Important Announcement
PubHTML5 Scheduled Server Maintenance on (GMT) Sunday, June 26th, 2:00 am - 8:00 am.
PubHTML5 site will be inoperative during the times indicated!

Home Explore Phan Đình Phùng – Cuộc đời và sự nghiệp (Chương Thâu)

Phan Đình Phùng – Cuộc đời và sự nghiệp (Chương Thâu)

Published by THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRƯỜNG THCS TỨ MINH, 2023-08-14 15:20:05

Description: Phan Đình Phùng – Cuộc đời và sự nghiệp (Chương Thâu)

Search

Read the Text Version

Phan Đình Phùng Chương Thâu Chỉ huy các đơn vị nghĩa binh làng xã đại bộ phận là những người giàu có, có học vấn, có võ nghệ... họ được liệt vào hàng ngũ văn thân như sử sách nói đến lâu nay là một phản ảnh chính xác; và khi lực lượng văn thân này chỉ huy các đơn vị nghĩa binh, mọi đảm bảo cho đơn vị hoạt động như vũ khí - lương thực là hoàn toàn tin cậy. Lịch sử từng ghi chép các danh tướng thuộc quyền của Phan Đình Phùng như Cao Thắng, Cao Đạt, Lê Ninh... các tướng lĩnh của các quân thứ ở các huyện; riêng các thủ lĩnh các đơn vị nghĩa binh làng xã dường như bị quên lãng, đó là: Nguyễn Cao Đôn ở Phất Nạo (nay là xã Thạch Bình, thị xã Hà Tĩnh) đỗ cử nhân khoa thi Nhâm Ngọ (1882) đã hưởng ứng Cần vương, tổ chức lực lượng chống Pháp ở quê và có những hoạt động tích cực; đó là Trần Vĩnh Thiêng và Trần Vĩnh Hài ở Vĩnh Lại (nay là xã Cẩm Vịnh, huyện Cẩm Xuyên) là hai anh em cùng học trường võ ở Thanh Hóa về quê tập hợp lực lượng, chặn đánh cánh quân Pháp tấn công vào làng; Vĩnh Thiêng bị tử trận, Vĩnh Hài kéo lực lượng lên hoạt động ở vùng Đồn Điền - Đá Bạc một thời gian; đó là Đội Ban ở Cẩm Hòa, Cẩm Xuyên, lập đồn binh chống Pháp ở Động Đồn, và tiến quân lên đánh Đồn Trường (Cẩm Thắng, Cẩm Xuyên), ông cùng nghĩa quân bị bắt, bị xử tử ở Rú Nài (Đại Nài, thị xã Hà Tĩnh) ... Cứ lần lượt hết mọi vùng quê, những trích ngang như vậy ắt sẽ dài ra và dày thêm đến ba con số, sẽ cung cấp cho ta những hình ảnh sống động của các nghĩa sĩ Cần vương anh dũng một thời. Nhân kỷ niệm 160 năm ngày sinh Phan Đình Phùng và phong trào Cần vương ở Hà Tĩnh, nếu có được một danh sách tướng sĩ Cần vương thông qua khai báo của các dòng họ, của các làng quê, do cơ quan hữu trách khởi xướng và chỉ đạo thực hiện sẽ là việc làm vô cùng có ích? Các cuộc đụng độ giữa nghĩa quân Cần vương với quân Pháp trên địa bàn Hà Tĩnh, những năm đầu và trước khi giặc Pháp tập trung tấn công vào Vụ Quang, rất ít được sử sách ghi lại, hay nói cách khác là bị quên lãng, bởi từ suốt 120 năm qua không có bất kỳ một cuộc điều tra khoa học thực địa nào được tiến hành, các mẩu chuyện mà các cụ các ông kể lại một thời, lâu ngày mất dần mất dần một cách tự nhiên. Hẳn rằng nhiều cuộc đụng độ đã xảy ra giữa quân ta với quân địch ở khắp nơi; quân địch cậy có vũ khí và trang bị hiện đại hơn, còn nghĩa quân chỉ có vũ khí truyền thống - bạch vũ khí, song vô cùng dũng cảm, hễ có tốp quân giặc nào đến là nghĩa quân lăn xả vào đánh giáp lá cà, Trang 100

Phan Đình Phùng Chương Thâu cũng có những trận địa mai phục, và quân địch ngay từ thời gian đầu không phải đã áp đảo được nghĩa quân, và không phải muốn đánh đâu thì đánh. Hơn nửa thế kỷ trước, tôi được nghe nhiều chuyện Cần vương đánh Pháp ở quê tôi, do ông nội kể lại, rằng quân Pháp cũng nhát gan tuy có súng, chúng chỉ dám đối đầu nơi đồng không mông quạnh, không dám vào làng xóm, vì vào làng là bị tiêu diệt ngay, đến các đồn quân Pháp ở Hà Tĩnh cũng không có nhiều, hễ có đồn là bị tập kích bởi nghĩa quân. Như vậy, muốn nói lên rằng, sau hơn 1/4 thế kỷ vào xâm lược Việt Nam, lần đầu tiên quân Pháp đụng độ với nghĩa binh Cần vương và dân chúng khu vực miền Trung gan góc này, lịch sử đã xếp sắp các cuộc đụng độ, mà bởi nhiều lý do, những người Việt yêu nước ở đây không gặp may mắn hơn đồng bào và chiến sĩ của họ ở miền Bắc Bộ và Nam Bộ từ hai đầu đất nước. 4. Với phong trào Cần vương và căn cứ Vụ Quang, mô hình chiến khu chống xâm lược hình thành ở Việt Nam. Bây giờ thì chúng ta không thể lý giải nổi, vì sao các cuộc đề kháng của nhân dân ta liên tiếp thất bại từ Nam Kỳ ra Bắc Kỳ và thực dân Pháp buộc triều đình Huế ký Hàng ước 1883, mà Phan Đình Phùng còn lãnh sứ mạng cao cả tổ chức phong trào chống Pháp dưới cờ nghĩa Cần vương? Lãnh tụ nghĩa quân Cần vương Phan Đình Phùng hẳn rằng đã có phương lược gì đây! Những Tân Sở (Cam Lộ, Quảng Trị), Sơn phòng (Hương Khê, Hà Tĩnh) được phái chủ chiến trong triều đình Huế ngầm cho xây dựng từ sau Hàng ước 1883 có lẽ đã làm cho Phan Đình Phùng lần tìm một kế sách mới cho cuộc chiến chống thực dân Pháp xâm lược, liên tục thất bại từ 1/4 thế kỷ qua; hẳn rằng khi được tiếp kiến Hàm Nghi ở Sơn phòng Hà Tĩnh, Phan Đình Phùng nhận thức được vùng địa linh này đối với sự nghiệp chống ngoại xâm của nhân dân Việt Nam, mà đây là một sự nghiệp mang nặng dấu ấn truyền thống suốt hàng ngàn năm lịch sử. Phan Đình Phùng không nói lại gì với lịch sử trong quá trình tổ chức - xây dựng lực lượng Cần vương, do đó mọi đoán định về ông đều mang tính giả định. Theo đó chúng tôi cho rằng, một mặt Phan Đình Phùng phát động cuộc kháng chiến rộng khắp đến tận các làng xã và xây dựng các đơn vị và các căn cứ kháng chiến tại mỗi làng quê, như Trang 101

Phan Đình Phùng Chương Thâu là một cuộc kháng chiến toàn dân và toàn diện; mặt khác Phan Đình Phùng chuẩn bị để xây dựng chiến khu kháng chiến lâu dài, phòng khi các đơn vị và căn cứ bị đàn áp. Thực tế gần hai năm chiến đấu, giặc Pháp nhanh chóng dập tắt cuộc đề kháng từ các quân thứ, những đồn binh mạnh như Đại đồn Trung Lễ (Đức Thọ) của Lê Ninh cũng không trụ nổi trước sức ép của quân giặc, phải chuyển lên rừng núi Vụ Quang. Điều đó bức bách Phan Đình Phùng và cộng sự đắc lực của ông xây dựng chiến khu kháng chiến Vụ Quang. Trước khi chọn Vụ Quang, Phan Đình Phùng đã tìm kiếm vài nơi có địa thế dụng binh để chọn lập căn cứ chiến khu lâu dài; theo những thông tin mà chúng tôi nhận được, thì khoảng cuối năm 1886, Phan Đình Phùng đã định chọn vùng Đá Bạc (nay nằm trong lòng hồ Kẻ Gỗ, thuộc xã Cẩm Mỹ, huyện Cẩm Xuyên) để làm địa bàn hoạt động. Đá Bạc là một thung lũng khá rộng, hình thành những trang trại sản xuất và chăn nuôi trâu bò, và đầu thế kỷ XX được nâng lên là đơn vị hành chính cơ sở, gọi là trại Mụ Lương Đá Bạc thuộc tổng Mỹ Duệ, huyện Cẩm Xuyên. Từ Đá Bạc có đường thông sang Hương Khê, đường thông vào Quảng Bình và thông về Cẩm Xuyên cũng như Hà Tĩnh; Đá Bạc được coi như thế đất có thể làm căn cứ kháng chiến lâu dài, có khoảng cách chừng 25km so với thị xã Hà Tĩnh. Nhưng thực tế tương quan lực lượng giữa ta và địch đã không cho phép Phan Đình Phùng chọn Đá Bạc làm chiến khu kháng chiến lâu dài, vì Đá Bạc không đủ rộng, không đủ hiểm trở và không đủ xa cách với các trung tâm chiếm đóng và dễ dàng bị tấn công; nên dự định bị bãi bỏ. Gia phả và truyền ngôn họ Nguyễn Quang ở thôn Chỉ Trụ, xã Vĩnh Lại (nay thôn Ngụ Quế, xã Cẩm Vịnh, huyện Cẩm Xuyên) ghi lại rằng, Phan Đình Phùng bí mật đến ở gia đình Nguyễn Quang này ba tháng để tìm hiểu Đá Bạc, được gia đình này nuôi dưỡng và che giấu, sau ba tháng Phan Đình Phùng trở lên Hương Khê và chọn Vụ Quang làm chiến khu. Sau khi thực dân Pháp chiếm cứ toàn bộ vùng đồng bằng Hà Tĩnh, họ Nguyễn Quang này bị trả thù vì đã ủng hộ Cần vương và che giấu Phan Đình Phùng, năm anh em nhà Nguyễn Quang phải bỏ làng ra đi tìm nơi ẩn náu ở gần Đá Bạc và vào tận Quảng Trị, sau này người con trai trưởng từ Quảng Trị đã về lại làng. Chiến khu Vụ Quang xuất hiện trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp dưới cờ nghĩa Cần vương, sau thất bại của phong trào chống Pháp ở vùng đồng bằng Hà Tĩnh, và đặc biệt sau khi thực dân Pháp Trang 102

Phan Đình Phùng Chương Thâu tàn phá và đàn áp nhanh chóng căn cứ Ba Đình (Nga Sơn, Thanh Hóa), có lẽ cuộc rào làng chiến đấu ở Ba Đình như một thức tỉnh và thôi thúc Phan Đình Phùng và cộng sự phải nhanh chóng tạo lập nên chiến khu Vụ Quang. Cho phép chúng tôi không nói gì về chiến khu Vụ Quang và cuộc chiến đấu bảo vệ Vụ Quang của nghĩa quân và các cuộc vây ráp Vụ Quang của thực dân Pháp, mà nhấn mạnh sự xuất hiện của chiến khu Vụ Quang, và tiếp theo đó là của chiến khu Yên Thế (Bắc Giang) của Hoàng Hoa Thám (và một mặt nào đó là của căn cứ Ba Đình), tạo nên sắc thái riêng biệt cho cuộc kháng chiến chống Pháp từ 1885-1930, một giai đoạn chuyển biến tích cực của cuộc kháng chiến trước khi xuất hiện đường lối kháng chiến giải phóng dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo. Thừa kế kinh nghiệm của Ba Đình, Vụ Quang, Yên Thế đối với việc duy trì một cách lâu dài cuộc kháng chiến chống ngoại xâm nhằm giành lại độc lập cho dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1930, sau khi ra đời, đã thử nghiệm một số hoạt động kiểu như Xô viết Nghệ Tĩnh (1930-1931) và đấu tranh nghị trường như phong trào Bình dân (1936-1939) dường như không mấy hiệu quả lắm trước bạo lực của kẻ thù, đã chuyển sang hình thức lập chiến khu kháng chiến lâu dài, tạo các vùng gọi là ATK, và đỉnh cao là chiến khu Việt Bắc, đã tạo nên sức mạnh vĩ đại dẫn đến Cách mạng tháng Tám 1945 lừng lẫy. Vụ Quang tuy thất bại, cũng như hầu hết các cuộc chống xâm lược Pháp từ 1858-1945 đều thất bại (trừ Cách mạng tháng Tám 1945), nhưng tinh thần Vụ Quang mãi mãi vẫn còn với lịch sử, kinh nghiệm chiến khu Vụ Quang như là một sáng tạo độc đáo của phong trào Cần vương, được phát huy tác dụng trong thời kỳ thứ ba (1930-1945) của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược đến thắng lợi hoàn toàn. *** Nhìn nhận đánh giá và có được những nhận thức mới về phong trào Cần vương chứng thực dân Pháp ở Hà Tĩnh và Trung Bộ do Phan Đình Phùng lãnh đạo không hẳn là vấn đề gì xa lạ với lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta, nhưng là vấn đề luôn luôn mới với giới nghiên cứu và với đông đảo bạn đọc trong và ngoài nước; vấn đề là ở Trang 103

Phan Đình Phùng Chương Thâu chỗ làm sao tiếp cận được một cách nhiều hơn, chính xác hơn, đầy đủ hơn với sự kiện lịch sử trọng đại này. Mọi cố gắng đang ở phía trước, so với thời gian hơn một thế kỷ xảy ra sự kiện này là hơi muộn, nhưng sẽ không bao giờ muộn khi chúng ta nói được, phản ánh được, trình bày được sự kiện lịch sử này. PHAN VĂN THẮNG (1) - PHONG TRÀO KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP Ở NGHỆ TĨNH CUỐI THẾ KỶ XIX Ngày 1-9-1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, chính thức phát động chiến tranh xâm lược nước ta. Ngày 5-6-1862, triều đình nhà Nguyễn ký Điều ước Nhâm Tuất dâng cho giặc ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường). Năm 1873, thực dân Pháp đánh chiếm Hà Nội và một số tỉnh Bắc Bộ. Ngày 15-5-1874, nhà Nguyễn lại ký Điều ước giao nộp nốt cho giặc Pháp ba tỉnh miền Tây. Cùng với cả nước, xứ Nghệ đã đứng lên, vừa chống đế quốc xâm lược, vừa chống phong kiến đầu hàng. Ở Thanh Chương có khởi nghĩa Giáp Tuất của Trần Tấn và Đặng Như Mai. Ở Hà Tĩnh có khởi nghĩa của Trần Quang Cán, Nguyễn Huy Điển. Cùng với cuộc chiến đấu của Trương Quang Thủ ở Quảng Bình, cuộc khởi nghĩa Giáp Tuất mặc dù cuối cùng đã bị đàn áp và thất bại nhưng đã khẳng định ý chí chống giặc cứu nước và ấp ủ một tình yêu lớn đối với Tổ quốc của đồng bào và sĩ phu xứ Nghệ, để rồi 10 năm sau lại bùng lên dữ dội trong phong trào Cần vương chống Pháp. Ngày 18-8-1883, giặc Pháp đánh chiếm Kinh thành Huế. Phái chủ hòa trong triều đình Huế đã ký các Điều ước Quý Mùi (28-8-1883), Giáp Thân (6-6-1884) dâng toàn bộ đất nước cho giặc. Đêm 5-7-1885, phái chủ chiến trong triều đình do Tôn Thất Thuyết chỉ huy tấn công quân Pháp ở đồn Mang Cá (Huế) không thành. Vua Hàm Nghi xuất bôn và ngày 13-7-1885 từ Sơn phòng Quảng Trị xuống Chiếu Cần vương, kêu gọi văn thân sĩ phu và đồng bào cả nước đứng lên đánh giặc cứu nước. Đồng bào và sĩ phu xứ Nghệ lại cùng cả Trang 104

Phan Đình Phùng Chương Thâu nước dấy lên phong trào yêu nước, chống Pháp quật cường. Tiếp ứng nghĩa đầu tiên là cuộc khởi nghĩa Lê Ninh ở làng Trung Lễ (Đức Thọ). Ngày 20-9-1885, tại Sơn phòng Phú Gia (Hương Khê - Hà Tĩnh), vua Hàm Nghi lại xuống Chiếu Cần vương lần thứ hai kể tội quân cướp nước, hô hào sĩ phu và nhân dân cứu nước. Từ ngòi nổ đầu tiên - cuộc khởi nghĩa của Lê Ninh, phong trào chống Pháp - Cần vương - cứu nước đã bùng lên sôi nổi trên đất Nghệ Tĩnh. Ở Đức Thọ có Lê Ninh, Phan Đình Phùng... Ở Can Lộc có hai anh em Nguyễn Chanh, Nguyễn Trạch; ở Thạch Hà có Nguyễn Cao Đôn, Nguyễn Huy Thuận; ở Cẩm Xuyên có Dương Duy Dừ, Hoàng Bá Xuyên; ở Kỳ Anh có Võ Phát, Võ Hoán, Lê Nhất Hoàn, Trần Công Thưởng; ở Nghi Xuân có Hà Văn Mỹ, Nguyễn Thế, Nguyễn Quân; ở Hương Khê có Trần Hữu Châu, Nguyễn Thoại; ở Hương Sơn có Nguyễn Hữu Giao, Thái Vĩnh Chinh, Đinh Nho Hành, đặc biệt là có đội quân của Cao Thắng; ở Nghi Lộc có Đinh Văn Chất, Nguyễn Hành, Nguyễn Chất, Nguyễn Mậu; ở Thanh Chương, Đô Lương có Trần Khắc Kiệm, Nguyễn Hữu Chỉnh, Trần Văn Biểng, Hồ Văn Phú...; ở Nam Đàn có Vương Thúc Mậu, Vương Thúc Quý...; ở Quỳnh Lưu có Phan Duy Phổ, Hồ Đức Thạc, Hồ Trọng Miên, Hồ Trọng Hoán; vùng Anh Sơn - Con Cuông có Lê Doãn Nhạ; ở Nghĩa Đàn, Quỳ Châu, Quế Phong có Lang Văn Thiết... Nhưng lớn nhất, có sức quy tụ, tập hợp nghĩa khí và nghĩa binh của các lực lượng kháng chiến khác là các cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Xuân Ôn và Phan Đình Phùng, hai trung tâm kháng chiến ở Bắc và Nam xứ Nghệ. Tiến sĩ Nguyễn Xuân Ôn, hiệu Ngọc Đường, sinh ngày 10-5-1825, quê ở làng Quần Phương (Diễn Thái, Diễn Châu). Trước họa xâm lăng ông đã phản đối thái độ cầu hòa của triều đình, bị cách chức về quê. Khi Chiếu cần vương lần thứ nhất ban bố, ông đã chuẩn bị lực lượng, lương thực, khí giới để khởi nghĩa. Sau khi xuống Chiếu Cần vương lần thứ hai, vua Hàm Nghi phong ông là Hiệp đốc quân vụ An Tĩnh. Từ đó ông đã tập hợp được đông đảo lực lượng quân sĩ trên địa bàn cả tỉnh Nghệ An. Với nhiều cách đánh linh hoạt, nghĩa quân của Nguyễn Xuân Ôn, ngay từ lúc xuất quân, năm 1886 đã có những trận chiến đấu kiên cường, gây cho địch nhiều tổn thất to lớn, buộc đội quân bình định của giặc Pháp phải đối phó rất khó khăn, căng thẳng. Sau khi rút lên căn cứ Đồng Thông, nghĩa quân của Nguyễn Xuân Ôn không chỉ Trang 105

Phan Đình Phùng Chương Thâu phục kính địch mà còn chủ động tấn công các căn cứ của chúng. Đó là trận tấn công phủ thành Diễn Châu, căn cứ làng Tràng Thành... Trong trận đánh bọn địch thọc vào khu căn cứ, không may, Nguyễn Xuân Ôn bị trọng thương rồi sau đó bị địch bắt vì có việt gian khai báo vào ngày 25-7-1887. Ngày 1-10-1889, Nguyễn Xuân Ôn trút hơi thở cuối cùng. Nguyễn Xuân Ôn hy sinh nhưng cuộc khởi nghĩa do ông khởi xướng vẫn được duy trì. Các tướng lĩnh và quân sĩ của ông đã quy tụ dưới ngọn cờ khởi nghĩa Phan Đình Phùng - Cao Thắng. Phan Đình Phùng (1847-1895) quê ở làng Đông Thái (nay là xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ). Ông sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống nho học, đời đời kế tiếp thi đỗ làm quan. Năm 30 tuổi đỗ cử nhân, năm sau, 31 tuổi ông đỗ Tiến sĩ và ra làm quan. Ở Bắc một thời gian, ông được gọi về Huế giữ chức Ngự sử, nổi tiếng cương trực khảng khái. Năm 1883, khi Tôn Thất Thuyết và phái chủ chiến phế bỏ Dục Đức, vì chưa nhận được sự đúng đắn và cấp bách mà Tôn làm, ông đã công khai lớn tiếng phản đối lại triều chính nên bị đuổi về quê. Sau khi Chiếu Cần vương được ban bố, tiếp theo Lê Ninh khởi nghĩa ở Trung Lễ, Phan Đình Phùng triệu tập cuộc họp các sĩ phu. Đông đảo văn thân sĩ phu Hà Tĩnh và Nghệ An đã đến dự, quyết định khởi nghĩa và cử Phan Đình Phùng đứng ra lãnh đạo phong trào. Làng Đông Thái được gấp rút xây dựng thành làng kháng chiến - Đại đồn Đông Thái. Tháng 10-1885, Phan Đình Phùng yết kiến vua Hàm Nghi ở Sơn phòng Hương Khê. Tháng 11-1885 nghĩa quân Đông Thái phối hợp với nghĩa quân Trung Lễ tiến đánh bọn gián điệp đội lốt tôn giáo phá hoại kháng chiến ở Thọ Ninh, Thọ Tường. Cuộc tấn công thất bại vì quân Pháp ở Vinh kéo lên giải nguy. Sau đó chúng tấn công vào đại đồn Đông Thái. Nghĩa quân Đông Thái rút lên đóng ở núi Mồng Gà (Hương Sơn) rồi về làng Phụng Công (Đức Hòa - Đức Thọ). Vào thời điểm này, nghĩa quân Phan Đình Phùng có thêm sự gia nhập của nghĩa quân Cao Thắng. Cao Thắng (1864-1893) vốn quê ở làng Phúc Dương (nay thuộc Sơn Phúc - Hương Sơn), đến đời ông nội thì chuyển về thôn Nhà Nàng, làng Yên Đức, xã Tuần Lễ (nay là xã Sơn Lễ - Hương Sơn). Ông tham gia khởi nghĩa năm Giáp Tuất với Trần Quang Cán (Đội Lựu). Khởi Trang 106

Phan Đình Phùng Chương Thâu nghĩa thất bại, ông được cử nhân Phan Đình Thuật (là em trai Phan Đình Phùng) làm Giáo thụ phủ Anh Sơn che chở, nhận là cháu và đem về nuôi. Năm 1881, Phan Đình Thuật mất, Cao Thắng trở về quê làm ăn nhưng lại bị cường hào o ép, vu oan, bắt giam ở nhà lao Hà Tĩnh. Tháng 11-1885, Lê Ninh đánh thành Hà Tĩnh, phá nhà lao, Cao Thắng được giải phóng và tức tốc về quê cùng với em trai là Cao Nữu và bạn thân Nguyễn Đình Kiểu (nay ở Sơn Châu) chiêu mộ quân dấy nghĩa. Được tin Phan Đình Phùng khởi nghĩa, ông đã đem toàn bộ lực lượng đến gia nhập (1866). Năm 1887 Phan Đình Phùng, trước khi ra Bắc để liên kết lực lượng, đã giao toàn quyền lãnh đạo cho Cao Thắng. Cao Thắng sau khi nhận trọng trách đã rút quân về đóng bản doanh ở Cồn Chùa - một vùng núi non hiểm trở phía Bắt huyện Hương Sơn (nay thuộc xã Sơn Giang), sau lại chuyển về căn cứ này nằm trên tả ngạn Ngàn Sâu, có vị trí vô cùng hiểm trở nhưng lại có thể thông sang phía Tây với Lào, Xiêm, phía Nam với Quảng Bình, Quảng Trị, phía Bắc với Nghệ An, Thanh Hóa... và trực tiếp nhất là các làng ở Đức Thọ, Can Lộc, Hương Sơn... Tại đây Cao Thắng đã xây dựng đội nghĩa quân có chất lượng chiến đấu cao, có kỷ luật nghiêm; lại tích trữ lương thực gạo, muối ở căn cứ Vụ Quang - Ngàn Trươi (Hương Khê) phòng khi cần thiết. Đặc biệt, là ông đã chế tạo thành công loại súng trường theo kiểu 1874 của Pháp, góp phần quan trọng để nâng cao sức chiến đấu cửa nghĩa quân. Vào thời kỳ này, 1888-1889, lực lượng nghĩa quân đã khá lớn mạnh nhưng ảnh hưởng vẫn chỉ ở trong phạm vi Đức Thọ và Hương Sơn. Trong lúc đó các cuộc khởi nghĩa lẻ tẻ khác ở Nghệ - Tĩnh và khu vực Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình đang bị giặc Pháp uy hiếp và đàn áp. Khởi nghĩa Ba Đình (Thanh Hóa) tan rã. Nguyễn Xuân Ôn (Nghệ An) bị giặc bắt (1887) phong trào tạm lắng. Ở Quảng Bình, sau khi Nguyễn Phạm Tuân và Lê Trực thất bại, phong trào đang dần được hồi phục dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Thụ và Nguyễn Bí. Các lực lượng khác ở Hà Tĩnh cũng thiếu sự phối hợp chặt chẽ nên chưa phát huy được ưu thế, chưa tạo nên sức mạnh lớn để đối phó với quân Pháp. Việc thống nhất lực lượng, thống nhất lãnh đạo để tăng cường sức chiến đấu đã trở thành yêu cầu cấp thiết cho tất cả các lực lượng khởi nghĩa, của cuộc kháng chiến. Vì vậy, tháng 9-1889, Cao Thắng đã cho người ra Bắc đón Phan Đình Phùng về lãnh đạo phong trào kháng chiến. Sau khi về đến Thượng Bồng, căn cứ vào tình hình ở bốn tỉnh, Phan Đình Trang 107

Phan Đình Phùng Chương Thâu Phùng phân bố tất cả các lực lượng thành 15 quân thứ (Khê thứ (Hương Khê), Hương thứ, Can thứ, Lai thứ (Tổng Lai Thạch), Nghi thứ, Lễ thứ (Trung Lễ), Cẩm thứ, Thạch thứ, Kỳ thứ, Diệm thứ (làng Tình Diệm - Hương Sơn), Diễn thứ (Diễn Châu), Anh thứ (Anh Sơn), Lệ thứ (Lệ Thủy - Quảng Bình), Bình thứ (Quảng Bình), Thanh thứ (Thanh Hóa)). Mỗi quân thứ do một người chỉ huy đứng đầu. Căn cứ Thượng Bồng là đại bản doanh với lực lượng nòng cốt là đội quân của Cao Thắng và ông được giao chỉ huy về quân sự dưới sự thống lĩnh chung của Phan Đình Phùng. Ngoài việc thống nhất các lực lượng kháng chiến của cả bốn tỉnh, hai ông còn xây dựng sự thống nhất về chỉ huy, kỷ luật và một phần về trang bị vũ khí, tạo nên sức mạnh mới của phong trào, mở ra một thời kỳ chiến đấu rất quyết liệt từ năm 1889-1893. Thời kỳ này mặc dù quân Pháp đã tăng cường lực lượng, thiết lập hệ thống đồn bốt bao vây, tổ chức các cuộc càn quét tập trung nhưng thế chủ động vẫn do nghĩa quân nắm giữ. Từ giữa năm 1890, trước sự tấn công của địch, đại bản doanh của cuộc khởi nghĩa được chuyển lên vùng núi cao hơn, ở Hói Trùng, Hói Trí. Hoạt động chính của nghĩa quân thời kỳ 1890-1891 là chủ động đánh đồn, diệt viện, bảo vệ căn cứ. Bước sang những năm 1892-1893, vừa chiến đấu vừa xây dựng, lực lượng của nghĩa quân đã trưởng thành nhanh chóng, có thể tập trung chống càn dài ngày hoặc đánh vào các căn cứ của địch. Tiêu biểu là trận chống càn thắng lợi vào tháng 8-1892. Trong lúc các thứ quân Hương Sơn, Hương Khê chống càn thắng lợi, ở khu căn cứ thì nghĩa quân Thạch thứ đã bất ngờ tập kích tỉnh lị Hà Tĩnh. Cuối năm 1893, căn cứ vào sự phát triển của lực lượng và thực tế chiến trường, Cao Thắng mở cuộc hành quân ra tỉnh lị Nghệ An để khuấy động phong trào và tiêu hao sinh lực địch. Tiếc là công viện chưa thành thì tướng quân Cao Thắng bị thương và hy sinh (21-1-1893) lúc mới 29 tuổi. Từ đó, cuộc khởi nghĩa đi vào giai đoạn khó khăn, suy yếu. Giặc Pháp và tay sai không chỉ tăng cường lực lượng mà còn có nhiều thủ đoạn thâm hiểm và độc ác để đàn áp cuộc khởi nghĩa. Chúng thực hiện kế hoạch “dè phiên ly” và đóng các “đồn phòng triệt”, tập trung quân càn quét dài ngày vào vùng căn cứ chính. Nghĩa quân Phan Đình Phùng đã tích cực phản công, tập kích, quấy rối. Nhân dân các nơi vẫn gắn bó với nghĩa quân, tiếp tế lương thực cho nghĩa quân. Sau mấy lần phải dời đại bản doanh, tháng 10-1894, Phan Đình Phùng trở lại căn cứ Vụ Quang. Tại đây, ngày 26-10-1894 ông đã trực tiếp chỉ huy một trận phục kích chống càn thắng lợi, tiêu diệt ba sĩ quan Pháp, trên 100 lính ngụy, thu 50 súng và nhiều quân trang Trang 108

Phan Đình Phùng Chương Thâu quân dụng, gây một tiếng vang lớn cả vùng Nghệ Tĩnh. Tuy vậy, vẫn không xoay chuyển được cục diện, tình thế của nghĩa quân vô cùng khó khăn. Các đơn vị nghĩa quân đã chiến đấu vô cùng quả cảm nhưng không có thời gian và điều kiện để củng cố. Sự tiếp tế lương thực ngày càng khó khăn, sự bổ sung vũ khí đạn dược không được đầy đủ nên lực lượng nghĩa quân suy yếu dần. Trong lúc đó, địch ra sức tấn công nghĩa quân, truy bắt Phan Đình Phùng và các tướng lĩnh khác. Ngày 28-12-1895, trong một cuộc giao chiến ác liệt, Phan Đình Phùng bị thương và sau đó hy sinh. Đó cũng là thời điểm chấm dứt cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng - Cao Thắng nói riêng và phong trào chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược cuối thế kỷ XIX ở Nghệ - Tĩnh, kết thúc thời kỳ các sĩ phu phong kiến yêu nước lãnh đạo phong trào chống Pháp để chuẩn bị chuyển giao vai trò lãnh đạo cho một lực lượng mới. Tuy thất bại nhưng những cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX ở Nghệ Tĩnh đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm về đấu tranh vũ trang, xây dựng làng chiến đấu, về chiến tranh du kích, về tổ chức lực lượng, động viên toàn dân đánh giặc và sách lược chiến tranh nhân dân. Tuy thất bại nhưng các cuộc khởi nghĩa chống Pháp cuối thế kỷ XIX đã thể hiện tình yêu đất nước, ý chí kiên trung, sự nhạy bén với thời cuộc và khả năng tổ chức chiến đấu của các sĩ phu yêu nước và các tầng lớp nhân dân. Tròn 110 năm kể từ thời điểm bi hùng ấy, chúng tôi lược chép lại những sự kiện, những nhân vật chính của phong trào với ý nguyện được xem như một nén nhang để tưởng nhớ công lao của các bậc tiền nhân (Tạp chí Văn hóa Nghệ An, số 67, tháng 12 năm 2005) _________________________________________ 1. Phan Văn Thắng: Tổng biên tập Tạp chí Văn hóa Nghệ An. PHAN TRỌNG BÁU TỪ “TIẾNG XƯỚNG NGHĨA TRƯỚC TIÊN” CỦA LÊ NINH ĐẾN KHỞI NGHĨA PHAN ĐÌNH PHÙNG (1) Khởi nghĩa Phan Đình Phùng là một cuộc khởi nghĩa lớn, là đỉnh cao của phong trào chống Pháp của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX. Nó đã Trang 109

Phan Đình Phùng Chương Thâu quy tụ được hầu hết các cuộc khởi nghĩa lẻ tẻ của bốn tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình thành một phong trào duy nhất, có tổ chức khá quy mô, chỉ huy tương đối thống nhất và chặt chẽ, đã huy động được nhân tài vật lực từ trung du, đồng bằng đến miền biển, miền núi và đặc biệt là cả một số nhân dân Lào ở vùng biên giới cùng tham gia, do đó thời gian kéo dài đến 10 năm (1885-1895) Tuy nhiên trước khi khởi nghĩa Phan Đình Phùng trở thành ngọn cờ khởi nghĩa tiêu biểu thì một cuộc khởi nghĩa mở đầu như một phát súng báo hiệu cho trận quyết chiến, cổ vũ mọi người xông lên giết giặc, đó là khởi nghĩa Lê Ninh “Tiếng xướng nghĩa trước tiên” của Nghệ Tĩnh như Phan Đình Phùng đã nói. Bản tham luận này chúng tôi xin trình bày mối quan hệ giữa khởi nghĩa Lê Ninh với phong trào chống Pháp do Phan Đình Phùng lãnh đạo đã khẳng định một lần nữa tính chất cuộc khởi nghĩa đó. *** Lê Ninh hiệu Mạnh Khang, sinh năm 1857, tại làng Ngu Lâm, xã Trung Lễ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh trong một gia đình quan lại, bố là Lê Khanh làm Bố chánh tỉnh Bình Định. Lê Ninh vừa chào đời thì đất nước bắt đầu chìm vào khói lửa của cuộc chiến tranh xâm lược. Năm 1858 tức là khi ông vừa một tuổi thực dân Pháp đánh Đà Nẵng, sau đó ba tỉnh miền Đông, ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ lần lượt rơi vào tay giặc, rồi Bắc Kỳ, Trung Kỳ cùng chung một số phận. Nếu như tự thiếu thời ông đã nhìn thấy cảnh mất nước nhà tan thì ông cũng đã chứng kiến những cuộc khởi nghĩa ngay trên quê hương mình như Trần Quang Cán (Đội Lựu) và nhất là Trần Tấn - Đặng Như Mai đã “quyết đánh cả triều lẫn Tây” năm Giáp Tuất (1874). Những biến cố lớn lao này hẳn đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong đầu óc non trẻ của ông. Bởi vậy tuy xuất thân trong gia đình nho học nhưng Lê Ninh không nuôi chí khí làm quan mà ông miệt mài nghiên cứu binh thư, kết giao cùng những người nghĩa khí trong vùng chờ thời cơ khởi sự. Ngày 5- 7-1885 Kinh thành Huế thất thủ, Hàm Nghi xuất bôn hạ Chiếu Cần vương. Lời kêu gọi cứu khốn phò nguy của vị vua yêu nước đã cảm kích Lê Ninh đến cao độ. Ông thân lĩnh chiếu, tuyên độc trước toàn thể dân làng và khẩn trương xây dựng quê hương mình thành căn cứ Trang 110

Phan Đình Phùng Chương Thâu kháng chiến. Lòng nhiệt thành của ông đã được mọi tầng lớp nhân dân tham gia. “Nhà giàu năm bảy tháng, Bá hộ đôi ba nghìn”, trai tráng thì gia nhập nghĩa binh, ông còn xuất tiền tuyển thêm hai vệ quân ở Yên Trường, Yên Dũng và cả năm anh em ông đều tham gia khởi nghĩa (2). Đại đồn Trung Lễ đóng ngay đầu làng, ngoài doanh trại còn có hai khu lò rèn chế tạo vũ khí, kho quân lương, trường tập bắn. Việc sắp đặt đúng theo binh pháp cổ điển: “Binh năm đạo tác tiến tác hậu, học đồ bát trận Khổng Minh. Đồn trong làng xóm Mới xóm Đình theo phép ngũ liên Tề Bá ... Nơi quân dụng thì quàn thâm áo ngại, cờ ngũ hành cờ: tiểu nỉ thêu; nơi binh khí thì gươm bạc khiên son, súng hỏa mai súng cò máy đá”. Kỷ luật thật là chặt chẽ: Một phen hội diễn, trống đánh vang làng Mấy lần tập binh, tiếng ầm dạ há...(3). Trong khi, xa giá Hàm Nghi đang trên đường ra Quảng Bình thì ở Huế bọn Pháp đã gấp rút đặt Đồng Khánh lên ngôi và tổ chức hai đạo quân ra Quảng Bình và Nghệ An ép Hàm Nghi vào giữa. Nhưng nhân dân ta vẫn một lòng ủng hộ triều đình kháng chiến, ngọn cờ Cần vương của Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết đã tập hợp được nhân dân toàn quốc nhất tề đứng lên chống Pháp. Tuy vậy rải rác đã có những bóng đen của sự phản bội, đó là bọn Lê Đại ở Hà Tĩnh cùng một số tay chân của chúng. Tháng 10-1885 Hàm Nghi ra đến Sơn phòng Phú Gia (Hương Khê, Hà Tĩnh) xuống chiếu cho Lê Đại phải mang quân lên hộ giá. Nhưng tên này đã phản bội Tổ quốc, chẳng những hắn không tuân theo lệnh của triều đình kháng chiến mà còn âm mưu liên kết với bọn quan lại đầu hàng ở Nghệ An để đón Tây vào Hà Tĩnh. Thời cơ cứu nước đã đến, ngày 2-11-1885, Lê Ninh xuất quân kéo vào Hà Tĩnh. Trước tiên ông cho hai viên hiệp quản là Lê Hoạt và Nguyễn Dương đưa một đội “thân binh” bí mật lọt vào thành làm nội ứng, còn ông thì đích thân đốc đại quân kéo theo sau. Được tin Lê Ninh xuất binh các cánh quân nghĩa của Nguyễn Thoại ở Mỹ Xuyên (Hương Sơn), Huỳnh Bá Xuyên ở Hữu Chế (Đức Thọ) cũng kéo đến phối hợp. Tới Can Lộc Lê Ninh lại hội quân rồi tiến phát, khí thế thật là mãnh liệt: Kéo qua xã Hằng Nga (4) Trang 111

Phan Đình Phùng Chương Thâu Kéo vô huyện Thạch Hà Qua tổng Trung tổng Đậu (5) Kéo ba ngày cho thấu (6) Đêm 6-11-1885, nghĩa quân bí mật bao vây thành Hà Tĩnh. Đội “thân binh” của Lê Hoạt và Nguyễn Dương lập công xuất sắc đã bắt Bố chánh Lê Đại và Án sát Trịnh Bưu, tạo điều kiện cho đại quân nhanh chóng chiếm lĩnh thành Hà Tĩnh, thu toàn bộ lương thực, khí giới và voi ngựa. Lê Ninh cũng đã thuyết phục được quân của triều đình đi theo nghĩa quân quay khí giới chống lại quân giặc: “Quân lính cũng một lòng, cờ Cần vương đỏ chói”. Sau khi giành được thắng lợi bước đầu, Lê Ninh cho một bộ phận ở lại bảo vệ thành, còn ông mang đại quân lên Sơn phòng yết kiến Hàm Nghi. Nhà vua phong cho Lê Ninh làm Bang biện quân vụ trở về đóng ở đại đồn Trung Lễ. Căn cứ này có nhiệm vụ khống chế con đường từ Đức Thọ vào Hà Tĩnh và phối hợp với các cánh quân khác bảo vệ đường thủy từ sông La ra Nghệ An. Phan Đình Phùng đã được Hàm Nghi phong làm Thống đốc quân vụ Đại thần chỉ đạo phong trào Cần vương của bốn tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình. Thấy phong trào kháng chiến lên mạnh, một bọn cha cố và giáo dân phản động ở Thọ Ninh, Thọ Tường đã tổ chức do thám đại đồn Trung Lễ để báo cho Tây ở Nghệ An. Một đại đội lính Pháp theo đường thủy từ sông La đổ bộ lên đánh thọc vào đại đồn. Vì mới tổ chức, vũ khí còn thô sơ lại chưa có kinh nghiệm tác chiến trước một đối tượng có trang bị hiện đại nên nghĩa quân buộc phải lui về Bạch Sơn. Ở đây dựa vào thế núi hiểm trở và địa hình kín đáo của phía Đông Bắc huyện Hương Sơn, Lê Ninh vừa xây dựng vừa liên lạc với các đội nghĩa quân ở Nghệ An để hỗ trợ cho nhau. Dưới sự chỉ đạo của Phan Đình Phùng, nhiệm vụ nghĩa quân là xây dựng lực lượng kết hợp với trừ gian, kiên quyết giữ vững căn cứ địa để bảo vệ cho Sơn phòng Hà Tĩnh, Quảng Bình, là nơi Hàm Nghi đang ẩn náu. Bọn Pháp sau khi chiếm được thành Nghệ An chúng bắt đầu đóng một số đồn lính tập dọc sông Lam như đồn Dương Liễu (Nam Đàn), đồn Nu (Thanh Chương), đồn Cây Chanh (Anh Sơn) để bảo vệ vùng đồng bằng Nghệ An. Trong số này đồn Dương Liễu là một cứ điểm quan trọng vì từ đây bọn lính tập có thể thọc một mũi bất ngờ vào khu căn cứ Bạch Sơn. Đồn Dương Liễu do tên lãnh binh ngụy Nguyễn Duật chỉ huy. Trang 112

Phan Đình Phùng Chương Thâu Hàng ngày Duật vẫn cho quân lùng sục vào các làng xung quanh bắt bớ những người mà chúng nghi là có quan hệ với nghĩa quân. Cuối năm 1886 Lê Ninh cùng Đề Mậu (Nguyễn Mậu) mang quân bí mật bao vây đồn Dương Liễu. Lĩnh Duật chưa kịp chống cự đã bị nghĩa quân tóm được, bọn lính tập hoảng hốt đứa bỏ chạy, đứa xin đầu hàng. Việc bắt tên Lĩnh Duật là một đòn đánh vào bọn tày sai của giặc làm cho chúng phải co lại không dám ngang nhiên hoành hành như trước và nhân dân thêm tin tưởng, phấn khởi: Diệt đồn Dương Liễu sấm ran, Bắt tên Lĩnh Duật giết đoàn mộ Tây. Trong lúc nghĩa quân khí thế đang lên thì không may mùa thu năm 1887 Lê Ninh bị bệnh nặng. Mặc dầu các lương y trong vùng đã hết sức chạy chữa nhưng bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Cuối năm đó ông được bí mật đem về quê vợ ở Phù Long (Hưng Nguyên, Nghệ An) để tiếp tục điều trị, nhưng vì bệnh quá nặng nên ông đã từ trần vào ngày 15-12-1887. Lê Ninh, vị tướng tiên phong đầy mưu lược và chí khí trong phong trào ứng nghĩa Cần vương mất giữa tuổi 30, tuổi đang tràn đầy sinh lực làm cho Phan Đình Phùng vô cùng thương xót. Cụ đã cử Cao Thắng lên thay và trong lễ tang cử hành cực kỳ trọng thể, Cụ đã làm đôi câu đối viếng: Tuy vân thành bại do thiên, xướng nghĩa tiên thanh tồn Nghệ Tĩnh, Kham thán anh hùng vô địa, phù quân đại tiết hữu Hồng Lam. (Tuy rằng thành bại tại trời, tiếng xướng nghĩa trước tiên còn truyền Nghệ Tĩnh, Than nhẽ anh hùng không đất, tiết phò vua cao cả khá sánh Hồng Lam) (7). Cuộc khởi nghĩa do Lê Ninh lãnh đạo tuy chỉ tồn tại có hai năm, trên một địa bàn đất không rộng, người không đông nhưng đã đóng vai trò rất quan trọng trong phong trào chống Pháp thế kỷ XIX do Phan Đình Phùng lãnh đạo. Một, khởi nghĩa Lê Ninh là ngòi pháo, đã nổ ra rất đúng lúc mở đầu Trang 113

Phan Đình Phùng Chương Thâu cho khởi nghĩa Phan Đình Phùng. Như ta đã biết, sau khi Chiếu Cần vương được ban bố, nhân dân Nghệ Tĩnh đã hưởng ứng hết sức nhiệt liệt, riêng Hà Tĩnh đã có đến 20 cuộc ở khắp các phủ huyện từ miền núi đến đồng bằng. Lúc đầu phong trào tuy có rầm rộ nhưng chỉ là những cuộc bạo động tự phát, thiếu tổ chức chỉ huy thống nhất do đó dễ bị kẻ thù dập tắt. Phong trào dần dần quy tụ lại dưới những ngọn cờ tiêu biểu, ở Nghệ An thì có Nguyễn Xuân Ôn còn Hà Tĩnh là Phan Đình Phùng. Sau khi Nguyễn Xuân Ôn mất (1887) thì người duy nhất có đầy đủ uy tín để lãnh đạo công cuộc cứu nước thiêng liêng đó là Phan Đình Phùng. Thực ra lúc này Phan Đình Phùng với danh nghĩa Đốc thị lưỡng kỳ quân vụ đại thần cũng chỉ là một tước hiệu của Hàm Nghi phong để cho danh chính ngôn thuận tổ chức phong trào chống Pháp, nhưng trong tay chưa có một lực lượng cụ thể. Vì như trên đã nói phong trào lúc đầu mới nhóm còn mang tính tự phát, mỗi người thường lấy ngay xóm làng của mình làm căn cứ để mộ quân ứng nghĩa. Ngay Cao Thắng vị tướng tài, trợ thủ đắc lực của Cụ, lúc này cũng chưa hoạt động. Phải đến năm 1888 khi Phan Đình Phùng ở Bắc về thì thực lực của Cụ do Cao Thắng xây dựng mới trở thành đối thủ đáng gờm của bọn xâm lược Pháp. Lực lượng vũ trang có tổ chức nhất có uy tín nhất ngay sau khi Chiếu Cần vương được ban bố chính là của Lê Ninh. Do đã có luyện tập ít nhiều và tuy chỉ có vũ khí thô sơ nhưng có tinh thần sẵn sàng chiến đấu cao nên sau khi nhận Chiếu Cần vương và biết được bọn Lê Đại, Trịnh Bưu mưu toan làm phản thì Lê Ninh đã có thể xuất quân và ngay trận đầu đã thu thắng lợi giòn giã. Với chiến công hạ thành Hà Tĩnh, tiêu diệt bọn phản bội, âm mưu của giặc định chặn đường bắt Hàm Nghi đã bị đẩy lùi một bước, bọn Lê Đại định “rước voi về giày mồ” bị trừng trị đích đáng, uy tín của Lê Ninh càng lớn và cờ nghĩa của Phan Đình Phùng càng bay cao, càng tập hợp được nhiều lực lượng. Ngoài những đội quân đã tham gia cùng Lê Ninh vào Hà Tĩnh như Nguyễn Thoại (Hương Sơn), Huỳnh Bá Xuyên (Đức Thọ), Nguyễn Chanh, Nguyễn Trạch (Can Lộc) còn có Nguyễn Cao Đôn ở Thạch Hà, Bá hộ Thuận chiếm vùng Truông Xai làm căn cứ, Kỳ Anh có Võ Phát, ở Nghi Xuân Ngô Quảng và Hà Văn Mỹ cũng bắt đầu hoạt động. Đặc biệt vùng Đức Thọ quê hương của Lê Ninh, các ông Phan Cát Tửu, Phan Tử Thụy, Phan Quang Cư, Phan Trọng Nghị, Phan Đình Tuyển, Phan Trọng Mưu... cũng đã họp nhau bàn việc mộ quân ứng nghĩa. Rõ ràng khởi nghĩa Lê Ninh là phát súng hiệu, là hồi kèn xung trận cho phong trào chống Pháp của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX. Trang 114

Phan Đình Phùng Chương Thâu Hai, Lê Ninh đã áp dụng chiến thuật thích hợp mà sau này nghĩa quân Phan Đình Phùng đã rút kinh nghiệm và thực hiện thành công. Trong quá trình tiến hành chiến tranh chống xâm lược từ những thế kỷ trước tổ tiên ta cũng đã từng tổng kết: Lấy ít địch nhiều, thường dùng mai phục. Lấy ít chống mạnh hay đánh bất ngờ. Lê Ninh cũng đã ý thức được những điều đó cho nên khi hạ thành Hà Tĩnh, một cứ điểm mạnh, kiên cố so với nghĩa quân lúc đó, lại có lũy cao, hào sâu, quân nhiều, lương sẵn, nếu cứ đường đường chính chính đánh theo chiến thuật công thành cổ điển thì sẽ kéo dài và không thành công. Ông đã cho “thân binh” đi trước, nắm hết tình hình nên khi đại quân kéo tới, lập tức những vị trí then chốt và nhất là bộ chỉ huy đầu não đã bị khống chế và tê liệt, nghĩa quân hạ thành Hà Tĩnh mà không tốn một viên đạn. Cũng vậy khi diệt đồn Dương Liễu, Lê Ninh không dùng nhiều quân, ông chỉ mang theo 10 người can đảm khỏe mạnh, thông thạo địa hình và đang đêm đột kích vào khi Lĩnh Duật đang hút thuốc phiện do đó đồn Dương Liễu bị hạ nhanh chóng mà lực lượng nghĩa quân vẫn được bảo toàn nguyên vẹn. Chiến thuật đánh bất ngờ nhằm vào bộ phận đầu não của kẻ địch đã được những thủ lĩnh nghĩa quân sau này nhất là Cao Thắng áp dụng có hiệu quả cao. Ví như khi đánh bọn lính tập ở Hương Sơn để cướp súng, ông đã từng “xuất kỳ bất ý, công kỳ vô bị” (đánh bất ngờ, đánh khi địch chưa chuẩn bị), hoặc khi bắt Đinh Nho Quang ông cũng cho nghĩa quân trá hình thành lính tập đột nhập dinh viên tuần phủ này ngay trước mặt bọn lính làm cho chúng không kịp trở tay. Những trận Vực Vôi (Hương Sơn), Vực Ác (thượng lưu sông La) và nhất là trận Vụ Quang, yếu tố bí mật bất ngờ vẫn tỏ ra thích hợp nhất, có hiệu quả nhất. Những điều vừa trình bày đã chứng minh rằng trong khởi nghĩa Phan Đình Phùng thì “Tiếng xướng nghĩa trước tiên” của Lê Ninh đã đóng vai trò quan trọng là phát súng hiệu, là hồi kèn xung trận cho hàng loạt cuộc ứng nghĩa khác. Về chiến thuật thì những người đi sau cũng đã Trang 115

Phan Đình Phùng Chương Thâu rút được những kinh nghiệm nhất định và áp dụng sáng tạo vào từng hoàn cảnh cụ thể để lập nên những chiến công oanh liệt làm rạng rỡ thêm trang sử chống xâm lược của nhân dân ta. Hà Nội, tháng 12 năm 1995 _________________________________________ 1. Tham luận Hội thảo khoa học kỷ niệm 100 năm ngày mất Phan Đình Phùng, ngày 28-12-1995. 2. Năm anh em trai ông là: Lê Ninh, Lê Diên, Lê Phác, Lê Trực và Lê Võ. 3. Lê Trọng Đôn: Bài phú Trung Lễ thất hỏa, Tri Tân, số 164. tr. 11. 4. Thuộc Can Lộc. 5. Thuộc Thạch Hà. 6. Vũ Ngọc Khánh, Hồ Như Sơn: Vè yêu nước chống Pháp xâm lược, tr.170. 7. Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX, Nxb Văn học, Hà Nội, 1976, tr.308. HỒ HỮU PHƯỚC (1) - VÀI Ý KIẾN VỀ CUỘC KHÁNG CHIẾN CỦA PHAN ĐÌNH PHÙNG Cuộc kháng chiến của Phan Đình Phùng cuối thế kỷ XIX, chống thực dân Pháp xâm lược, dường như không phải bàn cãi về mọi phương diện: mục đích, tính chất, nguyên nhân thất bại v.v... Rằng đó là phong trào Cần vương cuối cùng và lớn nhất ở Trung Kỳ, rằng ngọn cờ Cần vương không còn đủ sức tập hợp lực lượng vì giai cấp phong kiến đã hết vai trò lịch sử nên dẫn đến thất bại v.v... Tuy nhiên nhân kỷ niệm 160 năm ngày sinh Phan Đình Phùng, chúng tôi còn muốn bàn thêm một số ý kiến về cuộc kháng chiến này. Trang 116

Phan Đình Phùng Chương Thâu Sau Điều ước Quý Mùi tức Điều ước Harmand (25-8-1883), Điều ước Giáp Thân tức Điều ước Patenôtre (6-6-1884), triều đình Huế nói riêng và giai cấp phong kiến Việt Nam nói chung có sự phân hóa sâu sắc rõ ràng chứ không còn mập mờ như thuở Pháp nổ súng xâm lược Đà Nẵng (1858) hoặc khi Điều ước Nhâm Tuất (1862) nhường ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho Pháp nữa. Sau Điều ước Harmand và Điều ước Patenôtre, tại triều Nguyễn hình thành hai phe rõ ràng là phe chủ chiến do Tôn Thất Thuyết cầm đầu và phe chủ hòa do Nguyễn Văn Tường cầm đầu. Thuở ấy trong dân gian xuất hiện một câu ca phản ánh và đánh giá thái độ các nhân vật của hai phái trên: “Nước Nam có bốn anh hùng: Tường gian, Viêm láo, Khiêm khùng, Thuyết ngu (2) Một bộ phận quan lại triều Nguyễn và một bộ phận giai cấp phong kiến đã tách ra khỏi dân tộc, không còn đồng hành cùng dân tộc như từng có trong lịch sử “vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước đấu sức lại mà đánh giặc”. Một bộ phận khác, trong đó kể cả vua Hàm Nghi kiên quyết đi cùng dân tộc, lãnh đạo nhân dân chống xâm lược đến cùng. Vua Hàm Nghi đã nói “Trẫm đức mỏng, để cho thần dân phải lầm than là lỗi ở Trẫm” đã phản ánh đúng sự gắn bó mật thiết giữa quyền lợi dân tộc và quyền lợi bộ phận tiến bộ trong giai cấp phong kiến Việt Nam tự chủ. Phan Đình Phùng là nhân vật tiêu biểu xuất sắc, là lãnh tụ của bộ phận giai cấp phong kiến tiến bộ cuối thế kỷ XIX, luôn biết gắn bó quyền lợi của giai cấp mình với quyền lợi tối cao của dân tộc. Lúc đến Sơn phòng sứ Hà Tĩnh ở Phú Gia (Hương Khê), Phan Đình Phùng đã khóc nói “Để cho bệ hạ long đong vất vả là tội của lũ hạ thần” biểu hiện lòng trung quân ái quốc của Cụ. Vua Hàm Nghi là một ông vua yêu nước không chỉ biết quyền lợi triều Nguyễn mà hơn ai hết, ông vua này biết coi trọng quyền lợi dân tộc, đặt dân tộc và Tổ quốc lên trên hết. Chẳng thế mà sau khi bị tên phản bội Trương Quang Ngọc báo cho Pháp bắt đưa về Kinh thành Huế, nhà vua cự tuyệt đến cùng, không thèm trả lời bọn Pháp, sẵn sàng chờ đón sự gian khổ, giam cầm, kiên quyết không nao núng không chịu lùi một ly trước bọn thực dân Pháp. Cho nên ngọn cờ kháng chiến Phan Đình Phùng phất lên là ngọn cờ Cần vương đã đành mà ngọn cờ ấy còn là ngọn cờ dân tộc. Cần vương và dân tộc là hai mục đích song song đồng hành của cuộc Trang 117

Phan Đình Phùng Chương Thâu kháng chiến Phan Đình Phùng. Giả sử toàn bộ triều Nguyễn từ vua cho đến quan lại lúc bấy giờ đầu hàng Pháp tất cả, không có một người nào như vua Hàm Nghi, thử hỏi Phan Đình Phùng có giương lên lá cờ Cần vương không? Chắc chắn là không. Cho nên từ trước tới nay chỉ nhấn mạnh mục đích Cần vương của cuộc kháng chiến Phan Đình Phùng và gọi đó là “phong trào Cần vương Phan Đình Phùng” thì e rằng chưa đủ. Có lẽ nên gọi là, cuộc kháng chiến của Phan Đình Phùng cuối thế kỷ XIX chống thực dân Pháp xâm lược” thì thỏa đáng hơn. Chính vì cuộc kháng chiến của Phan Đình Phùng có mục đích chính nghĩa rõ ràng giương cao ngọn cờ Cần vương kết hợp ngọn cờ dân tộc nên nó có sức tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân, tạo nên hậu thuẫn sâu rộng vững chắc ở Bắc Trung Kỳ có cơ sở kháng chiến từ Thanh Hóa đến Quảng Bình. Đây là cuộc kháng chiến lớn nhất cuối thế kỷ XIX và cuộc kháng chiến này nhanh chóng trở thành một cuộc chiến tranh nhân dân. Tính chất chiến tranh nhân dân của cuộc kháng chiến Phan Đình Phùng được biểu hiện ở nhiều mặt trong đường lối kháng chiến “ngụ nông ư binh” tại các làng xã ở vùng chiến khu căn cứ kháng chiến, ở phong trào yêu nước toàn dân kháng chiến. Cuộc kháng chiến của Phan Đình Phùng là một cuộc kháng chiến toàn dân. Mọi tầng lớp nhân dân từ các bậc văn thân, các vị hào trưởng, các nhà hào phú cho đến người dân cày, người thợ thủ công, người buôn bán nhỏ, già trẻ gái trai v.v... đều trực tiếp đứng trong hàng ngũ nghĩa quân kháng chiến. Hà Tĩnh là trung tâm của cuộc kháng chiến có 10 quân thứ trong số 15 quân thứ và có đại bản doanh tại đại đồn Vụ Quang. Hầu như tuyệt đại bộ phận làng xã ở Hà Tĩnh đều tiến hành kháng chiến, đều có người trực tiếp đứng trong hàng ngũ kháng chiến. Từ những tướng lĩnh như Đề đốc, Đốc binh, Lãnh binh, người chỉ huy cấp thấp hơn như suất đội đến người thợ rèn đúc vũ khí, người nữ giao thông tiếp tế binh lương làm tình báo dò la tin tức nội bộ địch, người dân bảo vệ kho lương hậu cần v.v... tất cả tạo thành một lực lượng, một mạng lưới chiến tranh nhân dân của cuộc kháng chiến. Hà Tĩnh có 10 quân thứ mà người chỉ huy các quân thứ ấy không chỉ là các bậc võ cử khoa bảng như Võ Phát, Cao Đạt hoặc nhà hào phú như Bá hộ Thuận (tức Nguyễn Huy Thuận) mà còn có cả những nông Trang 118

Phan Đình Phùng Chương Thâu dân như Đề Chanh, Đề Trạch (Nguyễn Chanh, Nguyễn Trạch). Đặc biệt người tổng chỉ huy tổng tư lệnh quân kháng chiến thật sự là một nông dân: Cao Thắng mới 21 tuổi đã được Đình nguyên Phan Đình Phùng lãnh tụ cuộc kháng chiến tin tưởng giao cho việc lớn điều khiển ba quân; Cao Thắng đã không phụ lòng cụ Phan và nghĩa quân, có thể nói cụ Phan là linh hồn của cuộc kháng chiến và Cao Thắng là rường cột của cuộc kháng chiến. Ngoài Cao Thắng, những tướng lĩnh của cuộc kháng chiến Phan Đình Phùng đều giỏi giang, tài ba và tuyệt đối trung thành như Võ Phát Kỳ Anh, Dương Huy Dừ (Đề Dừ) ở Cẩm Xuyên, Bùi Long (Đốc Long), Trần Danh Lập (Đề Quynh) ở Thạch Hà, Thái Vĩnh Chinh (Lãnh Thái) ở Hương Sơn v.v... Ngoài các vị này còn nhiều tướng lĩnh, nhiều người chỉ huy khác mà hiện nay chúng ta chưa biết hết. Một cuộc khảo sát quy mô và có tổ chức chắc chắn sẽ sưu tầm được nhiều người nữa. Không chỉ có tướng lĩnh mà còn có cả quân lính. Làng xã nào cũng có người lính cầm súng trực tiếp chiến đấu chống Pháp trong hàng ngũ quân kháng chiến của Phan Đình Phùng. Một vài thí dụ: Tại xã Phong Phú (Thạch Hà) có ông Trương Quốc Chúc cầm súng chiến đấu suốt 10 năm trời dưới sự chỉ huy của Đốc Long, cho đến khi cuộc kháng chiến thất bại (1896) ông mới trở về quê làm ruộng sinh sống; Tại xã Hữu Bằng (Hương Sơn) có ông Hồ Lực cũng là người lính chiến thuộc Hương thứ (quân thứ Hương Sơn) trực tiếp dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huy Giao, người phụ trách quân thứ Hương Sơn; Và còn nhiều người nữa mà ta chưa biết hết tên tuổi của họ. Có như vậy thì quân kháng chiến của Phan Đình Phùng mới hùng hậu, đông đảo tổ chức được 10 quân thứ tại Hà Tĩnh. Nhờ có đội quân hùng hậu đông đảo mà cụ Phan và Cao Thắng đã có thể phân phối quân lính rải đều rất nhiều căn cứ kháng chiến, ngoài 10 quân thứ nói trên. Chưa nói các huyện khác, chỉ riêng một huyện Hương Sơn mà căn cứ kháng chiến của Phan Đình Phùng cũng đã dày đặc: Tuần Lễ, Hàm Lại, Khe Sắn, Cồn Chùa, Tình Diệm, Phúc Dương, Phúc Đậu, Tràng Sim, Thủy Mai v.v... Trong đó có những nơi còn để lại dấu tích kháng chiến đến ngày nay như căn cứ Tràng Sim. Tại đây còn dấu tích Khe Rèn và đồn Cơn Khế (nay thuộc địa phận xã Sơn Trường và xã Sơn Hàm). Khe Rèn xưa kia và nơi rèn đúc và cất giấu vũ khí của quân kháng chiến Phan Đình Phùng, trong đó có cả loại súng kiểu 1874 của Pháp. Sau khi Trang 119

Phan Đình Phùng Chương Thâu được cô Tám (con ông Hoàng Phúc) mật báo có một toán lính tập đi từ Vinh về Phố Châu, Cao Thắng đã bố trí quân mai phục tại dốc Tứ Mỹ (nay thuộc xã Sơn Châu) chém giết 15 tên lính tập, cướp được 15 khẩu súng Tây. Cao Thắng cho trưng tập thợ rèn Trung Lương và Vân Chàng về căn cứ Tràng Sim, tháo ra một khẩu rồi cứ theo đó mà đúc các bộ phận. Súng đúc xong bắn rất hiệu nghiệm, chỉ có nhược điểm là lò xo và rãnh chưa thật đúng kích cỡ. Sau khi đúc thành công khẩu đầu tiên và bắn thử nghiệm, Cao Thắng cho sản xuất hàng loạt súng kiểu 1874 của Pháp trang bị cho quân đội. Số còn lại dự trữ để vào kho vũ khí tại Khe Rèn và đồn Cơn Khế. Với việc làm này, Cao Thắng thật sự là một tài năng xuất chúng vượt xa những tướng lĩnh phong kiến Việt Nam lúc bấy giờ. Đại úy Gosselin người trực tiếp chỉ huy đàn áp cuộc kháng chiến Phan Đình Phùng đã hết sức kinh ngạc khâm phục tài năng Cao Thắng. Trong Văn tế Cao Thắng ông Bang Nhu cũng ca ngợi “ Chế súng đạn biết bao chừng cơ trí”. ____________________________________________ 1. Hồ Hữu Phước: Nhà nghiên cứu Lịch sử - Văn hóa tỉnh Hà Tĩnh. 2. Nguyễn Văn Tường, Hoàng Tá Viêm, Ông Ích Khiêm và Tôn Thất Thuyết. Câu ca này còn được truyền tụng đến trước Cách mạng Tháng Tám 1945. Cuộc kháng chiến của Phan Đình Phùng đã huy động được tiềm lực nhân dân các tỉnh Bắc Trung Kỳ về mọi mặt nhân, tài, vật lực. Nam giới, nữ giới đều trực tiếp tham gia kháng chiến. Các cô Bùi Thị Trang, Bùi Thị Điểm, cô Tám v.v... là những thí dụ. Bùi Thị Trang, Bùi Thị Điểm là con gái Phó bảng Bùi Thố và là em ruột ông Đốc Long. Hai bà đã tham gia cuộc kháng chiến từ đầu với nhiệm vụ quyên góp binh lương, tiếp tế và dò la tin tức bọn giặc. Bà Bùi Thị Trang đã nói lên chí lớn chống giặc xâm lược của mình trong Thư gửi quan Bang (tức Lê Ninh): Từ ngày phụng chỉ Cần vương Muôn dân vui vẻ hai kinh vững vàng Làm tỏ mặt Hồng Lam tú kiệt Thật rõ ràng oanh liệt trâm anh. Cô Tám là con gái ông Hoàng Phúc nhận nhiệm vụ làm tình báo dò la Trang 120

Phan Đình Phùng Chương Thâu tin tức nội bộ địch, chủ yếu là các đồn lính Pháp ở Vinh (Nghệ An) và Phố Châu (Hương Sơn). Để che mắt địch, cô Tám làm nghề buôn chuyến hàng nông lâm sản từ Hương Sơn xuôi về Vinh, hàng chuyên chở bằng đò dọc. Người dân Hương Sơn, lớp tuổi già đến nay vẫn còn truyền tụng những cáu hát đò đưa của cô Tám trên dòng sông Ngàn Phố, chứa chan lòng yêu nước: Đôi ta cùng nợ nước non Chàng đà trả sạch, thiếp còn long đong Bao giờ sông lặng nước trong Bõ người chèo chống đêm đông nhọc nhằn. Cô Tám đã dò la được những tin tức chính xác từ nội bộ bọn giặc, giúp cho bộ chỉ huy quân kháng chiến tổ chức đánh địch thắng lợi. Trận tập kích giặc ở dốc Tứ Mỹ thắng lợi là công lao lớn về tin tức tình báo chính xác do cô Tám cung cấp. Trận địch tập kích đánh vào căn cứ Tràng Sim bị quân kháng chiến đẩy lùi là do quân kháng chiến đã đề phòng đầy đủ, chuẩn bị tư thế sẵn sàng đánh địch nhờ biết trước âm mưu của bọn Pháp, trong đó cô Tám là một trong những người cung cấp tin tức cho nghĩa quân. Ngoài các cô Bùi Thị Trang, Bùi Thị Điểm, cô Tám còn nhiều chị em khác trực tiếp đứng vào hàng ngũ kháng chiến của Phan Đình Phùng. Đặc biệt đối với các nhà hào phú, nhiều người đã trực tiếp hoặc gián tiếp giúp kháng chiến chủ yếu là quyên góp binh lương. Ví dụ Bá hộ Hồ Thế Tế ở Hữu Bằng (Hương Sơn) đã nhận nhiệm vụ quyên góp lương thực, tiền bạc, sắt thép ở vùng tổng Hữu Bằng, tổng An Ấp để cung cấp tiếp tế binh lương vật liệu rèn đúc vũ khí cho quân kháng chiến. Hoặc giả như Cả Hoan, Nguyễn Đoạn (Kỳ Anh) cũng có công lớn trong việc quyên góp binh lương giúp quân kháng chiến Phan Đình Phùng. Cụ Phan Đình Phùng biết khơi dậy truyền thống yêu nước của mọi tầng lớp nhân dân không phân biệt giàu nghèo sang bèn làm cho lòng yêu nước chống giặc của toàn dân được phát huy cao độ. Điều đó được thể hiện trong Hịch chống Pháp Cụ viết: “Các ông có chí lớn tài to, nếu không muốn đưa ra cho nước dùng, thì nên đem mưu lạ chước hay ra dạy bảo để cứu lấy sinh dân thì Phùng tôi xin nhả cơm, búi tóc Trang 121

Phan Đình Phùng Chương Thâu sẵn lòng nghe theo. Như thế tuy các ông ở nơi thôn dã mà cũng có công báo nước giúp đời, chứ đừng coi việc đó làm thường”. Trong khi lãnh đạo công cuộc kháng chiến, điều rất đáng quý rất đáng kính trọng ở vị lãnh tụ Phan Đình Phùng là Cụ luôn chú ý đến nhân dân, luôn canh cánh một niềm thương yêu nhân dân, thương yêu tầng lớp nghèo khổ, bị bóc lột nặng nề nhất trong xã hội. Càng thương yêu nhân dân, Cụ càng căm thù giặc: Dân đói kêu trời xao xác nhạn Quân gian chật đất rộn ràng ong. (Thơ Tuyệt mệnh của Phan Đình Phùng) Chính sức cảm hóa bằng đức lớn thật sự thương dân của cụ Phan mà nhân dân đã đi theo cuộc kháng chiến của Cụ đến cùng không nao núng, không lùi bước mặc cho chém giết, hiểm nguy. Bởi vậy tính chất chiến tranh nhân dân của cuộc kháng chiến Phan Đình Phùng càng thêm sâu đậm. Chính cụ Phan đã nói rõ tính chất nhân dân của cuộc kháng chiến khi trả lời thư dụ hàng của Hoàng Cao Khải: “Trải hơn 10 năm trời, những người dấn thân theo việc nghĩa, hoặc bị trách phạt tù đày, hoặc bị chém giết. Ấy thế mà họ chẳng hề chán nản ngã lòng bao giờ. Có phải họ lấy sự hiểm nguy, chém giết làm thèm thuồng đâu. Chỉ vì họ tin vào sức tôi, lượng ở chí tôi nên mới hăm hở vậy đó. Nếu cố nhân ở vào cảnh ngộ tôi liệu cố nhân có nỡ lòng bỏ họ mà đi cho đành hay không?. (Thư Phan Đình Phùng trả lời Hoàng Cao Khải – Bản dịch Đào Trinh Nhất) Phan Đình Phùng thấy rõ sức mạnh của sự đoàn kết trong sự nghiệp kháng chiến cứu nước nên ngay từ đầu Cụ đã tìm mọi cách liên hệ bắt tay với các lực lượng kháng chiến trong cả nước, trước hết là ở Bắc Kỳ nơi Cụ có điều kiện liên hệ thuận lợi. Cụ giao việc quân cho Cao Thắng lo liệu củng cố lực lượng kháng chiến ở Hà Tĩnh, một mình Cụ đi ra Bắc gặp thủ lĩnh kháng chiến ở Bắc Kỳ là Nguyễn Quang Bích bàn bạc việc hợp sức kháng chiến, làm thế ỷ dốc cho nhau mong đánh Trang 122

Phan Đình Phùng Chương Thâu thắng bọn xâm lược Pháp. Tầm nhìn của Phan Đình Phùng quả là sắc sảo, rộng lớn, vượt xa tầm nhìn của một số người khác chỉ bó hẹp, trong phạm vi hoạt động của mình chưa có sự liên kết rộng rãi. Căn cứ kháng chiến Ba Đình của Đinh Công Tráng ở Thanh Hóa hoặc căn cứ kháng chiến Đồng Thông của cụ Nghè Nguyễn Xuân Ôn ở Nghệ An chưa mở rộng hoạt động như Phan Đình Phùng, một là chưa có điều kiện, hai là do các cụ Đinh Công Tráng, Nguyễn Xuân Ôn chưa nghĩ tới sự bắt tay đoàn kết rộng rãi với các lực lượng kháng chiến khác ở Trung Kỳ thì rõ ràng lúc bấy giờ không thể có điều kiện để bắt tay chung sức hợp lực kháng chiến. Dẫu là một cuộc kháng chiến toàn dân, luôn lấy sự đoàn kết làm đầu, nhưng Phan Đình Phùng rất tỉnh táo. Cụ không bắt tay với những kẻ làm lung lay lực lượng kháng chiến. Ví dụ Đoàn Đức Mậu tức Bạch Xỉ dựa vào một câu sấm “Bạch Xỉ sinh, thiên hạ bình” đưa phép thuật tà ma ra để phỉnh lừa dân chúng, phỉnh lừa quân sĩ, bị cụ Phan cự tuyệt và trừng trị để yên lòng quân. Những kẻ phản bội như Trương Quang Ngọc, Cụ kiên quyết trừng trị để răn đe nghiêm khắc những tên phản bội khác đang lăm le làm tay sai cho thực dân Pháp (1) Với đường lối kháng chiến sáng suốt lấy chiến tranh nhân dân làm chỗ dựa, với việc giương lên đồng thời hai ngọn cờ kháng chiến là ngọn cờ Cần vương và ngọn cờ dân tộc, Phan Đình Phùng là một lãnh tụ kháng chiến đầy bản lĩnh và là một nhà chiến lược tài giỏi. Phan Đình Phùng xứng đáng là lãnh tụ xuất sắc nhất trong các lãnh tụ kháng chiến cuối thế kỷ XIX. Mặc dầu tên việt gian Nguyễn Thân làm chuyện thất đức “trời không dung, đất không tha” khai quật mộ Phan Đình Phùng đốt xác Cụ trộn thuốc súng bắn ra Tam Soa hòng tuyệt diệt Phan Đình Phùng, song tinh thần và khí phách Phan Đình Phùng vẫn còn sống mãi với non sông đất nước, với nhân dân Hà Tĩnh quê hương Cụ. Hà Tĩnh, tháng 3 năm 2007 ___________________________________________ 1. Trương Quang Ngọc mật báo bọn Pháp bắt vua Hàm Nghi bị cụ Phan trừng trị giết chết. Bố của Trương Quang Ngọc là Trương Quang Trang 123

Phan Đình Phùng Chương Thâu Thủ người dân tộc thiểu số là một thủ lĩnh quân kháng chiến chịu sự lãnh đạo của Phan Đình Phùng. Ông Trương Quang Thủ là một nhà yêu nước. NGUYỄN TRƯỜNG LỊCH (1) - CẢM NHẬN VỀ CUỘC KHỞI NGHĨA PHAN ĐÌNH PHÙNG Cụ Phan thuộc gia đình trí thức yêu nước nổi tiếng khắp vùng. Thân sinh Cụ là Phan Đình Tuyển đỗ Phó bảng, làm quan đời Minh Mạng. Anh trai cả đỗ Tú tài, anh thứ hai đỗ Cử nhân và em trai thứ năm đỗ Phó bảng. Bản thân cụ Phan là Đình nguyên Tiến sĩ, Ngự sử triều đình nhà Nguyễn. Uy tín của toàn gia đình đại khoa và khí phách hào hùng trung với vua, với nước của một bậc sĩ phu dám đấu tranh chống lại bọn đầu hàng phản nước hại dân, cụ Phan đã tạo nên một từ trường có sức thu hút rộng lớn, tập hợp được đông đảo tầng lớp nho sĩ, vốn là lớp người trí thức hiểu biết, giữ vị trí trung tâm trong quá trình phát triển hệ ý thức tư tưởng xã hội đương thời - cùng liên minh với đông đảo nông dân trong vùng. Ngay cả hình ảnh và phẩm chất của người chị ruột, bà Phan Thị Đại cũng góp thêm phần tiếng tăm và sức lôi cuốn chị em phụ nữ hướng theo phong trào Cần vương. Bà Đại có chồng là Cử nhân Lê Văn Thống ở huyện Đức Thọ cùng hưởng ứng phong trào (bà có con trai là Cử nhân Lê Văn Nhiễu, bạn đồng khoa với Giải nguyên Phan Bội Châu và con thứ là Giải nguyên Lê Văn Huân về sau là liệt sĩ thời chống Pháp; là bà nội của Giáo sư Tiến sĩ Lê Văn Thiêm, bà ngoại của Giáo sư Lê Thước). Thực dân Pháp kết tội bà có tham gia hoạt động liên quan đến phong trào của cụ Phan, nên bắt bà vào tù, bị đày đọa hết sức dã man, chúng định xử tử bà, nhưng rồi lại thả ra tìm cách mua chuộc bà; chúng giao cho bà nhiệm vụ cầm lá thư của triều đình Huế và thư của Hoàng Cao Khải đem vào tận sào huyệt Vụ Quang nhằm thuyết phục người em trai - lãnh tụ nghĩa quân ra đầu hàng. Nhưng người anh hùng không hề bị lung lay trước kẻ thù nên âm mưu thâm độc ấy bị thất bại, song chúng vẫn thả bà về để quản thúc tại gia (2), hòng xoa dịu nỗi căm giận đang dâng cao và giảm bớt làn sóng đấu tranh sôi sục của quần chúng lúc bấy giờ. Buổi đầu phong trào khởi nghĩa bùng nổ như một ngọn lửa lớn tỏa sáng rộng khắp vùng Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên và vang dội khắp cả Trang 124

Phan Đình Phùng Chương Thâu nước, khiến giặc Pháp hoảng sợ, còn triều đình nhà Nguyễn nao núng hoang mang. Biết vậy, nhưng giặc Pháp cũng không dễ gì dập tắt nhanh chóng ngọn lửa hào hùng ấy. Chúng dùng thủ đoạn chia cắt, bao vây mọi đường tiếp tế lương thực, vũ khí, rồi dùng thuật nội gián đưa lính vào tận sào huyệt bắt sống được vua Hàm Nghi. Phần cụ Phan quyết giương cao lý tưởng yêu nước thương nòi, với uy tín cá nhân cũng như dòng họ, Cụ đã duy trì phong trào kháng chiến suốt 10 năm trên căn cứ địa Vụ Quang chạy dọc theo dãy đại ngàn Trường Sơn, chiếm lĩnh vùng đất rộng lớn Hương Sơn, Hương Khê kéo dài đến tận phía Tây Quảng Bình... Nhung trường phụng mệnh, thập canh đông Vũ lược y nhiên vị tấn công. (Việc quân vâng mệnh đã mười đông Chiến sự nay còn tính chửa xong) . Tuy biết rằng sự nghiệp phục quốc tính kế chưa xong, nhưng “Tứ hải nhân dân thủy hỏa trung”, đúng là muôn dân chìm trong máu lửa, còn đang ở thế mạnh khó lòng mà chiến thắng được chúng: Dân đói kêu trời tan ổ nhạn, Quân thù chật đất dậy đàn ong. Về thực lực, cuộc khởi nghĩa bùng nổ mang tính bột phát, thiếu kế hoạch đầy đủ, chuẩn bị chưa chu đáo theo chiến thuật lấy “đoản binh đánh trường trận”, đặc biệt là phong trào chưa tổ chức được lực lượng nhân dân một cách chặt chẽ để tác chiến lâu dài, cho nên kết quả là nghĩa quân sau nhiều năm kháng chiến vô cùng anh dũng và sáng tạo vẫn không đạt được thắng lợi. Ngược lại, vua Hàm Nghi đã bị bắt, lực lượng bị tiêu hao nhiều, nên cụ Phan tự thấy lòng mình hổ thẹn với nước non Tiên Rồng, với các bậc anh hùng liệt sĩ, xót xa trước cảnh đói khổ của đồng bào nên buộc lòng phải ngậm ngùi tuyệt mệnh, giã từ cuộc chiến đấu sinh tử với kẻ thù hung bạo để giữ tròn khí tiết. Trước khi nhắm mắt, người chỉ huy kiên trung, nhân nghĩa ấy vẫn không quên khuyên các nghĩa binh hãy trở về gia đình sản xuất đợi thời cơ khác. Nỗi niềm yêu nước thương dân được bộc lộ hết sức sâu sắc qua bài thơ Tuyệt mệnh được viết trước phút lâm chung. Đúng là Trang 125

Phan Đình Phùng Chương Thâu hình tượng cao đẹp của một người chân chính, sống oanh liệt, chết vẻ vang ấy sẽ còn sống mãi với non sông đất nước! Chín trùng Thánh Chúa nơi quê lạ, Bốn bể nhân dân chốn lửa nồng Trách vọng càng cao lo lại nặng, Tướng môn những thẹn với anh hùng. (Lâm chung thời tác - Lê Thước (3) dịch) (4) Rõ ràng là kẻ thù đã đã dùng mọi lực lượng hùng mạnh để tiêu hao dần quân khởi nghĩa, chúng bao vây tứ phía, cô lập vùng căn cứ địa. Thời thế không thuận lợi, nghĩa quân lâm vào tình trạng bị động, thiếu thốn đủ thứ, đời sống hàng ngày gặp muôn vàn khó khăn, từ lương thực đến vũ khí. Lúc bấy giờ, hậu phương không yên, nhân dân phải sống trong nghèo đói, trong cùm kẹp, máu lửa, chết chóc; sức dân có hạn, nếu chiến tranh kéo dài thì khó lòng làm chỗ dựa vững bền cho nghĩa quân chiến đấu được. Mặt khác, về sách lược tổ chức, phong trào Cần vương còn khá nhiều hạn chế. Triều đình nhà Nguyễn tại Huế nhu nhược đã đầu hàng thực dân Pháp, do đó ngọn cờ quân chủ đã lỗi thời không thể đủ sức huy động được mặt trận đoàn kết nhân dân rộng rãi để chống lại thế lực đang hùng mạnh của đế quốc Pháp xâm lược. Đồng bào quanh vùng bị khủng bố nặng nề, hễ ai liên lạc giúp đỡ nghĩa quân đều bị đàn áp bắn giết hết sức tàn bạo. Bà con trong vùng vẫn thường kể lại, nghĩa quân bị giặc Pháp bắt được đều bị chúng trói tay chân, rồi chặt đầu thả trôi sông. Trước tình hình bế tắc ấy, nghĩa quân lại thiếu sáng suốt trong chính sách dân vận. Họ phạm phải những sai lầm không đáng có... nhất là đối với các gia đình khá giả trong vùng. Họ dùng nhiều biện pháp cưỡng ép nhân dân, mà lẽ ra phải kiên trì tuyên truyền thuyết phục. Đấy là điều đáng tiếc đã xảy ra trong thực tế lịch sử, tạo nên không ít nỗi bất bình từ quần chúng, đặc biệt ở vùng Hương Sơn, nơi tướng Cao Thắng chỉ huy. Vào những năm 1941-1945, tôi đang học tiểu học đúng vào lúc Nhóm cộng sản Hồ Hảo (5) vượt ngục trốn vào rừng Ngàn Phố để chống Trang 126

Phan Đình Phùng Chương Thâu Pháp, đồng thời cũng là thời kỳ Việt Minh bắt đầu hoạt động ở vùng Nghệ Tĩnh. Thực dân Pháp lập đồn bốt tuần tra khắp nơi trong huyện Hương Sơn để truy nã nhóm Hồ Hảo. Chúng lùng soát gắt gao tận các làng xóm như thời cụ Phan khởi nghĩa và thời Xô viết Nghệ Tĩnh nổi lên lật đổ chính quyền thống trị. Thời đó, ông ngoại tôi thường kể nhiều chuyện chống Pháp xảy ra trong thôn xóm từ cuộc khởi nghĩa Cần vương, trong đó có chuyện về Nhóm Tân Hoài (6), dư đảng của nghĩa quân. Sau khi cụ Phan từ trần vào nărn 1895, phong trào Cần vương thất bại tan rã dần, nhưng dư đảng còn hoạt động kéo dài vào những năm đầu thế kỷ XX, mà tiêu biểu là Nhóm Tân Hoài, còn tiếp tục hoạt động ở hai huyện Hương Sơn và Đức Thọ, từng làm cho bọn thống trị phải hoảng hốt lo sợ. Nhóm này dùng lối đánh du kích bất ngờ, tiếp tục giết một số cá nhân có quyền lợi liên quan chặt chẽ với thực dân Pháp. Cụ thể là họ đã giết ông Tú Áng (tức Lê Khánh Áng), một Bá hộ giàu có ở xã Sơn An. Sau đó bọn Pháp ra lệnh san phẳng, chặt hết các lũy tre bao bọc từ làng này sang làng khác đến tận gốc để truy nã Nhóm Tân Hoài đang lẩn trốn trong các nhà dân. Một lần Tân và Hoài (tên hai nghĩa binh) đang trốn ở làng Gôi thì bị giặc bao vây chặt, chúng lục soát từng nhà, khiến hai nghĩa binh phải nhảy xuống ao, rồi phủ bèo xanh kín đầy người, ngâm mình trong nước mấy giờ liền mới thoát được bàn tay kẻ thù. Ao này thuộc làng Gôi, xã Sơn Hòa ngày nay. Lúc bấy giờ bố tôi còn nhỏ, (1901-1970) đang sống cùng bà ngoại ở xã Sơn Hòa cũng biết rõ sự kiện đó. Về sau Nhóm Tân Hoài tới tạm lánh tại vùng chợ Trổ, làng Yên Hồ (xã Đức Nhân) huyện Đức Thọ. Được tin báo, sếp đồn Linh Cảm cho quân lính đến vây bắt tìm diệt. Không thể bắt sống được vì họ có súng bắn trả quyết liệt, nên bọn lính Pháp bèn đốt cháy vườn mía bao quanh ngôi nhà năm gian, nơi hai nghĩa binh đang trú ẩn. Và đám cháy đó đã hỏa thiêu luôn cả hai người nhất định không đầu hàng giặc. Trong trận đọ súng ấy, viên Cai Mưu thuộc đồn Linh Cảm bị đạn của Nhóm Tân Hoài giết chết. Viên cai này là người trong xóm tôi, cạnh nhà ông ngoại tôi, chung bờ giậu bên phải, còn bên trái là nhà thờ họ của gia đình ông Lê Minh Hương. Bà Cai Mưu còn rất trẻ, chưa có con cái gì, mà ở vậy thủ tiết thờ chồng và được triều đình phong kiến nhà Trang 127

Phan Đình Phùng Chương Thâu Nguyễn tặng Bằng khen Tiết hạnh khả phong. Tôi biết rất rõ bà này, vì bà có tuổi thọ khá cao, mãi vào cuối năm năm mươi mới mất. Giáo sư Đinh Xuân Lâm, người cùng làng tôi, cho biết khi ông Cai Mưu chết vì trúng đạn nghĩa quân có một bài văn tế ông khá hay, giáo sư đã sưu tầm được và công bố trên tuần báo Văn nghệ, tiếc rằng đến nay không còn nhớ vào số nào và năm nào, chỉ còn nhớ hai câu: “Mây Tùng Lĩnh phất phơ màu khói bạc, Nước Tam Soa lấp lánh ánh trăng soi” Trên quê hương Nghệ Tĩnh, ảnh hưởng của cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng còn vang vọng mãi tới phong trào Đông Du của Phan Bội Châu và phong trào Tân Việt, cho đến tận năm 1930 khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Phải chăng có thể nói, ngọn lửa Xô viết Nghệ Tĩnh bùng lên dữ dội rung chuyển khắp nước, vang tận phương trời Tây cũng là sự kế thừa một cách sinh động truyền thống yêu nước, giương cao ngọn cờ phản đế từ thế kỷ trước, nhưng được phát triển ở tầm cao song song với cách mạng phản phong, thực hiện “người cày có ruộng”. Dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác-Lênin, hai nhiệm vụ chiến lược cùng tồn tại đã tập hợp được đông đảo quần chúng công nông tham gia ngày càng đông đảo. Sức mạnh bão táp ấy càng lớn mạnh trong cuộn Cách mạng tháng Tám (1945) long trời lở đất đánh đổ chế độ thực dân xây dựng chính quyền công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Từ lịch sử đương đại, nhìn vào truyền thống quá khứ, chúng ta có thể phần nào so sánh về thế trận lòng dân và vai trò của Đảng ta trước những thành tựu diệu kỳ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc ở thời đại Hồ Chí Minh. Một chân lý ngời sáng là chúng ta chỉ có thể chiến đấu chống ngoại xâm thắng lợi khi toàn dân đoàn kết một lòng. Dân tộc ta trải qua bao chiến công oanh liệt chống kẻ thù cướp nước, lịch sử quá khứ soi sáng đường hướng đi tới tương lai dạy chúng ta rằng nguồn gốc của mọi thắng lợi chính là nhờ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân. (Tạp chí Văn hóa Hà Tĩnh, số 99+100, tháng 10+11 năm 2006, tr.14-15) ________________________________________ 1. Nguyễn Trường Lịch: Giáo sư, Tiến sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội. Trang 128

Phan Đình Phùng Chương Thâu 2. Dựa theo Giáo sư Lê Thước trong Gia phả Bà ngoại tôi - 1970, bản đánh máy. 3. Lê Thước (1890-1975): Giáo sư trường quốc học Vinh. 4. Giáo trình Ngữ văn Hán Nôm, Phan Văn Các chủ biên, Nxb Giáo dục, 1983, tr.2/263. Bài thơ này còn được người đời sau đặt tên là Tuyệt mệnh. 5. Nhóm Hồ Hảo: nhóm nhỏ đảng viên cộng sản bị địch bắt ở huyện Hương Sơn, rồi vượt ngục vào rừng sâu hoạt động tự phát, sau khi giết một tên chủ đồn điền người Pháp ở Napê; nhưng rồi bị quân Pháp tiêu diệt sau bốn năm hoạt động 1941-1944. 6. Nhóm Tân Hoài: dư đảng không rõ lực lượng) của phong trào Cần vương, hoạt động tự phát một thời gian dài sau khi cụ Phan mất; cuối cùng bị chính quyền Pháp tiêu diệt. LÊ NGUYỄN (1) - HOÀNG CAO KHẢI - PHAN ĐÌNH PHÙNG, MỘT TÌNH BẠN, HAI CON ĐƯỜNG Năm 1878, người dân vùng Yên Khánh tỉnh Ninh Bình chứng kiến một sự kiện bất ngờ mà họ nhớ mãi. Đó là chuyện viên Tri phủ sở tại đã dám sai lính đè cổ đánh cha Trần Lục, thường được gọi là cụ Sáu một giáo sĩ nức tiếng thời đó nhờ được lòng thực dân Pháp và có những thành tích giết người như ngoé. Viên Tri phủ đó là Phan Đình Phùng, vừa đỗ đầu khoa thi Đình năm 1877. Sự cương trực thẳng thắn của Cụ bộc lộ ngay từ những ngày đầu trên hoạn lộ và điều này không khiến người ta lấy làm lạ khi 6 năm sau, Cụ đã dám ngang nhiên hét to vào mặt hai quyền thần uy thế nhất của triều đình Huế là Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết khi hai ông này quyết định phế truất ông hoàng Dục Đức, người đã được vua Tự Đức cử lên kế vị. Trước sự giận dữ đến tím mặt của Thuyết và sát khí đằng đằng của hơn 300 quân gươm giáo sáng quắc, các quan lại lúc bấy giờ lo cho sinh mạng Phan Đình Phùng; nhưng rốt cục, Cụ chỉ bị Thuyết giam trong ngục rồi sau thả cho về làng quê. Trong khi đó, đệ nhất Phụ chánh Trần Tiễn Thành cũng chống đối việc làm của Tường và Thuyết một cách nhẹ nhàng hơn, về sau lại bị Trang 129

Phan Đình Phùng Chương Thâu Thuyết sai quân đến nhà sát hại. Điều này có thể giải thích ở điểm Trần Tiễn Thành là một trở ngại cho mưu đồ kháng Pháp của Thuyết. Còn Phan Đình Phùng là một người cương nghị, có lập trường cứng rắn với Pháp và những tay sai theo Pháp, nên theo Thuyết, Cụ còn có thể hữu dụng về sau. Điều này được minh chứng là mấy tháng sau khi Cụ về quê ở làng Đông Thái, tỉnh Hà Tĩnh để cày ruộng, Thuyết đã nghĩ lại và cử Cụ làm Tham biện Sơn phòng Hà Tĩnh. Phần Cụ, dù khẳng khái phản đối Thuyết trong việc phế vua Dục Đức, nhưng biết rằng Thuyết là người luôn nuôi trong lòng mưu đồ kháng Pháp nên Cụ đã quên đi tị hiềm cũ mà nhận lấy trách nhiệm do Thuyết giao. Năm 1885, khi vua Hàm Nghi xuất bôn khỏi Kinh thành Huế và lưu lạc đến Quảng Bình, Hà Tĩnh, Cụ cùng một số nhân sĩ yêu nước đã đi đón, lạy vua và khóc. Tấm lòng thần tử đối với một vị thiếu quân mới 14 tuổi, vì cảnh nước mất nhà tan phải lênh đênh nơi rừng thiêng nước độc, đã làm xúc động biết bao người! Hịch Cần vương ban ra, Cụ về lại làng Đông Thái, tìm kiếm súng đạn, rèn giáo mác, gươm đao. Lực lượng chưa tinh nhuệ, súng ống còn thiếu thốn, những thất bại đầu tiên làm cho một vài bộ tướng của Cụ nản lòng, có người đầu hàng giặc. Tuy nhiên, đa số nghĩa quân vẫn một lòng theo Cụ, quyết chí kháng Pháp. Viên Đại úy Pháp Ch.Gosselin, trong tác phẩm “L’Empire d’Annam” (Vương quốc An Nam) xuất bản tại Pari, Pháp năm 1904, đã khen ngợi Phan Đình Phùng về tài tổ chức quân binh, luyện tập sĩ tốt, cải tiến cả trang phục và vũ khí, chứng tỏ là một đạo quân có kỷ luật. Trong những năm sau đó, nghĩa quân của Phan Đình Phùng đã thực hiện được hai việc có ý nghĩa, làm rung động cả nước. Việc thứ nhất là lập kế vượt qua hàng rào lính canh đông đảo để bắt sống cựu Tuần phủ Đinh Nho Quang. Quang là bạn thân của cụ Phan, sau khi hưu trí được Pháp giao cho công tác tiễu trừ “giặc” ở vùng Hà Tĩnh, từng gửi cho Cụ thư dụ hàng với những lời lẽ xấc xược. Bắt được Đinh Nho Quang, cụ Phan không giết mà chỉ giam tại chỗ. Về sau, Quang được quân Pháp giải thoát trong một cuộc chiến không cân sức giữa Pháp và nghĩa quân. Việc thứ hai là xử Trương Quang Ngọc, kẻ phản bội đã cam tâm dẫn Pháp đến tận miền thượng sông Gianh để bắt vua Hàm Nghi vào tháng 11-1888. Tháng 12-1893, một buổi chiều nọ, Trương Quang Ngọc đang nằm trong nhà thì nghĩa quân nhảy rào vào, y không kịp trở tay Trang 130

Phan Đình Phùng Chương Thâu đã bị chém bay đầu. Từ đó, những tên phản bội nghĩa quân, theo Pháp, sợ hãi, không dám manh động nữa. Nhận thấy đối phó với một tổ chức nghĩa quân hoạt động du kích rất khó đạt kết quả mong muốn, giữa năm 1894 thực dân Pháp quay sang một con cờ khác, một người vừa là đồng hương, vừa là bạn thân cũ của cụ Phan: Kinh lược sứ Hoàng Cao Khải. Đây là một nhân vật mà sự thăng tiến trong xã hội phong kiến là một mơ ước của bao nhiêu quan lại đương thời. Trong những năm 1883-1884, họ Hoàng còn ở chức Tri huyện Thọ Xương, một chức quan khiêm tốn ở hàng lục phẩm. Tuy nhiên, ông ta sớm được thực dân Pháp chú ý. Tháng 9-1883, trong cuộc gặp gỡ với Tổng đốc Hà Nội Nguyễn Hữu Độ, một quan chức Pháp là Bonnal đã lưu ý đến Hoàng Cao Khải: “một thành niên có gương mặt thanh tú và thông minh”. Sau năm 1885, Hoàng Cao Khải đã leo đến quyền Tổng đốc Hải Dương, vào hàng chánh nhị phẩm. Trong lúc các cuộc khởi nghĩa nổ ra mãnh liệt Nguyễn Thiện Thuật, Tạ Hiện ở Bãi Sậy, Đốc Tít ở Đông Triều, Cai Kinh ở Yên Thế, Lương Tam Kỳ ở chợ Chu ... , Khải đã được Kinh lược sứ Nguyễn Trọng Hợp giao cho trọng trách đánh dẹp các tổ chức nghĩa quân và đã đạt những thắng lợi lớn: Nguyễn Thiện Thuật phải bỏ sang Tầu, Đốc Tít ra hàng, bị đày sang Algérie, Lương Tam Kỳ, Đốc Ngữ ra hàng... Sau những thành tích trên, cuối thập niên 1880, Hoàng Cao Khải được phong chức Bắc Kỳ Kinh lược sứ cùng những tước vị tột bậc: Thái tử Thiếu bảo, Khâm sai đại thần, tước Diên Mậu tử, Hội viên Hội đồng Tối cao Đông Dương (Conseil supérieur de I’Indochine), được ân thưởng Bắc đẩu bội tinh của Pháp. Biết rằng nhiệm vụ dụ hàng Phan Đình Phùng là một công việc đầy cam go, họ Hoàng gửi cho cụ Phan một bức thư với những lời lẽ hết sức lễ độ khôn khéo: “Đồng ấp Phan Đình nguyên đại nhân túc hạ, Tôi với ngài xa cách nhau, xuân thu đắp đổi trải đã mười bảy năm nay rồi. Dâu bể cuộc đời, Bắc Nam đường bụi, tuy là mỗi người đi một ngả khác nhau nhưng mà trong giấc mộng hồn vẫn thường thấy nhau không phải xa xôi gì. Ngồi nghĩ lại, ngày trước chúng ta còn ở chốn quê hương, giao du với nhau, cái tình ấy đằm thắm biết là dường nào! Từ lúc ngài khởi nghĩa đến giờ, nghĩa khí trung can đều rõ rệt ở tai Trang 131

Phan Đình Phùng Chương Thâu mắt người ta. Tôi thường nghe các quý quan (ám chỉ người Pháp - LN) nói chuyện đến ngài, ông nào cũng phải thở than khen ngợi và tỏ ý kính trọng ngài lắm. … Có điều tôi thấy tình trạng ở quê hương chúng ta gần đây lấy làm đau lòng hết sức. Nhân đó, tôi thường muốn đem ý kiến hẹp hòi để ngỏ cùng lượng cao minh soi xét...” (theo Đào Trinh Nhất: PhanĐình Phùng - Nhà lãnh đạo 10 năm kháng chiến (1886-1895) ở Nghệ Tĩnh, Nxb Tân Việt, 1957, tr.202-203). Cụ Phan Đình Phùng trả lời Hoàng Cao Khải bằng một bức thư dài, cũng với những lời lẽ hết sức lễ độ nhưng cương quyết: “… Cố nhân với tôi đều là người sinh đẻ tại châu Hoan mà ở cách xa ngoài muôn ngàn dặm, cố nhân còn có lòng đoái tưởng quê hương thay, huống chi là tôi đây đã từng lấy thân chịu đựng và lấy mắt trông thấy thì sao? Khốn nỗi cảnh ngộ bó buộc, vả lại sức mình chẳng làm được theo lòng mình muốn, thành ra phải đành, chứ không biết làm sao cho được. Cố nhân đã biết đoái hoài thương xót dân này, thì cố nhân nên lấy tâm sự tôi và cảnh ngộ tôi, thử đặt mình vào mà suy nghĩ xem, tự nhiên thấy rõ ràng, có cần gì đến tôi phải nói dông dài nữa ư?” (Đào Trinh Nhất, Sđd, tr.209). Không lay chuyển được tấm lòng sắt đá của cụ Phan, Hoàng Cao Khải đành cho dịch bức thư ra chữ Pháp, trình lên Toàn quyền Đông Dương De Lanessan. Kế hoạch sử dụng Hoàng Cao Khải bất thành, giữa năm 1895, thực dân Pháp nhờ đến Tổng đốc Bình Định Nguyễn Thân, con người đầy mưu lược và nổi tiếng tàn ác lúc bấy giờ. Biết rằng rất khó tiến công những nhóm quân du kích rải rác trong rừng sâu, Nguyễn Thân tung quân cắt đứt các đường tiếp tế lương thực cho nghĩa quân, những ai bị bắt gặp có mang lương thực vào rừng đều bị chém đầu ngay. Biện pháp này đạt được kết quả Nguyễn Thân mong muốn. Nghĩa quân đã khốn đốn vì đời sống thiếu thốn, nay còn nguy ngập hơn. Sức khỏe cụ Phan ngày càng kiệt quệ vì bệnh lỵ trầm trọng. Ngày 13-11 âm lịch năm 1895, Cụ trút hơi thở cuối cùng khi sự nghiệp kháng Pháp còn dang dở. Tướng sĩ mai táng cụ trong rừng, không dám đắp mộ cao vì sợ bị giặc trả thù. Nhưng không may, hơn 10 ngày sau đó, một người Trang 132

Phan Đình Phùng Chương Thâu lính nghĩa quân bị giặc bắt và bị tra tấn nặng nề nên đã tiết lộ nơi chôn Cụ. Nguyễn Thân cho đào hài cốt Cụ lên đem hỏa thiêu rồi trộn với thuốc súng bắn xuống sông La Giang. Sau những thành tích kiểu đó, Nguyễn Thân leo lên đến chức vụ Phụ chánh đại thần, Cần chánh diện Đại học sĩ, đứng đầu trong Tứ trụ đại thần. Còn Hoàng Cao Khải có hai người con trai là Hoàng Mạnh Trí và Hoàng Trọng Phu đều làm Tổng đốc, nên người đương thời có hai câu thơ ám chỉ gia đình Hoàng Cao Khải: Con cái một nhà hai Tổng đốc, Pháp Nam hai nước một công thần. Điều đáng buồn hơn nữa là Phan Đình Cự (tự Bá Ngọc), người con trai còn lại của cụ Phan Đình Phùng, trốn sang Nhật học năm 1906, là một trong những người mở đường cho phong trào Đông Du đầu thế kỷ XX, nhưng đã bị thực dân Pháp mua chuộc để làm những việc có hại cho phong trào cách mạng Việt Nam ở hải ngoại. Theo hồi ký của Kỳ Ngoại hầu Cường Để, cháu 5 đời của Hoàng thái tử Cảnh, thì nhân một đêm chơi đèn, đốt pháo ở Hàng Châu (Trung Quốc) một thanh niên Việt Nam yêu nước là Võ Nguyễn Trinh (tự Tản Anh) đã dùng súng hạ sát Bá Ngọc, chấm dứt cuộc sống của một con người sớm bị khuất phục bởi lợi danh và đi ngược lại con đường cách mạng của cha mình. (Lê Nguyễn: Xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc - Nhân vật và sự kiện lịch sử, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2005, tr. 243-249) ___________________________________________ 1. Lê Nguyễn: Nhà nghiên cứu lịch sử. PHẠM XANH (1) - NHỮNG CHUYỂN BIẾN TÍCH CỰC TRONG TƯ TƯỞNG PHAN ĐÌNH PHÙNG Phan Đình Phùng (1847-1895) người làng Đông Thái, huyện La Sơn, nay là xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, đậu Cử nhân năm 1876, đậu Tiến sĩ năm 1877. Trước khi trở thành lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa Hương Khê, Cụ đã từng làm tri huyện Yên Khánh, Ninh Bình, Trang 133

Phan Đình Phùng Chương Thâu rồi làm Ngự sử trong Viện Đô sát Triều đình Huế. Vậy là, Phan Đình Phùng chẳng những được đào tạo và thấm nhuần giáo lý Khổng, Mạnh, mà đã dấn thân vào chốn quan trường. Nho giáo dạy cho người ta trung, tín, lễ, nghĩa, coi đó là những mực thước trong việc “Trị nước, bình thiên hạ”. Tấm bằng Tiến sĩ và những năm tham chính của Phan Đình Phùng, trên một ý nghĩa nào đó, khẳng định ý thức tư tưởng của Cụ không đi chệch dòng chính thống đó. Thế nhưng, trong lời nói và hành động của Cụ đây đó đã thấy xuất hiện những nét mới không giống đại bộ phận nho sĩ đương thời. Thời mà Cụ đang sống, từ vua đến quan, từ quan đến dân, đều cho rằng Thiên chúa giáo là tà đạo, những người theo tôn giáo này đều là tay sai cho quân Pháp. Quan niệm không đúng đó một thời đã dẫn đến những tấn thảm kịch trong lịch sử Việt Nam thời kỳ đó giữa lương và giáo. Phan Đình Phùng, khác với những quan niệm thông thường đó, đã có những ý nghĩ thoáng hơn, đúng đắn hơn về Thiên chúa giáo. Ông thường nói với những người tâm phúc: “Đạo thiên chúa lấy Da Tô làm trời, cũng như Thích Ca Mâu Ni là trời của đạo Phật hay Khổng phu tử là trời của nhà Nho. Hễ ai đã tín ngưỡng điều gì, thì điều ấy là trời của mình. Mình muốn người ta đừng xâm phạm đến sự tín ngưỡng của mình thì mình đừng xâm phạm đến sự tín ngưỡng của người ta. Thiên chúa cũng là một thứ tôn giáo, mặc ai tin thì theo” (2). Cùng với sự thẳng thắn, cương trực trong tính cách của ông và truyền thống phản kháng của quê hương, tầm nhìn khoáng đạt ấy dần dà giúp ông có được những chuyển biến mạnh mẽ trong quan niệm của ông về hai phạm trù đạo đức học nho giáo cơ bản - Trung, Hiếu. Như chúng ta đều biết, nho sĩ Nghệ Tĩnh đã đáp lại những hòa ước của Tự Đức bằng những hành động có một không hai thời bấy giờ. Năm 1862 khi được tin Triều đình ký hòa ước cắt ba tỉnh miền Đông cho Pháp, nho sĩ Nghệ Tĩnh do Phan Huân đứng đầu dâng sớ bày tỏ một tâm trạng, một ý thức trái hẳn với truyền thống: “Thiên hạ là của thiên hạ, thiên hạ không phải của bệ hạ mà chuyên giữ lấy một mình”. Tiếp đó là phong trào chống Hòa ước 1874 lan rộng trong nhân dân và sớm trở thành phong trào vừa chống Pháp xâm lược vừa chống triều đình đầu hàng đạt tới đỉnh điểm trên đất Nghệ Tĩnh, thì dân gian đặt vè tố cáo nhà vua: “Làm vua ra rồi, một lòng bán nước; khi đang đánh được, không đánh gấp cho”. Trang 134

Phan Đình Phùng Chương Thâu Văn thân bốn tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình trong thư trả lời Tự Đức, bày tỏ chủ trương kháng chiến của mình và bác bỏ lý do giảng hòa của nhà vua và Triều đình: “Đổng Thiên Vương dù không còn nữa, nhưng trong thiên hạ những người như Đổng Thiên Vương không thiếu. Trần Hưng Đạo đã mất, nhưng trong thiên hạ những người như Trần Hưng Đạo hãy còn nhiều... Trong khoảng mười bước còn có nhiều cỏ thơm, rộng rãi như hai Kỳ há không có người tài năng hay sao?” (3) Tư tưởng chống triều đình, chống nhà vua trái với chủ nghĩa trung quân truyền thống, coi vua là nước, đã đạt tới đỉnh điểm trong cuộc khởi nghĩa Giáp Tuất của Trần Tấn, Đặng Như Mai xem Triều đình và giặc Pháp là kẻ thù của dân tộc phải quyết đánh: Dập dìu trống đánh cờ xiêu Phen này quyết đánh cả Triều lẫn Tây. Truyền thống bất khuất của quê hương đã giúp Phan Đình Phùng xác định được chỗ đứng của mình trong cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc - kiên quyết đứng về phe chủ chiến. Cuối năm 1885 vua Hàm Nghi ra Sơn phòng Hà Tĩnh, Phan Đình Phùng đã cùng với các bạn là Phan Quang Cư, Phan Khắc Hòa, Hoàng Xuân Phong, Ngụy Khắc Kiều, Phan Trọng Mưu tìm đến yết kiến và được vua phong Tán lý quân vụ, thống lĩnh các đạo nghĩa binh, nhận Chiếu Cần vương về quê nhà tổ chức khởi nghĩa và cuộc khởi nghĩa của ông trở thành cuộc nổi dậy điển hình nhất của phong trào Cần vương, kéo dài trên 10 năm, vắt qua hai thời kỳ: Cần vương có vua và Cần vương không có vua. Ở thời kỳ đầu (1885 - 1888) tức là khi dấy nghĩa đến khi vua Hàm Nghi bị bắt, Phan Đình Phùng vừa xây dựng lực lượng, vừa lặn lội ra Bắc liên lạc với các văn thân nghĩa sĩ cùng dấy binh để phá thế cô lập. Ở thời kỳ này ông đã vượt qua một sự thử thách ghê gớm trước những mưu mô, hành động độc ác của quân thù. Ấy là lúc người anh của ông là Phan Đình Thông bị bắt, và kẻ thù cho Lê Kính Hạp, trước là bạn thân của ông, lấy việc hiếu đễ, tình cốt nhục viết thư dụ dỗ ông ra hàng: “Này bác Phan ơi! Ngày nay trong họ hàng làng xóm được an hay nguy chỉ can hệ ở nơi bác. Thôi thì tấm lòng trung của bầy tôi đối với vua, tới đó bác cũng đã chứng tỏ với quỷ thần rồi, không lo ai chê mình vào đâu được nữa. Còn Hiếu và Đễ cũng là cái gốc lớn của đời người ta, có lẽ nào bậc người khoa giáp như bác mà học chưa tới nơi Trang 135

Phan Đình Phùng Chương Thâu hay sao?” (4). Kẻ thù đã đặt Phan Đình Phùng vào sự lựa chọn một trong hai giải pháp: buông súng đầu hàng để họ hàng làng xóm, mồ mả tổ tiên được bình yên, người anh thoát nạn, hoặc tiếp tục chiến đấu thì mọi thứ đó sẽ mất. Tiến sĩ Phan Đình Phùng ung dung, thanh thản chọn cho mình giải pháp thứ hai, đặt vận mệnh của đất nước, đặt tư tưởng trung với vua lên trên họ hàng làng xóm, chấp nhận sự hy sinh riêng tư. Phan Đình Phùng đã nói với chủ tướng: “Tôi từ khi cùng chủ tướng khởi binh Cần vương, đã có chủ tâm là bỏ cả việc gia đình quê quán ra ngoài, không nghĩ gì đến nữa. Nay tôi chỉ có một ngôi mộ rất to, nên giữ, đó là đất Việt Nam; tôi chỉ có một ông anh rất to, đang bị nguy vong, là cả mấy mươi triệu đồng bào. Nếu về mà sửa sang phần mộ của mình, thì ngôi mộ cả nước kia ai giữ? Về để cứu vớt ông anh của mình, thì bao nhiêu anh em trong nước ai cứu? Tôi bây giờ thì chỉ có một cái chết mà thôi”; và ông đáp thư Hạp bằng một lời nhắn: “Nếu ai có làm thịt anh ta, thì nhớ gửi cho ta bát nước canh!” Phan Đình Phùng đã gạt chữ Hiếu, chữ Đễ sang một bên, dồn hành động vì chữ Trung. Trước hành động chối bỏ đó kẻ thù đã thực thi hành động tàn bạo: đào mồ mả tổ tiên và hãm hại người anh của ông, nhưng ông vẫn không nao núng, quyết chiến đấu đến cùng dưới ngọn cờ Cần vương. Năm 1888 khi vua Hàm Nghi bị bắt, một lần nữa Phan Đình Phùng trải qua một thử thách ghê gớm đối với một nhà Nho: tiếp tục chiến đấu khi không còn vua hay lấy cái chết của mình để làm rạng danh sự trung thành của bầy tôi đối với đức vua cao cả. Nếu như ở giai đoạn trước trong quan niệm chữ Trung của Phan, vua gắn với nước thì đến đây đã có sự biến chuyển căn bản - nước đã được đặt lên trên vua. Ông đã chọn con đường tiếp tục chiến đấu. Đó cũng chính là thời điểm mở đầu giai đoạn hai của phong trào Cần vương và của cuộc khởi nghĩa Hương Khê. Mở đầu cho giai đoạn này, Phan Đình Phùng phát lệnh cho quân sĩ lên vùng Thượng du Quảng Bình lấy đầu tên Trương Quang Ngọc, kẻ phản nghịch đã dẫn quân địch bắt vua Hàm Nghi. Sự kiện có ý nghĩa đó đã làm cho nhiều thủ lĩnh đem theo nghĩa binh về với Phan Đình Phùng như Ngô Quảng, Nguyễn Cáp, Võ Phát, Cầm Bá Thước. Từ đó quân số nghĩa quân tăng, được chia thành 15 quân thứ và sức mạnh chiến đấu cũng tăng lên. Nghĩa quân đã giành nhiều thắng lợi trong những cuộc chống càn và tập kích vào thị xã Hà Tĩnh, mở rộng địa bàn hoạt động của nghĩa quân, và đến năm 1893 nghĩa quân mở chiến dịch đánh vào thành Vinh. Trong chiến dịch này, Cao Thắng - vị chỉ huy của nghĩa quân, Trang 136

Phan Đình Phùng Chương Thâu cánh tay phải của Phan Đình Phùng, bị trúng đạn tử trận trong trận tấn công vào đồn Nu. Kế hoạch lớn không thực hiện được. Vào chính thời điểm đó thực dân Pháp bảo Hoàng Cao Khải, người cùng làng với ông, viết thư dụ hàng. Ông đã đáp lại bằng một bức thư đanh thép nói rõ ý chí bất khuất của mình, vạch mặt những kẻ như Khải mượn chữ “Trung” làm những điều bất nhân tàn bạo: “Nhưng tôi ngẫm nghĩ lại, nước nhà ta mấy ngàn năm nay chỉ lấy văn hiến truyền nối nhau, hết đời này qua đời kia, đất nước chẳng rộng, quân lính chẳng mạnh, tiền của chẳng giàu, duy chỉ có ý thị dựa nương để dựng nước, là nhờ có cái gốc vua tôi, cha con theo năm đạo thường mà thôi. Xưa kia nhà Hán, nhà Đường, nhà Tống, nhà Nguyên, nhà Minh bên Tàu bao nhiêu phen lăm le muốn chiếm lấy đất ta làm quận huyện của họ mà vẫn chiếm không được... Đến nay người Pháp với mình, cách xa nhau không biết là mấy muôn dặm, họ vượt bể tới đây, đi tới đâu như là gió lướt tới đó, đến nỗi nhà vua phải chạy, cả nước lao xao, bỗng chốc non sông nước mình biến thành bờ cõi người ta, thế là trọn cả nước nhà, dân nhà cũng bị đắm chìm hết thảy, có phải là riêng một châu nào hay một nhà ai phải chịu cảnh lầm than mà thôi đâu. Từ lúc tôi khởi nghĩa tới nay, đã trải mười năm trời, những người đem thân theo việc nghĩa, hoặc đã bị trách phạt, hoặc đã bị chém giết, vậy mà lòng người trước sau chẳng hề lấy thế làm chán nản ngã lòng bao giờ; trái lại, họ vẫn ra tài, ra sức giúp đỡ tôi, số người mạnh bạo ra theo tôi càng ngày càng nhiều thêm mãi. Nào có phải người ta lấy điều tai vạ hiểm nguy làm cho sự sung sướng thêm thường mà bỏ nhà dấn thân ra theo tôi như vậy đâu. Chỉ vì họ tin cậy lòng tôi, lượng xét chí tôi, cho nên hăm hở vậy đó thôi... Chỉ vì nhân tâm đối với tôi như thế cho nên cảnh nhà tôi hương khói vắng tanh, bà con xiêu bạt, tôi cũng chẳng dám đoái hoài. Nghĩ xem, kẻ thân với mình mà mình không đoái hoài huống chi là kẻ sơ; người gần với mình mà mình không bao bọc nổi, huống chi người xa. Vả chăng, hạt ta đến nói điêu đứng lầm than quá, không phải riêng vì tai họa binh đao làm nên nông nỗi thế đâu. Phải biết quân Pháp đi tới đâu có lũ tiểu nhân mình túa ra bày kế lập công, thù vơ oán chạ; những người không có tội gì chúng cũng đâm thọc buộc ràng cho người ta là có tội”. Với quyết tâm đó, Phan Đình Phùng đã lãnh đạo nghĩa quân chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Khê do ông lãnh đạo cũng chính là sự cáo chung của hệ tư tưởng phong kiến Trang 137

Phan Đình Phùng Chương Thâu bất lực trước nhiệm vụ lịch sử của đất nước. Dẫu ông có kiên tâm tới đâu đi nữa, ngọn cờ Cần vương đã rách tả tơi không còn đủ sức tập hợp dân chúng cho sự nghiệp cao cả của mình. Và sự thất bại của Phan Đình Phùng cũng là điều dễ hiểu. Nhưng những chuyển biến tích cực trong tư tưởng của ông là sự khởi đầu và sẽ được tiếp nối trong tư tưởng Phan Bội Châu để cuối cùng hoàn thiện trong tư tưởng Hồ Chí Minh - những người đồng hương Nghệ Tĩnh của ông. Hà Nội, tháng 3 năm 2007 ________________________________________ 1. Phạm Xanh: Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. 2. Theo Đào Trinh Nhất: Phan Đình Phùng..., sđd, tr.20. 3. Dẫn theo Trần Văn Giàu: Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng Tháng Tám, tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1970, tr.435. 4. Theo Đào Trinh Nhất: Phan Đình Phùng..., sđd, tr.85. NGUYỄN QUANG TÔ (1) - VÀI TÀI LIỆU VỀ PHAN ĐÌNH PHÙNG Cụ Phan Đình Phùng là một nhà lãnh tụ cách mạng Cần vương vùng Nghệ Tĩnh, toàn thể quốc dân, già, trẻ, gái, trai không ai không biết. Tuy nhiên đối với cái chết và thi hài của Cụ có nhiều tài liệu viết khác nhau. Đại khái như sau đây: - Có tài liệu viết rằng: Cụ bị bệnh chết, Nguyễn Thân đào xác lên định đem đốt ra than lấy tro trộn với thuốc súng mà bắn đi, nhưng sau lại cho đem chôn. - Một tài liệu khác lại nói: Cụ bị bệnh kiết lỵ mà chết, Nguyễn Thân cho đào lên, đốt ra than đem đổ xuống sông. Nhưng, ông Đào Trinh Nhất trong sách Phan Đình Phùng thì lại viết về cái chết của cụ Phan như sau: Trang 138

Phan Đình Phùng Chương Thâu “Lối 8 giờ sáng ngày 13 tháng 11 Cụ mất, Tang Lễ cử hành cố nhiên là đơn sơ. Duy có việc tẩm liệm thi thể của Cụ, tướng sĩ đã làm hết mình. Thay vì phải dùng quan tài như thường, tướng sĩ chặt cây gỗ vàng tâm thật lớn ở trong rừng, đem về khoét lũng thân cây đặt di thể trong đó, trên đậy nắp gắn lại chắc chắn. Di thể mang áo mão tấn sĩ “Đúng ngày an táng, tướng sĩ sắp hàng làm lễ cử ai và lạy trước linh cữu, rồi rước linh cữu xuống táng dưới chân núi Quạt. Lúc linh cữu hạ huyệt rồi, trên chỉ đắp đất bằng phẳng, chứ không đắp cao lên thành mồ. Tướng sĩ dụng tâm chôn cất như thế, là vì sợ mai sau có kẻ điểm chỉ mộ Cụ bị khai quật lên chăng. “Quân Pháp không hay việc cụ Phan đã mất, vì tướng sĩ vẫn đóng ở trên núi Quạt như thường và giữ cách trầm tĩnh êm đềm, không lộ ra một hình tích gì bày tỏ cho bên ngoài biết trong quân vừa có đại biến. Duy có quân thứ các nơi nghe tin chủ tướng mất rồi, sinh ra chán nản, lần hồi tản tác, trở về quê hương, hoặc trốn qua Lào qua Xiêm cũng nhiều. Còn bổn bộ tướng sĩ của Phan, thì vẫn theo hầu phu nhân để chờ ngày ra thú. “Cánh mười mấy hôm sau, quân Tây đi tuần, bắt được một tên nghĩa binh ở trên sơn trại lén xuống xóm làng tìm mua lương thực. Trước còn dỗ dành, sau doạ bắn chết, nếu như không nói rõ binh tình trên núi, thành ra tên lính nọ phải thú thiệt rằng cụ Phan đã qua đời trên mười bữa nay, và nó chỉ cả nơi chôn di thể nữa. “Quan quân buộc nó đi dẫn đường, tới đào mộ lên lấy thi thể cụ Phan đem về. “Lạ thay! Đêm bữa 29 ở trên sơn trại, phu nhân đang ngủ, nằm mộng thấy cụ Phan hiển linh về, nói với phu nhân như vầy: “ - Ngày mai ta thử ra trước mặt quân Tây, xem chúng làm gì ta”. Phu nhân cho là điềm lạ, suy nghĩ phân vân. Té ra chiều bữa sáu là ngày 30, có tin báo lên sơn trại rằng: Không hiểu tại sao quân lính Bảo hộ biết chỗ, đã đào mộ cụ Phan lên đem về đồn Linh Cảm rồi. Trong mộng Cụ nói: “ta thử ra trước mặt quân Tây” là ám chỉ việc đào mả. Trang 139

Phan Đình Phùng Chương Thâu “Nói về quân Pháp biết được chỗ khai quật được mả cụ Phan lên, đem di hài về đồn Linh Cảm giao cho Nguyễn Thân xem xét có phải thiệt là di hài của cụ Phan không. “Nguyễn Thân cho đem ra địa đầu tổng Việt Yên đem dầu chế vào đốt đem mun trộn vào thuốc súng thần công và bắn xuống bể” (2). Trên đây là đoạn văn trong cuốn Phan Đình Phùng của Đào Trinh Nhất mô tả về cái chết của nhà chí sĩ họ Phan, nhưng Đào quân đã không nói rõ sự việc này ông đã lấy đâu ra? Biên khảo theo tài liệu nào? mà trong đó cũng có nhiều điểm dị đồng so với các tài liệu khác. Vả chăng, nhìn chung, những tài liệu viết về cái chết của nhà Tiên liệt Cách mạng Phan Đình Phùng từ trước tới nay, thường có tính chất Dã sử, nghĩa là các sử liệu chỉ có tính chất truyền miệng nhiều hơn là các sử liệu có căn cứ trên giấy trắng mực đen. Để góp ý kiến hầu làm sáng tỏ vấn đề tồn nghi đó, gần đây chúng tôi đã cố tâm tìm được ba văn kiện lịch sử có tương quan, xin sưu dịch cống hiến độc giả sau đây: 1. Tờ yết thị của Nguyễn Thân Phiên âm: “Thành Thái Thất niên thập nhị nguyệt sơ cửu nhật, Khâm sai Đổng tiết Quân vụ Đại thần vi yết thị sự: Tư Phan Đình Phùng sở vi quan quân bức nã, cai ngụy bôn soán Quảng Bình thượng du sơn phận (khe Quạt xứ) hiện dĩ mệnh chung, thi hài yêu hồi Linh Cảm đồn trú xứ do lỗ thuộc đa nhân nhận vi cai đích thi lánh hành thiêu huỷ. Tư yết thị. Hựu yết thị hạt hạ quân dân nhất y tuân tri”. Dịch nghĩa: Ngày mùng 9 tháng 12 niên hiệu Thành Thái thứ bảy, quan Khâm sai Đổng tiết Quân vụ Đại thần (3) yết thị rằng: Nay Phan Đình Phùng bị Trang 140

Phan Đình Phùng Chương Thâu quân quan bức nã, nên ngụy ấy lẩn trốn lên miền thượng du tỉnh Quảng Bình (xứ Khe Quạt), hiện đã chết rồi, thi hài ngụy ấy đã đưa về đồn Linh Cảm do nhiều tên cựu thuộc của tên giặc ấy nhận diện cho đúng là thi hài của ngụy ấy. Thi hài ấy sẽ đem thiêu huỷ Nay yết thị Vậy yết thị cho quân dân trong hạt biết”. Khi chúng tìm được xác chết cụ Phan, ngoài tờ yết thị của Nguyễn Thân kể trên, viên Phó sứ ủy viên Chính phủ cũng ra một yết thị bằng chữ Pháp, nội dung cũng tương đồng với tờ yết thị của Nguyễn Thân. 2. COLONNE DE POLICE N: 83 NOTE CIRCULAIRE Phan Đình Phùng pourchassé de toutes parts, obligé de se réfugier dans le haut Quảng Bình (Région de Quạt) est mort et son cadavre rapporté à Linh Cảm, où il a été formellement reconnu par de nombreuses personnes, sera incinéré. Les cendres seront dispersées. Cet important résultat est dù à la ténacité et au dévouement de tous. Le Vice Résident Commissaire du Gouvernement se borne, pour l’instant, à adresser ses félicitations chaleureuses aux Inspecteurs et Gardes principaux ayant pris part aux expéditions du Laos et de Quạt, en signalant toutefois que M.M. les Gardes Principaux Moutin notamment, et Génault ont eu l’initiative et l’heureuse chance de prendre une part directe et des plus inlelligentes à la découverte du cadavre du chef de la rébellion Linh Cảm le 29 Janvier 1890 Le V. Résident Commissaire du Gouvernement Signature et Cachet Dịch nghĩa: Thông Tư số 83 Trang 141

Phan Đình Phùng Chương Thâu Bị truy nã tập kích khắp nơi, Phan Đình Phùng buộc phải lẩn tránh lên vùng thượng du tỉnh Quảng Bình (vùng Quạt) và đã chết, thi hài đã được đưa về Linh Cảm và đã được nhiều người nhận diện. Thi hài ấy sẽ bị thiêu, và tro tàn sẽ bị phân tán. Kết quả quan trọng này là nhờ sự kiên nhẫn, cũng như sự tận tâm hi sinh của mọi người. Hiện giờ vị Phó Công sử ủy viên chính phủ chỉ mới ban lời khen nồng hậu đối với các viên Giám binh đã từng tham dự hành quân ở Lào và Quạt, đặc biệt là viên Giám binh Moutin và Génaul có sáng kiến cùng gặp được may mắn trục tiếp tham dự cuộc tìm thấy thi hài của lãnh tụ phản loạn. Linh Cảm ngày 29-1-1896 Quan Phó sứ ủy viên Chính phủ, Ký tên và đóng dấu (Theo tài liệu của Trác Ngọc, Nội san trường Vinh, số Xuân 1971) _____________________________________________ 1. Nguyễn Quang Tô: Giáo sư trường Đại học Vạn Hạnh - Sài Gòn (trước năm 1975). 2. Theo Đào Trinh Nhất, Phan Đình Phùng..., sđd, tr.232-233. 3. Quan chức của Nguyễn Thân được Pháp phong cho khi đàn áp phong trào Cần vương ở Trung Kỳ. Ngoài hai tài liệu trên đây, chúng tôi xin cung cấp thêm hai tài liệu lịch sử liên quan tới vấn đề cái chết của nhà Đại ái quốc Chí sĩ Phan Đình Phùng như sau đây: 3. Tờ thông tư của Nguyễn Thân Khi thực dân Pháp tìm được xác chết cụ Phan Đình Phùng, Nguyễn Thân mừng hí hửng, ngoài tờ yết thị kể trên, ông ta còn làm một tờ thông tư cho công bố khắp nơi, nhất là từ Nghệ Tĩnh trở ra Bắc. Thông tư này nguyên tác bằng chữ Hán, chúng tôi tìm được trong hồ Trang 142

Phan Đình Phùng Chương Thâu sơ chính trị của Nha Kinh lược. Phiên âm: Hiệp Biện Đại học sĩ Khâm mệnh Tiết chế Quân vụ Đại thần Diên Lộc Nam Nguyễn... vi luân phi tư sự: Chiếu nhi Nghệ Tĩnh Ngụy chính tướng Phan Đình Phùng cập cừ mục đẳng quân dĩ đáo án. Lánh phụng phi chương tịnh hồng kỳ đáo tiệp ngoại, triếp thử luân phi tư kỷ tri chiếu. Giá tu chiếu lệ sao lưu bị chiếu tồn nguyên tư đệ đáo Kinh lược nha trình nạp. Tu chí luân tư giả. Hựu luân phi tư… Nghệ An tĩnh dĩ bắc chư địa phương quan. Thành Thái thất niên thập nhị nguyệt sơ bát nhật. Quyền chủ sự võ nhược Phác phụng khảo. Dịch nghĩa: Hiệp biện Đại học sĩ Khâm mệnh Tiết chế Quân vụ Đại thần Diên Lộc Nam, Nguyễn... ban hành tờ thông tư khẩn như sau: Chiếu chi Chính tuớng của Ngụy quân ở hai tỉnh Nghệ Tĩnh là Phan Đình Phùng cùng với bọn cừ mục đồ đảng đều đã chịu tội hết. Ngoài việc đón tiếp phi chương cùng cờ hồng báo tiệp nay cho luân phi thông tư này cho các nơi đều được biết. Các nơi nhận được phải sao thông tư này để phổ biến, đồng thời đệ nạp về Nha Kinh luợc. Nay luân tư. Tờ thông tư luân phi này được phổ biến cho các hạt quan từ tỉnh Nghệ An trở ra Bắc. Thành Thái năm thứ bảy tháng Chạp ngày mùng tám. Trang 143

Phan Đình Phùng Chương Thâu Quyền Chủ sự Võ nhược Phác phụng khảo. 4. Biên bản khám nghiệm quan tài cụ Phan Đình Phùng Khi mấy viên sĩ quan người Pháp mang được quan tài của cụ Phan Đình Phùng từ núi Quạt về, chúng cho gọi viên Tuần vũ Hà Tĩnh tới cậy quan tài ra khám và lập biên bản. Đây là biên bản khám nghiệm quan tài và thi thể cụ Phan người ta tìm được trong hồ sơ của Nha Kinh lược Bắc Kỳ. Nguyên tác bằng chữ Hán: Phóng ảnh nguyên bản hiện tàng trữ tại Văn Khố Quốc gia. Sài gòn. Chưa đề số hiệu Phiên âm: Quyền hộ Hà Tĩnh Tuần vũ quan phòng hạ chức Phan Huy Quán túc trình: Phụ Đại Thần Thái tử Thiếu bảo Võ Hiển điện Đại học sĩ Khâm sai Bắc Kỳ Kinh lược Đại sứ Diên Mậu Tử, tôn Tướng công đài tiền hy chúc: Thừa chiếu Thiểm hạt hiện tình tiết phụng trình thẩm hĩ tồn Phan Đình Phùng cận nhất xuất đảng tiềm vãng thượng du. Thừa Khâm mệnh khâm sai liệt Đại nhân thương uỷ viên binh truy nhiếp: Bản nguyệt sơ bát nhật, tiếp tam khuyên quan thư báo Quảng Bình tỉnh nhân đinh ngụy Lĩnh Quê thú xưng Phan Đình Phùng dĩ ư nguyệt tiền thập tam nhật bị đạn thống tử cai kinh dẫn để táng xử đẳng tình. Bản nhật tiếp Thiểm tỉnh quyền lãnh Niết sứ Nguyễn… phi trình tự: khứ nhật tiếp Quý quan binh đệ tương ngụy Phùng quan cữu hồi để Linh Cảm trú thứ thừa phái cai viên dự Tán lý Lê, hội đồng quý quan sức khai kiểm nghiệm. (Khô mộc quan nhất, thượng phú minh tinh nhất đoạn, dụng hồng bạch ước thất phương, châu thư: Hoàng triều Bính Tý khoa Cử nhân, Đinh Sửu khoa Đình nguyên Tiến sĩ, Cáo thụ Tư thiện Đại phu, An Tĩnh tổng đốc, sung kiêm đốc chư tỉnh quân vụ đại thần, gia tứ Bỉnh Trang 144

Phan Đình Phùng Chương Thâu trung tướng, tự Tôn Cát, thuỵ Trang Lạng, hiệu Châu Phong, Phan công chi cữu) (Khai khám thi trường ước tứ xích, niên ước ngũ thập thượng hạ, đầu phát đoản, tu trường ước từ thốn quân bán bạch, khẩu nhãn quân khai. Đại tiểu liệm quân dụng sinh quyến, đầu trước xích sắc sô sa cân nhất đoạn. Phú diện xích đoạn nhất phương, lượng thủ bao xích đoạn, lượng túc bao bạch đoạn, ngoại trước lục sắc Bắc đoạn, quang tụ y nhất lĩnh, thứ trước thanh sắc sô sa, hiệp tụ y nhất lĩnh, thứ trước xuyến bạch y nhất lĩnh, nội trước bạch y nhất lĩnh, hạ thường bạch quyền nhất bức. Hữu thủ mậu chỉ phân tam chi, nội nhất chi liên cốt, nhất đoạn nhục sinh dĩ hủ, yêu đái thanh sô sa ước thập phương Hựu bạch nhất đoạn ước thập phương). Kinh chất Đông Thái thôn hào cựu tộc thuộc quân nhận xác hệ ngụy Phùng đích thi. Tại thứ Khâm mệnh Đại thần kinh phụng phi chương nhập tấu hĩ. Tự tiếp hội tự cai hệ ngụy cư nghĩ ứng hỏa táng dĩ thị phân biệt. Tức sức Đức Thọ phủ bị biện sài tân luyện cai quan cữu tương vu khoáng địa phần hoá; Cai viên nghiệp tuân uỷ hành thứ phó lãnh binh Nguyễn... bản tảo hội đồng quý toà phái quan dữ cai phủ viên chiếu biện trình chiếu. Đẳng nhân triếp cảm túc phục duy tư chiếu Tu chí túc trình giả Thành Thái thất niên thập nhị nguyệt sơ cửu nhật Chánh bát phẩm Đoàn Thúc Cảnh phụng khảo. Dịch nghĩa: Quyền hộ Hà Tĩnh tỉnh Tuần vũ quan phòng hạ chức là Phan Huy Quán, kính cẩn phúc trình. Thái tử Thiếu bảo Võ hiển điện Đại học sĩ Khâm sai Bắc Kỳ Kinh Trang 145

Phan Đình Phùng Chương Thâu lược Đại sứ Diên Mậu Tử, tôn Tướng công đài tiền hy chúc; Xin kính trình ngài hiện tình về tỉnh hạt tôi: Gần đây bọn Phan Đình Phùng sai đồ đảng lén về vùng thượng du. Sau khi thương thảo với quý vị Khâm sai, đã cho binh lính đuổi theo. Ngày mùng tám tháng này, tỉnh tôi có nhận được thư báo của quan Đại uý, theo đó một tên dân tỉnh Quảng Bình, Lãnh binh của Ngụy tên là Khuê, về đầu thú đã tiêu xưng rằng: ngày 13 tháng trước Phan Đình Phùng đã bị đạn và chết. Y cũng đã dẫn tới xem xét tình hình tại nơi chôn. Ngày hôm nay, lại tiếp Quyền lãnh Niết sứ tỉnh tôi là Nguyễn... trình báo rằng: Hôm vừa rồi quý quan binh đã đem áo quan Phan Đình Phùng về để tại đồn Linh Cảm, đồng thời sức cho y viên cùng với Tán lý là Lê Hội đồng với quý quan tới kiểm nghiệm: Áo quan này là một thân cây đục rỗng bên trong, trên có phủ một lá cờ bằng lụa đỏ chừng bảy vuông, với hàng chữ đỏ như sau: “Hoàng triều Bính Tý khoa Cử nhân, Đinh Sửu khoa Đình nguyên Tiến sĩ, cáo thụ Tư thiện Đại phu, An Tĩnh Tổng đốc, sung kiêm đốc chư tỉnh Quân vụ Đại thần, gia tứ Bỉnh trung tướng, tự Tôn Cát, thuỵ Trang Lạng, hiệu Châu Phong, Phan công chi cữu”. Mở hòm ra khám, thây dài ước 4 thước (1), tuổi ước trên dưới 50, đầu tóc ngắn, râu dài ước chừng 4 tấc, đầu một nửa đã bạc. Miệng và mắt đều mở. Tiểu liệm và đại liệm đều dùng lụa sống. Đầu chít khăn san màu đỏ, mặt đậy một vuông đoạn đỏ. Hai tay đều bọc đoạn đỏ, hai chân bọc đoạn trắng. Ngoài mặc đoạn Tàu sắc lục; một chiếc áo rộng ống, lại tới một chiếc áo hẹp ống bằng sa mịn màu xanh, tiếp đó là áo bằng xuyến trắng. Bên trong là chiếc áo lụa, phần dưới vấn lụa trắng sống. Ngón cái tay mặt phân làm ba chi, chi trong cùng liền xương, một chi thịt đã rữa. Lưng vấn sa màu xanh, ước mười vuông, cùng với lụa cũng chừng mười vuông. Sau khi chất vấn các hào cựu cùng tộc thuộc ở thôn Đông Thái, tất cả đều xác nhận rằng đây là thi thể của ngụy Phùng. Vâng lệnh của vị Đại thần qua phi chương, đối với các tên cừ mục Ngụy; nghĩ nên đem hoả táng cho có sự phân biệt. Chúng tôi đã sức cho phủ Đức Thọ liệu biện đầy đủ củi lửa đem áo Trang 146

Phan Đình Phùng Chương Thâu quan ra nơi đất trống hoả phần. Sáng nay vâng lệnh, phó Lãnh binh Nguyễn... đã hội đồng với các phái quan của quý toà cùng với nhân viên phủ Đức Thọ đã tới để liệu biện việc hoả phần nầy. Nay kính trình Thành Thái năm thứ 7 tháng Mười hai ngày mùng 9. (Tập san Sử Địa, Sài Gòn số 28, 1973) __________________________________________________ 1. Lối 1m60 vì một thước ta tương đương với 0m40 bây giờ. VŨ HUY PHÚC (1) - PHAN ĐÌNH PHÙNG DƯỚI CON MẮT NHÀ SỬ HỌC PHÁP CHARLES FOURNIAU Phan Đình Phùng là một vị anh hùng dân tộc bậc nhất của phong trào Cần vương chống Pháp ở nước ta thời cận đại. Giới sử học nước ta hầu như “nhất trí” đánh giá rất cao Phan Đình Phùng. Các nhà sử học nước ngoài cũng vậy. Một trong những sử gia nước ngoài nghiên cứu đầy đủ nhất về phong trào Cần vương là Giáo sư Charles Fourniau. Ngoài công việc nghiên cứu lịch sử, ông còn là một đảng viên Cộng sản Pháp, một người không mệt mỏi cống hiến đời mình cho sự tăng cường và thắt chặt mối quan hệ hữu nghị giữa hai dân tộc Pháp-Việt. Ngoài những chi tiết như chúng ta đã biết, Charles Fourniau còn dựa vào các tư liệu lưu trữ Pháp (nhất là Archivess d’OutuMer) để bổ sung tư liệu và đưa ra nhiều nhận xét về con người và sự nghiệp chống Pháp của Phan Đình Phùng. Có thể giới thiệu một số nét đáng chú ý dưới đây qua cuốn “Trung Bắc Kỳ 1885-1896. Sĩ phu và nông dân Việt Nam đương đầu với cuộc chinh phục thuộc địa” (2). Theo tác giả Ch.Fourniau, thời kỳ trước 1885, Phan Đình Phùng “là một con người minh chứng hầu như hoàn hảo cho một sĩ phu Khổng nho”. Từ 1882 với tư cách vị quan cấp cao, “ông đã dũng cảm phản đối các cuộc tấn công của Pháp”. Ta biết rằng lúc này Phan Đình Phùng đã rời Tri huyện Yên Khánh (Ninh Bình) để về triều nhận chức Ngự sử (có tài liệu nói là Hình khoa chưởng ấn). Với cương vị này, năm 1883 cụ Phan đã phản đối hay can gián Nguyễn Văn Tường, Tôn Trang 147

Phan Đình Phùng Chương Thâu Thất Thuyết không nên phế bỏ Dục Đức lập vua Hiệp Hòa. Ngay sau đó Cụ bị cách chức đuổi về làng (Đông Thái). Hành động này được nhiều nhà nghiên cứu trong đó có Ch.Fourniau cho là “dũng cảm”. Quả thực khi đó không triều thần nào dám nói gì, riêng cụ Phan đứng ra nói: “Tự quân chưa có tội gì mà làm sự phế lập như thế thì sao phải lẽ” . Rõ ràng Phan Đình Phùng không tán thành việc phế lập do các quan đại thần phụ chính Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết chủ trương, lại còn nói thẳng công khai trước các triều thần (cần nhớ rằng Phan Đình Phùng kém Tôn Thất Thuyết tới 12 tuổi, kể cả quan chức cũng thấp hơn). Vì vậy Cụ là người cương trực và dũng cảm. Đương nhiên lúc đó quyền nghiêng lệch thiên hạ nằm trong tay các ông Tường và Thuyết. Và cũng chính vì thế cụ Phan mới bị phạt nặng. Ở đây cần lưu tâm tới mối quan hệ giữa Phan Đình Phùng với Tường và Thuyết, không thể làm gì khác hơn là gắng hiểu thêm những con người anh hùng chống Pháp một thời. Muốn vậy trước hết hãy gắng lý giải việc phế lập Dục Đức. Khi Tự Đức còn sống đã bất đắc dĩ mà lập Dục Đức làm hoàng tử nối nghiệp, tên đặt lại là Ưng Chân (nguyên là Ưng Ái và là con nuôi trưởng). Đó là năm 1869 khi Ưng Chân 18 tuổi. Về sau, Tự Đức khi sắp qua đời di chiếu lại rằng Dục Đức tuy có những cá tính không tốt song là con trưởng và triều đình cần vua lớn tuổi đủ tư thế đảm đương việc nước đang gian nan, nên để Dục Đức lên làm vua nối ngôi. Trong thâm tâm, Tự Đức muốn lập người em Dục Đức là Dưỡng Thiện (Ưng Đăng) làm vua nhưng Ưng Đăng lúc đó còn ít tuổi. (Năm 1883 Ưng Đăng 15 tuổi, còn Ưng Chân hay Dục Đức đã 32 tuổi). Khi nhận di chiếu lên ngôi, Dục Đức có ý muốn xóa bỏ những đoạn nói về cá tính xấu của mình trong di chiếu, bèn bàn với các quan phụ chính không nên đọc các đoạn có trước triều thần. Nhưng cũng vì việc này các phụ chính đại thần đã lấy đó làm cớ để truất ngôi lập tức của Dục Đức chỉ ba ngày sau. Vậy cái duyên cớ chủ yếu để truất ngôi Dục Đức như nêu trên có phải là toàn bộ vấn đề không? Duyên cớ trước mắt là điều đã dẫn ở trên, nhưng nguyên nhân sâu xa hẳn là ở chỗ các quan đại thần phụ chính không muốn có một ông vua vừa còn tính xấu lại vừa tỏ ra có mưu mô và do đó khó nghe lời phụ chính. Đối với các quan phụ chính, các vua nhỏ tuổi có lẽ dễ nghe lời hơn, nhất là dễ đứng về phía chủ chiến với các ông hơn. Bởi lẽ cho đến lúc đó hai ông Tường, Thuyết là trụ cột của phái chủ chiến và thực sự sẽ chiến đấu. Chắc chắn cụ Phan Đình Phùng cũng là người chủ chiến và tán thành Tôn Thất Thuyết, nhưng Cụ chỉ không tán đồng cách làm của Tôn Thất Thuyết riêng trong việc phế lập Dục Đức Trang 148

Phan Đình Phùng Chương Thâu mà thôi. Chính vì vậy nên hai năm sau, khi Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi ra Sơn phòng chống Pháp sau vụ thất thủ Kinh đô thì Phan Đình Phùng đã lập tức hưởng ứng Chiếu Cần vương và khi vua Hàm Nghi cùng Tôn Thất Thuyết ra đến Sơn phòng Hà Tĩnh thì Phan Đình Phùng được vời ra làm Tán lý Sơn phòng tỉnh này (tháng 10-1885). Sau đó Phan Đình Phùng còn được cử giữ chức Hiệp thống quân vụ lãnh đạo phong trào Cần vương ba tỉnh Hà Tĩnh, Nghệ An và Quảng Bình. Như vậy rõ ràng không có lý do gì để nói tới một mâu thuẫn nào giữa Phan Đình Phùng và Tôn Thất Thuyết. Có lẽ vì chưa nắm vững tình hình này nên tác giả Ch.Fourniau đặt nhầm sự kiện Phan Đình Phùng phản đối việc phế lập Dục Đức vào năm 1885 (thực ra là năm 1883, cũng có thể lỗi in sai của Nxb), rồi từ đó cho rằng vai trò Phan Đình Phùng hồi đầu phong trào Cần vương không được nổi bật là do sự bất hòa giữa cụ Phan với Tôn Thất Thuyết (3). Chỉ sau khi Tôn Thất Thuyết ra đi năm 1889 thì Phan Đình Phùng mới giữ vai trò chỉ huy công cuộc chiến đấu kết hợp toàn quốc chống Pháp (4). Dù còn một vài điều chưa chính xác như trên, tác giả Ch.Fourniau đặc biệt cung cấp cho ta thêm tư liệu mới, và nhất là làm sáng tỏ tính toàn quốc của phong trào Cần vương dưới sự lãnh đạo của Phan Đình Phùng. Về cá nhân Phan Đình Phùng, tác giả dẫn một lời mô tả trong báo cáo ngày 14-2-1896 của Brière: “Một người trạc độ 50 tuổi, cao lớn, mặt rỗ vì đậu mùa, tóc ngắn hoa râm, râu ngắn thưa và hơi bạc, bàn tay phải có ngón cái phụ (5). Tác giả cho rằng “những gì người ta biết về cụ Phan cho thấy Cụ có một nhân cách mạnh mẽ, đặt nhiệm vụ lên trên - cho tới tận hơi thở cuối cùng - tuân thủ chặt chẽ các nghi thức, hiểu bổn phận phải sắp đặt đúng chỗ lòng trung thành với vua trước rồi với cha mẹ, đó chính là những nét của tầng lớp sĩ phu nho học Việt Nam điển hình tốt đẹp. Con người thuộc dòng dõi nổi danh này, vị Đình nguyên nhân cách mạnh mẽ của vị quan danh tiếng lớn đáng nể trọng vì tính liêm khiết và lòng thẳng thắn đó, tự toát lên một quyền uy đạo lý cực kỳ đặc biệt. Hơn nữa, khác với Nguyễn Quang Bích là người có nhiều phẩm chất đồng đều, cụ Phan Đình Phùng như được phú cho có tài năng lớn của một nhà tổ chức, một vị thủ lĩnh. Sau nữa ra đời ở đất Nghệ Tĩnh, một vườn ươm phong phú các văn thân và anh hùng, cụ Phan được sự quây quần và giúp rập của một nhóm các lãnh tụ có nguồn gốc khác nhau, hình thành nên một bộ chỉ huy rất có hiệu quả”. Tác giả nhắc tới Cao Thắng với vai trò đặc biệt quan trọng của Trang 149


Like this book? You can publish your book online for free in a few minutes!
Create your own flipbook