Important Announcement
PubHTML5 Scheduled Server Maintenance on (GMT) Sunday, June 26th, 2:00 am - 8:00 am.
PubHTML5 site will be inoperative during the times indicated!

Home Explore VŨ NHO - HÀ NỘI VĂN CHƯƠNG TỪ MỘT GÓC NHÌN

VŨ NHO - HÀ NỘI VĂN CHƯƠNG TỪ MỘT GÓC NHÌN

Published by TẬP HUẤN VIOLET, 2021-07-27 13:01:40

Description: 6. VŨ NHO Văn chương bản VN sửa sau cùng

Search

Read the Text Version

VŨ NHO HÀ NỘI VĂN CHƯƠNG TỪ MỘT GÓC NHÌN NGƯỜI HÀ NỘI - VIẾT Ở HÀ NỘI - VIẾT VỀ HÀ NỘI NXB 1

Tác giả trân trọng cám ơn Công ti trách nhiệm hữu hạn Giáo dục và dịch vụ Trí An, anh Hoàng Ngọc, chị Lê Kim San, nhà giáo ưu tú Trần Thị Thành và bạn bè đã hỗ trợ tinh thần và vật chất cho cuốn sách! 2

Lời nói đầu Tôi chính thức có hộ khẩu Hà Nội từ tháng 10 năm 1986 khi chuyển từ Khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm Việt Bắc về Vụ Giáo dục cấp một, hai của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Từ đấy tôi làm văn, viết báo, viết sách ở Hà Nội. Tôi vô cùng biết ơn thành phố Hà Nội đã cho tôi không gian sống, làm việc, giao tiếp với mọi người. Có viết truyện, làm thơ, dịch văn học nhưng chủ yếu là người viết phê bình. Để tỏ lòng tri ân Hà Nội, tôi soạn cuốn sách “Hà Nội văn chương từ một góc nhìn”. Có biết bao nghệ sĩ đã sáng tác âm nhạc, hội hoạ, điêu khắc, kịch, múa, ảnh về Hà Nội. Bao nhiêu nhà văn tài danh sinh ở Hà Nội, viết tại Hà Nội. Và cũng rất nhiều nhà văn từ cổ chí kim đã viết về Thăng Long - Hà Nội. Góc nhìn của tôi là góc nhìn hẹp của người có “con mắt hạt đậu”. Tôi chỉ đụng bút được rất ít trong số vô cùng lớn tác giả, tác phẩm của người Thăng Long – Hà Nội, viết ở Hà Nội và viết về Hà Nội. Trong số các tác giả đó, tôi lại chỉ nói về một bài thơ, một tập thơ, hay một tập truyện trong rất nhiều sáng tác của họ. Bây giờ địa giới Hà Nội mở rộng, bao gồm cả Hà Đông, Sơn Tây và một phần trước đây thuộc Vĩnh Phúc, Bắc Ninh. Bởi vậy các nhà văn nhà thơ quê Hà Nội lại càng nhiều. Để tiện cho việc theo dõi, tôi tạm chia cuốn sách làm 3 phần: Người Thăng Long - Hà Nội, Viết ở Hà Nội, Viết về Hà Nội. Sự phân chia chỉ có tính ước lệ mà thôi. Sẽ có tác giả được nhắc đến 2 lần vì vừa là người Hà Nội, lại vừa có tác phẩm viết về Hà Nội. Xin coi cuốn sách nhỏ này là kỉ vật cho thành phố mà tôi một đời gắn bó, dù không được sinh ra, lớn lên và làm việc trong thời thanh niên. Tác giả 3

4

Phần 1: Người Thăng Long – Hà Nội I. CÁC TÁC GIẢ TRUNG ĐẠI 1. Mãn Giác Thiền sư (1051 - 1096) Tên thật là Lý Trường, người làng An Cách. (Các tác giả bộ “Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỉ X - thế kỉ XVII” không rõ An Cách ở đâu. Có thể là tên xưa của phường Ô Cách, quận Long Biên theo bộ sách “Giải mã kho báu văn chương” của Vũ Bình Lục. Chỉ biết rằng từ nhỏ, ông đã được vào hầu thái tử Kiền Đức - tức là Lý Nhân Tông sau này. Vì vậy có thể coi ông là người Thăng Long). Cáo tật thị chúng Xuân khứ bách hoa lạc Xuân đáo bách hoa khai Sự trục nhãn tiền quá Lão tòng đầu thượng lai Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận Đình tiền tạc dạ nhất chi mai. Dịch thơ Cáo bệnh bảo mọi người Xuân qua trăm hoa rụng Xuân tới trăm hoa cười Trước mắt việc đi mãi Trên đầu già đến rồi Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết Đêm qua sân trước một cành mai. Ngô Tất Tố dịch Lời bình 5

TÔI ĐẶC BIỆT THÍCH THÚ VỚI BÀI THƠ NÀY VÌ TÍNH HÀM SÚC, THÂM THUÝ VÀ CHẶT CHẼ. TÁC GIẢ KHÔNG PHẢI LÀ NGẪU NHIÊN VÔ TÌNH MÀ NÓI CHUYỆN XUÂN ĐI TRƯỚC KHI XUÂN ĐẾN (TRONG KHI QUY LUẬT LÀ ĐẾN RỒI ĐI). LẠI NỮA, NÓI CHUYỆN HOA RỤNG TRƯỚC RỒI MỚI NÓI ĐẾN HOA NỞ SAU. (QUY LUẬT LÀ NỞ RỒI MỚI RỤNG). LẠI NỮA, NÓI ĐẾN BÁCH HOA (TRĂM LOẠI) TÀN RỒI NỞ, ĐẶNG NÓI ĐẾN NHẤT CHI MAI (MỘT CÀNH MAI) KHÔNG NỞ KHÔNG TÀN. CẤU TRÚC VÀ THỨ TỰ CỦA CÁCH TRÌNH BÀY CŨNG ĐÃ CHO THẤY TÁC GIẢ LẠC QUAN HƯỚNG TỚI SỰ SỐNG, SỰ TRƯỜNG TỒN, BẤT TỬ. Quy luật thời gian của thiên nhiên là quy luật tuần hoàn, theo vòng tròn. Xuân tới, xuân qua, xuân lại tới. Nhưng với đời người thì không tuần hoàn theo thời gian xoay tròn như thế, mà về phương diện nào đó gần gũi với kiếp hoa. Chỉ nở một lần và tàn một lần. Con người sinh ra, vào đời như là một hành khách lên tàu thời gian không có vé khứ hồi (ý thơ của Châu Hồng Thuỷ). Lao vào mưu sinh, quay cuồng trong biển đời, con người chỉ nhìn thấy việc và việc. Việc cứ nối nhau, đuổi theo nhau và cuốn con người vào guồng quay thời gian. Con người mải mê bị hút theo và không hề để ý. Cái già xồng xộc đã bám theo tự lúc nào và nó lặng lẽ hiện ra trên mái đầu. Và khi ấy cũng là khi con người sắp theo số phận các loài hoa. Anh ta sẽ héo tàn, sẽ rụng xuống, sẽ tắt đi, sẽ chẳng còn gì nữa: Ngày kia anh chết Cái bóng chẳng còn đâu Tô Hà Có vẻ sẽ đầy bi luỵ, buồn thương, nếu sẵn mối đa sầu, đa cảm. Nhưng bài thơ kết thúc bất ngờ với sự bất tử của nhành mai, trái với quy luật thông thường, vượt lên trên quy luật thông thường. Thì ra vẫn có chuyện xuân tàn mà hoa không rụng. Thì ra vẫn có sự kì diệu. Nghĩa là con người vẫn có thể bất tử, vẫn có thể không bị rụng rơi, tàn úa. Nhành mai kia không thèm biết đến quy luật hà khắc của thiên nhiên. Vậy thì con người cũng có thể như nhành mai được chứ! Ở đây có một điều lí thú là, nguyên tác bài thơ không nói mai nở: Đình tiền tạc dạ nhất chi mai. Dịch giả Ngô Tất Tố đã dịch đúng tinh thần của tác giả: Đêm qua sân trước một cành mai. Khi giáo sư Hoàng Hữu Yên cho rằng nhất chi mai là tên một loại hoa hay trồng ở nơi chùa chiền chứ không phải là một cành mai như mọi người vẫn hiểu; giáo sư Nguyễn Khắc Phi đã tranh luận lại với một bài viết khảo sát công phu các bài thơ cổ điển Trung Quốc về vãn mai và tảo mai. Tôi đặc biệt lưu ý khi giáo sư Phi góp ý một số bản dịch nghĩa và dịch thơ đã thêm chữ nở vào. Do đó làm hỏng ý thơ của nguyên tác muốn nói đến sự vĩnh cửu. (Nếu có nở thì lại có tàn, có sinh thì lại có diệt). Đây là một sự cảm thụ tinh tế. Như vậy tinh thần của sự bất tử không phải chỉ là ý nghĩa chúng ta rút ra, mà nó tồn tại ngay trong hình tượng thơ, trong bản thân cách diễn đạt của tác giả. Nó vừa cụ thể 6

nhưng cũng lại có tính tượng trưng. Khi người ta trồng cây, khi người ta trồng người, khi người ta làm việc thiện, việc công đức ích quốc lợi dân, thì dẫu có chết, chỉ là chết phần thể xác, còn sự nghiệp, tiếng thơm sẽ sống mãi muôn đời. Như Nguyễn Du sau này đã viết: Thác là thể phách, còn là tinh anh. Có lẽ nhà sư muốn nói lẽ huyền vi của đạo Phật, của người giác ngộ. Nhưng đó cũng là lẽ thường tình mà bất cứ con người bình thường nào cũng có thể cảm nhận. Cái đẹp của tư tưởng và triết lí đạo Phật làm cho vần thơ thêm sự minh triết, sâu sắc. Và đẹp hơn nữa chính là sự kết hợp hài hoà giữa đạo với đời, giữa giáo lí với hiện thực đời sống, làm cho thơ ca toả ra ánh sáng đặc biệt, vừa gần gũi, vừa xa xôi, vừa bình dị vừa thiêng liêng, vừa hiển nhiên vừa thâm thuý. Với tinh thần lạc quan, tôi tin vào sự bất tử của mỗi con người tốt. Và càng tin chắc hơn, khi gần một ngàn năm trước, thiền sư Mãn Giác đã gửi niềm tin ấy trong những vần thơ sáng một cành mai. 7

2. Trần Quang Khải (1248 – 1294) Ông là con thứ ba của vua Trần Thái Tông và là em của vua Trần Thánh Tông. Dưới triều vua Trần Nhân Tông được phong thượng tướng, tham gia cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông có nhiều chiến công, sau được phong tước Chiêu Minh vương. Ông có tập thơ Lạc đạo, nay chỉ còn lại mấy bài. Xuân nhật hữu cảm (bài 1) Vũ bạch phì mai tế nhược ti Bế môn ngột ngột toạ thư si Nhị phần xuân sắc nhàn tha quá Ngũ thập tri ông dĩ tự tri Cố quốc tâm hoàn phi điểu quyện Ân ba hải khoát túng lân trì Sinh bình đởm khí luân khuân tại Giải đảo đông phong phú nhất thi Dịch nghĩa Cảm xúc ngày xuân (bài 1) Những hạt mưa nhỏ như sợi tơ gội những bông mai trắng xoá Một người “say mê sách” khép cửa ngồi ngay ngắn trong phòng Ba phần ngày xuân thì đã bỏ uổng hai phần Năm mươi tuổi tự biết mình đã suy yếu Lòng mơ màng về quê hương như chim bay mỏi muốn về tổ Ân trạch của triều đình mênh mang như bể khơi khiến cho mình như con cá không bơi nhanh được Chí khí dũng cảm lúc bình sinh hãy còn ngang tàng hăng hái Muốn quật ngã ngọn gió đông mà ngâm lên một bài thơ Bản dịch thơ của Ngô Tất Tố Lâm râm mưa bụi gội hoa mai Khép chặt phòng thơ ngất ngưởng ngồi Già nửa phần xuân cam bỏ uổng Tới năm chục tuổi biết suy rồi Mơ màng nước cũ chim bay mỏi 8

Khơi thẳm nguồn ân cá khó bơi Đảm khí ngày nào rày vẫn đó Đè nghiêng ngọn gió đọc thơ chơi Bản dịch thơ của Vũ Bình Lục Mưa xuân tắm gội bông mai Người say mê sách khép hoài phòng văn Ba xuân bỏ phí hai phần Tuổi năm mươi biết rằng thân suy rồi Nhớ quê chỉ muốn về thôi Ơn vua bể lớn, cá bơi được nào? Bình sinh đảm khí ngất cao Quật gió đông, gửi chí vào câu thơ Lời bình Thượng tướng Trần Quang Khải, người có công lớn với nhà Trần được biết đến với bài thơ ngắn nổi tiếng: Đoạt sóc Chương Dương độ Cầm Hồ Hàm Tử quan Thái bình tu trí lực Vạn cổ thử giang san Chương Dương cướp giáo giặc Hàm Tử bắt quân thù Thái bình nên gắng sức Non nước ấy ngàn thu Khi làm bài thơ “Xuân nhật hữu cảm”, tác giả đã vào tuổi tri thiên mệnh, cái tuổi thiên hạ thường than già. Mà quả thật, thời ấy tuổi năm mươi là tuổi lên lão, “lão giả an chi” - người già an phận, kệ việc đời - coi như là người cao tuổi, chỉ nghĩ đến chữ nhàn mà thôi. Vị tướng lúc này không phải thao luyện quân sĩ, mà trở thành người “say mê sách”, một “thư si”. Chính việc đọc sách say mê cho thấy vị tướng này “văn võ song toàn”. Bản dịch của cụ Ngô Tất Tố dịch “ngất ngưởng ngồi” có lẽ là nhấn mạnh đến phong thái ngang tàng của vị tướng chăng? Chữ “ngột” có nghĩa là cao, “ngột ngột toạ” là ngồi cao cao. Dịch “ngất ngưởng ngồi” thật là sáng tạo! Không ngắm cảnh xuân mà tập trung vào đọc sách. Đọc sách nhưng vẫn tự biết mình đã già, khí lực đã suy. (Trong bài thứ 2 cùng nhan đề “Xuân nhật hữu cảm”, tác giả viết cụ thể hơn về việc “tự tri” (tự biết): Bị vật nhuận tòng thiên ngoại vũ/ Kinh tâm hồng thốn tích thì nhan - Hơi mưa mát dịu làm cho 9

cảnh vật thêm tươi/ Giật mình, nét mặt thời trẻ đà phai nhạt). Thoáng một chút tâm sự phân vân giữa việc về quê nghỉ ngơi và việc báo đáp ân điển của triều đình. Muốn về quê nghỉ, nhưng lại cũng nể ơn lớn của triều đình mà chưa thể về, vẫn tiếp tục gánh vác trọng trách. Thật bất ngờ là con người tuổi năm mươi, tự biết mình cũng đã phần nào suy giảm khí lực, nhưng “đảm khí” hình như vẫn còn nguyên. Bài thơ kết thúc đột ngột với khát vọng mạnh mẽ, ngang tàng của chủ nhân: Đảm khí ngày nào, rày vẫn đó Đè nghiêng ngọn gió đọc thơ chơi Chỉ có con nhà võ, chỉ có vị “tướng – thi sĩ”, người từng “cướp giáo giặc”, từng “bắt quân thù” mới có kiểu đọc thơ ngang tàng, đầy khí phách như vậy. 10

3. Trần Nhân Tông (1258 - 1308) Ông tên là Trần Khâm, con vua Trần Thánh Tông, có mưu trí, cùng Trần Hưng Đạo đã chủ trì cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông thành công hai lần. Theo truyền thuyết, khi hoà bình lập lại, trong cuộc làm lễ ở Chiêu Lăng, nhân thấy chân các ngựa đá còn dính bùn, ông đã tức cảnh 2 câu: Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã Sơn hà thiên cổ điệm kim âu Xã tắc hai phen bon ngựa đá Non sông nghìn thuở vững âu vàng Tác phẩm của ông gồm có: Thiền lâm thiết chúng hữu lục, Tăng già toái sự. Đại hương hải ấn thi tập. Nay chỉ còn lại một số bài thơ. Thiên Trường vãn vọng Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên Bán vô bán hữu tịch dương biên Mục đồng địch lí ngưu quy tận Bạch lộ song song phi hạ điền Dịch nghĩa Ngắm buổi chiều tà Thiên Trường Sau thôn trước thôn đều mờ mờ như khói phủ Bên bóng chiều (cảnh vật) nửa như có nửa như không Trong tiếng sáo mục đồng dẫn trâu về hết Từng đôi cò trắng hạ cánh xuống đồng Dịch thơ Trước xóm sau thôn tựa khói lồng Bóng chiều man mác có dường không Mục đồng sáo vẳng trâu về hết Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng Ngô Tất Tố dịch Lời bình Các cụ túc Nho đã dịch nhan đề bài thơ thành “Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra” vừa dài mà lại vừa không chuẩn. Tác giả trẻ Phạm Hải Linh khi làm luận án tiến 11

sĩ đã mạnh dạn đề xuất cách dịch khác. Đề xuất “Ngắm cảnh Thiên Trường trong bóng chiều tà” là khả thủ. Song tác giả lí giải phủ - toà nhà hoặc cung Thiên Trường lại không chính xác. (Cả các cụ dịch là “phủ” cũng không ổn). Cần phải biết rằng Thiên Trường là tên đất, mãi thời Hậu Lê, Thiên Trường mới được đổi là phủ (đơn vị hành chính lớn hơn huyện). Đất Thiên Trường thời Lý tên là Hải Thanh, Trần Thái Tông đổi là Thiên Thanh, Trần Thánh Tông (cha của Trần Nhân Tông) đổi là Thiên Trường (Theo Đinh Xuân Vịnh - Sổ tay địa danh Việt Nam, Nxb Lao động, 1996, trang 511, 512 và Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỉ X - thế kỉ XVII, Nxb Văn hoá, 1962, tr. 84). Văn bản bài thơ không nói cung, phủ, chỉ nói Thiên Trường (địa danh). Bởi vậy mà nhan đề bài thơ cần dịch sát nghĩa là “Ngắm buổi chiều tà Thiên Trường”. Bài thơ độc đáo ở chỗ một vị vua nhưng nhìn phong cảnh bằng con mắt nhìn của thi sĩ yêu thiên nhiên. Cái khoảnh khắc đặc biệt khiến cho phong cảnh thôn làng Thiên Trường như mờ ảo trong khói sương. Trước thôn, sau thôn đều lung linh trong sương khói. Và do đó mà cảnh vật thật mơ hồ. Nửa như là có, nửa như là không trong ánh chiều tà đang tắt. Cái cảnh mờ ảo ấy không cho phép nhìn thấy đàn trâu và những chú bé chăn trâu đang trở về thôn. Bởi vậy mà chỉ nghe thấy tiếng sáo của trẻ chăn trâu vẳng đến mà đoán là trâu đã về hết. Có lẽ điểm nhìn của tác giả là qua cánh đồng rồi tới thôn làng. Bởi thế mà dù trước thôn và sau thôn mờ mờ trong sương khói, nhưng những đàn cò trắng, từng đôi vẫn sáng lên khi nhẹ nhàng hạ xuống cánh đồng. Một bức tranh phong cảnh thật đẹp, thật đặc biệt. Phải là một thời điểm đất nước thái bình, nhà vua mới có được phút thảnh thơi đắm chìm trong cảnh sắc thiên nhiên. Và cảnh sắc thiên nhiên ấy cũng chỉ có thể có trong hoàn cảnh đất nước thái bình thì mới có tiếng sáo trẻ chăn trâu, có những đàn cò trắng an nhiên liệng từng đôi xuống ruộng đồng. Bài thơ cho thấy tâm hồn thi sĩ yêu thiên nhiên dạt dào của một vị vua. 12

4. Nguyễn Trãi (1380 - 1442) Tên hiệu là Ức Trai, con Nguyễn Phi Khanh, cháu ngoại Trần Nguyên Đán, chính quán ở làng Chi Ngại, huyện Phượng Sơn (nay thuộc huyện Chí Linh, Hải Dương). Gia đình đã lập nghiệp mấy đời ở làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc (nay là xóm Nhị Khê, xã Quốc Tuấn, huyện Thường Tín, Hà Đông). Nguyễn Trãi được sinh ra ở đây. Năm 1400 Nguyễn Trãi đậu Thái học sinh đời nhà Hồ, có ra làm quan. Sau này giúp Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, bày mưu kế về mọi phương diện quân sự, chính trị, ngoại giao. Kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, ông thảo bài “Bình Ngô đại cáo” thay mặt Lê Lợi tuyên bố đất nước thái bình. Ông được nhà vua ban quốc tính (họ Lê) và tích cực tham gia triều chính. Năm 1442 vua Lê Thái Tông mất, triều đình đổ tội cho ông cùng bà Nguyễn Thị Lộ giết vua và khép vào án tru di. Mãi đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông mới giải oan cho ông. Nguyễn Trãi chẳng những là một vị anh hùng dân tộc, một nhà chính trị mà còn là một nhà đại văn hào.Tác phẩm của Nguyễn Trãi gồm: Giao tự đại lễ, Luật thư, Thạch bàn đồ, Dư địa chí, Ngọc đường di cảo, Quân trung từ mệnh tập, Ức Trai thi tập và Bình Ngô đại cáo. Thơ Nôm có Quốc âm thi tập (gồm 4 mục là Vô đề, Thời lệnh môn, Hoa mộc môn, Cầm thú môn). Bạch Đằng hải khẩu Sóc phong xuy hải khí lăng lăng Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng Quan hà bách nhị do thiên thiết Hào kiệt công danh thử địa tằng Vãng sự hồi đầu ta dĩ hĩ Lâm lưu phủ cảnh ý nan thăng Dịch nghĩa: Cửa biển Bạch Đằng Gió bấc thổi trên mặt biển, khí mạnh bừng bừng Nhẹ giương buồm thơ vượt qua sông Bạch Đằng 13

Dịch thơ: Núi nổi lên từng khúc như cá kình bị chặt, cá ngạc bị mổ Bờ lớp lớp chất chồng giáo bị gãy, đòng bị chìm Giang sơn hiểm trở do trời bày ra Các bậc hào kiệt đã từng lập công danh ở đây Việc trước nhìn lại thì đã qua rồi Đến cửa sông viếng cảnh lòng xiết bao cảm hoài. Cửa biển Bạch Đằng Biển lùa gió bấc thổi băng băng Nhẹ kéo buồm thơ vượt Bạch Đằng Ngạc chặt kình băm non lởm chởm Giáo chìm gươm gãy bãi giăng giăng Quan hà hiểm trở trời kia dựng Hào kiệt công danh đất ấy từng Việc cũ ngoảnh đầu ôi đã dứt Dòng trôi tìm bóng dạ bâng khuâng. Lời bình Dòng sông Bạch Đằng gắn với chiến công lừng lẫy của đất nước đã là nguồn cảm hứng cho nhiều nhà thơ các thế hệ khác nhau của dân tộc. Chúng ta đã từng biết đến thơ về Bạch Đằng của Trần Minh Tông, Trần Lâu, bài phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu, Bạch Đằng hải khẩu của Nguyễn Trãi, Quá Bạch Đằng giang, Xuất Bạch Đằng hải môn tuần An bang của Lê Thánh Tông,... Mỗi nhà thơ cảm nhận Bạch Đằng với một tâm trạng và diễn đạt điều đó bằng những bút pháp riêng. Nguyễn Trãi qua Bạch Đằng vào một ngày đầy gió mạnh: Biển lùa gió bấc thổi băng băng Nguyên văn “khí lăng lăng” mà có người dịch là thế bừng bừng. Khí lăng lăng như gợi nhớ lại không khí trận đánh mấy trăm năm trước. Bây giờ nhà quân sự và cũng là nhà thơ Nguyễn Trãi đang có mặt ở giữa nơi chiến trường xưa. Nhưng không chỉ đem con mắt của người làm tướng để xem chiến địa, mà chủ yếu như một nhà thơ du ngoạn. Vì thế con thuyền của ông rất thi sĩ giương cánh buồm thơ: Nhẹ kéo buồm thơ vượt Bạch Đằng. 14

Chữ “quá” có nghĩa là vượt qua. Nhưng hình như dịch vượt Bạch Đằng thì quá sát và do đó mất đi cái vẻ thanh thoát và bay bổng. Câu thơ dịch của Nguyễn Đình Hồ có lẽ đạt hơn: Nhẹ cất buồm thơ lướt Bạch Đằng Cửa biển Bạch Đằng bát ngát trời mây núi non hùng vĩ là “danh thắng núi sông vào bậc nhất”, “bên tả sóng nước ngút trời núi non đứng sừng sững”, Nguyễn Trãi đã chú thích về cửa biển này như vậy dưới bài thơ của mình. Có thể có nhiều cách cảm nhận và suy tư trước phong cảnh Bạch Đằng. Nhưng Nguyễn Trãi vốn là nhà quân sự - nhà thơ - nhà thơ cho nên cách cảm nhận mang dấu ấn độc đáo, đượm màu sắc lịch sử hào hùng: Ngạc chặt kình băm non lởm chởm Giáo chìm gươm gãy bãi giăng giăng. Xin hãy chú ý một chút về cách nhìn núi và nhìn bãi bờ sông. Cũng là một cách so sánh, nhưng nếu viết: Núi như cá sấu bị chặt, cá kình bị phanh thì trước hết vẫn là nhìn thấy núi. Nhưng Nguyễn Trãi tả: Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc Rõ ràng ấn tượng mạnh, ấn tượng bao trùm là cảnh cá sấu bị chém, cá kình bị băm. Đó là cảnh núi non, nhưng trước hết đó là cảnh quân giặc dữ bị băm vằm trên cửa biển này mấy trăm năm trước. Cũng như thế, khi nhìn bờ bãi thì chưa thấy bờ mà thấy tầng tầng giáo gãy gươm chìm. Ở đây cảm hứng lịch sử sống động mãnh liệt đã làm cho quang cảnh chiến địa được đẩy lên bình diện thứ nhất, còn cảnh thực thì lui xuống bình diện thứ hai. Cần phải so sánh thêm một chút để thấy rõ điều này. Cũng với hồn thơ ấy, cũng tả núi ở biển san sát hùng vĩ, nhưng núi ở Vân Đồn: Đường vào Vân Đồn núi lại núi Muôn hộc núi xanh đen tựa những làn tóc màu xanh rủ xuống núi Vân Đồn Còn đây núi ở cửa biển Thần phù: Ngàn ngọn núi sát bờ bày ra như măng mọc Điều này nói lên sự đa dạng trong cách cảm nhận của nhà thơ Nguyễn Trãi, nhưng trước hết do chính cảm hứng lịch sử đã khiến nhà thơ nhìn núi Bạch Đằng bằng cách nhìn như vậy. Cảnh núi hiểm trở là cảnh của thiên nhiên. Nhưng con người anh hùng và những chiến công của họ cũng góp phần làm cho cảnh sắc trở nên nổi tiếng. 2 câu thơ phần luận tiếp nối cảm hứng lịch sử ở trên. Sự đối sánh giữa núi non hùng vĩ và hào kiệt anh hùng gợi thêm suy tưởng. Có lẽ núi sông của thiên nhiên tạo ra như đã dành sẵn để 15

mãi mãi ghi chiến công của anh hùng hào kiệt. Và người anh hùng, tuy cuộc đời là hữu hạn nhưng với chiến công họ có thể trường tồn với núi sông. Việc cũ ngoảnh đầu ôi đã dứt Dòng trôi tìm bóng dạ bâng khuâng Nhà thơ Nguyễn Trãi thăm Bạch Đằng là để tìm lại người xưa với việc xưa. Cảnh thì vẫn như xưa đó, nhưng việc xưa với người xưa nào thấy đâu? Đến đây ta đoán ra vì sao trong câu thơ đầu tiên Nguyễn Trãi viết “gió bấc”. Ngày 8 tháng 3 năm Mậu Tí 1288 quân ta đại thắng trận Bạch Đằng. Rất có thể mấy trăm năm sau Nguyễn Trãi đến thăm Bạch Đằng đúng vào ngày, hoặc đúng vào thời gian gần ngày chiến thắng nhất. Đó là khi còn có gió bấc thổi và mọi cảnh vật gợi nhớ chiến địa rõ ràng hơn. Nhìn lại “vãng sự”, ngắm lại cảnh xưa vào thời điểm ấy xiết bao ý nghĩa. Là một nhà quân sự, một người đã giúp Lê Lợi làm nên những chiến công hào hùng của dân tộc ta ở thế kỉ XV, những chiến công có thể sánh ngang tầm vóc của các bậc hào kiệt thời trước, Nguyễn Trãi càng dễ dàng cảm xúc và hoài niệm. Một mối cảm xúc bâng khuâng xao xuyến trong lòng trước cảnh sắc núi sông một thời lừng lẫy chiến công. Có điều đáng nói là con người lừng danh này hết sức khiêm tốn, ông cảm xúc thuần tuý như là một công dân, một nhà thơ trước lịch sử chứ không hề với tư cách người làm nên lịch sử. Vì thế cảm xúc của Nguyễn Trãi gần gũi và thân thuộc với bất kì một người Việt Nam yêu nước nào trước lịch sử của cha ông. Bài thơ cho thấy thêm một nét đẹp trong tâm hồn phong phú trong sáng như sao Khuê của Nguyễn Trãi, nhà thơ - người anh hùng dân tộc thế kỉ XV. ỨC TRAI VỚI MÙA XUÂN Ở CÔN SƠN (Bình bài thơ Trại đầu xuân độ và Mộ xuân tức sự) Theo cụ Đào Duy Anh, hai bài thơ “Trại đầu xuân độ” (Bến đò xuân đầu trại) và “Mộ xuân tức sự” (Cuối xuân tức cảnh) trong tổng số 99 bài thơ chữ Hán của “Ức Trai thi tập”, Nguyễn Trãi viết khi ông lui về ở ẩn tại Côn Sơn. Lúc này, nhà đại trí thức Nguyễn Trãi đã không được tin dùng, đã bị nghi kị, gièm pha và lạnh nhạt. Tuy bị buộc phải về ẩn dật nơi rừng núi, lòng ngổn ngang bao nỗi niềm tâm sự, nhưng mặt khác ngay khi còn làm quan, Nguyễn Trãi lại ước ao: Như kim chỉ ái sơn trung trú Kết ốc hoa biên độc cựu thư Như nay ta chỉ thích ở trong núi Làm nhà bên hoa mà đọc sách xưa (Ngẫu thành) 16

Có phải thế chăng mà mùa xuân đến trong thơ Nguyễn Trãi vẫn mơ mộng, trong sáng và đầy sức sống. Dù chỉ có hai bài với 8 câu thơ xuân, nhưng nét xuân trong thơ Nguyễn Trãi vẫn in đậm dấu ấn tài hoa của một thi hào lớn, một cốt cách lớn sáng trong vằng vặc tựa sao Khuê. Trại đầu xuân độ Độ đầu xuân thảo lục như yên Xuân vũ thiêm lai thuỷ phách thiên Dã kính hoang lương hành khách thiểu Cô chu trấn nhật các sa miên Dịch thơ: Bến đò xuân đầu trại Cỏ xanh như khói bến xuân tươi Lại có mưa xuân nước vỗ trời Quạnh quẽ đường đồng thưa vắng khách Con đò gối bãi suốt ngày ngơi Khương Hữu Dụng dịch Xiết bao là thú vị khi ta được chiêm ngưỡng cảnh xuân quê hương đất Việt trên dưới năm trăm năm về trước. Một cái trại nhỏ, một bến đò ngang, dòng sông trôi mơ màng, nước và trời hoà lẫn. Tất cả cảnh vật được nhìn qua làn mưa mỏng của mùa xuân nên có màu sắc mơ hồ huyền ảo thật lạ lùng. Đầu tiên là sắc cỏ xuân: Cỏ xanh như khói... Với Nguyễn Trãi, cỏ cũng đã từng “rờn rờn xanh” trong câu thơ “vọng trung ngạn thảo thê thê lục” (Vân đồn). Nhưng đây là trường hợp duy nhất cỏ xanh như khói. Trong thơ Nguyễn Du, khi thì “Cỏ non xanh tận chân trời”, khi thì “Một vùng cỏ mọc xanh rì” cũng chưa thấy cái sắc xanh như khói ấy. Mà chả riêng gì sắc cỏ, bầu trời và dòng song cũng có sự tương hợp lạ lùng. Trời như gần lại, thấp xuống, còn dòng sông thì nước đầy lên, tưởng có thể vỗ sóng vào bầu trời như lụa. Cảnh sắc thật êm đềm, tĩnh lặng, mơ màng. Tuy vậy, nhìn kĩ vẫn thấy là cảnh động. Một sự chuyển động nhẹ nhàng, kín đáo: ngọn cỏ vờn, bụi mưa bay, làn sóng vỗ. Đơn sơ mà đầy sức sống mùa xuân. Bài thơ như một bức tranh. Bầu trời, mặt nước, sắc cỏ, con đường nhỏ chạy giữa cánh đồng như làm nền tôn thêm vẻ đẹp cho con thuyền đang nằm gối bãi: Cô chu trấn nhật các sa miên Thuyền côi gối bãi ngủ thâu ngày Thật khác xa với sự nhộn nhịp của bến đò nơi thành thị làm ăn xô bồ “eo xèo mặt nước buổi đò đông”, cũng không có cái sống động phơi phới của nhịp chèo đang rộn ràng khua nước. Phải yên tĩnh lắm, vắng vẻ lắm nên con thuyền mới thành ra thuyền côi (cô 17

chu) đơn chiếc bên sông. Và cũng yên tĩnh lắm nên con thuyền mới có thể mơ màng chìm trong giấc ngủ. Cảnh sắc ấy gợi nhớ chuyện Nguyễn Trãi lánh cõi trần tục, tránh chốn bụi hồng nơi đô hội phồn hoa. Cảnh trần đấy, nhưng đã thấy thấp thoáng cõi tiên. Thành ra con thuyền giờ cũng mang một vẻ riêng. Con thuyền của Nguyễn Trãi trong thơ đã từng gối bãi, nhưng không cô đơn, chan hoà trong ánh trăng và giữa cảnh non nước tươi đẹp: Nước biếc non xanh thuyền gối bãi Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu Bảo kính cảnh giới 26 Đó còn là con thuyền từng băng băng lướt trên sóng Bạch Đằng đầy không khí lịch sử hào hùng: Biển lùa gió bấc thổi băng băng Nhẹ kéo buồm thơ lướt Bạch Đằng Bạch Đằng hải khẩu Nhưng có lẽ ngoài con thuyền thực đậu nơi bến vắng, con thuyền còn kí thác một tâm sự cô đơn, muốn nguôi quên, muốn chìm vào nơi hẻo lánh để di dưỡng tinh thần không gợn chút bụi trần của nhà thơ. Nguyễn Trãi vốn tinh tế, hào hoa. Vả chăng ông cũng không muốn đem phô bày tâm sự “Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông” của mình; không muốn mượn cảnh xuân mà trút niềm canh cánh, làm hỏng bức tranh xuân. Thành ra, chuyện tâm sự là có, nhưng nó thấp thoáng, nó quyện vào cảnh xuân hết sức yên tĩnh, mơ mộng của một bến đò lồng lộng vẻ đẹp vừa thực vừa mơ. Bây giờ chúng ta hãy rời bến đò để ghé thăm Ức Trai nơi phòng sách vào lúc cuối xuân. Mộ xuân tức sự Nhàn trung tận nhật bế thư trai Môn ngoại toàn vô tục khách lai Đỗ vũ thanh trung xuân hướng lão Nhất đình sơ vũ luyện hoa khai Dịch thơ: Cuối xuân tức cảnh Trọn ngày thong thả khép phòng văn Khách tục bên ngoài chẳng bén chân Khắc khoải quyên kêu xuân đã muộn Hoa xoan mưa nhẹ nở đầy sân Đào Duy Anh dịch 18

Không gian trong bài thơ này thu hẹp lại. Trong bài thơ bến đò, nó mở ra với dòng sông, với bầu trời, với con đường, với cánh đồng. Còn ở đây nó thu vào trong phòng sách mà Nguyễn Trãi đóng cửa suốt ngày. Nếu ở bài thơ trước “hành khách thiểu” thì ở đây “toàn vô tục khách lai” – một đằng có người, nhưng ít; còn một đằng là không hề có một ai. Nếu trong bài thơ “Mạn thuật 5”, Nguyễn Trãi còn ngỏ cửa (Thú thanh phong, lều một gian. Ngỏ cửa nhỏ, chờ khách đến), thì ở đây ông đóng cửa suốt ngày. Có nhà nghiên cứu quá nệ vào chữ “tục” (tục khách) và căn cứ vào sự cao khiết của Nguyễn Trãi mà giảng như đinh đóng cột rằng tục khách là “kẻ tầm thường, thiếu nhân cách, ham danh lợi, không thanh cao”. Không hẳn là như thế. Tục khách ở đây là khách ở cõi tục, khách của cõi trần, của đời thường mà Nguyễn Trãi đã rời bỏ, đã lánh xa. Không có khách tục, vậy là chốn phòng văn khác nào tiên cảnh, tách biệt với những ồn ào, náo nhiệt, bụi bặm của trần gian. Nguyễn Trãi như đang ẩn giữa rừng nho biển thánh, trọn ngày đắm mình trong sắc hương tư tưởng, đạo đức của tiền nhân giữa những áng cảo thơm. Thật là một cách ở ẩn độc đáo của người trí thức. Nhưng không chỉ có thế. Đóng cửa đấy, nhưng mùa xuân vẫn tràn qua cửa khép bằng âm thanh tiếng cuốc, bằng mùi hương của hoa xoan. Thành ra đóng cửa mà vẫn giao cảm. Đóng cửa phía cõi tục để mở hồn về phía cõi tâm và cõi thần tiên. Khắc khoải quyên kêu xuân đã muộn Hoa xoan mưa nhẹ nở đầy sân Thoáng qua, người ta dễ nghĩ đến tứ thơ của Mãn Giác thiền sư: Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết Đêm qua sân trước một nhành mai Nhưng hai thi sĩ lớn của hai thời đại đâu có chuyện lặp lại nhau? Trong thơ Nguyễn Trãi, mùa xuân đang già (xuân hướng lão) trong tiếng cuốc kêu khắc khoải, mùa xuân đang chuyển với mưa bụi, với hoa xoan. Và chớ nên tách bạch 2 câu thơ này với 2 câu thơ trước vốn gắn bó hài hoà, gợi một phòng sách đầy hương tư tưởng giữa một sân đầy mưa, dưới một vòm lộc xoan đã thành xum xuê, và sau cùng là dưới một vòm hoa đã nở, đang nở dưới mưa nhuần. Ở đây có nét xuân nghe thấy (tiếng cuốc), có nét xuân nhìn thấy (mưa bụi, hoa xoan) nhưng xin đừng quên nét xuân cảm thấy (hương xoan). Nét xuân cảm thấy mới là cơ bản. Phải chăng với lí do này mà Nguyễn Trãi đã phải cẩn thận ghi chú dưới bài thơ: “Sách Nhĩ nhã nói cây xoan tháng ba nở hoa thơm phức cả sân”. Vậy là Nguyễn Trãi cảm xuân từ tiếng cuốc và từ mùi hương. Nhiều người giảng bài thơ này thường quên một sân hương xoan thơm phức của Ức Trai. Từ tiếng cuốc kêu vọng vào, từ mùi hương lọt vào, Nguyễn Trãi cảm nhận hoa xoan đang nở, cảm nhận cả mưa xuân lất phất ngoài phòng trai, cảm nhận cả cái yên tĩnh tuyệt đối, vắng lặng tuyệt đối “Môn ngoại toàn vô tục khách lai”. Bài thơ có nhan đề “Mộ xuân tức sự”. Phải chăng nhà thơ chỉ ghi lại toàn sự việc? Lẽ nào đằng sau chuyện “xuân hướng lão” mà hoa xoan vẫn bừng nở đầy sân kia không ngụ 19

một chút lòng Ức Trai? Lẽ nào đó không phải là một nỗi niềm trước cảnh thiên nhiên: Lòng ưu dân ái quốc mãi mãi tràn đầy, mãi mãi như sức xuân bất chấp tuổi tác, bất chấp thời gian? Cái hay của bài thơ là ở chỗ tâm sự của nhà thơ hài hoà trong cảnh xuân, đằm sâu trong sắc xuân, chứ không mượn cảnh xuân mà bộc lộ. Niềm tâm sự ấy càng làm cho bức tranh xuân thêm lộng lẫy thêm vì nó mang hồn người viết. 5. Hồ Xuân Hương Hồ Xuân Hương là con ông đồ nho Hồ Phi Diễn, nguyên quán ở Nghệ An và một người thiếp người Hải Dương. Bà lớn lên ở Hà Nội, về sau có lúc ở Hà Nội, có lúc đi lại đó đây. Lúc trẻ bà đã nổi tiếng là người học giỏi, hay thơ Nôm và ứng đối hoạt bát. Bà không gặp may mắn trong đường tình duyên. Hai lần lấy chồng đều làm lẽ và chồng mất sớm. Hiện không rõ năm sinh năm mất của bà. Chỉ biết rằng bà sống vào thời kì tàn cuộc của Lê và Trịnh, thời hưng thịnh và suy vong của Tây Sơn và buổi đầu của triều Nguyễn. Về tác phẩm, người ta chỉ thấy một số bài thơ Đường luật quốc âm của bà, tập hợp thành tập nhan đề là “Xuân Hương thi tập”. Xuân Hương và cái hồng nhan Bất chấp sự mơ hồ, không chăc chắn về tiểu sử, về đời tư của nữ sĩ họ Hồ, bất chấp về những bài thơ giả, thơ mạo trà trộn vào làm đau đầu các nhà nghiên cứu, trong tâm trí người Việt Nam luôn luôn in đậm hình ảnh “Bà chúa thơ Nôm”. Bà chúa này độc đáo vì nếu các ông hoàng vừa nghiêm trang đạo mạo, thông kim bác cổ, vừa phong vận đứng đắn, có phóng túng lắm cũng không vượt qua cốt cách tài tử... thì Xuân Hương là một cô nương tuy con nhà khuê các mà tính tình lại rất bình dân. Cách nói năng của bà táo bạo, ngoa ngoắt nhưng của một người vừa có duyên lặn vào trong lại cũng ngồn ngộn những duyên bong ra ngoài.Thành ra những người đúng mực, khó tính nhất thì cũng chỉ có thể vừa bực lại vừa nể, vừa ghét lại vừa yêu. Còn những ai hồn nhiên, không ưa đạo đức giả thì mê như điếu đổ. Sự độc đáo vô song của thơ Hồ Xuân Hương chính là tính song nghĩa của thơ bà: sự vật nào, hành động nào được nói đến trong thơ cũng vừa là nó lại vừa khác nó. Tả cái quạt thì đích là cái quạt, nhưng không phải chỉ có cái quạt. Cái giếng thanh tân, cái bánh trôi, quả mít, con ốc nhồi, động Hương Tích, hang Cắc Cớ, đèo Ba Dội đều như thế. Các hoạt động đánh đu, dệt cửi, đánh cờ người, trèo đèo “mỏi gối chồn chân”... không thể không làm cho những ai từng hiểu biết trong hay ngoài cuộc mỉm cười. Hồ Xuân Hương là nhà thơ số một của thế giới có thể đem cái “chuyện ấy” ra nói ở trong thơ, nói một cách 20

tao nhã. Lại nói ở một nơi mà ảnh hưởng đạo đức phong kiến khá nặng nề. Hoàn cảnh Việt Nam và cả thế giới hồi đó chưa tiến bộ như bây giờ. Như vậy nữ sĩ họ Hồ đã đi trước thời đại mấy trăm năm. Người ta truyền tụng, nói nhiều đến tính chất táo bạo, ngang ngược, nghịch ngợm, quyết liệt của Hồ Xuân Hương. Bà đã ngang nhiên nói toẹt ra cái bản chất người ở mọi tầng lớp trong xã hội. Từ tầng lớp chóp bu “chúa dấu vua yêu một cái này” đến các bậc thức giả. Hiền nhân quân tử ai đà chẳng Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo đến người dân bình thường gọi nhau nôm na “bố cu, mẹ hĩm”: Chồng con cái nợ là như thế Nhưng ngay cả sự thẳng thắn ấy, ta vẫn thấy có một trình độ văn hoá rất cao, bởi vì nhà thơ không chỉ nói trần một vật cũng như trần một việc. Đọc Hồ Xuân Hương có cảm giác bà luôn gồng lên để đối chọi với xung quanh, đối chọi với sự o ép của xã hội. Một người phụ nữ nhưng xưng hô hoàn toàn không có chút nữ tính nào. Toàn những trống không hoặc “đây”, “thân này”, “chị”. Chỉ có hai bài xưng “thiếp”, nhưng một thì chỉ là nhằm mục đích gọi ra chữ “chàng” một loại con trong họ hàng nhà Cóc. Còn bài kia “thiếp” lại là người bề trên giảng giải, căn dặn với tinh thần lượng cả bao dung: Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa Mảnh tình một khối thiếp xin mang Trong hai bài đó, chỉ có một bài thơ Khóc tổng Cóc là xưng hô trực tiếp, bài còn lại là mượn lời người phụ nữ cả nể. Có hai lần xưng “em” thì đều là gián tiếp khi để cho cái bánh trôi và quả mít tự giới thiệu mình. Xuân Hương là như thế. Không thể nói dịu dàng. Ngay cả khi mời trầu lẽ ra phải duyên dáng tình tứ thì Hồ Xuân Hương lại đơn giản, mộc mạc và nghịch ngợm: trầu hôi, cau nhỏ, quệt vôi. Trầu đem mời khách, người Việt ta có một chữ rất hay là “têm” trầu. Trầu để ăn thường ngày, ăn trong nhà, vội thì mới “quệt”. Trầu đem mời khách thì phải là trầu ngon, trầu vàng, với bao nhiêu phụ liệu quý giá nữa (trầu này têm những vôi tàu, giữa thêm cát cánh hai đầu quế cay). Cau cũng vậy phải chọn cau sáu (bổ sáu) quả vừa to, vừa đủ độ không quá non và không quá già. Thế nhưng Xuân Hương mời trầu bằng trầu hôi, cau nhỏ, và “quệt” chứ không “têm”. Có vẻ như là không quý mến khách lắm, “có sao mời vậy”. Nhưng đằng sau sự thật thà, mộc mạc, không một chút làm duyên ấy là khát vọng hạnh phúc mãnh liệt: ao ước miếng trầu được nhận, được ăn. Để rồi tất cả trở nên đằm thắm chứ không phải là miếng trầu vô duyên “xanh như lá - bạc như vôi”. Phải là con mắt xanh tri âm tri kỉ mới nhận miếng trầu đơn giản, thân tình từ kiểu mời trầu không bình thường đó. Phải là người thấu được và chịu được, thậm chí thích cách nói của Hồ Xuân Hương, thừa nhận cái quạt làm mát mặt anh 21

hùng và che đầu quân tử thì mới dám ăn miếng trầu đó, mới cảm thấy hết sự mặn nồng của miếng trầu hôi. Về khát vọng tình yêu và hạnh phúc, tưởng như có hai kiểu thơ, hai con người Xuân Hương. Xuân Hương ban ngày và Xuân Hương của ban đêm, Xuân Hương bên ngoài và Xuân Hương bên trong, Xuân Hương biểu hiện và Xuân Hương bản chất. Người ta thấy bà nghịch ngược, chế diễu cả thần thánh, ghét cay ghét đắng những người tu hành, làm đỏ mặt những anh hùng, hiền nhân, quân tử. Tưởng như con người bà là kẻ bất cần đời. Ngay cả Chiêu Hổ, một người xướng hoạ với Xuân Hương thông minh, đáo để, đáng xếp vào hàng tri kỉ tri âm mà cũng nặng lời hằn học khi đối lại vế ra của bà. Hỏi còn mấy người hiểu thấu nỗi bi kịch của con người bề ngoài luôn luôn tỏ ra cứng cỏi, bản lĩnh, dám “xắn váy” lội qua tất cả những luật lệ đạo đức ngặt nghèo của chế độ phong kiến. Còn có một Xuân Hương khác. Xuân Hương khao khát dịu hiền, khao khát hạnh phúc đời thường - một Xuân Hương đầy những nỗi buồn duyên phận. Đó là Xuân Hương của những bài thơ tự tình, Xuân Hương tự đối diện với chính mình trong tâm trạng cô đơn não nuột: Mõ thảm không khua mà cũng cốc Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om Tiếng mõ mô phỏng mõ thật, cái mõ thảm ở trong lòng kêu giật lên. Tiếng chuông cũng không phải chuông thật, mà là chuông sầu đang ngân âm ỉ. Nỗi sầu thảm kêu lên như mõ, âm ỉ như chuông phải là nỗi sầu thảm ở độ nào, ở mức nào mà không khua, chẳng đánh vẫn kêu. Một bên thì thoát ra ngoài bằng tiếng “cốc” khô khốc mà nhói đau, còn bên kia thì lặn vào trong, âm thầm thiêu đốt không kém phần nhức nhối. Có ai ngờ Xuân Hương cô đơn và yếu đuối đến mức này không? Con người dám chống lại tất cả, bất cần đời tung hê tất cả ấy vẫn là một người đàn bà. Trong sâu thẳm trái tim vẫn có một khao khát rất đàn bà giản đơn, bình dị: lấy chồng rồi đẻ cái, sinh con. Bởi thế cho nên mới có sự giận hờn: Sau giận vì duyên để mõm mòm Giận ai? Giận xã hội, giận hoàn cảnh, giận tài tử văn nhân, giận duyên giận phận và giận mình? Có lẽ là tất cả. Vì sao không thể xe duyên, lấy chồng khi “Quả mai ba bẩy đương vừa”? Vì sao để cho duyên muộn, duyên quá chín “mõm mòm”- chín nẫu, chín như sắp rụng thế kia? Chính vào lúc khuya khoắt, lúc một mình cô đơn “Trơ cái hồng nhan với nước non”, không cần phải lên gân, không cần phải che đậy, con người thật của Xuân Hương mới cởi bỏ những thứ vốn “quen mất nết đi rồi” (chữ của Nguyễn Du). Chợt nhớ một bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Nguyễn Hoàng Sơn với câu thơ chân thành nhất, câu thơ tự thú: Nhưng quả thật nhiều đêm mơ anh khóc như đứa trẻ 22

Rồi sớm mai lại mang cái mặt kẻ mạnh ra đường (Nhưng quả thực) Khóc vì chỉ có đêm, một mình, lúc ấy mới trở lại được với chính mình, mới sống giây phút thư giãn, đời thường. Ngày ấy Xuân Hương tương tự thế. Và cái giây phút ấy cũng không lâu lắm. Ban ngày sầu thảm bị nén lại, bị quên đi. Chỉ ban đêm chúng mới được nổi lên như chuông, như mõ. Nhưng Xuân Hương cứng rắn, mạnh mẽ lắm. Rầu rĩ, giận hờn xong lại là Xuân Hương như người ta thường thấy: Tài tử văn nhân ai đó tá Thân này đâu đã chịu già tom Ngoài đời Xuân Hương phải lấy ông tổng Cóc, lấy ông phủ Vĩnh Tường, nhưng trong lòng thơ bà vẫn khao khát “Tài tử văn nhân”, vẫn mơ ước “Hiền nhân quân tử”. Bà không thể qua quýt nhưng quyết liệt như cô gái bình dân kia vội vã: Trời mưa nước chảy qua sân Em lấy ông lão móm cho qua lần thì thôi Cô gái lấy ông lão đấy, nhưng khao khát hạnh phúc đích thực vẫn khôn nguôi Bao giờ ông lão chầu trời Thì em lại lấy một người giai tơ Hồ Xuân Hương dẫu có đầy sầu thảm về duyên phận, dẫu có giận dữ bực bõ đến mấy vẫn phải cư xử theo bản lĩnh của mình. Chỉ có thể làm bạn với tài tử văn nhân. Dù duyên mõm mòm vẫn quyết không chịu già, quyết không chịu đầu hàng hoàn cảnh và số phận. Thật là kiêu hãnh và đáng khâm phục! Nhưng cũng thật đáng thương! Bánh trôi nước Thân em vừa trắng lại vừa tròn Bảy nổi ba chìm với nước non Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn Mà em vẫn giữ tấm lòng son Lời bình Hồ Xuân Hương có tiếng là người nghịch ngược. Cái chất nghịch ngược ấy có thể nhìn thấy trong cách xưng hô ngôi thứ nhất của nhà thơ. Khi xưng tên trống không ranh mãnh: Này của Xuân Hương đã quệt rồi Mời trầu 23

Khi thì ngang tàng khinh mạn: Ví đây đổi phận làm trai được Đề đền Sầm Nghi Đống Khi thì ngọt ngào nhưng đầy vẻ trịch thượng bề trên: Lại đây cho chị dạy làm thơ Mắng học trò dốt Khi thì đành hanh táo tợn: Này này chị bảo cho mà biết Trách Chiêu Hổ Ngay cả lúc xưng hô bình thường “thiếp - chàng” như mọi người thì chữ “thiếp” của nữ sĩ vẫn ánh lên nét nghịch ngầm tai quái - nó là cớ để gọi ra “chàng” ra “bén” họ hàng của nhà Cóc. Nhà thơ cũng tự xưng là “thân này” trong một số bài thơ khác. Sắc thái của “thân này” cũng chẳng giống nhau. Có khi rắn rỏi thách thức: Thân này đâu đã chịu già tom Tự tình Có khi lại dằn dỗi pha chút ngậm ngùi: Thân này ví biết dường này nhỉ Làm lẽ Thế mà trong bài Bánh trôi nước nhà thơ xưng “em” hai lần, xưng “em” với nghĩa thân mật dịu dàng đích thực của từ này. Đó là một điều đáng chú ý. So sánh với các câu đố dân gian thì một số bài thơ của Hồ Xuân Hương về cái quạt, quả mít, bánh trôi nước là những câu đố tuyệt đẹp. Ở đây thể hiện tài quan sát, óc nhận xét sắc sảo, sự lựa chọn chi tiết tiêu biểu khái quát của nhà thơ đối với sự vật. Những điều làm nên chất Xuân Hương chính là ở chỗ người ta không chỉ giải đố tìm ra các sự vật, mà cùng với sự vật ấy là hoạt động, là số phận của con người, là những chuyện sinh hoạt giới tính của họ. Kể về cái bánh trôi, thì chi tiết như thế là không lẫn được: thân trắng, hình tròn, nhân đường đỏ, lúc mới luộc thì chìm, khi chín thì nổi lên. Bánh có thể rắn, có thể nát do khả năng người làm bánh. Nhưng đâu phải là cái bánh trôi nữa khi sự chìm nổi thuần tuý vật lí kia trở thành “bảy nổi ba chìm” trở thành long đong lận đận của con người. “Rắn nát mặt dầu tay kẻ nặn” lại cũng thành chuyện con người - người phụ nữ chân yếu tay mềm không có địa vị, không có quyền hành, không thể định đoạt số phận của mình. Đó là chuyện khách quan, chuyện xã hội. Nhưng dù bảy nổi ba chìm, dù rắn hay nát thì vẻ đẹp bên trong của tấm bánh, hay cũng là vẻ đẹp của tâm hồn con người vẫn không có gì có thể đổi thay. 24

Cái hay của bài thơ là từ chuyện một tấm bánh trôi gợi lên cả một đời của người phụ nữ sáng ngời vẻ đẹp bất chấp vất vả gian nan, bất chấp mọi hoàn cảnh xã hội trọng nam khinh nữ. Lòng son ấy là sự thuỷ chung, ấy là lương tâm, là phẩm giá. Có thể nghĩ rằng do ảnh hưởng lối diễn đạt trong các câu đố dân gian mà nữ sĩ đã xưng “em” - mượn lời chiếc bánh trôi được nhân hoá - làm cho câu thơ có một vẻ dịu dàng hiếm thấy. Nhưng hình như ở đây Hồ Xuân Hương không chỉ nói về bản thân mình, mà nói cả về giới mình, cho nên xưng “em” là rất hợp. 6. Bà Huyện Thanh Quan Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, là con ông Nho Dương, người làng Nghi Tàm, nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Bà lấy ông cử Lưu Nghi, người làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì. Chồng bà làm tri huyện Thanh Quan (thuộc Thái Ninh), tỉnh Thái Bình, do đó mà bà có tên gọi là Bà Huyện Thanh Quan. Bà làm cung trung giáo tập đời vua Tự Đức. Bà là một trong số nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại ngày xưa. Thanh Quan và mảnh tình riêng Qua đèo ngang Bước tới đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen đá, lá chen hoa Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà Nhớ nước đau lòng con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia Dừng chân đứng lại trời non nước Một mảnh tình riêng ta với ta Lời bình Thời điểm nhà thơ đặt chân lên đèo Ngang là vào lúc hoàng hôn, thời gian của buổi chiều đã sắp hết vì thế mà “chiều tà bóng xế” được rút gọn rất chính xác thành ra “bóng xế tà”chứ không phải là “bóng xế chiều”. Bóng xế tà, nhưng vẫn còn đủ sáng để nhìn gần và nhìn xa bao quát toàn bộ cảnh vật đèo Ngang. Trên đèo, trước mắt người đi hiện ra sự um tùm, rậm rạp đến rợn ngợp. Đèo Ngang có cỏ, có cây, có đá, có lá, có hoa. Thật ra thì chỉ có ba loại là cỏ, cây và đá mà thôi. Thêm lá, thêm hoa vào chính là một thủ pháp làm tăng thêm chi tiết về số lượng. Nhưng ấn tượng về sự um tùm, rậm rạp được tạo ra chính là nhờ hai chữ “chen” nêm vào giữa năm yếu tố đó một cách đầy sáng tạo. Câu thơ bảy chữ bỗng trở nên chật cứng, trở nên rậm rạp bởi các chi tiết số lượng tăng lên theo cấp số 25

nhân qua hai lần “chen” giữa chúng. Hình như người qua đèo Ngang cũng phải “chen” trong um tùm của thiên nhiên hoang dã. Vượt qua đèo phóng tầm mắt ra xa, không gian thoáng rộng. Nhưng cũng giống như trên đèo, ấy là sự ngự trị của thiên nhiên, ngự trị hầu như tuyệt đối của thiên nhiên. Nếu ở trên đèo toàn là màu xanh, màu xám của đá, của hoa lá cỏ cây, thì ở đây đã có dấu hiệu của con người, dấu hiệu của sinh hoạt xã hội. Nhưng hãy xem: Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà “Mấy”, “vài” là số đếm lượng ít ỏi. Đã thế lại “lác đác” lại “lom khom”. Có con người đấy nhưng vừa ít ỏi, vừa nhỏ bé, vừa xa ngái, họ như chìm lút đi dưới bóng núi trùm lên. Thành ra trên đèo Ngang người chen trong cây lá, dưới đèo Ngang người cũng bị cây lá, núi đá lấn át. Những “chấm người” trong bát ngát của thiên nhiên không có mối liên hệ càng gợi lên mối cách xa vời vợi mà thôi. Rộ lên trên đèo là tiếng chim - nhưng không phải là những tiếng hót véo von mà là tiếng khắc khoải của con cuốc và tiếng réo rắt của chim đa đa. Sự tích chim cuốc, chim đa đa gắn liền với những câu chuyện buồn. Âm thanh của chúng trên đèo vắng, khi hoàng hôn xuống càng gợi buồn da diết. Ở đây người ta thường có một lầm lẫn giữa đối tượng cảm nhận của nhà thơ với chính nhà thơ. Đành rằng bà Huyện Thanh Quan hay hoài cổ, nhưng “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc” đâu có phải là tình cảm trực tiếp của nhà thơ? Hơn thế nữa, nếu bảo đây là “mượn cảnh ngụ tình” thì bà nhớ nước nào? Nước Việt lúc ấy đã thống nhất từ lâu. Chưa có căn cứ nào để tin rằng bà là người cựu thần trung thành với nhà Lê mà kết luận nhà thơ nhớ về nước cũ. Vậy phải chăng nhớ nước, thương nhà với “quốc quốc”, “gia gia” ở đây chỉ thuần tuý là nghệ thuật chơi chữ? Không hẳn là như vậy. Trước hết đó là âm thanh gợi nhớ, gợi thương. Sau nữa nhà thơ đang trên đường qua đèo Ngang, đang đi làm việc nước, mà người đàn bà thân gái dặm trường có bao nhiêu nỗi niềm về chuyện gia đình. Thì tiếng cuốc cuốc gia gia vọng lên ở đây nhiều ý nghĩa lắm chứ. Chẳng thế mà nhà thơ đã phải dừng chân đứng lại bước đi không đành. Nếu so sánh với bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà” ta thấy nữ sĩ khá vội vàng: Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi Dặm liễu sương sa khách bước dồn Đây cũng là cảnh chiều, đây cũng là cảnh hoang vắng, nhưng nhà thơ như thoáng chút sững sờ. Tất cả cảnh vật cụ thể ở trên giờ như nhoà đi, như lặn vào một không gian còn bát ngát hơn, rộng lớn hơn. Trời - non - nước. Và đối diện với cái bát ngát ấy là tâm sự của nhà thơ một mình biết, một mình hay. Một mảnh tình riêng ta với ta Đối diện với thiên nhiên như thế rất phụ nữ mà cũng rất Thanh Quan, một chuyện hiếm thấy trong thơ cổ. 26

7. Nguyễn Văn Siêu (1796 - 1872) Tên tự là Tốn Ban, hiệu Phương Đình, nguyên người làng Kim Lũ, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông, sau thiên cư đến thôn Dũng Thọ, huyện Thọ Xương (nay ở về vùng các phố Lương Văn Can, Hàng Bạc, Mã Mây, Hàng Giầy trong thành phố Hà Nội), đỗ Phó bảng năm Minh Mệnh thứ chín (1828), làm quan đến chức Án sát, có sang sứ Trung Quốc, sau cáo quan về, dạy học trò nhiều người thành đạt. Ông là bạn học với Cao Bá Quát, hai người cùng là nhà văn lỗi lạc, nên thời ấy có câu: “Văn như Siêu Quát vô Tiền Hán” (Văn như Siêu và Quát, thì đến văn đời Tiền Hán cũng không giá trị gì – có sách chép Tiền Tấn). Tác phẩm của Nguyễn Văn Siêu gồm có: Phương Đình thi thoại, Phương Đình thi tập, Phương Đình văn loại, Phương Đình tuỳ bút lục, Phương Đình thi văn tập, Phương Đình địa chí, Phương Đình địa dư toàn biên... Bài thơ Nhị Hà đối nguyệt trích trong Phương Đình thi tập. Nhị Hà đối nguyệt Duyên lưu yên hoả thiên thôn quýnh Bạc phố châu phàm vạn lí thông Lao lạc khách tình đương ngạn bắc Bồi hồi phiến nguyệt tự giang đông Vân đê viễn thụ tà khuy thuỷ Thiên khoát cao lâu dị đáo không Vũ trụ khan lai hữu chi lạc Tiêu thâm ý vị hữu thuỳ đồng Dịch nghĩa Ngắm cảnh trăng trên sông Nhị Hà Hàng nghìn thôn xóm xa xa, lập loè khói lửa hai bên sông Thuyền bè đậu trên bến, giao thông với ngoài muôn dặm Tình khách chơi vơi trên bờ Bắc Mảnh trăng lơ lửng phía đông dòng sông 27

Áng mây rà thấp, bóng cây xa dòm nghiêng xuống nước Bầu trời rộng lớn, ngồi lầu cao dễ chạm tới tầng xanh Cảnh vũ trụ xem ra rất vui thú Cái ý vị lúc đêm khuya có ai giống ta không? Lời bình Đây là một bài thơ ngắm cảnh trăng trên sông Nhị Hà (Nhĩ Hà) tức sông Hồng. Chắc là trăng phải rất trong và sáng nên cảnh vật mới hiện ra lồng lộng, xa xa. Không gian trước mặt thi sĩ là một không gian rộng, có ánh lửa khói lập loè của hàng ngàn thôn xóm trù phú hai bên bờ sông. Còn trên các bến sông là thuyền bè neo đậu sẽ toả đi muôn dặm. Cảnh hùng vĩ đó làm cho tỉnh cảm của thi sĩ như chơi vơi trên bờ Bắc. Trên không gian cao hơn là mảnh trăng lơ lửng phía Đông dòng sông. Điều độc đáo là vị trí ngắm cảnh của thi nhân. Không phải là trên thuyền, cũng không từ một góc sân, hay từ một căn nhà. Vị trí đó là một tầng lầu cao ngất có cảm giác như chạm vào bầu trời xanh: Thiên khoát cao lâu dị đáo không Bầu trời rộng lớn, ngồi lầu cao dễ chạm tới tầng xanh Một hình ảnh thơ thật hoành tráng, lãng mạn. Ở nơi cao đó nên mới thấy mây như thấp xuống, và có thể nhìn thấy bóng cây như soi nghiêng xuống mặt nước sông. Câu thơ gợi nhớ hình ảnh đẹp cổ điển trong bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu: “Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ” mà thi sĩ Tản Đà sau này dịch Hán Dương sông tạnh cây bày. Chỉ có khác chăng là đây là cảnh đêm trăng nên “bóng cây xa dòm nghiêng xuống nước” sẽ không thật nét. 2 câu kết bài thơ, người viết khẳng định vẻ đẹp rất thú vị của đêm trăng sông Hồng. Và tự hỏi, có người nào đồng cảm, cùng thấy sự ý vị của cảnh vật như mình hay không. Đây chính là loại câu hỏi để một lần nữa nhấn mạnh cảnh ngắm trăng trên sông Hồng lúc đêm khuya từ một lầu cao là hết sức thơ mộng, hết sức thi vị. Và đó cũng chính là tình cảm của một người yêu đời, yêu quê hương, yêu Hà Nội trong khoảnh khắc “Nhị Hà đối nguyệt”. 28

8. Cao Bá Quát Cao Bá Quát tên hiệu là Chu Thần, người xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, nay là Hà Nội, đỗ cử nhân, làm quan nhỏ ở bộ Lễ rồi làm giáo thụ phủ Quốc Oai, Sơn Tây. Là một danh sĩ đời Thiệu Trị và Tự Đức, ông bị dìm vì có tư tưởng ngang tàng, phóng túng. Ông tham gia khởi nghĩa nông dân do Lê Duy Cự cầm đầu ở Mĩ Lương, huyện Mĩ Đức với vai trò quân sư. Năm 1855 cuộc khởi nghĩa bị thất bại, ông bị chết trong trận đánh. (Có thuyết nói ông bị bắt và bị xử trảm năm 1854). Khi ở Kinh thành Huế, ông từng làm nhân viên tuỳ tùng trong sứ bộ đi Tân gia ba (Indonesia). Ông để lại một số ca trù, thơ, phú, câu đối chữ Nôm và mấy tập thơ chữ Hán: Chu Thần thi tập, Cúc Đường thi loại, Mẫn Hiên thi tập, Mẫn Hiên thi loại. Sa hành đoản ca Trường sa phục trường sa Nhất bộ nhất hồi khước Nhập nhập hành vị dĩ Khách tử lệ giao lạc Quân bất học tiên gia mĩ thuỵ ông (1) Đăng sơn thiệp thuỷ oán hà cùng! Cổ lai danh lợi nhân Bôn tẩu lộ đồ trung Phong tiền tửu điếm hữu mĩ tửu Tỉnh giả thường thiểu tuý giả đồng Trường sa, trường sa nại cừ hà? Thẩn lộ mang mang uý lộ đa. Thính ngã nhất xướng cùng đồ ca (2) Bắc sơn chi bắc sơn vạn điệp Nam sơn chi nam ba vạn cấp (3) Quân hồ vi hồ sa thượng lập? 29

Dịch nghĩa Bãi cát dài lại bãi cát dài Đi một bước như lùi một bước Mặt trời lặn mà vẫn còn đi Khách (trên đường) nước mắt lã chã rơi. Anh không học được ông tiên có phép ngủ kĩ Cứ trèo non lội nước mãi, bao giờ cho hết ta oán! Xưa nay người danh lợi Vẫn tất tả ở ngoài đường sá. (Hễ) quán rượu ở đầu gió có rượu ngon, (Thì) người tỉnh thường ít mà người say vô số! Bãi cát dài, bãi cát dài biết tính sao đây Bước đường bằng phẳng thì mờ mịt, bước đường ghê sợ thì nhiều. Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng” Phía Bắc núi Bắc núi muôn trùng Phía Nam núi Nam sóng muôn đợt Anh còn đứng làm chi trên bãi cát? Bản dịch thơ của Tố Hữu Bãi cát dài lại bãi cát dài Đi một bước như lùi một bước Mặt trời đã lặn chưa dừng được, Lữ khách trên đường nước mắt rơi. Không học được tiên ông phép ngủ Trèo non lội suối giận không vơi! Xưa nay phường danh lợi Tất tả trên đường đời Đầu gió hơi men thơm quán rượu Người say vô số tỉnh bao người? Bãi cát dài, bãi cát dài ơi! Tính sao đây đường bằng mờ mịt Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít? Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng” Phía Bắc núi Bắc, núi muôn trùng 30

Phía Nam núi Nam, sóng dào dạt Anh đứng làm chi trên bãi cát? 1) Theo sách Thần tiên thập dị, Hạ Hầu Ấn lúc leo núi hay lội nước vẫn cứ nhắm mắt ngủ say, người bên cạnh nghe thấy tiếng ngáy mà ông vẫn bước đều không hề trượt, vấp. Người đời gọi ông là “tiên ngủ”. 2) Cùng đồ nghĩa là hết đường. Xưa, Nguyễn Tịch thời Nguỵ Tấn thường ngồi xe mặc cho ngựa kéo, không theo đường nào cả, đến chỗ hết đường thì khóc lớn mà trở về. Sau đó Dĩu Tín có câu thơ: “Chỉ có kẻ khóc nơi đường hết - Mới biết ta đường khó đi”, ý nói tâm trạng bế tắc của kẻ sĩ trên đường đời. 3) Theo sách hậu Hán thư, Pháp Chân bảo Viên thái thú rằng: “Nếu ông cứ bắt tôi ra làm quan thì tôi sẽ đi ở ẩn ở phía bắc núi Bắc hoặc ở phía nam núi Nam” - tỏ ý kiên quyết từ chối không nhận lời. Lời bình Cao Bá Quát là người hay chữ có tiếng, năm 23 tuổi đỗ cử nhân. Rồi sau đó 3 lần vào kinh đô Huế thi Hội nhưng đều bị đánh hỏng. Bài thơ này làm trong khi ông đi thi Hội. Một trải nghiệm khi vượt những bãi cát dài trùng điệp của miền Trung. Bãi cát dài lại bãi cát dài Đi một bước như lùi một bước Mặt trời đã lặn chưa dừng được Lữ khách trên dường nước mắt rơi Hình ảnh lữ khách trên đường vừa là hình ảnh thực của người đi thi, nhưng cũng là hình ảnh của người đi tìm công danh trên con đường đầy khó khăn, trở ngại. Đi suốt ngày nhưng không tiến được bao nhiêu vì cát lún, bước về phía trước mà như lùi lại phía sau. Vì thế mà mặt trời lặn vẫn còn phải đi. Khóc thương thân vất vả vẫn phải đi. Chẳng có phép màu nào giúp vượt qua bãi cát dằng dặc. Thương thân, giận thân dấn bước vào con đường danh lợi, nhưng không có cách nào vượt thoát. Tác giả suy ngẫm về những kẻ đi tìm danh lợi trong đời: Xưa nay phường danh lợi Tất tả trên đường đời Đầu gió hơi men thơm quán rượu Người say vô số tỉnh bao người? Tìm danh lợi thì phải vất vả, phải “bôn tẩu” - tất tả trên đường. Cũng giống như đi tìm rượu ngon nơi tửu quán, không cưỡng được sự thèm muốn và sau đó trở thành vô số kẻ say, không tỉnh táo để nhận ra mình đáng khinh, đáng thương và đáng trách. Là số ít trong những người còn tỉnh táo, cho nên cũng trên con đường tìm danh lợi đầy vất vả ấy, người viết đã băn khoăn: 31

Bãi cát dài, bãi cát dài ơi! Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt Đường ghê sợ còn nhiều đâu ít? Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng” Lại có câu hỏi đặt ra “Tính sao đây?”. Bởi vì đường bằng phẳng thì mờ mịt, đường hiểm nguy thì còn rất nhiều. Tiến lên cũng dở. Quay lại hay rẽ ngang cũng không xong. Phải chăng con đường đã dẫn đến chỗ cùng, chỗ bế tắc? Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng Phía nam núi Nam, sóng (muôn đợt) dào dạt 2 câu thơ nhắc đến điển tích của người xưa không muốn ra làm quan, muốn đi ở ẩn ở núi Bắc, núi Nam. Nhưng đồng thời cũng cho thấy sự bế tắc, cùng đường của người đi vì các phía đều có “núi muôn trùng”, đều có “sóng muôn đợt” cản trở. Cuối cùng là một câu hỏi lớn không lời đáp cho chính mình: Anh đứng làm chi trên bãi cát? Thật ra là đang đi trên bãi cát, nhưng lại như là không tiến lên được, đang mắc kẹt thành ra là đang đứng như chôn chân giữa mênh mông cát. Đến đây thì người viết đã bộc lộ tâm trạng bi phẫn của kẻ sĩ, của người tỉnh táo trước đường đời bế tắc, mù mịt, đầy hiểm nguy của một xã hội phong kiến đã mục nát. Điều mới mẻ của bài ca chính là người viết khi thì nhìn nhận mình như là một người khách “lữ khách” (đối lập với chủ), khi lại gọi mình là “quân” (anh) như là một người đối thoại và khi thì tự xưng “ngã” (tôi, ta) bộc lộ trực tiếp cảm xúc cá nhân. Cách xưng hô thay đổi như thế cho thấy nhà thơ đã từ nhiểu con người, nhiều chủ thể khác nhau để nhìn và đánh giá con đường đi trên bãi cát dài. Đồng thời cũng thể hiện thái độ trăn trở, bức xúc trước con đường công danh mù mịt của kẻ sĩ chân chính. Thái độ tuyệt vọng, bi phãn và bế tắc ấy góp phần lí giải vì sao sau này Cao Bá Quát đã tham gia cuộc khởi nghĩa Mĩ Lương, chống lại triều đình nhà Nguyễn. 32

9. Nguyễn Du (1765 - 1820) Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, có khi tự xưng là Hồng Sơn liệp hộ hoặc Nam Hải điếu đồ (thợ săn núi Hồng, người câu biển Nam) xuất thân trong gia đình đại quý tộc có truyền thống văn chương. Quê gốc của Nguyễn Du ở Hà Tĩnh, nhưng ông sinh ra ở phường Bích Câu và lớn lên ở đất Thăng Long. Thân sinh của ông là Tể tướng Nguyễn Nghiễm. Mẹ ông là bà Trần Thị Tần, quê ở Bắc Ninh. Chỉ vài lần về quê ngắn ngủi, nói chung, Nguyễn Du sống thời tuổi trẻ ở Thăng Long, cho đến năm 1786, ông rời Thăng Long về quê vợ ở Thái Bình. Nguyễn Du học giỏi, thông minh, uyên bác, 19 tuổi đậu tam trường thi Hương. Ông tập ấm chức quan võ dưới triều Lê Cảnh Hưng. Nguyễn Du đã từng chống lại quân Tây Sơn nhưng thất bại. Về sau lại có ý định trốn vào Nam theo Nguyễn Ánh nhưng không thành. Nguyễn Ánh lên ngôi, mấy lần xuống chiếu gọi, Nguyễn Du ra làm quan. Vua Gia Long mến tài ông, cất nhắc nhanh chóng, làm đến Lễ bộ hữu tham tri, đã làm chánh sứ sang Trung Quốc. Năm sau lại được cử chánh sứ nhưng chưa kịp đi thì mất ở Huế ngày 10 tháng Tám âm lịch năm 1820. Tác phẩm của Nguyễn Du gồm có: Thanh Hiên tiền hậu tập, Bắc hành thi tập, Nam trung tạp ngâm. Về thơ Nôm có Đoạn trường tân thanh tức Truyện Kiều, Văn chiêu hồn, Thác lời trai phường nón và Sinh tế Trường lưu nhị nữ (tế sống hai cô gái Trường Lưu). KHÁI LƯỢC VỀ SÁNG TẠO CỦA NGUYỄN DU TRONG “TRUYỆN KIỀU” SO VỚI “KIM VÂN KIỀU” CỦA THANH TÂM TÀI TỬ Đến khi học ở bậc đại học, tiếp xúc với “Truyện Kiều” (TK) của Đại thi hào Nguyễn Du, tôi vẫn hoang mang giữa hai xu hướng đánh giá. Một bên coi Nguyễn Du chỉ là người chuyển thể tác phẩm (dịch thành thơ) “Kim Vân Kiều” (KVK) của Thanh Tâm Tài Tử. Những chi tiết như “vành ngoài 7 chữ, vành trong 8 nghề” (7 điều và 8 phép), hoặc như bức thư của Sở Khanh chỉ vỏn vẹn hai chữ “Tích việt” cũng được Nguyễn Du dùng lại trong TK. Nghĩa là tài của Nguyễn Du chỉ là tài chuyển nội dung một tác phẩm văn xuôi ra văn vần. Cái tài của cụ chỉ là tài thơ lục bát. Còn xu hướng khác khẳng định Nguyễn Du tuy dựa vào KVK, nhưng đã thay đổi nội dung, thay đổi kết cấu, thay đổi các nhân vật 33

để tạo nên tác phẩm TK, một kiệt tác của Việt Nam và thế giới, đặc sắc cả nội dung và nghệ thuật, trở thành một tiểu thuyết bằng thơ hiếm hoi của loài người. Thú thực lúc đó kinh nghiệm đọc chưa nhiều, tài liệu tham khảo lại hiếm và cực kì khó kiếm, lại phải lo học, lo thi nhiều môn nên tôi nghe bên nào cũng thấy có lí! Thời gian qua đi, khi làm cán bộ chỉ đạo bộ môn Ngữ văn của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tôi cũng chỉ có đủ thì giờ để đọc, nắm bắt những nghiên cứu liên quan trực tiếp đến các trích đoạn TK trong sách giáo khoa. Hiểu cho hết các ý kiến của học giả xưa nay, các nhà nghiên cứu và những giáo viên giỏi cũng đã là một việc tốn nhiều tâm sức. Nhưng càng ngày thì sự “hoang mang” càng giảm. Và một niềm tin vững chắc dần dần được nhen nhóm. Đến bây giờ thì có thể nói rằng tôi đã tuyệt đối tin tưởng vào xu hướng thứ hai. Bởi vì các tư liệu cho phép có thể chứng minh một cách thuyết phục. Sau đây xin nói khái quát những gì tôi thu hoạch được, ngõ hầu khiến các bạn trẻ khi tiếp xúc với kiệt tác của Nguyễn Du không phải băn khoăn hay hoang mang như thế hệ chúng tôi ngày trước. Nguyễn Du đã sáng tạo điều gì và như thế nào để có TK khác với KVK của Thanh Tâm tài Tử? Câu trả lời khái lược như sau. 1. Về cốt truyện và kết cấu Cốt truyện, Nguyễn Du dựa hẳn vào KVK, nhưng nhà thơ đã có những sáng tạo. “Ông chỉ chọn những sự việc chính, lược bỏ nhiều những đoạn rườm rà và có khi tóm tắt trong một số ít câu cả đoạn dài trong truyện”. (Phạm Đan Quế - Truyện Kiều đối chiếu, tr. 16). Chúng ta có thể xem bảng đối chiếu chi tiết giữa 20 hồi của KVK với số câu thơ của Nguyễn Du (tr. 17 sách đã dẫn). Chúng tôi chỉ tóm tắt mấy điều nổi bật nhất. Đó là hai hồi 5 và 6 trong KVK tổng cộng 30 trang in chữ Hán, Nguyễn Du chỉ tóm lại trong 20 câu lục bát. Hồi thứ 20 được Nguyễn Du viết dài nhất với số lượng 516 câu lục bát. Nếu tính gộp ba hồi cuối thì số trang in trong KVK so với số trang toàn tác phẩm là 104/ 452 câu chiếm 23% số trang tác phẩm. Trong khi đó trong TK, phần này là 1024 / 3254 câu chiếm 31,46%. Đoạn đầu tiên của Truyện Kiều tương ứng với hồi thứ nhất Kim Vân Kiều, Nguyễn Du viết tổng thể 170 câu lục bát, trong số đó chỉ có 68 câu là dựa vào thông tin trong KVK. Như vậy chỉ chiếm có 40%. Còn lại 60% số câu thơ là của riêng Nguyễn Du. Dưới đây là công lao của các tác giả Nguyễn Thạch Giang, Triệu Ngọc Lan, Lô Uý Thu khi so sánh: Trong một bài biên khảo đăng trong tuyển tập “Nguyễn Du, Tác giả và Tác phẩm” do Nxb Giáo dục ấn hành năm 1999 tại Việt Nam, các tác giả Nguyễn Thạch Giang, Triệu Ngọc Lan và Lô Uý Thu đã bỏ công tìm tòi những phần trong Kim Vân Kiều truyện đã bị cụ Nguyễn Du lược bỏ. Khi so sánh Đoạn Trường Tân Thanh với Kim Vân Kiều Truyện do Xuân Phong Văn nghệ xuất bản, các tác giả này nhận thấy cụ Nguyễn Du đã loại bỏ 142 trang trên tổng số 214 trang, tức khoảng 2/ 3 tác phẩm. Cụ chỉ giữ lại 72 trang 34

và dùng các chi tiết trong số trang này để viết thành 1313 câu thơ trong tổng số 3254 câu của Đoạn Trường Tân Thanh. Tác giả bài viết đăng trên vanhaisp.blogspot.com còn chi tiết hơn đã lập bảng thống kê những sáng tạo của Nguyễn Du về một số vấn đề: ĐT Theo ý Số câu do Nguyễn Du sáng tạo Bố cục Tư tưởng KVKT TT Tả Tả Nhớ Nhớ Băn Tâm lí Cộng Bỏ ý Chuyển Có ý Có ý nghĩa cảnh người người cha khoăn yêu tính tôn chất yêu mẹ đương giáo tiến bộ 12 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 3254 1313 357 171 38 23 124 196 1941 2/ 3 15 20 4 câu KVKT Các thành phần khác: 1022 câu. Dẫu sao thì vẫn có một vài chỗ tính toán nhầm (Bởi lẽ cộng các cột từ 3 đến 8 sẽ được 909 câu. Cộng với 1022 câu khác và 1313 câu dựa vào KVK thì tổng là: 3244 câu, thiếu 10 câu) và việc có 13 cột ngang làm cho bảng bị rối. Nhưng chúng tôi cũng ghi nhận sự cố gắng của tác giả về cụ thể hoá những câu thơ sáng tạo của Nguyễn Du về tả người, tả cảnh, nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, tâm lí yêu đương. 2. Về các đoạn quan trọng trong tác phẩm Nguyễn Du cũng làm khác Thanh Tâm Tài Tử trong KVK. Các chi tiết khác, dưới đây chúng tôi sẽ đối chiếu và thống kê cụ thể. Chỉ biết rằng các đoạn trích xưa nay trong các sách giáo khoa Văn chương, Nguyễn Du đều có thay đổi. Chúng ta sẽ lần lượt xem xét đối sánh các đoạn trích sau đây: 1. Đoạn mở đầu. 2. Kim Trọng gặp Thuý Kiều. 3. Thề nguyền. 4. Mã Giám Sinh mua Kiều. 5. Trao duyên. 6. Nỗi thương mình. 7. Thúc ông kiện con trai. 8. Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều. 9. Kiều nhớ Thúc Sinh. 10. Từ Hải từ biệt Thuý Kiều. 11. Báo ân báo oán. 12. Bảy lần nhớ nhà và người tình. 3. Về một số chi tiết 35

Nguyễn Du đã lược bỏ những chi tiết dài dòng, tả thực trong KVK, hoặc rút gọn trong một 2 câu. Các chi tiết như 300 lạng bạc chi dùng vào các việc gì, Chung Sự viết tờ bảo lãnh, Thuý Kiều viết tờ hôn ước, giấc mơ Kiều gặp Kim Trọng, Tú Bà đãi tiệc láng giềng, Tú Bà đánh Thuý Kiều (2 đoạn), Tú Bà nói chuyện với Bộ Tân, Thúc Sinh nhờ Vệ Hoa Dương, Tú Bà cùng Mã Giám Sinh đến nhà Vệ Hoa Dương trả tờ hôn thú cũ, viết tờ hôn thú mới; Thuý Kiều ngâm thơ ở Chiêu Ẩn am; Bạc Hạnh định lừa lấy đồ dùng riêng của Thuý Kiều; cảnh báo thù của Kiều với các kẻ ác; Từ Hải đánh nhau với hai tướng của Hồ Tôn Hiến, Hồ Tôn Hiến sai người thuyết hàng; chọn hai thuyết khách đóng vai người hầu; Từ Hải mắng La Trung Quân,... Điều quan trọng là lược bỏ các chi tiết nhưng mạch truyện vẫn đảm bảo thông suốt. 4. Về các nhân vật trong Truyện Kiều a) Nguyễn Du không đưa thêm một nhân vật mới nào. Nhưng nhà thơ đã lược bỏ các nhân vật không quan trọng. Đó là các nhân vật Chung bà, Chung Cần, Tô Nương, thằng câm người ở của Sở Khanh, Đô Trá người ở cho Tú Bà, Bộ Tân (đi cùng Thúc Sinh đến ra mắt Kiều), Vệ Hoa Dương, mụ vú họ Lí, Thúc Sô, Thúc Năng, Lão bộc trong nhà Hoạn Thư, Đạo sĩ Đặng Huyền, Triệu Không Bất Hà, tên buôn người “lông mày rậm, mắt to, môi đen, râu xồm giống như một tên tướng cướp”, Sử Chiêu, Hạ Báo, Lôi Phong (tướng của Từ Hải), Bốc Tề, Cừu Nhiêu, Thủ Bị Không Hỗn, Hoa Nhân (lão già thuyết khách), La Trung Quân, Tuyên Ngãi, Dụ Ân (hai nữ thuyết khách), Lợi Tiện, Quyền Nghi, Nữu Hợp, Trương Năng, Lí Can, Âm Mưu. Như vậy khoảng 30 nhân vật đã được Nguyễn Du lược bỏ mà mạch truyện vẫn thống nhất và không bị ảnh hưởng. b) Đối với các nhân vật chính và nhân vật phụ nhưng quan trọng, Nguyễn Du cũng đã làm thay đổi tính cách và diện mạo Thuý Kiều, Kim Trọng, Từ Hải, Mã Giám Sinh, Tú Bà, Hoạn Thư, Thúc Sinh đều có những thay đổi với mức độ khác nhau. Nhưng rõ ràng là không còn giống với nguyên mẫu trong KVK. Lần lượt, chúng tôi sẽ tiến hành đối sánh để khẳng định sự sáng tạo nhiều phương diện của thiên tài Nguyễn Du. Các nhân vật được so sánh và bình luận trong chương hai gồm: 1. Thuý Kiều. 2. Kim Trọng. 3. Từ Hải. 4. Thúc Sinh. 5. Mã Giám Sinh. 6. Tú Bà. 7. Sở Khanh. 8. Hồ Tôn Hiến. 9. Hoạn Thư. 10. Kế Thị. 11. Thuý Vân. 5. Về một số vấn đề khác Chúng tôi tiến hành so sánh và bình luận 3 vấn đề khác biệt giữa Kim Vân Kiều với Truyện Kiều. Ba vấn đề đó sẽ được trình bày ở chương 3 của sách này: 1. Vấn đề tiền bạc 2. Vấn đề số phận phụ nữ 36

3. Vấn đề triết lí Trước nay, không nhiều người để ý tên gọi ban đầu của Truyện Kiều. “Đoạn trường tân thanh”. Tại sao Nguyễn Du lại đặt tên tác phẩm chữ Nôm của mình bằng chữ Hán như vậy? Tại sao lại là “Đoạn trường” (Đứt ruột)? Tại sao lại là “tân thanh” (tiếng kêu mới)? Trong Kim Vân Kiều, Thanh Tâm Tài Tử có cho nhân vật Đạm Tiên nói về Hội Đoạn trường. Hội có Giáo chủ, lại có “Đoạn trường sách”. Kiều làm thơ hay đến mức có thể chắc chắn chiếm Giải Nhất tập “Đoạn trường”. Kim Vân Kiều là tiếng kêu đứt ruột về số phận của người con gái tài sắc trong cảm nhận của Nguyễn Du. Nhà thơ Việt Nam cảm với tiếng kêu đó, nhưng làm cho tiếng kêu đứt ruột đó MỚI hơn. Nghĩa là Nguyễn Du đã có chủ đích, chủ tâm, chủ ý “sáng tạo” chứ không lặp lại. Nghĩa là Nguyễn Du làm mới hơn tiếng kêu đứt ruột cũ. Mà muốn làm mới, thì phải làm khác những gì mà Thanh Tâm Tài Tử đã làm. Đó chính là nguyên nhân, cũng là động lực thúc đẩy Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều. Cả cuốn sách này chúng tôi chỉ nhằm một mục đích là làm rõ Nguyễn Du đã làm khác đi, làm mới hơn, đã sáng tạo rất lớn để biến một tác phẩm trung bình, không có tiếng tăm gì đáng kể trong các bộ tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc thành một Truyện Kiều chẳng những nổi tiếng của Việt Nam mà còn là tác phẩm nổi tiếng của thế giới. VẤN ĐỀ TRIẾT LÍ TRONG TRUYỆN KIỀU Có thể nói một trong những điều khác biệt lớn giữa Truyện Kiều của Nguyễn Du và Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Tử chính là ở những điều triết lí. Thanh Tâm Tài Tử chỉ kể lại câu chuyện một cách khách quan, không nhằm minh hoạ cho một triết thuyết nào, cũng không triết lí về những vấn đề trong cuộc sống. Nhưng Nguyễn Du thì khác. Trước khi bắt đầu câu chuyện, nhà thơ Việt Nam đã nêu lên thuyết “tài mệnh tương đố”: Trăm năm trong cõi người ta Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau Trải qua một cuộc bể dâu Những điều trông thấy mà đau đớn lòng Lạ gì bỉ sắc tư phong Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen Và khi câu chuyện kết thúc rồi, nhà thơ Việt Nam lại luận về mệnh trời, chữ Tâm, chữ Tài: Ngẫm hay muôn sự tại trời Trời kia đã bắt làm người có thân Bắt phong trần phải phong trần Cho thanh cao mới được phần thanh cao 37

Có đâu thiên vị người nào Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai Có tài mà cậy chi tài Chữ tài liền với chữ tai một vần Đã mang lấy nghiệp vào thân Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa Thiện căn ở tại lòng ta Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài Thiển nghĩ, không chỉ là vấn đề mệnh trời, vấn đề tài mệnh tương đố, ở đây còn có cả chữ “nghiệp” của nhà Phật, có cả gốc thiện trong lòng người của triết lí dân gian Việt Nam “tích thiện phùng thiện”. Bản thân chúng tôi không thạo và cũng nông cạn trong những vấn đề triết học, đạo Nho, đạo Lão hay đạo Phật. Đã có ông Phạm Công Thiện viết cả một cuốn sách “Nguyễn Du đại thi hào dân tộc” chỉ bàn về Triết lí Việt Nam về chữ “lòng” và chữ “tơ”. May mắn thay, lại có vị cao tăng thiền sư Nhất Hạnh, viết cả cuốn sách “Thả một bè lau - Truyện Kiều dưới cái nhìn thiền quán”. Cũng là một cái duyên may, cái duyên lành mà tôi bất ngờ có được hai cuốn sách quý trên, trong một đợt công tác ở sở Giáo dục Khánh Hoà. Mấy anh em chuyên viên nhậu cùng nhau, tôi cao hứng nói về Truyện Kiều với anh Kiều Văn Bức phụ trách môn Văn, anh Quý Phước môn Hoá, anh Nguyễn Cao Phúc môn tiếng Anh,... Bất ngờ là hôm sau tôi được anh Nguyễn Cao Phúc tặng hai cuốn sách của Phạm Công Thiện và của Nhất Hạnh. Tôi nhớ đến 2 câu Kiều của cụ Nguyễn Du: Ngẫm âu, người ấy báu này Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm Nhân bài viết này, xin cảm tạ tình cảm các anh ở Sở giáo dục Khánh Hoà và nhất là anh Nguyễn Cao Phúc. Chúng ta thừa nhận Nguyễn Du khác Thanh Tâm Tài Tử ở chỗ nhà thơ Việt Nam đưa quan niệm triết học về Nho học, Phật học và cả những triết lí nhân sinh được tiếp thu từ quan niệm dân gian của người Việt. Chúng tôi mạo muội dựa vào các nhà chuyên môn, đem con mắt hạt đậu để nhìn vào những chuyện cao siêu, đặng thưa thốt đôi điều từ những chiêm nghiệm chủ quan, hạn hẹp của mình. Trước hết, bằng cảm nhận chủ quan, chúng tôi thấy trong Truyện Kiều, Nguyễn Du có nói đến các hiện tượng lí thuyết khác nhau. Từ thuyết tài mệnh tương đố, Thiên mệnh, định mệnh, cho đến việc xem tướng số, việc đạo sĩ đồng thiếp, việc tu thiền của sư Giác Duyên, việc tiên tri của Tam Hợp Đạo cô, việc quả báo, “hại nhân nhân hại”, cho đến chữ nghiệp, chữ thiện căn trong đạo Phật. Có thể thấy rằng Nguyễn Du tin vào những điều đó 38

bằng niềm tin của nghệ sĩ, bằng trải nghiệm thực tế và bằng cả những niềm tin trong quan niệm tín ngưỡng dân gian chứ không phải chỉ là niềm tin của người chuyên tâm, người được học, được đào luyện bài bản. Chúng tôi thấy tác giả Nhất Hạnh đã viết quá hay, quá sâu về triết lí của Truyện Kiều. Xin xem “Nguyễn Du và Truyện Kiều”; “Nhìn sâu vào triết lí Truyện Kiều” trong cuốn “Thả một bè lau” đã nhắc ở trên. Theo chúng tôi, những điều tâm đắc từ bài viết trong sách của thiền sư Nhất Hạnh, chúng tôi muốn hiến cho bạn đọc (vì không phải ai cũng có duyên may có sách). Đó là: - “Những ánh sáng loé lên (mà chúng ta nhận diện như là tuệ giác của đạo Bụt) không phải do học Bụt mà có, mà do tác giả sống trong cuộc đời và tìm ra. Ví dụ như nhận xét “Bây giờ rõ mặt đôi ta, Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?” Hay “Trời còn để có hôm nay, Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời”. Tuệ giác của Phật giáo có trong này nhưng không phải do thi sĩ học Phật mà nói ra. Thi sĩ đã sống rất sâu sắc, trân quý từng giờ, từng phút của sự sống mà tìm ra và diễn tả sự thật đó một cách khéo léo. (Sách đã dẫn, trang 431). - “Chúng ta tìm ra quan niệm của tác giả về Nghiệp, Nhân Quả, quan niệm còn có tính đại chúng hoá, chưa tới mức độ của người học Phật thâm uyên. Có người nói cụ Nguyễn Du tinh thông về Nho học và Phật học. Đó là do thương quá mà nói. Sự thật, Nguyễn Du rất tài tình như một thi sĩ nhưng kiến thức Phật học của cụ trong khi sáng tác Truyện Kiều còn chưa chín. Sau khi viết Truyện Kiều, Nguyễn Du tiếp tục học thêm văn học Phật giáo. Phật học của cụ sẽ sâu sắc hơn. Bằng chứng là tác phẩm (chữ Nôm) Văn tế thập loại chúng sinh” (Sách đã dẫn, trang 431). - “Đứng về phương diện văn chương, tư tưởng, tâm lí thì không nói gì, nhưng đứng về phương diện Phật học thì cái thấy của cụ Nguyễn Du chưa được rạch ròi lắm” (Sách đã dẫn, tr.433). Thầy Nhất Hạnh không chỉ nhận định chung, mà với cách làm việc tỉ mỉ, khoa học, thầy đã chứng minh rất chặt chẽ. Ai còn nghi ngờ hoặc chưa tin, chắc chắn cũng phải tin. Chúng ta hãy xem phân tích của thầy Nhất Hạnh: “Bây giờ cụ lại nói đến thuyết Nghiệp báo: Đã mang lấy nghiệp vào thân Cũng đừng trách lẫn trời gần, trời xa Nghiệp báo này là do đâu? Do người hay do Trời? Không được rõ ràng lắm. Chữ nghiệp trong câu thơ này chỉ có ý nghĩa tiêu cực thôi. Trong khi đó, chữ nghiệp (karma) trong Phật giáo có nghĩa là hành động (action). Nghiệp tốt đưa đến quả báo tốt, nghiệp xấu đưa đến quả báo xấu. Thường thường trong văn chương ngoài đời, chữ nghiệp luôn được dùng theo nghĩa xấu. Điều này chứng tỏ rằng trong quần chúng, sự hiểu biết về giáo lí nghiệp báo không được vững chãi. Ở Tây phương cũng vậy, ‘karma’ nghĩa là ‘bad 39

karma’ chứ không hàm chứa ‘good karma’. Bổn phận của người tu là phải giải thích cho quần chúng để điều chỉnh cách sử dụng chữ nghiệp này. Nghiệp có hai loại: thiện nghiệp (kusala) và ác nghiệp (akusala). Thiện nghiệp là hành động đem lại an lạc cho mình và cho người trong hiện tại và trong tương lai. Ác nghiệp ngược lại với Thiện nghiệp. Hành động (nghiệp) phát xuất từ thân, miệng và ý gọi là thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Ba nghiệp này có thể là thiện hay ác. Nghiệp có nghiệp nhân (karma hetu) và nghiệp quả (karma phala). Phải phân biệt nghiệp nhân và nghiệp quả, nghiệp thiện và nghiệp ác. Khi nói “đã mang lấy nghiệp vào thân” cụ Nguyễn Du hiểu rằng nghiệp là nghiệp xấu và chỉ đem tới những quả xấu thôi. “Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa”: con người đã có nghiệp trong người rồi thì đừng nói rằng tại Trời quyết định thế này thế kia. Câu này làm sụp đổ câu “Ngẫm hay muôn sự tại trời”. Vừa mới nói: “Tất cả đều do Trời!”, bây giờ lại nói: “Đừng có trách Trời! Do cái nghiệp của mình cả”. Tư tưởng Nghiệp báo và Nhân quả của cụ Nguyễn Du vì vậy chưa được rõ ràng. (Sách đã dẫn, trang 440). Chúng tôi đọc những dòng này với tinh thần trân trọng và biết ơn sự phân tích thấu đáo và vô cùng sâu sắc, thuyết phục của thầy Nhất Hạnh. Dù Nguyễn Du có mâu thuẫn, có “chưa được rõ ràng” thì cũng là chuyện bình thường, bởi như thầy Nhất Hạnh đã nhận định, đấy là sự nhạy bén của người nghệ sĩ chứ không phải người học Phật nói ra. Hơn nữa, chúng tôi cho rằng Nguyễn Du còn chịu ảnh hưởng của triết lí dân gian, chịu ảnh hưởng của quan niệm có tính phổ thông, chung nhất mà kinh nghiệm dân gian đã tổng kết trong tục ngữ, ca dao. Bây giờ chúng ta hãy cùng thầy Nhất Hạnh phân tích sâu vào chữ Tâm của Nguyễn Du (Điều này ông Phạm Công Thiện viết “Triết lí Việt Nam về chữ ‘lòng’ và chữ “tơ”, trong cuốn “Nguyễn Du đại thi hào dân tộc” chúng tôi sẽ nói đến sau). Thiện căn ở tại lòng ta Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài Căn là gốc rễ; Thiện căn là gốc rễ của cái thiện. “Thiện căn ở tại lòng ta” nghĩa là gốc rễ của cái thiện nằm ngay ở trong lòng mình chứ không ở đâu xa. “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Tâm này là tâm gì? Tâm có tâm ác, tâm thiện, tâm chánh, tâm tà. Chữ tâm dùng trong này nghiêng về phía thiện: “Thiện căn ở tại lòng ta”. Chữ thiện căn (kusala mula) là một danh từ thuần tuý Phật học; cụ Nguyễn Du đã được nghe nhưng nhận thức của cụ chưa được hệ thống hoá. Cụ Nguyễn Du đã thấy trong lòng chúng ta có những hạt giống thiện. Chịu khó trở về vun tưới những hạt giống đó thì tâm của ta sẽ thiện và ta sẽ được nhờ vả vào đó rất nhiều, vì “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Nếu mình không có tài mà có thiện tâm thì mình vẫn có hạnh phúc và hạnh phúc hơn những người có tài mà không có thiện tâm. Đó là triết lí của cụ Nguyễn Du. Trong đoạn này, chúng ta thấy chữ nghiệp được dùng theo nghĩa nghiệp xấu và chữ tâm dùng theo nghĩa thiện tâm. Cách dùng từ không được chính xác. Vì nghiệp có thể là nghiệp lành hay 40

nghiệp dữ, tâm có thể là tâm xấu hay tâm tốt. Và nếu tâm mà xấu thì “chữ tâm” đâu có thể “bằng ba chữ tài” được! (Thả một bè lau, trang 440 - 441). Quá chuẩn xác những lí giải từ một vị uyên thâm về Phật học! Nhưng dù không đảm bảo tính chính xác tuyệt đối theo quan điểm Phật học trong sách vở, giáo lí nhà Phật, thì Nguyễn Du vẫn đúng theo quan điểm phổ thông của chúng sinh. Và triết lí của Nguyễn Du đưa ra cũng là để khuyến tâm, khuyến thiện với tất cả bạn đọc. Nguyên cái thiện tâm ấy, cái chính tâm ấy của nhà thơ cũng rất đáng ghi nhận và ca tụng. Bây giờ chúng tôi muốn cùng mọi người ghé mắt qua cuốn sách của Phạm Công Thiện đã nhắc ở trên. Có thể nói tác giả Phạm Công Thiện đánh giá rất cao triết lí của Truyện Kiều và cái nhìn triết học của Nguyễn Du. Trong cuốn sách đã nhắc, ông Thiện đã nhiều lần bàn từng chữ, bàn đến câu, bàn đến sự giải thích sai lạc tinh thần Nguyễn Du. Ở đây, chúng tôi chỉ xin nhắc lại mấy điểm chính yếu. Trong khi các nhà nghiên cứu cố gắng chứng minh những triết lí của đạo Nho, đạo Phật và cả đạo Lão có trong tác phẩm của Nguyễn Du thì vẫn có ý kiến cho rằng có nhiều khi điều đó không mấy tác dụng. “Biết bao học giả, phê bình gia cố gắng đề cao triết lí trong Truyện Kiều, nhưng nó vẫn không cao lên tí nào. Về mặt kĩ thuật, tôi lại nhận thấy chính những triết lí ấy đã làm hại rất nói riêng cho tâm lí Thuý Kiều, tức là kĩ thuật Truyện Kiều.” (Nguyễn Văn Xuân - Vài điều nghĩ về triết lí trong Truyện Kiều, Tạp chí Văn, Nghiên cứu và Phê bình văn học, năm thứ nhất, đệ tứ tam cá nguyệt 1967, tập 3, trích từ trang 66 đến trang 84). Bởi lẽ Nguyễn Du “cũng không thoát được sự ràng buộc của cốt truyện, với những tình tiết, những đột biến mà phải chuẩn bị tình cảm và tư tưởng thích đương để dẫn tới các sự kiện đóng khuôn sẵn ấy”. (Nguyễn Văn Xuân). Bởi lẽ khác, Nguyễn Du dù rất thông tuệ, nhưng những kiến văn hàn lâm của cụ thì cũng chỉ đủ để đỗ tam trường, cũng mới chỉ ở bậc tú tài thôi. Đành rằng vấn đề tự học, tự đào luyện là hết sức quan trọng. Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với thầy Nhất Hạnh, không đánh giá cao lắm kiến thức Phật học của Nguyễn Du khi Nguyễn Du viết Truyện Kiều. (Đã dẫn ở đầu bài viết này). Tất nhiên, cũng có thể có ý kiến cho rằng Nguyễn Du, thầy Nhất Hạnh theo hai phái khác nhau Tiểu thừa và phái Đại thừa. Đem con mắt của phái này nhìn phái kia, tránh sao khỏi sự lệch lạc? Nhưng dù phái nào thì những khái niệm cơ bản của Phật giáo vẫn thống nhất. Cả hai phái Đại thừa, Tiểu thừa hay còn gọi khác đi là Phật giáo Bắc Tông và Phật giáo Nam Tông đều có những điểm chung. Đó là: “a) Cả hai đều nhìn nhận Ðức Phật là bậc Ðạo sư. b) Cả hai đều chấp nhận và hành trì giáo lí Tứ thánh đế, Bát chánh đạo, Duyên khởi...; đều chấp nhận Tam pháp ấn: Vô thường, Khổ, Vô ngã; đều chấp nhận con đường tu tập: Giới - Ðịnh - Tuệ. c) Cả hai đều từ chối về một đấng tối cao sáng tạo và ngự trị thế giới”. 41

Có lẽ cũng tương tự như Thiên Chúa giáo và Tin lành. Chúa và Kinh thánh không thay đổi. Khác nhau ở sự hành lễ và phụng sự Chúa mà thôi. Và chúng tôi vẫn tin vào sự đánh giá nghiêm túc, khách quan của thầy Nhất Hạnh. Một bài viết xuất sắc khác về triết lí Truyện Kiều là bài viết của tác giả Cao Huy Đỉnh công bố năm 1965 bàn về “Triết lí đạo Phật trong Truyện Kiều”. Nhà nghiên cứu đã đánh giá: “Vấn đề là Truyện Kiều nhuốm màu đạo Phật, nhưng đạo Phật không còn thuần tuý và cũng không phải là chủ yếu trong Truyện Kiều”. (trong sách Truyện Kiều những lời bình, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2008, tr. 156). Tuy không có ý nghiên cứu về triết lí đạo Nho, nhưng nhà nghiên cứu đã chỉ ra tính chất phối hợp cả Nho giáo và Phật giáo của Nguyễn Du: “Ở đây, Nguyễn Du với tư cách là nhà triết lí Nho giáo đã không bảo đảm được cái chặt chẽ cái luận lí Nho giáo của mình. Vì vậy, để vớt vát cái phần nào cho Trời, cho “mệnh” của Nho giáo, để xoa dịu, an ủi và an ủi được cá nhân đau khổ ấy chịu an phận, không oán trách vào đâu được mà chỉ oán trách mình thôi, thì Nguyễn Du vận dụng đến cái “nghiệp” của nhà Phật và coi nó là hiệu nghiệm hơn cả” (Sách đã dẫn, tr. 162). Không phải ngẫu nhiên mà nhà nghiên cứu Cao Huy Đỉnh và những người tiếp tục khuynh hướng của ông sau này khẳng định “Nguyễn Du đã bỏ quá xa cái chủ nghĩa nhân đạo trừu tượng của nhà Phật. Nguyễn Du đã say sưa với triết lí hành động của nhân dân” (Sách đã dẫn, tr. 170). Thật là thú vị khi tác giả bài báo đã đặt ra ba vấn đề: 1. Nghiệp báo là cái khổ kiếp trước của nàng Kiều để lại hay là cái khổ do xã hội tàn nhẫn trong đó nàng đang sống gây ra? 2. Nàng Kiều tự kết án tài, tình hay là đề cao tài, tình của mình? Nàng phủ nhận ý muốn sống hay khẳng định quyền sống? 3. Sự thưởng phạt ở trên thiên đường và dưới địa ngục hay là sự thưởng phạt ngay trên trần thế? Trả lời ba câu hỏi đó bằng phân tích nhân vật và tác phẩm Truyện Kiều, nhà nghiên cứu đi đến kết luận hết sức quan trọng: “Nhưng qua ba mâu thuẫn vừa phân tích, ta thấy Nguyễn Du tự mình phủ định những quan điểm tôn giáo của chính mình và khẳng định một cách chân thành chủ nghĩa nhân đạo tích cực của nhân dân. Đó là mặt chủ yếu trong triết lí của Truyện Kiều, nó ẩn dưới khuôn khổ “mệnh”, “nghiệp” nhưng lại đang tìm cách phá tung cái khuôn khổ ấy. Nhà thơ trữ tình tiến bộ đang chống đối nhà triết lí duy tâm” (Sách đã dẫn, tr. 171). Thiết nghĩ, Nguyễn Du thay đổi như vậy vì nhà thơ là người trọng tình cảm, trọng lẽ phải, trọng cây đời xanh tươi chứ không quá trọng lí thuyết màu xám. Không thể không gợi nhớ đến việc nhà thơ cho nàng Kiều dõng dạc tuyên án: Dưới cờ gươm tuốt nắp ra Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư Người ta tưởng Hoạn Thư sẽ bị trừng phạt nặng nề. Ít nhất thì cũng bị đánh một trăm roi về chữa thuốc nửa năm mới khỏi như trong Kim Vân Kiều. Thế nhưng khi nghe Hoạn Thư kêu ca “nói năng phải lời” thì Kiều đã không những không trừng phạt mà còn tha 42

bổng. Kiều tha bổng vì nàng hiểu rõ lòng dạ đàn bà với nhau, và vì theo “tình đời” chứ không theo lí lẽ, nàng theo tinh thần nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du. Theo thiển nghĩ của chúng tôi, những vấn đề triết lí theo các đạo Nho, đạo Phật, đạo Lão là có trong Truyện Kiều, nhưng cũng không phải là xuất sắc. Bởi Nguyễn Du chỉ dừng ở quan niệm đại chúng. Nếu Nguyễn Du có xuất sắc thì cùng lắm cũng chỉ là minh hoạ cho những tư tưởng, những triết lí của Ấn Độ hay Trung Hoa. Vậy thì có gì đặc biệt đâu? Giỏi thì có giỏi song cũng chỉ là giỏi đi học người ta mà thôi. Vậy thì những điều đó cũng không phải là quyết định làm nên sự vĩ đại của Truyện Kiều. Chúng tôi cho rằng những triết lí mà Nguyễn Du bằng trí tuệ của một bậc đại trí, tiếp thu cả các giáo lí hàn lâm lẫn những kinh nghiệm dân gian; và cái chính là bằng tấm lòng của một bậc đại nhân, bằng sự nhạy cảm của một nhà thơ tự tạo ra, tự khái quát lên mới chính là điều đáng nói, đáng bàn kĩ hơn, sâu hơn. Vì triết lí đó là của Nguyễn Du chiêm nghiệm, Nguyễn Du đúc kết, Nguyễn Du xây dựng nên, và Nguyễn Du muốn gửi cho người đọc. Chúng tôi muốn nói đến một số những triết lí sống mà Nguyễn Du đã rút ra có ý nghĩa như là châm ngôn, như là tục ngữ trong đời sống chẳng những của người Việt ta, mà hầu như của mọi dân tộc, mọi quốc gia, mọi chế độ. Ví dụ về tiền bạc: Trong tay đã sẵn đồng tiền Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì Và: Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong Chắc chắn Nguyễn Du không học kinh tế học, không học khoa ngân hàng, và cũng không biết đến các nhà kinh tế thế giới nói về tiền bạc. Nhưng với kinh nghiệm dân gian “Nén bạc đâm toạc tờ giấy”, “Có tiền mua tiên cũng được/ Không tiền mua lược chẳng xong” và bằng chính những quan sát về cung cách xử kiện, mua bán trong tác phẩm Kim Vân Kiều, thêm nữa với những suy ngẫm, với “những điều trông thấy” trong cuộc đời làm quan của mình, Nguyễn Du đã viết như vậy. Chuyện ấy cách nay đã hơn hai trăm năm. Nhưng các quan tham của Trung Quốc hiện nay bị vạch mặt trong chiến dịch “đả hổ diệt ruồi” của ông Tập Cận Bình chẳng đã lộ ra việc dùng tiền để “đổi trắng thay đen” đó sao? Và đâu chỉ Trung Quốc, ở Việt Nam, ông trùm Năm Cam trong vụ án chưa xa cũng đã nói về “sức mua” của đồng tiền nhằm đổi trắng thay đen, lũng đoạn và phá hoại đời sống xã hội bằng luật rừng, bằng bảo kê, băng nhóm. Đây là triết lí về cách hành xử của sai nha: Một ngày lạ thói sai nha Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền Vì tiền bạc cả thôi mà. Giở trò lưu manh quyến gió rủ mây như gã Sở Khanh kia thì cũng là vì tiền “Có ba mươi lạng trao tay/ Không dưng đâu có chuyện này trò kia”. Mấy tay cướp khai bừa cho nhà Vương ông khi được cho mười lạng bạc cũng “phản cung”, khai lại với quan. Quan khi nhận được bạc của Chung Sự đưa, cũng xét có lợi cho nhà 43

Kiều. Bọn sai nha đánh đập Thúc ông, Vương Quan cũng cốt là để có tiền. Dân chúng Việt đã tổng kết: Con ơi nhớ lấy câu này Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan Quan lại, sai nha tìm đủ cách để moi tiền. Trong tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố sau này, anh Dậu tuy đang ốm vẫn bị đánh, bị trói cũng chỉ vì thiếu tiền nộp sưu. Bây giờ thời đại mới, các vị sai nha mới (cán bộ tham nhũng, biến chất) không thể dễ dàng làm cho khốc hại dân chúng nhưng cũng tìm mọi cách để hành dân, mục đích cuối cùng để dân phải nôn tiền. Trì trệ trong việc cấp sổ đỏ. Không giải quyết ngay khiếu nại của dân. Cố tình làm sai lạc hồ sơ về đất đai. Chậm trễ cấp thoát nước. Áp thuế không đúng quy định... Những việc ấy Nguyễn Du đã khái quát thành triết lí, thành công thức trong Truyện Kiều. Về việc tranh cãi mọi vấn đề ở trên đời, kể cả những vấn đề về công ước quốc tế, chẳng ngờ chúng ta cũng tìm được triết lí của Nguyễn Du trong Truyện Kiều: Mà trong lẽ phải có người có ta Một nhận định vừa biện chứng vừa sâu sắc. Nếu một bên là trái (sai) hoàn toàn và bên kia phải (đúng) hoàn toàn thì mọi việc tưởng cũng không khó khăn lắm. Nhưng vấn đề là mỗi bên lại có những lí lẽ, những chứng cứ riêng. Có thể là một bên nhiều hơn, bên kia ít hơn. Nhưng rõ ràng là mình phải mà người cũng phải. Vậy thì phải biết điều đó để không thể khăng khăng mình đúng họ sai, mình phải họ trái. Một khi đã biết “trong lẽ phải có người có ta” thì mọi việc hành xử, tranh cãi cũng phải làm sao để “liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau”, để tránh cãi vã, tránh xung đột dẫn đến ẩu đả. Với các cá nhân cũng vậy. Với cộng đồng cũng thế. Và mở rộng ra đến quốc gia cũng vậy thôi. Xung đột, chiến tranh chính là bên nào cũng coi mình là duy nhất đúng. Dùng vũ lực để bảo vệ cái đúng trong khi không hề đếm xỉa hoặc cố tình phớt lờ cái đúng của đối phương. Về cảnh vật được nhìn từ tâm trạng con người, Nguyễn Du đã tổng kết tưởng không còn gì sâu hơn: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ Vấn đề cảnh đeo sầu là nói cái sầu ở bên ngoài khoác vào cho cảnh, chứ không phải cảnh có sẵn cái sầu trong nó. Sở dĩ cảnh đeo sầu, vì cảnh được nhìn bằng mắt người. Người vui sẽ thấy cảnh vui, cảnh đẹp vì họ mang cái vui của mình mà khoác, mà đeo vào cho cảnh. Thúc Sinh được Hoạn Thư buông cho về gặp Thuý Kiều. Thật là “được lời như cởi tấm lòng”. Vì thế mà trong tâm hồn chàng tràn ngập niềm vui sướng. Chàng nhìn cảnh vật quanh mình. Lòng chàng đang rộn niềm vui, nên chàng thấy: Long lanh đáy nước in trời 44

Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng Một khi con người buồn thì họ đem cái tâm trạng buồn mà đeo cho cảnh vật. Bởi thế, khi người buồn thì cảnh chẳng thể nào vui. Kiều trên đường rời nhà theo Mã Giám Sinh, chỉ thấy: Đùng đùng gió giục mây vần Một xe trong cõi hồng trần như bay Và: Bạc phau cầu giá đen rầm ngàn mây Vi lô san sát hơi may Và nàng một mình ở lầu Ngưng Bích, thì nhìn đâu cũng thấy buồn thương: Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi tan tác biết là về đâu Buồn trông nội cỏ dầu dầu Chân mây mặt đất một màu xanh xanh Buồn trông gió cuốn mặt duềnh Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Về thời gian tâm lí trong sự chờ đợi, mong mỏi hay buồn khổ: Sầu đong càng lắc càng đầy Ba thu dọn lại một ngày dài ghê Thời gian thì vẫn như thế thôi, đều đều, không nhanh mà cũng không chậm. Nhưng tâm trạng con người trong thời gian thì lúc thấy rất chậm, lúc lại thấy cực lâu. Một ngày dài có thể bằng đến nghìn năm trong quan niệm phương đông “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” (Một ngày trong tù (dài như) nghìn năm bên ngoài). Một ngày buồn cũng cảm thấy thời gian dài lê thê. Ba năm trong một ngày, nên ngày dài. Cái mà các nhà văn phương Tây gọi là “thời gian tâm lí” chính là ở chỗ này. “Một ngày dài hơn thế kỉ”! Cũng là thời gian tâm lí nhưng là cảm giác nhanh chóng. Ấy là khi vui, người ta không cảm thấy bước đi của thời gian: Ngày vui ngắn chẳng tầy gang Trong dân gian đã có câu: Đời người ngắn tựa gang tay Ai hay ngủ ngày còn lại nửa gang. Một gang tay là đơn vị đo chiều dài cụ thể (Ước gì sông rộng một gang/ Bắc cầu giải yếm cho chàng sang chơi). Nhưng gang, tầy gang cũng là để nói cái ngắn của thời gian. Cái ngắn ngủi ấy là ngắn ngủi được chiêm nghiệm, được đúc kết trong dân gian, Và 45

Nguyễn Du đã đưa thành một quy luật cảm nhận của con người. Khi chờ đợi, khi buồn nản thì thời gian chậm chạp, kéo dài. Khi vui vẻ, hưng phấn thì thời gian lại phi mã. Muốn làm một việc gì dài lâu, bền vững thì phải chuẩn bị hết sức chu đáo, cẩn thận. Nhất là khâu điều tra, khảo sát: Trăm năm tính cuộc vuông tròn Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông Đã tính cuộc vuông tròn, lâu dài thì phải điều tra kĩ lưỡng, cẩn thận. Đấy là nói về chuyện hôn nhân thôi. Người Việt có câu “Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem họ”. Nhất thiết việc xây dựng gia đình cần phải hiểu được hoàn cảnh kinh tế, điều kiện sinh hoạt, nề nếp,... của phía bên kia. Bởi thế mà phải điều tra, phải thăm dò. Nghĩa là phải có thời gian tìm hiểu tỉ mỉ. Thấy sông thì cũng đã biết sông. Nhưng cần phải biết lạch đổ vào sông; phải biết tận ngọn nguồn của những con lạch nữa. Gặp người, nhưng cũng phải biết quê quán, biết bố mẹ, anh em ruột thịt của người mình định tính cuộc vuông tròn. Biết lịch sử của gia đình càng kĩ lưỡng càng hay... Nói chung về các công việc lớn lao khác trên đời cũng vậy. Ví dụ xây dựng một nhà máy. Phải biết được nguồn nước, nguồn điện, nguồn nguyên liệu, nguồn nhân công và cả việc phân phối, tiêu thụ sản phẩm mà nhà máy làm ra... Nghĩa là biết càng nhiều, càng chi tiết thì việc quyết định mới chính xác, mới đảm bảo không có sai sót đáng tiếc sau này. Về sự bất tử của những người tài hoa, những người có đóng góp lớn cho xã hội: Thác là thể phách, còn là tinh anh Thật là một nhận định, một triết lí sâu sắc về cái sống và cái chết. Ở đây có quan niệm dân gian về phần xác và phần hồn, phần thể phách và phần tinh anh. Một người chết, chỉ là chết phần xác, còn phần tinh anh, phần tinh thần thì vẫn còn lại mãi. Người thiện, làm việc tốt, họ có thể mất đi, nhưng tiếng tốt vẫn còn lưu. Người ta trồng cây, khi họ chết đi, cây thành cổ thụ toả bóng mát cho đời. Người thầy giỏi, khi chết đi, tinh thần của thầy vẫn được các học trò truyền nhau đem giúp ích cho đời. Nhà tư tưởng chết đi, nhưng tư tưởng sáng suốt, anh minh vẫn còn mãi cho đời. Cái tinh thần “Trâu chết để da, người ta chết để tiếng” của tục ngữ Việt có bóng dáng ở đây. Về sự mâu thuẫn giữa vẻ bề ngoài và tinh thần bên trong của những con người nham hiểm: Bề ngoài thơn thớt nói cười Mà trong nham hiểm giết người không dao Đấy là chân dung của Hoạn Thư, nhưng cũng là khái quát chung cho chân dung những con người nham hiểm, khéo nguỵ trang, hiểm độc. Trong dân gian đã có câu: Miệng nam mô, bụng bồ dao găm. Hoặc ngắn gọn hơn nữa “Khẩu phật, tâm xà” - Miệng thì nói những lời từ bi bác ái, những lời khuyến thiện, tốt đẹp. Thế nhưng tâm địa là tâm địa loài rắn độc vô cùng nguy hiểm. Cái bề ngoài thơn thớt nói cười có vẻ hết sức tử tế, 46

ngọt ngào đó chỉ là một cách nguỵ trang khôn khéo để che đậy cái nham hiểm trong lòng. Sự nham hiểm ấy ghê gớm đến mức giết người mà không cần hung khí, giết người không cần dao búa. Một kiểu giết rất ác, không để lại dấu vết, không để ai có thể tìm ra tang chứng. Bởi vậy mà con người cần phải cảnh giác, cần phải đề phòng những kẻ thơn thớt nói cười. Cũng có nghĩa là đề phòng những cạm bẫy ngọt ngào theo tinh thần: Những nơi mật ngọt chết ruồi/ Những nơi cay đắng là nơi thật thà! Việc quan sát và so sánh ngầm mình với người khác: Trông người lại ngẫm đến ta Dân gian truyền tụng câu tục ngữ cha ông người Việt đã tổng kết “Suy bụng ta ra bụng người”. Đó là cách xem xét người đời từ chính bản thân mình, từ chính lòng mình. Mình yêu cái gì, mình ghét cái gì, mình thích cái gì, mình không thích cái gì. Căn cứ vào đó để mà biết người khác. Một sự kiểm nghiệm và dự đoán thông minh, không tốn kém. Bởi vì quy luật chung là hết thảy mọi người đều có những điểm cơ bản chung nhau: Đói thì muốn ăn, khát thì muốn uống, ham nhìn cái đẹp, chuộng của ngon, vật lạ... Còn “Trông người mà ngẫm đến ta” là làm ngược lại, từ đối tượng khách thể để mà suy ngẫm về chủ thể, về bản thân mình. Người ta như thế nào về gia cảnh, về học thức, về hình thể, về mong muốn, hoài bão... Mình có được những điểm gì như người ta, điểm gì hơn người ta, điểm gì kém người ta? Liệu mình sẽ như thế nào? Có nên như người ta? Có nên khác người ta? Có thể hơn người ta? Trông người mà ngẫm đến ta là một cách tiếp cận vấn đề, một cách suy lí, tìm lời giải đáp cho điều mà mình quan tâm. Cha ông ta làm ruộng đã từng trông rất nhiều “Trông trời, trông đất, trông mây/ Trông mưa trông gió, trông ngày, trông đêm”. Chúng ta trông người là để suy ngẫm về mình, chọn lựa cho mình một con đường, một thái độ, một cách hành xử... Có tài mà cậy chi tài Chữ tài liền với chữ tai một vần Nguyễn Du đã nói đến chuyện tài mệnh tương đố (tài mệnh ghét nhau). Có tài mà cậy tài là một điều tối kị. Nếu có tài mà có tâm còn đỡ, có tài mà thiếu tâm, không có tâm thì chỉ gây ra tai hoạ cho mình và cho người mà thôi. Đừng cậy vào tài, đừng ỷ vào tài mà làm ẩu, làm liều. Bởi vì thiên hạ nhân, thiên hạ tài. Anh tài đó, nhưng người khác cũng tài chả kém gì anh, tài gấp đôi, gấp mười anh. Đem cái tài nhỏ bé, ít ỏi của anh mà huênh hoang, mà khoe khoang, mà đòi thiên hạ phải trọng phải nể anh thì thật là buồn cười và nhất là nguy hại. Bởi thế mà chữ tài liền với chữ tai. Một cách chơi chữ độc đáo và thú vị. Chắc chắn sẽ có người nêu thắc mắc: Có khối người tài đấy thôi, họ có bị tai vạ gì đâu? Cũng như có người sẽ băn khoăn khi cụ Nguyễn Du viết: Có đâu thiên vị người nào Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai Thì cũng vậy thôi, có không ít người tài cao mà mệnh vẫn hậu, như vậy là dồi dào cả tài cả mệnh đó thôi! 47

Chúng tôi cho rằng trong bất cứ một quy luật, một khái quát nào dù sâu sắc tài tình đến đâu thì vẫn cứ có ngoại lệ. Ngoại lệ là có, là phần nhỏ. Vậy thì ai đã thống kê được số người tài mệnh dồi dào so với số người tài cao mệnh bạc? Ai đã thống kê người cậy tài bị tai vạ nhiều hơn so với số người cậy tài mà vô sự, bình an? Chưa có. Nhưng lại còn điều này nữa. Người có tài nhưng không cậy tài. Người có tài nhưng có tâm. Người có tài nhưng khiêm tốn. Người có tài nhưng không khoe tài mà lặng lẽ phục vụ. Và người có tài nhưng “họ có tu, có chánh niệm và sự khiêm nhượng” (chữ của thầy Nhất Hạnh). Bởi vậy mà cũng có không nhiều người tài mệnh dồi dào, có không nhiều người có tài mà vẫn vô sự, vẫn không bị tai vạ. Tuy nhiên so với số đông của mấy tỉ người trên trái đất thì số người đó chỉ có thể đếm trong khoảng trăm ngàn trên hàng triệu triệu người tài. Nếu chúng ta đọc Truyện Kiều một cách chậm rãi, suy ngẫm thì chắc chắn sẽ còn tìm ra nhiều điều thú vị, bất ngờ về những triết lí mà Nguyễn Du đã tổng kết, đã đúc rút bằng “con mắt nhìn thấu sáu cõi”. Và chính điều này mới góp phần làm nên giá trị tư tưởng cùng với giá trị văn chương của Truyện Kiều. 48

II. CÁC TÁC GIẢ HIỆN ĐẠI Nguyễn Việt Anh Họ và tên khai sinh: Nguyễn Việt Anh. Sinh năm 1982. Quê quán: phố Hàng Bồ, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Khiếm thị từ năm 15 tuổi, tự học và làm thơ, viết tiểu luận. Tác phẩm Thức cùng bóng tối, thơ, 2014. Bầu trời nhỏ, thơ thiếu nhi, 2015. Thơ Phạm Đức, một tâm hồn hồn hậu và tinh tế (biên soạn), 2015. Em là đôi mắt, thơ, 2016. Nhân đôi bầu trời, thơ thiếu nhi, 2016. Mắt chiều khép ánh hoàng hôn, thơ, 2018. Thơ của một tâm hồn giàu nghị lực và đa cảm (Cảm nhận về thơ của Nguyễn Việt Anh) Những bạn viết đều không xa lạ với cái tên Nguyễn Việt Anh. Không hẳn chỉ vì anh là một tác giả trẻ mà đã có 3 tập thơ riêng cho người lớn (Thức cùng bóng tối -2015, Em là đôi mắt - 2016, Mắt chiều khép ánh hoàng hôn - 2018) và hai tập thơ cho thiếu nhi (Bầu trời nhỏ - 2015, Nhân đôi bầu trời - 2016), một tập sưu tầm biên soạn (Phạm Đức - một tâm hồn nhân hậu và tinh tế - 2015). Cái lí do chính là vì anh là một chàng trai khiếm thị, từ khi 14, 15 tuổi đã vĩnh viễn không nhìn thấy ánh sáng, đã vĩnh viễn “thức cùng bóng tối”. Thế mà tác giả đã lặng lẽ vượt qua tai nạn, vượt qua khổ đau, đã vươn lên tìm cho mình một niềm an ủi ở thơ ca, đã góp cho đời 5 tập thơ và một tập biên khảo. Nhà thơ Phạm Đức, người gần gũi với Việt Anh nhận xét rất đúng rằng: “Thơ Việt Anh, dù hay dở, dù đánh giá cao thấp ra sao, cũng khó có thể phủ nhận chất tiên tiến, mạnh mẽ của tâm hồn (người) khiếm thị, một tâm hồn thơ phong phú, nhạy bén và đậm đặc chất dân tộc với sức lao động bền bỉ. Không chỉ viết mà còn là đọc, là giao lưu, học hỏi”. Ông Đặng Hiển, 49

một nhà giáo, nhà thơ cao tuổi không giấu niềm cảm phục của bản thân mình khi đọc Nguyễn Việt Anh: “Chính bàn tay người khiếm thị đó đang đỡ người sáng mắt như tôi”. Điều đáng nói ở cây bút trẻ này là anh đã chọn cho mình thể thơ lục bát của dân tộc để bộc bạch những cảm xúc, những nỗi niềm của mình trước thiên nhiên và cuộc sống xung quanh. Lục bát sáu dòng, lục bát hai dòng, và chủ yếu là bốn dòng (có nhan đề và không có nhan đề) là thể thơ mà Việt Anh đã chọn. Và thực sự là anh đã có những thành công đáng ghi nhận về thể thơ dễ viết mà khó hay này. Chỉ lấy một vài bài ví dụ: Dẫu hôm qua khác hôm nay Dẫu còn khác mất dẫu đầy khác vơi Dẫu đau buồn khác sướng vui Liệu người khóc với người cười khác không Bài 25 Nếu có nhan đề, bài thơ này có thể có tên là “Khác”. Cái sự khác rõ ràng ở ba câu đầu bài thơ. Khóc với cười hình như cũng khác rành rành rồi. Nhưng “người khóc” với “người cười” liệu có khác? Không phải ngẫu nhiên mà Việt Anh đặt ra nghi ngờ này. Tôi thấy từ xưa nhà thơ Nguyễn Công Trứ đã cảm nhận cái sự khóc cười có vẻ như mâu thuẫn của con người: Khi vui muốn khóc buồn tênh lại cười Cây thông Nhà thơ hậu bối Tế Hanh cũng đã ghi nhận tình cảm có vẻ “trái ngược” trong tâm lí: “Những ngày buồn nghĩ đến thấy vui vui/ Những ngày vui sao lại thấy bùi ngùi” (Bài thơ tình ở Hàng Châu). Người khóc với người cười nhiều khi chỉ là một con người trước hoàn cảnh khác nhau như trong thơ Nguyễn Công Trứ. Sự băn khoăn của Việt Anh chính là xuất phát từ một tâm hồn nhạy cảm. Một bài lục bát khác, bài số 45 Cứ tỉ tê, cứ thơm nồng Cứ chìm đắm xuống tận cùng si mê Đêm buông đẫm giọt cà phê Ta nằm trong cốc lặng nghe đắng mình Có thể đặt tên bài là “Giọt cà phê”, nhưng cũng có thể là “Lặng nghe”, còn có thể là “Chìm đắm”,... Nhưng dù tên gọi là gì thì người đọc cũng cảm nhận được sự phân thân, sự thoát xác của tác giả cùng với vị đắng của cà phê, vị đắng của số phận một con người. Thêm một bài thơ thành công viết về đá. Trong tập thơ “Em là đôi mắt” tác giả đã hỏi đá “Muốn lên xanh với bầu trời/ Hay tan thành suối về khơi dạt dào/ Tâm tư của đá thế nào/ Mà nhiều khi thấy đá trào mồ hôi”. Thấy đá trào mồ hôi thì hỏi đá cho biết thế 50


Like this book? You can publish your book online for free in a few minutes!
Create your own flipbook