (Võ tướng có công lao) 4. Hiệp biện đại học sĩ Nhập nội hành khiển Trương tôn thần (Vị tôn thần họ Trương^*^ chức hiệp biện Đại học sĩ Nhập nội hành khiển) 5. Trần triều văn ban thân thần liột vị (Các vị thần thuộc hàng văn ban triều nhà Trần) 6. Hiộp biện đại học sĩ lĩnh Định Yên Tổng đốc Phạm Thiện Nhân. (Chức Hiệp biện đại học sĩ, tổng đốc tỉnh ghép Định Yên là Phạm Thiện Nhân^^^ 7. Trần triều võ ban thân thần liệt vị. (Các vị võ ban thân thần ở triều Trần). 8. Phả hệ Trần Công tự Phạm Cự (người trong họ là Trần Công, tự Phạm Cự). 9. Trần gia chính phái liệt vị. (Các vị phẩi hệ chính tông của họ Trần) (1) Họ Trương; Tức Trương Hán Siêu vị văn thần có đạo cao đức ttọng với ưiều Trần (2) Phạm Thiện Nhân (Phạm Văn Toán) là Tổng đốc Nam Định, người có công lớn ữong việc xây dựng đền Thượng và đền Hạ 38
- VỊ TRÍ THỜ T ự TẠI TOÀ ĐỆ NHỊ 1. Trần triều Thái sư Thượng phụ Thượng quốc công, Nhân vũ Hưng Đạo đại vương Thượng Đẳng thần. (Vị thần thuợng đẳng Thái sư thượng phụ thượng quốc công nhân vũ Hưng Đạo Đại vương). 2. Trần triều thánh tử tứ vị Đại vương tôn thần chi vị. (Bài vị bốn vị Đại Vương tôn thần con của đức thánh triều Trần). 3. Trần triều Điện suý thượng tướng quân Quan nội hầu Phạm Ngũ Lão đại vương tôn thần. (Vị tôn thần Điện suý thượng tướng quân tước Quan nội hầu Phạm Ngũ Lão đại vương). 4. Trần triều hữu bộ tướng tòng tự liệt vị. (Các vị thờ phụ: hữu bộ tướng triều Trần). 5. Trần triều tả bộ tướng tòng tự liệt vị. (Các vị thờ phụ: Tả bộ tướng triều Trần). 6. Thần tượng Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn (Tượng chất liệu bằng gỗ ngồi trong ngai sơn son thếp vàng) 39
VỊ TRÍ THỜ T ự TRONG TOÀ ĐỆ NHẤT (văn bia gọi là chính tẩm): 1. Hiển thánh khảo An Sinh Vương, truy phong Khâm Minh đại vương thần vị. (Thân phụ của ngài hiển thánh là An Sinh Vương truy phong Khâm Minh đại vương thần vị). 2. Hiển thánh tỷ An Sinh Vương phu nhân, truy phong Thiện Đạo Quốc Mẫu thần vị. (Thân mẫu của ngài hiển thánh là An Sinh vương phu nhân, truy phong Thiện Đạo Quốc mẫu thần vị). 3. Thân vương Khâm sai tiết chế thiên hạ chư quân Thái sư thượng phụ thượng quốc công Nhân vũ Hưng Đạo đại vương Thượng đẳng thần thần vị. (Thần vị vị thân vương Khâm sai tiết chế thiên hạ chư quân Thái sư thượng phụ thượng quốc công nhân vũ Hưng Đạo đại vương thượng đẳng thần). 4. Hưng Đạo đại vương phu nhân, hiệu Thiên Thành công chúa, truỵ phong Nguyên Từ quốc Mẫu, sắc phong Thiên Uy thái trưởng công chúa. (Thần vị phu nhân của Hưng Đạo đại vương hiệu là Thiên Thành công chúa, truy phong là Nguyên Từ quốc mẫu, sắc phong là Thiên Uy thái trưởng công chúa). 40
5. Có 2 bài vị đổ ở trong khám nội dung ghi như số 3 và số 4 đã viết trên. 6. Hưng Vũ đại vương nhất phẩm phu nhân Hưng Nhượng đại vương nhất phẩm phu nhân Hưng Hiến đại vương nhất phẩm phu nhân Hưng Trí đại vương nhất phẩm phu nhân thần vị. (Thần vị Hưng Vũ đại vương nhất phẩm phu nhân Hưng Nhượng đại vương nhất phẩm phu nhân Hưng Hiến đại vương nhất phẩm phu nhân Hưng Trí đại vương nhất phẩm phu nhân) 7. Đệ nhất công chúa Nhân miếu hoàng hậu Đệ nhị Thuỷ Tiên công chúa Điện Suý phu nhân thần vị, (Thần vị công chúa thứ nhất Nhân miếu hoàng hậu, công chúa thứ 2 Thuỷ Tiên công chúa Điện Suý phu nhân) 8. Trần triều vương tử Khai Quốc công Hưng Vũ đại vương thần vị: Hưng Nhượng đại vương thần vị Hưng Hiến đại vương thần vị Hưng Trí đại vương thần vị (Thần vị vương tử Khai quốc công Hưng Vũ đại vương Hưng Nhượng đại vương Hưng Hiến đại vương Hưng Trí đại vương). 9. Trần triều vương tế Điện Suý thượng tướng quân Quan nội hầu Phạm tôn thần thần vị. 41
(Thần vị con rể của Vương là Điện Suý Thượng tướng quân Quan nội hầu Phạm tôn thần). Đền Cố Trạch thờ Quốc Cồng tiết chế Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn cùng gia đìiứi và các tướng lĩnh thân túi của ông, ngoài ra còn đặt bài vị đồng thờ Tổng đốc tỉnh ghép Định Yên tên là Phạm Thiện Nhân (Phạm Văn Toán). * Tướng quân Phạm Ngũ Lão tuy là con rể nhưng cũng được lập bài vị thờ trang trọng tại chính tẩm cùng với thân phụ, thân mẫu và các con của Quốc Công tiết chế Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn, tại tiền đường cùng với tướng quân Phạm Ngộ. Bài thơ viết ở bức tường gian trái tiền đường (trong nhìn ra) NAM SƠN THỌ (Điệp Trần thi cách) Khôn lợi an trinh cát Càn cưcmg trấn biểu giao Dậu thư sưu bí hiểm Tí tính tịch thư mao Thiên trụ đưctng trung lập Địa đồ tứ ngoại bao Phong đàn sương kiếm hạc Vân dũ nguyệt cung tiêu H ổ phục bằng sơn tráng Long phi giáp nhật cao Xà bàn năng khởi tích 42
Điểu ái thuỷ doanh sào Mão tửu hoa nghi đối Ngọ trà tuyết đãi xao Tốn môn nghiêm cẩn xứ Cấn hạn hạ di giao Cổ Am Trạng nguyên Trình tiên sinh đề. Mộc ân đệ tử Trần Hữu Thiện bái thư. Dịch nghĩa: Núi Nam bền vững (Thư điệp của nhà Trần) Cổ Am Trạng nguyên Trình tiên sinh đề. Mộc ân đệ tử Trần Hữu Thiện bái thư. Tây nam đã được vững vàng Tây bắc biên ải xóm làng yên vui Dậu phương bí hiểm rõ rồi Dân cư phương Tý sổ trời đã ghi Giữa thì có cột đặt đi Địa đồ bao bọc tứ duy rõ ràng Kiếm trong sương gió kêu vang Cửa mây bóng thỏ sai ngang một vành Non cao hùng tráng hổ rình Rồng bay lên tới thiên đình cao cao Nhô lưng rắn cuộn ra vào Chim vui kết tổ liệng chao trên cành Bên hoa nhắp rượu bình minh Trà trưa đợi tuyết với mình uống chơi Đông nam gìn giữ không ngơi Đông bắc ngăn cách bọn người man di. 43
KHU pi TÍCH ĐỀN TRẦN MẶT bA n s t ổ n s t h Ể thể h iệ n t r ạ n g C C O --e o 3 r C C ÌI—
Tkta T ria ^ k••. TCảUkttềotnis » <’• ■ « * • 4 »('»T rM (K M k. IM h át' k.C jiM CH tSakM ts (.T n atM h t c T á^n c. m iuiM ii t, tu« nn f
ĐỂN TRÙNG HOA Trong những năm qua các di tích lịch sử văn hoá thời Trần ở Nam Định đã từng bước trùng tu tôn tạo trên cơ sở nghiên cứu khoa học và kết quả của các cuộc khảo cổ học từ những năm 1976 đến nay. Phủ Thiên Trường xưa mà trung tâm là cung điện Trùng Quang, nơi ngự của các Thái thượng hoàng thời Trần. Còn cung Trùng Hoa là nơi nghỉ của các vị Hoàng đế mỗi khi từ Kinh thành Thăng Long về phủ Thiên Trường yết kiến vua cha - Thái thượng hoàng. Cả hai cung điện Trùng Quang và Trùng Hoa đều bị giặc Minh tàn phá từ thế kỷ 15. Người sau mới tạo dựng được ngôi đền Trần trên nền cung điện Trùng Quang xưa để thờ 14 vị Hoàng đế đời Trần. Trên cơ sở nền tảng của cung điện Trùng Hoa xưa, năm 2000 nhân dịp kỷ niệm 990 Thăng Long- Hà Nội, UBND thành phố Hà Nội đã đầu tư kinh phí cho một số địa phương như: Ninh Bình, Bắc Ninh, Nam Định có những di tích lịch sử liên quan đến Thủ đô để trùng tu khôi phục các di tích. Từ nguồn kinh phí này tỉnh Nam Định đã xây dựng ngôi đền Trùng Hoa nằm ở phía tây đền Thiên Trường trong khuôn viên của khu di tích đền Trần. Để hoà nhập vói tổng thể khu di tích lịch sử văn hoá đền Trần- chùa Tháp. Bình đồ kiến trúc của đền Trùng Hoa cũng giống như đền 45
Search
Read the Text Version
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 7
- 8
- 9
- 10
- 11
- 12
- 13
- 14
- 15
- 16
- 17
- 18
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23
- 24
- 25
- 26
- 27
- 28
- 29
- 30
- 31
- 32
- 33
- 34
- 35
- 36
- 37
- 38
- 39
- 40
- 41
- 42
- 43
- 44
- 45
- 46
- 47
- 48
- 49
- 50
- 51
- 52
- 53
- 54
- 55
- 56
- 57
- 58
- 59
- 60
- 61
- 62
- 63
- 64
- 65
- 66
- 67
- 68
- 69
- 70
- 71
- 72
- 73
- 74
- 75
- 76
- 77
- 78
- 79
- 80
- 81
- 82
- 83
- 84
- 85
- 86
- 87
- 88
- 89
- 90
- 91
- 92
- 93
- 94
- 95
- 96
- 97
- 98
- 99
- 100
- 101
- 102
- 103
- 104
- 105
- 106
- 107
- 108
- 109
- 110
- 111
- 112
- 113
- 114
- 115
- 116
- 117
- 118
- 119
- 120
- 121
- 122
- 123
- 124
- 125
- 126
- 127
- 128
- 129
- 130
- 131
- 132
- 133
- 134
- 135
- 136
- 137
- 138
- 139
- 140
- 141
- 142
- 143
- 144
- 145
- 146
- 147
- 148
- 149
- 150
- 151
- 152
- 153
- 154
- 155
- 156
- 157
- 158
- 159
- 160
- 161
- 162
- 163
- 164
- 165
- 166
- 167
- 168
- 169
- 170
- 171
- 172
- 173
- 174
- 175
- 176
- 177
- 178
- 179
- 180
- 181
- 182
- 183
- 184
- 185
- 186
- 187
- 188
- 189
- 190
- 191
- 192
- 193
- 194
- 195
- 196
- 197
- 198
- 199
- 200
- 201
- 202
- 203
- 204
- 205
- 206
- 207
- 208
- 209
- 210
- 211
- 212
- 213
- 214
- 215
- 216
- 217
- 218
- 219
- 220
- 221
- 222
- 223
- 224
- 225
- 226
- 227
- 228
- 229
- 230
- 231
- 232