thôi. Còn bây giờ tác giả nói về đá bằng một sự khẳng định, có vẻ như muốn tranh luận với ai đó về cuộc sống của đá: Ai bảo rằng đá vô tri Đặt tay lên thấy xù xì nếp nhăn Điều gì khiến đã trở trăn Giấc mơ hoá ngọc còn lằn trong tim Có những câu lục bát của Việt Anh đẹp long lanh như những câu ca dao trong kho tàng văn học dân gian. Ví dụ: Thềm vương hai mảnh lá vàng Giật mình ngỡ dấu đôi bàn chân ai Bài 39 Than chưa cháy hết nụ cười Đã nghe tiếng lửa khóc đời tàn tro Bài 50 Đã đi muôn chốn ngàn nơi Riêng em tôi ngỡ đến rồi mà chưa Bài 52 Có thể nói Nguyễn Việt Anh là một người nhạy cảm và đa cảm. Như tác giả tự bộc bạch: Gió lay ngàn nón xanh rung Hồn ta là cả cánh rừng đổ chuông Bài 26 Hoàn cảnh đặc biệt làm cho tâm hồn anh nhạy cảm với những số phận thiệt thòi, những hoàn cảnh khó khăn: Còn nhiều số phận hẩm hiu Còn nhiều hoàn cảnh ngặt nghèo lắm em Bài 7 Cảm thông, chia sẻ, đặc biệt là sự nhạy cảm với nỗi đau của kiếp người, khiến cho tác giả thấy: Vết thương người khác tấy trên thân mình Bài 7 Và: Chân mình mỏi bước người ta Tóc người ta bạc, trắng qua phận mình 51
Bài 8 Người khác và mình, người ta và mình, thiên hạ và mình tưởng không liên quan hoá ra lại gắn bó. Sợi dây ngầm liên kết chặt chẽ hai phía, hai chủ thể chính là sự cảm thông, sự thương cảm chảy trong huyết mạch người dân Việt “thương người như thể thương thân”. Nhạy cảm như thế nên người viết cảm nhận khi nhìn thấy cỏ đẫm sương lại ngỡ như nước mắt cảm thương của người cõi khác: Bập bùng cỏ đẫm sương phơi Phải người dưới ấy khóc tôi trên này Bài 18 Nhiều câu thơ cho thấy một tâm hồn thơ nhạy cảm, đa cảm, với nhiều trạng thái phức tạp, đa dạng, đa diện. Có thể gặp những đinh ninh, trở trăn, rối bời, băn khoăn, suy đi tính lại, loay hoay, lơ mơ, kiên nhẫn, giật mình, lặng nghe, chạnh lòng, đành thôi, tê tái, tần ngần, phân vân, ngập ngừng. Đó là những từ ngữ chỉ cảnh vật cũng là những chuyển hoá từ “tâm cảnh” sang “ngoại cảnh”. Một tâm trạng không hề đơn giản của một tâm hồn đa cảm. Người thơ vừa muốn “Nhập hồn vào xác ve già mà kêu” (Bài 34). Nhưng đồng thời lại khao khát, mong muốn trở lại kiếp người ngay sau đó: “Bao giờ lột xác tình ơi/ Cho ta trở lại kiếp người hỡi ve” (Bài 35). Những băn khoăn của riêng nhà thơ, nhưng cũng là băn khoăn của những người đã yêu, đang yêu và sẽ yêu: Người hôm nay đã thương mình Biết mai ở cõi vô hình còn thương Bài 1 Bia đá rồi sẽ biến hình Nào ai biết được bia tình có phai Bài 30 Một điều đáng chú ý là các bài thơ của Việt Anh không quá nhiều niềm vui, không quá phấn khích. Âm hưởng trầm và man mác buồn trở thành âm điệu chủ đạo của các tập. Và có vẻ như thơ Việt Anh hơi già trước tuổi. Già dặn, thâm trầm thì chắc chắn rồi. Nhưng đó là hệ quả và cũng là kết quả của những biến cố trong cuộc sống riêng của tác giả. Sự già dặn đó chỉ làm cho bạn đọc thên yêu quý và trân trọng nghị lực sống, nghị lực viết của anh. Dù thiệt thòi, mất mát, nhưng Việt Anh thật mạnh mẽ, thật lạc quan: Tháng năm hút cạn đời người Tưới đau lòng đất tiếng cười bật lên Bài 17 Tôi về giữa xứ tin yêu Bao nhiêu khổ luỵ, bấy nhiêu nồng nàn 52
Bài 55 Vượt qua số phận đau thương đến với niềm vui thơ ca, tác giả tự tin khẳng định: Tim này càng mất càng giàu Máu này càng vỡ, càng đau càng nồng Hồn này càng khuất càng trong Bài 61 Hi vọng rằng với những gì đã gặt hái được, Nguyễn Việt Anh sẽ tự tin đi trên con đường sáng tạo nhọc nhằn mà anh đã chọn. Và thơ anh không chỉ nâng đỡ tâm hồn anh, mà còn nâng đỡ bao nhiêu tâm hồn người đọc khâm phục và yêu mến nhà thơ đa cảm, giàu nghị lực. 53
Phi Tuyết Ba Họ và tên khai sinh: Phí Thị Tuyết Ba Ngày sinh: 02 tháng 5 năm 1946 Quê quán: Kim Chung, Hoài Đức, Hà Tây Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Tin lành Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam Tác phẩm thơ đã xuất bản Lời tình yêu (1991) Lỗi tại trái tim (1992) Mi-mô-za (1996) Sóng thời gian (2000) Quà tặng (2004) Hoa trên gai (2007) PHI TUYẾT BA BỀN BỈ NHỮNG MÙA HOA 1. Người mộng mơ Có thể nói không quá rằng Phi Tuyết Ba là một phụ nữ sinh ra là để mộng mơ. Không phải vì suy diễn từ một câu thơ thú nhận của chị: Tôi là một cô gái mộng mơ, nông nổi (Thế giới và tôi). Cái gọi là nông nổi thì còn phải đọc nhiều tập thơ, rồi đọc cả những ứng xử trong đời thường rồi mới có thể chứng nghiệm. Thế nhưng mộng mơ thì có thể tìm thấy bao nhiêu là dấu hiệu, ngay trong tập thơ đầu và suốt những tập thơ tiếp theo. Không mộng mơ sao lại chọn ví mình như chiếc lá “một chiếc lá mong manh” - “Chiếc lá xanh nhẫn nại, trong sắc xanh đợi chờ” (Chiếc lá - trong tập Lời tình yêu). Không mộng mơ sao được, khi tự ví mình như một khóm hồng “Biết yêu anh tha thiết/ Yêu anh bằng lá biếc/ Yêu anh bằng hương thơm”. Điều lạ lùng nhất của khóm hồng ấy chính là những chiếc gai này, những chiếc gai tình cảm: Những chiếc gai rất hiền Những chiếc gai hồng ấy Yêu anh nên hoá mềm 54
(Anh đã nhận ra em - tập Lời tình yêu) Mộng mơ nên hay tưởng tượng. Chỉ có thế giới tưởng tượng mới là thế giới nuôi d- ưỡng những ước mơ. Không là khóm hồng thì lại có thể là loài hoa khác. Hoa trinh nữ. Bởi hoa quá yêu người nên hoa từ giã đời hoa (Hoa trinh nữ). Là hoa, là cây, không thì lại là đất, một mảnh đất tình yêu thấm đẫm hương tình ái “...mảnh đất ngỡ ngàng trong gió nắng”, và hết sức bao dung, nhân hậu “mảnh đất đau không nở sinh quả đắng” (Mảnh đất tình yêu - tập Lời tình yêu). Có khi trí tưởng tượng lại cho cảm giác mình là giọt bể: Mộng du theo sóng dạt lên bờ Trót pha muối mặn vào thương nhớ Mượn tương tư dệt áo choàng thơ” (Giọt bể - tập Sóng thời gian). Là người phụ nữ bình thường, nhưng người mộng mơ khác người bình thường ở chỗ hay ước ao, hay giả tưởng. Chạm vào ánh mắt người mình kiếm tìm, chờ đợi, thấy ánh nhìn khác lạ “chưa ai nhìn em như anh đã nhìn em” thế là âm thầm ao ước: Ước được cầm tù trong đôi mắt nâu Không biết nữa những đôi mắt khác (Đôi mắt) Lãng đãng trong không gian quan họ, không gian của mộng, của thơ, lại nảy sinh ước muốn: Mượn đâu mười ngón tay mềm Bổ vành trăng nhỏ mà têm trầu vàng (Đường chia chín ngả - tập Sóng thời gian). Con người đem cả tuổi xuân đặt cược để đi tìm loài hoa tình yêu bí ẩn, chắc chắn không phải là con người thực tế, thực dụng: Em tựa như một kẻ lang thang Đi tìm loài hoa tình yêu bí ẩn Em đem hết tuổi xuân mình đặt cược (Như mình với trăng) Đến với thơ ca cũng như là đến với mùa màng. Nhưng làm thơ ấy là gieo mơ mộng, gieo vần thơ vàng óng để rồi sau đó “Ra ngoài đồng gió gặt bài thơ xanh” (Mùa gặt - tập Lỗi tại tình yêu). Và nỗi buồn được tâm hồn mộng mơ đánh giá cũng khác người: Ngỡ là nên chát, nên chua Ngờ đâu buồn ấy Bây giờ ngọt thơm (Buồn - tập Lỗi tại trái tim) 55
2. Đắm say dịu dàng và can đảm Không thấy câu thơ nào chỉ dẫn nhà thơ bắt đầu yêu từ bao giờ, nhưng khi hai mươi tuổi, khi còn là một cô gái mộng mơ, nông nổi thì cô gái ấy đã yêu và thấy thế giới chỉ có một người là người ấy (Thế giới và tôi). Bấy giờ, như một người mộng du, cô thấy người yêu của mình choán khắp mọi nơi, kể cả trên mặt trăng xa vời vợi. Đâu đâu cũng là hình ảnh của chàng: “Nhìn đâu cũng thấy bóng người tôi thương” (Trăng lặn - tập Lỗi tại trái tim). Cô mộng mơ ví tình yêu của mình như hoa trinh nữ với bao nhiêu phẩm chất tốt đẹp: “Trinh nữ ngây thơ/ đắm say, thầm kín/ dịu dàng hoa tím/ tình yêu của em” (Hoa trinh nữ - tập Lỗi tại trái tim). Có lẽ nét đặc biệt trong tính cách, trong cá tính thơ Phi Tuyết Ba chính là tình yêu đắm say nhưng dịu dàng và thầm kín. Cô hào phóng tặng người yêu con đường, ngôi nhà, những đêm thao thức, mong ngóng (Quà tặng). Cô ao ước: “Giá mà viết được chữ THƯƠNG lên hồ” dưới cửa sổ nhà người mình yêu. (Bên cửa sổ - tập Lỗi tại trái tim). Cô trao tất cả những gì mình có “Như cây đã trao hết quả/ Như mùa hè trút hết lửa” (Lều vắng - tập Mi-mô-za). Diễn tả bằng hình ảnh, so sánh chưa đủ, cô thấy cần kéo dài câu thơ bình thường để làm thành khổ thơ khác thường. Như một lời thề, một lời nguyền, hay một tuyên ngôn: Nhận của đời một tuần trăng mật Để suốt đời em làm mật trả tuần trăng Thương anh, thương con em đâu dám từ nan Chỉ lo đời ít hoa và mùa xuân quá ngắn (Khúc 10 lời tình yêu - tập Lời tình yêu) Một lần khác, cô “văn xuôi hoá” thơ mình thành như một lời nói thường chắc nịch, dứt khoát: Với anh và các con Em không cho phép mình được có một lí do nào để nói lời từ chối (Con người biết đứng dậy) Đấy là những lời của thời điểm tỉnh táo hay say mê mụ mị không phải là quan trọng. Quan trọng nhất ấy là sự “chân tình”, “thành thật” của nhân vật trữ tình. Cô gái đã yêu và không ngại giãi bày: Em yêu anh... em tự ru, tự hát Viết tên anh lên cát trăm lần Tên anh đã hoá thành muối mặn Câu hát em làm khát cuộc đời em (Những hạt cát này) 56
Và cứ thế, cô yêu mến, tôn thờ người tình. Dù có thể có trắc trở, hay dù thế nào chăng nữa thì cô vẫn một dạ tin vào phép màu của tình yêu: Tình yêu là cái cớ để cho em xinh đẹp Tình yêu là cái cớ để trái tim đói khát Tình yêu là cái cớ để giận hờn (Tình yêu - tập Lời tình yêu) Người yêu được bao dung, tôn thờ vì anh ta là người đầu tiên phát hiện ra cô. Anh ta là người đi tìm đất, là người thứ nhất nhận ra “chiếc lá xanh nhẫn nại”, nhận ra “một bông hồng nhỏ/ Giữa mùa hoa rực rỡ”; anh ta là người “khác những người đàn ông khác”... Có hàng trăm lí do để cô bền bỉ “Bao năm tháng đợi chờ xa cách/ Em lấy nhớ nhung để thắp vầng trăng” (Lời tình yêu khúc 5 - tập Lời tình yêu). Ngay cả khi anh ta như cánh buồm nhẹ dạ lang thang không về đích ban đầu thì cô vẫn bình tĩnh, điềm đạm, tự tin và vị tha: Cầu cho anh thuận gió xuôi buồm Cầu cho trời yên, sóng lặng, biển tròn Ngày nào đó... Cánh buồm anh trở lại (Cánh buồm - tập Lỗi tại trái tim) Không hề ghen hờn hay oán hận, người bị phụ bạc vẫn lặng thầm, bền bỉ chờ đợi như cây xương rồng “để người xa được mộng mơ sắc trời” (Chờ đợi – tập Mi-mô-za). Khác với tính quyết liệt và mạnh mẽ “Ghen như sôi và giận như điên” của nữ sĩ Đoàn Thị Lam Luyến, Phi Tuyết Ba khi gặp cảnh ngộ trớ trêu thì “Lặng lẽ giấu chôn niềm tổn thất” (Điều có thể xảy ra - tập Mi-mô-za). Rồi thật nhẹ nhàng với một thái độ bao dung: Đâu nỡ trách lòng ai khuyết cạn Đâu dám đòi... Tình mãi mãi rằm (Điều có thể xảy ra) Không phải là không yêu đủ độ thiết tha nên dễ dàng chấp nhận và bỏ qua như thế. Mà vì mỗi người phụ nữ có một cách yêu riêng, một cách riêng để nuôi dưỡng, gìn giữ tình yêu. Cái cách của Phi Tuyết Ba ấy là: Tôi học sự cần mẫn của đàn ong thợ Sự dịu hiền rắn rỏi của loài cây Sự kiên nhẫn của bến bờ Để yêu thương, chờ đợi (Dịu ngọt - tập Mi-mô-za) Chính vì thế mà Phi Tuyết Ba không bước qua “đôi guốc đỏ”, để lỡ cuộc hẹn hò, dù đó là cuộc hẹn dành cho chính mình, dù cô đã đến sát “gần cánh cửa xanh hé mở” (Điều 57
anh không biết - tập Lời tình yêu). Vì thế mà dù phải “đứng ngoài bơ vơ cùng sương gió”, vẫn không một lời giận dỗi. Chẳng những thế lại còn cầu chúc: “Xin chúc ngôi nhà đóng cửa ngủ ngon/ Xin chúc niềm kiêu hãnh được vẹn tròn” (Ngôi nhà đóng cửa - tập Mi-mô- za). Và cũng vì thế mà có suy ngẫm về hạnh phúc khác người: Những thương nhớ, niềm yêu, nỗi khổ Ngẫm cho cùng... là hạnh phúc đó thôi (Viết bên hồ Tây - tập Mi-mô-za) Điều an ủi của người thơ là sự vẹn nguyên của một trái tim nồng nhiệt. Dẫu rằng có một phần ảo tưởng và mộng mơ trong đó: Trái tim vẫn là tim con gái Dẫu thời đẹp ấy đã xa rồi (Giọt bể - tập Sóng thời gian) Mất mát có thể vô cùng lớn lao, có thể làm con tim rỏ máu, nhưng không thể làm người phụ nữ đó rên rỉ, than vãn hay gục ngã, mặc dù có thể làm tàn phai, nhoà nhạt: Tôi không cười, không khóc Bạc màu cùng thời gian (Ai khóc cho mùa thu) Như thế vì người phụ nữ đó là một người can đảm: Em tập cười bằng đôi môi khô héo Em tập cười bằng đôi mắt ngấn lệ (Cười) Đó là người biết dự liệu các tình huống, và quan trọng nhất là biết đứng dậy sau vấp ngã: Mọi điều đều có thể xảy ra Người ta đánh ngã mình dễ như đánh rơi đồng xu vậy Điều khác nhau là con người biết đứng dậy (Con người biết đứng dậy) Không ít lần người phụ nữ này rơi vào cảnh cô đơn, cảnh một mình. Nhưng một mình không phải lúc nào cũng có nghĩa là cô đơn. Một mình là sự kiêu hãnh vì không cần nhiều mình: Em một mình vượt qua yêu thuật Bạch Cốt Tinh (Đường tới Niết bàn- Mi-mô-za); Đêm qua chỉ có một mình tôi mưa (Đêm qua - Sóng thời gian); Tháng Giêng tôi gọi Lim 58
ơi một mình (Tháng Giêng tôi gọi); Cũng như em đã quen sống một mình, quen thương nhớ đợi chờ/ Một mình khát, một mình thơm, một mình ra quả (Dòng sông lạ - Lỗi tại trái tim). Ngay cả khi cô đơn thì cô đơn ấy cũng không gợi niềm cảm thương, mà là cô đơn kiêu hãnh, như một thứ của cải: Cô đơn là một kho vàng Làm vòng làm xuyến điểm trang cho mình Điều quan trọng với người làm thơ là cô đơn thành một trạng thái tâm lí sáng tạo cần thiết: Cô đơn... thầm chuốt thành câu thơ tình (Cô đơn - Mi-mô-za). Hầu như người đọc chỉ bắt gặp một Phi Tuyết Ba dịu dàng, mộng mơ, mãn nguyện “Bằng lòng vì tất cả những gì đã trải” (Chiều thu chợt xanh). Hầu như chỉ bắt gặp sự an nhiên của một người đàng hoàng, thanh thản, ung ung với những gì mình có. Hiếm khi thấy tiếng thở dài kiểu như “lẻ loi một bến không chồng em neo” (Thuyền lá liễu), bởi vì nó đã được nén lại trong sâu thẳm của người đàn bà kiêu hãnh và giàu nghị lực. Điều này góp phần làm cho thơ Phi Tuyết Ba có một giọng điệu riêng, một vẻ riêng. 3. Làm duyên và làm thơ Có người nhận xét rằng thơ Phi Tuyết Ba hơi điệu, hơi làm duyên. Thì có sao đâu. Phụ nữ ai mà chả làm duyên. Có người duyên lặn vào trong. Có người duyên bong ra ngoài. Có người duyên vừa đủ độ. Nhưng duyên một tí, điệu một tí để thêm hương, thêm sắc cho cuộc đời vốn nhiều nỗi buồn ít niềm vui thì là ưu điểm. Với lại điệu trong thơ, làm duyên ở trong thơ cũng không dễ đâu, không phải ai muốn cũng có thể làm được. Phi Tuyết Ba tìm đến thơ ca như một sự tất yếu. Bởi vì tâm hồn ấy là tâm hồn của thi ca: “Hồn tôi có một chút Kiều/ Để thương để xót, để yêu, để buồn” (Cảm tác - Mi-mô-za). Một con người sống thực với mình, nhạy cảm với người nên không thể lặng im. Chị không thể “giả vờ điếc, vờ câm/ giả vờ vô tri vô giác/ vờ không biết đớn đau/ không yêu thương không căm ghét” (Tượng đá và ngọn lửa - Lỗi tại trái tim). Chị đã hằng sống, hằng yêu, hằng hạnh phúc, khổ đau. Biết cuộc đời này có bao nhiêu điều phức tạp “dư thừa nỗi khổ, đầy ắp nỗi buồn” nhưng vẫn phải vui vẻ sống, và vẫn chọn nỗi khổ đau “đáng giá”, nỗi buồn không vô vị. Biết là có thể rụng xuống như chiếc lá, nhưng vẫn phải bền bỉ, phải khác chiếc lá “xanh tha thiết, sau một lần rơi xuống” (Khác với chiếc lá). Chọn con đường làm thơ, ấy là chọn sự tự nguyện phiêu lưu trên con đường vô thuỷ vô chung (Đầu và cuối con đường đều hút vào vô tận - Gửi người làm thơ). Đó là con đ- ường dành cho những ai “vất vả trọn đời kiếm tìm cái Đẹp”. Trong bài thơ Quyền được mơ ước, Phi Tuyết Ba đã ước viết được “những bài thơ mang hồn tôi không thể lẫn”. Quả thật, những gì đã viết ra phần nào mang đến cho thơ Phi Tuyết Ba một vẻ riêng. Người đọc ấn tượng với một vừng trăng khuyết, một đôi guốc đỏ, một chiếc lá và một li rượu mùa thu... Và tất cả những gì về tình yêu, về hạnh phúc, về thơ ca, về chiến tranh, nỗi khổ đau, niềm kiêu hãnh... mà chị đã viết đều ít nhiều có dấu ấn của một người đàn bà mộng mơ, dịu dàng, can đảm và kiêu hãnh. 59
Lê Ngọc Bảo Họ và tên khai sinh: Lê Ngọc Bảo Năm sinh: 1954 Dân tộc: Kinh. Quê quán: xã Viên An, huyện Ứng Hoà, Hà Nội. Cử nhân văn chương. Dạy học ở Hoàng Liên Sơn và ở quê. Tác phẩm Lặng lẽ bến sông quê (tập thơ), 1994 Những câu thơ đợi ở cuối làng (tập thơ), 2001 Sôi sục một vùng làng (tiểu thuyết), 2004 Tiếng hát một dòng sông (trường ca), 2005 Gánh chữ lên non (truyện dài), 2006 Ngày cuối mùa thu (tập thơ), 2008 MỘT ÔNG THẦY THI SĨ (Đọc Ngày cuối của mùa thu, Lê Ngọc Bảo, Nxb Hội Nhà văn 2008) Trong chuyến thăm Nam Ninh, Trung Quốc, tôi gặp lại Lê Ngọc Bảo, thầy giáo làm thơ, viết truyện của Hội Nhà văn Hà Nội. Nói là gặp lại vì trong ngày thơ Việt Nam đầu năm, khi tôi chụp ảnh cho nhà thơ Bùi Kim Anh thì thấy có một anh để ria, mặc áo khoác, đội mũ nồi chen vào chào tôi bằng thầy. Năm tháng cách xa đã khiến tôi không nhận ra anh. Qua giới thiệu tôi mới nhớ lại được đó là Lê Ngọc Bảo. Cái anh Bảo đóng vai Đại tá trong vở kịch Chuyến hàng quân tiếp vụ của Đoàn thực tập sư phạm tại cấp 3 Cao Bình. Hồi ấy chúng tôi diễn kịch có bán vé ở thị trấn Nước Hai của huyện Hoà An, Cao Bằng phục vụ cuộc bầu cử Quốc hội thống nhất của nước ta năm 1976. Lúc đó anh sinh viên trẻ Lê Ngọc Bảo cũng đã bắt đầu tập làm thơ... Theo thông tin mà thầy giáo dạy văn Lê Ngọc Bảo công bố cuối tập thơ Ngày cuối của mùa thu, anh đã là tác giả của một tiểu thuyết, một truyện dài, ba tập thơ và một trường ca... 60
Tôi muốn viết mấy cảm nghĩ về tập thơ mới nhất của anh, tập Ngày cuối của mùa thu. Công bố tập thơ này, thầy giáo có tâm hồn thi sĩ đã vào tuổi tri thiên mệnh. Cái tuổi này vừa làm cho con người chín chắn, chững chạc sau những va đập, nếm trải cuộc đời, đồng thời lại cũng dễ làm cho người ta hoài niệm, ngậm ngùi nhớ một thời, một thuở: Có một thời tình yêu anh bỏ ngỏ Em rối bời mỗi bữa nhận thơ yêu Lặng lẽ mơ ngan ngát tím cả chiều Ngày cuối của mùa thu Thật ra, làm một ông thầy thì thường là phải mô phạm, phải đàng hoàng, chững chạc. Nó không cho phép người ta đa tình vốn là cái bệnh của người thi sĩ. Nhưng mà ông thầy giáo thi sĩ này không thể không đa tình. Chúng ta hãy xem bản tổng kết của anh trong “Thơ tình tuổi năm mươi”. Một loạt những “Giá em...” thế này, thế nọ. Đúng là Giá thế nọ, giá thế này/ Chỉ vì anh giáo càng ngày càng yêu! Quả đúng vậy, kết thúc bài thơ, anh thật thà tự thú: Hai năm mươi vẫn khát thèm tình yêu (Bây giờ mới một năm mươi thôi đấy nhé!) Có hiểu như vậy chúng ta mới cảm thông khi anh giáo quyết liệt, dứt khoát: Kiếp này mà chẳng yêu nhau Em ơi đợi đến kiếp sau muộn rồi Muộn Và trong rất nhiều bài thơ, anh giáo hay nhắc đến “khát thèm”, “đói mèm” tình nghĩa. Anh mang nỗi khát thèm đó đến “Ga vào tiên cảnh một lần đi mây” (Đêm Sa Pa) hoặc xúc động rưng rưng “Thành phố núi long lanh trong dáng núi” (Lào Cai trong anh), hoặc đắm chìm trong xúc cảm chợ tình “Mê mẩn anh dời điểm hẹn/ Ôm em nồng nàn sao rơi” (Chợ tình)... Nhà giáo thi sĩ vẫn mang nặng cốt cách ông thầy. Một số bài thơ, câu thơ như được rút ra từ những trang giáo án: Giảng thơ anh tôi vẫn luôn thấy thiếu Một mé bên trời trăng sáng không em Giảng thơ Xuân Diệu Rồi với một thi nhân đã khuất, thầy giáo Lê Ngọc Bảo thẳng thắn tranh luận với những gì người ta xì xầm: Thơ ông sống và sẽ còn mãi sống Trang vở học trò lồng lộng thách thời gian Gửi một thi nhân vừa khuất 61
Cũng có lúc ta bắt gặp ông thầy giáo thi sĩ hay tranh cãi có phút buồn, chùng xuống, nản lòng, mỏi mệt: Chiều quê chầm chậm đậm hơi men Về đây rũ trắng mọi đua chen Chiều xuân Người thơ khản giọng trơ vơ nỗi niềm Chào năm học mới Nhưng nhìn chung, thơ của anh là thơ của sự lạc quan. Lê Ngọc Bảo hay cảm thông với những phận người thiệt thòi, nhỏ bé. Một công dân làng “Cả một đời không cơ hội đến trường/ Cứ hì hụi cày cày cuốc cuốc” (Người làng chết trong mưa); một cô gái không may mắn “Trót sinh hạ mà đời luôn lấp lối/ Không trăng lần mò tự sáng mà đi” (Đêm ấy không trăng). Nhiều lúc anh lớn tiếng trước những nhố nhăng thời cuộc: Vung tay đất thấp trời cao Xưa nay có ở nơi nào thế không Lục bát mút chiều thu Trong Đối thoại với Nguyễn Du, anh đối thoại, tranh biện với người đọc thơ anh: Muốn soi ra chợ mà soi Cái gì cũng bán cũng đòi bằng đô Đối thoại với Nguyễn Du Những lúc như thế, thấy rõ cái căn cốt thiên lương của người theo đạo làm thầy, đứng về phe nước mắt chống lại những “lông nhông dữ dằn” của thời cuộc. Tất nhiên, giá như cái anh thi sĩ mạnh mẽ hơn nhiều nữa; giá như cái anh giáo bớt mô phạm, bớt thói quen nghề nghiệp giảng giải đi chút nữa, giá như... Nhưng thôi, dù sao cũng chúc mừng thầy giáo thi sĩ Lê Ngọc Bảo, hội viên kì cựu của Hội Văn nghệ Hà Tây, giờ là Hội Nhà văn Hà Nội với tập thơ này. 62
Nguyễn Ngọc Căn Họ và tên khai sinh: Nguyễn Ngọc Căn. Năm sinh: 1943. Quê quán: thôn 7, Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội. Tốt nghiệp kĩ sư Nông nghiệp. Tác phẩm Quê Nành, 1996; Tiếng thoi xưa, 2005; Người về, 2006; Lại một mùa trăng, 2006 Trăng, 2010; Hoa, 2016; Cánh chim nhỏ lạ, 2016;Bình cũ, 2018. NGỌC CĂN VỚI TẬP HAIKU “CÁNH CHIM NHỎ LẠ” (Cảm nhận tập “Cánh chim nhỏ lạ”, Nxb Hội Nhà văn, 2016) Câu lạc bộ “Haiku Việt, Hà Nội” có nhiều thành viên làm thơ Haiku, có một số người đã được in trên Tạp chí Haiku thế giới khi dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Nhật. Các Haijin (người sáng tác Haiku) của câu lạc bộ Hà Nội công bố sáng tác của mình trên Tạp chí, báo, và trang Web Haiku Việt, đồng thời in thành một phần trong tập thơ riêng như Cao Ngọc Thắng, Phùng Gia Viên. Có người in cả tập như chủ nhiệm Đinh Nhật Hạnh với tập “Trăng bùa” bốn thứ tiếng Việt Anh, Pháp Nhật. Các tác giả in thơ thành tập riêng là Đinh Trần Phương, Nguyễn Thị Kim, Phan Vũ Khánh. Ngọc Căn thuộc số ít hội viên in cả tập 352 bài Haiku. Phải chăng, tác giả vốn là người thích làm thơ ngắn nên dễ dàng tiếp cận và say sưa với thơ Haiku? Sáu tập thơ in riêng thì có 3 tập là thơ bốn câu: Người về (2006), Trăng (2010), Hoa (2016). Có lẽ đó là một phần của lí do. Phải chăng vì còn có con dạy tiếng Nhật, cháu học tiếng Nhật nên ông làm thơ Nhật? (72. Con dạy tiếng Nhật/ Bố luôn ngỡ ngàng/ Cô gái Phù Tang; 73. Cháu vào học lớp tiếng Nhật/ Ông chờ ở ngoài/ Làm thơ Haiku). Lí do chính là tác giả say mê với một kiểu thơ du nhập từ Nhật Bản, ngắn, gọn, gợi mở nhiều về vạn vật xung quanh qua cảm nhận của cá nhân người viết. Có thể thấy Ngọc Căn là người yêu mến thiên nhiên. Chẳng thế mà hai tập thơ 4 câu có nhan đề ngắn gọn là “Trăng” và “Hoa”. Trăng là vẻ đẹp của vũ trụ, còn hoa là vẻ đẹp của mặt đất. Qua những bài Haiku, Ngọc Căn thể hiện tình yêu trăng của mình: 17. Đang làm thơ/ Sực nhớ rằm/ Ra ngắm trăng. 63
128. Mặt trăng/ Bông hướng dương/ Giữa trời đêm. 22. Tiếc đèn để suốt đêm/ Không ai tiếc?/ Trăng thâu giãi ngoài thềm. Cái ánh trăng giãi ngoài thềm gợi ánh trăng trong ca dao, gợi ánh trăng giãi trên vườn chè trong thơ Nguyễn Bính. Ánh trăng còn có thể gợi nhớ đến câu thơ trong Chinh phụ ngâm: Non Kì quạnh quẽ trăng treo/ Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò trong bài số 25: Mộ viễn chinh/ Đồi hoang/ Trăng. Khi có điện thì trăng bỗng bị lu mờ, hơn thế nữa, trăng bị coi như người dưng trong thơ Nguyễn Duy: “Từ hồi về thành phố/ Quen ánh điện, cửa gương/ Vầng trăng đi qua ngõ/ Như người dưng qua đường” (Ánh trăng). Vì yêu trăng cho nên khi “mất điện” lại vào ngày rằm thì không phải tai hoạ, mà là may mắn, khiến lòng phấn khích vì được nhìn chị Hằng đi bán lụa. 91. Mất điện/ Chị Hằng/ Đi bán lụa 68. Điện mất/ Trăng rằm mênh mông/ Lòng công đang múa. 72. Đêm rằm/ Mất điện/ Thi sĩ trong bị múa tay. Yêu thích trăng, nhưng là vầng trăng trong không gian khoáng đạt, chứ không phải là vầng trăng nhìn từ song sắt quây kín của phần lớn các nhà tầng ở Hà Nội. Nhìn trăng như thế, có khác nào cách ngắm trăng của cụ Hồ khi trong nhà ngục “Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt”? Khác biệt là ở chỗ cụ Hồ bị bắt, bị nhốt vào ngục. Còn bây giờ, người ta tự làm ngục nhốt mình. Phải thế chăng mà tác giả viết: 90. Sân thượng, song sắt/ Ngắm trăng/ Như tù. Về chủ đề hoa, Ngọc Căn cũng có những bài Haiku đáng ghi nhận, suy ngẫm: 36. Mùa xuân/ Đưa cháu đi học/ Được cả mùa hoa Hoa ấy là hoa thật tưng bừng mọi nẻo xuân, ở đâu cũng gặp. Nhưng lại cũng có những bông hoa không tự nhiên, hoa tưởng tượng. Vì rau xanh cũng là các loại cây có những bông hoa. Chẳng hạn rau muống, rau cải, rau súp lơ có hoa muống, hoa cải, hoa súp lơ. Bởi thế mới có chuyện tưởng bất thường: 32. Mắt không loá/ Nhìn quầy rau/ Tưởng quầy hoa. Đây chính là cái nhìn “xuyên thấu” thường gặp trong các bài Haiku Nhật Bản. Hoa là biểu tượng của cái đẹp. Cho nên yêu hoa, yêu người đẹp như hoa. Không tránh khỏi có lúc bất chợt buồn: “151. Em đẹp như hoa/ Buồn/ héo mất thôi”. Nhưng không thể khác là yêu hoa mãi, như yêu vợ, tình yêu chung thuỷ giúp con người bình an: 45. Yêu vợ đến già/ Yêu hoa đến tàn/ Đời ta bình an Và chàng thi sĩ đa tình theo cô nàng mặc áo hoa lưng ong cũng chỉ vì mê cái đẹp: 93. Em mải đạp xe/ Tôi theo lưng ong/ Không! Vườn hoa di động. Vườn hoa di động ấy có bông hoa to nhất, quyến rũ nhất là hoa người! 64
Hoa là niềm an ủi, động viên, vẫy gọi người ta. Hoa quỳnh nở sau mưa thật đẹp, thật lãng mạn vì: 104. Chập tối mưa mát/ Hoa quỳnh nở/ Giấc mơ thơm. Hoa giúp yên tâm đi tiếp đoạn đường xa còn lại: 170. Ngắm hoa/ Đi nốt/ Chặng đường xa. Nặng lòng vì hoa, nên người viết ngậm ngùi khi hoa nở mà không có người đoái trông. Ta hiểu vì sao nhà thơ Nguyễn Hoàng Sơn viết “Đợi mắt nhìn mới nở”: 302. Quê nhà bỏ không/ Bao bông hoa nở/ Không người đoái trông. Và tác giả phải buột kêu lên khi người ta phũ phàng với hoa, phũ phàng với cái đẹp: 203. Hội nghị nửa buổi sáng/ Họp xong hoa vứt ngay/ Cánh tươi giẫy đành đạch. Bài thơ này, nếu chặt chẽ theo tinh thần Haiku Nhật Bản thì nó thuộc loại thơ Senryu vốn là chị em với Haiku. Theo tác giả Lê Thị Bình, một Haijin và cũng là người thông thạo tiếng Nhật thì điểm khác biệt giữa Haiku và Senryu chủ yếu là Haiku thì gợi vẻ đẹp tự nhiên, còn Senryu thì có mục đích trào lộng (warai) và châm biếm (ugachi). (Thơ Senryu và thơ Haiku – trong Kỉ yếu: Toạ đàm thơ Haiku Việt Nam - Nhật Bản lần thứ nhất, tr. 147) Phần 1 của tập thơ “Cánh chim nhỏ lạ” gồm “Thiên nhiên... Thế sự... ”. Phần 2 của tập là “Vui... Thoáng... ”. Có thể nói rằng vì là Haiku Việt, cho nên tác giả cũng không cần phân chia rạch ròi Haiku và Senryu vốn là hai thể thơ chị em tách ra từ “Renga” (Liên ca) của Nhật. Có thể gặp một Ngọc Căn đa dạng, đa thanh trong những khúc Haiku Việt về nhiều cảnh huống, nhiều vấn đề trong cuộc sống hằng ngày vốn vất vả và nhiều nỗi buồn, lắm niềm vui: 8. Cạnh hồ/ Tôi hít vào/ Hồ thở ra Thì ra người với hồ đã nhập làm một để cùng duy trì sự sống bằng việc hít thở. Phải chăng đây là một cách nhập “thiền”? Và cũng vì thế cho nên mới có thể quan niệm “56. Ngồi bên hồ thu/ Không làm thơ/ vẫn là thi sĩ”. Hồ thu là một bài thơ. Người ngồi bên hồ cũng nhiễm lây chất thi sĩ của thiên nhiên. Lại nhớ câu thơ của Chế Lan Viên: “Bài thơ anh, anh viết một nửa thôi/ Còn một nửa để cho mùa Thu làm lấy”. 43. Toà nhà mới dựng xong/ Ta mất/ Một chân trời thăm thẳm. Thì ra cuộc sống không có được mãi. Mà khi được cái này thì phải chịu mất cái kia. Vấn đề là lựa chọn! 86. Cây đa vẫn còn/ Cô lái đò đâu mất/ Lem luốc anh máy phà. Một niềm hoài cổ, thương tiếc vẻ đẹp xưa. Bây giờ có nhiều cầu, con đò ngang trở thành dĩ vãng, cô lái đò cũng biến mất với thời gian. “80. Cầu mọc nhiều, to/ Hiếm dần bến đò/ Thơ Nguyễn Bính thành đặc sản”. 65
Một niềm vui lắm bạn vì “7. Tôi/ Nối khố/ Với sách” cho nên “176. Trên giá đầy sách/ Trước mặt ti vi/ Một mình lắm bạn”. Một nụ cười hài hước giễu mình: 317. Chợt mưa đêm mùa hạ/ Vợ nằm riêng đã già/ Ta thanh tịnh – thăng hoa. Và giễu người: 332. Ra dáng quân tử/ Không ngó đàn bà/ Treo tranh mĩ nữ. Cười giễu sự đời: 333. Vợ già, chồng trẻ/ Chồng trẻ, vợ già/ Hợp lí vì... tiền. Về hình thức thơ, Ngọc Căn chú ý đến vần điệu, đến đối ngẫu, đến tương đồng, tương phản. Anh đã học tập nhiều ở cách thể hiện trong thể loại tục ngữ của dân tộc. Trong tổng số 352 bài, không phải là không có bài còn chưa thật đặc sắc. Nhưng có cả một tập thơ Haiku thì đúng là tác giả đã đem vào bầu thời thi ca “cánh chim nhỏ lạ”! Xin được chúc mừng tác giả cùng Câu lạc bộ thơ Haiku Việt của thành phố Hà Nội! 66
Hoàng Nhuận Cầm Tên khai sinh: Hoàng Nhuận Cầm Sinh ngày 7 tháng 2 năm 1952 Quê quán: Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà Nội Dân tộc: Kinh. Năm 1969 học trường Đại học Tổng hợp. Năm 1971 tình nguyện nhập ngũ vào binh chủng Phòng không – Không quân. Năm 1976 giải ngũ về tiếp tục học đại học. 1981 đến nay từng làm việc ở Hãng Phim truyện Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam. Tác phẩm Thơ tuổi 20 (in chung) 1974 Những câu thơ viết đợi mặt trời, 1983 Xúc xắc mùa thu, 1992 Thơ với tuổi thơ, 2004 Hò hẹn mãi cuối cùng em cũng đến, 2007 36 bài thơ tuyển chọn, 2008 Một số kịch bản phim Lầm lỗi, Đằng sau cánh cửa, Đêm hội Long Trì, Hà Nội – mùa đông 1946, Pháp trường trắng, Ai lên xứ hoa đào, Đoạn trường chiêm bao, Nhà tiên tri, Mùi cỏ cháy. Giải thưởng: Giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ (1972 - 1973) Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1993 (tập thơ Xúc xắc mùa thu). Hò hẹn mãi cuối cùng em cũng đến Hò hẹn mãi cuối cùng em cũng đến Chỉ tiếc mùa thu vừa mới đi rồi Còn sót lại bên bàn bông cúc tím Bốn cánh tàn, ba cánh sắp sửa rơi. Hò hẹn mãi cuối cùng em cũng tới Như cánh chim trong mắt của chân trời Ta đã chán lời vu vơ giả dối Hót lên! Dù đau xót một lần thôi. 67
Chần chừ mãi cuối cùng em cũng nói Rằng bồ câu không chết trẻ bao giờ Anh sợ hãi, bây giờ anh mới nhớ Em hay là cơn bão tự ngàn xa. Quả tim anh như căn nhà bé nhỏ Gió em vào - nếu chán - gió lại ra Hò hẹn mãi cuối cùng em đứng đó Dẫu mùa thu, hoa cúc cướp anh rồi... Lời bình HẸN HÒ LÀ ĐÃ CÓ TÌNH Ý VỚI NHAU. GẶP GỠ TRONG HẸN HÒ LÀ ĐỂ KHỞI ĐẦU CHO MỘT QUÁ TRÌNH GẮN BÓ. CUỘC TÌNH NÀO MÀ CHẲNG PHẢI TRẢI QUA BƯỚC HẸN HÒ. ĐIỀU KHÁC THƯỜNG Ở ĐÂY LÀ CUỘC HẸN NÀY CỨ LẦN LỮA KÉO DÀI, CỨ HOÃN ĐI HOÃN LẠI. NÓ KHÔNG GIỐNG VỚI CUỘC HẸN LỠ MỘT LẦN ĐỂ MÙA XUÂN CŨNG CẠN NGÀY NHƯ TRONG MƯA XUÂN CỦA NGUYỄN BÍNH. HÒ HẸN MÃI NGHĨA LÀ CHÍ ÍT CŨNG DĂM BẢY BẬN. ĐẾN NỖI ĐÃ CÓ THỂ QUÊN, VĨNH VIỄN QUÊN NẾU KHÔNG CÓ CÁI LẦN CUỐI CÙNG EM CŨNG ĐẾN. CÁI TỪ CŨNG Ở ĐÂY KHÔNG THỂ THAY THẾ BẰNG TỪ MỚI, HAY ĐÃ CHẲNG HẠN. BỞI VÌ NÓ LÀ SỰ KỊP THỜI ĐẾN SAU CÁI GIỚI HẠN “CUỐI CÙNG” NGHIỆT NGÃ. Không rõ cuộc hẹn hò bắt đầu từ bao giờ, nhưng thời điểm “cuối cùng” mà em đến là thời điểm lỡ mùa. Mùa thu vừa mới đi rồi. Sự đến của em không kịp với sự ra đi của mùa thu. Chỉ còn một chút hình ảnh sót lại của mùa thu, như một chứng tích về mùa thu đã ở trong căn phòng này, đã cùng chờ cuộc hò hẹn ấy. Nhưng bông hoa cúc ấy cũng đã úa tàn, héo hon vì chờ đợi: Bốn cánh tàn, ba cánh sắp sửa rơi. Người chủ căn phòng cũng đã cùng với bông hoa chờ đợi nên mới tẩn mẩn đếm kĩ cánh hoa tàn và biết cả cái trạng thái “sắp sửa rơi”. Mới hò hẹn thôi, đã có gì sâu nặng đâu. Thế nhưng mỏi mòn chờ đợi đã làm cho chàng trai dằn dỗi: Ta đã chán lời vu vơ giả dối Hót lên! Dù đau xót một lần thôi Thật ra khó mà xác định ai là người nói lời vu vơ, giả dối. Lời hò hẹn mãi kia nhàm chán thành ra lời vu vơ giả dối chăng? Cô gái cứ lần lữa hẹn mà không đến thành ra lời thiêng liêng bỗng hoá trò đùa chăng? Sự vòng vo ngập ngừng mãi qua những lần hẹn không thành của chàng trai chăng? Chỉ biết là lần này phải dứt khoát, phải là hai năm rõ mười. Có vẻ như không khí của đôi trai gái xưa trong ca dao: “Có yêu thì nói rằng yêu. 68
Không yêu thì nói một điều cho xong”. Thế nhưng không thể ngờ tình huống lại đảo ngược như vậy. Hò hẹn mãi, em cũng đến vào thời điểm cuối cùng. Chần chừ mãi, em cũng nói vào thời điểm cuối cùng. Mà là một cách nói hình tượng: Rằng bồ câu không chết trẻ bao giờ Thế là bao nhiêu dằn dỗi, quyết liệt kia bỗng được hoá giải. Không những thế, đang từ thế chủ động lại chuyển thành thế bị động, đang mạnh dạn bỗng thành sợ hãi, dù mới là một dự cảm khi nghe câu nói mà chợt nhớ ra: Anh sợ hãi, bây giờ anh mới nhớ Em hay là cơn bão tự ngàn xa. Nhưng bão thì cũng chỉ là gió lớn mà thôi. Cho nên không phải sợ hãi nhiều. Chàng trai đã đủ bình tĩnh để mời mọc: Quả tim anh như căn nhà bé nhỏ Gió em vào - nếu chán - gió lại ra Điều gì sẽ xảy ra tiếp theo? Em đã vượt qua được quan niệm bồ câu không chết trẻ để bây giờ Hò hẹn mãi cuối cùng em đứng đó. Cơn bão liệu còn khả năng nổi gió được không khi mùa thu đã đi rồi? Những cơn gió mạnh liệu có vào căn nhà quả tim bé nhỏ mở rộng cửa đón mời? Và chàng trai, sau bao nhiêu chờ đợi, cái phút giây gặp gỡ này cũng đã muộn, là quá muộn “Mùa thu hoa cúc cướp anh rồi”! Có thể cướp lại được anh từ mùa thu và hoa cúc chăng? Có thể cướp lại. Nhưng có thể chăng cướp lại được mùa thu khi mùa thu đã ra đi? Có thể chăng cướp lại, làm tươi lại bông hoa cúc “Bốn cánh tàn, ba cánh sắp sửa rơi”?... Khả năng thật mong manh, nhưng chưa phải là hết khả năng. Tình thế chưa phải là tuyệt vọng, nhưng cũng gần tuyệt vọng. Câu hỏi còn để ngỏ cho cả hai người. Nhưng bài học về sự hò hẹn mãi cuối cùng... thì trở thành một bài học cho lứa đôi muôn thuở. 69
Nguyễn Huy Dung (1947 – 2017 ) Họ và tên khai sinh: Nguyễn Huy Dung Năm sinh: 1947. Nguyên quán: Sơn Tây Cử nhân Văn khoa. Công tác ở Ban Văn hoá xã hội, Giám đốc hệ VOV2, Đài Tiếng nói Việt Nam. Mất ở quê nhà ngày 24 – 1 – 2017. Tác phẩm Nguyệt cầm trong bão, 1989 Sau mưa, 1991 Ẩn trong cây, 2010 TÌM NGƯỜI ĐANG ẨN TRONG CÂY (Đọc tập thơ Ẩn trong cây của Nguyễn Huy Dung) Có lẽ nhan đề tập thơ cũng đã nói lên phần nào tính cách của người thơ. Nguyễn Huy Dung là người thích lặng lẽ, thích ẩn mình. Cùng lứa với nhau, xuất hiện sớm trên văn đàn, nhưng Nguyễn Huy Dung in thơ khá cẩn trọng. Cho đến bây giờ, đây là tập thứ ba anh ra mắt độc giả. Nhưng cái tên Nguyễn Huy Dung thì bạn bè vẫn nhớ. Ấy là thi sĩ của những câu thơ phóng khoáng: Đang mùa thu gió se ngoài cánh bãi Chim ngói về rợp phía bờ sông Nhớ Nguyệt cầm Và nhớ Nguyễn Huy Dung là nhớ tiếng nguyệt cầm, nhớ phố Nguyễn Gia Thiều “Trái tim rỏ máu/ cuộc đời mĩ nhân”, nhớ hoa cỏ trắng, nhớ hoa vàng: Mưa xuân bay mơ màng Trên những cánh hoa nhỏ 70
Bản nhạc của đất đai màu mỡ Tấu lên một thời xa trẻ trung... Hoa vàng Nhưng rồi không thấy anh xuất hiện liên tục. Cái tên Nguyễn Huy Dung cứ lẩn khuất đâu đó như là chồi ẩn trong cây, như nhựa ngọt âm thầm nuôi quả; như ẩn trong cây là hoa, là quả, là hương cây nhè nhẹ toả thơm... Khi tập Ẩn trong cây in ra, là khi bạn tôi không còn trẻ. Nhưng tâm hồn thì vẫn phơi phới như độ xuân thì: Tóc đã bạc nắng mưa nhiều dầu dãi Vẫn hồi hộp như cây trước mùa lộc mới Mở tưng bừng say đắm với mưa non Cám ơn người hát tuổi hai mươi Câu thơ trong bài Anh yêu em có lẽ là câu thơ trung thực nhất về tình cảm và tính cách của người thơ: Cả đời anh lặng thầm quyết liệt Tóc hết xanh mà tim vẫn không già Anh yêu em Trẻ trung như thế nên anh mới có thể say mê vẻ đẹp của thiếu nữ xa lạ có đôi giày đỏ trên đường phố Pa-ri: Cái chấm đỏ lung linh hút mắt người đi ... Nụ cười của em lấp lánh sáng Trên đôi môi trẻ tươi ngời rạng Cô gái có đôi giày đỏ Trẻ trung thế nên mặc dù sớm nhận biết “Cuộc đời sao ngắn ngủi sao” (Dạ khúc tuổi 45), nhưng anh vẫn đầy lạc quan, mạnh mẽ: Yêu thương còn dài Còn dài giận dỗi Còn dài vụng dại Còn dài trớ trêu Tôi ngửa cổ uống cạn li mời yêu Chia lửa Trong một bài thơ, nhà thơ cho biết những xúc cảm khi uống rượu của mình: Tôi uống với tôi khi nào vui nhất 71
Tôi uống với tôi khi nào buồn nhất Tôi uống với nửa đời dưới đất Với nửa đời còn lại trần gian Tự bạch 5 Thì ra ngoài những lúc uống với bạn bè, uống khi mời yêu, nhà thơ cũng hay độc ẩm: Một ngọn nến lung linh Một vò rượu thuốc lung linh Một đĩa xanh rau thơm rau húng Độc ẩm thơ vui Người ta thì tìm đến rượu để quên, để mơ, để “dữ ngã đồng tiêu vạn cổ sầu” (cùng với ta tiêu mối sầu vạn cổ), Nguyễn Huy Dung uống rượu khi vui, khi buồn đạt đỉnh và uống nhớ quá khứ, uống vì tương lai... Một thái độ ung dung, cân bằng, lặng lẽ và có phần kín đáo. Có thể thấy thơ anh hay hướng đến những em bé, những người trẻ, đến “má rực hồng nhan sắc tuổi hai mươi”, đến những sớm mai mát mẻ, trong lành... Em bé ơi Cứ thế chạy tung trong nắng mai Con đường cát mịn Dàn hoa bìm tím Quê hương Chị dắt em ra đùa với biển Em bé trần chạy trên sóng trắng Em bé cười với biển hồn nhiên Liên tưởng Những đứa trẻ chân trần trên cát Khuôn mặt ngời bay theo cánh diều lên Ấn tượng Malacca Đây là một sớm mai trong khu tập thể qua bước nhảy và tiếng hát của bé gái trên tầng năm: Buổi sớm long lanh trong mắt Niềm vui dâng trong lời trẻ thơ Tiếng chim sớm mai trong trẻo Hàng cây bên đường nở búp xanh non Sớm mai ao ước 72
Trong thơ của anh không ít những nỗi buồn, nỗi nhớ “một chấm nhớ đêm ngày không chịu nổi” (Sơn Tây), niềm thao thức “với đồng quê đang thức” (Tản mạn đêm mưa), “những kỉ niệm dữ dội/ những kỉ niệm êm đềm/ những kỉ niệm đau đớn” (Hoa vàng), những lo lắng băn khoăn “Lịch sử làng giờ không ai chép/ Trang sách gửi mai sau còn có ai xem” (Nhớ làng). Nhưng niềm vui cuộc sống, niềm lạc quan luôn luôn lấp lánh, luôn ẩn hiện trong những dòng thơ ân tình, đằm thắm. Như là sớm mai trên đồng cỏ Mộc Châu: Giờ là lúc mưa mềm trong dáng núi Cỏ lên xanh như tuổi dậy thì Và cao nguyên xao động dáng bò đi Bóng người thợ đẫm dần trên sắc cỏ Những ban mai trắng ngời dòng sữa Những cuộc đời đang ngấm men say Gửi Mộc Châu Không yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu bạn nồng nàn, không thể viết những câu thơ như thế. Nào giờ thì chúng ta tự mình khám phá bạn tôi - Nguyễn Huy Dung, người đang Ẩn trong cây! 73
Quang Dũng (1921 - 1988) Họ và tên khai sinh: Bùi Đình Dậu Sinh năm 1921. Quê quán: Phương Trì, Đan Phượng, Hà Nội. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ 1957 Mất ngày 4/ 10/ 1988 tại Hà Nội. Tác phẩm Bài thơ sông Hồng, truyện thơ, 1956 Mây đầu ô, thơ, 1986 Mùa hoa gạo, truyện ngắn, 1950 Đường lên Thuận Châu, bút kí, 1964 Nhà đồi, truyện ngắn, 1970 Rừng về xuôi, bút kí Một chặng được Cao Bắc, bút kí, 1983 Thơ văn Quang Dũng, tuyển thơ văn, 1988 Giải thưởng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật đợt 1, 2001. Trò chuyện về bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng PV - Thưa ông, xin được bắt đầu khám phá tác phẩm bằng nhan đề thơ. Tôi được biết là ban đầu tên của tác phẩm là “Nhớ Tây Tiến”, sau đó tác giả đã bỏ chữ “nhớ” và tên bài thơ chỉ còn lại là “Tây Tiến”. Ông có thể chia sẻ một chút về sự thay đổi này? Vũ Nho (V.N.) -Việc đặt tên cho tác phẩm nhiều khi cũng như đặt tên cho con. Có cái tên đặt rồi, sau người đặt không ưng lại đặt lại. Đặt tên lại cho con thì phải có đơn từ, trình báo với Công an hộ khẩu. Đặt tên lại cho tác phẩm thì chỉ cần tác giả tự sửa rồi đưa vào tập thơ. Với trường hợp của Quang Dũng, theo tôi biết thì không phải là duy nhất. 74
Hàn Mặc Tử đặt tên đầu tiên cho bài thơ Đây thôn Vĩ Giạ là Ở đây thôn Vĩ Giạ; Nguyễn Đình Thi viết bài thơ Đất nước lúc đầu đặt tên là bài Sáng mát trong như sáng năm xưa, sau đó viết thêm bài Đêm mít tinh và gộp hai bài thơ lại và viết thêm rồi đổi tên thành bài Đất nước. Quang Dũng viết Nhớ Tây Tiến rồi bỏ chữ “Nhớ” đi chỉ còn lại Tây Tiến. Đành rằng cả bài thơ là một nỗi nhớ lớn về Tây Tiến. Nhưng theo tôi, bỏ chữ “Nhớ” đi, nhan đề gọn hơn. Mặt khác, không chỉ có nỗi nhớ, mà ở đấy còn có sự ngợi ca, sự tôn vinh những chiến sĩ Tây Tiến. Có thêm “Nhớ” hoá ra lại thu hẹp mạch cảm xúc của bài thơ. PV- Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!/ Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi. Nhớ về đồng đội là nỗi nhớ khá thường trực ở nhiều người chiến sĩ và nhiều nhà thơ đã viết về nó. Như “Nhớ” của Hồng Nguyên, “Đồng chí” của Chính Hữu. Nhưng, tôi hiếm thấy ai gọi tên đoàn quân của mình tha thiết đến thế, gọi tên được nỗi nhớ của mình thành hình như Quang Dũng: “Nhớ chơi vơi”. Tôi nghĩ điều này hẳn phải xuất phát từ một tình cảm hết sức mãnh liệt của nhà thơ? V.N. - Chắc chắn là như vậy. Nhưng chúng ta cũng cần biết thêm rằng đơn vị Tây Tiến mà Quang Dũng gắn bó không phải trong thời gian dài. Khoảng hơn một năm từ 1947 đến 1948. Thời gian tuy ngắn, nhưng có lẽ cuộc chiến đấu gian khổ và hi sinh anh dũng của đồng đội đã gây ấn tượng mạnh cho người đại đội trưởng kiêm phó đoàn võ trang tuyên truyền Lào Việt. Chính vì thế mà khi xa, nỗi nhớ trào lên. Nỗi nhớ đơn vị đã thôi thúc Quang Dũng và người đại đội trưởng ấy đã viết “rất nhanh” bài thơ trong khi tham dự Đại hội toàn quân ở Phù Lưu Chanh và đọc trước Đại hội, được mọi người hoan nghênh nhiệt liệt. Nhớ chơi vơi là một đóng góp mới của Quang Dũng bên cạnh những nhớ bổi hổi bồi hồi, nhớ ngẩn ngơ của ca dao (Nhớ ai bổi hổi bồi hồi/ Như đứng đống lửa như ngồi đống than. Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ/ Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai); nhớ “day dưa” của thơ hiện đại (Hoa cúc vàng như nỗi nhớ day dưa- Tế Hanh). PV - Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi/ Mường Lát hoa về trong đêm hơi/ Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm/ Heo hút cồn mây súng ngửi trời/ Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống/ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi. Tôi thấy hiếm có đoạn thơ nào mà nối kết nhau bằng nhiều hình ảnh, điệp trùng hình ảnh và nhạc điệu như đoạn thơ trên. Ông có cùng ý kiến với tôi không và ông có thể chia sẻ vẻ đẹp núi rừng Tây Bắc được tái hiện qua nỗi nhớ của người chiến sĩ Tây Tiến? V.N. - Tôi hoàn toàn đồng ý với cảm nhận của bạn. Nhưng cũng xin góp thêm một đôi điều thú vị về từ ngữ dùng rất táo bạo: sương lấp. Thường thì người ta nói sương che, sương phủ, sương ướt. Nhưng sương lấp là sương rất nhiều, rất dày, sương rất mạnh, lấp cả đoàn quân. Rồi cái đêm hơi ở Mường Lát cũng thật lạ. Tôi có may mắn đến Mường Lát của Thanh Hoá trong một chuyến công tác. Cũng cố tò mò hình dung “đêm hơi” là đêm như thế nào? Đêm sương chăng? Đêm sương loãng chăng? Đêm sương khói chăng? Đêm mịt mờ hơi nước chăng? Tôi không cảm nhận được, nhưng đêm hơi là cái đêm riêng trong thơ Quang Dũng rất ấn tượng. Hình ảnh dốc núi thì thật hùng vĩ và độc đáo: 75
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Từ khúc khuỷu đặt giữa câu thơ cho ta cảm nhận cái quanh co hiểm trở của dốc. Mà dốc cao lắm cho nên mới thăm thẳm. Câu thơ bảy chữ thì đã có 5 chữ vần trắc như cái sự ngoằn ngoèo gập ghềnh của con dốc. Heo hút cồn mây, súng ngửi trời Câu thơ cho người đọc hình dung độ cao chót vót đến mức cồn mây mây heo hút, xa vắng, đơn độc. Đến độ cao ấy thì súng có thể chạm trời, có thể ngửi thấy mùi trời. Với độ cao ngàn thước lên và xuống như vậy, cho nên khi xuống hết ngàn thước thì câu thơ toàn vần bằng như một khoảng mở, như một sự sung sướng thở dài khoan khoái sau khi vượt dốc: Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Câu thơ vang ngân đọc thật thích mà nghe càng thích! PV - Còn rất nhiều những hình ảnh thơ đẹp về thiên nhiên Tây Bắc trong bài thơ? Ông có thể lẩy ra một vài hình ảnh và bình luận về nó? Ông có nhận xét gì về tâm hồn người lính Tây Tiến – Quang Dũng qua việc cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên núi rừng Tây Bắc? (V.N.) - Đúng như bạn nhận xét. Những hình ảnh thơ đẹp về thiên nhiên và con người Tây Bắc còn thể hiện ở những câu thơ khác. Chẳng hạn: Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi Có đường nét, có hình ảnh cơm lên khói; có mùi thơm xôi nếp, có hình ảnh người em gái Mai Châu nấu xôi cho chiến sĩ. Xin nói thêm, mùi xôi nếp Tây Bắc vô cùng ấn tượng. Chả thế mà Chế Lan Viên cũng viết: Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch/ Bữa xôi đầu còn toả nhớ mùi hương (Tiếng hát con tàu). Hoặc hình ảnh này: Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa Sương, lau, độc mộc, nước lũ là những hình ảnh thân quen đặc biệt Tây Bắc, rất Tây Bắc đẹp và thơ. Người lính Tây Tiến Quang Dũng, người đại đội trưởng Tây Tiến Quang Dũng tài hoa và mơ mộng đã đưa vào thơ những vẻ đẹp rất Tây Bắc. Cũng như nhà thơ Tố Hữu đã khắc hoạ hình ảnh người chiến sĩ trong khung cảnh đèo dốc núi: Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều Bóng dài in đỉnh dốc cheo leo 76
Núi không đè nổi vai vươn tới Lá nguỵ trang reo với gió đèo Lên Tây Bắc Sau này, nhà thơ Tố Hữu đã ghi lại những hình ảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc rất đặc sắc trong bài thơ Việt Bắc. PV - Vẻ đẹp của người lính Tây Tiến không chỉ được Quang Dũng miêu tả gián tiếp qua vẻ đẹp thiên nhiên Tây Bắc, mà còn được ông mô tả một cách trực tiếp: Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc/ Quân xanh màu lá dữ oai hùm/ Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/ Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm/ Rải rác biên cương mồ viễn xứ/ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh/ Áo bào thay chiếu anh về đất/ Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Tôi nghĩ ở đây có một cách mô tả, một cách nhìn về người lính khá đặc biệt. Ông có thể nói về cách mô tả này của nhà thơ Quang Dũng không? (So sánh với hình ảnh người lính trong “Nhớ” của nhà thơ Hồng Nguyên và “Đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu) V.N.- Bạn nhận xét rất đúng. Ở đây chúng ta nói đến cách mô tả, cách nhìn người lính đặc biệt. Nhưng cần phải nhấn mạnh sự đặc biệt này xuất phát từ ở cả hai phía: Đối tượng được mô tả và người mô tả. Trong bài Nhớ của Hồng Nguyên, các chiến sĩ hầu hết là nông dân, chưa biết chữ: Lũ chúng tôi Bọn người tứ xứ Gặp nhau hồi chưa biết chữ ... Áo vải chân không Trong bài Đồng chí của Chính Hữu, chiến sĩ cũng là nông dân: Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Trong khi đó, đơn vị Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, trí thức như Quang Dũng. Như thế đối tượng mô tả của Quang Dũng trong Tây Tiến cũng khác với đối tượng của bài Nhớ và bài Đồng chí. Mặt khác, Quang Dũng là một thanh niên trí thức đi kháng chiến với ảnh hưởng sách vở, của hào khí lãng mạn. Quang Dũng kể rằng khi đi Tây Tiến, ông vẫn mang cuốn Ta- rat Bun-ba của Gô-gôn theo và rất ngưỡng mộ những chiến binh Cô dắc dũng cảm, yêu tự do, sống phóng khoáng. Có lẽ vì thế mà hình ảnh chiến sĩ Tây Tiến đã được miêu tả với bút pháp lãng mạn, hào hùng: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc 77
Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Những chàng trai trong bài Nhớ của Hồng Nguyên hoặc còn chờ độc lập mới lấy vợ, hoặc nhớ người vợ trẻ mòn chân bên cối gạo canh khuya. Còn trong bài Đồng chí của Chính Hữu thì họ nhớ cô thôn nữ bên “giếng nước, gốc đa” của làng quê. Các chàng trai Tây Tiến thì mơ mộng thiếu nữ Hà Nội “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Sự hi sinh của chiến sĩ Tây Tiến cũng thật thanh thản và can trường như bóng dáng các chinh phu xưa trong thơ ca cổ điển: Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành Người anh hùng xưa “giã nhà đeo bức chiến bào” và ngã xuống sa trường lấy da ngựa bọc thây, hoặc về đất với chiến bào. Chiến sĩ Tây Tiến không có chiến bào thì thay bằng chiếu. Cái chết vì tổ quốc thật thiêng liêng và bi tráng.Cái chết làm cảm động cả thiên nhiên, đất trời, sông núi. Cho nên đưa tiễn anh là dòng sông Mã “gầm lên khúc độc hành”. Quang Dũng đã miêu tả vừa hiện thực, vừa lãng mạn sự chiến đấu hi sinh hào hùng của các chiến sĩ Tây Tiến. PV - Tây Tiến người đi không hẹn ước/ Đường lên thăm thẳm một chia phôi/ Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy/ Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi. Đọc bài thơ Tây Tiến, nhất là những câu thơ cuối này, tôi có cảm giác mình đang sống trong không khí “Phong tiêu tiêu hề, Dịch Thuỷ hàn/ Tráng sĩ nhất khứ hề, bất phục hoàn” của Kinh Kha xưa? Ông có cảm giác giống tôi không? Và ông có bình luận gì về 2 câu cuối của bài thơ? V.N. - Tôi nghĩ đó là một cảm giác tinh tế, một so sánh thích hợp. Tôi không liên tưởng xa đến thế. Vì dẫu sao thì Kinh Kha cũng là một thích khách Trung Hoa đơn độc. Tôi thì tôi thấy các chiến sĩ Tây Tiến này gần hơn với hình ảnh li khách trong Tống biệt hành của Thâm Tâm: Li khách! Li khách! Con đường nhỏ Chí nhớn chưa về bàn tay không Thì không bao giờ nói trở lại! Họ cũng gần gũi với người anh em trong Đồng chí: Gian nhà không mặc kệ gió lung lay 78
Quyết tâm của họ ra đi là chỉ có hoàn thành nhiệm vụ, chỉ có chiến thắng, chỉ đến đích là tiến về phía Tây, đến Sầm Nứa của nước bạn Lào, chứ không thể quay về xuôi, không rút lui về lại nơi xuất phát. PV- Vâng! Thưa quý vị và các bạn, để hiểu hơn vẻ đẹp của bài thơ cũng như vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ Quang Dũng xin mời Tiến sĩ Vũ Nho cùng quý vị khán giả xem một phóng sự ngắn của chúng tôi. PV - Vâng! Xin được quay trở về với bài thơ “Tây Tiến” và đi sâu vào phần nghệ thuật của tác phẩm. Tôi nhận thấy, trong bài thơ, từ “nhớ” được lặp đi lặp lại nhiều lần với các biến thái như “nhớ về”, “nhớ chơi vơi”, “nhớ ôi!” rồi “có nhớ”. Theo ông, điều này mang lại hiệu quả thẩm mĩ gì cho bài thơ? V.N.- Như đã nói ở phần đầu, bài thơ được viết trong nỗi nhớ Tây Tiến. Trong bài, có nhiều từ “nhớ” là điều tất nhiên. Những biến thái “nhớ về”, “nhớ chơi vơi”, “nhớ ôi”, “có nhớ” như những nốt nhấn trong một hợp âm, như điệp khúc nhớ trong bản nhạc thể hiện cao trào tình cảm tha thiết của tác giả với đơn vị Tây Tiến của mình. Những nỗi nhớ khác nhau hợp thành nỗi nhớ lớn, như suối nhỏ chảy thành sông dài khiến cho tính chất hoài niệm trở thành dòng cảm xúc chủ đạo của toàn bài. PV- Có người cho rằng ở bài thơ “Tây Tiến” Quang Dũng đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp lãng mạn và bút pháp hiện thực, ông có chia sẻ gì về ý kiến này? V.N.- Đó là ý kiến khá thống nhất của nhiều nhà nghiên cứu. Chính Quang Dũng trong câu chuyện của mình cũng khẳng định những yếu tố hiện thực như “mở rừng, ngủ rừng. Những cái dốc thăm thẳm “Heo hút cồn mây súng ngửi trời” những chiều “oai linh thác gầm thét”, những đêm “Mường Hịch cọp trêu người”; rồi rải rác dọc biên cương những nấm “mồ viễn xứ”... tôi mô tả trong bài thơ Tây Tiến là rất thực... ” (Nhớ về Tây Tiến – trong Nhà văn nói về tác phẩm, Hà Minh Đức biên soạn, Nxb Văn học 1998, tr. 155). Những hình ảnh lãng mạn như: Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói/ Mai Châu mùa em thơm nếp xôi. Hoặc Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa/ kìa em xiêm áo tự bao giờ... Đặc biệt là hình ảnh các chiến sĩ vừa oai hùng vừa mộng mơ: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Chất hiện thực và lãng mạn đã làm cho bài thơ có gian khổ, mất mát, hi sinh nhưng cũng tràn đầy niềm lạc quan, khoẻ khoắn; giọng thơ vừa chân thành vừa bi tráng, hào hùng, phản ánh hào khí và chất lãng mạn một thời gắn với lịch sử kháng chiến anh dũng của dân tộc. PV - Có thể nói thế này chăng: “Tây Tiến” là một tượng đài bằng thơ để tưởng nhớ những người lính Tây Tiến. Nhờ có “Tây Tiến” của Quang Dũng mà đoàn quân Tây 79
Tiến đã được biết đến, được nhớ đến, được sống mãi trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc. Ông có nhận xét gì về điều này? V.N.- Tôi tán thành cách nói của bạn. Tự nhiên tôi liên tưởng đến mấy câu thơ của nhà thơ Hữu Thỉnh trong kháng chiến chống Mĩ: Không có sách chúng tôi làm ra sách Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình Những người lính đã “ghi lấy cuộc đời mình” từ trong kháng chiến chống Pháp. Tất nhiên, thơ ca không phải là tất cả, nhưng thơ ca là một chứng tích lịch sử. Nhờ thơ ca mà lịch sử sinh động hơn, cụ thể hơn. Mới đây nhất, trên báo mạng đưa tin tại Mai Châu, Hoà Bình đã dựng xong đài tưởng niệm Tây Tiến. Mười câu thơ của bài Tây Tiến được khắc vào bia tưởng niệm. Quang Dũng đã góp phần làm cho Tây Tiến sống mãi trong lòng bạn đọc. Đặc biệt là khi bài thơ được đưa vào chương trình Ngữ văn 12. Tây Tiến sẽ được lớp lớp bạn trẻ nhắc đến trong những giờ học của mình. Và buổi trò chuyện của chúng ta hôm nay cũng là... quảng bá cho Tây Tiến. PV - Nếu phải lí giải một cách ngắn gọn nhất vì sao Tây Tiến lại có sức sống lâu, sống bền trong lòng nhiều bạn đọc yêu thơ, ông sẽ nói gì? V.N.- Thật là một câu hỏi khó. Nhưng cũng nên nhắc lại rằng, một thời gian dài, Tây Tiến bị xem là “còn rơi rớt chất lãng mạn tiểu tư sản” nên bài thơ ít được nhắc đến. Nhưng nó vẫn sống trong trái tim trí nhớ của những người yêu thơ. Bây giờ thì Tây Tiến được khắc vào bia, được đưa vào sách giáo khoa. Một tác phẩm khi đã thành kiệt tác thì chắc chắn sẽ trở thành bất tử. PV – Xin cám ơn nhà phê bình văn học về buổi trò chuyện này! Những nét độc đáo trong bài thơ kiệt tác Tây Tiến của Quang Dũng Nhân Hội thảo về thơ Quang Dũng, tôi muốn trình bày những nét độc đáo trong bài thơ kiệt tác Tây Tiến, hiện có trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thông ở cả hai bộ sách nâng cao và không nâng cao. 1. Đơn vị nhỏ nhưng mãi mãi đi vào lịch sử Tây Tiến chỉ là một đơn vị nhỏ cỡ Trung đoàn. Trung đoàn 52 Tây Tiến thành lập tháng 2 năm 1947. Trong những ngày bi tráng đơn vị đã có gần 200 chiến sĩ hi sinh chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh. Nhưng Tây Tiến có nhà thơ và là người chỉ huy Quang Dũng nên Tây Tiến đã đi vào lịch sử và nổi tiếng nhờ bài thơ kiệt tác. Nhà thơ Vân Long cho biết chúng ta đã có cuộc kỉ niệm 60 năm bài thơ Tây Tiến ra đời. Chưa từng có bài thơ nào lại vinh dự được kỉ niệm ngày sinh như vậy. Và điều đặc biệt là đài tưởng niệm Trung đoàn Tây Tiến, 10 câu thơ quan trọng nhất của bài được khắc vào nền bia. Những người chiến sĩ áo lính đã dùng thơ để viết lịch sử của đơn vị mình. Hiện tượng Tây Tiến gợi nhớ câu thơ của Hữu Thỉnh: Không có sách chúng tôi làm ra sách 80
Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình. Quả là một truyền thống độc đáo của những người lính cụ Hồ trong mọi thời chống giặc. 2. Thay đổi tên nhưng cảm xúc không đổi Việc đặt tên cho tác phẩm nhiều khi cũng như đặt tên cho con. Có cái tên đặt rồi, sau người đặt không ưng lại đặt lại. Đặt tên lại cho con thì phải có đơn từ, trình báo với Công an hộ khẩu. Đặt tên lại cho tác phẩm thì chỉ cần tác giả tự sửa rồi đưa vào tập thơ. Với trường hợp của Quang Dũng, theo tôi biết thì không phải là duy nhất. Hàn Mặc Tử đặt tên đầu tiên cho bài thơ Đây thôn Vĩ Giạ là Ở đây thôn Vĩ Giạ; Nguyễn Đình Thi viết bài thơ Đất nước lúc đầu đặt tên là bài Sáng mát trong như sáng năm xưa, sau đó viết thêm bài Đêm mít tinh và gộp hai bài thơ lại và viết thêm rồi đổi tên thành bài Đất nước. Quang Dũng viết Nhớ Tây Tiến rồi bỏ chữ “Nhớ” đi chỉ còn lại Tây Tiến. Đành rằng cả bài thơ là một nỗi nhớ lớn về Tây Tiến. Nhưng theo tôi, bỏ chữ “Nhớ” đi, nhan đề gọn hơn. Mặt khác, không chỉ có nỗi nhớ, mà ở đấy còn có sự ngợi ca, sự tôn vinh những chiến sĩ Tây Tiến. Có thêm “Nhớ” hoá ra lại thu hẹp mạch cảm xúc của bài thơ. Tuy đổi tên, nhưng nỗi nhớ trong bài thơ vẫn là một nét chủ đạo, quán xuyến. Trong bài, có nhiều từ “nhớ” là điều tất nhiên. Bởi vậy chúng ta sẽ bắt gặp nhiều trạng thái nhớ. Những biến thái “Nhớ về”, “nhớ chơi vơi”, “nhớ ôi”, “có nhớ” như những nốt nhấn trong một hợp âm, như điệp khúc nhớ trong bản nhạc thể hiện cao trào tình cảm tha thiết của tác giả với đơn vị Tây Tiến của mình. Những nỗi nhớ khác nhau hợp thành nỗi nhớ lớn, như suối nhỏ chảy thành sông dài khiến cho tính chất hoài niệm trở thành dòng cảm xúc chủ đạo của toàn bài. Điều đáng nói là Quang Dũng đã góp vào thơ ca Việt một “kiểu nhớ” mới: nhớ chơi vơi! Nhớ chơi vơi là một đóng góp mới của Quang Dũng bên cạnh những nhớ bổi hổi bồi hồi, nhớ ngẩn ngơ của ca dao (Nhớ ai bổi hổi bồi hồi/ Như đứng đống lửa như ngồi đống than. Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ/ Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai); nhớ “day dưa” của thơ hiện đại (Hoa cúc vàng như nỗi nhớ day dưa- Tế Hanh). 3. Lãng mạn và hiện thực Bài thơ Tây Tiến rất thành công nhờ kết hợp hài hoà bút pháp lãng mạn và hiện thực. Nếu chỉ có hiện thực trần trụi, chắc Tây Tiến không thể có sức cuốn hút mạnh mẽ. Nhưng nếu chỉ có toàn chất lãng mạn, thì Tây Tiến cũng khó mà được chấp nhận. (Về sau có nhiều lí do khiến bài thơ này không được phổ biến, mà quan trọng là người ta đã gán cho nó tính chất lãng mạn tiểu tư sản!). Chính Quang Dũng trong câu chuyện của mình cũng khẳng định những yếu tố hiện thực như “mở rừng, ngủ rừng. Những cái dốc thăm thẳm “Heo hút cồn mây súng ngửi trời” những chiều “oai linh thác gầm thét”, những đêm “Mường Hịch cọp trêu người”; rồi rải rác dọc biên cương những nấm “mồ viễn xứ”... tôi mô tả trong bài thơ Tây Tiến là rất thực... ” (Nhớ về Tây Tiến – trong Nhà văn nói về tác phẩm, Hà Minh Đức biên soạn, Nxb Văn học 1998, tr. 155). Những hình ảnh lãng mạn như: Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên 81
khói/ Mai Châu mùa em thơm nếp xôi. Hoặc Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa/ kìa em xiêm áo tự bao giờ... Đặc biệt là hình ảnh các chiến sĩ vừa oai hùng vừa mộng mơ: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Chất hiện thực và lãng mạn đã làm cho bài thơ có gian khổ, mất mát, hi sinh nhưng cũng tràn đầy niềm lạc quan, khoẻ khoắn; giọng thơ vừa chân thành vừa bi tráng, hào hùng, phản ánh hào khí và chất lãng mạn một thời gắn với lịch sử kháng chiến anh dũng của dân tộc. 4. Những hình ảnh thơ độc đáo mới mẻ Hình ảnh dốc núi thì thật hùng vĩ và độc đáo: Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Từ khúc khuỷu đặt giữa câu thơ cho ta cảm nhận cái quanh co hiểm trở của dốc. Mà dốc cao lắm cho nên mới thăm thẳm. Câu thơ bảy chữ thì đã có 5 chữ vần trắc như cái sự ngoằn ngoèo gập ghềnh của con dốc. Heo hút cồn mây, súng ngửi trời Câu thơ cho người đọc hình dung độ cao chót vót đến mức cồn mây heo hút, xa vắng, đơn độc. Đến độ cao ấy thì súng có thể chạm trời, có thể ngửi thấy mùi trời. Với độ cao ngàn thước lên và xuống như vậy, cho nên khi xuống hết ngàn thước thì câu thơ toàn vần bằng như một khoảng mở, như một sự sung sướng thở dài khoan khoái sau khi vượt dốc: Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Câu thơ vang ngân đọc thật thích mà nghe càng thích! Những hình ảnh thơ đẹp về thiên nhiên và con người Tây Bắc còn thể hiện ở những câu thơ khác. Chẳng hạn: Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi Có đường nét, có hình ảnh cơm lên khói; có mùi thơm xôi nếp, có hình ảnh người em gái Mai Châu nấu xôi cho chiến sĩ. Xin nói thêm, mùi xôi nếp Tây Bắc vô cùng ấn tượng. Chả thế mà Chế Lan Viên cũng viết: Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch/ Bữa xôi đầu còn toả nhớ mùi hương (Tiếng hát con tàu). Hoặc hình ảnh này: Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc 82
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa Sương, lau, độc mộc, nước lũ là những hình ảnh thân quen đặc biệt Tây Bắc, rất Tây Bắc đẹp và thơ. Người lính Tây Tiến Quang Dũng, người đại đội trưởng Tây Tiến Quang Dũng tài hoa và mơ mộng đã đưa vào thơ những vẻ đẹp Tây Bắc. Nhà thơ Tố Hữu cũng đã khắc hoạ hình ảnh người chiến sĩ trong khung cảnh đèo dốc núi miền Tây: Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều Bóng dài in đỉnh dốc cheo leo Núi không đè nổi vai vươn tới Lá nguỵ trang reo với gió đèo Lên Tây Bắc Nhưng những hình ảnh ấn tượng nhất trong thơ Tố Hữu là hình ảnh núi rừng Việt Bắc trong bài thơ Việt Bắc. Còn hình ảnh Tây Bắc là sáng tạo độc quyền mang tên Quang Dũng. Hình ảnh đẹp và ấn tượng nhất là hình ảnh các chiến sĩ Tây Tiến (Dù đã trích ở trên, tôi vẫn một lần nữa trích lại): Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Những chàng trai trong bài Nhớ của Hồng Nguyên hoặc còn chờ độc lập mới lấy vợ, hoặc nhớ người vợ trẻ mòn chân bên cối gạo canh khuya. Còn trong bài Đồng chí của Chính Hữu thì họ nhớ cô thôn nữ bên “giếng nước, gốc đa” của làng quê. Các chàng trai Tây Tiến có khác. Họ mơ mộng thiếu nữ Hà Nội “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. 5. Những sáng tạo độc đáo Ngoài hình ảnh những chiến sĩ Tây Tiến làm quân thù khiếp sợ, hình ảnh Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ, đầy chất thơ, trong bài thơ, tác giả đã dùng những hình ảnh, những cảm giác mới lạ. Đôi chỗ chỉ có thể cảm, hiểu mà khó cắt nghĩa rạch ròi như nỗi nhớ nhớ chơi vơi, hoặc đêm hơi trong Mường Lát hoa về trong đêm hơi; hoặc nữa mùa em thơm nếp xôi trong Mai Châu mùa em thơm nếp xôi; và tiếp nữa là Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Nhà thơ Phan Quế từng bình: “Câu thơ như một tuyệt bút thiên nhiên về sông Mã. Tôi chưa đọc thấy câu thơ nào viết về con sông này hay hơn thế. Âm vang của câu thơ là khí tiết của con sông chiến trận, quả cảm và dũng mãnh trong độc khúc binh lửa của mình mà tạo nên chất hiệp sĩ của tứ thơ” (Đài tưởng niệm thơ Tây Tiến). Tôi muốn nói thêm rằng trong cảm xúc của Quang Dũng, dòng sông của đất nước, quê hương như cũng xúc 83
động, gầm lên tiễn đưa những người con vinh quang của tổ quốc hi sinh thiêng liêng, bi tráng! 6. Tây Tiến bất tử Cũng nên nhắc lại rằng, một thời gian dài, Tây Tiến bị xem là “còn rơi rớt chất lãng mạn tiểu tư sản” nên bài thơ ít được phổ biến. Nhưng nó vẫn sống trong trái tim trí nhớ của những người yêu thơ. Mới đây nhất, trên báo mạng đưa tin tại Mai Châu, Hoà Bình đã dựng xong đài tưởng niệm Tây Tiến. Mười câu thơ của bài Tây Tiến được khắc vào bia tưởng niệm. Quang Dũng đã góp phần làm cho Tây Tiến sống mãi trong lòng bạn đọc. Đặc biệt là khi bài thơ được đưa vào chương trình Ngữ văn 12. Tây Tiến sẽ được lớp lớp bạn trẻ nhắc đến trong những giờ học của mình. Kiệt tác Tây Tiến chắc chắn sẽ bất tử. 84
Vân Đài (1903 - 1964) Họ và tên khai sinh: Đào Thị Minh Sinh ngày 19 tháng 1 năm 1903 Quê quán: Hà Nội Dân tộc: Kinh Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ 1957. Mất ngày 31 tháng 12 năm 1964 tại Hà Nội. Tác phẩm Hương xuân, thơ, in chung, 1943 Về quê mẹ, thơ, 1960 Mùa hái quả, thơ, 1966 VÂN ĐÀI VƯỢT LÊN ĐẾN MÙA HÁI QUẢ Vân Đài là một trong năm nhà thơ nữ có tên trong Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh. Chị cũng là một trong bốn gương mặt nữ trong tập thơ Hương Xuân, một tập thơ phái nữ đầu tiên trên thi đàn dân tộc. Khi viết về Vân Đài trong Thi nhân Việt Nam, nhà phê bình Hoài Thanh nhận xét: “Chọn thơ Vân Đài tôi phân vân quá. Bài nào cũng được. Không có gì sâu sắc. Vân Đài là một người chơi thơ. Nhưng lời thơ bao giờ cũng nhẹ nhàng êm ái. Ít khi tiếng Nam có vị ngọt ngào như thế. Ấy cũng vì Vân Đài chỉ ưa nói những gì rất mong manh, rất bình yên”. Rõ là Hoài Thanh chê không ít, nhưng cũng khá hào phóng lời khen, chủ yếu là khen lời thơ. Khoan hãy nói tới sự chính xác trong cảm nhận của nhà phê bình. Chỉ biết rằng nếu có phần nào đúng, thì chỉ là đúng với thơ Vân Đài trước Cách mạng mà thôi. Lúc ấy (1941) Vân Đài mới có một số bài trong tổng số 48 bài thơ vui buồn nho nhỏ. Cũng giống như các nhà thơ trước Cách mạng, người thơ Vân Đài thường bâng khuâng với những tình cảm lãng mạn. Hình ảnh chinh phu, chinh nhân, hành nhân và những cuộc biệt li thường phảng phất. Và cũng phảng phất luôn cái điệu buồn của thơ cổ: Lặng nghe tiếng địch li đình thổi Vang cả trời mây nỗi nhớ nhung Người đi Nữ sĩ đã thật tinh tế và dịu dàng lắng nghe tiếng đêm và hình dung: Tưởng hồn thu thảo trong khuya vắng 85
Rủ rỉ cùng hoa nói chuyện đời Tiếng đêm Thời ấy, chẳng riêng gì Vân Đài, Ngân Giang, Hằng Phương, Mộng Tuyết cũng đều mộng, đều mơ, tuy mức độ có đậm nhạt khác nhau. Vân Đài mơ: “Hồn mơ dáng núi từng cơn khói”. Vân Đài mộng: “Mây gió biên thuỳ mộng cố hương” (Giữa đường). Và mơ mộng, gửi tình, gửi lòng trong trạng thái cô đơn, trống vắng giữa thiên nhiên rợn ngợp: Trông núi, núi buồn ngơ ngẩn đứng Tìm xuân, xuân cũng lạnh lùng trôi Đảo vắng xa xôi Tuy nhiên, trong sự dịu dàng yểu điệu của người thơ chỉ ưa nói những gì mong manh, bình yên là một nét cứng cỏi không ngờ như đoá hồng mai mỏng mảnh: Chớ rằng yểu điệu loài hoa cỏ Gió rét thi gan với bách tòng Hồng mai Sự giác ngộ lí tưởng đã làm cho người phụ nữ như bông mai hoa cỏ ấy trở thành tùng bách. Khác nào Từ ấy trong trái tim người thanh niên Tố Hữu năm nào: “Một ánh chớp, hồn ta như loé sáng” (Trà Vinh thương nhớ). Cách mạng tháng Tám thành công, Vân Đài đã một lòng theo kháng chiến và cống hiến nhiều cho Cách mạng, cho thơ. “Chị vào bộ đội Việt Bắc, Chị làm cán bộ xã ở Thái Nguyên. Chị tham gia cách mạng ruộng đất. Chị làm báo Phụ nữ Việt Nam, báo Văn học. Tuổi của thơ thật khác tuổi người. Cách mạng, văn học cách mạng như gió xuân phơi phới vào nghệ thuật của chị” (Anh Thơ - Lời giới thiệu Mùa hái quả). Từ một người vợ ông chủ sự vô tuyến điện, một người chơi thơ, Vân Đài trở thành một cán bộ kháng chiến, một nhà thơ của chế độ mới. Đó là một cuộc đổi thay lớn mà chị đã vượt lên một cách kiên trì, bền bỉ. Thơ kháng chiến của Vân Đài là một tiếng thơ khoẻ khoắn, tươi tắn. Vân Đài viết ca dao, viết diễn ca, làm thơ ca ngợi sinh hoạt kháng chiến. Lớp học i tờ bình dân, những gánh gạo dân công góp vào chiến dịch, gửi áo ấm cho chiến sĩ, những đêm hành quân, những người chiến sĩ nuôi quân được phản ánh trong thơ Vân Đài với sắc thái riêng của một cây bút nữ. Đây là hình ảnh của nhà thơ hay cũng là hình ảnh của các chị em tham gia cán bộ kháng chiến: Khăn mỏ quạ đội đầu Che đôi mắt quầng sâu Má hồng cơn sốt rét 86
Áo vá bạc màu nâu Tình cờ Có không ít những người phụ nữ mà cả gia đình tham gia kháng chiến như nhà chị, nhưng có điều khác là người bộ đội áo vàng ấy còn tham gia kháng chiến bằng thơ: Mẹ áo ngắn trong hậu quân từng bữa Cánh cửa thay bàn, gà gáy viết thơ ca Con theo quân dồn dập khắp khu mười Chồng yên ngựa ngược xuôi rừng Tây Bắc Mười năm kháng chiến Vân Đài say sưa ghi lại hình ảnh lớp học i tờ trong rừng khuya mà cô giáo là cô bộ đội “Khi đi theo suối, khi về theo trăng” (Rừng khuya). Chị ghi lại những hình ảnh sinh hoạt kháng chiến thật sôi nổi, hồn nhiên: Phiên chợ “Rừng quanh” rộn rịp người Hồng cam đỏ chín, chuối vàng tươi Bên kia gà vịt, đây đường đậu Bột khuấy chè lam, mật mía lùi ... Xúm xít dân quân ngồi mấy dãy Sân đình mây trắng đỏ cờ son Mấy anh lính trẻ cười như phá “Đời cứ tươi” lên, đạn cứ giòn Giữa rừng Hình ảnh chị em nuôi quân thật sinh động: Tiền quân chưa quá bến Hậu quân sát theo chân Chị em đoàn cấp dưỡng Soong chảo gánh lồng cồng Qua Bố Hạ Những địa danh Bản Lời, Nà Chế, Đồng Vương, Cao Thượng, Thiện Ky, Nà Lương, Tòng Tó... từng in dấu chân Vân Đài và in dấu trong thơ chị. Cảnh tượng hành quân này gợi nhớ những câu thơ trong Tây Tiến của Quang Dũng: Rừng im suối bạc Khuôn Câm réo Mỏ Trạng đêm mưa nước ngập đồi Dấu cọp Na Lương khuya vờn bóng Đường lên Đèo ỉnh khói chơi vơi Vượt lên 87
Vân Đài là vượt những dốc đèo của kháng chiến, vượt những dốc đèo của chính mình để trở thành một nhà thơ. Hoà bình lập lại, Vân Đài tiếp tục những nẻo đường thơ trên miền Bắc xây dựng cuộc sống mới và đấu tranh thống nhất đất nước. Chị viết niềm vui về quê mẹ trong vẻ đẹp giản dị: Gánh thóc em về xóm Giếng xa Đường mai nón lá trắng mùa hoa Về quê mẹ Chị viết thật sâu sắc về sự no ấm của làng quê khi thóc gặt về: Thóc về con nghé no nằm Con gà quẩn lối, lợn căng bụng tròn Thóc đã về sân Chị viết về niềm vui bất tận trong mùa hái quả của các cô gái nông trường sông Hiếu, sự đổi thay của nông trường Đồng Giao, sự no ấm của người dân chài ngoài đảo: “Thuyền đi buồm nhẹ cánh bay/ Thuyền về ăm ắp cá đầy trong khoang” (Ra khơi). Với miền Nam, chị có những câu thơ đấu tranh thống nhất thật xúc động trong bài Đợi tết quê Nam và Trà Vinh thương nhớ. Những câu thơ đầy kỉ niệm mến yêu: Dưa hấu xuồng con nặng lướt qua Ruột vàng mát rượi cát Trà Kha Chợ ba đêm tết gà quên sáng Đèn đọ sao khuya khách lạc nhà Bà nội mấy lần đi chợ tết Thúng đầy cam đỏ gánh mùa xuân Trẻ em áo mới vây quanh bếp Xem mẹ ngồi sên chảo mứt gừng Đợi tết quê Nam Từ một người sống trong nhung lụa và tháp ngà đến một nhà thơ của những người lao động dựng xây cuộc sống mới là cả một cuộc đổi thay kì diệu. Điều đó nhờ có cuộc cách mạng và kháng chiến thần thánh của dân tộc. Nhưng cũng phải kể đến tấm lòng chân thành và thánh thiện của nữ sĩ Vân Đài, sự vượt lên của một người quyết tâm “mỗi bước đường đi một bước lên”. Năm 1962 chị tự đề: Nét bút vẫn còn tươi trẻ mãi Thơ của chị tươi trẻ mãi cùng những mùa hái quả của đất nước. 88
Ngân Giang (1916 -2002) Họ và tên khai sinh: Đỗ Thị Quế Năm sinh: 1916. Năm mất: 2002. Quê quán: Lê Lợi, huyện Thường Tín, Hà Tây Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam. Tác phẩm Những người sống mãi (in chung) Giọt lệ xuân (1932) Tiếng vọng Sông Ngân (1944) Thơ Ngân Giang (1990) Tuyển tập thơ Ngân Giang (1996) NỮ SĨ BỀN BỈ ĐỒNG HÀNH CÙNG THƠ, CÙNG ĐẤT NƯỚC Ngân Giang bước vào làng thơ rất sớm và sớm trở nên nổi tiếng. Sáu tuổi đã nói thành thơ. Chín tuổi đã có thơ đăng báo. Mười sáu tuổi có ấn phẩm đầu tay Giọt lệ xuân. Hai mươi tám tuổi in tập thơ “Tiếng vọng sông Ngân”. Thế mà không hiểu sao, nhà phê bình Hoài Thanh lại bỏ sót hay quên tên của nữ sĩ trong công trình tổng kết thơ mới Thi nhân Việt Nam. Rồi Ngân Giang lại càng nổi tiếng khi thêu tặng chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhà thơ Hồ Chí Minh bài thơ “Kính dâng các bậc anh hùng dân tộc” trên tấm vóc đại hồng. Vị chủ tịch nước, nhà thơ lớn ấy đã trân trọng đáp lại nữ sĩ bằng 2 câu lục bát: “Cám ơn nữ sĩ Ngân Giang/ Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu”. Về cuộc đời riêng, Ngân Giang có một thời sôi nổi. Tham gia tổng khởi nghĩa ở Hà Nội; Trưởng đoàn phụ nữ thành Hoàng Diệu, góp phần xây dựng “Tuần lễ vàng”... Từ cuối năm 1949 được biệt phái vào hoạt động nội thành cho tới ngày giải phóng Thủ đô. Ngân Giang là người chịu nhiều lênh đênh chìm nổi mà nữ sĩ gọi là “truân chuyên, điêu đứng”. Nhưng người phụ nữ làm thơ ấy vẫn bền bỉ sáng tác, chung thuỷ với thơ ca và bền bỉ đồng hành cùng đất nước. Có thể thấy những bài thơ trong Tiếng vọng sông Ngân đẹp vẻ đẹp cổ điển, trang nhã, gợi nhớ phong cách thơ của nhà thơ Thăng Long bà huyện Thanh Quan. Nhưng cũng có nét khác Thanh Quan khi hoài cổ. Những dòng thơ viết về lịch sử của nữ sĩ đầy hào sảng, bi tráng và cũng rất tinh tế, đằm sâu. Đây là thơ viết về bà Trưng, người nữ anh hùng của dân tộc: 89
Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá Trăng chếch ngôi trời, bóng lẻ soi! Trưng nữ vương Người ta thấy nỗi niềm rất phụ nữ, rất đàn bà chứ không phải là chỉ là của một vị nữ vương. Điều ấy chỉ có một tấm lòng phụ nữ nhạy cảm của Ngân Giang mới có thể cảm thông. Trong bài Bạch Đằng Giang, nữ sĩ cũng đã xây dựng những hình ảnh đánh giặc hào hùng đầy hào khí Đông A của dân tộc: Ngọn cờ Nam! Ngọn cờ Nam! Phơi phới dâng lên màu huy hoàng Phơi phới trăm nghìn con sóng bạc Thét to trời đất muôn tiếng vang Phơi phới muôn nghìn miệng anh dũng Hô chung lời nói của giang san Như thơ các nữ sĩ xuất hiện sớm trên thi đàn hồi đó, thơ Ngân Giang thường bàng bạc một nỗi buồn thời đại. Một nỗi nhớ mơ hồ hình bóng trang nam nhi hải hồ dọc ngang vì nghiệp lớn: Quan hà heo hút dặm khơi Vó câu ngần ngại bóng người xa xa Trời rót ngàn sao xuống mái đầu Cảnh mơ ước thường là cảnh thiên thai, cảnh tiên với Giáng tiên trút xiêm y tắm suối ngọc, như thường thấy trong thơ lên tiên của Thế Lữ: Thân ngà lồng nước biếc Đùa rỡn bóng mây xanh Đưa tay nàng vuốt tóc Tóc rủ, ánh long lanh Suối ngọc Một nỗi buồn đêm mưa đếm hạt: Mưa rơi từng hạt mưa rơi/ Lòng ai có lạnh như tôi lúc này (Đêm mưa). Một nỗi hoang mang chiều vương vấn cái buồn chiều từ muôn kiếp: Chiều về lòng thấy hoang mang/ Buồn trông mấy đám mây vàng... và Mây vàng lớp lớp gợi sầu xa xôi (Hương quê). Một niềm thao thức bâng khuâng: Đêm qua mộng chắp không thành/ Thẩn thơ ra đứng một mình dưới sân. Một nỗi cảm thông với nỗi nhớ mang mang mùa thu: Tiếng thu nghe đã xạc xào khắp nơi/ Đừng rơi! Đừng rơi lá ơi/ Có ai góc 90
biển chân trời nhớ nhau (Mấy nét đơn sơ). Một niềm mơ ước của tâm hồn thơ: Đêm thả thuyền mơ đến bến mơ (Sang sông). Tất cả đều phản ánh tâm hồn đa cảm và rộng mở của nữ sĩ. Điều đáng quý ở Ngân Giang là nữ sĩ đã cố gắng hoà nhập với hiện thực cách mạng, đem những vần thơ phục vụ cho những đề tài thời sự như các bài Kính dâng các bậc anh hùng dân tộc, Xuân chiến địa, Sau phút biệt li, Em khóc mà say một dáng quen, Chín mùa trông đợi. Người chiến sĩ xa nhà có thể yên tâm khi người ở hậu phương son sắt: Thôi không nhạc nữa, không thơ nữa Không khóc mà không một tiếng cười Tôi nhất định không, không tất cả Khi người ấy vẫn ở xa xôi Sau phút biệt li Đây là tấm lòng thiếu nữ dành cho người chồng chiến sĩ trên chiến khu: Em khóc mà say một dáng quen Trong vàn chiến sĩ có chồng em Em khóc mà say một dáng quen Tuy nhiên, phải thấy rằng những bài thơ kịp thời này có ý nghĩa về mặt chính trị và tư tưởng nhiều hơn là nghệ thuật. Điều này không lạ vì các nhà thơ đã nổi tiếng trước Cách mạng thì phải có thời gian để từ bỏ những thi liệu, thi cảm và thi tứ cũ. Thơ Ngân Giang về sau chứa đựng một nỗi buồn riêng. Sao không buồn khi một thời xuân sắc đã qua, khi một thời hồn nhiên, sôi nổi và cống hiến mạnh mẽ không trở lại. Nhưng có thể thấy tuy cô đơn, tuy buồn nhưng không bi luỵ: Tôi biết nói sao đây Đêm dài trên bến vắng Ngoảnh lại chiếc bóng gầy In vách đơn yên lặng Bến chiều đợi sáng Tuy nghèo, nhưng vẫn là một cái nghèo sang, một lối sống thanh bạch không phải ai cũng có được: Sớm tối vài ba đồng vốn liếng Tháng ngày dăm bảy khách văn chương Nắng chếch chiều tàn Ngân Giang là nhà thơ nữ tài sắc xuất hiện sớm và bền bỉ đồng hành với thơ, với đất nước. Nguyên một lí do ấy cũng đáng để cuộc đời và thơ của nữ sĩ được tôn vinh. 91
Tô Hà (1939-1991) Họ và tên khai sinh: Lê Duy Chiểu. Sinh ngày 10 tháng 11 năm 1939. Quê quán: xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Nội. Dân tộc: Kinh. Nhiều năm làm công tác xuất bản văn học. Từng làm biên tập báo Người Hà Nội. Mất ngày 15 tháng 1 năm 1991 tại Hà Nội. Tác phẩm Hương cỏ mặt trời, thơ, 1978. Thành phố có ngôi nhà của mình, thơ, 1988. Sóng giữa lòng tay, thơ, 1990. Những câu thơ trong trí nhớ, tuyển thơ Việt Nam, 1990. ANH MÃI MÃI CÒN TRONG TRÍ NHỚ (Tưởng nhớ anh Tô Hà) Anh mới ngày nào đó còn trò chuyện sôi nổi về thơ, chỉ nói về thơ. Thơ hay, thơ dở, nên đổi mới thơ, hay tự thơ đã là đổi mới. Kĩ thuật làm thơ, kĩ thuật bình thơ. Để chứng minh, anh đọc thơ. Thơ cổ, thơ kim, thơ của mọi người, thơ của chính anh. Anh đọc, nhưng có cảm giác không phải là anh đọc. Ấy là thơ đầy ắp trong trí nhớ của anh, anh mở van, thế là chúng dạt dào tuôn chảy. Bất cứ lần nào gặp gỡ ở 19 Hàng Buồm, anh nói, anh bình, anh đọc đều đầy cảm hứng, say sưa. Say sưa không dứt ra được. Tác giả trẻ Phạm Công Trứ sau lần diện kiến anh đã thốt lên: “Ai đó phải rượu, phải bia, phải có chất kích thích thì mới say, mới bốc lên được. Còn anh Tô Hà thì cứ tự nhiên mà say, cứ tự nhiên mà bốc lên. Thế mới lạ, thế mới sướng”. Anh rượu không, bia không, thuốc lá không, chè cũng không nốt. Anh có cốt cách của kẻ lạc đạo vong bần. Niềm vui của anh mới trong trẻo và giản dị làm sao: Tuy chưa sữa bánh trên bàn Củ khoai lót dạ đi làm vẫn tươi Anh là thế, khi đọc những câu thơ anh viết về hoạ sĩ Bùi Xuân Phái, tôi đinh ninh rằng hoạ sĩ rất giống anh về điệu tâm hồn. Cái gì có với anh là có Cái gì không vĩnh viễn là không. Qua cái động anh nghiên về cái tĩnh. Anh là người có cá tính, có bản lĩnh. Giữa đất nước Grudia hoa trái đương mùa, giữa các nhà thơ, anh từng nâng cốc: Chúc bản lĩnh đến từng hơi thở Và quả thật, anh đã sống theo phương châm đó suốt cuộc đời sáng tạo của mình. 92
Nói cho khách quan và công bằng, về sự nổi tiếng, về sự mến chuộng của bạn đọc, về kỉ lục những câu thơ hay, bài thơ hay, anh có lẽ chưa thể được xếp vào hạng nhất. Nhưng về phẩm chất thi sĩ, về cốt cách thi nhân, về sự say mê thơ ca – công việc một đời anh thờ phụng, thì chắc chắn, anh là người đáng được xếp vào bậc cao. Với anh, không có gì đáng nói, đáng bàn bạc cho bằng chuyện làm thơ, bình thơ. Nỗi ám ảnh của đời anh, làm anh “giật mình hoảng hốt” là thơ ca mà anh say đắm, tôn thờ hết mình, và khả năng mọi thứ đều hữu hạn của một đời người. Phải chăng thế là hết, là chẳng còn gì, như anh đã từng quả quyết: Nếu ngày kia anh chết Thơ chẳng còn đâu ... Nếu ngày kia anh chết Cái bóng chẳng còn đâu. Không! Tô Hà ơi! Tôi nghĩ rằng vẫn còn cả đấy, sẽ còn mãi “Con đường lên Sơn Tây” của anh: Triền đay hoa trắng vỗ Ô, bạt ngàn bướm bay Sẽ còn mãi mãi “Xóm lăng” của anh: Đồi như trái ửng cây như sóng Hoa đại thơm vào ngõ đá ong “Bờ sương”, “Con đường dẫn đến bờ sông”, “Ngã ba”. “Quán gió”, “Chấm buồm xa”... Những bài thơ máu thịt của đời anh còn đó. Những tập sách của anh “Hương cỏ mặt trời”, “Sóng nắng”, “Hoa vừa đi vừa nở”, “Thành phố có ngôi nhà của mình”, “Sóng giữa lòng tay”, “Những câu thơ trong trí nhớ”... còn cả đó. Những câu thơ hay của anh sẽ bay vào khoảng xanh trí nhớ bạn đọc, như cánh chim mang tiếng hót đẫm hương: Cánh chim rẽ lá vù lên hót Khoe với trời xanh trái chín thơm Anh đã lên tàu đi vào cõi vĩnh hằng hai năm rồi đó. Vẫn văng vẳng những câu thơ “Lời một con tàu” như lời của chính anh: Tôi vang mãi nhịp tôi trên sóng nước Tôi vang mãi nhịp tôi bát ngát Trước không cùng mới mẻ hưởng tôi bay Tô Hà! Anh mãi mãi còn trong trí nhớ! 93
Nguyễn Thị Ngọc Hà Họ và tên khai sinh: Nguyễn Thị Ngọc Hà Ngày sinh: 25 tháng 8 năm 1949 Quê quán: Phú Yên, Phú Xuyên, Hà Tây Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam Tác phẩm Thơ Gửi con lời ru (1999) Em đi ngang chiều gió (2001) Cỏ mặt trời (2003) Người gánh vô hình (2005) Đứt giải yếm (2007) Ngả vào giữa nguyên khôi (2012) Khép vội gió heo may (2018) Văn xuôi, các tập truyện ngắn Đầm ma, 2010; Ám ảnh, 2015; Nơi đất lở, 2015; Lạc trong đêm Liêu Trai, tản văn, 2015; Mưa trong nắng, tiểu thuyết, 2016. Giải thưởng Giải Ba cuộc thi thơ Lục bát báo Văn nghệ, 2003. Tạp chí Tản Viên Sơn, 2006; Ngàn năm Thăng Long, 2010. Giải tiểu thuyết của Bộ Công an và Hội Nhà văn, 2017. CỎ MẶT TRỜI MÃI MÃI VỚI BIỂN XANH Tôi nhận được tập Cỏ mặt trời trong những ngày Hà Nội đã bắt đầu vào Hạ. Phượng đã đỏ tưng bừng và tiếng ve kêu rộn rã những vòm xanh. Công việc hành chính - sự vụ vẫn ngổn ngang, căng thẳng. Định đọc thử bài Cúc Biển, bài thơ mở đầu tập rồi thôi. 94
Nhưng đọc xong, có một điều gì đấy khiến phải đọc tập thơ một mạch. Một người phụ nữ khiêm nhường như bông hoa Cúc Biển hoang dại trong cằn cỗi vẫn đầy can đảm và tự tin: Quặn mình trong nắng lửa Cát trắng cuộn gió Lào Nghẹn mầm vươn cánh nhỏ Gửi đời muôn khát khao Là bông hoa hoang dại, biết “phận hoa bên đường”, nhưng không vì thế mà giấu diếm nguồn cội của mình, không vì thế mà tự ti hay mặc cảm. Hoa là hoa, mọi bông hoa đều có vẻ đẹp riêng, đều có quyền kiêu hãnh, và bông hoa ấy đã kiêu hãnh: Hãy để em hoang dại Mãi mãi cùng biển xanh Một tinh thần như thế của người thơ qua bông Cúc Biển chắc chắn hứa hẹn nhiều cho tập Cỏ mặt trời. Ngọc Hà là một nhà thơ nữ đa cảm, dịu dàng mà đằm thắm. Nhưng có lẽ trước hết, chị là người khiêm nhường. Thơ hiền lành, thủ thỉ, không bao giờ cao giọng cũng là một biểu hiện khiêm nhường. Từng là giảng viên, nhưng trong cuộc đời, chị mãi mãi là một người đi học: Học làm vợ, làm mẹ học nuôi dạy các con mình học cách đứng vững trước cuộc đời nghiệt ngã bấm mười đầu ngón chân đi giữa đường trơn mưa gió dẫu bần hàn không thể luỵ ai Về thăm mẹ Là phụ nữ, chị đã từng yêu, từng đợi chờ khắc khoải, từng nếm trải “Cái thời nhạt nắng nhàu mưa đợi người”. Chị từng có những cuộc chia tay buồn “ngậm cười khóc nỗi trớ trêu”: Lối vẫn xưa người giờ đã khác Cỏ vô tình xanh nõn trinh nguyên Chỉ nỗi buồn héo úa không tên Phía chẳng còn em Trong tình riêng cũng như trong đời thường, như mọi người, chị cũng có những nỗi buồn riêng. Nhưng ở tập thơ này, ít thấy chị giãi bày, mà chỉ thấy thấp thoáng sau những câu thơ tự cảm đầy những nỗi niềm: Khóc cười vỡ loãng cả đêm Thêm vôi thì mặn, thêm trầu lại cay Khóc cười 95
Mình em ngồi giữa giọt đầy giọt vơi Giao thừa Chớp nhì nhằng xa lắm Quen rồi cơn mưa khan Đêm lặn sâu thăm thẳm Đêm Hạ Cái người chờ đợi “nhạt nắng nhàu mưa” ấy không hờn ghen, không dằn dỗi mà chỉ nhẹ nhàng: Nay rẽ sang một phương trời lạ Ngày thương em Anh thả nơi đâu Dải yếm mỏng manh Và có một cách ứng xử rất tâm linh, thật đáng trân trọng với những câu thơ kỉ niệm yêu của một thời: Em gói những mảnh thơ vô tội Đốt ở nơi dông bão trái mùa Phía chẳng còn em Không phải là người nhân hậu, dịu dàng, bao dung, không thể làm như thế và viết những câu thơ như thế. Nhiều lần người đọc bắt gặp Ngọc Hà gom lại và nhận về riêng mình tất cả những “gió bấc”, “trĩu nặng”, “giọt đắng”. Chị muốn san sẻ với bạn, với những thân phận lỡ làng, với những người mẹ để làm vơi bớt những nỗi buồn. Viết về bạn gái như thế này là phải hiểu lòng bạn lắm, và cũng giàu nỗi niềm đồng thanh đồng khí lắm: Tôi nhìn vào mắt bạn Lỡ chạm phải vùng đau Giọt sầu như không bến Cứ tràn về mắt nhau Bạn gái Với bạn thân đã vậy, với chị, Ngọc Hà có những câu thơ rưng rưng. Không chỉ là tấm lòng của một người em, mà còn là tấm lòng của những người “Trót sinh làm phận gái” với nhau. Đây là một trong những khổ thơ cảm động nhất viết về người phụ nữ mất mát trong chiến tranh: Mâm cơm cũ vẫn nguyên một bát Đũa một đôi, một bóng, một đèn 96
Nhà tập thể một khoang chín mét Một gối đơn lạnh chiếc giường đơn Một đốm lửa Người đọc có thể nhớ tới câu thơ Hữu Thỉnh: “Một mình một mâm cơm. Ngồi bên nào cũng lệch. Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền...” Những hình ảnh thơ của Ngọc Hà toàn những con số 1, con số lẻ, cứ sừng sững hiện lên thành khối như một nỗi lẻ loi, đơn chiếc. Một hình tượng ám ảnh. Có khi, chỉ là đôi câu thơ lẫn trong cả mạch thơ lớn, nhưng vẫn có thể thấy nỗi rưng rưng của người cùng hội cùng thuyền. Đây là cửa thiền, nhưng liệu có đem lại chút bình yên, an ủi cho những kiếp người đau đớn (Đau đớn thay phận đàn bà - Nguyễn Du). Thế nên Ngọc Hà mới cảm nhận: Lá đa rụng lõm sân chùa Nghe đau tiếng chổi vãi khua cuối chiều Lên chốn Tiên du Cái tiếng chổi xao xác lòng người ấy, đau lòng người ấy được nghe thành tiếng chổi “khua”. Chữ khua chỉ dùng cho những vật có tiếng vang như chuông, như mõ ở trong chùa (Mõ thảm không khua... Hồ Xuân Hương). Ngọc Hà nghe khua chổi. Phải chăng lòng người cầm chổi cũng đầy ắp nỗi niềm nên chổi mới kêu lên “vang vang hận” (Chữ của Xuân Diệu). Nghe được âm thanh ấy phải là người có một tấm lòng, còn phải có trái tim nhạy cảm của thi nhân. Có thể dẫn ra những câu thơ chị viết về thân phận người phụ nữ thật nao lòng: Chín mùa cạn nước sông Cháy chín mùa hoa gạo Chín năm chị lấy chồng Nhàu chín mùa dông bão Chín mùa hạ Con số chín bình thường kia, ngẫu nhiên chăng, cố ý chăng trùng với chín vía của người phụ nữ, nghe cứ rờn rợn như là một cuộc tìm vía gọi hồn, dù người được gọi đang còn sống. Trong nhiều bài thơ bình thường, Ngọc Hà đã có những câu thơ khác thường, không thể đọc một lần: Dấu chai sần hằn sâu trên cát Nỗi nhọc nhằn phơi nắng chói chang Cỏ lông chông Chong đèn phơi nỗi dãi dầu 97
Người mua kẻ bán nát nhàu phố khuya Chợ đêm Phơi nắng chói chang là một sự nhọc nhằn vất vả hiển nhiên, nhưng phơi nỗi dãi dầu dưới ánh đèn khuya thì còn gay gắt dữ dội hơn là phơi nắng. Là một phụ nữ, lại cũng đã là một người mẹ, nên Ngọc Hà có những vần thơ về mẹ thật đằm sâu. Với mẹ đẻ thân thiết, kính yêu đã là một lẽ thường tình, nhưng với mẹ chồng, chị cũng trân trọng thân thiết như mẹ đẻ. Người ta vẫn chưa quên bài thơ độc đáo của Xuân Quỳnh về mẹ chồng. Thi sĩ đã viết với lòng biết ơn: “Mẹ sinh anh để bây giờ cho em” (Mẹ của anh). Nhưng ở thơ Ngọc Hà hình như còn có một nỗi gì hơn thế nữa. Chị ơn mẹ, thương mẹ dù mới là gặp lần đầu bà mẹ lam lũ xứ Nghệ: ... mẹ đẫm dưới mưa Dầm bùn đi đón dâu vừa về thăm Rầu lòng muôn nỗi khó khăn Mừng con mà những nếp nhăn cũng cười Quê chồng Tiếng khóc mẹ đâu có phân chia mẹ đẻ với mẹ chồng: Khản lời con gọi bên đường Mỏi trông cánh hạc ngóng phương mẹ về Về Rộ Mẹ tôi cánh hạc đã mang về trời Căn nhà quạnh quẽ đơn côi Quê chồng Người mẹ quê nghèo ấy đã cùng với những người mẹ không có yếm đào, đồng sâu lọm khọm, nắng cháy lưng, đào hầm dưới tầm đại bác hay vai gầy nhấp nhô giã gạo(*) làm nên hình ảnh người mẹ Việt Nam. Nguyễn Thị Ngọc Hà không nói nhiều lắm về vai trò thi sĩ, không băn khoăn nhiều về nhà thơ, phận thơ. Nhưng với sự nhạy cảm của trái tim phụ nữ và một tâm hồn rộng mở, chị đã viết khá hay về ba nhà thơ Nguyễn Du, Phùng Quán, Trinh Đường và hai bạn thơ trong hai bài Bạn gái và Cái roi hành xác. Trước một rừng lục bát muôn hồng ngàn tía mà Nguyễn Du tạo ra, Ngọc Hà vẫn có những câu ghi dấu ấn riêng mình: Văn bia trầm lạnh bao mùa Đặt tay con thấy hồn xưa ấm về 98
Và dường như khi viết về Trinh Đường: “Đắng cay mình lại nhâm nhi với mình” thì Ngọc Hà cũng đã gửi nỗi niềm mình trong đó, cái nỗi niềm “... hoà rượu uống chung. Mặc chiều Hà Tây sắp cạn. Ta nhâm nhi đến tận cùng” (Gõ cửa vô vi). Với nhà thơ Phùng Quán, hình ảnh nhà thơ “ngồi câu bóng trăng soi” là một hình ảnh được vẽ bằng tấm lòng thơ và bàn tay hội hoạ. Còn có thể nói về những chùa chiền, lễ hội, những heo may, dải yếm mong manh, dấu chân non nớt... Nhưng thôi. Hãy để bạn tự đọc và tự cảm. Còn tôi, xin nói thật gọn thế này: Cỏ mặt trời là một tập thơ hay, dù tác giả còn phải dụng công nhiều để có thể hay hơn nữa ------------- *Thơ Nguyễn Duy: Mẹ ta không có yếm đào. Nón mê thay nón quai thao đội đầu. Vũ Xuân Hoát: Mẹ qua sức vẫn đồng sâu lọm khọm. Phạm Công Trứ: Thúng cắp nách nón đội đầu. Mẹ tôi đi chợ môi trầu đỏ tươi. Tố Hữu: Nhớ người mẹ nắng cháy lưng. Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô Dương Hương Ly: Mẹ vẫn đào hầm dưới tầm đại bác. Nguyễn Khoa Điềm: Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối. Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng. Nguyễn Trọng Hoàn: Mẹ đã nhặt con từ bùn đất/ Ấp iu tính tháng tính ngày/ Nên đời mẹ chênh vênh còn mất/ Quên tuổi mình, đánh đổi những hôm mai. 99
Mai Xuân Hải (1944 -2011) Nhà giáo Mai Xuân Hải sinh ngày: 29-1-1944 Quê quán: phường Phương Liệt, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Cán bộ khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm Việt Bắc: 1967 – 1975. Sau 1975 công tác tại Viện Hán Nôm. Nguyên là Trưởng phòng Nghiên cứu Ứng dụng Viện Hán Nôm, Hà Nội. Tác phẩm 1. Truyện Thạch Sanh. (Nxb Văn học, 1988, đồng tác giả). 2. Lịch sử Phật giáo Thế giới. (Nxb Đại học, 1992, đồng dịch giả). 3. Truyện cổ tích Trung Quốc. (Nxb Phụ nữ, 1992, đồng dịch giả). 4. Những giai thoại về vua Lê Thánh Tông. (Nxb Thuận Hoá, 1992, đồng soạn giả). 5. Truyện ngụ ngôn nhà Phật. (Nxb Phụ nữ, 1992, dịch giả). 6. Hoàng Việt Long hưng chí (Nxb Văn học, 1993, đồng dịch giả). 7. Từ điển Phật học Hán Việt (Phân viện Phật học, 1994, đồng dịch giả). 8. Hội Tao đàn, tác giả tác phẩm (Nxb Khoa học Xã hội, 1994, đồng dịch giả). 9. Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông (Nxb Khoa học Xã hội, 1994, Chủ biên). 10. Thơ văn Lê Thánh Tông (Nxb Khoa học Xã hội, 1996, Chủ biên). 11. Từ điển Chu dịch (Nxb Khoa học Xã hội, 1996, đồng dịch giả). 12. Lí luận văn học, nghệ thuật cổ điển Trung Quốc (Nxb Giáo dục, 1998, dịch giả). 13. Kinh viên giác luận giải (Nxb Tôn giáo, 1999, đồng dịch giả). 14. Cổ tâm bách vịnh (Nxb Văn học, 2000, khảo cứu, dịch thuật, giới thiệu). 15. Nho- Phật-Đạo bách khoa từ điển (Nxb Văn học, 2001, đồng dịch giả). CẢO THƠM LẦN GIỞ TRƯỚC ĐÈN (Về dịch giả Hán Nôm Mai Xuân Hải) 100
Search
Read the Text Version
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 7
- 8
- 9
- 10
- 11
- 12
- 13
- 14
- 15
- 16
- 17
- 18
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23
- 24
- 25
- 26
- 27
- 28
- 29
- 30
- 31
- 32
- 33
- 34
- 35
- 36
- 37
- 38
- 39
- 40
- 41
- 42
- 43
- 44
- 45
- 46
- 47
- 48
- 49
- 50
- 51
- 52
- 53
- 54
- 55
- 56
- 57
- 58
- 59
- 60
- 61
- 62
- 63
- 64
- 65
- 66
- 67
- 68
- 69
- 70
- 71
- 72
- 73
- 74
- 75
- 76
- 77
- 78
- 79
- 80
- 81
- 82
- 83
- 84
- 85
- 86
- 87
- 88
- 89
- 90
- 91
- 92
- 93
- 94
- 95
- 96
- 97
- 98
- 99
- 100
- 101
- 102
- 103
- 104
- 105
- 106
- 107
- 108
- 109
- 110
- 111
- 112
- 113
- 114
- 115
- 116
- 117
- 118
- 119
- 120
- 121
- 122
- 123
- 124
- 125
- 126
- 127
- 128
- 129
- 130
- 131
- 132
- 133
- 134
- 135
- 136
- 137
- 138
- 139
- 140
- 141
- 142
- 143
- 144
- 145
- 146
- 147
- 148
- 149
- 150
- 151
- 152
- 153
- 154
- 155
- 156
- 157
- 158
- 159
- 160
- 161
- 162
- 163
- 164
- 165
- 166
- 167
- 168
- 169
- 170
- 171
- 172
- 173
- 174
- 175
- 176
- 177
- 178
- 179
- 180
- 181
- 182
- 183
- 184
- 185
- 186
- 187
- 188
- 189
- 190
- 191
- 192
- 193
- 194
- 195
- 196
- 197
- 198
- 199
- 200
- 201
- 202
- 203
- 204
- 205
- 206
- 207
- 208
- 209
- 210
- 211
- 212
- 213
- 214
- 215
- 216
- 217
- 218
- 219
- 220
- 221
- 222
- 223
- 224
- 225
- 226
- 227
- 228
- 229
- 230
- 231
- 232
- 233
- 234
- 235
- 236
- 237
- 238
- 239
- 240
- 241
- 242
- 243
- 244
- 245
- 246
- 247
- 248
- 249
- 250
- 251
- 252
- 253
- 254
- 255
- 256
- 257
- 258
- 259
- 260
- 261
- 262
- 263
- 264
- 265
- 266
- 267
- 268
- 269
- 270
- 271
- 272
- 273
- 274
- 275
- 276
- 277
- 278
- 279
- 280
- 281
- 282
- 283
- 284
- 285
- 286
- 287
- 288
- 289
- 290
- 291
- 292
- 293
- 294
- 295
- 296
- 297
- 298
- 299
- 300
- 301
- 302
- 303
- 304
- 305
- 306
- 307
- 308
- 309
- 310
- 311
- 312
- 313
- 314
- 315
- 316
- 317
- 318
- 319
- 320
- 321
- 322
- 323
- 324
- 325
- 326
- 327
- 328
- 329
- 330
- 331
- 332
- 333